Đại Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 3
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ
giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa
điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục
Hiệp Hội
Khởi
giảng từ ngày mồng Bảy tháng Mười Một
năm 2005
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh Tiến
Tập
1467
Chư vị pháp
sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống.
Xin xem phẩm Tịnh Hạnh, phẩm thứ mười
một, [xem phần] Hợp Luận của Lư Trưởng
Giả.
(Luận)
Tương thích thử phẩm, ước tác tứ môn phân
biệt. Nhất thích phẩm danh mục, nhị thích phẩm
lai ư, tam thích phẩm Tông Thú, tứ tùy văn thích nghĩa.
(論)將釋此品,約作四門分別。一釋品名目,二釋品來意,三釋品宗趣,四隨文釋義。
(Luận: Để giải
thích phẩm này, chia thành bốn môn phân biệt: Một là giải
thích tên gọi của phẩm này, hai là giải thích ư
nghĩa v́ sao có phẩm này, ba là giải thích về Tông Thú của
phẩm này, bốn là dựa theo kinh văn để giải
thích ư nghĩa).
Trong đoạn mở
đầu này, Lư Trưởng Giả[1]
đă chia đại ư của lời giải thích phẩm này
thành bốn đoạn. Đầu tiên là giải thích tựa
đề của phẩm này, chúng ta xem lời Luận:
(Luận) Nhất
thích phẩm danh mục giả, hà cố danh vi Tịnh Hạnh
Phẩm?
(論)
一釋品名目者,何故名為淨行品。
(Luận: Một là giải
thích tên gọi của phẩm kinh này. V́ sao gọi là phẩm
Tịnh Hạnh?)
Trước hết,
nêu ra tên gọi của phẩm này. V́ sao phải gọi là
phẩm Tịnh Hạnh? Dưới đây là lời giải
thích.
(Luận) Dĩ vô
thỉ chư kiến, vô minh, tham, sân, si, ái, kim dĩ phát Bồ
Đề tâm, tín nhạo chánh pháp, đốn phiên chư kiến,
thành kỳ đại nguyện, trưởng đại bi
môn.
(論)以無始諸見無明貪瞋痴愛,今已發菩提心,信樂正法,頓翻諸見,成其大願,長大悲門。
(Luận: Do từ vô thỉ, đă
có các kiến giải [sai lầm], vô minh, tham, sân, si, ái, nay
đă phát Bồ Đề tâm, tin ưa chánh pháp, nhanh chóng
đổi các kiến chấp thành đại nguyện,
tăng trưởng đại bi môn).
Lời giải
thích rất dài, chúng ta đọc đến đoạn
này. Cứ học tập từng đoạn
một! Hết thảy chúng sanh, đặc biệt là chúng
sanh trong lục đạo, luân lạc trong lục đạo
đă từ vô thỉ kiếp tới nay. “Chư kiến” (諸見): “Kiến” (見) là kiến giải sai lầm, chúng
ta nói là Kiến Tư phiền năo. “Chư kiến” là Kiến phiền năo; tiếp
đó, “vô minh tham, sân, si, ái”
chính là Tư phiền năo. V́ thế, nói gộp lại là Kiến
Tư phiền năo. V́ chúng ta có Kiến Tư phiền năo, Kiến
Tư phiền năo là nghiệp nhân thứ nhất của lục
đạo luân hồi; chỉ cần Kiến Tư phiền
năo chẳng đoạn, quư vị sẽ chẳng thoát khỏi
lục đạo luân hồi. Chẳng thoát ra,
đương nhiên là lưu chuyển nhiều kiếp dài
lâu! Dài lâu chẳng biết đến cỡ nào! Thời
gian chẳng phải là xét theo tháng, ngày, năm để
tính, mà là dựa theo kiếp số để tính. Lưu
chuyển bao kiếp dài lâu trong lục đạo, sanh sanh,
tử tử, chẳng xong, chẳng hết! Khi nào quư vị
sẽ có thể thoát ly? Khi nào quư vị giác ngộ, phát Bồ
Đề tâm, sẽ thoát ly. Đối với câu này, chúng
tôi chẳng cần phải rườm lời!
Trong “chư kiến”, đầu
tiên là Thân Kiến, [nghĩa là] chấp trước cái thân
là ta. Biên Kiến: Nay chúng ta nói Biên Kiến là “tương đối”. Khởi
ư niệm có ta, tương đối với ta là kẻ
khác, có lớn, sẽ có nhỏ, có dài,
bèn có ngắn, có tṛn đầy, sẽ có thiếu hụt!
Xác thực là chúng ta sống trong thế giới tương
đối. Các khoa học gia ngoại quốc đă sáng chế
học thuyết Tương Đối Luận. “Tương đối” là lục
đạo luân hồi; hễ thoát khỏi lục đạo
luân hồi, sẽ chẳng có tương đối nữa!
Do vậy, có những kiến giải sai lầm, tức là Thân
Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Thủ
Kiến, Tà Kiến. Các kiến giải của chúng ta thảy
đều là sai lầm, đức Phật chia chúng thành
năm loại lớn ấy. Quư vị khởi tâm động
niệm, có cách nh́n như thế nào đi nữa, chắc
chắn chẳng thoát khỏi phạm vi ấy (phạm vi của
năm loại kiến giải trên đây). Quư vị có cách
nghĩ như thế nào đi nữa, chắc chắn chẳng
vượt khỏi phạm vi của tham, sân, si, mạn,
nghi.
“Kim dĩ phát Bồ Đề
tâm” (Nay đă phát Bồ Đề tâm): Đương
nhiên, hàng Bồ Tát được nói trong phẩm Tịnh Hạnh
là Bồ Tát thuộc địa vị Thập Tín. Thập
Tín Bồ Tát hễ phát Bồ Đề tâm, bèn vượt
thoát mười pháp giới. Chẳng phát Bồ Đề
tâm, chẳng vượt khỏi mười pháp giới. Do
vậy, chư vị phải biết: Trong khá nhiều kinh
luận, đức Phật dạy: Nhị Thừa chẳng
phát Bồ Đề tâm. Nhị Thừa là A La Hán và Bích Chi Phật,
Quyền Giáo Bồ Tát chẳng phát Bồ Đề tâm. Phật
[pháp giới] trong mười pháp giới, ở đây nói
là “nay đă phát Bồ Đề
tâm”, tức là vừa mới phát Bồ Đề tâm. Bồ
Đề tâm vừa phát, bèn phá một phẩm vô minh, chứng
một phần Pháp Thân. Bồ Đề tâm là chân tâm. Sau khi
đă phát Bồ Đề tâm, bèn chuyển Thức thành Trí.
Chẳng
phát Bồ Đề tâm, ai sẽ là người nắm quyền
làm chủ? Tám thức, năm mươi mốt Tâm Sở nắm
quyền làm chủ, [sẽ thuộc trong] mười pháp giới.
Cái tâm ấy được gọi là vọng tâm, chẳng
phải là chân tâm, [bởi lẽ] ở trong ấy, có khởi
tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, [cho
nên] chẳng phải là chân tâm, mà là vọng tâm. Phát Bồ
Đề tâm, đoạn trừ “phân biệt, chấp
trước, khởi tâm động niệm”. Tuy đă đoạn,
tập khí vô thỉ vô minh hăy c̣n, rất khó đoạn! Nhưng
tập khí vô thỉ vô minh chẳng ngăn ngại kiến tánh,
quư vị vẫn là minh tâm kiến tánh, nhưng minh tâm kiến
tánh chẳng triệt để, chẳng thấy viên măn, giống
như phía trước hăy c̣n có một tầng sương
mù! Mấy hôm nay, Hương Cảng sương mù rất
dầy, từ cao ốc nh́n qua núi Sư Tử ở vùng Cửu
Long[2]
đối diện [Hương Cảng] chẳng thấy
ǵ, đều là một vầng mờ mịt trong
sương mù. Điều này giống như sơ phát Bồ
Đề tâm [kiến tánh] vậy!
Bồ
Đề tâm đă phát, chính là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên
Giáo. Đức Phật nói có bốn mươi mốt phẩm
vô minh. Các Ngài (các vị đă phát tâm Bồ Đề ấy)
tu hành trong Nhất Chân pháp giới, chẳng ở trong mười
pháp giới, dụng công nhằm phá vô thỉ vô minh. Đối
với chuyện [phá trừ] vô thỉ vô minh, đúng là chẳng
thể dùng sức được, cần phải tốn
thời gian. Quư vị phải có thể giữ vững sao
cho sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần mà chẳng
khởi tâm, chẳng động niệm, chẳng phân biệt,
không chấp trước, vĩnh viễn ǵn giữ [cái tâm
bất động ấy]. Kinh Kim Cang đă nêu ra tiêu chuẩn,
“vô ngă tướng, vô nhân tướng,
vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng”,
toàn bộ đều thực hiện, xác thực là chẳng
chấp tướng. Đối với hết thảy hiện
tướng (現相,
những tướng biến hiện) trong pháp thế gian
và xuất thế gian, đều chẳng chấp trước,
biết những hiện tướng ấy chính là hư vọng:
“Phàm những ǵ có tướng
đều là hư vọng”, “hết
thảy các pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt,
bóng”, xác thực là cảnh giới ấy! Lại tiến
hơn nữa, đối với Thập Trụ, Thập Hạnh,
Thập Hồi Hướng, không chỉ là chẳng có Tứ
Tướng, mà Tứ Kiến cũng chẳng có. Chư vị
phải hiểu: “Kiến”
chính là tập khí vô minh từ vô thỉ (tức là vô minh tập
khí). Xác thực là chẳng chấp tướng, nhưng hăy
c̣n có tập khí, c̣n đèo thêm tập khí. Chúng tôi nghĩ:
Đại khái là cho đến địa vị Thập Hồi
Hướng, tập khí cũng rất nhẹ, rất mỏng.
Có [tập khí] hay không? Có chứ! Đẳng Giác Bồ Tát hăy
c̣n có một phẩm tập khí Sanh Tướng Vô Minh chưa
phá.
Từ
sơ phát tâm, [tức là mới] phát Bồ Đề tâm, thật
sự phát Bồ Đề tâm. Hăy ghi nhớ tiêu chuẩn của
thật sự phát Bồ Đề tâm là: Trong hết thảy
các cảnh giới, chẳng khởi tâm, chẳng động
niệm, đó là thật sự phát Bồ Đề tâm. Hễ
c̣n khởi tâm động niệm, c̣n có phân biệt, chấp
trước, quư vị vẫn là lục đạo phàm phu.
Quư vị dùng cái tâm luân hồi, dùng tám thức, năm
mươi mốt Tâm Sở. Dùng tám thức, năm
mươi mốt Tâm Sở chánh đáng, sẽ chẳng ở
trong lục đạo. Dùng chẳng sai lầm, dùng chánh
đáng, sẽ hoàn toàn tương ứng với giáo huấn
của Phật, Bồ Tát. Dùng chánh đáng, sẽ là tứ
thánh pháp giới. Dùng chẳng chánh đáng, sẽ là lục
đạo phàm phu. Tà và chánh lấy Phật pháp làm tiêu chuẩn.
V́ thế, người ta chẳng thể không học Phật.
Học Phật, chẳng thể không y giáo phụng hành, rất
trọng yếu!
Bồ
Đề tâm là ǵ? “Chân thành,
thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi”, đấy
là Bồ Đề tâm. Kế đó, nói: “Nh́n thấu, buông xuống, tự tại, tùy duyên, niệm
Phật” chính
là Bồ Tát hạnh. Bồ Đề tâm nhất định
là Bồ Tát hạnh. Quư vị phải thực hiện th́ mới
được! Chẳng làm, không được rồi! Phải
thật sự làm! Bất luận đối với ai,
đối với người, đối với sự,
đối với vật, đối với chúng sanh trong chín
pháp giới, đối với muỗi, đối với
kiến, đối với la-sát, đối với ngạ
quỷ, thảy đều là “chân
thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, chẳng có mảy
may phân biệt, chấp trước. Đó là h́nh trạng của
Bồ Đề tâm. Hễ phát Bồ Đề tâm, con
người sẽ biến thành người khác hẳn,
pháp thế gian thường nói là “thoát thai, hoán cốt”, con người biến thành
người khác hẳn. Thật vậy! Từ câu này, chúng
ta có thể hiểu: Con người biến đổi,
tướng mạo biến đổi, thể chất biến
đổi. Tướng chuyển theo tâm là “tướng mạo biến đổi”. Thể chất
biến đổi là “cảnh
chuyển theo tâm”. Thân tâm thanh tịnh, thân tâm khỏe mạnh,
xa ĺa hết thảy bệnh tật. Bệnh tật là ǵ? Nghiệp
chướng. Hễ phát Bồ Đề tâm, nghiệp
chướng bèn tiêu. V́ thế, tôi thường bảo các
đồng học: “Tâm thanh tịnh b́nh đẳng, sẽ
chẳng thể cảm nhiễm virus”. Hiện thời, bệnh
truyền nhiễm rất nhiều. Do cái tâm thanh tịnh, b́nh
đẳng, sẽ chẳng bị cảm nhiễm. Đại
từ, đại bi có thể giải độc. Thân thể
chúng ta có năng lực ấy, chính ḿnh phải biết dùng
năng lực ấy. Phải giống như chư Phật,
Bồ Tát, chuyển virus gây bệnh thành chất dinh dưỡng
tốt nhất. Phật, Bồ Tát là như vậy. Cách chuyển
như thế nào? Phẩm kinh này dạy chúng ta cách chuyển,
rất khó có! Hôm nay, chúng ta học môn học này.
Do v́ Bồ
Đề tâm đă phát, quư vị sẽ thấy là “tín nhạo chánh pháp” (tin ưa
chánh pháp). Những ǵ chư Phật, Bồ Tát đă tu,
đă dạy, đă truyền, đều là chánh pháp. V́ sao
nói những điều ấy là chánh pháp? Hoàn toàn
tương ứng với Pháp Tánh. Trái nghịch Pháp Tánh th́
là tà pháp. Pháp Tánh tận thiện, tận mỹ, chẳng có
mảy may điểm nào đáng chê trách! Đấy là Pháp
Tánh. Chúng ta có thể tin, có thể hiểu, hoan hỷ tiếp
nhận, hoan hỷ học tập, [đó là] “tín nhạo chánh pháp”.
Đă
tín nhạo chánh pháp, sẽ nhanh chóng thay đổi các kiến.
Kiến Tư phiền năo hoàn toàn trái nghịch Tánh Đức.
Thể của phiền năo là Pháp Tánh, Thể của Bồ
Đề cũng là Pháp Tánh. Do Thể của phiền năo
cũng là Pháp Tánh, cho nên “phiền
năo tức Bồ Đề”, nhưng phải chuyển.
Chuyển phiền năo thành Bồ Đề, chuyển tà thành
chánh, quư vị phải biết chuyển! “Đốn” (頓) nghĩa là rất nhanh
chóng, “phiên” (翻)
nghĩa là “phiên chuyển” (翻轉,
xoay chuyển). Quư vị ngay lập tức chuyển đổi
những cách nh́n, cách nghĩ ấy, chuyển thành ǵ? Chuyển
thành đại nguyện. Nói chung, chuyển thành Tứ Hoằng
Thệ Nguyện, niệm nào cũng nhằm lợi ích chúng
sanh, niệm nào cũng nhằm thành tựu chúng sanh.
Tôi
nghe nói: Trong nước, có những đồng học trẻ
tuổi, tu dưỡng, kiến giải lẫn thuyết pháp
đều đạt đến mức độ rất
cao, thậm chí ngang ngửa với tôi. Họ mới bắt
đầu; dăm ba năm sau, chắc chắn sẽ
vượt trỗi tôi. Tôi nghe nói, hết sức hoan hỷ,
đấy chính là giáo dục thành công. Giáo dục thành công, phải
là thế hệ sau vượt trỗi thế hệ
trước. Đó là thành công. Nếu thế hệ tiếp
theo chẳng bằng thế hệ của ta, bi ai thay! Ngang
ngửa với thế hệ của ta, lắc đầu!
Chúng ta giáo dục chẳng thành công! Cổ nhân nói: “Thanh xuất ư lam, nhi thắng
ư lam” (Màu xanh phát xuất từ màu chàm, mà vượt
trỗi màu chàm). Quư vị thấy sản phẩm khoa học
kỹ thuật trong hiện thời cũng là từng “thế hệ” (generation) một!
Đối với các thương hiệu xe hơi,
thương hiệu máy bay, sản phẩm chế ra lúc ban
đầu sẽ được đánh số. Sang năm
thứ hai, khi tạo tác [sản phẩm mới] bèn sửa
đổi, cải tiến những khuyết điểm
trong năm thứ nhất; đương nhiên là sản phẩm
đời thứ hai chắc chắn tốt hơn sản
phẩm đời trước. Lại qua một năm, cải
tiến, sửa đổi vượt trỗi lần thứ
hai, mỗi ngày, mỗi tháng đều khác!
Đối
với giáo dục con người, cũng có cùng một
đạo lư. Người làm cha luôn hy vọng con cái trong
tương lai có thành tựu vượt trỗi chính ḿnh, rạng
mày nở mặt tổ tông. Nếu con cái chẳng thể
khá hơn chúng ta, thậm chí thua kém chúng ta, gia đạo suy
thoái mất rồi! Con người đáng sợ nhất
là cái tâm ganh tỵ, thấy người khác có chỗ nào tốt
đẹp, chúng ta liền ganh tỵ, nghĩ hết mọi
phương pháp để chướng ngại,
tương lai sẽ mắc quả báo nào? Bất luận
quư vị làm sự nghiệp ǵ, đều có chướng
ngại trùng trùng, báo ứng mà! Lại c̣n đời đời
ngu si, chẳng ở trong nhân đạo, mà ở trong ba ác
đạo. Quả báo ấy chẳng biết đến
khi nào mới có thể tiêu trừ nghiệp chướng
được! V́ sao khó tiêu trừ ngần ấy? V́ quư vị
có tập khí “ganh tỵ, sân hận, chẳng quen thấy
người khác giỏi giang hơn” quá nặng, cho nên đọa
lạc trong ác đạo, chẳng thoát ra được.
Chúng ta hiểu rơ đạo lư này, đối với hết
thảy mọi người, hết thảy thiện nhân, thiện
hạnh, thiện sự, có ganh tỵ hay không? Nếu có ganh
tỵ, quư vị hăy nghĩ đến sự kinh khủng của
quả báo trong địa ngục!
Do
đâu mà có y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới?
Tâm hiện, thức biến. Đức Thế Tôn nói rất
hay: “Sanh từ tâm tưởng”.
Quư vị có cách nghĩ như thế nào? Tâm của Bồ
Tát là chánh, suy nghĩ cũng chánh, nguyện cũng chánh, cho
nên đại nguyện thành tựu. Đại nguyện ấy
chính là đại nguyện của Phổ Hiền Bồ
Tát. Chúng tôi nói đến đại nguyện của Phổ
Hiền Bồ Tát, quư vị bèn nghĩ tới mười
đại nguyện vương trong phẩm Phổ Hiền
Hạnh Nguyện. Chẳng sai! Mười đại nguyện
vương là cương lănh, “cương”
(綱) là nguyên tắc
chung. Một trăm bốn mươi mốt nguyện
được nói trong phẩm Tịnh Hạnh chính là những
khoa mục riêng biệt trong mười cương mục
ấy. Thưa cùng chư vị, [một trăm bốn
mươi mốt nguyện ở đây] vẫn thuộc
loại cương lănh. Nếu nói cặn kẽ từng mục,
sẽ gọi là “tám vạn bốn
ngàn pháp môn”, hoặc nói là “vô
lượng pháp môn”, tức là những khoa mục chi tiết.
Khoa mục chi tiết dẫu nhiều đến mấy đi
nữa, chẳng thể vượt ngoài một trăm bốn
mươi mốt điều ở đây, mà một
trăm bốn mươi mốt điều này quyết
định chẳng vượt ngoài phạm vi của mười
đại nguyện vương. Trong ấy có Tổng và Biệt,
có Cương và Mục. Nói chung, chúng ta phải hiểu rơ
ràng ḥng thành tựu đại nguyện Phổ Hiền.
“Trưởng đại bi môn”:
Tăng trưởng tâm đại từ bi của quư vị.
Tâm đại từ bi tăng trưởng, chắc chắn
quư vị sẽ chẳng thoái thất địa vị Bồ
Tát, tức là Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái, và Niệm
Bất Thoái. Mỗi ngày, quư vị tăng trưởng, làm
sao có thể thoái chuyển cho được? Đấy
chính là ba món Bất Thoái thường được giáo
pháp Đại Thừa nhắc đến. Lại xem phần
Luận tiếp theo:
(Luận)
Nhược đản dĩ tam không vô tướng đối
trị, bất sanh đại từ đại bi, bất
năng thành tựu Phổ Hiền Hạnh cố.
(論)若但以三空無相對治,不生大慈大悲,不能成就普賢行故。
(Luận:
V́ nếu chỉ dùng tam không vô tướng để đối
trị, chẳng sanh đại từ đại bi, sẽ
chẳng thể thành tựu hạnh Phổ Hiền).
Ở
đây, nêu rơ sự khác biệt giữa giáo pháp Đại
Thừa và giáo pháp Nhất Thừa. Giáo pháp Đại Thừa
dạy đối trị tập khí phiền năo như thế
nào? Cũng là nói theo cương lănh, chẳng ngoài Tam Không,
chẳng ngoài vô tướng. Tam Không là Nhân Không, Pháp Không,
[Nhân Pháp] Câu Không. Vô Tướng th́ Tánh Tông và Thiền Tông
khéo dùng. Trong phần trước, chúng tôi đă có nói: Tánh
Tông và Tướng Tông đều là “dùng vô tướng làm Tông”, dùng điều này
để đối trị. Hữu hiệu hay không? Hữu
hiệu, nhưng chẳng sanh từ bi. Quư vị thấy
điều này trong phẩm Hạnh Nguyện: Bồ Tát sanh
tâm từ bi, thành tựu đại nguyện, tăng
trưởng đại bi môn, khác hẳn! Chẳng có tâm từ
bi, sẽ chẳng thể thành tựu Phổ Hiền Hạnh.
Ḷng từ bi của Phổ Hiền Bồ Tát đạt
đến rốt ráo viên măn. Do vậy, trong kinh Hoa Nghiêm có
nói: “Bồ Tát bất tu Phổ
Hiền hạnh, bất năng viên thành Phật đạo”
(Bồ Tát chẳng tu hạnh Phổ Hiền, chẳng thể
viên thành Phật đạo). Nói cách khác, Bồ Tát chẳng
tu Phổ Hiền Hạnh, chắc chắn chẳng thể
phá một phẩm Sanh Tướng Vô Minh cuối cùng!
Trong
quá tŕnh tu hành của Bồ Tát, phá tập khí vô thỉ vô minh
hết sức gian nan, [bởi lẽ] chẳng có tâm từ
bi! Có tâm từ bi sẽ dễ dàng; không có tâm từ bi, chẳng
dễ dàng! Nếu chúng ta hỏi: “V́ sao niệm Phật văng
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, thành tựu
dễ dàng như vậy?” Chúng ta có thể hiểu hay không?
Nếu quư vị chẳng hiểu, chẳng đáp được,
uổng công đọc kinh Vô Lượng Thọ mất rồi!
Quư vị thấy trong phần Biệt Tự của kinh Vô
Lượng Thọ có một câu nói: “Hàm cộng tuân tu Phổ Hiền đại sĩ chi
đức” (đều cùng tu đức của Phổ
Hiền đại sĩ), quư vị hiểu ngay. Thế giới
Cực Lạc là Phổ Hiền pháp giới. Phàm những ai văng sanh Tây Phương Cực
Lạc, chẳng có ai không tu Phổ Hiền Hạnh. Đều
cùng tuân tu, chẳng có một ai là ngoại lệ! Do vậy
có thể biết, trong thế giới Cực Lạc, một
trăm bốn mươi mốt nguyện này, ai nấy
đều làm được. Do vậy, tôi nói một
trăm bốn mươi mốt điều này chính là Đệ
Tử Quy để văng sanh thế giới Cực Lạc.
Quư vị có thể trọn đủ một trăm bốn
mươi mốt nguyện này, sẽ có thể nắm chắc
văng sanh, chẳng có mảy may hoài nghi nào, sẽ ổn thỏa,
thích đáng văng sanh! Quư vị đến hỏi tôi, [tôi sẽ
không do dự đáp, người như thế] “chắc chắn
văng sanh”. Chẳng có mảy may hoài nghi nào! Quư vị phải
làm được!
Hăy ngẫm
xem v́ sao chẳng làm được? Quư vị niệm, niệm
hằng ngày. Có người hằng ngày lấy phẩm Hạnh
Nguyện, tức là lấy Phổ Hiền Hạnh Nguyện
Phẩm, làm kinh tụng niệm sáng tối. V́ quyển cuối
cùng trong Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm được
xếp vào Tịnh Độ Ngũ Kinh. Tịnh Độ
gồm năm kinh một luận, năm kinh chính là ba kinh tức
kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật,
Phật Thuyết A Di Đà Kinh, cộng thêm Phổ Hiền
Hạnh Nguyện Phẩm thành bốn kinh Tịnh Độ.
Ấn Quang đại sư thêm vào Lăng Nghiêm Kinh Đại
Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương, gọi
là năm kinh, đă viên măn! Hết sức viên măn! V́ thế,
[phẩm Hạnh Nguyện] thuộc trong Ngũ Kinh Nhất
Luận. Có người chuyên môn thọ tŕ, dùng phẩm kinh ấy
làm công khóa sáng tối, vấn đề là nhất định
phải làm được th́ mới hữu dụng! Nếu
mỗi ngày niệm tụng mà chẳng làm được,
chẳng làm được th́ vô dụng. Chỉ có thể
nói là gieo một thiện căn trong A Lại Da. Khi nào lại
gặp gỡ pháp duyên thù thắng, nồng nhiệt yêu mến
hạnh nguyện Phổ Hiền, y giáo phụng hành, quư vị
sẽ có thể văng sanh. Do vậy, pháp thế gian và xuất
thế gian chẳng có ngoại lệ. Nếu quư vị muốn
thành tựu, nhất định là phải thực hiện,
nói suông vô dụng!
Lại
xem đoạn tiếp theo, đoạn này rất quan trọng:
(Luận)
Dục hành trường lộ, phi túc bất hành.
(論)欲行長路,非足不行。
(Luận: Muốn đi
đường dài, chẳng có chân, sẽ không đi
được).
Quư vị
muốn đi đường xa, đích đến rất
xa xôi, nếu chẳng có chân, sẽ chẳng đi được!
Quư vị phải có chân.
(Luận) Dục hành đại bi, nhập Phổ
Hiền môn, sung pháp giới hành giả.
(論)欲行大悲,入普賢門,充法界行者。
(Luận: Hành giả muốn
hành đại bi, nhập Phổ Hiền môn, trọn khắp
pháp giới).
Quư vị
muốn học tập đại từ đại bi, muốn
nhập cảnh giới của Phổ Hiền Bồ Tát, hăy
làm cho ḷng từ bi của quư vị đầy ắp pháp giới.
Nay chúng ta đề xướng “tâm
yêu thương trọn khắp pháp giới”, “tâm yêu thương” chính là từ
bi. “Ái tâm biến pháp giới,
thiện ư măn Sa Bà” (Tâm yêu thương trọn khắp
pháp giới, thiện ư đầy ắp Sa Bà) sẽ tương ứng với
điều được Lư Trưởng Giả đang
nói ở đây:
(Luận)
Ư nhất thiết kiến văn giác tri, nhi vô quá thất,
tiện thành vạn hạnh trang nghiêm.
(論)於一切見聞覺知而無過失,便成萬行莊嚴。
(Luận:
Đối với hết thảy thấy, nghe, hay, biết
mà chẳng có lỗi lầm, sẽ trở thành vạn hạnh
trang nghiêm).
Hết
thảy thấy, nghe, hay, biết tức là sáu căn của
chúng ta tiếp xúc cảnh giới sáu trần. Bất luận
là thuận cảnh hay nghịch cảnh, thiện duyên hay ác
duyên, pháp thế gian hay Phật pháp thảy đều bao gồm
trọn hết. Trong ấy, chẳng có lỗi lầm th́ mới
gọi là “vạn hạnh trang
nghiêm”, hoặc c̣n nói là “vạn
đức trang nghiêm”, đều là cùng một ư nghĩa.
“Vạn đức trang nghiêm”
chính là “vạn hạnh trang
nghiêm”. Chúng ta mong thành tựu mục tiêu ấy. Chúng ta
thường thấy bức hoành phi treo trên khám thờ Phật
của tượng Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật trong
đại hùng bảo điện đề là “vạn đức trang nghiêm”.
Quả
vị rốt ráo của chư Phật Như Lai, quyết
định chẳng có mảy may khuyết điểm nào!
Có nghĩa là: Bồ Tát c̣n có khuyết điểm, chứ
Phật chẳng có khuyết điểm. “Phật” ở đây là nói từ chỗ nào (từ
địa vị nào)? Thưa cùng chư vị, từ
Sơ Trụ của Viên Giáo. Từ Sơ Trụ của
Viên Giáo trở lên đều là vạn hạnh trang nghiêm, chẳng
có lầm lỗi. V́ sao? V́ các Ngài chẳng có khởi tâm
động niệm. Trong khởi tâm động niệm, c̣n
có thiện, ác. Chẳng có khởi tâm động niệm! Khởi
tâm động niệm c̣n chẳng có, đương nhiên
là chẳng có phân biệt, chấp trước. Chẳng có phân
biệt, chấp trước, lấy đâu ra lầm lỗi!
Lầm lỗi do đâu mà có? Ta, người, đúng, sai, do
đó mà có! Nói cách khác, toàn là từ phân biệt, chấp
trước mà có, đó là lầm lỗi! Khởi tâm động
niệm là cội rễ, khởi tâm động niệm là pháp
vô kư, trong ấy chẳng có thiện hay ác. Nhưng do khởi
tâm động niệm mà sanh khởi phân biệt, sanh khởi
chấp trước. Trong phân biệt, chấp trước,
bèn có thiện, ác. V́ thế, người có công phu tu hành thật
sự, sẽ tu luyện ngay trong cảnh giới, luyện
chẳng khởi tâm, chẳng động niệm. Đó là
thật sự biết dụng công. “Luyện chẳng khởi tâm, chẳng động niệm”,
cách nói ấy chẳng sai, nhưng chúng ta có làm được
hay không? Làm chẳng được! Chắc chắn là chẳng
làm được! V́ thế, Nho gia cũng nói: “Tri sở tiên hậu, tắc cận
đạo hỹ” (Biết điều trước lẽ
sau th́ gần với đạo). Quư vị phải biết
học từ chỗ nào, phải biết có thứ tự trước
sau. Giống như đi học, nhất định là phải
học từ vườn trẻ (mẫu giáo), Tiểu Học,
Trung Học, Đại Học, cho đến nghiên cứu
sinh, có thứ tự trước sau! Nay chúng ta bắt đầu
từ nơi đâu? Bắt đầu từ chẳng chấp
trước, chuyên môn đổ công dốc sức ở chỗ
này, học chẳng chấp trước. Cho đến khi
xác thực là đối với hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian đều chẳng chấp
trước, bèn tiến thêm bước nữa là học chẳng
phân biệt.
Chư
vị phải hiểu: Pháp thế gian và xuất thế
gian đều chẳng chấp trước, quư vị
vượt thoát lục đạo luân hồi. Tối thiểu
là Tiểu Thừa Tứ Quả La Hán, chẳng chấp
trước hết thảy các pháp thế gian và xuất thế
gian. C̣n Đại Thừa th́ như hàng Viên Giáo Bồ Tát
đang nói ở đây, tức là địa vị Đệ
Thập Tín, [địa vị] sau đó là Sơ Trụ. Địa
vị Đệ Thất Tín Bồ Tát đoạn chấp
trước, địa vị Đệ Thập Tín Bồ
Tát đoạn phân biệt. V́ thế, ở đây nói là “kim dĩ phát Bồ Đề tâm”
(nay đă phát Bồ Đề tâm). Hễ phát Bồ Đề
tâm, sẽ chẳng có phân biệt. Có phân biệt, chẳng
có Bồ Đề tâm. [Do Bồ Đề tâm đă phát], chẳng
c̣n phân biệt nữa. Tiến cao hơn, sẽ tu chẳng
khởi tâm, chẳng động niệm. Chẳng khởi
tâm, chẳng động niệm, bèn phá vô minh. Từ đấy
trở đi, bốn mươi mốt địa vị đều
là chuyên môn tiêu trừ tập khí vô thỉ vô minh, thực hiện
công phu này. Thực hiện công phu này như thế nào? Phổ
Hiền Hạnh. “Văn Thù Trí,
Phổ Hiền Hạnh”, dùng trí để hướng dẫn
hạnh, dùng hạnh để viên măn trí, trí huệ viên măn.
Câu kế
tiếp nhằm nói cụ thể:
(Luận)
Giai cần tu tập thử nhất bách tứ thập
đại nguyện môn.
(論)皆勤修習此一百四十大願門。
(Luận:
Đều siêng tu một trăm bốn mươi môn đại
nguyện này).
“Một
trăm bốn mươi” là nói tṛn số; trên thực tế
là một trăm bốn mươi mốt. Câu nào cũng
đều là “đương
nguyện chúng sanh”, quư vị nh́n vào cuộc sống hằng
ngày, chúng tôi sẽ giới thiệu cặn kẽ trong phần
sau. Nếu quư vị không tu học một trăm bốn
mươi mốt nguyện này, sẽ chẳng có cách nào thực
hiện hết thảy “thấy,
nghe, hay, biết, chẳng có lầm lỗi”. Lời này
có ư nghĩa sâu xa, chẳng giống như tu Tam Không, tu Vô
Tướng, tu Vô Niệm trong Đại Thừa. V́ sao? Những
người đó chẳng có đại tâm từ bi như
thế ấy!
Người
tu Phổ Hiền Hạnh, đúng là hết thảy chúng
sanh “có cầu, ắt ứng”.
Đối với người tu học Đại Thừa,
tu học Tam Không, tu học Vô Niệm, có lúc quư vị t́m họ,
họ chẳng quan tâm đến quư vị: Quư vị trở
ngại tôi, ngăn trở tôi dụng công! Chẳng có tâm từ
bi! Chẳng giống như Phổ Hiền Bồ Tát, Phổ
Hiền Bồ Tát không sợ hăi. Có phương ngại hay
không? Chẳng có. V́ sao? Cảnh giới vừa hiện tiền,
các Ngài lập tức chuyển biến nó, chuyển Hạnh
thành Nguyện, chuyển thành Trí. Nguyện, Hạnh, Trí tăng
trưởng Bồ Đề tâm, tăng trưởng đại
nguyện môn. Hàng Đại Thừa Bồ Tát như đă
nói trong phần trước vẫn chưa thể chuyển
cảnh giới này, c̣n Bồ Tát hành Phổ Hiền Hạnh
thảy đều có thể chuyển cảnh giới. V́
thế, địa vị của các Ngài cao lắm, các Ngài ở
trong Nhất Chân pháp giới, chẳng thuộc trong mười
pháp giới. Tuy ở trong Nhất Chân pháp giới, các Ngài ứng
hóa trong mười pháp giới. Mười pháp giới và Nhất
Chân pháp giới chẳng hai, các Ngài nhập pháp môn Bất Nhị.
Tuy Đại Thừa Bồ Tát chẳng có chấp trước,
nhưng c̣n có phân biệt. Nhất Chân pháp giới và mười
pháp giới khác nhau, các Ngài khác hẳn. Phổ Hiền Bồ
Tát là như thế đó, chẳng có tí ti trở ngại
nào!
V́ vậy,
tiếp đó nói:
(Luận)
Tiện ư sanh tử hải trung, kiến văn giác tri,
nhất thiết chư hạnh, tất giai thanh tịnh. Nhập
Phổ Hiền Hạnh cố, cố danh Tịnh Hạnh.
(論)便於生死海中,見聞覺知,一切諸行,悉皆清淨,入普賢行故,故名淨行。
(Luận:
Bèn ở trong biển sanh tử, thấy, nghe, hay, biết,
hết thảy các hạnh, thảy đều thanh tịnh.
Do nhập Phổ Hiền Hạnh, nên gọi là Tịnh Hạnh).
V́ thế, hạnh này được
gọi là Tịnh Hạnh. Phẩm Tịnh Hạnh do
như thế mà có. Trong lời Luận đă đặc biệt
nói, chúng ta phải đặc biệt lưu ư điều
này: “Tiện ư sanh tử hải
trung” (Bèn ở trong biển sanh tử), “sanh tử hải” chỉ lục đạo luân hồi.
Phổ Hiền Bồ Tát tu ở nơi đâu? Tu trong lục
đạo, trong ba ác đạo. Nơi nào có cảm, Ngài hiện
ngay trong đường ấy, không có chỗ nào chẳng hiện
thân! Rất nhiều đồng học chúng ta đă thấy
Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát. Trong tầng
mười của chúng ta, c̣n thờ một bức tượng
Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát. Quư vị có thấy
Thiên Thủ Thiên Nhăn Phổ Hiền Bồ Tát hay chưa? Có từng
thấy Thiên Thủ Thiên Nhăn Văn Thù Bồ Tát hay chưa?
Tôi đă từng trông thấy. Thiên Thủ Thiên Nhăn là biểu
thị pháp, biểu thị điều ǵ? Mắt nh́n thấy,
tay chạm đến. Thấy chúng sanh có khổ nạn, Ngài
lập tức vươn tay giúp đỡ, đến đó,
chắc chắn là chẳng bỏ lỡ. Đấy gọi
là Thiên Thủ Thiên Nhăn. Chúng ta nhất định phải
hiểu ư nghĩa biểu thị pháp.
Nay
chúng ta học kinh giáo ở đây, giúp đỡ người
khác như thế nào? Chư vị đồng tu phải hiểu:
Sau khi đă học kinh Hoa Nghiêm, trí huệ phải mở
mang. Chúng ta chẳng dựng đạo tràng. Có người
tặng tiền cho tôi, muốn giúp tôi xây một ngôi chùa lớn,
tôi không cần. Dựng chùa lớn tức là đem tiền
chôn vùi dưới đất! Chùa miếu càng lớn, càng
trang nghiêm, người tranh giành càng nhiều. Rất nhiều
người đến đó xuất gia, họ xuất gia
v́ lẽ nào? Sản nghiệp này to tát, ta xuất gia th́ trong
tương lai, sản nghiệp ấy sẽ là của ta. Trẻ
nhỏ hiện thời rất thông minh, tôi nghe rất nhiều
đồng tu kể: Con trai, con gái họ rất nhỏ, đại
khái vào khoảng mười tuổi, đă nói với cha mẹ:
“Ba má biết không? Tài sản của ba má đều là của
con!” Cha chúng nó nghe nói hoảng hồn luôn! Đúng quá! Sẽ
do chúng nó kế thừa, chẳng giả! Sư phụ vất
vả nhọc nhằn dựng một ngôi chùa to, hoặc
đạo tràng lớn, đồ đệ nói sao? “Sư
phụ! Sau khi thầy chết rồi, tài sản này là của
con!” Chẳng sai tí nào! Kẻ ấy đến xuất gia,
chẳng phải v́ đạo, mà v́ ngôi chùa lớn như thế
đó.
Chuyện
này cũng khéo ứng hợp với năm thứ kiên cố
như đức Thế Tôn đă nói trong năm giai đoạn
ứng với mỗi năm trăm năm. Sau khi Thích Ca Mâu
Ni Phật diệt độ, năm trăm năm đầu
tiên là “giải thoát kiên cố”,
người có thể nghiêm tŕ giới luật sẽ có thể
chứng quả. Trong năm trăm năm thứ hai, tŕ giới
chưa được, phải tu Thiền. Đó là “Thiền Định kiên cố”
trong năm trăm năm thứ hai. Trong năm trăm
năm thứ ba, tu Thiền cũng chẳng thể thành tựu,
“đa văn kiên cố”. Đúng
như vậy đó! Phật giáo truyền đến Trung
Hoa nhằm lúc Thích Ca Mâu Ni Phật đă diệt độ
một ngàn năm, tiến nhập Trung Hoa chính là đa
văn kiên cố. V́ thế, mười tông phái, vào thời
Tùy - Đường giống như sau mưa Xuân, từng
chồi măng xuất hiện. Tại Nhật Bản là
mười ba tông phái[3].
Nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi vẫn chưa
nói xong. Giờ sau, chúng tôi sẽ tiếp tục.
***
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Trong phần trước,
chúng tôi đă nói đến câu “ư
sanh tử hải trung, kiến, văn, giác, tri, nhất thiết
chư hạnh, tất giai thanh tịnh. Nhập Phổ Hiền
Hạnh cố, cố danh Tịnh Hạnh” (ở trong biển
sanh tử, thấy, nghe, hay, biết, hết thảy các hạnh
thảy đều thanh tịnh. Do nhập Phổ Hiền
Hạnh, nên gọi là Tịnh Hạnh). Chúng tôi đă đề
cập chuyện đức Thế Tôn nói trong năm
trăm năm thứ năm [sau khi Ngài diệt độ], đúng
như Thích Ca Mâu Ni Phật đă tiên đoán, tức là Ngài
thấy sau khi lăo nhân gia diệt độ hai ngàn năm
trăm năm. “Năm trăm
năm lần thứ năm” tức là hai ngàn năm
trăm năm, chính là thời đại của chúng ta trong
hiện tại. Năm trăm năm thứ nhất là “giải thoát kiên cố”: Sau
khi đức Phật diệt độ, nương theo giới
luật để tu hành, có thể chứng quả. Năm
trăm năm thứ hai là “Thiền
Định kiên cố”, tức là tŕ giới đă chẳng
thể thành tựu, căn tánh chúng sanh ngày càng kém cỏi. Nói
cách khác, ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng. V́ nguyên nhân này, cho
nên tu Thiền Định. Vào năm trăm năm thứ
ba, Phật giáo truyền đến Trung Hoa, xác thực là ứng
với lời huyền kư của Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài
đă tiên đoán: “Đa văn
kiên cố”. V́ thế, tại Trung Hoa, Giáo Hạ kiến
lập phổ biến. Ngoài Thiền Tông ra, [các tông khác]
đều là Giáo Hạ. Phiên dịch kinh luận, học tập,
giảng giải rất phổ biến, bao nhiêu pháp sư
xuất hiện. Thuở ấy, các Ngài giảng kinh, thuyết
pháp, lưu lại khá nhiều trước tác, đa văn
kiên cố mà! Năm trăm năm thứ tư, người
nghiên cứu giáo ít ỏi, chuyên môn dựng chùa. Đó là thời
“tháp tự kiên cố”. Thói
ham chuộng xây dựng chùa miếu hết sức thịnh
hành, khắp nơi đều xây cất chùa miếu. Phật
giáo có h́nh thức, thực chất dần dần phai nhạt!
Đến năm trăm năm thứ năm, chính là “đấu tranh kiên cố”. Do
vậy, hiện thời, nếu các nơi chẳng đấu
tranh, chẳng phải là Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói sai hay
sao? Thời đại hiện tại là thời đại
đấu tranh kiên cố!
V́ vậy,
nếu chúng ta xây dựng tự viện hoặc đạo
tràng to lớn, phải biết là người thật sự
tu hành chẳng mấy, mà là người làm chuyện đấu
tranh đông đảo, đấy là tạo tội nghiệp!
Đấy là lư do v́ sao tổ Ấn Quang dạy chúng ta chẳng
cần xây dựng đại đạo tràng! Càng nghĩ,
càng thấy giáo huấn của Ấn Quang đại sư
có lư, càng nghĩ, càng thấy chánh xác. Ngài dạy chúng ta: Tứ
chúng đồng học cùng nhau tu hành trong một đạo
tràng, tốt nhất là đừng vượt quá hai
mươi người, hăy là một đạo tràng nhỏ.
Đạo tràng nhỏ chẳng ai thèm, người ta chẳng
để vào mắt, hai mươi người mà thôi!
Đạo tràng nhỏ, chi tiêu cũng ít, duy tŕ dễ dàng.
Hai ba vị hộ pháp chăm sóc là được rồi,
quư vị có thể an tâm tu đạo, niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ, nhưng trong thời Mạt Pháp hiện
thời, niệm Phật cũng gặp khó khăn, do không
hiểu rơ giáo lư. Thanh Lương đại sư nói: “Có Hạnh mà không có Giải, tăng
trưởng vô minh; có Giải mà không có Hạnh, tăng
trưởng tà kiến”. Do vậy, nhất định
phải là Giải Hạnh tương ứng!
Đạo
tràng niệm Phật quan trọng nhất là phải giảng
kinh luận Tịnh Tông, hoặc ngữ lục của tổ
sư đại đức Tịnh Tông, [ngơ hầu] thời
thời khắc khắc khích lệ, tăng tấn chúng ta,
chẳng đến nỗi để cho chúng ta giải
đăi, lười nhác, đọa lạc. Điều này rất
quan trọng! Nghĩ đến những thiết bị khoa
học kỹ thuật cao cấp hiện thời, chúng ta có
băng thâu h́nh, thâu âm, đĩa CD/DVD giảng kinh, có thể
cung cấp cho Niệm Phật Đường, giúp đỡ
họ về Giải môn. Có khá nhiều đồng học đă
đến núi Đông Thiên Mục ở Hàng Châu, trên thực
tế, dường như tôi chỉ đến đó hai lần.
Mỗi lần, ở trên núi một ngày, ngày hôm sau đă xuống
núi. Ở đó hai tối, tôi vẫn chẳng quen thuộc
nơi ấy cho lắm, nhưng phong khí niệm Phật
nơi ấy rất thịnh! Tề cư sĩ[4]
bảo tôi: “Mỗi ngày nghe kinh sáu giờ, nghe kinh Vô Lượng
Thọ”. Đĩa giảng kinh Vô Lượng Thọ, kinh
Di Đà và Hạnh Nguyện Phẩm do tôi giảng đều
có, mỗi ngày họ nghe giảng sáu giờ. Hiện thời,
c̣n nghe Đệ Tử Quy do thầy Thái Lễ Húc giảng
bốn mươi giờ, hoặc nghe kinh Thập Thiện
Nghiệp Đạo, nghe những thứ ấy. Mỗi
ngày nghe kinh sáu giờ, niệm Phật mười giờ.
Đó là đúng. Thời kỳ Mạt Pháp mà có đạo
tràng như vậy, ai nấy đều thành tựu.
V́ thế,
đạo tràng chẳng cần to, nho nhỏ thôi! Niệm
Phật Đường dành cho hai mươi mấy người
không cần quá lớn. Tại Trung Hoa Đại Lục, họ
tính diện tích theo mét vuông, một trăm mét vuông là đủ
rồi. Hai mươi người cùng nhau niệm Phật,
nghe kinh, cũng đủ! Tại Hương Cảng, diện
tích rộng một ngàn phương xích[5]
là được rồi, số người chẳng cần
đông! Nếu đông người, lại lập thêm một
đạo tràng, đều là dựng đạo tràng cỡ
nhỏ. Chẳng cần mời pháp sư bên ngoài, chính ḿnh
niệm Phật, dùng máy niệm Phật là được rồi!
Có pháp sư th́ tốt, chẳng có pháp sư cũng không sao,
chẳng cần phải cầu cạnh ai! Nghe kinh cũng
chẳng cần phải mời pháp sư, dùng những
đĩa CD/DVD là được rồi! Ngoài những thứ
ấy ra, chúng ta có mạng điện toán, dùng mạng
Internet, dùng truyền h́nh vệ tinh, có thể đồng thời
học tập với các đồng tu trên toàn thế giới.
Chẳng cần dùng món tiền lớn ấy để xây
cất chùa to, chôn tiền xuống đất, chẳng có ư
nghĩa chi hết. Ấn Quang đại sư dạy chúng
ta chuyện này. Chúng ta nh́n vào các hiện tượng trong thời
kỳ Mạt Pháp, có thể hiểu tổ Ấn Quang đă
chỉ dạy tuyệt đối chánh xác. V́ thế, chúng tôi
ở một nơi nhỏ nhoi như thế này tại
Hương Cảng, ở trong một cái pḥng thâu h́nh bé tí
như thế này là được rồi!
Tháng
Tám năm nay, cục trưởng cục Tôn Giáo nhà nước
của Trung Quốc là tiên sinh Diệp Tiểu Văn tham dự
một hội nghị ḥa b́nh quốc tế tại Úc Đại
Lợi, chúng tôi ở cùng một chỗ. Tôi nói với ông
ta: “Tôi giảng kinh không có thính chúng (trong pḥng thâu h́nh chẳng
có thính chúng). Tôi dạy học mà chẳng có học tṛ”. Ông
ta nghe xong, bật cười! Thật vậy đó! Quư vị
nói xem: Tự tại dường ấy, chẳng có mảy
may áp lực nào! Suốt đời chẳng quản đến
ai, chẳng ai cai quản. Thính chúng đều chẳng ở
gần bên, thế mà chúng tôi đạt được hiệu
quả giáo học. Núi Đông Thiên Mục có đông người
học như vậy, căn bản là tôi chẳng tới
nơi đó, mà gởi đĩa CD/DVD đến. Trên cả
thế giới, có khá nhiều đạo tràng đều
dùng phương thức này. Các đồng tu ở Mỹ
thường gọi điện thoại cho tôi: “Thưa
pháp sư! Chúng con rất nghiêm túc học tập, hằng ngày
chẳng thiếu thời khóa nào, mỗi ngày là bốn tiếng
đồng hồ. Trừ việc ấy ra, ấn định
thời gian niệm Phật”. Lời chỉ dạy của
tổ sư há có sai lầm ư? Thân tâm an ổn.
Tôi suốt
đời chẳng có đạo tràng. Chỗ ở
Hương Cảng là một căn hộ của bà cụ
Trần, là một gian nhỏ
trong cả cao ốc. Đại khái chỉ có hơn một
ngàn ba trăm xích vuông (phương xích), đủ rồi!
Mọi người đều biết trong đạo tràng
Tiêm Sa Thư (Tsim Sha Tsui)[6] này do ba vị cư
sĩ [cúng dường] mà thành tựu, có đến ba vị
cư sĩ thành tựu, đó là điều chủ yếu.
Người hộ tŕ rất nhiều, những vị làm
công quả ở đây đều là hộ pháp cho đạo
tràng. Tôi hằng ngày giảng kinh tại nơi
đây, quư vị chẳng đến pḥng thâu h́nh gặp
tôi. Trong pḥng thâu h́nh, tôi có thờ bài vị. Trước khi
giảng kinh, tôi phải lạy những vị hộ pháp ấy;
sau khi giảng xong, phải hồi hướng cho những
vị hộ pháp ấy. Bất luận làm việc ǵ ở
nơi đây, đều là hộ pháp Bồ Tát. Không có những
vị hộ pháp ấy, đạo tràng sẽ chẳng thể
thành tựu. Từng chút công đức nhỏ nhặt của
chúng ta đều hồi hướng, đó là “đương nguyện chúng sanh”,
thành tựu vô lượng công đức. Do vậy, chúng ta
tu Tịnh Hạnh. Quư vị mong có đạo tràng, mong có
đồ chúng rất đông, hạnh của quư vị sẽ
chẳng có cách nào thanh tịnh được! Tịnh hạnh
sung sướng lắm, thật sự sung sướng!
Chúng
ta xem tiếp phần Luận kế đó:
(Luận)
Nhược vô thử nguyện, thiết đoạn phiền
năo, tức Nhị Thừa hạnh cố.
(論)若無此願,設斷煩惱,即二乘行故。
(Luận:
V́ nếu không có nguyện này, dẫu đoạn phiền
năo, chính là hạnh Nhị Thừa).
Đây
là nói: Quư vị chẳng có những nguyện này. Chẳng
có những nguyện này, giả sử quư vị đă thật
sự đoạn Kiến Tư phiền năo, đoạn Trần
Sa phiền năo, bất quá, quư vị chứng quả vị
Thanh Văn hoặc Duyên Giác. Nếu học Đại Thừa,
sẽ là Quyền Giáo Bồ Tát, chẳng ĺa khỏi mười
pháp giới. Tiếp đó, Luận nói:
(Luận)
Thiết thị Bồ Tát, tức sanh Tịnh Độ.
(論)設是菩薩即生淨土。
(Luận:
Nếu là Bồ Tát, liền sanh Tịnh Độ).
Đây
là Đại Thừa Bồ Tát. Bất luận tu học
pháp môn nào, đều đem những ǵ quư vị đă tu hồi
hướng cầu sanh Tịnh Độ, liền sanh Tịnh
Độ. Đến thế giới Cực Lạc, sẽ
lại tiếp tục học tập. Học tập đă
thành tựu, bèn thả chiếc bè Từ, thừa nguyện
tái lai, quư vị cũng phải giúp đỡ những chúng
sanh khổ nạn ấy. V́ thế, tiếp đó, lời
Luận viết:
(Luận)
Dĩ thử nhất bách tứ thập đại nguyện
môn, đốn năng tịnh kỳ nhất thiết trần
lao, tiện thành Phổ Hiền pháp giới hạnh cố.
Cố danh Tịnh Hạnh.
(論)以此一百四十大願門,頓能淨其一切塵勞,便成普賢法界行故,故名淨行。
(Luận:
Do một trăm bốn mươi môn đại nguyện
ấy, có thể nhanh chóng thanh tịnh hết thảy trần
lao, trở thành hạnh của pháp giới Phổ Hiền,
nên gọi là Tịnh Hạnh).
Đây
là ư nghĩa thứ hai của Tịnh Hạnh. Có thể tu
phẩm Tịnh Hạnh, sẽ chẳng khác ǵ Bồ Tát
trong thế giới Cực Lạc. Thật vậy, chẳng
giả! Chưa văng sanh, chưa thấy A Di Đà Phật?
Đúng vậy, chưa văng sanh, nhưng trong mỗi niệm,
A Di Đà Phật đều gia tŕ quư vị. Một trăm
bốn mươi mốt nguyện hoàn toàn tương ứng
với chư Phật, Bồ Tát trong thế giới Cực
Lạc. Quư vị văng sanh lúc nào, đó là điều khẳng
định, chẳng có mảy may hoài nghi nào! Các vị Bồ
Tát trong thế giới Cực Lạc, các vị Pháp Thân Bồ
Tát trong thế giới Hoa Tạng, bất luận ở
trong cảnh giới nào, đều đúng như một
câu trong kinh Lăng Nghiêm đă nói, ở đây là cả một
phẩm kinh: “Nhược
năng chuyển vật, tắc đồng Như Lai”
(Nếu có thể chuyển vật, ắt giống như
Như Lai). Tám chữ ấy trong kinh Lăng Nghiêm chính là phẩm
Tịnh Hạnh trong kinh này. “Tắc
đồng Như Lai”: Chính
là Pháp Thân Như Lai, giống như thế giới Cực
Lạc, giống như thế giới Hoa Tạng.
“Đốn năng” (頓能)
[nghĩa là] ngay lập tức có thể. “Tịnh kỳ nhất thiết trần lao” (Tịnh
trừ hết thảy trần lao): “Trần lao” (塵勞) là phiền năo. Ở trong thế gian này, ở
trong bất luận cảnh giới nào, chẳng sanh phiền
năo. V́ sao? Hết thảy các thứ phiền năo chẳng
ngoài tự tư tự lợi. Quư vị có ư niệm tự
tư tự lợi, sẽ c̣n có phiền năo. Chẳng v́ tự
tư tự lợi, phiền năo sanh từ chỗ nào? Làm một
chuyện tốt đẹp, làm thành công một chuyện tốt
đẹp, chúng sanh có phước, ta chẳng thể kể
công chính ḿnh đă làm rất nhiều chuyện tốt, chẳng
có! Do chúng sanh có phước [nên được thành công, chẳng
phải là công sức của ta]. Làm chẳng thành công, chẳng
có phiền năo, chẳng áo năo, chúng sanh chẳng có phước!
Chúng ta dốc hết sức, do chúng sanh chẳng có phước,
cho nên chuyện này chẳng thực hiện viên măn! Hễ
có chính ḿnh ở trong ấy, hễ có tiếng tăm, lợi
dưỡng của chính ḿnh [xen vào đó], bèn sanh phiền
năo. V́ sao? Người ấy dấy lên tham, sân, si, mạn. Thật
sự có thể làm được “vô ngă tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng,
vô thọ giả tướng”, bất luận làm chuyện
ǵ, thành công cũng thế, mà thất bại cũng thế,
luôn luôn là như như bất động. Vậy th́ mới
có thể đạt được đại tự tại.
Lại c̣n như thế nào? Nguyện tâm bất thoái! Chuyện
này chẳng làm thành công, [là v́] duyên không đủ. Duyên không
đủ, v́ sao phải làm? Cứ làm thử xem. Làm thử,
quả nhiên thành công. Kẻ b́nh phàm thường nói là “may mắn thành công”. Đối
với chuyện tốt, nói chung là chúng sanh được
lợi ích, quyết chẳng v́ chính ḿnh. Chính ḿnh đạt
được ǵ? Chính ḿnh tăng trưởng sự thanh
tịnh, tăng trưởng trí huệ, tăng trưởng
từ bi, tăng trưởng nguyện lực. Đó là xét
theo phía của chính ḿnh, chẳng có tiếng tăm, lợi
dưỡng! Do vậy, đây là Phổ Hiền Pháp Giới
Hạnh.
Phổ
Hiền Hạnh kèm thêm Pháp Giới, ư nghĩa này rất sâu.
Phổ Hiền pháp giới chính là thế giới Cực Lạc,
là thế giới Hoa Tạng. Hai vị Bồ Tát chủ yếu
trong thế giới Hoa Tạng là Văn Thù và Phổ Hiền.
Quư vị xem kinh Hoa Nghiêm, đến cuối cùng, hai vị
Bồ Tát này dùng mười đại nguyện
vương dẫn về Cực Lạc. V́ thế, sanh vào
Hoa Tạng, cuối cùng, nhất định là quư vị sẽ
thân cận Văn Thù, Phổ Hiền, hai vị ấy sẽ
dẫn quư vị sang thế giới Cực Lạc gặp A
Di Đà Phật. Từ chỗ này, quư vị có thể thấy
Tây Phương Cực Lạc thế giới thù thắng
ngần ấy! Đă biết là thù thắng, hăy nên học
phẩm Tịnh Hạnh. Nhưng trong phần trước,
tôi đă nói, [để hành] Tịnh Hạnh Phẩm, nhất
định là phải nương theo Đệ Tử Quy, Thập
Thiện Nghiệp Đạo, và Sa Di Luật Nghi làm cơ sở.
Có những món căn cơ ấy, sẽ thực hiện một
trăm bốn mươi mốt nguyện rất dễ
dàng. Quư vị chẳng có cội rễ ấy, sẽ chẳng
được! Quan niệm cơ bản trong căn cội
ấy là niệm niệm nào cũng nhằm thành tựu cho
người khác. Trung Hoa có một câu ngạn ngữ cổ
xưa là: “Thành nhân chi mỹ, bất
thành nhân chi ác” (Giúp đỡ người khác thành tựu
những điều tốt đẹp, chẳng giúp người
khác thành tựu điều ác). Đừng giúp người
khác tạo tội nghiệp thành tựu, phải giúp người
khác làm lành, thành tựu công đức cho người khác.
Niệm nào cũng đều có cái tâm ấy, đấy là
chuyện có thể làm được! Quyết định
chẳng có một niệm v́ chính ḿnh. Hễ có một niệm
v́ chính ḿnh, sẽ trái nghịch hạnh nguyện Phổ Hiền!
Lại
xem đoạn kế tiếp:
(Luận)
Dĩ thử đại nguyện trang nghiêm nhất thiết
thế gian chư hạnh, tổng vi pháp giới nhất
thiết đạo tràng, cố danh Tịnh Hạnh.
(論)以此大願莊嚴一切世間諸行,總為法界一切道場,故名淨行。
(Luận:
Dùng đại nguyện ấy trang nghiêm các hạnh trong hết
thảy các thế gian, luôn là đạo tràng cho hết thảy
các đạo tràng trong pháp giới, nên gọi là Tịnh Hạnh).
Quư vị
thấy đó: Niệm niệm chẳng quên dùng một
trăm bốn mươi mốt nguyện này để trang
nghiêm hết thảy các hạnh trong thế gian. Ở
đây, chúng ta phải đặc biệt chú ư chữ “nhất thiết” (一切, hết thảy). Đối
với “hết thảy”, có
hai cách nói:
1) Một
cách nói là: Trong giáo pháp Đại Thừa, thường nói “hữu t́nh thế gian, khí thế
gian, và trí chánh giác thế gian”. Đấy là nói trọn hết
mười pháp giới. Mười pháp giới được
chia thành ba loại.
2) Một
cách nói khác là nói về y báo và chánh báo trang nghiêm của mười
pháp giới.
Hai
cách nói này khác nhau, nhưng ư nghĩa hoàn toàn như nhau: Hết
thảy thế gian!
Đối
với các hạnh của chúng sanh trong hết thảy thế
gian, v́ quư vị niệm niệm đều hồi hướng,
niệm niệm đều chân thành chúc phước cho họ,
chư vị hăy ngẫm xem: Há c̣n có ư niệm tổn
thương chúng sanh hay không? Chẳng sanh khởi [những
ư niệm ấy được]. Quư vị c̣n có ư niệm ganh
tỵ chúng sanh hay không? Quư vị c̣n ư niệm tàn hại
chúng sanh hay không? Quư vị c̣n có ư niệm chiếm tiện
nghi của chúng sanh hay không? Toàn bộ đều chẳng
có! Do vậy mới nói: Hết thảy thấy, nghe, hay, biết
đều chẳng có lầm lỗi. [Đă là] chẳng có
lầm lỗi, quư vị hăy nói xem: Hạnh môn này quan trọng
lắm! Người học Phật chúng ta có kẻ nào chẳng
hy vọng tiêu nghiệp chướng? [Ai nấy] đều
biết nghiệp chướng của chính ḿnh rất nặng,
nhưng chẳng biết tiêu bằng cách nào? Phẩm kinh này
dạy chúng ta phương pháp cụ thể để tiêu
trừ hết thảy các nghiệp chướng! Thế
nhưng, người tŕ tụng phẩm kinh này chẳng ít,
có người dùng phẩm kinh này để tụng niệm
trong công khóa sáng tối từ xưa tới nay đều
có, có bao nhiêu người thành tựu? Tùy thuộc căn
cơ của họ! Căn cơ là Đệ Tử Quy, Thập
Thiện Nghiệp, Sa Di Luật Nghi, căn cơ đấy!
Quư vị chẳng có ba món căn cơ ấy, niệm niệm
sanh tâm hoan hỷ đối với một trăm bốn
mươi mốt nguyện này, nhưng chính ḿnh chẳng
làm được!
Phẩm
kinh này là “hành kinh” (行經, kinh dạy về
phương pháp cụ thể để hành tŕ), Tịnh Hạnh!
Do vậy, phần Giải Phương [của Thanh
Lương Sớ] trong phần trước đă nói rất
hay: “Dường như một
trăm bốn mươi mốt nguyện đều chẳng
có Hạnh?” Thanh Lương đại sư đă bảo
chúng ta: Hạnh có sáu loại lớn, chia cặn kẽ
hơn, sẽ gồm mười bốn điều. Sự
Hạnh, Lư Hạnh, Trí Hạnh, “một
chính là nhiều, nhiều chính là một”. Thanh
Lương đại sư nói nhiều ngần ấy,
trong bất cứ một ư nghĩa nào, cũng đều
bao hàm hết thảy các ư nghĩa. Nói đến Sự Hạnh,
một trăm bốn mươi mốt điều toàn là
Sự. Nói đến Lư Hạnh, một trăm bốn
mươi mốt điều về Sự toàn là Lư. Nói
đến Trí Hạnh, một trăm bốn mươi mốt
Sự Lư ấy toàn là Trí. Một và nhiều chẳng hai,
đó mới là chân tịnh. Do vậy, dùng đại nguyện
này để trang nghiêm các hạnh trong hết thảy các thế
gian.
“Tổng vi pháp giới nhất
thiết đạo tràng”: Hết thảy các đạo
tràng trong pháp giới là một đạo tràng, tức là
đạo tràng Tịnh Hạnh. Hạnh Môn của hết
thảy các chúng sanh trong pháp giới không ǵ chẳng phải
là Tịnh Hạnh. Trong tâm mục của Phổ Hiền Bồ
Tát, chân tướng sự thật là như vậy đó.
Sai biệt rất lớn so với sự “thấy, nghe,
hay, biết” của bọn phàm phu chúng ta. Phàm phu thấy hết
thảy chúng sanh có thiện hạnh, có ác hạnh, có phân biệt,
có chấp trước. V́ sao Phổ Hiền Bồ Tát thấy
tất cả đều là Tịnh Hạnh? Trong phần
trước, chúng tôi đă nói đến chuyện này: Phổ
Hiền Bồ Tát chẳng có phân biệt, chẳng có chấp
trước. Phàm phu thấy hết thảy chúng sanh có thiện
hạnh, có ác hạnh, có thiện quả, có ác báo, chẳng
thấy thanh tịnh. Phàm phu mê mất tự tánh, thấy những
huyễn tướng ấy [chẳng biết] “phàm những ǵ có tướng
đều là hư vọng”, ngỡ huyễn tướng
là chân thật, chấp tướng, chẳng thấy tánh!
Nhưng Bồ Tát th́ “Tánh, Tướng
viên dung, Lư, Sự chẳng hai”. V́ thế, Ngài thấy y
báo và chánh báo trang nghiêm của mười pháp giới toàn là
Tịnh Hạnh, hết thảy các đạo tràng cũng
là Tịnh Hạnh. Chúng ta biết người như vậy
đă tu thành Pháp Thân Bồ Tát, dự vào địa vị chư
Phật Như Lai, chẳng phải là phàm nhân!
Lại
xem câu cuối cùng:
(Luận)
Dĩ thử chư kiến, thành đại thiện
căn, cố danh Tịnh Hạnh.
(論)以此諸見,成大善根,故名淨行。
(Luận:
Dùng các kiến giải ấy để thành tựu đại
thiện căn, nên gọi là Tịnh Hạnh).
Lư Trưởng Giả đă nêu ra
bốn ư nghĩa của Tịnh Hạnh. “Dĩ thử chư kiến”: Chữ “thử” (此)
chỉ phẩm kinh này, chữ “chư”
(諸)
chỉ một trăm bốn mươi mốt bài kệ tụng
trong phần sau. “Thành đại
thiện căn”: Thiện căn của Pháp Thân Bồ
Tát đương nhiên là Tịnh Hạnh. Lư Trưởng
Giả đă giới thiệu đại ư của tên gọi
phẩm kinh này khéo lắm, có thể phối hợp với
lời giới thiệu của Thanh Lương đại
sư, giống như hai vị đạo hữu càng thêm nêu
rơ lẫn nhau vậy!
Lại
xem đoạn thứ hai là “thích
phẩm lai ư” (giải thích ư nghĩa v́ sao có phẩm kinh
này). Thanh Lương giới thiệu [phẩm kinh này], xếp
“lai ư” làm mục thứ nhất,
xếp phần giải thích tên gọi của phẩm vào mục
thứ hai. Lư Trưởng Giả hoàn toàn đảo ngược,
đầu tiên là giới thiệu tên gọi của phẩm
kinh, sau đấy mới cho chúng ta biết v́ sao có phẩm
kinh này.
(Luận)
Vị minh tiền Vấn Minh phẩm.
(論)為明前問明品。
(Luận: Nhằm nói rơ phẩm Vấn Minh trước
đó).
Trong phần
trước, chúng ta đă học phẩm Bồ Tát Vấn
Minh.
(Luận) Thị thành kỳ
Thập Tín trung giải cố.
(論)是成其十信中解故。
(Luận:
Là để thành tựu sự liễu giải đối
với địa vị Thập Tín).
“Thành” (成)
là thành tựu. Nhằm thành tựu sự lư giải của
chúng ta đối với địa vị Thập Tín. Nói
cách khác, khiến cho chúng ta hiểu rơ địa vị Thập
Tín, nhận biết địa vị Thập Tín. Đấy
chính là đại ư của phẩm [Bồ Tát] Vấn Minh.
(Luận)
Thử phẩm thành kỳ Thập Tín chi hạnh cố, thử
phẩm tu lai.
(論)此品成其十信之行故,此品須來。
(Luận:
Phẩm này là để thành tựu hạnh trong địa
vị Thập Tín, cho nên cần có phẩm này).
Có Giải,
đă nhận thức, đă hiểu rơ. Nếu quư vị chẳng
thể thực hiện, sẽ là vô dụng, chẳng khác ǵ
không hiểu, chẳng khác ǵ không biết! Giải và Hạnh
nhất định phải tương ứng, quư vị mới
có thể thật sự đạt được thọ
dụng. Do vậy, nhất định phải có phẩm
này!
(Luận)
Năi chí quả hạnh viên măn dĩ lai, bất ly thử
đại nguyện cố.
(論)乃至果行圓滿已來,不離此大願故。
(Luận:
V́ măi cho đến khi quả hạnh viên măn, chẳng ĺa
đại nguyện này).
“Quả Hạnh”: “Quả” chính là Phật quả
viên măn rốt ráo, là quả vị vô thượng, cũng
là địa vị Diệu Giác được nói trong kinh
Hoa Nghiêm, c̣n cao hơn địa vị Đẳng Giác.
Đoạn sạch bốn mươi mốt phẩm vô
minh, sẽ thành địa vị Diệu Giác. Từ địa
vị Diệu Giác trở xuống, [tức là câu “Quả Hạnh viên măn dĩ lai”]
nhằm nói tới các địa vị thấp hơn địa
vị Diệu Giác. Câu này có nghĩa là bốn mươi mốt
địa vị cho đến Đẳng Giác Bồ Tát
trong thế giới Hoa Tạng, đều thuộc về Đẳng
Chánh Giác, chúng ta nói là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
“Vô thượng” là Phật
quả rốt ráo. Bốn mươi mốt địa vị
Pháp Thân đại sĩ là Chánh Đẳng Chánh Giác, thảy
đều chẳng rời khỏi một trăm bốn
mươi mốt nguyện này. Nói cách khác, một trăm bốn
mươi mốt nguyện này chính là sở hành của bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ. Hạnh của bốn mươi mốt địa
vị Pháp Thân đại sĩ là Tịnh Hạnh, chúng ta phải
học tập. Phiền năo ǵ đi nữa, chướng ngại
ǵ đi nữa, tai nạn ǵ đi nữa, hễ người
tu tịnh hạnh gặp phải, sẽ đều hoàn
toàn hóa giải. Do vậy, chúng tôi cũng rất lưu tâm
giáo huấn này. Trong những năm qua, chúng tôi đề
xướng “thuần tịnh,
thuần thiện”, thuần tịnh thuần thiện chính
là Tịnh Hạnh.
“Bất ly thử đại nguyện
cố” (Do chẳng rời đại nguyện này): Hạnh
nguyện như thế, từ đầu tới cuối
chẳng ĺa, vĩnh viễn chẳng ĺa. Sau khi đă chứng
đắc quả vị Như Lai rốt ráo, có c̣n cần
đến một trăm bốn mươi mốt nguyện
này hay không? Vẫn cần, vẫn giống như người
mới học. V́ sao? Làm gương cho chúng sanh trong chín pháp
giới. Chúng ta hăy xem thuở Thích Ca Mâu Ni Phật xuất
hiện trên thế gian, quư vị chú tâm quan sát, [sẽ thấy]
Thích Ca Mâu Ni Phật khởi tâm động niệm, ngôn ngữ,
tạo tác, có phải là một trăm bốn mươi mốt
điều đang được nói ở đây hay không?
Có điều nào Ngài chẳng làm được? Điều
nào cũng đều làm được! Điều nào
cũng đều thành tựu viên măn; chúng ta chớ nên không
biết điều này! Nếu quư vị chẳng biết,
sẽ chẳng có cách nào học tập. Quư vị đă hiểu
rơ, mới biết cách học như thế nào!
Nhất
là các đồng học tu Tịnh Độ, quư vị phải
nhớ câu sau đây trong kinh Vô Lượng Thọ quan trọng
hơn bất cứ điều nào khác: “Hàm cộng tuân tu Phổ Hiền đại sĩ chi
đức” (đều cùng tuân theo, tu tập đức
của Phổ Hiền đại sĩ). Đức Phật
nói kinh ấy có ư nghĩa rất sâu. Trong phần Chúng Thành Tựu,
đặc biệt nêu ra “Hiền
Hộ đẳng thập lục Chánh Sĩ” (mười
sáu vị Chánh Sĩ thuộc nhóm Hiền Hộ). Mười
sáu vị ấy là tại gia Bồ Tát, chẳng phải là xuất
gia. Mười sáu vị ấy là tại gia Bồ Tát thuộc
địa vị nào? Đẳng Giác, ngang hàng với Văn
Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế Chí. “Mười sáu” là một con số biểu thị
pháp. Trong Mật Tông, nó biểu thị sự viên măn. Trong Hiển
Giáo, dùng số bảy và mười để biểu thị
viên măn. Trong Mật Tông, dùng “mười
sáu”, hoặc “hai mươi
mốt”. Đấy là những con số viên măn trong Mật
Tông. Kinh Vô Lượng Thọ là “Hiển
Mật viên dung, thông Tông, thông Giáo”, chẳng thể
nghĩ bàn! Ư nghĩa này mang ư nghĩa kín nhiệm: Tại
gia thành Phật là chủ yếu! Tại gia học Phật
mà muốn thành Phật trong một đời, chỉ có
pháp môn này!
Mười
sáu vị Chánh Sĩ ấy, trong phần kinh văn tiếp
theo [của kinh Vô Lượng Thọ] đă nói: “Hàm cộng tuân tu Phổ Hiền
đại sĩ chi đức”. Chư vị hăy suy ngẫm
ư vị ấy! Ư vị ǵ vậy? Trong phần Chúng Thành Tựu,
Văn Thù và Phổ Hiền là xuất gia Bồ Tát, mười
sáu vị Chánh Sĩ là tại gia Bồ Tát. Tỷ lệ tại
gia nhiều, xuất gia ít. Chúng ta đọc kinh, học
giáo, chớ nên xem nhẹ những chỗ này! Chớ nên
sơ sót! Ư nghĩa trọng yếu đă được
nêu bày rơ rệt trong ấy, khiến cho chúng ta từ đấy
thấu hiểu, biết được ư nghĩa do Như
Lai đă dạy. Trong bài kệ Khai Kinh có câu: “Nguyện giải Như Lai chân
thật nghĩa”, “chân thật
nghĩa” đ̣i hỏi quư vị hăy chú tâm lănh hội. Nếu
quư vị có thể thấu hiểu, mới có thể nghiêm
túc học tập, dũng mănh, tinh tấn, bất thoái thành Phật
ngay trong một đời. Kinh Hoa Nghiêm là “thành tựu trong
một đời”. Thiện Tài đồng tử đă biểu
diễn cho chúng ta thấy. Thành tựu một đời trong
kinh Pháp Hoa đă được long nữ thể hiện
cho chúng ta thấy. Do vậy, những kinh này được
gọi là kinh Nhất Thừa, [v́] thành tựu trong một
đời! Thành tựu trong một đời, [đối
với] Tín, Giải, Hạnh, Chứng, phẩm kinh này thuộc
về Hạnh! Chính v́ một trăm bốn mươi mốt
nguyện này khiến cho Phật, Bồ Tát trong mười
pháp giới do tu tập một trăm bốn mươi mốt
nguyện này mới có năng lực phá một phẩm vô
minh, chứng một phần Pháp Thân, vượt thoát mười
pháp giới, tức là từ địa vị Thập Tín,
bước lên địa vị Sơ Trụ Bồ Tát. Sơ
Trụ Bồ Tát được gọi là Phát Tâm Trụ,
[hàm nghĩa] mới phát Bồ Đề tâm! V́ vậy, chẳng
phát Bồ Đề tâm th́ là phàm phu; hễ phát Bồ Đề
tâm th́ là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo!
Trong
phần trước, chúng ta đă đọc “kim dĩ phát Bồ Đề
tâm” (nay đă phát Bồ Đề tâm).
Hăy nghĩ: Chúng ta trong hiện tiền, hằng ngày
đều niệm “phát Bồ
Đề tâm”, niệm vài chục năm, Bồ Đề
tâm chẳng phát ra nổi! Mỗi ngày vẫn là phát tâm thị
phi, nhân ngă, tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục,
lục trần, tham, sân, si, mạn, vẫn phát cái tâm ấy.
Cái tâm ấy là tâm luân hồi. Phát loại tâm ấy, quư vị
khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác,
đều là tạo nghiệp luân hồi. Tạo nghiệp
luân hồi là nhân, thọ quả báo luân hồi là quả.
Làm sao có thể thoát ly lục đạo luân hồi cho
được? Chuyện này rất nghiêm trọng, chẳng
phải là chuyện nhỏ, mà là đại sự.
Học
Phật trong hiện thời, nếu chúng ta nghe giảng
kinh văn như vậy, nghe những đạo lư này,
cơ duyên [được nghe giảng kinh văn và đạo
lư như vậy] sẽ chẳng nhiều, quư vị đến
nơi đâu để có thể nghe? Chúng tôi hy vọng sẽ
có thể mở rộng, khiến cho hết thảy chúng
sanh đều có cơ hội được nghe, đều
có cơ hội tiếp xúc. Đấy là nhờ khoa học
kỹ thuật mà đắc lực, chúng ta toàn tâm toàn lực
đi theo phương hướng này. Theo phương
hướng này, người giảng kinh, hoằng pháp ít ỏi,
không sao cả, xác thực là có thể thu được hiệu
quả lợi ích vô biên. Huống hồ lại thuận
theo nguyện lực (nguyện lực thanh tịnh), xác thực
là chúng sanh trong chín pháp giới đều được lợi
ích. Chớ nên thấy trong studio chẳng có một người
nào, những chúng sanh mà nhục nhăn của bọn phàm phu chúng
ta chẳng thấy không biết là bao nhiêu, chẳng có cách
nào tính toán! Do vậy, chúng tôi sanh tâm hoan hỷ. Phu Tử có
nói: “Học nhi thời tập
chi, bất diệc duyệt hồ! Hữu bằng tự
viễn phương lai, bất diệc
nhạo hồ” (Học rồi
tập luyện, cũng chẳng vui sao? Có bạn bè từ
phương xa tới, cũng chẳng thích sao?) “Bạn bè”
ở đây chính là chúng sanh trong chín pháp giới. “Nhân bất tri nhi bất uấn, bất diệc quân tử hồ?”
(Người khác không biết đến mà chẳng giận,
cũng chẳng phải là quân tử ư?) Người thế
gian chẳng biết, chúng ta vẫn tâm b́nh khí ḥa y hệt,
quyết định chẳng có mảy may trách móc họ.
Đó là thiện căn, phước đức, nhân duyên của
mỗi người khác nhau, làm sao có thể trách móc họ
cho được? Người ta chẳng biết đến
mà chẳng giận, cũng phải là một vị quân tử!
V́ thế, nay chúng ta học Phật, tự hành, hóa độ
người khác, ba câu trên đây trong Luận Ngữ thảy
đều hiện tiền, thật sự hưởng thụ!
Đấy chính là như tiên sinh Phương Đông Mỹ
đă nói: “Học Phật là sự
hưởng thụ cao nhất trong đời người”.
Cụ nói lời ấy hết sức có lư! Hôm nay đă hết
thời gian rồi, chúng tôi giảng tới đây. Lần
sau, chúng ta sẽ lại học tập tiếp phần thứ
ba là “thích phẩm Tông Thú”.
Tập
1468
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười
một. Lần trước, tôi đă nói trong bộ Hợp
Luận của Lư Trưởng Giả, để giải
thích phẩm kinh này, Ngài đă chia thành bốn môn phân biệt,
trong đó, “thích phẩm danh mục”
và “thích phẩm lai ư” chúng ta
đă học tập xong. Hôm nay, chúng ta coi đoạn thứ
ba là “thích phẩm Tông Thú”.
Tôi đọc trước lời luận một lượt.
(Luận)
Thích phẩm Tông Thú giả, dĩ Trí Thủ thị hạ
phương Pha Lê Sắc thế giới, Phật hiệu
Phạm Trí, minh thị nhất thiết chư Phật pháp,
bổn tự thể bạch tịnh vô nhiễm chi trí,
dĩ vi năng vấn chi nhân. Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát, tức thị nhất thiết chư Phật thiện
trạch diệu huệ, vi thuyết pháp chi chủ, dĩ
nhất thiết chư Phật căn bản trí huệ chi
môn, thiện tự vi vấn đáp chi chủ bạn, thuyết
nhất bách tứ thập đại nguyện chi môn,
dĩ thành Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng, Thập Địa, thập nhất
địa đẳng Phổ Hiền pháp giới vô tận
hạnh hải.
(論)釋品宗趣者,以智首是下方玻璃色世界,佛號梵智,明是一切諸佛法,本自體白淨無染之智,以為能問之人。文殊師利菩薩,即是一切諸佛善擇妙慧,為說法之主,以一切諸佛根本智慧之門,善自為問答之主伴,說一百四十大願之門,以成十信十住十行十迴向十地十一地等普賢法界無盡行海。
(Luận:
“Giải thích Tông Thú của phẩm này”: Do Trí Thủ là [vị
Bồ Tát] từ thế giới Pha Lê Sắc ở hạ
phương, Phật hiệu là Phạm Trí, chỉ rơ: Tự
thể của hết thảy các Phật pháp vốn là trí
trắng sạch, vô nhiễm, dùng [trí ấy] để làm
người hỏi. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát chính
là trí huệ mầu nhiệm khéo chọn lựa của hết
thảy chư Phật, dùng [trí ấy] làm vị chủ tŕ
thuyết pháp. Dùng môn trí huệ căn bản của hết
thảy chư Phật để khéo thực hiện sự
vấn đáp giữa chủ và bạn, nói ra một
trăm bốn mươi môn để thành tựu biển
hạnh vô tận trong Phổ Hiền pháp giới cho Thập
Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng,
Thập Địa và địa vị thứ mười
một [là Đẳng Giác]).
Chúng
ta xem đoạn này; đoạn này nói về Tông Thú của
phẩm này. Tông (宗) là tông chỉ tu hành,
cũng là phương pháp tu hành. Thú (趣) nghĩa là
nương theo phương pháp này để tu học,
chúng ta có thể đạt được quả báo
như thế nào. “Thú” là
hướng đến cái quả. Do vậy, đoạn
này cũng hết sức quan trọng. Đă thông đạt,
hiểu rơ, sẽ biết tu nhân, chứng quả.
“Trí Thủ thị hạ
phương” (Trí Thủ là ở phương dưới):
Ở đây, có ư nghĩa biểu thị pháp. “Phương
dưới” chính là đối tượng chủ yếu
trong việc hóa độ chúng sanh của chư Phật
Như Lai. Do vậy, Bồ Tát có danh hiệu là Trí Thủ.
Trí ấy chẳng phải là Căn Bản Trí, mà là Hậu
Đắc Trí. Trong kinh Hoa Nghiêm, Văn Thù Bồ Tát nói Thập
Ba La Mật. Thông thường, trong giáo pháp Đại Thừa
chỉ nói Lục Ba La Mật, đó là khoa mục tu học
của Bồ Tát. Thứ nhất là Bố Thí, thứ hai là
Tŕ Giới, thứ ba là Nhẫn Nhục, thứ tư là
Tinh Tấn, thứ năm là Thiền Định, thứ
sáu là Bát Nhă (tức là trí huệ). Thập Ba La Mật là đem
điều cuối cùng, tức Bát Nhă Ba La Mật, lại
triển khai thành Phương Tiện Ba La Mật, Nguyện
Ba La Mật, Lực Ba La Mật, và Trí Ba La Mật. Trí ở
cuối cùng, tức Trí Ba La Mật. Bốn thứ
Phương Tiện, Nguyện, Lực, và Trí đều là
Hậu Đắc Trí, cũng là do trí huệ Bát Nhă khởi
tác dụng. V́ vậy, Thập Ba La Mật và Lục Ba La Mật
chẳng hai, chỉ là tách ra hay gộp lại khác nhau. Tách
ra sẽ thành Thập Ba La Mật, quy nạp lại là Lục
Ba La Mật; nội dung chẳng tăng, chẳng giảm!
Nói tới
Lục Độ th́ trong Bát Nhă Ba La Mật có Quyền Trí và
Thật Trí, có Căn Bản Trí và Hậu Đắc Trí, thảy
đều dung hợp một chỗ. Thập Ba La Mật
là tách rời Quyền và Thật, Bát Nhă Ba La Mật là Thật
Trí, tức trí huệ chân thật. Bốn điều sau
đó, từ Phương Tiện, Nguyện, Lực, Trí, bốn
môn này chính là xét Bát Nhă Ba La Mật theo sự ứng dụng
sai khác. V́ thế, nhà Phật thường nói: “Từ bi làm gốc, phương
tiện làm cửa”. Phương Tiện chính là Bát Nhă Ba
La Mật. Quư vị thấy đó: Trong Phật pháp, đáng
nên dùng thân ǵ để đắc độ, liền hiện
thân ấy. Đấy là phương tiện; đáng nên nói
pháp ǵ, liền nói pháp ấy. Chư Phật, Bồ Tát chẳng
có h́nh tướng nhất định, mà cũng chẳng
có pháp nhất định để có thể nói. Đấy
là chân tướng sự thật, chúng ta chớ nên không biết.
“Hiện tướng” là thuận
theo khả năng tiếp nhận của cái tâm chúng sanh
[để biến hiện]. Chúng sanh thích thân nào, Phật, Bồ
Tát bèn hiện thân ấy. Chúng sanh thích nghe thuyết pháp
như thế nào, Phật, Bồ Tát bèn dùng phương pháp
như thế đó để thuyết pháp. Sống động
chứ không chết cứng, toàn thể đều thuộc
về Bát Nhă Ba La Mật.
Quư vị
thấy chúng sanh hiện thời chẳng giống chúng sanh
trong quá khứ. Chúng sanh trong quá khứ thích nghe kinh, nghe pháp,
cung kính giống như vào lớp học vậy. Trong buổi
học, thầy giảng giải cho chúng ta, các bạn học
nghiên cứu, thảo luận, làm thế nào để chúng
ta có thể thực hiện những điều đă học
trong cuộc sống hằng ngày, thảy đều vận
dụng được, thật sự đạt
được lợi ích. Trong thời đại hiện
tại chúng ta đang sống này, nói hoa mỹ là “thời đại kiến thức
bùng nổ”, trên thực tế th́ là như một câu
trong kinh Lăng Nghiêm đă nói: “Tà
sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”. Đấy
chính là [thực chất] của chuyện kiến thức
bùng nổ trong hiện thời. Con người chẳng có năng
lực phân biệt đúng, sai, tà, chánh, chẳng có tâm kiên nhẫn
nghe kinh, nghe pháp, kể cả các trường đại học
trong hiện thời! Có thể là đại học của
Trung Hoa đỡ hơn một chút, chứ đối với
đại học ngoại quốc, tôi khá thông hiểu [t́nh
h́nh]. Ngoại trừ những người làm công tác chuyên
môn nghiên cứu ra, quá nửa là khoa học, kỹ thuật,
thông thường nhất là đối với môn nhân
văn (humanities), sinh viên [nghe thầy giảng bài] đều
chẳng nghe lọt tai, chẳng có tâm kiên nhẫn. Giáo
sư giảng bài, [sinh viên chú tâm] nghe giảng tối đa
là mười lăm phút; sau mười lăm phút, vọng
niệm bèn dấy lên!
Người
hiện thời ưa thích điều ǵ? Thích TV, thích những
show truyền h́nh nhiều kỳ. Chúng ta có thể dùng những
kỹ xảo ấy để diễn đạt Phật
pháp hay không? Được chứ! Thời cổ đă có
chuyện đưa Phật pháp lên sân khấu! Đại
khái là vào những năm đầu đời Thanh, trong Phật
môn có một vở tuồng tên là Quy Nguyên Kính. Tôi chẳng
biết có đồng tu nào đă xem vở tuồng ấy
hay chưa? Vở tuồng ấy là B́nh Kịch (Kinh Kịch),
nội dung diễn tả chuyện của ba vị tổ
sư Tịnh Độ Tông. Vị thứ nhất là Lư
Sơn Viễn công Sơ Tổ, vị thứ hai là Vĩnh
Minh Diên Thọ đại sư, tức là Tịnh Độ
Tông Lục Tổ, vị thứ ba là Hàng Châu Vân Thê Liên Tŕ
đại sư, là vị tổ thứ tám của Tịnh
Độ Tông. [Vở tuồng đó kể chuyện] ba vị
ấy. Dùng phương pháp sân khấu để biểu diễn,
mọi người hoan hỷ.
Năm
xưa, tôi thấy vở tuồng ấy rất hoan hỷ,
liền nghĩ hiện thời phải dùng phương
pháp phim truyền h́nh nhiều tập, các đồng học
hưởng ứng thật sự chẳng ít. Hôm nay, tôi thấy
có một vị pháp sư đem tới kịch bản của
phim truyền h́nh nhiều tập là Địa Tạng Kinh.
Tôi biết có mấy nơi đang quay phim Địa Tạng
Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh. C̣n có người nói với
tôi: Muốn đem một ḿnh câu chuyện cô Bà La Môn trong
kinh Địa Tạng quay thành phim. Trong kinh Đại Bát
Niết Bàn, chuyện vua Ca Lợi cắt chặt thân thể
[Nhẫn Nhục tiên nhân] cũng được miêu tả
hết sức khéo léo, kinh Kim Cang chỉ nhắc tới, chẳng
nêu chi tiết. Câu chuyện ấy được nói tường
tận trong kinh Đại Bát Niết Bàn. Các thân hữu
trong giới kịch nghệ, điện ảnh nghe câu chuyện
ấy, [cảm thấy] tuyệt vời quá, có thể quay
thành phim xi-nê gây xúc động cả thế giới. Quư vị
thấy đức Phật từ bi, bị cắt chặt
thân thể oan uổng, bị lăng tŕ xử tử,
nhưng Nhẫn Nhục tiên nhân chẳng oán hận vua Ca Lợi
chút nào! Chẳng phản kháng chút nào, lại c̣n phát nguyện:
“Trong tương lai, ta thành Phật, sẽ độ
ngươi đầu tiên!” Lời đức Phật nói
đă được thực hiện, Nhẫn Nhục tiên
nhân thuở ấy là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Vua
Ca Lợi thuở ấy là tôn giả Kiều Trần
Như trong thời Thích Ca Mâu Ni Phật, đúng là người
được đắc độ đầu tiên. Câu chuyện
này hết sức cảm động ḷng người. V́ thế,
người hiện thời nghĩ đến chuyện
dùng phương pháp điện ảnh, hoặc dùng
phương pháp kịch truyền h́nh nhiều tập
[để tŕnh bày Phật pháp], tốt lắm! Giống
như năm mươi ba lần tham học ở cuối
kinh Hoa Nghiêm, hay khéo dường ấy, đúng là có thể
khiến cho người ta xem trăm lượt chẳng
chán!
Trong
những năm qua, tôi thấy phong hóa trên thế giới mỗi
ngày một tệ, thế giới xác thực là đầy ắp
nguy cơ. Lại nghĩ đến lăo pháp sư Ấn
Quang trong quá khứ, lăo nhân gia suốt đời dốc hết
sức lực đề xướng giáo dục nhân quả,
có lư lắm chớ! Có ư nghĩa nhằm bảo rành mạch
với chúng ta: “Muốn cứu vớt thế giới trong
hiện thời, Phật pháp chẳng cứu văn kịp, Nho
giáo cũng chẳng cứu văn kịp! Biện pháp duy nhất
là giáo dục nhân quả”. Nếu mọi người đều
biết gieo nhân lành, chắc chắn có quả lành. Tạo
ác nghiệp, chắc chắn có ác báo. Con người thật
sự biết nhân quả báo ứng, tôi tin chắc họ sẽ
tự nhiên thâu liễm khởi tâm động niệm, ngôn
ngữ, tạo tác. Do vậy, thuở sinh tiền, lăo pháp
sư suốt đời chẳng tiếc công sức,
lưu hành một lượng lớn ba tác phẩm Liễu
Phàm Tứ Huấn, Cảm Ứng Thiên Vựng Biên và An
Sĩ Toàn Thư. Ta có thể cảm nhận: Đấy là
nỗi khổ tâm cứu văn xă hội hiện tại [của
Tổ]!
Do tôi
nghĩ: Trong thời đại này, in sách chẳng có ai
đọc! Thuở ấy th́ được. Thời đầu
Dân Quốc th́ được, hiện thời chẳng có
ai đọc. Hiện thời, tốt nhất là làm kịch
truyền h́nh, kịch nhiều tập. Do đó, tại
Trung Hoa, tôi đă t́m người quay Liễu Phàm Tứ Huấn
thành [một bộ phim] dài hai mươi tập. Phim đă
quay xong, hiện thời đang làm công tác hậu chế
tác, tức là cắt ghép, làm những công tác hoàn thành, đại
khái là trong ṿng tháng Ba, hay tháng Tư năm sau, sẽ có thể
ra mắt. Đấy là bộ đầu tiên. Sẽ tiếp
tục quay bộ thứ hai là Cảm Ứng Thiên Vựng
Biên gồm ba mươi tập. Lại quay An Sĩ Toàn
Thư ba mươi tập. Nửa đầu của An
Sĩ Toàn Thư là Văn Xương Đế Quân Âm Chất
Văn có tánh chất giống như Cảm Ứng Thiên, nói
về nhân quả báo ứng. Hai phần c̣n lại, Vạn
Thiện Tiên Tư chuyên nói về chuyện kiêng giết, nói
về nhân quả của sự sát sanh. Dục Hải Hồi
Cuồng chuyên nói về quả báo tà dâm. Phần cuối
cùng là Tây Quy Trực Chỉ nhằm khuyên người ta niệm
Phật. Tôi cũng tính toán làm ba mươi tập. Tổng
cộng là tám mươi tập, hy vọng có thể hoàn
thành trong thời gian hai năm. Năm sau là năm 2006, đại
khái là khoảng tháng Năm, hay tháng Sáu năm 2007, sẽ có
thể hoàn thành. Đáng nên dùng thân ǵ để đắc
độ, bèn dùng thân ấy. Đáng nên dùng phương thức
ǵ, bèn dùng phương thức ấy. Cứu văn kiếp nạn
là chuyện quan trọng. Dùng phương thức ấy
để hy vọng cảnh tỉnh con người về
khái niệm nhân quả. Nếu bài bác chẳng có nhân quả,
tức là chuyện xấu ǵ cũng đều dám làm, cứ
nghĩ chẳng có báo ứng. Đến khi báo ứng xảy
đến, hối hận chẳng kịp, chúng ta chớ
nên không biết điều này!
Tổ
sư đă mở đầu cho chúng ta, chúng ta phải biết
nên thực hiện như thế nào! Ở đây nói tới
ngài Trí Thủ, chính là trí huệ. Bởi lẽ, rất nhiều
người nghĩ đến, rất nhiều người
muốn làm, trên thực tế, những người ấy
đều là người có thiện tâm, đều là
người sẵn ḷng từ bi, hy vọng quư vị hăy
cùng nhau tập trung sức lực, hăy tập trung nhân lực,
vật lực, tài lực lại! Cá nhân sức lực hữu
hạn. Tập trung sức lực bèn to lớn, có thể
làm ra một tác phẩm có chất lượng tốt nhất.
T́m đạo diễn bậc nhất, diễn viên hạng
nhất, dùng phương thức ấy để hiển
thị luân lư đạo đức, nhân quả báo ứng của
Nho gia và Phật gia ḥng giáo hóa chúng sanh, [sẽ là] vô lượng
vô biên công đức! Chúng ta thấy ngài Trí Thủ ở
phương dưới th́ phải biết dùng
phương pháp này!
“Pha Lê Sắc”: Thời cổ
chẳng có pha lê. Pha Lê (Sphatika, 玻璃)
là thủy tinh, nay ta gọi [pha lê] là thủy tinh, thời cổ
gọi là Pha Lê. Nay chúng ta gọi Lưu Ly (Vidurya) trong kinh Phật
là Phỉ Thúy, tức là ngọc có mầu lục, trong suốt.
Kinh gọi loại ngọc ấy là Lưu Ly, [thuộc về]
thất bảo. Pha Lê là thủy tinh, cũng là một thứ
trong bảy báu. Thế giới Pha Lê Sắc: Thế giới
thủy tinh ấy hoàn toàn trong suốt, chẳng có mảy
may ô nhiễm, có ư nghĩa này!
“Phật hiệu Phạm Trí”:
Quư vị thấy trí ấy cũng là Hậu Đắc Trí,
vô lượng vô biên trí huệ. “Phạm”
(梵)
là thanh tịnh. Trong trí huệ ấy, chẳng có mảy may
ô nhiễm nào! Ô nhiễm là ǵ? Kinh Hoa Nghiêm nói khá đơn
giản: Phân biệt là ô nhiễm, chấp trước là ô
nhiễm, vọng tưởng là ô nhiễm, tức là Kiến
Tư phiền năo, Trần Sa phiền năo, và Vô Minh phiền
năo như trong giáo pháp Đại Thừa thường nói.
Đấy là ô nhiễm. Ô nhiễm bèn gọi là hữu lậu.
Hữu lậu trí là trí huệ của phàm phu, chẳng phải
là thánh nhân. Trí huệ của thánh nhân là vô lậu, vô lậu
chính là Phạm Trí. Chúng ta học Phật, điều ǵ quan
trọng nhất? Thanh tịnh quan trọng nhất, đặc
biệt là tu Tịnh Độ. Đồng tu tu Tịnh
Độ nhất định phải ghi nhớ: “Tâm tịnh, ắt cơi nước
tịnh!” Trong tâm c̣n có tự tư tự lợi, c̣n có
thị phi, nhân ngă, c̣n có lợi hại, được mất,
c̣n có tiếng tăm, lợi dưỡng, c̣n có ngũ dục
lục trần, c̣n có tham, sân, si, mạn, [đấy chính
là] ô nhiễm nghiêm trọng! Đă ô nhiễm, há có trí huệ?
Ô nhiễm mà có thông minh [th́ sự thông minh ấy chỉ là] Thế
Trí Biện Thông!
Chư
vị phải biết: Theo Phật pháp, Thế Trí Biện
Thông là một trong tám nạn. Trong tám nạn có Thế Trí Biện
Thông, nó chẳng phải là trí huệ chân thật. Trí huệ
chân thật sanh từ tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là Thiền,
là Định. Thiền Định là danh từ chung tổng
quát để gọi sự tu hành theo giáo pháp Đại Thừa,
chúng ta chớ nên không biết điều này! Chớ nên giải
thích sai danh từ ấy! Trong Lục Tổ Đàn Kinh
đă nói rất rơ ràng: Thiền là ǵ? “Ngoài chẳng chấp tướng là Thiền, nội
tâm bất động là Định”. V́ vậy, tu Thiền
không nhất định là ngồi xếp bằng ngó vào
vách. Ngồi xếp bằng ngó vào vách là một
phương pháp để tu Thiền Định. Có bao
nhiêu loại phương pháp? Có tám vạn bốn ngàn loại.
Ngồi xếp bằng nh́n vách là một loại trong tám vạn
bốn ngàn loại!
Do
đó, quư vị phải liễu giải, Thiền là ǵ? Ngoài
th́ không chấp tướng, trong th́ chẳng động
tâm! Trong kinh Hoa Nghiêm, trưởng giả Dục
Hương tu Thiền Định ở nơi đâu? Nói
theo kiểu hiện thời, sẽ là công ty bách hóa. Mỗi
ngày, Ngài la cà nơi công ty bách hóa, la cà một ṿng những
nơi náo nhiệt để tu Thiền Định. Cách tu
như thế nào? Mắt thấy rơ ràng, rành rẽ, tai nghe
rành mạch, ngoài là chẳng chấp tướng, trong chẳng
động tâm, thật sự là Thiền Định, là
công phu thật sự! Phàm phu trông thấy những thứ ấy,
sẽ khởi tâm động niệm, tức là chẳng có
Định. Tâm quư vị đă bị cảnh giới bên
ngoài dụ dỗ, mê hoặc, bị cảnh giới bên
ngoài lôi dắt. Người thật sự có công phu, trong hết
thảy các cảnh giới, đều như như bất
động, chẳng bị ảnh hưởng mảy may!
Người thật sự có Thiền Định, chẳng
ai biết! Cái gọi là “ngồi xếp bằng Thiền
Định” chính là Thiền Định sơ cấp, người
khác trông thấy sẽ ca ngợi, lễ bái quư vị,
nhưng người thật sự tu Thiền Định
chẳng ai có thể nh́n ra. Người thật sự có
công phu sẽ nh́n ra, thật sự buông xuống!
Buông
xuống chẳng phải là không tiếp xúc, mà là trong khi tiếp
xúc, thật sự buông xuống. Thật sự chẳng
phân biệt, không chấp trước, không khởi tâm, chẳng
động niệm, niệm niệm sanh trí huệ. Giống
như ngài Huệ Năng gặp Ngũ Tổ, đă thưa
với Ngũ Tổ: “Trong tâm
đệ tử thường sanh trí huệ”. Nếu
chúng ta gặp Ngũ Tổ, nhất định sẽ tŕnh
với Ngũ Tổ: “Trong tâm đệ tử thường
sanh phiền năo!” Nói thật đấy! Quư vị thấy
Huệ Năng đại sư thường sanh trí huệ.
Nói cách khác, chẳng sanh phiền năo. “Chẳng sanh phiền năo” là sáu căn tiếp xúc cảnh
giới sáu trần bên ngoài, bèn chẳng chấp trước,
chẳng phân biệt, không khởi tâm, chẳng động
niệm. Đó là thánh nhân. Đấy chính là hạng người
nào trong kinh Hoa Nghiêm? Sơ Trụ Bồ Tát. Nay chúng ta c̣n
đang học Thập Tín, c̣n chưa đạt đến
Sơ Trụ. Sơ Trụ Bồ Tát phá một phẩm vô
minh, chứng một phần Pháp Thân, không khởi tâm, chẳng
động niệm. Địa vị Thập Tín Bồ Tát
chẳng chấp trước, chẳng phân biệt, c̣n có thể
khởi tâm động niệm. Nói đúng ra là “chưa phá
vô minh, đă đoạn Kiến Tư phiền năo, đă
đoạn Trần Sa phiền năo, nhưng chưa phá vô minh”.
Phá một phẩm vô minh, người ấy là Pháp Thân Phật.
Tuy chứng một phần Pháp Thân, nhưng thật sự
là Phật, chẳng giả! Chẳng phải là Phật
trong mười pháp giới. Đối với Phật
trong mười pháp giới, Thiên Thai đại sư
đă nói rất hay: “Tương
tự tức Phật”, chẳng phải là thật sự, mà thuộc vào địa vị
tương tự. Người học Phật chúng ta chớ
nên không phân biệt rơ ràng, chẳng thể nào không thật sự
hành. “Thân người khó
được, Phật pháp khó nghe”, “mạng người trong hơi thở”. Hễ một
hơi thở ra chẳng hít vào kịp, hối hận chẳng
kịp!
Trong
thế gian này, chuyện ǵ là đại sự? Nâng cao cảnh
giới của chính ḿnh là đại sự, cầu sanh Tịnh
Độ, thân cận A Di Đà Phật là đại sự,
những thứ khác là chuyện vặt vănh! Đối với
những chuyện vặt vănh th́ sao? Tùy duyên, có duyên bèn làm,
chẳng có duyên sẽ không làm. Trong nhiều năm qua, tôi
đă nói với mọi người như thế rất
nhiều lần! Mọi người cũng đă thấy
rất rơ: ‘Tôi chẳng muốn đa sự. Tôi chẳng
mong đa sự!” Tôi ở Hương Cảng, ngay cả
chỗ ở cũng không có. Chỗ tôi ở hiện thời
là do Trần lăo cư sĩ cúng dường. Cúng dường
th́ tôi chỉ cần quyền sử dụng, chẳng cần
quyền sở hữu. Nhà cửa vẫn là của bà ta, cho
tôi mượn để ở. Bà ta rất từ bi, nói:
“Thưa pháp sư! Bất luận thầy ở
Hương Cảng bao nhiêu năm, tôi đều cúng dường
thầy”. Ngày nào tôi rời khỏi, không ở đây nữa,
trả lại căn nhà cho bà ta, chẳng vướng mắc,
chẳng ưu lự!
Suốt
một đời, chính ḿnh chẳng dựng đạo
tràng. Đạo tràng này do các đồng tu và tín đồ ở
Hương Cảng tạo lập, tôi giảng kinh ở
đây. Giảng xong bèn ra đi. Suốt đời chẳng
bận tâm, chẳng có ưu lự. Nhiều chuyện chẳng
bằng ít chuyện, hảo sự chẳng bằng vô sự!
Nhưng có duyên (tức là cơ hội), chúng ta phải làm!
V́ sao? Chuyện lợi ích chúng sanh, chuyện lợi ích Phật
pháp th́ phải làm, chẳng thể đùn đẩy trách
nhiệm. Chẳng có th́ không cần phan duyên. Tôi suốt
đời chẳng hóa duyên, chẳng hỏi xin ai một
đồng nào, tự tại! Mọi người chẳng
hiểu v́ sao tôi có thể tự tại dường ấy.
Nếu quư vị muốn làm chuyện ǵ, quư vị phải
phan duyên, đi khắp nơi kiếm tiền, đi khắp
nơi chèo kéo tín đồ, rất khổ! Quư vị làm sao
có thể tự tại cho được?
Học
Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật là tấm gương tốt
nhất cho chúng ta. Tôi học Phật, những quyển sách
đầu tiên do thầy dạy tôi xem chính là cuốn Thích
Ca Phổ và Thích Ca Phương Chí. Những sách ấy trong
Đại Tạng Kinh chính là truyện kư về Thích Ca Mâu
Ni Phật do người đời Đường viết.
Chúng ta học Phật phải nhận biết Thích Ca Mâu Ni
Phật là người như thế nào? Ngài đă thật
sự bỏ sạch sành sanh, cuộc sống thật đơn
giản: Nghỉ dưới cội cây, giữa trưa
ăn một bữa. Cơm ăn mỗi ngày đều xin
từ bên ngoài, cho ǵ ăn nấy, chẳng có phân biệt, chẳng
có chấp trước! Mỗi ngày ăn một bữa,
đêm ngồi dưới cội cây, chợp mắt là
được rồi, tinh thần đă khôi phục. Suốt
đời chẳng có đạo tràng, chẳng xây dựng đạo
tràng. Cũng có những nơi như Kỳ Thụ Cấp
Cô Độc Viên, hoặc Trúc Lâm Tinh Xá. Những chỗ ấy
đều là của cư sĩ, cung cấp cho đức
Phật có chỗ để giảng kinh, thuyết pháp.
Đức Phật đi rồi, trả lại cho họ.
Suốt một đời, đức Phật chẳng có
đạo tràng, chúng ta phải học theo. Đă xuất
gia th́ chẳng có nhà. Xuất gia mà lại tạo một cái
nhà to, đó chính là gây thêm phiền phức cho chính ḿnh, khổ
quá!
Những
năm qua, tôi ở hải ngoại, cũng thấy tần
suất động loạn trên thế giới mỗi
năm một tăng, tai nạn mỗi năm một nghiêm
trọng hơn. Chuyện này cũng là do người từ
bên ngoài đến t́m tôi, chẳng phải là tôi đến
t́m họ! Họ t́m tôi, hy vọng tôi do xem nhiều, liễu
giải nhiều, sẽ nêu ra những ư kiến hữu ích
cho việc hóa giải xung đột, xúc tiến sự an
định trong xă hội, thế giới ḥa b́nh. Chuyện
này là chuyện chúng ta phải nên làm, hễ có duyên bèn làm.
Tham gia hội nghị ḥa b́nh quốc tế năm lần,
tôi liễu giải: Ḥa b́nh chẳng phải là mở hội
nghị bèn có thể đạt được! Như thế
nào th́ mới có thể thật sự hóa giải xung đột,
đạt được an định, ḥa b́nh? Giáo học!
Suy đi nghĩ lại, vẫn là như câu nói cũ mèm của
cổ thánh tiên hiền: “Kiến
quốc quân dân, giáo học vi tiên” (Xây dựng đất
nước, cai trị nhân dân, giáo học làm đầu).
Đối
với chuyện giáo học, v́ sao đức Thế Tôn giáo
học thành công? Đức Thế Tôn giáo học trong một
thời gian dài. Ngài ba mươi tuổi thành đạo,
cũng có nghĩa là đức hạnh và học vấn
đều có thành tựu, bắt đầu giáo hóa chúng sanh.
Bảy mươi chín tuổi viên tịch. Suốt một
đời, giảng kinh hơn ba trăm hội, thuyết
pháp bốn mươi chín năm, Ngài đă thành công. Khổng
Tử giáo học ở Trung Hoa cũng thành công. Thời gian
giáo học của Khổng Tử ngắn ngủi, chỉ
có năm năm. Ngài cũng là ba mươi tuổi, đạo
đức và học vấn thành tựu. Sau khi đă thành tựu,
vẫn một mực ngưỡng mộ Châu Công, hy vọng
có thể làm một viên quan hay chức vụ nho nhỏ, ḥng
cống hiến sở học của chính ḿnh cho quốc
gia, cống hiến cho xă hội. Rong ruổi khắp các
nước [chư hầu], chẳng có ai dùng Ngài, đúng là
đă lăng phí thời gian mười mấy năm, lại
trở về nước Lỗ vào lúc sáu mươi tám tuổi,
bảy mươi ba tuổi qua đời. V́ thế, Khổng
Tử giáo học năm năm rất thành công, do nguyên nhân
ǵ? Chính ḿnh đă làm được những ǵ ḿnh đă
nói. Thích Ca, Khổng Tử đều là chính ḿnh thật sự
đă làm được, sau đấy mới lại dạy
kẻ khác, học tṛ khâm phục! Sau khi đă làm được
rồi mới nói; v́ thế, ta thường nói [các Ngài] là
thánh nhân! Nói xong, có thể làm được th́ là hiền
nhân. Nói xong, chẳng làm được, sẽ là gạt
người! Chư vị ngẫm xem: Người ta giáo học
thành công, thành công ở chỗ nào? Làm được!
Trong
những năm qua, chúng ta thấy đủ loại t́nh
h́nh hủ bại trong và ngoài giáo, rất đau ḷng! Phật
pháp nương tựa vào ǵ? Giới luật. Chẳng có giới
luật, sẽ chẳng có Phật pháp. Đó là h́nh thức,
biểu hiện giả dối. Tam Quy, Ngũ Giới, Thập
Giới có làm được hay không? Chẳng làm được!
Bất luận là xuất gia hay tại gia, tại gia th́
Ngũ Giới, Thập Thiện có làm được hay
chăng? Chẳng làm được! Nguyên nhân là ǵ? Nguyên
nhân là thế hệ của chúng ta từ bé đă đánh mất
giáo dục luân lư, đạo đức, tối thiểu là
bảy mươi năm! Theo kư ức của tôi, lấy
tôi làm tiêu chuẩn, tôi sanh trưởng ở nông thôn, mười
tuổi ĺa khỏi gia đ́nh, cơ sở của tôi
được bồi dưỡng tại nông thôn. Ở
nông thôn có trường tư thục, cậy vào sự giáo
dục của cha mẹ, do thầy giáo trường tư
thục chỉ dạy mà vun bồi căn cội. Do căn
cội ấy, tiến nhập Đại Thừa Phật
pháp, được thầy giáo tốt chỉ dạy, có bạn
học tốt lành giúp đỡ, rèn luyện, mài giũa, mới
có thể khế nhập cảnh giới Phật pháp, chẳng
dễ dàng! V́ thế, tôi nghĩ lại, [những vấn
đề nẩy sanh trong xă hội hiện thời] là do chẳng
có gia giáo.
Điểm
đặc sắc trong giáo dục của cổ thánh tiên hiền
là gia giáo. Gia giáo dạy ǵ? Đệ Tử Quy. Đệ Tử
Quy là gia giáo. Đệ Tử Quy chẳng phải là sách giáo
khoa, Đệ Tử Quy do cha mẹ, bậc trưởng
thượng, và người lớn trong nhà quư vị nêu
gương tốt cho con cái thấy. Bắt đầu dạy
từ khi nào? Đại khái là sau khi trẻ nít sanh ra
được ba ngày, vừa mở mắt, tai dựng lên,
nó có thể nghe. Tuy nó chẳng thể nói, chuyện ǵ nó
cũng đều không hiểu, nhưng người lớn
ở trước mặt nó tṛ chuyện vui cười, nhất
cử, nhất động, nó đều nghe, thấy, đều
in vào trong A Lại Da Thức. Cổ nhân diễn tả chuyện
này: “Thiếu thành nhược
thiên tánh, tập quán thành tự nhiên” (Do đă tạo
thành từ bé, nên trở thành giống như bẩm sanh, do
thói quen nên trở thành tự nhiên). Vun bồi như thế
đó! Đó là giáo dục có cội rễ! V́ thế, Trung Hoa có câu ngạn ngữ: “Tam tuế khán bát thập, thất tuế khán chung
thân” (Từ tính cách của một người lúc
ba tuổi, có thể thấy tính cách lúc tám mươi. Từ
năm bảy tuổi mà có thể thấy được tính
cách suốt đời), có lư lắm! Chẳng phải là vô
lư, mà là có đạo lư to lớn!
Nhưng
sau khi nhà Măn Thanh diệt vong, thời ấy là thời quân
phiệt cát cứ[7]
Trung Hoa, xă hội là một bầu hỗn loạn, thành thị
thua kém nông thôn, [những thói hư tật xấu, vong bản]
lan tràn đến nông thôn ít hơn. Nhưng người Nhật
Bản xâm lược Trung Hoa, tám năm kháng chiến cũng
khiến cho nông thôn rối loạn tít mù! Mọi người
lo chạy loạn. Trong thời gian ấy, tôi đă chạy
loạn qua khắp mười tỉnh. Chúng tôi cứ chạy
đằng trước, phía sau là quân Nhật đuổi
theo. Cả xă hội loạn lạc, măi cho đến hiện
thời, chẳng thể khôi phục! V́ thế, tôi nói [gia
giáo] bị gián đoạn tối thiểu bảy
mươi năm. Thời gian bảy mươi năm chẳng
coi là ngắn, mà cũng chẳng coi là quá dài; hiện thời,
cứu văn vẫn c̣n kịp. Nếu để sau mười
năm nữa mới toan cứu văn th́ đă bỏ lỡ
thời tiết, nhân duyên, chẳng có cách nào cứu
được!
Trong mấy
năm qua, xác thực là có chẳng ít người có ḷng
đề xướng [vận động] trẻ nhỏ
đọc kinh. Chuyện này tốt lắm, nhưng nếu
chẳng thể thực hiện Đệ Tử Quy một
trăm phần trăm, nó chỉ trở thành một loại
học thuật, chẳng thể thọ dụng chân thật.
Thọ dụng chân thật là đức hạnh. Do vậy,
tứ chúng đồng học là đệ tử trong Phật
môn phải có nghĩa vụ. Chúng ta có sứ mạng, phải
làm cho đại chúng trong xă hội trông thấy. Làm ǵ vậy?
Thực hiện Đệ Tử Quy. Đệ Tử Quy được
thực hiện từ chính bản thân ta. Có Đệ Tử
Quy làm cơ sở, lại học Thập Thiện Nghiệp
Đạo sẽ chẳng khó. Thập Thiện Nghiệp
Đạo là căn cơ của nhà Phật, Đệ Tử
Quy là căn cơ của Nho. Chư vị nhất định
phải biết: Đại Thừa Phật pháp tại
Trung Hoa chẳng kiến lập trên cơ sở Tiểu Thừa,
mà là kiến lập trên cơ sở Nho gia. Nguyên nhân khiến
cho Tiểu Thừa không thịnh đạt ở Trung Hoa là
ở chỗ này! Từ giữa đời Đường
trở đi, dùng Nho gia thay thế Tiểu Thừa. V́ thế,
hiện thời chẳng học Tiểu Thừa, lại chẳng
học Nho, quư vị sẽ chẳng có căn cội! Bản
thân quư vị hăy suy nghĩ, Ngũ Giới, Thập Thiện
quư vị đều làm không được, c̣n có thể
thành tựu ǵ hay chăng? Giảng kinh, thuyết pháp đến
nỗi hoa trời rơi lả tả cũng chẳng có
tác dụng ǵ hết! V́ sao? Quư vị chẳng thể khế
nhập cảnh giới của Phật!
Chương
cuối trong phẩm Quang Minh Giác ở phần trước
nói về cảnh giới Phật rất sâu. Mỗi chương,
mỗi đạo trong phần trước rất sâu, kinh
văn trong hai chương ấy rất trọng yếu! Quang
Minh Giác nói về Giải phần của Bồ Tát; phẩm
này, tức phẩm Tịnh Hạnh, nói về Hạnh của
Bồ Tát. Thấy Bồ Tát hành tŕ như thế nào, chúng ta
rất ngưỡng mộ, nhưng làm không được.
Nguyên nhân làm không được là như tôi vừa mới nói:
Chúng ta chẳng có Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện
làm cơ sở, chẳng có cơ sở Đệ Tử
Quy, niệm Phật mà được văng sanh là do may mắn,
chẳng chắc chắn. Đúng là tùy thuộc thiện
căn trong đời quá khứ, một niệm cuối
cùng trong khi sắp mạng chung, quư vị nghĩ tới A
Di Đà Phật, có thể buông xuống vạn duyên, sẽ
có thể văng sanh. Nếu một niệm cuối cùng sai
trái, c̣n lưu luyến, c̣n vướng mắc, quư vị vẫn
phải luân hồi trong lục đạo y như cũ. Chớ
nên không biết, chẳng thể không cảnh giác!
Làm
như thế nào th́ mới nắm chắc văng sanh? Quư vị
có Đệ Tử Quy, có Thập Thiện Nghiệp, có Tam
Quy, Ngũ Giới, sẽ nắm chắc văng sanh. Tín tâm trọn
đủ, chẳng nghi hoặc tí nào! Quư vị đă có
cơ sở ấy, nhưng luôn đánh rất nhiều dấu
hỏi, quư vị sẽ chẳng nắm chắc, [là v́ cái] tâm
không chắc thật! Do vậy có thể biết, Đệ
Tử Quy, Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện trọng
yếu ngần ấy! Nếu là người xuất gia,
c̣n phải thêm Sa Di Luật Nghi thập giới, hai
mươi bốn môn oai nghi, thật sự là người
xuất gia. Đây là những điều chúng ta hăy cùng nên
khích lệ lẫn nhau: Sống một ngày bèn nghiêm túc thực
hiện một ngày, quyết chẳng thể phí uổng thời
gian! Bây giờ đă hết thời gian rồi!
**
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin tiếp tục
xem phần Hợp Luận của Lư Trưởng Giả:
(Luận)
Phật hiệu Phạm Trí, minh thị nhất thiết
chư Phật pháp, bổn tự thể bạch tịnh vô
nhiễm chi trí, dĩ vi năng vấn chi nhân.
(論)佛號梵智,明是一切諸佛法,本自體白淨無染之智,以為能問之人。
(Luận:
Phật hiệu là Phạm Trí, nói rơ: Tự thể của hết
thảy các Phật pháp vốn là cái trí trắng sạch, vô
nhiễm, dùng trí ấy để làm người thưa hỏi).
Thưa hỏi
mà nếu chẳng có trí huệ, sẽ chẳng thể hỏi
được. Hỏi và đáp đều là như thế,
nhất định là phải có trí huệ chân thật. Bọn
phàm phu chúng ta chẳng hỏi được. Phật, Bồ
Tát hết sức từ bi, các Ngài hóa thân thay chúng ta thỉnh
pháp, hỏi thay cho chúng ta. Do vậy, phải biết [điều
ấy]. Chúng tôi dùng câu chữ đơn giản nhất
để giải thích Phạm Trí, “trí huệ tối cực thanh tịnh” được
gọi là Phạm Trí. Chẳng có mảy may ô nhiễm, chẳng
có mảy may xen tạp, trí ấy được gọi là
Phạm Trí. Ai có? Hết thảy chúng sanh ai nấy đều
trọn đủ. Quư vị có, tôi cũng có, người
khác cũng có, ai nấy đều có. Chỉ tiếc là
chúng ta tuy có mà mê mất, đúng như đức Phật
đă nói trong phẩm [Như Lai] Xuất Hiện của
kinh Hoa Nghiêm: “Hết thảy
chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai”. Trí huệ của Như Lai là Phạm Trí, “đức” là đức
năng, “tướng” là
tướng hảo. Người thế gian nói là “phước báo”. Quư vị thấy
trí huệ, đức năng chính là tài nghệ, phước
báo, trong tự tánh của hết thảy chúng sanh vốn trọn
đủ, chẳng hai, chẳng khác so với mười
phương hết thảy chư Phật Như Lai.
Chúng
ta thấy y báo và chánh báo trang nghiêm của Tỳ Lô Giá Na Phật
trong kinh Hoa Nghiêm. Trong kinh văng sanh, chúng ta thấy y báo và chánh
báo trang nghiêm của Tây Phương Cực Lạc thế
giới A Di Đà Phật. Đó là những thứ tự
tánh vốn trọn đủ. Hết thảy chúng sanh đều
có, b́nh đẳng, chẳng hai, chẳng khác. V́ sao hiện
thời có sự chênh lệch to lớn ngần ấy? Phật
đang giác, giác chứ không mê. Bọn phàm phu chúng ta đang
mê, mê mà bất giác, tà chứ chẳng chánh, nhiễm chứ
không tịnh, do như vậy, tuy có mà chẳng thể hiện
tiền. Giống như mặt trời, ban ngày tuy có mặt
trời, nhưng hôm nay trời âm u, mây che rất dầy,
che khuất vầng thái dương, chẳng thấy mặt
trời, biến thành bầu trời âm u. Chư Phật giống
như ngày quang đăng, chúng ta giống như ngày âm u. Chư
Phật, Bồ Tát đại từ đại bi chỉ dạy
chúng ta, dạy những ǵ? Diệt trừ mây đen, trí huệ
và đức tướng trong tự tánh bèn hiện tiền.
Chẳng phải là do từ bên ngoài mà có, vốn sẵn là
như vậy. Do vậy, làm thế nào để có thể
diệt trừ những thứ ấy, Phật, Bồ Tát
có thể giúp đỡ hay không? Thưa cùng chư vị, chẳng
giúp được! Đó gọi là “tháo chuông vẫn cần phải do người buộc
chuông”.
Chúng
ta mê hoặc chẳng phải là do người ngoài gây ra, mà
là do chính bản thân ḿnh mê muội. Do vậy, vẫn phải
do chính ḿnh giác ngộ! Phật, Bồ Tát bảo cho chúng ta
biết chân tướng sự thật, dạy chúng ta
phương pháp phá mê, khai ngộ, chúng ta chỉ cần y
giáo phụng hành. Nếu dũng mănh, tinh tấn, có thể
thành tựu trong một đời này, chẳng cần chờ
đến đời sau! Trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài
đồng tử đă biểu diễn “thành tựu trong một
đời”. Trong kinh Pháp Hoa, long nữ cũng biểu diễn
“thành tựu trong một đời”. Điều then chốt
là dũng mănh, tinh tấn th́ mới được. Giải
đăi, biếng nhác, chẳng biết là [sẽ thành tựu
vào] năm nào, tháng nào, xa vời vợi chẳng có kỳ hạn!
Nhất định là phải dũng mănh, tinh tấn, phải
phấn chấn, những thứ vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước đều phải buông xuống
th́ trí huệ thanh tịnh trong tự tánh của chúng ta mới
hiện tiền.
Trong
phẩm kinh này, Trí Thủ Bồ Tát là hóa thân của Phạm
Trí Phật. Ngài đến nêu câu hỏi thay cho chúng ta. Ai giải
đáp? Văn Thù Bồ Tát giải đáp cho chúng ta.
(Luận)
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tức thị nhất thiết
chư Phật thiện trạch diệu huệ.
(論)文殊師利菩薩,即是一切諸佛善擇妙慧。
(Luận:
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát chính là trí huệ mầu
nhiệm khéo chọn lựa của hết thảy chư
Phật).
Phải
ghi nhớ điều này. Văn Thù Sư Lợi là ǵ?
Văn Thù Sư Lợi chính là Căn Bản Trí của
Như Lai khởi tác dụng, tác dụng ấy đă “thiện xảo tuyển trạch”.
“Trạch” (擇)
là chọn lựa pháp, “thiện”
(善)
là thiện xảo. Thiện xảo là sống động,
chẳng phải là chết cứng, chẳng phải là một
loại phương pháp [cố định], mà là tùy cơ ứng
biến. Do vậy, đối tượng ứng hóa của
Phật chính là đối với những người bất
đồng, đối với những chuyện khác nhau,
đối với thời gian khác nhau, đối với
nơi chốn khác nhau, đối với điều kiện
và hoàn cảnh khác nhau, đều là ứng cơ thuyết
pháp. Nói ra hết thảy các pháp, chắc chắn đều
khiến cho đại chúng hiện tiền đạt
được lợi ích. Người lợi căn sẽ
được lợi ích to lớn, kẻ độn
căn được lợi ích nhỏ nhặt. Chẳng
có ai không đạt được lợi ích. Đó gọi
là “khế cơ, khế lư”,
đức Phật nói như thế. V́ thế, Văn Thù Bồ
Tát biểu thị ứng dụng của trí huệ Bát Nhă.
(Luận)
Vi thuyết pháp chi chủ.
(論)為說法之主。
(Luận:
Là người thuyết pháp chủ yếu).
Đức
Phật đă giới thiệu: Ngài Văn Thù Sư Lợi
đă từng là thầy của bảy vị Phật trong
quá khứ, bảy vị Phật trong quá khứ đều
là học tṛ của Ngài. Bồ Tát từ bi, chẳng thị
hiện thành Phật, vẫn ở địa vị Bồ
Tát. V́ sao? Bồ Tát dạy người khác dễ dàng
hơn Phật dạy người khác. Phật là sư
đạo, sư đạo phải tôn nghiêm. Đó gọi
là “chỉ nghe người
đến học, chưa nghe người đến dạy”.
Sư đạo tôn nghiêm! Bồ Tát là đồng học.
Đồng học sẽ tùy tiện, quư vị chẳng
đến t́m ta, ta có thể t́m quư vị. Đấy là Bồ
Tát, chứ Phật chẳng thể. Do vậy, v́ sao Bồ
Tát đă thành Phật, vẫn lui xuống địa vị
Bồ Tát? Đạo lư ở ngay chỗ này: Phương tiện
độ chúng sanh!
Lại
xem đoạn kế tiếp:
(Luận)
Dĩ nhất thiết chư Phật căn bản trí huệ
chi môn.
(論)以一切諸佛根本智慧之門。
(Luận:
Dùng môn trí huệ căn bản của hết thảy chư
Phật)
Chớ
nên coi lướt qua câu này, phải chú tâm lănh hội. “Dĩ nhất thiết chư Phật
căn bản trí huệ chi môn”: Chẳng phải là một
vị Phật! “Nhất thiết
chư Phật căn bản trí huệ chi môn” là ǵ? Chính
là Pháp Tánh, là Phật Tánh. Pháp Tánh, Phật Tánh, trí huệ Bát
Nhă vốn sẵn có, gọi là trí huệ căn bản. Bồ
Tát khởi tác dụng, tác dụng to lớn không ngằn mé,
bày ra vô lượng vô biên trí huệ đều chẳng ĺa
căn bản. Điều này trọng yếu. Giống
như một cội đại thụ, cội đại
thụ ấy rất to, cành, lá, hoa quả hết sức xum
xuê, bất cứ chiếc lá nào cũng đều chẳng
rời khỏi căn cội của cái cây ấy. Bồ
Tát v́ hết thảy chúng sanh hoằng tông, nghiên giáo, chẳng
ĺa Căn Bản Trí. Phải hiểu đạo lư này!
Chẳng
có Căn Bản Trí, sẽ chẳng có Hậu Đắc
Trí. Hễ có Hậu Đắc Trí, quyết định có Căn
Bản Trí. Người hiện thời gặp phiền
toái v́ chẳng biết cầu Căn Bản Trí, cứ chuyên
cầu Hậu Đắc Trí, có thể thành tựu hay không?
Chẳng thể thành tựu! Giống như ǵ? Cái mà quư vị
cầu được giống như hoa cắm trong b́nh,
chẳng có rễ, nh́n đẹp lắm, ba bốn ngày
đă khô héo, chết ngắc! Người hiện thời
cầu học bèn cầu bề ngoài, chẳng biết cầu
căn bản. Thời đầu Dân Quốc, cư sĩ
Đường Đại Viên đă nói về chuyện này
rất nhiều. Ông ta bảo các đồng học học
Phật: “Bất luận tại
gia hay xuất gia, hăy coi trọng Căn Bản Trí”. Chẳng
có Căn Bản Trí, quyết định là chẳng có Hậu
Đắc Trí. Căn Bản Trí là ǵ? Thưa cùng chư vị,
Căn Bản Trí là tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh sanh trí huệ,
sanh ra Hậu Đắc Trí. Kinh Kim Cang cũng nói rất
hay: “Tín tâm thanh tịnh bèn sanh
Thật Tướng”.
Do vậy,
trong giáo pháp Đại Thừa, Phật, Bồ Tát thường
khuyên dạy chúng ta phát Bồ Đề tâm. Bồ Đề
tâm là ǵ? Kinh luận đă nói rất nhiều, tổ sư
đại đức từ xưa đă chú sớ rất nhiều,
càng xem càng không hiểu. Chúng tôi cũng dùng phương tiện
thiện xảo, dùng ba điều của Bồ Đề
tâm. Điều thứ nhất trong ba điều là cái Thể
của Bồ Đề tâm, điều thứ hai là Tự
Thọ Dụng của Bồ Đề tâm, điều thứ
ba là Tha Thọ Dụng của Bồ Đề tâm. Có Thể,
có Dụng, Thể là một, nhưng tác dụng chia thành
hai. V́ thế nói là “ba tâm”. Theo giáo pháp Đại Thừa, sẽ
là “tam tâm viên phát”, phát khởi
viên măn th́ là Bồ Đề tâm. Trong giảng đường
này, chúng ta có một cặp câu đối, vế trên là “chân thành”, chân thành là cái Thể
của Bồ Đề tâm. “Thanh
tịnh, b́nh đẳng, chánh giác” chính là Tự Thọ Dụng
của Bồ Đề tâm. Chữ cuối cùng tức “từ bi” chính là Tha Thọ Dụng
của Bồ Đề tâm. Nói theo kiểu như vậy, mọi
người sẽ dễ hiểu. Nếu nói theo cách diễn
tả trong kinh luận, sẽ là chí thành tâm, thâm tâm, đại
bi tâm. Nói theo Khởi Tín Luận sẽ là trực tâm, nói theo
Quán Kinh sẽ là chí thành tâm, thâm tâm, hồi hướng phát
nguyện tâm. Nay tôi viết theo cách này, mọi người
sẽ dễ hiểu hơn! Thâm tâm là ǵ? Thanh tịnh, b́nh
đẳng, chánh giác, thâm tâm! Hồi hướng phát nguyện
tâm, đại bi tâm đều là đại từ đại
bi.
Tôi sử
dụng mười chữ, suốt một đời khởi
tâm động niệm, xử sự, đăi người,
tiếp vật đều chẳng trái nghịch. Người
khác đối với tôi bằng hư t́nh giả ư, tôi
đối với người ấy chân thành. V́ sao? V́ người
ấy vẫn mong luân hồi, hư t́nh giả ư là mong luân hồi,
là cái tâm luân hồi! Tôi chẳng mong luân hồi, tôi mong đời
này có thể thoát ly luân hồi, liễu sanh tử, thoát tam
giới, tôi dùng sự chân thành. Chân thành sẽ bị lừa
gạt, bị thua thiệt! Chẳng sao cả! Dẫu tôi bị
thua thiệt cả trăm năm, bị gạt gẫm suốt
trăm năm, tôi vĩnh viễn ĺa khỏi lục đạo
luân hồi, đáng giá lắm! Nếu quư vị sợ bị
thua thiệt, sợ bị lừa gạt, được rồi,
sẽ tiếp tục luân hồi! Hễ xoay chuyển trong
luân hồi sẽ là vô lượng kiếp! Đúng là
đáng sợ, chẳng thể tiếp tục làm nữa!
Do vậy, tôi chỉ một mực chân thành đăi người
tiếp vật, đối với chính ḿnh chắc chắn
là mong sao thanh tịnh, quyết định chẳng ô nhiễm,
b́nh đẳng, chẳng có cao thấp; chánh giác, quyết
định chẳng mê hoặc, rành mạch, rơ ràng; đối
đăi hết thảy chúng sanh đại từ đại
bi, chẳng phân biệt chủng tộc, chẳng phân biệt
sang hèn, chẳng phân biệt giàu nghèo, chẳng phân biệt
tôn giáo, tín ngưỡng. Dùng một niềm từ bi để
tiếp xúc hết thảy chúng sanh, đó gọi là học
Phật. Phật là như vậy, Bồ Tát cũng là làm
như vậy. Chúng ta học Phật, học Bồ Tát, hăy
bắt đầu thực hiện từ chỗ nào? Thực
hiện từ nơi tâm, phải hiểu điều này!
Tâm giống như Phật, ngôn ngữ của quư vị
đương nhiên giống như Phật. Ngôn ngữ giống
như Phật, hành vi của quư vị đương nhiên cũng
giống như Phật. Ngôn ngữ là giáo, hành vi là giới
luật, tự nhiên hợp quy củ. Như vậy th́ mới
có thể liễu sanh tử, mới có thể thoát khỏi
tam giới, chính ḿnh đạt được đại
an lạc ngay trong một đời này!
Có
đồng học đến hỏi tôi: Gần đây nhất,
sông Tùng Hoa[8] ở
Đông Bắc Trung Hoa đă bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Ở Bắc Kinh, tôi đă nghe tin tức ấy. Khá nhiều
người chẳng có nước uống, lâm vào cảnh
khốn đốn cùng cực! Người học Phật
biết: Đấy là do cộng nghiệp cảm vời! Mỗi
ngày trên khắp thế giới đều có tai nạn
nghiêm trọng nẩy sanh. Hai hôm nay, tôi nghe nói cả khu vực
từ Giang Tây cho tới gần Hồ Bắc bị động
đất, cũng có khá nhiều người chẳng có
nhà để về. Tai nạn quá nhiều, đến
nơi đâu để tránh né? Chẳng có chỗ nào cả!
Đó gọi là “đang trong kiếp
số, khó trốn được”. Chẳng thuộc vào
kiếp số, tự nhiên quư vị b́nh an, vô sự. Người
học Phật gặp tai nạn nghiêm trọng, chẳng
kinh hoảng, chẳng sợ hăi, chẳng oán trời, chẳng
hờn người, đừng nên trách móc ai! Hăy một
ḷng niệm Phật, quyết định có cảm ứng.
Khi ấy, phải cảnh giác, phải phản tỉnh, phải
sám hối, phải đoạn hết thảy ác, tu hết
thảy thiện.
Tai nạn
tự nhiên và ḷng người có quan hệ hay không? Có mối
quan hệ chặt chẽ! Người có thiện niệm,
tất cả hết thảy thiên tai, nhân họa đều
chẳng có. Ư niệm của chúng ta chẳng tốt, ngôn ngữ
chẳng tốt, hành vi chẳng tốt, sẽ chiêu cảm
khá nhiều tai nạn. Trong kinh điển đă dạy
chuyện này rất rơ ràng. Không chỉ là kinh Phật có nói,
mà trong Tân Cựu Ước của Cơ Đốc Giáo có
nói, kinh Cổ Lan (Qurʼān)
của đạo Hồi cũng có nói, tôi thường xem,
cùng một đạo lư! Phật pháp giảng rất thấu
triệt: “Cảnh chuyển
theo tâm!” V́ thế, tôi thường nói: Cực Lạc và
Sa Bà chẳng hai, Hoa Tạng và nơi đây như nhau.
Đă là chẳng hai, v́ sao có sai biệt to lớn ngần ấy?
Sai biệt do ḷng người! Người trong thế giới
Hoa Tạng thuần tịnh, chẳng có ác. Nếu quư vị
hỏi tôi: “Sao thầy biết họ thuần tịnh, chẳng
ác?” Tôi đă đọc từ kinh Thập Thiện Nghiệp
Đạo. Trong kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo,
đức Phật bảo Long Vương: “Bồ Tát có một pháp, có thể ĺa hết thảy
nỗi khổ trong ác đạo”. Hết thảy ác
đạo chính là mười pháp giới. Pháp ấy là pháp
ǵ vậy? “Thường niệm
thiện pháp, tư duy thiện pháp, quan sát thiện pháp”.
Thiện pháp là Thập Thiện Nghiệp Đạo. Sau
đó, c̣n có một câu nói rất quan trọng: “Chẳng dung mảy may bất
thiện nào xen tạp”. Do vậy, tôi biết cư dân
trong thế giới Hoa Tạng là thiện tâm, tư tưởng
thiện, hành vi thiện, chẳng có mảy may bất thiện
nào xen tạp. V́ thế, hoàn cảnh cư trụ của họ
trang nghiêm ngần ấy!
Cực
Lạc được gọi là Tịnh Độ. Tuy
người văng sanh chẳng đạt tới mức
độ thuần thiện, thuần tịnh, nhưng
người sanh vào thế giới Cực Lạc được
bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia
tŕ. Tuy trong A Lại Da có chủng tử tập khí ác, nó chẳng
khởi hiện hành. V́ vậy, thế giới ấy thù thắng
khôn sánh. Quư vị phải hiểu đạo lư này, phải
hiểu rơ lư! Thật sự hiểu rơ, hiểu minh bạch,
làm một người [đúng nghĩa “con người”]
trong một đời này, chúng ta nhất định phải
làm được. Người ta có thể làm được,
v́ sao ta chẳng làm được? Chẳng có lẽ ấy!
Thiện tâm, ư niệm thiện, hành vi thiện, niệm niệm
đều tương ứng với chân thành, thanh tịnh,
b́nh đẳng, chánh giác, từ bi. Niệm niệm đều
tương ứng với Thập Thiện Nghiệp Đạo,
quư vị ở nơi đâu cũng đều chẳng có
tai nạn. V́ sao? Cảnh chuyển theo tâm!
Khá nhiều
tôn giáo nói đến ngày tận thế, nay chúng ta thật sự
tu hành, thật sự tu tập, đoạn hết thảy
ác, tu hết thảy thiện. Kẻ hủy báng ta, khinh nhục
ta, hăm hại ta, ta chẳng có chút nào oán hận người
ấy, lại c̣n cảm ơn người ấy, cảm
tạ kẻ đó! Cho nên có người hỏi tôi: “Ông cảm
tạ người ấy về chuyện ǵ?” Cảm tạ
người ấy giúp tôi tiêu nghiệp chướng! Từ
vô thỉ kiếp cho đến đời này, ta đă tạo
nghiệp chướng rất nhiều. Người ấy
hủy báng, lăng nhục, hăm hại ta, ta chẳng sân khuể,
nghiệp chướng bèn tiêu. Nếu ta có tâm sân khuể, sẽ
chẳng thể tiêu nghiệp chướng được! Oán nghiệp c̣n sâu đậm
hơn. Về sau, oan oan tương báo chẳng hết, chẳng
xong! Ta chẳng có chút oán hận nào, chẳng có một chút ư
niệm báo thù nào, nghiệp chướng liền tiêu.
Người ấy giúp ta tiêu trừ, lẽ nào chẳng cảm
kích người ấy? Nếu người ấy gặp
khó khăn, ta nhất định sẽ giúp đỡ kẻ
ấy, nhất định sẽ chiếu cố kẻ ấy!
Đó là đạo lư làm người, là đạo lư học
Phật, nhất định phải thực hiện, nhất
định phải làm! Phật, Bồ Tát có thể làm
được, ta cũng có thể làm được!
Làm
không được th́ sao? Hăy đọc kinh, nghe kinh. V́ sao
quư vị chẳng làm được? Chẳng thông hiểu
lư, hoặc là do hiểu lư chẳng sâu! Tôi có thể làm
được, cũng chẳng phải là ngẫu nhiên! Tôi
học Phật năm mươi bốn năm, tôi thưa
với các đồng học, tôi có thể khế nhập
cảnh giới Phật bất quá là hai mươi năm
mà thôi. Nói cách khác, trước đó, tôi có công phu hơn ba
mươi năm, dần dần mới nhập cảnh giới
này. V́ thế, hiện thời bất luận ở nơi
đâu, tâm b́nh khí ḥa, tai nạn ǵ xảy ra trước mặt
tôi, chẳng kinh hoảng, chẳng sợ hăi. Tôi sẽ chẳng
hoảng hốt, không sợ hăi. Có khá nhiều tiên đoán về
[tai ương sẽ xảy ra], đó gọi là “định số”, quư vị
đọc Liễu Phàm Tứ Huấn sẽ hiểu rơ. Chúng
ta tự ḿnh tu hành là “biến số”.
Nhiều người tu hành, sức mạnh của biến
số sẽ tăng cao, dẫu chẳng thể hóa giải
tai nạn, cũng có thể giảm khinh, có thể rút ngắn
thời gian tai nạn. Trong định số có biến số,
phải hiểu đạo lư này. Do vậy, bản thân chúng
ta nghiêm túc nỗ lực, không chỉ là có lợi cho chính
ḿnh, mà c̣n có lợi cho người khác, thậm chí có lợi
cho cả khu vực, cớ sao chẳng làm? V́ thế, hy vọng
mọi người chớ nên không nghe kinh. Một ngày chẳng
nghe kinh, mặt mũi sẽ hoàn toàn đổi khác.
Lần
này, do tôi ăn uống không cẩn thận, ruột và bao tử
bị chứng hàn, người ta thường nói là bị
“viêm ruột và bao tử cấp tính”. Tôi uống thuốc Bắc
bốn ngày bèn khôi phục b́nh thường, nhưng thể
lực chưa khôi phục hoàn toàn. Đại khái là phải
hai ba ngày mới có thể khôi phục hoàn toàn. Ăn uống
phải hết sức cẩn thận. Lần này, xin lỗi
mọi người v́ thời gian giảng kinh bị gián
đoạn quá dài. Thoạt đầu, tôi cho rằng sẽ
chẳng quá một tuần, kết quả là gặp phải
chuyện như vậy, đều là chuyện tốt, chẳng
phải là chuyện xấu.
Do vậy,
đọc kinh phải hiểu lư. Bất luận cảnh
giới ǵ, đối với thuận cảnh, chẳng sanh
tham luyến, đối với nghịch cảnh, chẳng
sanh sân khuể. Cảnh giới thuận hay nghịch đều
là nhân duyên tốt đẹp để chúng ta nâng cao cảnh
giới trong tu hành, chỉ cần quư vị biết tu.
Người sống trong thế gian, điều quan trọng
nhất chẳng phải là ǵ khác, [chỉ là] tăng tấn
cảnh giới của chính ḿnh. Đó là thật, những
thứ khác đều giả trất! Những thứ tiếng
tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần
trong thế gian này đều chẳng mang theo được!
Cổ nhân thường nói: “Muôn
thứ chẳng mang được, chỉ có nghiệp theo
thân”. Phải cảnh giác điều này, chớ nên tạo
ác nghiệp. Quư vị tạo thiện nghiệp sẽ có thể
mang theo, hưởng phước trong đời sau! Quư vị
tạo ác nghiệp có thể mang theo, đời sau chịu
khổ, đều có quả báo. Nhân duyên quả báo chẳng
sai sảy mảy may. Cổ nhân nói: “Bất thị bất báo, thời thần vị
đáo” (Chẳng phải là không báo, thời giờ chưa đến). Khi thời gian đă tới,
quư vị có hối cũng chẳng kịp! V́ thế, nhất
định phải đọc sách, đọc sách thánh hiền,
nhất định phải hiểu rơ. Đọc kinh, nghe
kinh, niệm Phật, quyết định chẳng thể gián
đoạn giữa chừng!
Các
đồng tu ở Đông Thiên Mục Sơn cho tôi biết:
Mỗi ngày họ nghe kinh sáu giờ, niệm Phật
mười mấy giờ, làm rất đúng pháp. Đấy
là đạo tràng niệm Phật chân chánh. Ở ngoại
quốc, tôi yêu cầu các đồng tu trong Tịnh Tông Học
Hội, mỗi ngày nghe kinh chẳng thể ít hơn bốn
tiếng đồng hồ! Niệm Phật th́ hoàn cảnh
ở ngoại quốc chẳng giống tại Trung Hoa,
nhưng cũng chẳng thể ít hơn bốn tiếng
đồng hồ. Mỗi ngày niệm tám tiếng đồng
hồ th́ khá lắm! Đạo tràng chuyên tu, mỗi ngày dụng
công chẳng thể ít hơn mười sáu tiếng đồng
hồ. V́ thế, nghe kinh sáu tiếng đồng hồ,
mười tiếng đồng hồ niệm Phật.
Đó là hạn định thấp nhất. [Có như vậy]
quư vị mới chẳng dấy vọng tưởng, sẽ
không suy nghĩ loạn xạ, tâm là Định, thần trí
sáng suốt, chẳng mê hoặc. Tiếp đó:
(Luận)
Thuyết nhất bách tứ thập đại nguyện
chi môn.
(論)說一百四十大願之門。
(Luận:
Nói ra một trăm bốn mươi môn đại nguyện).
Phẩm
kinh này có tất cả một trăm bốn mươi mốt
bài kệ, mỗi bài kệ là một nguyện. Có tất cả
một trăm bốn mươi mốt bài kệ! Ở
đây, Lư Trưởng Giả nói tṛn số, bỏ bớt
số lẻ, [nên viết là] “một
trăm bốn mươi đại nguyện”. Hăy xem
câu tiếp theo, sẽ hiểu tầm quan trọng của
phẩm kinh này.
(Luận)
Dĩ thành Thập Tín.
(論)以成十信。
(Luận:
Để thành tựu Thập Tín).
“Thành” là thành tựu, thành tựu
Thập Tín.
(Luận)
Thành tựu Thập Trụ, thành tựu Thập Hạnh,
thành tựu Thập Hồi Hướng, thành tựu Thập
Địa, thành tựu thập nhất địa.
(論)成就十住,成就十行,成就十迴向,成就十地,成就十一地。
(Luận:
Thành tựu Thập Trụ,
thành tựu Thập Hạnh, thành tựu Thập Hồi
Hướng, thành tựu Thập Địa, thành tựu
địa vị thứ mười một).
Địa
vị thứ mười một là Đẳng Giác.
(Luận)
Phổ Hiền pháp giới vô tận hạnh hải.
(論)普賢法界無盡行海。
(Luận:
Biển hạnh vô tận của Phổ Hiền pháp giới).
Câu này
quan trọng lắm! Bởi lẽ, cổ đức
thường nói: “Chẳng tu hạnh
Phổ Hiền, chẳng thể viên thành Phật đạo”.
Nói về phía Bồ Tát, Bồ Tát phải tu Phổ Hiền
Hạnh th́ mới có thể viên thành Phật đạo. Thông
thường, hễ nói đến hạnh Phổ Hiền,
mọi người chỉ biết mười đại
nguyện vương được nói trong phẩm Hạnh
Nguyện. Chư vị phải biết: Mười nguyện
ấy là Cương (綱,
nguyên tắc chánh yếu), một trăm bốn
mươi mốt nguyện được
nói ở đây là Mục (目), tức những hạng
mục chi tiết. Lễ kính chư Phật, xưng tán Như
Lai, quảng tu cúng dường, sám hối nghiệp chướng,
cho đến phổ giai hồi hướng, thực hiện
như thế nào? Phẩm kinh này nhằm thực
hiện. Phẩm kinh này nhằm thực hiện cụ thể
hạnh Phổ Hiền trong cuộc sống hằng ngày,
trong xử sự, đăi người, tiếp vật, trong
khởi tâm động niệm, quư vị nói xem có trọng
yếu lắm hay không? V́ thế, phẩm kinh này chính là Hoa
Nghiêm Hạnh. Học Hoa Nghiêm th́ nhất định phải
làm được!
Nay chúng ta chỉ đọc và nói, ai có thể
làm được? Một điều cũng chẳng làm
được! Do một điều cũng chẳng làm
được, Phật pháp suy vi là v́ lẽ này, chẳng thể
thực hiện! Trong trạng huống ấy, thật sự
là đệ tử Phật, bi tâm của quư vị tự
nhiên sanh khởi. Chúng ta mong cầu chánh pháp tồn tại
lâu dài, bắt đầu từ chỗ nào? Bắt đầu
từ chính bản thân ta! Quư vị chớ nên đ̣i hỏi
người khác, đ̣i hỏi người khác sẽ
vĩnh viễn thất bại, quyết định chẳng
trông mong được. Hăy đ̣i hỏi chính ḿnh, chánh pháp
liền tồn tại lâu dài. Sau khi ta đă làm được,
chắc chắn sẽ ảnh hưởng người
khác, ảnh hưởng bao nhiêu người? Đó là pháp
duyên của quư vị! Duyên của quư vị thù thắng, sẽ
ảnh hưởng nhiều người. Duyên của quư vị
chẳng thù thắng, sẽ ảnh hưởng ít người!
Trong
thời đại hiện thời, phải biết: Muốn
mở rộng ảnh hưởng, chẳng thể xem nhẹ
công cụ, tức là công cụ khoa học kỹ thuật! Hiện
thời, truyền h́nh vệ tinh và mạng Internet là công cụ
tốt nhất. V́ thế, tôi chẳng có đạo tràng,
tôi chỉ phát triển hai thứ này. Chúng tôi sử dụng
mạng Internet tám năm; tuy giảng kinh trong studio, nhưng
đối diện cả thế giới, mọi người
có thể đồng thời xem. Truyền h́nh vệ tinh
đă làm ba năm, gần như là bốn năm, bắt
đầu từ Tết Nguyên Đán năm 2003, hiện thời
có năm vệ tinh phủ sóng khắp thế giới. Chỉ
cần lắp một máy nhận sóng, quư vị có thể
xem suốt hai mươi bốn giờ. Do vậy, đă có
người từng hỏi tôi: “Pháp sư! Đạo tràng
của thầy ở chỗ nào?” Tôi bảo người ấy:
“Đạo tràng của tôi ở trên trời”. Người ấy
nghe không hiểu, khéo sao đạo tràng của người
ấy có một thiết bị nhận sóng vệ tinh
(satellite disk). Người Hoa gọi [thiết bị ấy]
là Oa (鍋, cái chảo), ông ta
có một cái “chảo lớn”. Tôi liền chỉ vào đó:
“Quư vị có thể thu được tiết mục giảng
kinh của tôi. Quư vị bắt đúng băng tần, có thể
thu được suốt hai mươi bốn tiếng
đồng hồ chẳng gián đoạn”. Đấy là
ǵ? Mở rộng ảnh hưởng. Trước mặt,
không có ai học tập, chẳng sao cả! Xác thực là có
rất nhiều người, nhiệt thành mến mộ Phật
pháp đang học tập trên Internet, học tập từ
TV, hết sức nghiêm túc nỗ lực.
Do vậy,
đối với một trăm bốn mươi mốt
nguyện này, tôi tin tưởng trong số quảng đại
thính chúng, nhất định là sẽ có người
hăng hái, nỗ lực thực hiện. Phật môn gọi
những người ấy là “bậc tái lai”, chẳng phải
là phàm phu, chẳng phải là kẻ tầm thường!
Trong một đời này, những người ấy quyết
định thành tựu chính ḿnh, quyết định trụ
tŕ chánh pháp, thành tựu chúng sanh. Những bằng hữu chí
đồng đạo hợp không nhất định phải
gặp mặt, Phật pháp trọng thực chất, chẳng
đặt nặng h́nh thức. Cương mục tu hành
đều là nguyên lư, nguyên tắc, mỗi nguyện triển
khai ra sẽ đều là vô lượng vô biên, mỗi nguyện
triển khai ra, sẽ đều là vô lượng hạnh
môn, phải hiểu đạo lư này! Quư vị thấy những
điều được nói ở đây: Thập Tín giống
như Tiểu Học, là bậc Tiểu Học trong Phật
môn. Thập Trụ là Sơ Trung (cấp hai). Thập Hạnh
là Cao Trung (cấp ba), Thập Hồi Hướng là đại
học, Thập Địa là nghiên cứu sinh (cao học),
địa vị thứ mười một (Đẳng Giác)
là chương tŕnh Tiến Sĩ. Mỗi
một tầng tiến cao hơn, tu ǵ? Đều là tu
mười nguyện Phổ Hiền, đều là tu một
trăm bốn mươi mốt đại nguyện trong
phẩm Tịnh Hạnh này, tu những thứ đó. Trong mỗi
nguyện, đều bao hàm viên măn Thập Ba La Mật của
Văn Thù Bồ Tát. Nguyện nào cũng trọn đủ
Thập Ba La Mật, [cho nên] kết luận cuối cùng là “Phổ Hiền pháp giới vô tận
hạnh hải”.
A!
Chúng ta lại xem đoạn kế tiếp. Đoạn ấy
nói rơ v́ sao có một trăm bốn mươi mốt nguyện.
(Luận) Hựu tùy vị tu
đạo thượng phiền năo.
(論)又隨位修道上煩惱。
(Luận:
Lại c̣n do phiền năo trong mỗi địa vị tu
đạo).
Theo từng
địa vị mà tấn tu, tu ǵ vậy? Không ǵ chẳng
nhằm đoạn phiền năo.
(Luận)
Lục vị trung, nhất vị hữu nhị thập, lục
vị cộng hữu nhất bách nhị thập, căn bản
thập vô minh, giai nhân Thân Kiến, Biên Kiến, nhị kiến
hữu nhị thập.
(論)六位中,一位有二十,六位共有一百二十,根本十無明,皆因身見邊見,二見有二十。
(Luận: Trong sáu địa vị,
mỗi địa vị có hai mươi [món phiền năo],
sáu địa vị gộp thành một trăm hai
mươi [món phiền năo]. Mười món vô minh căn bản
đều do hai kiến là Thân Kiến và Biên Kiến mà thành
hai mươi [món phiền năo nữa]).
Đấy
là một trăm bốn mươi, cho nên:
(Luận)
Cộng tùy vị tấn tu, nhiễm tịnh phiền năo, tổng
hữu nhất bách tứ thập.
(論)共隨位進修,染淨煩惱,總有一百四十。
(Luận:
Cộng chung sự tấn tu trong từng địa vị
và phiền năo nhiễm tịnh, có tất cả một
trăm bốn mươi món).
Đấy
chính là cội nguồn của một trăm bốn
mươi nguyện.
(Luận)
Vị pḥng thử chướng, khởi nhất bách tứ
thập nguyện, linh tấn tu giả, tùng Sơ Tín tâm, Lư
Sự viên dung, đạt kỳ nguyện thể, vô khuy tự
tâm căn bản tịnh trí.
(論)為防此障,起一百四十願,令進修者,從初信心,理事圓融,達其願體,無虧自心根本淨智。
(Luận:
Nhằm ngăn ngừa những chướng ngại ấy
nên dấy lên một trăm bốn mươi nguyện,
khiến cho người tấn tu từ cái tâm Sơ Tín, Lư
Sự viên dung, thấu đạt bản thể của
Nguyện, chẳng thiếu sót căn bản tịnh trí
nơi tự tâm).
Đây
là nói rơ nguyên do v́ sao có một trăm bốn mươi mốt
nguyện này: Nhằm đối trị phiền năo. Phiền
năo tập khí đă hết, trí huệ và đức tướng
của Như Lai vốn sẵn có trong tự tánh liền hiện
tiền. V́ thế, ở đây, Lư Trưởng Giả
đă nói rất rơ ràng: Tấn tu theo từng địa vị,
hằng ngày phải làm! Bản thân chúng ta chẳng cần bận
tâm chính ḿnh đang ở giai tầng nào, hoặc địa
vị nào, không cần hỏi đến! Chỉ hỏi
chính ḿnh có phải là hôm nay phiền năo nhẹ bớt, trí huệ
tăng trưởng, hy vọng chúng ta mỗi năm phiền
năo một nhẹ hơn, mỗi tháng một nhẹ hơn,
mỗi tuần một nhẹ hơn hay không? Có thể làm như
vậy, công phu là thượng thừa. Mỗi tuần
đều có tiến bộ. Phiền năo nhẹ nhàng, trí huệ
tăng trưởng. Phiền năo tồn tại, sẽ
chướng ngại trí huệ, khiến cho trí huệ chẳng
hiện tiền. Phiền năo là tối tăm, trí huệ là
sáng suốt. Trừ khử tối tăm, quang minh hiện
ra, phải hiểu đạo lư này! À! Hôm nay đă hết
thời gian rồi. Chúng tôi nói tới chỗ này!
Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm
thứ mười một, Tịnh Hạnh Phẩm
Phần
3 hết
[1]
Lư Trưởng Giả, tên thật là Lư Thông Huyền (có sách
chép là Thông Nguyên), sinh năm 635, mất năm 730. Ông vốn
xuất thân từ hoàng tộc, người xứ Luân Châu,
có thuyết nói là Thương Châu. Ông c̣n có hiệu là Táo Bá
Đại Sĩ. Thời trẻ, ông đổ công dốc
sức nghiên cứu kinh dịch. Đến năm bốn
mươi mấy tuổi, mới chuyên tâm nghiên cứu kinh
Phật, đặc biệt có hứng thú với kinh Hoa
Nghiêm. Năm Khai Nguyên thứ bảy (719), ông đem bản
Hoa Nghiêm mới dịch (Bát Thập Hoa Nghiêm) đến vùng
núi thuộc thôn Đại Hiền, huyện Nam Đồng,
tỉnh Thái Nguyên, để chuyên tâm soạn luận chú giải
kinh Hoa Nghiêm. Suốt ba năm ông không ra khỏi cửa, mỗi
ngày chỉ ăn một bữa sáng bằng mấy quả
táo, và một tấm bánh làm bằng bột trộn lẫn
với lá cây bách, nên người đời gọi ông là Táo
Bá Đại Sĩ. Sau đó, ông dời sang một hang
đất ở chân núi Thần Phước cùng huyện
để dễ chuyên tâm tạo luận hơn. Năm năm
sau, luận mới hoàn thành. Đó là bộ Tân Hoa Nghiêm Kinh
Luận gồm bốn mươi quyển. Ông lại soạn
tiếp bộ Lược Thích Tân Hoa Nghiêm Kinh Tu Hành Thứ
Đệ Quyết Nghi Luận gồm bốn quyển. Ông
tịch vào năm Khai Nguyên 18 (730), thọ chín mươi sáu
tuổi. Tống Huy Tông khi đọc tiểu sử của
ông đă hết sức ngưỡng mộ, phong tặng ông
danh hiệu Hiển Giáo Diệu Nghiêm Trưởng Giả.
V́ thế, người đời sau khi nhắc đến
ông, thường gọi ông là Lư Trưởng Giả. Sau khi
Lư Trưởng Giả qua đời khoảng bốn hoặc
năm năm sau, một nhóm pháp sư do ngài Quảng Siêu
lănh đạo đă biên tập, lưu thông bộ Tân Hoa
Nghiêm Kinh Luận. Danh xưng Hoa Nghiêm Kinh Hợp Luận là
công tŕnh của nhóm tỳ-kheo do Chí Ninh lănh đạo. Họ
đă ghép kinh văn vào luận, chỉnh lư, hiệu đính
thành bộ Hợp Luận hiện thời. Đến
đời Minh, Lư Chấp viết Hoa Nghiêm Kinh Hợp Luận
Giản Yếu (bốn quyển) và Phương Trạch viết
Hoa Nghiêm Kinh Hợp Luận Toản Yếu (ba quyển)
đều nhằm giúp cho người học dễ nắm
được tư tưởng của Lư Trưởng Giả.
[2]
Cửu Long là phần đất liền đối diện
với đảo Hương Cảng, bao gồm bán đảo
Cửu Long và vùng Tân Cửu Long. Cửu Long cách đảo
Hương Cảng bởi eo biển Lư Ngư môn. Theo cách
giải thích thông thường, sở dĩ vùng này
được gọi là Cửu Long là v́ có tám mạch núi
chính, tức Nha Sào Sơn, Bút Giá Sơn, Sư Tử Sơn,
Kê Hung Sơn, Từ Vân Sơn, Đại Lăo Sơn, Đông
Sơn và Phi Nga Sơn, cộng thêm hoàng đế nhà Tống
(Tống Đế Bính đă từng lánh nạn quân Liêu chạy
tới đây), coi như là có chín long mạch.
[3]
Mười ba tông phái trong Phật giáo Nhật Bản hiện
thời là
1) Hoa Nghiêm (Kegon): Do ngài Lương
Biện (Roben) thỉnh cầu ngài Thẩm Tường
(Shinsho) truyền giảng kinh Hoa Nghiêm vào năm 736 tại
Kim Chung Sơn Tự (Kinsho-ji). Về sau chùa này trở thành
Đông Đại Tự (Todai-ji).
2) Luật Tông (Ritsu, hoặc Risshū)
do ngài Giám Chân người Hoa truyền vào Nhật Bản từ
năm 753, theo truyền thống Nam Sơn Đạo Tuyên
Luật Tông của Trung Hoa. Luật Tạng chủ yếu
dựa theo giới bổn của trường phái Đàm
Vô Đức (Dharmaguptaka), đặt tổng bản sơn
tại Toshodai-ji (Đường Chiêu Đề Tự).
3)Thiên Thai (Tendai): Do đại sư
Tối Trừng (Saichō) sáng lập. Do ngài Tối Trừng c̣n học
Kim Cang Thừa Trung Hoa trước khi trở về Nhật,
nên trong tông Thiên Thai c̣n tu tập Mật Pháp, để phân
biệt với Chân Ngôn Tông về sau, người ta thường
gọi là Thai Mật để chỉ các phái tu tập Mật
Tông theo truyền thống của Thiên Thai. Thiên Thai Tông của
Nhật không thuần túy là giáo nghĩa Thiên Thai mà c̣n bao gồm
cả Thiền, Luật, Mật. Về sau, tông này tách ra hai
phái nhỏ là Sơn Môn Phái (tuân theo giáo nghĩa của
sư Viên Nhân) và Tự Môn Phái (theo giáo nghĩa của Viên
Trân). Tổng bản sơn là chùa Diên Lịch (Enryaku-ji) tại
núi Tỷ Duệ (Hiei).
4) Chân Ngôn (Shingon): Do Không Hải đại sư
(Kūkai) sáng lập vào năm 816, hành tŕ Mật Tông theo pháp
được truyền bởi Kim Cang Trí (Vajrabodhi) và Bất
Không Tam Tạng (Amoghavajra), thường được gọi
là truyền thống Đường Mật. Tổng bản
sơn là núi Cao Dă (Koyashan).
5) Tịnh Độ (Jōdo) do ngài
Pháp Nhiên (Hōnen) sáng lập vào năm 1175.
6) Tịnh Độ Chân Tông (Jōdo Shinshū) do Thân Loan
(Shinran) sáng lập vào năm 1224. Thân Loan là học tṛ của
Pháp Nhiên. Đúng lư ra, phái này chỉ có thể coi là một
đoàn thể tại gia, v́ Thân Loan lấy vợ, sinh con. Các
“tăng sĩ” thuộc tông này, dẫu đă thọ đại
giới, vẫn lấy vợ, sinh con đẻ cháu. Thậm
chí không cạo đầu, ăn mặc chẳng khác ǵ người
thường, chỉ đắp ca sa và mặc áo tràng khi hành
lễ.
7) Thời Tông (Ji-shū) do Nhất Biến (Ippen) sáng lập
vào năm 1270, cũng là một tông phái Tịnh Độ. Ippen
chủ yếu thừa kế tư tưởng của
Shōkū (Chứng Không). Chứng Không chính là đệ tử
của sư Pháp Nhiên). Sư chủ trương niệm Phật
chia theo nhiều thời khóa nhất định trong một
ngày, do vậy mới có cái tên Thời Tông.
8) Dung Thông Niệm Phật (Yūzū-nembutsu) do
Lương Nhẫn (Ryōnin) sáng lập năm 1117. Giáo nghĩa
chánh yếu của tông này là niệm Phật không chỉ lợi
lạc cho cá nhân hành tŕ mà c̣n lợi lạc cho khắp tất
cả hữu t́nh trong vũ trụ.
9) Lâm Tế (Rinzai): Thiền phái
do Vinh Tây (Eisai) sáng lập năm 1191, tuân theo đường
lối tu Thiền của tông Lâm Tế Trung Hoa.
10) Tào Động (Sōtō):
Thiền phái theo Tào Động Tông Trung Hoa do ngài Đạo
Nguyên (Dogen) sáng lập vào năm 1227.
11) Hoàng Bá (Ōbaku): Do ngài Ẩn
Nguyên (Ingen) sáng lập vào năm 1654, chịu ảnh hưởng
của Hoàng Bá Lâm Tế Tông Trung Hoa.
12) Pháp Tướng (Hossō): Do ngài Đạo Siêu (Dōshō)
truyền nhập vào năm 654, tức là Duy Thức Tông của
Trung Hoa. Ngài Đạo Siêu học Duy Thức trực tiếp
với Huyền Trang đại sư.
13) Nhật Liên (Nichiren) do Nhật
Liên sáng lập vào năm 1253, phát xuất từ Thiên Thai, có
tư tưởng quá khích, gièm chê các tông khác. Nhật Liên tự
xưng ḿnh là Thượng Hạnh Bồ Tát hóa thân, và c̣n ngạo
nghễ tuyên bố giáo nghĩa Thiên Thai theo kiểu Nhật
Liên mới là chánh truyền, giáo nghĩa của Trí Giả
chỉ là quyền biến (Tích Môn), chưa phải là Bổn
Môn của Thiên Thai thật sự.
[4]
Tề cư sĩ ở đây là bà Tề Tố B́nh. Đạo
tràng Đông Thiên Mục Sơn ở thôn Mai Gia, thành phố
Lâm An, thuộc Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, cách Hàng Châu hai
tiếng đồng hồ lái xe. Tề cư sĩ đă
đứng ra trùng tu chùa Chiêu Minh bỏ hoang đă lâu trên
núi, lập Di Đà Thôn trên núi Đông Thiên Mục, biến
chùa ấy thành đạo tràng chuyên tu Tịnh Độ.
Thoạt đầu, chùa không có tăng sĩ, bà Tề
đă tận lực cúng dường, quyên mộ, chiêu tập
những tăng sĩ chuyên tu Tịnh Độ về
đây. Có lúc, đạo tràng có đến bốn
mươi pháp sư, và hơn một trăm cư sĩ
thường trụ. Điểm đặc biệt là
nơi đây có đạo tràng chuyên tu Ban Châu tam-muội
(tŕ danh niệm Phật không nằm, chỉ đi hoặc
đứng suốt chín mươi ngày). Núi Đông Thiên Mục
có nhiều di tích lịch sử như Phân Kinh Đài
(nơi Chiêu Minh Thái Tử chia kinh Kim Cang làm ba mươi hai
phần cho mẹ tiện đọc tụng và nắm
được ư nghĩa đại cương trong từng
đoạn), Tẩy Nhăn Tŕ (theo tương truyền Chiêu
Minh Thái Tử chia kinh xong, mắt bèn mù. Về sau đến
chỗ ao này, vốc nước rửa, mắt lại sáng
như cũ) v.v… Chiêu Minh Thái Tử là Tiêu Thống (501-531),
con trưởng của Lương Vũ Đế. Chiêu
Minh là thụy hiệu do chính Lương Vũ Đế đặt
sau khi Tiêu Thống đă mất. Tiêu Thống thông minh, đức
độ, khoan dung, sùng mộ Phật giáo, tinh thông giáo
điển. Ông mất rất sớm (về sau, con ông là
Tiêu Sát đă truy phong cha là Cao Tông Chiêu Minh Hoàng Đế, chứ
ông chưa làm vua ngày nào). Các tự viện Trung Hoa ở Hoa
Nam hay lập bài vị thờ cha con ông như thần hộ
pháp.
[5] “Phương xích” (方尺)
là đơn vị đo diện tích của Trung Hoa, một
phương xích bằng khoảng 0.11 mét vuông.
[6] Tiêm
Sa Thư (vùng miệng cát nhọn), c̣n gọi là Heung Po Tau (Hương
Bộ Đầu) là một khu vực ở Hương Cảng,
thuộc phía Nam khu vực Cửu long. Khu này chính vùng mũi đất
nhô ra vịnh Victoria của bán đảo Cửu Long.
[7]
Quân phiệt cát cứ (軍閥割據):
Hiểu theo nghĩa hẹp, đây là thời kỳ chánh quyền
trung ương suy yếu, những kẻ có dă tâm, hoặc
có thế lực ở các nơi tận dụng mọi thủ
đoạn để xưng hùng tại các tỉnh (nhất
là các thủ lănh quân sự từ thời Thanh, như các
tướng tá thuộc Bát Kỳ, những lực lượng
quân sự nghĩa dơng địa phương chống lại
quân xâm lăng ngoại quốc như quân Bắc
Dương của Viên Thế Khải). Tuy trên danh nghĩa,
họ nghe lệnh chánh quyền trung ương, nhưng thật
ra mỗi nơi có luật lệ, thuế khóa riêng, nắm
toàn quyền sanh sát. Thậm chí đi từ tỉnh này sang
tỉnh kia phải xin giấy thông hành, nộp thuế
riêng. Những tay quân phiệt làm mưa làm gió thời ấy
là Viên Thế Khải, Đoàn Kỳ Thụy, Phùng Quốc
Chương, Trương Tác Lâm, Diêm Tích Sơn, Phùng Ngọc
Tường v.v…
[8]
Sông Tùng Hoa (tiếng Măn Châu gọi là Sungari Ula, có nghĩa là
Thiên Hà hay Ngân Hà. Tùng Hoa chỉ là phiên âm của chữ
Sungari) là chi lưu lớn nhất của Hắc Long Giang
(sông Amur trong tiếng Nga, hoặc Sahaliyan Ula, tức Hắc
Thủy). Sông này bắt nguồn từ rặng Trường
Bạch, từ hướng Đông Nam chảy theo hướng
Tây Bắc qua các tỉnh Cát Lâm và Hắc Long Giang.