Đại Phương
Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần
31
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng
Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh
Tiến
Tập 1523
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin
xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một, đoạn
lớn thứ sáu trong phần kệ tụng, xem từ bài
kệ thứ hai:
(Kinh) Chấp
tŕ ứng khí, đương nguyện chúng sanh, thành tựu
pháp khí, thọ thiên nhân cúng.
(經)執持應器。當願眾生。成就法器。受天人供。
(Kinh: Cầm giữ b́nh bát, nguyện cho chúng sanh,
thành tựu pháp khí, nhận trời người cúng).
Đây
là khất thực. Bài kệ trong phần trước là “thủ chấp tích trượng”
(tay cầm tích trượng). Trong rất nhiều “tố họa” (塑畫, tượng đắp
nặn, tranh vẽ), tượng Địa Tạng Vương Bồ
Tát luôn có tích trượng và bát. Ứng Khí (應器) ở đây chính là bát. Quư vị thấy tay phải
cầm tích trượng, tay trái ôm bát. Bát được gọi
là Ứng Khí, Ứng là Ứng Lượng (應量), cũng có nghĩa là lượng [thực phẩm] mỗi cá
nhân cần thiết khác nhau! Có người ăn rất nhiều,
có người ăn ít hơn. V́ thế, họ đi khất
thực, cũng không cần phải quá nhiều, mà cũng
chớ nên quá ít. Khi khất thực, xét ra chính ḿnh có thể ăn no là được rồi!
Đức Thế Tôn dạy chúng ta khất thực chẳng
thể vượt quá bảy nhà. Nếu có ba nhà hoặc bốn
nhà cúng dường đă đủ rồi, sau đó, sẽ
không tới nhà thứ năm, thứ sáu. Nếu chưa đủ,
có thể xin tới nhà thứ bảy. Nhà thứ bảy vẫn
chưa đủ, chẳng thể đến nhà thứ tám,
cũng coi như vậy là đủ rồi! V́ thế, nó
(cái bát) được gọi là Ứng Pháp Khí (應法器). Thông
thường, có hai loại bát, một loại bát sành, loại
kia là bát sắt. V́ thế, gọi là Ứng Lượng Khí,
[hàm nghĩa] tương ứng với lượng cơm
(sức ăn) của bản thân chúng ta.
Tay
ôm bát, vào thời đức Thế Tôn, hằng ngày đều
phải khất thực. Đấy là một thời công khóa.
Trong phần trước, tôi đă thưa tŕnh cùng chư vị,
[khất thực
chính là] tự hành, hóa độ người
khác. Đây là một thời công khóa ắt cần phải thực hiện hằng ngày. Khi cầm tích trượng,
bèn nghĩ “thiết đại
thí hội” (lập hội đại thí); ngày hôm qua, tôi
đă tŕnh bày cùng quư vị ư nghĩa này. Trai chủ tài cúng
dường người xuất gia, bát cơm ấy chính
là Tài Cúng Dường. Bát cơm ấy chẳng phải do một
nhà cúng dường, mà là do vài nhà cúng dường; do vậy,
gọi là Ứng Khí. Ứng (應) là tương ứng với pháp! Nói theo kiểu hiện
thời, sẽ là “đa nguyên”,
tiếng Phạn gọi là Ca-sa.
Nay
chúng ta hễ nghe hai chữ ca-sa bèn nghĩ đến y. Một
bức y này được gọi là ca-sa. Nhưng hiện
thời có cái tên ca-sa, chứ chẳng có bản chất
ca-sa! Đấy là ư nghĩa ǵ? Chư vị phải biết,
vào thời cổ, vật chất rất khuyết thiếu,
xin một bát cơm dễ
hơn. Nhà nào cũng đều ăn
cơm, cho quư vị một chút, chẳng thể cho quá nhiều!
Trừ phi là người ta giàu có, là bậc đại phú
trưởng giả, cuộc sống vật chất của
những kẻ ấy khá giàu có. Quư vị đến [khất
thực], họ sẽ có thể cúng dường quư vị
một bát, chẳng cần phải đến xin nhà thứ
hai! Những nhà b́nh phàm nhỏ nhoi sẽ chẳng có nhiều
thứ ngần ấy để tặng cho quư vị; v́ thế,
thí cho quư vị rất ít, nay chúng ta nói là một hai muỗng
to, chẳng nhiều. Do vậy, quư vị phải xin đến
ba, bốn nhà mới đủ ăn. Cơm và đồ
ăn của ba bốn nhà khác nhau đổ chung lại, thảy
đều lẫn lộn với nhau, khá nhiều thứ trộn
nháo nhào với nhau, gọi là Ca-sa. Ca-sa mang ư nghĩa này. Do vậy,
cơm cũng gọi là Ca-sa, mà y cũng là Ca-sa!
Y
được h́nh thành như thế nào? Quá nửa là từ
những thứ quần áo do người tại gia đă mặc
cũ x́, rách nát, chẳng thể mặc được nữa,
vứt bỏ đi. Người xuất gia nhặt nhạnh
những thứ ấy, cắt bỏ những chỗ rách
đi, gạn lấy những chỗ c̣n tốt, có thể
dùng được bèn cắt thành từng miếng. Quư vị
thấy như tấm y ca-sa này gồm có từng miếng là do nhặt nhạnh
từ nhiều chỗ khác nhau, chằm lại, cắt cho
ngay ngắn, may chằm từng miếng với nhau. V́ thế,
tấm y chẳng phải do một tấm vải may thành, chẳng
phải vậy! Thông thường là khi đi khất thực,
thấy người ta quăng bỏ liền nhặt về,
giặt giũ sạch sẽ. Những thứ y phục
rách rưới ấy, quư vị giặt sạch, phơi
khô, cắt thành từng miếng vuông vức. Do chất
liệu khác nhau, màu sắc khác nhau, sau khi chằm thành một
bức y, sẽ lại đem nhuộm màu, nhuộm thành màu cà-phê. Màu cà-phê là ǵ?
Là do các thứ màu sắc ḥa lẫn với nhau, sẽ chẳng
khó coi.
Do
vậy có thể biết, nghĩa gốc của ca-sa là khá
nhiều thứ khác nhau hỗn hợp lại, đấy gọi
là ca-sa. V́ thế, một bát cơm có mùi vị ca-sa, chua, ngọt,
đắng, cay, mặn đều có. Nhà này thích ăn chua,
nhà kia thích ăn ngọt, tất cả những thứ cúng
dường để lẫn lộn trong một bát.
Người xuất gia mặc quần áo, ăn cơm
đều chẳng phân biệt, chẳng chấp trước.
Đấy gọi là Ứng Lượng Khí, gọi là Ứng
Pháp Khí. Chúng ta hiểu pháp này, Pháp là đa nguyên, chẳng phải
là đơn nguyên. Vũ trụ là đa nguyên. Trong các buổi
giảng, tôi thường nói rơ cùng mọi người. Tuy
thường nói, nhưng người thật sự thấu hiểu, ứng dụng
vào cuộc sống của chính ḿnh chẳng nhiều lắm!
Nhất định là phải có thể ứng dụng vào
cuộc sống, quư vị sẽ tự tại, đạt
được giải thoát! V́ sao quư vị chẳng thể
ứng dụng trong cuộc sống? Chính là v́ quư vị có vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, cho nên Tánh
Đức chẳng thể khởi tác dụng.
Tự
tánh, nếu nói theo kiểu hiện thời, sẽ là “đa nguyên”. Như thân thể
của chúng ta, thân người là đa nguyên. Mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân đều là các khí quan khác nhau. Trong
ấy có ngũ tạng, lục phủ, mỗi khí quan chẳng
giống nhau, có công năng và tác dụng khác nhau, hợp
thành một thân thể. Các khí quan phát huy công năng của
chúng, hợp tác mật thiết với các khí quan khác. Hiện
thời, điều này được gọi là “văn hóa đa nguyên”. Do vậy,
thân thể hài ḥa, vũ trụ là hài ḥa. Nói theo Phật pháp,
vũ trụ là y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp
giới. Mười pháp giới giống như mười
khí quan khác nhau trong thân thể chúng ta. Mắt, tai, mũi,
lưỡi, ngũ tạng, lục phủ là các khí quan bất
đồng, chúng cư xử ḥa thuận, chưa hề gây
rối, tranh chấp. V́ sao chúng nó có thể hài ḥa dường
ấy, hợp tác ngần ấy? Bản thân chúng nó chẳng
có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.
Trong
kinh, đức Phật đă nói rất hay: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức
tướng của Như Lai”. Trí huệ và đức tướng của Như Lai
chính là sanh mạng cộng đồng thể, vốn hài
ḥa, vốn hợp tác, vốn giúp đỡ lẫn nhau. Làm
đến viên măn rốt ráo, chẳng có ǵ khác, chính là ĺa vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước. Do vậy,
tiếp đó, đức Phật nói một câu, v́ sao hết
thảy chúng sanh chẳng thể chứng đắc? “Chỉ v́ vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước mà chẳng thể chứng
đắc”. “Chẳng thể
chứng đắc” là đă phá hoại hài ḥa, chẳng
tương ứng với Tánh Đức. Ứng Khí là
tương ứng. Quư vị xin bát cơm này, do vài nhà cho,
có thể là cơm khác nhau, thức ăn cũng khác nhau,
cùng trộn lẫn với nhau! Giống như đại vũ
trụ và tiểu vũ trụ giống hệt nhau, chỉ
cần chẳng có vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, sẽ vốn sẵn hài ḥa, vốn chẳng
có xung đột.
V́
thế, đấy là “chấp
tŕ ứng khí”, chúng ta tay cầm bát, nắm tích trượng,
bèn dẫn phát đại nguyện vốn sẵn có trong tự
tánh, “đương nguyện
chúng sanh, thành tựu pháp khí, thọ thiên nhân cúng” (nguyện
cho chúng sanh, thành tựu pháp khí, tiếp nhận sự cúng
dường của trời, người). Pháp khí là ǵ? Ở đây “khí” (器, đồ vật để chứa đựng) là từ ngữ h́nh dung, là tỷ dụ có thể tiếp
nhận đại pháp vô thượng của Như Lai. Có loại căn khí ấy th́ được gọi là “pháp khí”, có nghĩa là trọn
đủ điều kiện để tiếp nhận vô
thượng đại pháp của Như Lai, người ấy
có năng lực tiếp nhận. Đấy là hạng
người nào? Nói thật thà, ai nấy đều vốn
là [pháp khí]! Trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật
thường nói: “Hết thảy
chúng sanh đều có Phật Tánh, hết thảy chúng sanh vốn
đă thành Phật”. Cớ sao họ chẳng trở
thành pháp khí? Tuy có Phật Tánh, tuy vốn thành Phật,
nhưng hiện thời đă mê mất
tự tánh. Quư vị là pháp khí, chẳng sai! Nhưng v́ quư vị
mê mất tự tánh, sẽ chẳng tương ứng, [tức
là] chẳng tương ứng với Pháp Tánh. Khởi tâm
động niệm, ngôn ngữ, tạo tác đều trái
nghịch tự tánh. Chư vị phải biết điều
này. Pháp Tánh là tự tánh, đă trái nghịch tự tánh của
quư vị!
Tự
tánh của quư vị chẳng khác tự tánh của hết
thảy Như Lai, trọn đủ vô lượng trí huệ,
vô lượng đức năng, vô lượng tài nghệ,
vô lượng tướng hảo, chẳng có mảy may sai
biệt! Do vậy, đức Phật thấy hết thảy
chúng sanh đều là Phật, đều là Như Lai. Bồ
Tát thấy chúng sanh đều là Bồ Tát, thật vậy,
chẳng giả! Đức Phật đă nói rơ ràng, chỉ
cần chúng ta buông xuống ba thứ chướng ngại,
quư vị sẽ là Như Như Phật, bởi quư vị vốn
là Phật! Ba thứ chướng ngại là ǵ? Vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước. Chúng ta hiểu
pháp khí là ǵ? Buông xuống chấp trước, quư vị là
tiểu pháp khí, có thể trở thành A La Hán. Tuy buông xuống
đôi chút như vậy, quư vị đă có tư cách tiếp
nhận sự cúng dường của trời, người.
Trời người rất tôn kính quư vị, v́ sao? Họ
chẳng buông xuống! Quư vị có thể buông xuống, họ
chẳng thể nào không bội phục quư vị,
vui vẻ tiếp nhận sự giáo huấn của quư vị.
V́ lẽ này, chúng ta nói “phải làm được”, làm được ǵ vậy? Buông xuống!
Chỉ cần buông xuống, thấy thấu suốt sẽ
theo ngay sau đó! Thấy thấu suốt là trí huệ, chấp
trước là phiền năo. Buông xuống phiền năo, trí huệ
liền hiện tiền, trí huệ vốn sẵn có! Giống
như hôm nay trời âm u, từng tầng mây rất dầy
che khuất mặt trời. Các tầng mây là chấp trước.
Trừ khử chấp trước, ánh mặt trời hiện
tiền, chiếu kiến như vậy đấy!
Nói
cách khác, chúng ta cũng hiểu, nếu một phẩm vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước đều chẳng
buông xuống, người ấy chẳng phải là pháp
khí, chẳng thể tiếp nhận Phật pháp. Người
nào vậy? Có thể là chính chúng ta. Bản thân chúng ta hằng
ngày học kinh giáo, hằng ngày niệm Phật, chẳng
buông xuống chấp trước! “Chẳng phải là pháp khí” hoàn toàn không phải là
nói đến những chúng sanh đông đảo ở bên
ngoài đâu nhé, chẳng phải vậy, là chính chúng ta đấy
chứ! Thành tựu pháp khí, đạt được lợi
ích chân thật nơi Phật pháp. Giống như chúng ta
đi khất thực, cơm và thức ăn do người
ta cúng dường được đựng trong bát, chúng ta tiếp
nhận sự cúng dường của trời, người.
Nếu chẳng phải là pháp khí, tuy có bát, mà ôm bát trống
rỗng, chẳng có ai cúng dường. Tỷ dụ này nhằm
nói “khí” (器, vật dụng để đựng ấy) chẳng
đạt được pháp ích, [tức là] quư vị
chẳng đạt được lợi ích nơi Phật
pháp. Lợi ích nơi Phật pháp là ǵ? Phiền năo nhẹ
nhàng, trí huệ tăng trưởng. Nói theo Tam Quy Y, sẽ
là giác chứ không mê; đấy là pháp. Chánh chứ không tà, đấy
là pháp. Tịnh chứ chẳng nhiễm, đấy là pháp.
Chúng ta có đạt được hay không? Trong bát đựng
những thứ ǵ? Đựng “giác,
chánh, tịnh”. Quư vị bèn hiểu “pháp khí” chẳng phải là nói
đến thứ ǵ khác, mà là nói đến cái tâm của chúng
ta. Trong tâm chúng ta có “giác, chánh, tịnh”, giống như trong bát có chứa
thức ăn rất phong phú. Đấy là “thiên nhân cúng dường”.
Trong
tự tánh vốn sẵn có “giác,
chánh, tịnh”, tự nhiên, chẳng phải là do từ
bên ngoài mà có. Hiện thời là ǵ? Hiện thời bị tập
khí phiền năo chướng ngại; tuy có mà chẳng khởi
tác dụng, giống như không có. Chẳng khởi tác dụng,
sẽ chẳng được thọ dụng mảy may.
Trong kinh điển, đức Phật thường xuyên cảm
thán đấy là kẻ đáng thương xót. Nếu quư vị
thật sự chẳng có, sẽ chẳng thể nói quư vị
là kẻ đáng thương xót! Tuy có, mà chẳng biết
dùng; tuy có, chẳng nhận biết! Giống
như trong túi đựng rất nhiều tiền, chính ḿnh
hoàn toàn chẳng biết, lêu bêu chết đói đầu
đường xó chợ, chẳng biết lấy tiền
ra để mua thức ăn, chẳng biết lấy tiền
ra để mua cái mặc. Chẳng có quần áo mặc, chẳng
có cơm ăn, làm kẻ ăn mày ngoài đường, túi rủng
rỉnh tiền, có ư nghĩa như thế đó! Đức
Phật thấy lục đạo chúng sanh ai nấy đều
là như vậy. Phật, Bồ Tát ứng hóa trên thế
gian chẳng có ǵ khác, nhằm nhắc nhở mọi người,
chỉ cần quư vị hiểu, vấn đề ǵ
cũng đều được giải quyết. C̣n cần
người khác giúp đỡ nữa ư? Chẳng cần!
Nói thật thà, Phật cũng chẳng giúp được!
Thảy đều là những thứ chính quư vị vốn
có, hết thảy đều là hiện thành.
Phàm
và thánh sai biệt ở chỗ giác hay mê. Một niệm giác
sẽ là thành tựu pháp khí. Một niệm mê, pháp khí mất
đi. Kẻ nào nghiệp chướng rất nặng, chẳng
có ngộ tánh; nói thật ra, kẻ ấy vốn là pháp khí,
[chỉ v́] mê quá nặng. Ngộ tánh là trí huệ Bát Nhă vốn
sẵn có trong tự tánh; do tập khí phiền năo quá nặng,
trí huệ bị trùm lấp, chẳng thấu lộ mảy
may. V́ thế, cần phải được Phật, Bồ
Tát đến dạy. Phật, Bồ Tát đại từ
đại bi v́ chúng sanh khai thị, chúng sanh sau khi đă tiếp
nhận khai thị mà nếu có thể ngộ nhập;
đấy chính là pháp khí. Tuy Phật, Bồ Tát giảng kinh,
thuyết pháp hằng ngày, nhưng quư vị chẳng giác ngộ,
chẳng thể khế nhập; đấy gọi là “chẳng phải là pháp khí”. V́
thế, phải hiểu rơ ràng, hiểu minh bạch ư
nghĩa của hai chữ Pháp Khí. Nói “là pháp khí” hay nói “chẳng
phải là pháp khí”, nói có, nói không, đều là nói
phương tiện, chẳng phải là chân thật. Chân thật
th́ ai nấy đều là [pháp khí], hết thảy chúng sanh ai
nấy đều trọn đủ! Đấy là nói thật
với quư vị, nhưng xác thực là quư vị đă mê mất.
Do đă mê mất, bèn nói quư vị “chẳng
phải là pháp khí”; đấy là nói phương tiện.
Từ chỗ này, quư vị có thể thấu hiểu nhà Phật
thật sự “từ bi làm gốc,
phương tiện làm cửa”, đại từ đại
bi chẳng bỏ sót một ai, chẳng vứt bỏ một
ai!
Trong
bài kệ được giảng lần trước, tôi
đă có thưa cùng quư vị, đă nêu ra một thí dụ:
Một kẻ nghiệp chướng rất nặng, kẻ
mê đă rất lâu, căn bản là chẳng
thể tiếp nhận Phật pháp, một câu cũng chẳng
nghe lọt tai, cực lực bài xích, có vứt bỏ kẻ
ấy hay chăng? Chẳng vứt bỏ! Vậy th́ dùng
phương pháp ǵ để giúp đỡ kẻ ấy? Thị
hiện h́nh tượng cho kẻ ấy, hắn chẳng
thể không nh́n. Chúng ta niệm một câu Nam-mô A Di Đà Phật,
hắn chẳng thể không nghe! Hắn trông thấy h́nh
tượng Phật, nghe thấy âm thanh danh hiệu của
Phật, Bồ Tát, thậm chí âm thanh của từng chữ
từng câu kinh
đă đọc
lên đều nẩy rễ trong A Lại
Da Thức. Đấy là “một
phen thoảng qua tai, vĩnh viễn trở thành hạt giống
đạo”. Mắt thấy h́nh tượng, vừa
lướt qua mắt, cũng vĩnh viễn là hạt giống đạo.
Đấy là đă gieo thiện căn cho rất nhiều
chúng sanh. Thông thường, bất luận tại gia hay xuất
gia, bất luận nơi chốn nào, bất luận thời
gian nào, tay cầm tràng hạt, Phật hiệu đừng
gián đoạn, đấy chính là phổ độ chúng
sanh. Quư vị đi một ṿng bên ngoài, khiến cho khá nhiều
người trông thấy, dẫu âm thanh của quư vị rất
nhỏ, miệng quư vị mấp máy, họ trông thấy
người ấy đang niệm Phật, biết người
ấy đang niệm Phật, gieo thiện căn trong A Lại
Da Thức, lâu ngày, kẻ ấy sẽ biến thành pháp khí. Do
vậy nói “huân tu lâu dài th́ mới
có thể tiếp nhận”. Chẳng phải là huân tu lâu
dài, do kẻ ấy quên mất đă lâu, sẽ chẳng thể dấy khởi được!
Pháp
tuy là tám vạn bốn ngàn pháp môn, chư vị phải biết
điều này: Đức Phật dùng tám vạn bốn
ngàn pháp môn để độ tám vạn bốn ngàn loại
căn tánh bất đồng. Đức Phật dùng vô
lượng pháp môn để độ vô lượng chúng
sanh căn tánh khác nhau. Đạo lư là như thế đó,
chớ nên không biết điều này. Làm thế nào để có thể giúp chúng sanh thành tựu
trong một đời? Chúng sanh khai ngộ sớm hay trễ,
đắc độ sớm hay muộn, chẳng
có ǵ là nhất định. Chính là như Thiện Đạo
đại sư đă nói rất hay, khiến cho người
nghe chẳng thể không bội phục. Lăo nhân gia nói
như thế nào? “Nói chung là do
gặp duyên khác nhau”, điều này có quan hệ rất
lớn, chúng ta chớ nên không biết.
V́
lẽ này, cớ sao Phật giáo Trung Hoa chia thành nhiều
tông ngần ấy? Trong mỗi tông, lại
chia thành nhiều phái, mỗi phái lại c̣n chia thành tiểu phái, chi
phái. V́ sao? Lập bày phương tiện tiếp dẫn chúng sanh. Cùng một
tông phái, ví như Tịnh Độ Tông, người tu Tịnh
Độ chúng ta có kẻ thích kinh Vô Lượng Thọ, có
người thích kinh A Di Đà. Hai sự ưa thích chẳng
giống nhau, nếu họ ở trong cùng một đạo
tràng sẽ làm phiền nhau, đôi bên đều chẳng thể
thành tựu. Vậy th́ làm như thế nào? Nhất định
là phải lập hai đạo tràng để tách họ ra.
Những kẻ thích kinh Vô Lượng Thọ ở chung một
đạo tràng, những người thích kinh A Di Đà ở
một đạo tràng khác, hết thảy đều thành
tựu. Trong mỗi phái, c̣n có tiểu phái, [chẳng hạn
như] đều là cùng thích kinh A Di Đà, có người
thích Sớ Sao của Liên Tŕ đại sư, có người
thích Yếu Giải của Ngẫu Ích đại sư, lại
không ổn mất rồi! Làm như thế nào đây? Lại
phải dựng đạo tràng khác. Quư vị phải hiểu
đạo lư sau đây, chính là giáo huấn do cổ đại
đức lưu lại, “thâm
nhập một môn, huân tu lâu dài”.
Một
vị thầy, một pháp môn, một phương hướng,
một mục tiêu, dẫn một nhóm người đi
theo một con đường, sẽ dễ thành tựu.
Hai vị thầy là hai con đường, ba vị thầy
là ngă ba, bốn vị thầy là ngă tư, chắc chắn là sẽ nhiễu loạn cái tâm người tu hành! Đấy là tội lỗi, là
phá hoại pháp khí, chẳng phải là thành tựu pháp khí. Thuở
chúng tôi c̣n trẻ, mới học Phật pháp, chẳng hiểu
đạo lư này, mới tới Đài Trung, thấy người
dạy học tại Đài Trung Liên Xă chỉ có một
ḿnh thầy. Pháp sư, cư sĩ, đại đức từ
bên ngoài đến thăm Đài Trung, thầy Lư tiếp
đăi khách hết sức lễ độ, rất chu đáo,
mời dùng cơm, cúng dường, chuẩn bị các món lễ
vật, nhưng không chịu mời họ giảng kinh,
không chịu mời họ khai thị. Chúng tôi trông thấy nhiều lần bèn rất hoang mang, v́ trong những người được
tiếp đăi có rất nhiều vị là pháp sư, đại
đức tu Tịnh Độ. Chúng tôi nghi hoặc, tuy chẳng
dám hỏi, nhưng thầy nh́n ra. Thấy chúng tôi nghi ngờ,
thầy nhất định giải thích. V́ sao? Nghi có thể
chướng đạo! Nếu chẳng giải khai nỗi
nghi, tín tâm sẽ bị chôn vùi.
Có
phải là thầy Lư tâm lượng quá nhỏ, chẳng
thể bao dung người khác ư? Có phải là bản thân thầy
kiêu căng, ngă mạn, tự cho là đúng? Thầy bảo
rơ với chúng tôi đạo lư sau đây: Học tập từ
xưa tới này đều là “thâm
nhập một môn, huân tu lâu dài”. Nói tới chuyện cúng
dường, tiếp đăi, nhất định là phải
hết sức cung kính. Nếu thỉnh họ khai thị một
buổi, những ǵ họ nói chẳng giống với quan
niệm và phương pháp tu hành của chúng ta, những kẻ
sơ học nghe rồi sẽ bị ảnh hưởng,
dao động, nẩy sanh nghi hoặc đối với
pháp môn của chính ḿnh, phiền toái to lớn! Thầy phải
tốn bao nhiêu tinh thần, tốn bao nhiêu thời gian để
có thể giúp mọi người hóa giải ảnh hưởng
ấy? Rất khó khăn! Đấy là hộ pháp. Đấy
là đúng, chẳng sai lầm, bảo vệ mọi người
tu học chẳng bị xen tạp. Quư vị thấy trong
Tây Phương Xác Chỉ, Giác Minh Diệu Hạnh Bồ
Tát đă nói về phương pháp và bí quyết niệm Phật:
“Chẳng hoài nghi, không xen tạp,
không gián đoạn”. Quư vị mời người bên
ngoài đến giảng kinh, thuyết pháp, chỉ sợ xen
tạp, chuyện ấy sẽ là phiền toái. Ở Đài
Trung Liên Xă và Từ Quang Đồ Thư Quán, ngoài thầy
giảng kinh ra, sẽ là các học tṛ giảng kinh. Các học
tṛ ấy đều do thầy dạy dỗ, bất luận
là quan niệm, phương pháp, cảnh giới, tuyệt
đối sẽ chẳng chệch khỏi đường
lối! Hiện thời, chẳng có ai nói đến những
đạo lư này, người biết tới càng ngày càng ít.
Do vậy, hủy báng, hiểu lầm là chuyện chẳng
thể tránh khỏi!
Tôi
thường rời khỏi đạo tràng này; khi rời
khỏi, cớ sao chẳng mời người khác đến
giảng kinh? Nếu quư vị hiểu rơ đạo
lư này th́ sẽ biết. Do vậy, một đạo tràng chánh pháp quyết
định là “thâm nhập một
môn, huân tu lâu dài”, quyết định tiếp nhận sự
chỉ dạy của một vị thiện tri thức, họ
mới có thể thành tựu. Ngạn ngữ có câu: “Ninh động thiên giang thủy,
bất động đạo nhân tâm” (Thà khuấy
nước ngàn sông, chẳng động tâm người tu
hành). Câu này chính là danh ngôn. Chắc chắn là chẳng thể
phá hoại cái tâm thanh tịnh, phương hướng và mục
tiêu của người tu đạo. V́ thế, chúng ta thấy cổ đại đức
thường là nhận lời người khác lễ thỉnh,
đến thăm viếng chỗ nào, người ta nhất
định mời Ngài nói khai thị, chẳng có vấn
đề ǵ, Ngài thật sự thông suốt, hiểu rơ!
Ngài sẽ nói ǵ? Quyết định là tán thán đạo
tràng ấy, tán thán thầy của quư vị, tán thán pháp môn
các vị đang tu học. Điều ấy có ích cho đạo
tràng, khiến cho tín đồ tăng trưởng tín tâm
đối với thầy, càng ưa thích pháp môn mà chính ḿnh
đang tu học, thật sự có lợi ích. Vị ấy
chẳng phá hoại, đến tán thán mà!
Như
năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài,
các vị xem kinh Hoa Nghiêm, mỗi vị thiện tri thức
đều là tự ḿnh khiêm hư, tán thán người khác.
Vị thiện tri thức như vậy có thể thỉnh
nhiều, chỉ có lợi, chẳng có hại. V́ sao? Vị
ấy chẳng phá hoại quư vị. Vị ấy là đại
đức trong Thiền Tông cũng thế, mà là đại
đức Mật Tông cũng thế, tôi thỉnh vị ấy
đến đây khai thị, giảng kinh, thảy đều
tán thán Tịnh Độ, thảy đều tán thán pháp môn
do chúng ta đang tu học trong hiện tại. Đấy
là đúng, đấy là một vị thật sự giác ngộ!
Vị ấy sẽ chẳng nói về pháp môn do chính ḿnh tu học,
sẽ chẳng làm như vậy! Chúng tôi đă nghe thầy
nhắc đến đạo lư này rất nhiều; do vậy,
chúng tôi cũng đến thăm rất nhiều đạo
tràng, cũng có rất nhiều đạo tràng mời chúng
tôi đến giảng kinh, mời chúng tôi đến giảng
khai thị, rất được hoan nghênh. V́ sao? Chúng tôi
hiểu quy củ!
Năm
1977, năm nay là 2006, vừa đúng ba mươi năm,
ba mươi năm trước, lần đầu tôi
đến Hương Cảng giảng kinh, giảng kinh
Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm. Chúng ta
học Tŕ Danh Niệm Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại
Thế Chí Bồ Tát là hai vị đại biểu trọng
yếu trong kinh Lăng Nghiêm. Khi ấy, có người
tưởng kinh Lăng Nghiêm là Thiền Tông, là Mật Tông,
có quan hệ ǵ với Tịnh Độ? Một vị pháp
sư Nhật Bản, ông ta c̣n là giáo sư đại học,
đă đặt câu hỏi này với tôi. Do vậy, tôi bảo
ông ta: “Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại
Thế Chí Bồ Tát có quan hệ ǵ với Tịnh Độ?”
Ông ta chẳng nói ǵ được nữa! Tinh hoa trong hai
mươi lăm pháp Viên Thông là [pháp Viên Thông] của hai vị
Bồ Tát ấy. Quán Âm đại biểu Nhĩ Căn Viên
Thông Chương, Đại Thế Chí Bồ Tát là Niệm
Phật Viên Thông Chương.
Năm
đó, tôi giảng kinh ở Hương Cảng, ở lại
một thời gian dài, ở suốt bốn tháng. Pháp sư Thánh Nhất
thường đến nghe, nghe rất hoan hỷ, mời
tôi đến Đại Dự Sơn. Khi ấy, Ngài là trụ
tŕ chùa Bảo Lâm, ở phía sau chùa Bảo Liên. Tôi đến
bái phỏng Ngài, Ngài thuộc đạo tràng Thiền Tông, mời
tôi dùng cơm. Sau khi ăn uống xong, Ngài mời tôi đến
Thiền Đường giảng khai thị. Tôi thấy
trong Thiền Đường có hơn bốn mươi vị
xuất gia đang tham Thiền tại đó, rất khó có!
Tôi giảng Lục Tổ Đàn Kinh, giảng cho họ mấy
đoạn trọng yếu trong Đàn Kinh, tán thán Thiền
Tông, tán thán sự tham cứu của họ, tán thán pháp sư Thánh Nhất, tán thán đạo
tràng. Khi trở về, có mấy vị đồng tu liên hữu
đă theo tôi đi, khi đi đường, họ bèn hỏi tôi:
“Thưa pháp sư Tịnh Không! Hôm nay thầy tán thán Thiền
như vậy, v́ sao thầy không học Thiền? Cớ sao thầy niệm
Phật?” Các đồng tu hỏi ngay lập tức! Là v́ họ
chẳng hiểu quy củ! Người ta học Thiền,
[ta đến đó], nhất định là sẽ tán thán Thiền.
Người ta học Mật, nhất định là tán thán
Mật. Người ta học Thiên Thai, nhất định
tán thán Thiên Thai. Đấy là quy củ, chẳng phá hoại
đạo tràng. Cổ nhân nói rất hay: “Muốn cho Phật pháp hưng thịnh, chỉ có
Tăng khen ngợi Tăng”, đôi bên tán thán lẫn nhau,
Phật pháp mới hưng vượng. Nếu khen ḿnh, chê
người, chắc chắn là Phật giáo sẽ suy vi. Phải
tán thán lẫn nhau, phải hiểu đạo lư này. Đấy
chính là mong giúp cho người khác thành tựu pháp khí!
Những
người đó là pháp khí Thiền Tông, những người
này là pháp khí niệm Phật, những người kia là pháp
khí của Giáo Hạ, khác nhau! Hăy hằng thuận chúng sanh, tùy
hỷ công đức, đều chớ nên phá hoại. Vô
lượng pháp môn do đức Phật truyền lại, [đều có cùng] một vị
thầy, làm sao có thể hủy báng cho
được? Chớ nên không biết đạo lư này! Căn
tánh của chúng ta không giống nhau. Căn tánh của người
ấy có thể tham Thiền, căn tánh của tôi không thể
tham Thiền, tôi không bằng người ấy, Thiền dành cho bậc
thượng thượng căn thành tựu. Pháp môn này của
chúng ta chính là “thích hợp khắp
ba căn, thâu tóm toàn bộ lợi căn và độn
căn”. Chúng ta là những kẻ căn tánh trung hạ,
tu pháp môn này sẽ có lợi ích. Nói theo phía chúng ta, pháp môn kia
quá cao, ta tôn kính, ngưỡng mộ, tán thán, [nhưng không
tu pháp môn ấy]. Quư vị hiểu đạo lư này, sẽ
được trọn khắp tất cả các tông phái
đều hoan nghênh. V́ sao? Quư vị đến đâu cũng
là đều đến giúp đỡ, chẳng phải là
kẻ ngáng chân, chẳng phải là đến phá hoại. Chúng
ta nói điều này là “thành tựu
pháp khí”, quư vị mới được trời người
cúng dường. Ư nghĩa biểu thị pháp ở đây rất
sâu, chúng ta phải chú tâm thấu hiểu. “Thành tựu pháp khí” ở đây là tiếp nhận
giáo huấn của chư Phật, Bồ Tát. Quư vị có thể
tiếp nhận, trống ḷng tiếp nhận giáo huấn.
A! Nay đă hết thời gian rồi! Chúng ta nghỉ
ngơi mấy phút!
***
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem tiếp bài kệ tụng thứ ba:
(Kinh)
Phát chỉ hướng đạo, đương nguyện
chúng sanh, thú Phật sở hành, nhập vô y xứ.
(經)發趾向道。當願眾生。趣佛所行。入無依處。
(Kinh: Cất bước lên đường, nguyện
cho chúng sanh, hành theo hạnh Phật, nhập chỗ vô y).
Bài
kệ này nói đến chuyện ra đi. Hai bài kệ
trước là cầm tích trượng, ôm bát, bài kệ này
là lúc sắp lên đường, sắp xuất phát. Từ
những việc nhỏ nhặt trong cuộc sống hằng
ngày, từ những việc nhỏ nhặt mà dẫn phát
đại nguyện, phát nguyện hằng ngày. Phật, Bồ
Tát dạy chúng ta, Tam Quy Y cũng thuộc trong một
trăm bốn mươi mốt nguyện này, trong phần
trước, chúng ta đă đọc rồi đó. Quư vị
thấy khóa sáng mỗi ngày chúng ta có Tam Quy Y, khóa tối
cũng có Tam Quy Y. Thông thường là trong những Phật
sự, khi kết thúc đều có Tam Quy Y, mỗi ngày đều
phát. Chúng ta nghĩ nguyện của đức Phật và các vị đại Bồ Tát
đều là niệm niệm
chẳng gián đoạn, chúng ta thường
nghe nói “không hoài nghi, không xen tạp,
không gián đoạn”. Từ những chỗ này, quư vị
có thể thấu hiểu sâu xa “niệm
niệm không gián đoạn”.
Đi
khất thực th́ phải đi bộ. Trong cuộc sống
hằng ngày, ta đi lại rất nhiều. Người
niệm Phật mỗi ngày kinh hành nhiễu Phật cũng
là “phát chỉ hướng
đạo” (cất bước lên đường), có cần
phát ra nguyện này hay không? Cần chứ! Đối với
nguyện của chúng ta, phải hiểu v́ sao thường
nói là chẳng thể phát nguyện được? Nguyên
nhân khiến cho nguyện chẳng phát ra được
chính là v́ thường xuyên gián đoạn. Chẳng thể
không gián đoạn, mà cũng chẳng thể không xen tạp,
đối với “chẳng hoài nghi” vẫn là có vấn
đề! V́ lẽ ấy, nguyện làm sao có
thể khởi tác dụng cho nổi? Các vị Bồ Tát
phát nguyện, nguyện nào cũng đều là vô lượng
hoằng nguyện, vô tận bi nguyện, đều là chẳng
có hoài nghi, chẳng có xen tạp, chẳng có gián đoạn.
V́ thế, các Ngài có thể thành tựu đại hạnh, đại đức, đại quả của Như
Lai. V́ sao chúng ta chẳng thể thành tựu? Chuyện này hễ
suy nghĩ sẽ biết ngay! Trong mười hai thời, cuộc
sống của chúng ta tùy thuận phiền năo, tùy thuận
tập khí, chẳng tùy thuận Phật pháp. Phật pháp là
tự tánh. Chẳng tùy thuận Phật pháp tức là chẳng
tùy thuận tự tánh, chẳng phát huy rạng rỡ Tánh
Đức. Hằng ngày toàn là phát ra phiền năo tập khí. Điều
này đă chỉ rơ v́ sao chúng ta tu hành, vận
dụng bất cứ công phu nào, cũng đều chẳng
đắc lực; đă t́m được nguyên nhân khiến
cho [công phu] không đắc lực. T́m ra nguyên nhân chính là khai ngộ,
hiểu rơ. Bồ Tát sau khi đă ngộ bèn bắt đầu
tu. Chúng ta sau khi giác ngộ bèn như thế nào? Có thể sửa
đổi thói hư, tập khí hay chăng? Điều này
hết sức trọng yếu! Nếu chẳng thể sửa
đổi, chớp mắt lại mê, thường xuyên sống
trong mê hoặc, suốt một đời này chẳng thể
thành tựu. Đời này chẳng thể thành tựu,
chính ḿnh phải biết là chắc chắn sẽ đọa
lạc, chắc chắn sẽ tạo nghiệp. Đọa
lạc đến chỗ nào? Tuyệt đại đa số
là tam đồ, những kẻ có thể được
làm thân người quá ít!
Trong
kinh giáo, đức Phật thường dạy chúng ta: Có
thể hành Ngũ Giới Thập Thiện đến một
chuẩn mực kha khá th́ mới có thể chẳng mất
thân người, đời sau vẫn sanh trong loài người.
Quư vị hăy ngẫm xem, đă làm Thập Thiện Nghiệp
Đạo được mấy phần? Quư vị lại
có năng lực thực hiện Tam Quy Ngũ Giới mấy
phần? Chẳng cần hỏi ai khác, chuyện này phải
hỏi chính ḿnh. Hỏi kẻ khác, người khác sẽ
ca tụng quư vị, chẳng nói thật ḷng. Hỏi chính
ḿnh, [sẽ biết] rành mạch, rơ ràng. Từ khởi
tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, từ một
trăm bốn mươi mốt nguyện như quư vị
vừa thấy, đó là Bồ Tát ǵ vậy? Đấy là
Pháp Thân Bồ Tát, chúng ta thật sự bội phục, chẳng
bàn căi chi nữa. Từ chỗ này, nh́n ra khởi tâm động
niệm, ngôn ngữ, tạo tác của người ta, niệm
nào cũng đều
đặt nơi đạo Bồ
Đề. Thật vậy, mỗi giây, mỗi phút đều
chẳng luống uổng, lẽ nào chẳng khiến cho kẻ
khác bội phục? Nói “một
phút, một giây” chính là cảnh giới của bọn
phàm phu chúng ta, trong cảnh giới của bậc giác ngộ,
Ngài biết từng sát-na, chẳng luống uổng một niệm nào; đó là bậc đại triệt đại
ngộ. Kinh đă dạy: “Trong
một sát-na có chín trăm lần sanh diệt, mỗi sanh diệt
là một niệm”. Niệm nào cũng đều chẳng
trái nghịch tự tánh.
V́
thế, chỉ cần quư vị cất bước, Bồ
Tát bèn nguyện cho chúng sanh “thú
Phật sở hành” (hướng theo những điều
Phật đă hành). Đức Phật đă hành những
ǵ? Chớ nên không biết chuyện này. Những điều
đức Phật đă hành chính là giới luật. Các vị
tổ sư đại đức từ xưa đă
thường dạy chúng ta: “Thiền
là Phật tâm, Giáo là Phật ngôn, Giới là Phật hạnh”.
Nhất cử nhất động của đức Phật,
hành vi của Ngài được ghi chép lại thành giới
luật. Ngôn ngữ của Phật được ghi chép
thành kinh giáo. Phật tâm là Thiền. Tuy một mà ba, tuy ba mà
một, chúng là một Thể. Chúng ta muốn học Phật,
phải học từ nơi đâu? Điều này phải
nói theo căn tánh, bậc thượng thượng căn học
Thiền, Phật tâm, tâm là Phật tâm. Quư vị hăy ngẫm
xem lời nói của chính ḿnh có phải là Phật ngôn hay chăng? Hạnh
của quư vị có phải là Phật hạnh hay chăng?
Đương nhiên “đúng là”
th́ sẽ [thành tựu] mau chóng lắm! Bậc thượng
thượng căn mà! Nhưng bậc thượng thượng
căn đúng là “lông phượng,
sừng lân” trong loài người, quá hiếm hoi, quá ít ỏi!
Trong Thiền Tông Trung Hoa, đối tượng tiếp dẫn
của Lục Tổ Huệ Năng đại sư là hàng
thượng thượng căn, chẳng phải là kẻ
thượng căn, mà là bậc thượng thượng
căn! Người thượng căn do ai tiếp dẫn?
Thần Tú đại sư tiếp dẫn. Hai vị ấy
chính là sư huynh, sư đệ. Thần Tú đại
sư tiếp dẫn bậc thượng căn, Huệ
Năng đại sư tiếp dẫn bậc thượng
thượng căn. Tông Môn là như thế, mà Giáo Hạ
cũng chẳng phải là ngoại lệ; cho đến Tịnh
Độ Tông cũng chẳng phải là ngoại lệ.
Bậc
thượng thượng căn trong Tịnh Độ
Tông đắc Lư nhất tâm bất loạn, cùng một tầng
cấp với bậc đại triệt đại ngộ
trong Tông Môn và bậc đại khai viên giải trong Giáo Hạ,
chỉ là phương pháp tu học khác nhau, chứ cảnh
giới giống nhau. Nói theo Tịnh Độ, sẽ là “sanh trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm”.
Người căn tánh bậc trung, hoặc như chúng ta
nói là “bậc thượng
đẳng”, bậc thượng thượng căn sẽ
thuộc vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm, thượng đẳng
là cơi Phương Tiện Hữu Dư. Đấy là bậc
thượng căn. Kẻ trung hạ căn sẽ là cơi
Phàm Thánh Đồng Cư. Trong các pháp môn khác, chúng ta nói là “tám vạn bốn ngàn pháp môn”,
trong những pháp môn thông thường, kẻ căn tánh trung
hạ sẽ chẳng thể thành tựu trong một đời
này! V́ sao? Chẳng đoạn tập khí phiền năo. Ví
như nói đến Thập Ác th́ thân là giết, trộm,
dâm, miệng là nói dối, nói đôi chiều, nói thêu dệt,
ác khẩu, ư th́ tham, sân, si, chẳng đoạn [Thập Ác]. Chẳng đoạn, sẽ không thoát khỏi lục
đạo, chẳng thể văng sanh. Do vậy, kẻ
căn tánh trung hạ tu hành th́ quả báo ở chỗ nào?
Quả báo thuộc trong nhân thiên. Tu tốt đẹp sẽ
là thiên đạo, kém cỏi hơn sẽ là nhân đạo;
kẻ trung hạ căn [là như thế đó]!
Nhưng
trong Tịnh Độ th́ chiếm tiện nghi; do vậy, Tịnh
Độ chẳng thù thắng do hai cơi trên, mà là trong cơi Phàm
Thánh Đồng Cư. V́ thế, quá thù thắng.
Đới nghiệp văng sanh mà! Quư vị chẳng đoạn
tập khí phiền năo, có thể mang theo. Nhưng phải biết,
đối với nghiệp mang theo, cổ đại đức
thường nói “đới cựu
nghiệp, bất đới tân nghiệp” (mang theo nghiệp
cũ, chẳng mang theo nghiệp mới). “Cựu nghiệp” là ǵ? Đă tạo trong quá khứ
th́ có thể mang theo, “tân nghiệp”
là ǵ? Tạo ngay trong hiện tại th́ không được.
Nói cách khác, hiện tiền chẳng thể tạo nghiệp.
Lại nói minh bạch hơn đôi chút cùng quư vị. Nghiệp
đă tạo ngày hôm qua th́ có thể mang theo, nghiệp tạo
trong hôm nay sẽ chẳng mang theo được! Ta hôm nay vẫn
tạo nghiệp, hôm nay sẽ chẳng thể văng sanh. Ngày
hôm qua tạo nghiệp, ngày hôm trước tạo nghiệp,
xem như cựu nghiệp, có thể mang theo, chứ hôm nay
chẳng thể tạo. Tạo trong ngày hôm nay th́ như thế
nào? Được rồi! Chờ đến ngày mai! Ngày
mai lại tạo, ngày nào chẳng tạo, thọ mạng của
quư vị đă đến, sẽ có thể văng sanh trong ngày
hôm ấy. Do vậy, sợ nhất là ǵ? Nhằm ngày thọ
mạng đă tới mà vẫn c̣n tạo, vậy là chẳng
có cách chi hết, sẽ là kết pháp duyên với A Di Đà
Phật và thế giới Cực Lạc, đời này chẳng
thể văng sanh!
Nếu
quư vị hỏi tôi: “Khi nào sẽ có thể văng sanh?” Tôi sẽ
trả lời: “Khi nào chẳng tạo nghiệp sẽ văng
sanh”. Khi nào chẳng tạo nghiệp, quư vị có nguyện
lực, có tín nguyện, sẽ có thể văng sanh bất cứ
lúc nào. Do vậy, nhà Phật thường nói là “sanh tử tự tại”. Nói
thật ra, sanh tử tự tại chẳng có ǵ là lỗi
lạc! Ai nấy đều có thể làm được.
Làm không được là v́ đâu? Chính là do quư vị chẳng
chịu làm! Nếu quư vị chịu làm, chẳng có một
ai không làm được! Chúng ta xem Tịnh Độ Thánh
Hiền Lục, xem Văng Sanh Truyện, [sẽ thấy có] rất
nhiều người thời gian niệm Phật hoàn toàn chẳng dài, đa số là ba năm, mà cũng chẳng
ngoài năm năm bèn thành công, họ có thể văng sanh.
Tôi
gặp rất nhiều đồng tu hỏi tôi về chuyện
này: “Có phải là những người
ấy niệm Phật ba năm hoặc năm năm, do thọ
mạng đă hết bèn ra đi?” Tôi giải đáp, bảo
họ chẳng thể là như vậy! Há có chuyện xảo
hợp như thế ư? V́ chẳng phải là một số
ít mà là đa số, há có chuyện xảo hợp như vậy
ư? Hăy nên giải thích như thế nào th́ mới là hợp
lư? Chính là v́ người ấy niệm Phật từ ba
năm đến năm năm bèn đạt đến công
phu thành phiến. Công phu thành phiến là ǵ? Có nghĩa là phiền
năo tập khí chẳng dấy lên hiện hành, chúng ta thường
nói là “tâm b́nh khí ḥa”. Chẳng
đoạn phiền năo, nhưng một câu Phật hiệu
đă có thể khống chế phiền năo. Thấy chuyện chẳng
như ư, vốn muốn nổi ba máu sáu cơn, chẳng vui
ḷng, bèn “A Di Đà Phật”
để áp chế. Thấy chuyện xứng tâm vừa ư, dấy ḷng
tham ái, [bèn niệm] “A Di Đà
Phật”. Xác thực là có thể chế phục giết,
trộm, dâm, dối, tham, sân, si, mạn; trong cuộc sống
hằng ngày, vĩnh viễn ǵn giữ tâm b́nh khí ḥa. Người
ấy tin sâu, nguyện thiết, thọ mạng hăy c̣n
nhưng chẳng cần, “ta mong ra đi sớm”. Được
rồi, người ấy văng sanh! Do vậy, chúng ta đọc
Văng Sanh Truyện, đọc Tịnh Độ Thánh Hiền
Lục, phải hiểu chân tướng sự thật này.
Họ đă có năng lực ấy, chẳng cần thọ
mạng, đấy mới là hợp lư, mới nói xuôi tai
được!
Bởi
lẽ, những tấm gương như vậy rất
nhiều, được ghi chép trong khá nhiều sách vở.
Đời Tống, pháp sư Oánh Kha là một vị xuất
gia phá giới. Bất quá vị này c̣n có ưu điểm,
ưu điểm ǵ vậy? Sư tin tưởng nhân quả
báo ứng. Bản thân sư tập khí quá nặng, thường
xuyên phá giới, chính ḿnh ngẫm lại những điều
kinh giáo thường dạy, khẳng định [chính ḿnh] sẽ đọa
địa ngục. Nghĩ tới địa ngục, sư
kinh hoàng, sợ hăi; hỏi các đồng tham đạo hữu: “Có phương pháp ǵ giúp tôi chẳng đọa địa
ngục hay không?” Các đồng học cũng rất khó
có, tặng sư một quyển Văng Sanh Truyện. Sư xem
xong, rất cảm động, đóng chặt cửa
pḥng, chẳng ăn cơm, chẳng ngủ nghê, nhất tâm
chuyên niệm A Di Đà Phật. Niệm suốt ba ngày ba
đêm, thật sự niệm cảm A Di Đà Phật hiện
đến. Đức Phật bảo sư: “Thọ mạng
(dương thọ) của ông hăy c̣n mười năm. Ông
hăy khéo tu hành, đến lúc hết tuổi thọ, ta sẽ
đến tiếp dẫn ông”. Pháp sư Oánh Kha suy nghĩ,
“không được đâu!” Sư thưa: “Tập khí của
con quá nặng, chẳng thể chống nổi sự dụ
dỗ, mê hoặc. Mười năm ấy chẳng
biết là con sẽ lại tạo bao nhiêu tội nghiệp.
Chẳng cần nữa, nay con đi theo Phật”. A Di Đà
Phật chấp thuận: “Được! Ba ngày sau ta sẽ
đến tiếp dẫn ông”. Sư hết sức hoan hỷ,
ba ngày sau, quả nhiên Phật đến tiếp dẫn.
Điều
này nói rơ chuyện ǵ? Thọ mạng có thể không cần,
có thể ra đi trước! Do vậy, chúng ta hiểu
đạo lư này, những người niệm Phật ba
năm văng sanh trong Văng Sanh Truyện đại khái đều
thuộc về t́nh h́nh ấy, niệm Phật thấy Phật.
Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương
đă nói rất hay: “Hiện tiền,
tương lai, nhất định thấy Phật”.
Như Oánh Kha thấy A Di Đà Phật là hiện tiền, khi
đức Phật đến tiếp dẫn là hiện tiền;
trong tương lai văng sanh thế giới Cực Lạc,
đó là thường ở cùng một chỗ với đức
Phật. Lời này chẳng giả, mỗi người
văng sanh đều là hiện tiền thấy Phật, đều
là Phật đến tiếp dẫn, thật sự văng
sanh. Do vậy, điều kiện văng sanh đầu tiên là
quư vị có thể khống chế tập khí phiền năo bằng
một câu Phật hiệu, điều ǵ ta cũng chẳng
cần, đều buông xuống. Hoan hỷ cũng buông xuống,
phiền năo buông xuống, sân hận buông xuống, chuyện
nh́n ngứa mắt đều buông xuống, toàn bộ đều
buông xuống. Tôi thường nói là “giữ ǵn tâm b́nh khí ḥa”, như thế th́ sẽ
giữ lấy Tây Phương Cực Lạc thế giới
chẳng khó! Muốn ra đi khi nào bèn đi khi đó, muốn
ở thêm mấy năm cũng chẳng trở ngại!
Nhưng
người thuộc về trạng huống ấy ra
đi đông lắm, người ở lại ví dụ
như sống thêm mấy năm nữa, [chỉ là] thiểu
số. Đó là những ai? Giúp đỡ chúng sanh. C̣n có những
chúng sanh hữu duyên [mà
ta] có thể giúp đỡ, ta bèn sống
thêm mấy năm nữa! Nếu chẳng có duyên phận ấy,
chúng sanh chẳng tin tưởng quư vị, chính ḿnh bèn ra
đi trước. Đă đi rồi, sau này quay lại, thừa
nguyện tái lai. Thấy khi nào duyên của chúng sanh
chín muồi, quư vị tự nhiên sẽ đến. Chúng
sanh có cảm, quư vị sẽ ứng. Cảm ứng đạo
giao mà! Chẳng có duyên phận ấy, há lẽ nào không đi?
Duyên phận là ǵ? Duyên phận là chúng sanh tôn trọng, kính
yêu, thích nghe lời quư vị, có thể tiếp nhận sự
giáo huấn của quư vị. Quư vị dạy họ, họ
có thể y giáo phụng hành. Đấy là duyên chín muồi.
Nếu họ chẳng tôn trọng, chẳng tin tưởng
quư vị, dẫu quư vị dạy, tuy họ nghe, cũng chẳng có cách nào làm theo. Đấy là duyên chẳng chín
muồi! Duyên chẳng chín muồi, ở lại thế gian
này, chẳng có lợi ích ǵ! Trong trạng huống ấy,
chắc chắn là văng sanh trước đă, chẳng cần
chờ hết thọ mạng, cứ ra đi trước.
Loại người
này rất nhiều!
Văng
sanh thế giới Cực Lạc đúng là đắc đại
tự tại, giống như Phật, Bồ Tát, “ngàn xứ nguyện cầu, ngàn
xứ ứng”. Hễ đến thế giới Cực
Lạc, bèn có năng lực ấy. Tới thế giới
Cực Lạc, dẫu là cơi Phàm Thánh Đồng Cư
cũng chẳng phải là ngoại lệ. Từ kinh điển,
chúng ta thấy điều này. Đại chúng trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới, ngoại trừ
Bổn Sư A Di Đà Phật thuyết pháp, giáo huấn
ra, gần như là hằng ngày đều đi tham phỏng.
Kinh dạy: “Đi tham phỏng
mười vạn ức Phật”. Tổ sư đại
đức đă chú giải rất tuyệt, v́ sao nói là “mười vạn ức”? Thế
giới Sa Bà cách thế giới Cực Lạc mười
vạn ức cơi Phật, nói từ chỗ này. Có nghĩa là
quư vị đến thế giới Cực Lạc, hằng
ngày có thể trở lại Sa Bà, đến tham phỏng Thích
Ca Mâu Ni Phật và Di Lặc Phật trong thế giới Sa Bà, có ư nghĩa này. Nói rơ: Đă tới Tây Phương Cực
Lạc thế giới, muốn về thăm Sa Bà rất dễ
dàng, hằng ngày đều có thể quay về!
Trên
thực tế th́ sao? Trên thực tế là đến viếng
thăm vô lượng vô số vô tận chư Phật
Như Lai trọn pháp giới khắp hư không giới. Đi
bằng cách nào? Hóa thân! Từ trong kinh, chúng ta thường niệm: “Thiên bách ức hóa thân Thích Ca Mâu
Ni Phật” (Thích Ca Mâu Ni Phật có trăm ngàn ức hóa
thân), hóa thân để đi, đồng thời đi.
Đấy mới là mầu nhiệm! Nếu đến
thăm từng vị Phật một, sẽ phải tốn
bao nhiêu thời gian? Đồng thời! Do đó, nếu
quư vị đă biết trạng huống thực tế, lẽ
nào quư vị chẳng đi! Há có đạo lư ấy! Trừ
phi chính ḿnh chẳng có năng lực nên không đi
được. Thật sự là nghiệp chướng quá
nặng, chẳng có cách nào cả! Do vậy, phải buông xuống
nghiệp chướng, đừng cơng nó trên thân. Cơng trên thân
sẽ rất phiền toái, sẽ chẳng ra đi
được. Gánh nặng của quư vị quá nặng nề!
Dỡ toàn bộ gánh nặng trên lưng quư vị xuống,
duyên sẽ chín muồi. V́ thế, điều ǵ cũng chớ
nên cần, điều ǵ cũng chớ nên có! V́ sao? Nếu
c̣n có, tức là tâm quư vị hăy c̣n vướng mắc. Tiếng
tăm, lợi dưỡng cũng chẳng thể có. Hễ
có, tức là c̣n có vướng mắc, c̣n có cái phải chăm chút, lo toan. Như vậy th́ sẽ chẳng văng sanh
được! Tây Phương Tịnh Độ, “tâm tịnh, ắt cơi Phật tịnh”,
tự nhiên cảm ứng đạo giao. Tâm chúng ta chẳng
thanh tịnh, c̣n có ưu lự, c̣n có vướng mắc. V́
thế, chẳng có cảm ứng.
Trong
cuộc sống hằng ngày, tức là nói đến hiện
tiền, phải học bố thí, hoan hỷ bố thí. Bố
thí là ǵ? Buông xuống! Bất luận thứ ǵ, chẳng có
ǵ không buông xuống được! Phải hiểu đạo
lư này, phải thực hiện! Thứ ǵ cũng đều
có thể bỏ, thứ ǵ cũng đều buông xuống,
sẽ chẳng có vướng mắc, chẳng có nghi lự,
[hành theo] sở hành của Phật sẽ chẳng khó, thuần
tịnh, thuần thiện. Buông xuống Thập Ác, tự
nhiên là Thập Thiện. Buông “mê, tà, nhiễm” xuống, tự
nhiên là “giác, chánh, tịnh”. Giác, chánh, tịnh là Tánh Đức,
Thập Thiện là Tánh Đức; đấy là sở hành
của Phật, chúng ta phải học từ chỗ này.
Mấy
năm gần đây
nhất, chúng tôi đề xướng
Đệ Tử Quy, tương ứng với Tánh Đức,
mỗi điều đều phải làm được. Tôi
xem kỹ toàn văn [Đệ Tử Quy], có tất cả
một trăm mười ba chuyện, tức là một
trăm mười ba điều, không nhiều lắm! Thực
hiện một trăm phần trăm. Đối với khởi
tâm động niệm, cuộc sống, công việc,
đăi người tiếp vật, [Đệ Tử Quy]
đều có nói, nhất định phải tuân thủ. Tuân
thủ là tùy thuận Tánh Đức. Trước hết,
hăy khéo học thứ này, thực hiện một trăm phần
trăm, tối thiểu là thực hiện trong một
năm, sau đấy học Thập Thiện Nghiệp. Thập
Thiện Nghiệp chính là sở hành của Phật. Thưa
cùng quư vị, Đệ Tử Quy nói về sở hành của
thánh nhân thế gian, là sở hành của thánh hiền thế
gian. Thập Thiện Nghiệp là sở hành xuất thế
gian của Phật, Bồ Tát, [đă có cơ sở Đệ Tử Quy] chúng ta học tập, thực hiện [Thập Thiện Nghiệp] chẳng khó khăn. Quư vị có Đệ Tử Quy làm
cơ sở, có cơ sở thế pháp (pháp thế gian), học
Phật sẽ chẳng khó! Chẳng có cơ sở thiện
pháp thế gian, đúng là sẽ chẳng vào được
cửa Phật pháp! Học Phật suốt mấy chục năm, vẫn
chẳng thể nhập môn, chính chúng ta phải thừa nhận
điều này!
V́
sao nói chẳng thể vào
được cửa? Phiền
năo chẳng ít đi, trí huệ chẳng
tăng trưởng, vọng niệm vẫn nhiều ngần
ấy, thậm chí mỗi năm một nhiều hơn!
Đó là chẳng tương ứng. Niệm Phật kiểu đó, sẽ chẳng thể văng sanh! Dẫu niệm tốt đẹp đến mấy đi nữa,
chỉ là kết pháp duyên với Tịnh Tông, gieo các chủng
tử trong A Lại Da Thức, đợi đến đời
sau, kiếp sau, lại được làm thân người,
lại gặp gỡ Phật pháp, sẽ tiếp tục tu
hành, chứ đời này chẳng thể thành tựu! Muốn thành tựu trong đời này, quư vị nhất
định phải triệt để buông xuống. Buông
xuống là lợi ích, buông xuống là chuyện tốt. Nếu
quư vị chẳng chịu buông xuống những lợi ích
nhỏ nhặt trước mắt, sẽ bị thua thiệt
to lớn! Quư vị mong sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới, lợi ích ấy to cỡ nào? Đúng
như Văn Thù Bồ Tát đă nói: “Hoạch nhất thiết thắng diệu công đức”
(Đạt được hết thảy các công đức thù thắng, nhiệm mầu). “Thắng” (勝) là thù thắng, thù thắng khôn sánh, vi diệu khôn
sánh. Đời này chúng ta đă gặp gỡ, ở ngay
trước mặt mà bỏ lỡ, quư vị nói có đáng
tiếc quá [hay không]!
V́
thế, có thể hành theo sở hành của Phật, mục
tiêu chung cực là “nhập vô y
xứ”. “Vô y xứ” là ǵ? Minh tâm kiến tánh, kiến tánh
thành Phật. Chư vị phải biết, thật sự “vô y” là tự tánh. Ngay cả
vũ trụ có “y” (依, nương tựa) hay không? Có chứ! Nó y vào ǵ? “Duy tâm sở hiện”. Nếu
ĺa khỏi cái tâm năng hiện, nó sẽ chẳng có. “Duy thức sở biến”. V́
thế, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới
có nương tựa, nương tựa vào tánh,
nương tựa vào thức. Thức vẫn phải
nương tựa, thức
nương vào tánh. Do tánh mê mới
biến thành thức. Thật sự vô y là tự tánh, có thể
sanh ra vạn pháp, có thể hiện y báo và chánh báo trang nghiêm
của mười pháp giới, nó có thể sanh, có thể
hiện. Nó bất sanh, bất diệt, là chân thường.
Đấy chính là “diện mạo
vốn sẵn có trước khi được cha mẹ
sanh ra” như trong Thiền Tông đă nói. Ở đây nói
là “vô y xứ”.
“Nhập vô y xứ” là cảnh
giới ǵ? Đương nhiên là cảnh giới này chẳng
thể diễn tả được. Cảnh giới này
được nói đến ở
cuối kinh Hoa Nghiêm, mệnh danh là “bất tư nghị
giải thoát cảnh giới” (cảnh giới giải
thoát chẳng thể nghĩ bàn). Quư vị thấy Phổ Hiền Hạnh
Nguyện Phẩm, đấy chính là đề mục của
bộ kinh [Hoa Nghiêm] bốn mươi quyển. Kinh có tựa
đề là Đại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm Kinh, đấy là tựa đề của kinh. Dưới
đó là tên gọi của phẩm, Nhập Bất Tư Nghị
Giải Thoát Cảnh Giới, tức là “nhập vô y xứ”. Phổ Hiền Hạnh Nguyện
Phẩm: Phổ Hiền Hạnh Nguyện là năng nhập,
Bất Tư Nghị Giải Thoát Cảnh Giới là sở
nhập. Nay đối với hai câu ở chỗ này, “thú Phật sở hành” (hướng
theo sở hành của Phật) là năng nhập, “vô y xứ” (chỗ không nương
dựa) là sở nhập. Vô y xứ là Nhất Chân pháp giới,
thế giới Hoa Tạng là vô y xứ, thế giới Cực
Lạc là vô y xứ. Quư vị chẳng hành theo sở hành của
Phật th́ làm sao được?
Hành
theo sở hành của Phật bằng cách thực hiện từ
Thập Thiện Nghiệp. Thập Thiện Nghiệp gồm
mười khoa mục. Đề mục của mỗi
khoa mục có nghĩa lư chẳng cùng tận, sâu rộng chẳng
cùng tận, cảnh giới chẳng cùng tận, v́ sao? Nó
thông với vô y xứ. Chúng ta mới học, học rất
nông cạn, chẳng đủ độ sâu, nhưng khẳng
định là có thọ dụng. Chẳng buông xuống vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, quư vị tu
Thập Thiện Nghiệp, quả báo là nhân thiên. Nếu quư
vị có thể buông xuống chấp trước đối
với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế
gian, tu Thập Thiện Nghiệp sẽ có thể chứng
quả A La Hán. Quư vị lại cũng có thể buông xuống phân biệt,
sẽ chứng quả vị Bồ Tát. Chẳng khởi
tâm, không động niệm đối với hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian, tu Thập Thiện
Nghiệp, quư vị sẽ chứng Phật quả.
Phật
pháp chẳng thể nghĩ bàn, bất cứ một môn nào cũng thông với hết thảy các pháp môn. V́ thế,
tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn đều
thông! Chính v́ đạo lư như thế đó, cổ đại
đức mới bảo: “Một
kinh thông, hết thảy các kinh đều thông”. Hễ
đạt được một pháp môn, hết thảy các
pháp môn đều đạt được. Lời này là lời
thật, chẳng phải là lời giả, chỉ sợ
là chẳng thông! Do vậy, trong kinh Bát Nhă, đức Phật
đă bảo chúng ta: “Pháp môn b́nh
đẳng, chẳng có cao thấp”, do đă thông đó
mà! Chúng ta hiểu rơ đạo lư này, đối với chuyện “thâm nhập một môn, huân tu lâu
dài” sẽ chẳng hoài nghi. Ta tu pháp môn này, có hâm mộ
pháp môn khác hay không? Chẳng có ư niệm hâm mộ. Chỉ có
tôn trọng, chẳng hâm mộ, mà cũng chẳng mong học.
V́ sao? Ta học thông môn này, những môn kia sẽ đều
thông. Đồng thời học mấy pháp môn, sẽ chẳng
thông! V́ sao? Quư vị bị rối loạn. Các vị đại
đức và thiện tri thức từ xưa, hễ dạy
học tṛ, quyết định chẳng dạy quư vị học
đồng thời hai loại kinh, tu đồng thời
hai loại pháp môn, chẳng thể! Trừ phi là ǵ? Quư vị
ôm nỗi chấp trước kiên cố, cứ mong làm
như thế, thầy [đành phải] mở phương
tiện. Tuy biết quư vị chẳng thể thành tựu,
cứ để cho quư vị làm thử. Thử nhiều
năm, tự ḿnh hiểu là chẳng thể thành tựu,
bèn quay lại tu tập một môn. T́nh h́nh ấy rất nhiều!
Thuở
trước, tôi gặp một vị lăo cư sĩ. Thuở
ấy, tôi rất trẻ, cụ đă ngoài tám mươi! Cụ
bảo tôi, suốt một đời, cụ học Phật theo
đường ṿng rất lớn. Học Giáo, học Thiền,
học Mật, cuối cùng trở về Tịnh Độ,
đă ngoài tám mươi rồi! “Trước
kia tôi học không đúng, công phu chẳng đắc lực,
[nay] buông xuống toàn bộ, bỏ đi, chuyên niệm A Di
Đà Phật. Mỗi ngày niệm Phật hiệu ba vạn
câu”. Tôi rất tán thán cụ, nói “cụ làm
đúng lắm”. Vị lăo cư sĩ ấy có lẽ hiện
thời chẳng c̣n. Nếu hiện thời vẫn c̣n, phải
là một trăm hai mươi ba mươi tuổi. V́ thế,
để cho quư vị đồng thời học mấy
pháp môn, chính là thiện tri thức phương tiện từ
bi, quyết chẳng phải là ư của Ngài! Chỉ v́ bản
thân quư vị chấp trước kiên cố, có sự tham
ái. Tham ái đối với pháp môn chẳng thể buông xuống
được, cho nên mới để cho quư vị làm
như thế. Hơn nữa, quư vị là ǵ? Quư vị chẳng
phải là một đứa học tṛ biết nghe lời.
Học tṛ thật sự nghe lời, vâng lời
thầy dạy, nếu thầy đă quyết định “chẳng cho phép”, quư vị cũng chỉ đành chấp nhận. Kẻ
chẳng nghe lời, [thầy
đành phải nói] “tùy quư vị,
tùy tiện!” Hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức,
chỉ đành dùng phương pháp này.
Nói
chung, quư vị kết pháp duyên trong Phật pháp, biết quư
vị sẽ chẳng thành công. Khi nào thấy quư vị giác
ngộ, quay đầu, từ ba môn chọn lấy một
môn, sẽ có thể thành tựu. Ba môn c̣n như thế, huống
là nhiều môn! Trong căn pḥng này có khá nhiều cửa, quư
vị muốn cùng từ rất nhiều cửa bước
vào, quư vị có thể tiến vào được hay không?
Hai cửa th́ quư vị sẽ chẳng bước vào
được; một cửa th́ sẽ vào được.
Sau khi đă vào trong một cửa, cửa nào cũng đều
đạt được, đều thông! Ở bên ngoài chẳng
biết, thấy có khá nhiều cửa, chẳng biết
trong cửa nào sẽ có những thứ ǵ, chẳng hay biết.
Sau khi đă vào, bèn hiểu toàn bộ, nguyên lai là hoàn toàn
thông với nhau. Do vậy, xét theo hoàn cảnh và cuộc sống
của chúng ta trong hiện thời, chúng ta có thể tu học
đạt thành tựu. Đấy chính là sở hành của
Phật, là Thập Thiện Nghiệp Đạo.
Tịnh
Tông tuyển chọn năm khoa mục, [bao gồm] Tịnh Nghiệp Tam
Phước của Quán Kinh, Lục Ḥa Kính trong giới luật,
Tam Học và Lục Ba La Mật của Giáo Hạ, mười đại
nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát trong Hoa
Nghiêm; chúng tôi tuyển chọn năm khoa mục. Dễ nhớ! Quư vị cũng phải tuần tự
mà tiến, dần dần nâng cao cảnh giới của
chính ḿnh. Trước hết là đặt cơ sở nơi
Tịnh Nghiệp Tam Phước, ở cùng một chỗ
với đại chúng, học Lục Ḥa Kính. Quư vị nhập
môn từ chỗ này. Câu đầu tiên trong Tịnh Nghiệp
Tam Phước là “hiếu
dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng”,
đó là Đệ Tử Quy. Câu kế tiếp, “từ tâm chẳng giết, tu Thập
Thiện Nghiệp” là Thập Thiện Nghiệp Đạo.
Sau đấy mới là “Tam Quy,
các giới”. Cuối cùng mới là “phát Bồ Đề tâm”. Quư vị chẳng tuân
theo thứ tự này, sẽ chẳng thể thành tựu. Do
vậy, nói đi, nói lại, vẫn phải là từ Đệ
Tử Quy, Thập Thiện Nghiệp Đạo, từ Tam
Quy, Ngũ Giới [mà tu tập]. Trong Tịnh
Tông, hoặc là học kinh Di Đà, hoặc học kinh Vô
Lượng Thọ, chẳng có ai không thành tựu. Hôm nay đă
hết thời gian rồi, chúng tôi nói tới chỗ này.
Tập
1524
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười
một, đoạn lớn thứ sáu trong phần kệ tụng,
xem từ bài kệ thứ tư.
(Kinh)
Nhược tại ư đạo, đương nguyện
chúng sanh, năng hành Phật đạo, hướng vô
dư pháp.
(經)若在於道。當願眾生。能行佛道。向無餘法。
(Kinh: Nếu ở trên đường, nguyện
cho chúng sanh, thực hành Phật đạo, theo pháp vô
dư).
Từ
mấy bài kệ này, chúng ta đều có thể
thấy, “thủ chấp tích
trượng, chấp tŕ ứng khí” (tay cầm tích
trượng, nắm giữ b́nh bát) chính là khất thực.
Sau đấy, rời khỏi đạo tràng đi khất
thực. Trong kinh luận, chúng ta thấy đức Thế
Tôn lănh đạo Tăng đoàn, thông thường là cách thành
thị hoặc thôn xóm khoảng chừng ba dặm đường.
Khoảng cách như vậy sẽ tiện khất thực.
Nếu cách thành thị, làng xóm quá xa, thời
gian đi đường quá dài, người tu hành hằng
ngày đi khất thực sẽ hết sức bất tiện.
V́ thế, thường nói là ba dặm đường. Ba dặm
đường đi về là sáu dặm đường,
tuyệt đại đa số đều chọn khoảng
cách như thế.
Trong
rừng cây, bên bờ sông, [Tăng đoàn] tụ tập ở
những nơi ấy. V́ chẳng có nhà ở, chúng ta biết
theo quy chế của đức Thế Tôn là “đêm nghỉ dưới cội
cây, giữa trưa ăn một bữa”, chẳng ở
chỗ nào cố định. Phương thức này cũng nhằm
dạy kẻ sơ học chẳng lưu luyến hết
thảy các pháp. Khoảng rừng cây này rất tốt,
đức Phật giảng kinh, thuyết pháp ở nơi ấy
thông thường là thời gian cũng chẳng thể quá
dài. Quá dài, e rằng mọi người sẽ sanh tâm
lưu luyến hoàn cảnh ấy, vậy th́ chẳng tốt. Do
đó, chỉ cho phép nghỉ một đêm dưới cội
cây, ngày mai lại đổi sang cội khác. Đấy là dạy
quư vị buông xuống, hoàn toàn
tùy thuận tự nhiên, chớ nên có mảy may miễn
cưỡng, tùy duyên chứ không phan duyên. Quan trọng nhất
là học điều này, đều là học tập từ
trong cuộc sống.
Trên đường khất
thực, hằng ngày đều phải đi trên đường.
Nói cách khác, mỗi bước trên đường đi
đều dẫn phát hoằng nguyện của Bồ Tát, “đương nguyện chúng
sanh, năng hành Phật đạo, hướng vô dư
pháp” (nguyện cho chúng sanh, có thể hành Phật đạo,
hướng theo pháp vô dư). Thanh Lương đại
sư chú giải “vô dư pháp” là
đại Niết Bàn, là “chân Niết Bàn dă”
(Niết Bàn thật sự). Niết Bàn c̣n phải thêm một
chữ Chân, chẳng lẽ c̣n có giả ư? Chẳng phải
là giả, nói thật ra, Niết Bàn cũng có rất nhiều
đẳng cấp khác nhau. Niết Bàn (Nirvāṇa) là tiếng Phạn, nói thông thường
là Diệt. Quư vị thấy trong Tứ Đế, Khổ Tập
Diệt Đạo, Diệt là Niết Bàn. Diệt ǵ vậy?
Diệt phiền năo, diệt sanh tử; v́ thế, Niết
Bàn cũng nói là bất sanh, bất diệt. [Những cách dịch
chữ Niết Bàn] chúng ta thường nghe nhất là Viên Tịch,
hoặc Tịch Diệt, đều là ư nghĩa Niết
Bàn. “Viên” (圓) là công đức viên măn, “diệt”
(滅) là thanh tịnh tịch
diệt. Nơi Như Lai quả địa được gọi là
Chân Niết Bàn.
Tiểu
Thừa chứng đắc A La Hán cũng là Chân Niết Bàn;
trong kinh giáo, chúng ta thường thấy nói Thiên Chân Niết
Bàn. Ngài đă đoạn sanh tử phiền năo trong tam giới,
đấy là “giới nội”
(界內, thuộc
trong tam giới). Chúng ta biết “giới
nội” là nói tới lục đạo, [vị đă chứng
Thiên Chân Niết Bàn] chẳng có sanh tử trong lục đạo,
nhưng trong tứ thánh pháp giới th́ có hay không? Có chứ!
Sanh tử trong tứ thánh pháp giới được gọi
là Biến Dịch sanh tử, chẳng giống như lục
đạo. [Sanh tử trong] lục đạo gọi là Phần
Đoạn sanh tử, có nghĩa là từng giai đoạn
một. Trong tứ thánh pháp giới, chẳng có từng giai
đoạn một, chẳng có loại sanh tử ấy,
nhưng có Biến Dịch (變易). Trên thực tế, Biến Dịch chẳng hề
có sanh tử. Biến Dịch là nói vị ấy phải nâng cao cảnh giới của chính ḿnh, nhất định
phải nghiêm túc tu học. Tu học cũng là một chuyện
vất vả, giống như quư vị đi học trong
nhà trường. Quư vị học lớp Một, rất
siêng khổ, thi cử đạt điểm, năm sau lên lớp, từ lớp Một vào lớp
Hai. Lớp Một đă “chết”, lớp Hai “sanh” ra, có ư
nghĩa này! Đó gọi là Biến Dịch. Quư vị từ
lớp Một lên lớp Hai, từ lớp Hai lên lớp Ba.
Đấy là Biến Dịch. Quư vị từ lớp Một
biến thành lớp Hai, từ lớp Hai biến thành lớp
Ba, từ lớp Ba biến
thành lớp Bốn; có ư nghĩa ấy.
Từ Tiểu Học biến đổi thành Trung Học,
từ Trung Học biến đổi thành Đại Học,
đều phải trải qua một khoảng thời gian
học tập. Địa vị của Bồ Tát cũng
giống như thế!
Nh́n
từ Hoa Nghiêm Viên Giáo, [nh́n từ] Thập Tín Bồ Tát, mấy
địa vị đầu tiên [trong Thập Tín] chẳng
đoạn sạch Kiến Tư phiền năo. Bồ Tát thuộc
địa vị Sơ Tín đoạn hết tám
mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới,
nhưng hăy c̣n tám mươi mốt phẩm Tư Hoặc chưa
đoạn. V́ thế, đức Phật bảo vị ấy
c̣n phải qua lại trong nhân gian và cơi trời bảy lần.
Đấy là có Phần Đoạn sanh tử,
đương nhiên là cũng có Biến Dịch sanh tử.
Lục đạo th́ hai thứ sanh tử đều có. Đạt
đến địa vị Thất Tín Bồ Tát trong Viên
Giáo mới đoạn sạch tám mươi mốt phẩm
Tư Hoặc, có địa vị b́nh đẳng với A
La Hán, thoát ly lục đạo luân hồi, cũng có nghĩa là chẳng có Phần Đoạn sanh tử.
Nói theo Tiểu Thừa, Ngài đă chứng Niết Bàn. Niết
Bàn ấy được gọi là Thiên Chân Niết Bàn, chẳng
phải là Niết Bàn rốt ráo viên măn. Như vậy th́
chúng ta liễu giải, từ địa vị Thất Tín
trở lên, chẳng có Phần Đoạn sanh tử, chỉ
có Biến Dịch sanh tử.
Trong
kinh này, Thất Tín, Bát Tín, Cửu Tín, Thập Tín, trong phần
trước tôi đă thưa tŕnh cùng quư vị, chúng ta
không nói tới những điều khác, chỉ nói về
đoạn phiền năo. Địa vị Thất Tín đoạn
Kiến Tư phiền năo, tương đương với
A La Hán và Bích Chi Phật. Thất Tín tương
đương với A La Hán, Bát Tín tương
đương với Bích Chi Phật, Cửu Tín
tương đương với Bồ Tát trong mười
pháp giới. Địa vị Thập Tín chính là Phật
trong mười pháp giới. Tông Thiên Thai gọi vị Phật
này là Tương Tự Tức Phật, Ngài thuộc địa
vị Tương Tự, v́ sao? Chưa kiến tánh. Tuy chưa
kiến tánh, Ngài đă đạt đến bờ mé kiến
tánh, đă đoạn Trần Sa phiền năo, c̣n sót một phẩm
vô minh chưa phá. Phá một phẩm vô minh ấy, Ngài sẽ
thoát ly mười pháp giới. Thoát ly mười pháp giới,
bèn sanh vào thế giới Hoa Tạng, [tức là] Nhất
Chân pháp giới, sẽ chứng Chân Niết Bàn.
V́
thế, bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân
đại sĩ trong hội Hoa Tạng đều chứng
Chân Niết Bàn. Nói theo thuật ngữ của kinh Hoa Nghiêm, các
Ngài đều đă đoạn vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước. V́ sao c̣n có bốn mươi
mốt tầng cấp? Trong chú giải, Thanh Lương
đại sư đă bảo, bốn mươi mốt tầng cấp đều là do tập khí vô thỉ vô
minh. Tập khí vô thỉ vô minh chẳng gây ra chướng
ngại to lớn. Bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo phá một
phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, là chân Phật,
chẳng phải là giả Phật. Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ
Môn Phẩm nói đến ba mươi hai Ứng Thân,
đáng nên dùng thân Phật để đắc độ
[bèn thị hiện thân Phật]. Bậc Sơ Trụ trong Viên
Giáo bèn có năng lực thị hiện thân Phật để
độ thoát, có năng lực ấy, có thể thị hiện
thân phận Phật.
Do
vậy có thể biết, Pháp Thân Bồ Tát có thân tướng
hay không? Thưa cùng quư vị, chẳng có! V́ chẳng có thân
tướng, Ngài mới có thể thị hiện hết thảy
các thân tướng, quyết chẳng phải là do ư nghĩ
của chính Ngài! Chính ḿnh có ư nghĩ th́ là phàm phu, chẳng phải
là Pháp Thân Bồ Tát. Chúng
ta phải biết Pháp Thân Bồ
Tát đă phá vô minh, đă đoạn vọng tưởng.
Vọng tưởng là ǵ? Khởi tâm động niệm. Sáu
căn tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, chẳng khởi
tâm, không động niệm, lấy đâu ra phân biệt,
chấp trước? Do vậy, phải hiểu là trong cảnh
giới, thật sự b́nh đẳng. Tựa đề
kinh Vô Lượng Thọ đă nói “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, thật sự
thanh tịnh, thật sự b́nh đẳng, thật sự
giác ngộ, đối với hết thảy các pháp chẳng
khởi tâm, không động niệm. Bốn mươi mốt
địa vị Pháp Thân đại sĩ tiến cao
hơn sẽ là địa vị Phật rốt ráo viên măn,
các Ngài hoàn toàn b́nh đẳng. Khởi tâm động niệm
sẽ chẳng b́nh đẳng. Các Ngài chẳng khởi tâm,
không động niệm, làm sao có thể bất b́nh đẳng
cho được? Do vậy mới hiểu Nhất Chân
pháp giới là một pháp giới thật sự b́nh đẳng,
hoàn toàn trở về tự tánh. Chúng ta phải luôn hiểu
rơ chân tướng sự thật này!
Các
Ngài hiện thân, thuận theo ḷng cảm của chúng sanh. Chúng
sanh có cảm, Ngài bèn hiện thân. Hằng ngày, chúng ta
nghĩ tưởng Phật, Bồ Tát, cớ sao Phật, Bồ
Tát chẳng hiện thân? Chẳng phải là Phật, Bồ
Tát không hiện thân, mà là quư vị mong tưởng, Phật,
Bồ Tát bèn hiện thân, hiện thân ǵ quư vị cũng chẳng
biết! Đáng nên dùng thân ǵ để đắc độ,
Ngài bèn hiện thân ấy. Nói thông tục, chúng sanh và Phật,
Bồ Tát có duyên, quư vị sẽ thấy thân Phật, thấy
thân Bồ Tát. Quư vị thấy phàm phu (thông thường là
đa số), thấy trong mộng, hoặc thấy
trong Định, chứ trong cuộc sống hằng ngày,
chưa chắc quư vị đă có thể nhận biết.
Chúng
ta đọc Hư Vân Lăo Ḥa Thượng Niên Phổ, [thấy
chép] nhằm báo ân mẹ, lăo ḥa thượng triều bái
Ngũ Đài Sơn, tam bộ nhất bái. Từ Quảng
Đông phải lạy đến Sơn Tây, đường
dài như thế mà cứ đi ba bước liền lễ
một lạy, cái tâm ấy chân thành lắm! V́ thế, Ngài
phải lạy hơn hai năm mới đến nơi.
Trên đường rất vất vả, ngă bệnh hai lần.
Khi ngă bệnh, nhằm đúng lúc ở đồng hoang,
ngay cả thôn trang gần đó cũng chẳng có, Ngài ngă
lăn ra đất. Khi ấy, có một tên khất cái (khiếu
hóa tử, 叫化子, ăn mày) trông thấy, chăm sóc Ngài. Lần đầu
gặp người ăn mày ấy, Sư hỏi anh ta tên họ
là ǵ? Người ăn mày bảo ḿnh tên là Văn Cát, chữ
Văn (文) trong Văn Chương, chữ Cát (吉) trong Cát Tường, [gọi gộp chung] là Văn
Cát[1],
ở dưới núi Ngũ Đài. Anh ta nói: “Sư đến
núi Ngũ Đài, hỏi thăm mọi người, họ
đều biết”. Lần thứ hai khi Sư ngă bệnh (đều là đang trên đường),
lại gặp Văn Cát chăm sóc. Sau khi dưỡng bệnh
xong xuôi, bèn đưa Sư lên đường. Lăo ḥa
thượng Hư Vân đến núi Ngũ Đài liền hỏi
thăm: “Tôi đi đường khá vất vả,
hai lần ngă bệnh mà chẳng chết là do người
ăn mày Văn Cát đă cứu tôi. Anh ta nói ḿnh ở
Ngũ Đài Sơn, các vị có biết hay không?” Người
khác nghe xong cười x̣a: “Đó là Văn Thù Bồ Tát”, khi
ấy, Sư mới hoảng nhiên đại ngộ.
Đáng nên dùng thân ǵ để độ, bèn dùng thân phận
ấy đến giúp đỡ quư vị. Giúp quư vị mà
quư vị vẫn chẳng hiểu, quư vị lạy Văn
Thù Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát đă chiếu cố quư vị
trên đường đi! Chuyện giống như lăo ḥa
thượng Hư Vân đă gặp gỡ, chúng ta tu học
suốt một đời này có gặp hay không? Chắc chắn
là gặp; tuy gặp, quư vị chẳng nhận ra! Hơn nữa,
tôi tin là rất nhiều người đă gặp gỡ:
Ngay trong lúc quư vị cần có người giúp đỡ,
người ấy xuất hiện. Đấy là ǵ? Quư vị
có cảm, Phật, Bồ Tát sẽ có ứng,
cảm ứng đạo giao mà! V́ thế, chư Phật,
Bồ Tát không chỗ nào chẳng hiện thân, không lúc nào chẳng
hiện thân. Chúng sanh có cảm, các Ngài sẽ có ứng!
Có
những lúc chúng ta có cảm, nhưng Bồ Tát cũng chẳng
ứng. Đấy là do duyên cớ nào? Chẳng phải là Bồ
Tát không linh, mà là do chính ḿnh có nghiệp chướng. Phật,
Bồ Tát chẳng có cách nào! Các Ngài ứng, tuy đă ứng, nhưng
quư vị chẳng thọ dụng được! Bản
thân quư vị có nghiệp chướng, chướng ngại
chính ḿnh. V́ lẽ đó, tu hành, bất luận tại gia
hay xuất gia, chuyện đầu tiên là phải tiêu trừ
nghiệp chướng, sám hối nghiệp chướng. Phổ
Hiền Bồ Tát dạy chúng ta các cương lănh. Mười
điều cương lănh ấy tương ứng với
từng nguyện trong một trăm bốn mươi mốt
nguyện ở đây, trong mỗi nguyện đều có mười
nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát. Trong mỗi nguyện
của Phổ Hiền Bồ Tát, đều trọn đủ
một trăm bốn mươi mốt nguyện của
phẩm Tịnh Hạnh. Sau đấy, quư vị mới khẳng
định “Bồ Tát không lúc nào,
không chỗ nào chẳng tồn tại”, nhưng do nghiệp
chướng của chính ḿnh chướng ngại huệ
nhăn, [cho nên] chẳng thấy chân diện mục của Phật,
Bồ Tát. Chúng ta chớ nên không biết điều này!
Trên
đường đi, phải nghĩ đến Phật đạo. “Đương nguyện chúng
sanh, năng hành Phật đạo” (Nguyện
cho chúng sanh, có thể hành Phật đạo). Phật đạo
là ǵ? “Thành Phật chi đạo!” Không chỉ là đức Thế Tôn v́ chúng
ta thị hiện, mà hết thảy chư Phật
Như Lai đều là một đạo, chẳng phải
là hai đạo. Một đạo ấy là ǵ? Tam Học Giới Định Huệ,
đấy là Phật đạo. Đức Phật dạy
chúng ta điều thứ nhất là tŕ giới. Quư vị
thấy chúng ta mới vào Phật môn, đầu tiên là bái thầy,
hành lễ bái sư. Nói theo kiểu thế gian là “lễ bái
sư”, trong Phật pháp là “thọ
Tam Quy Y”. Truyền trao Tam Quy Y là lễ bái sư. Thầy
đem cương lănh chỉ đạo cao nhất của
đạo thành Phật truyền dạy quư vị, quư vị
nương theo cương lănh ấy để học tập,
sẽ có thể thành Phật. Cương lănh ấy
được gọi là Tam Bảo, điều thứ nhất
là Phật Bảo, điều thứ hai là Pháp Bảo,
điều thứ ba là Tăng Bảo.
Phật
Bảo là ǵ? Phật là giác, Bổn Giác trong tự tánh, tự
tánh giác, giác chứ không mê là Phật Bảo. Đức Phật
dạy chúng ta, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ,
tạo tác của chúng ta phải nương
theo tự tánh giác. Thứ hai là Pháp Bảo,
Pháp là ǵ? Chánh tri chánh kiến, kinh Pháp Hoa nói là Phật tri Phật
kiến, “nhập Phật tri kiến”,
chánh chứ không tà. Tư tưởng và kiến giải của
quư vị chẳng có mảy may sai lầm, hoàn toàn giống hết
thảy chư Phật Như Lai. V́ sao? Tự tánh chánh. Điều
thứ ba là quy y Tăng, Tăng có nghĩa là “ḥa hợp”, nhà Phật nói
đến Lục Ḥa Kính. Chẳng làm được
sáu điều ấy, sẽ chẳng gọi là Tăng
đoàn. Ai nấy đều có thể tuân thủ sáu điều
đó, đoàn thể ấy sẽ gọi là Tăng đoàn.
Do vậy, Tăng đoàn là thanh tịnh. Sáu căn thanh tịnh,
chẳng nhiễm mảy trần; đó gọi là Tăng Bảo.
Tăng Bảo là tự tánh tâm thanh tịnh. Đấy gọi
là Tam Bảo.
Thầy
truyền ba nguyên tắc tu hành ấy cho chúng ta, chúng ta có làm
theo hay không? Đấy là Phật đạo, là tổng
cương lănh và tổng nguyên tắc của đạo thành
Phật. Nói thật ra, ba điều ấy chính là hết
thảy các kinh giáo do đức Thế Tôn đă nói trong bốn
mươi chín năm. Nay chúng ta biên tập hết thảy
các kinh giáo, chia chúng thành ba loại lớn là Kinh, Luật, Luận,
gọi là Tam Tạng. Giới học là Luật Tạng,
Định Học là chánh tri chánh kiến, tức Kinh Tạng.
Giác chứ không mê là Luận Tạng. Kinh, Luật, Luận Tam
Tạng. Chúng ta có cần dựa theo nguyên tắc chỉ
đạo này để học tập hay không? Người
thật sự mong học Phật, chẳng chiếu theo con đường này, sẽ chẳng thể
thành tựu. “Mười phương ba đời Phật, một
đường Niết Bàn môn”, đều đi theo con đường này. Quư vị
chẳng đi theo con đường này, vẫn mong theo con
đường khác, làm sao có thể thành tựu cho
được?
Quư
vị thấy người xuất gia khất thực, hằng
ngày đi theo con đường ấy, từ chỗ dừng
chân của Tăng đoàn muốn đến thôn trang, hoặc
đến thành thị để khất thực. Đó là mục
tiêu, ta đi để làm ǵ? Hằng ngày khất thực nhằm
tự hành, hóa độ người khác. Tiếp nhận một
bát cơm của thí chủ, [chính là tiếp nhận] Tài Cúng
Dường. Sau khi tiếp nhận, nhất định là
sẽ hỏi người ấy có nghi vấn hay không. Nếu
người ấy có nghi vấn, người xuất gia sẽ
giảng giải, Pháp Bố Thí đấy! Chẳng có nghi vấn
bèn chúc phước cho người ấy, trong các tôn giáo
b́nh phàm nói là “kỳ đảo” (祈禱, cầu nguyện), cầu phước. Chẳng thể
tiếp nhận cúng dường suông, không thuyết pháp cho
người ấy th́ phải chúc phước cho người ấy.
Bản
thân chúng ta tu học quyết định là thực hiện
từ tŕ giới. “Giác, chánh, tịnh”
là tổng cương lănh, tổng nguyên tắc, tổng phương
hướng, tổng mục tiêu. Chúng ta hăy ngẫm xem, hiện
thời, người tại gia học Phật chẳng làm
được Ngũ Giới, Thập Thiện, hàng xuất
gia học Phật chẳng làm được Sa Di Luật
Nghi. Đấy là do nguyên nhân nào, bản thân chúng ta chớ nên không biết. Nếu chính ḿnh thật sự muốn
thành tựu trong một đời này, nếu chưa từng
học th́ phải nghiêm túc học bổ sung. Tôi cũng thường
xuyên kiểm thảo, t́m ra nguyên nhân thật sự. Nguyên
nhân đúng là như kinh Vô Lượng Thọ đă nói “tiên nhân vô tri” (người
đời trước chẳng biết), thế hệ
trước của chúng ta (cha mẹ, ông bà) đă sơ sót,
“bất thức đạo
đức” (chẳng biết đạo đức),
đă sơ sót luân lư, đạo đức, chẳng dạy
chúng ta kỹ càng, chẳng nghiêm ngặt đ̣i hỏi chúng
ta. Phải học tập từ bé! Từ nhỏ, chúng ta chẳng
đặt vững cơ sở; tuổi đă lớn, hai
mươi, ba mươi tuổi, những tập khí và thói xấu
đều đă dưỡng thành. Cổ nhân thường
nói: “Thiếu thành nhược
thiên tánh, tập quán thành tự nhiên” (Những
điều đă dưỡng thành từ bé sẽ giống
như bẩm tánh, do thói quen mà thành tự nhiên). Chúng ta nhiễm
phải khá nhiều thói quen bất hảo, rất khó sửa
đổi! Nay quư vị thật sự muốn học Phật,
thật sự mong thành tựu, không thay đổi, sẽ
không được! Nhất định phải sửa, dựa
vào thứ ǵ để sửa? Nay tôi khuyên mọi người
hăy dựa theo Đệ Tử Quy. Đệ Tử Quy là giới
luật cơ bản.
Ấn
Quang đại sư dạy chúng ta nương theo Cảm Ứng
Thiên Vựng Biên, nương theo An Sĩ Toàn Thư, hết
sức hợp lư. Ngài c̣n giới thiệu sách Liễu Phàm Tứ
Huấn. Suốt đời, tổ Ấn Quang tôn sùng ba bộ
sách ấy, xác thực là đă buốt ḷng rát miệng khuyên
bảo. Ba bộ sách ấy chính là giáo dục nhân quả. V́
sao tôi không dùng ba bộ sách ấy mà dùng Đệ Tử
Quy? Đấy là do thích
ứng với căn cơ của
thời đại hiện tại mà ra. V́ đại chúng
b́nh phàm trong xă hội tuy chẳng bài xích tôn giáo, nhưng muốn
họ tiếp nhận, sẽ có chướng ngại nhất
định. Họ luôn nghĩ tôn giáo, chỉ cần nhắc
tới tôn giáo, sẽ coi
tôn giáo giống như mê tín, chẳng
muốn tiếp xúc. Đệ Tử Quy là giáo dục của
Nho gia, dễ tiếp nhận, hay lắm! V́ thế, dạy
họ học từ Đệ Tử Quy, nhất định
phải thực hiện!
Chẳng
phải là bảo quư vị tụng Đệ Tử Quy, chẳng
phải là bảo quư vị đọc hay nói, dẫu nói
đến nỗi hoa trời rơi tán loạn, vô dụng!
Quư vị nhất định phải thật sự làm
được! Trong đó, có một trăm mười ba
chuyện, mỗi chuyện đều phải làm được.
Quư vị thấy phẩm Tịnh Hạnh có một trăm
bốn mươi mốt nguyện, Đệ Tử Quy là
một trăm mười ba chuyện, ít hơn phẩm Tịnh
Hạnh. Nếu quư vị làm được một trăm
mười ba chuyện [của Đệ Tử Quy], quư vị
chính là “thiện nam tử, thiện
nữ nhân” như kinh thường nói. Quư vị có tư
cách ấy, thiện nam tử, thiện nữ nhân mới có
tư cách học Phật. Học Phật là học từ
chỗ nào? Học từ Thập Thiện Nghiệp, chư
vị phải ghi nhớ, cơ sở đấy nhé! Kinh Thập
Thiện Nghiệp Đạo [là cơ sở].
Các
đồng học tu Tịnh Tông, khi xưa, lúc thành lập
Tịnh Tông Học Hội hơn hai mươi năm
trước, chúng tôi đă đề ra năm khoa mục thuộc Hạnh Môn, Hạnh Môn th́ nhất định phải làm. Trong cuộc sống
hằng ngày, phải nương theo các tiêu chuẩn ấy
để tu hành. Năm khoa mục ấy, thứ nhất
là Tịnh Nghiệp Tam Phước. Đây là nguyên tắc
chỉ đạo cao nhất, bao gồm ba điều,
mười một câu. Điều thứ nhất gồm bốn
câu, “hiếu dưỡng cha mẹ,
phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết,
tu Thập Thiện Nghiệp”. Con đường này là
đạo thành Phật. Hiếu thân tôn sư được thực
hiện bằng Đệ Tử Quy. Hiếu thảo với
cha mẹ như thế nào? Tôn trọng thầy như thế
nào? Thực hiện Đệ Tử Quy, thực hiện một
trăm phần trăm, hai điều “hiếu dưỡng phụ mẫu” và “phụng sự sư trưởng”
quư vị sẽ đều có! Đó là thiện nhân trong thế gian này, dẫu
chẳng học Phật, cũng chẳng bị đọa
trong tam đồ. Khẳng định là đời sau quư
vị vẫn thuộc trong nhân thiên, phước báo nhân
thiên nhất định vượt trỗi đời này!
Hai câu kế đó: “Từ tâm
chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp” chính là
ǵ? Chuẩn bị học Phật, vẫn chưa nhập
môn. Thập Thiện Nghiệp có thể làm được,
có thể bái Phật làm thầy, có thể làm học tṛ của
Thích Ca Mâu Ni Phật.
Điều
thứ hai, “thọ tŕ Tam Quy, trọn
đủ các giới, chẳng phạm oai nghi”. Đấy
là đệ tử Phật. Điều kiện để
thọ tŕ Tam Quy là phải có Đệ Tử Quy và Thập
Thiện Nghiệp Đạo làm cơ sở. Chẳng có những
cơ sở ấy, sẽ chẳng thể thọ Tam Quy. Có
thọ Tam Quy cũng vô dụng, quư vị chẳng làm
được! Chúng ta suy ngẫm điều này, hiện
thời, trong Phật môn, người thọ Tam Quy quá ư
là đông, quư vị hỏi họ có làm được Thập
Thiện Nghiệp hay không? Có làm được Đệ Tử
Quy hay không? Chẳng có! Nói thật ra, chẳng có th́ sẽ chẳng
thể thọ Tam Quy, càng chẳng thể thọ Ngũ Giới.
Tam Quy và Ngũ Giới được kiến lập trên
cơ sở Thập Thiện Nghiệp. Thập Thiện
Nghiệp được kiến lập trên cơ sở Đệ
Tử Quy, theo thứ tự nhất định, chẳng
thể nhảy cấp được! Giống như xây
nhà, Đệ Tử Quy là nền móng, Thập Thiện Nghiệp
là tầng thứ nhất, Tam Quy là tầng thứ hai, Ngũ
Giới là tầng thứ ba. Giới Sa Di, giới tỳ-kheo,
giới Bồ Tát là tầng thứ tư, tầng thứ
năm và tầng thứ sáu. Cuối cùng, mười đại
nguyện vương là tầng thứ bảy, cao nhất.
Mỗi tầng được xây cao hơn, chẳng có tầng
dưới lấy đâu ra tầng trên? Chúng ta chớ nên
không hiểu đạo lư này!
Điều
cuối cùng trong Tịnh Nghiệp Tam Phước là “phát Bồ Đề tâm, tin sâu
nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến
tấn hành giả”, tự hành, hóa độ người
khác. Khuyến tấn hành giả là hoằng pháp lợi sanh,
đấy là nguyên tắc chỉ đạo cao nhất. Con
người là động vật có tính chất xă hội,
chẳng có cách nào rời ĺa đoàn thể. Gia đ́nh của
quư vị là một đoàn thể nhỏ, là một đoàn
thể cơ bản nhất trong hết thảy các đoàn
thể. Người trong một nhà cư xử với nhau,
luôn có thể tuân thủ Lục Ḥa Kính, vậy là nhà quư vị
ḥa thuận. Người già thường nói “gia ḥa vạn sự hưng”.
Tăng chính là [gọi tắt] của danh xưng Tăng-già
trong tiếng Phạn. Tăng-già là một đoàn thể
tuân thủ Lục Ḥa Kính, có ư nghĩa như thế đó.
Đoàn thể ấy chẳng nhất định là người
xuất gia, kẻ tại gia tu Lục Ḥa Kính cũng gọi
là Tăng Đoàn. V́ thế, nó là một đoàn thể tu Lục
Ḥa Kính. Quư vị nói xem, chuyện này có trọng yếu lắm
chăng? Chẳng thể không tuân thủ th́ mới là giống
như một đệ tử Phật, là người thật
sự tu hành.
Xuất
gia không chỉ là phải thực hiện Đệ Tử
Quy và Thập Thiện Nghiệp. Mức độ thấp
nhất là c̣n phải thực hiện Sa Di Luật Nghi. Chẳng thực
hiện Sa Di Luật Nghi, sẽ chẳng phải là đệ
tử xuất gia của đức Phật. Nhất định
phải thực hiện những điều này một
trăm phần trăm, chẳng thể giảm bớt. Hễ
giảm bớt, con đường Bồ Tát đạo của
quư vị sẽ chẳng thể suông sẻ! Suốt một
đời, quư vị siêng khổ tu học, đến cuối
cùng, chẳng đạt được ǵ! V́ lẽ
nào? Thiếu sót cơ sở! Có cơ sở này, quư vị mới
có thể học Giáo, tham Thiền, hoặc Niệm Phật,
nâng cao cảnh giới. Chẳng có cơ sở này, làm sao có thể được? Nếu quư vị hỏi v́ sao ư? Tôi chẳng có những
giới ấy, cớ sao chẳng thể học kinh? Quư vị
có thể học kinh, nhưng chẳng thể khai ngộ,
[bởi lẽ], quư vị chẳng có Giới, sẽ chẳng
có Định. Chẳng có Định, [tâm tánh] bộp chộp,
phập phều, làm sao quư vị có thể hiểu nghĩa
chân thật của Như Lai cho được? Bài kệ
khai kinh có một câu rất hay: “Vô thượng
thậm thâm vi diệu pháp, bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ,
ngă kim kiến văn đắc thọ tŕ, nguyện giải
Như Lai chân thật nghĩa”. Quư vị chẳng có
cơ sở Giới và Định, làm sao có thể hiểu
nghĩa chân thật của Như Lai? Dẫu tôi giảng cặn
kẽ, giảng minh bạch, giảng rơ ràng đến mấy
đi nữa, quư vị cũng chẳng thể khai ngộ!
Cớ sao biết? Quư vị chẳng làm được! Chẳng
làm được tức là chẳng khai ngộ.
Ba
khoa mục kế đó chính là Tam Học và Lục Độ,
mười nguyện Phổ Hiền, đấy là tôi hy vọng các học nhân Tịnh Tông sẽ dùng năm
khoa mục này để khích lệ lẫn nhau. Chúng ta có thể
tŕ giới, tức là như tôi vừa mới nói, có Đệ
Tử Quy, có Thập Thiện Nghiệp Đạo, có Sa Di
Luật Nghi, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ,
chắc chắn sẽ được văng sanh! Thưa cùng
quư vị, sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Nếu quư vị
có Tam Học, Lục Độ, quư vị niệm Phật văng
sanh, chắc chắn sanh vào cơi Phương Tiện Hữu
Dư. Nếu quư vị có phẩm Tịnh Hạnh, quư vị
làm được một trăm bốn mươi mốt
nguyện trong phẩm Tịnh Hạnh, có thể làm
được mười đại nguyện
vương của Phổ Hiền Bồ Tát, quư vị niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ, nhất định
sẽ sanh trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Đấy là có thể
hành Phật đạo, hướng đến đại
Niết Bàn. Chúng ta đă hiểu Lư Sự này, nay phải cậy
vào bản thân chúng ta thật sự phát tâm. Phát tâm bị
chướng ngại ở chỗ nào? Chướng ngại
chính là sự dụ dỗ, mê hoặc của tiếng tăm,
lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần từ bên
ngoài quá nhiều. Vậy th́ quư vị nhất định phải
buông xuống. Chẳng thể buông xuống những thứ
ấy, đời này quư vị sẽ chẳng đạt
được, sẽ luống uổng đời này!
Điều then chốt là phải buông xuống! Nay đă hết
thời gian rồi, chúng ta nghỉ ngơi mấy phút.
***
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem bài kệ thứ năm tiếp theo.
(Kinh)
Thiệp lộ nhi khứ, đương nguyện chúng
sanh, lư tịnh pháp giới, tâm vô chướng ngại.
(經)涉路而去。當願眾生。履淨法界。心無障礙。
(Kinh: Theo đường mà đi, nguyện cho chúng
sanh, nhập tịnh pháp giới, tâm chẳng chướng
ngại).
Sau
khi đọc những phần kinh văn này, chúng ta thật
sự bị cảm động rất sâu! Từ chỗ
này, có thể thấu hiểu Phật, Bồ Tát niệm nào
cũng đều chẳng bỏ chúng sanh, lúc nào, chỗ
nào cũng đều nghĩ thay cho hết thảy chúng sanh.
Suy nghĩ v́ chúng sanh, các đồng học phải biết, trước
hết là phải thành tựu chính ḿnh. Chính ḿnh chẳng thể
thành tựu, làm sao có thể thành tựu kẻ khác cho
được? Thành tựu chính ḿnh là thành tựu người
khác. Mong thành tựu người khác th́ đầu tiên phải
nên thành tựu chính ḿnh. Tự và Tha chẳng hai! Có thể
nhập pháp môn Bất Nhị, tức là nhập Nhất
Chân pháp giới. Nói theo Tịnh Độ, sẽ là sanh trong
cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Cơi Thật Báo Trang Nghiêm là Nhất
Chân pháp giới.
Trong
khi đi đường, từng bước đều chẳng
ĺa khỏi đại nguyện, “đương
nguyện chúng sanh, lư tịnh pháp giới” (nguyện cho
chúng sanh, nhập pháp giới thanh tịnh). Trong phần chú
giải, Thanh Lương đại sư đă giảng “tịnh pháp giới” là ǵ?
(Sớ)
Chân tịnh pháp giới, tâm sở lư dă.
(疏)真淨法界,心所履也。
(Sớ: Pháp giới chân tịnh là chỗ tâm đạt
đến).
Chúng
ta hăy suy ngẫm “chân tịnh”
là ǵ? Vứt bỏ ô nhiễm, tự tâm vốn là chân tịnh.
Thiền Tông Lục Tổ Huệ Năng đại sư đă
nói rất hay: “Vốn chẳng
có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần”. “Vốn chẳng có một vật”
là thanh tịnh, là chân tịnh, Hiện thời, cái tâm thanh tịnh,
cái tâm thuần thiện thuần tịnh của chúng ta bị
vô minh che lấp, bị Kiến Tư và Trần Sa nhuốm bẩn.
Trong thời đại này, chúng ta đích thân cảm nhận
ô nhiễm quá nghiêm trọng, nhưng chính ḿnh ơ hờ, hời
hợt, chẳng biết đến ô nhiễm! Sự ô nhiễm
nghiêm trọng này quỷ thần đều cảm nhận
được, họ đang chịu khổ nạn. Quỷ
thần thấy nhân đạo giống như chúng ta nh́n vào thiên
đạo, họ bảo chúng ta: Ô nhiễm nghiêm trọng
dường ấy, nếu chúng ta chẳng thể cảm
thấy, chẳng biết quay đầu, sẽ giẫm
theo lối cũ của họ, chẳng phải là con
đường thành Phật, mà là con đường thành tựu
tam đồ! Chúng ta chớ nên không đề cao cảnh giác
đối với chuyện này!
Trong
đời này, chúng ta chẳng mong đọa tam đồ,
như vậy th́ phải nên đoạn trừ nghiệp
nhân tam đồ. Tuy chẳng đoạn được chủng
tử trong A Lại Da Thức, chỉ cần đời
này chẳng tạo nghiệp tam đồ. Nghiệp tam
đồ là ǵ? Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, sáu thứ
căn bản phiền năo ấy, những phiền năo ấy
khiến cho cái tâm của chúng ta chẳng thanh tịnh. Kinh
văn đă nói rất hay, chúng ta thật sự dụng
công từ nơi tâm địa, buông xuống cái tâm tham, chớ
nên có ḷng ích kỷ, v́ sao? Ích kỷ chính là Ngă Chấp kiên cố.
Các đồng tu học Phật đều biết, thành tựu
trong Phật pháp, điều thứ nhất là phá Ngă Chấp.
Phá Ngă Chấp sẽ thoát khỏi lục đạo luân hồi; phá Pháp Chấp
sẽ thoát khỏi mười pháp giới. Đức Phật
đă quy nạp [vô lượng chấp trước thành]
hai loại chấp trước lớn. Chúng ta niệm nào
cũng v́ chính ḿnh, Ngă Chấp tăng trưởng hằng
ngày, đáng sợ quá! V́ thế, chúng ta phải buông xuống
ḷng ích kỷ. Đấy chính là phương pháp phá Ngă Chấp.
Đương
nhiên là chuyện này khó khăn, v́ tập khí phiền năo ích kỷ
đă dưỡng thành từ vô thỉ kiếp, chẳng phải
là một sớm một chiều, há đoạn hết dễ
dàng như thế
ư? Phải xả dần dần. Trước kia,
Chương Gia đại sư dạy tôi, trước hết
là bỏ vật ngoài thân [v́ chúng] tương đối dễ
bỏ. Đặc biệt là những thứ tâm ta yêu thích,
sẽ khó bỏ. Khó bỏ mà có thể bỏ, mới thật
sự có thể buông xuống. Đấy gọi là công phu,
là trí huệ, thật sự có trí huệ, thật sự hạ
quyết tâm mong đoạn phiền năo. Bắt đầu
học, khi ấy thầy dạy tôi rất từ bi,
đích xác là có phương tiện: Hễ chúng tôi có ǵ
dư, đă cũ, có
những vật chẳng ưa thích
cho lắm, hăy xả trước, sẽ dễ dàng hơn!
Luyện tập dần dần đến mức những
thứ chính ḿnh rất ưa thích, chính ḿnh rất cần
thiết, hễ người khác thiếu hụt, hễ cảm
thấy người khác rất cần, đều có thể
xả. Đó là tốt!
Tôi
suốt đời chẳng ham mê ǵ; v́ thế, trong quá tŕnh
tu hành, chướng ngại ít hơn đôi chút. Tôi thích nhất
là sách vở. Từ bé đă thích đọc sách, hết sức
yêu mến sách, cũng thích sưu tập sách. V́ thế, thầy
dạy tôi điều này, tôi bèn nghĩ những thứ kinh
sách [do chính ḿnh đă] tàng trữ đều phải
xả, chúng là thứ tôi ưa thích nhất. Thầy dạy
tôi sáu chữ “thấy thấu
suốt, buông được xuống”, tôi học sáu
năm. Xác thực là đến năm thứ sáu, tôi bỏ
toàn bộ, trừ những kinh bổn để đọc
tụng trong khóa tụng hằng ngày ra, chỉ có mấy bản.
Khi ấy, thầy Lư ở Đài Trung thành lập Từ
Quang Đồ Thư Quán, tôi quyên tặng toàn bộ sách vở
đă sưu tập. Khi ấy, sách được cất giữ
tại Đồ Thư Quán không nhiều lắm. Tôi quyên tặng
sách đến một phần năm. Quư vị biết là
trong năm quyển sách, sẽ có một quyển do tôi tặng.
Quư vị biết số lượng cũng đáng kể,
xả toàn bộ. Sau khi đă xả, cảm ứng chẳng
thể nghĩ bàn!
Khi
đó, duyên xuất gia đă chín muồi. V́ sao? Phải thôi
việc. V́ không bỏ việc, sẽ chẳng thể chuyên
tâm. Khi tôi theo thầy Lư th́ [hăy c̣n] là tại gia học Phật,
hằng ngày c̣n phải làm việc. Làm việc tám tiếng đồng hồ, mỗi ngày tối đa chỉ có thể dụng
công nơi Phật pháp từ ba đến bốn giờ, rất
vất vả! Thuở ấy, thầy Lư đă dạy
mười năm tại Đài Trung, các đồng học
theo thầy đă mười năm, tôi mới đến,
làm sao có thể đuổi kịp họ? Thoạt nh́n, mọi
người đều giống như tôi, phải đi làm, thời gian học Phật mỗi ngày đúng ra chỉ
có hai ba giờ. V́ thế, tôi mong xuất gia, bỏ việc
để toàn tâm toàn lực học tập. Tôi ước đoán
trong hai năm sẽ có thể đuổi kịp. Chẳng
sai, hai năm tôi thật sự đuổi kịp họ.
Động cơ xuất gia của tôi là ở chỗ này. Nếu
chiếu theo tiêu chuẩn của đức Phật, tôi vẫn
chẳng có tư cách! Tiêu chuẩn của Phật chính là Thập
Thiện Nghiệp Đạo và Sa Di Luật Nghi như chúng
tôi đă nói trong hiện thời, tôi vẫn chẳng có
đủ tư cách! Chẳng làm được Thập Thiện
Nghiệp Đạo đạt mức, chẳng phải là
không tu. Có tu, nhưng chẳng đạt tới tiêu chuẩn ấy.
Sau khi xuất gia mới nghiêm túc nỗ lực học tập.
Đối
với các tập khí tật xấu, bản thân tôi có kinh
nghiệm, [phải mất] từ hai mươi năm cho đến
ba mươi năm mới đào thải hết sạch những
thứ ấy. V́ thế, tôi biết
buông xuống tập khí phiền năo chẳng phải là chuyện
dễ dàng. Phải thật sự có nghị lực và quyết
tâm kiên cường giống như đánh giặc. Nếu
không, chắc chắc là bị đánh bại. Ác nghiệp dụ
dỗ, mê hoặc, hằng ngày chúng ta sống trong thế
gian này, tiếng tăm, lợi dưỡng, tài, sắc,
danh vọng, ăn uống, ngủ nghê, quư vị có thể chẳng
nhiễm hay chăng? Chẳng dễ dàng! Nói th́ dễ dàng,
thật sự muốn làm, sẽ có mức độ khó
khăn khá lớn. Do đó, cổ nhân tu hành, v́ sao đạo
tràng phải thành lập trong chốn núi thẳm, hiếm có
dấu chân người lui tới? V́ sao? Để tránh ô
nhiễm, bảo vệ pháp giới thanh tịnh của
chính ḿnh. Nhưng hiện thời chẳng được,
hiện thời các đạo tràng cổ trong chốn núi thẳm
đều có quốc lộ dẫn đến, có thể
lái xe đến, c̣n có rất
nhiều xe cáp treo, biến [những
nơi ấy] thành chỗ danh thắng để ngoạn cảnh,
làm sao có thể tu hành cho được? Cổ đại
đức dạy chúng ta: “Biết
chuyện ít, ít điều phiền năo. Biết nhiều
người, lắm nỗi thị phi”, ngụ ư: Quư vị
biết chuyện càng ít càng hay, quen càng ít người càng tốt,
chẳng cần thiết! Quen biết nhiều người,
biết nhiều chuyện, quyết định là sẽ bị
chướng đạo. Đạo là ǵ? Tâm thanh tịnh. Quyết định
chướng ngại cái tâm thanh tịnh của quư vị.
Thành
tựu chẳng có chi khác, chính là thành tựu “giác, chánh, tịnh”. Trong các buổi
giảng, chúng tôi thường xuyên nói, Phật pháp đến
cuối cùng là minh tâm kiến tánh. Kiến tánh có ba môn, tức
là ba môn giác, chánh, tịnh. Thiền Tông, Tánh Tông là từ Giác
môn mà nhập, thường nói là “đại triệt
đại ngộ, minh tâm kiến tánh”, vào từ cửa
này. Giáo Hạ như Hoa Nghiêm, Thiên Thai, Tam Luận, Pháp
Tướng đều từ chánh tri chánh kiến mà nhập,
tức là Chánh môn. Tịnh Độ Tông, Mật Tông là từ
Tịnh môn mà nhập, cái tâm thanh tịnh. Hiện thời đối
với ba môn ấy, chúng ta hành theo Tịnh môn. Tịnh môn nhất
định là phải tu tâm thanh tịnh, phải buông xuống
muôn duyên! Sau khi đă thật sự buông xuống, giáo huấn
của thầy bèn ứng nghiệm. Giáo huấn ǵ vậy?
Đấy chính là như Chương Gia đại sư
đă dạy: “Phật thị
môn trung, hữu cầu tất ứng” (Trong cửa
nhà Phật, có cầu ắt ứng). Chư vị hiểu,
tôi buông xuống chính là đối với những sách vở
tôi đă tàng trữ, thảy đều buông xuống, quyên
tặng cho Đồ Thư Quán. Khi chính ḿnh cần, [tức
là lúc] theo thầy Lư học kinh giáo, hễ cần những
sách tham khảo, đúng là vừa dấy niệm mong cầu
quyển sách đó, xác thực là có thể đạt được!
Tôi
cũng từng thưa
tŕnh với các đồng học, pháp
sư Trí Khai có đến đây gặp tôi. Sư lập một
chỗ lưu thông kinh Phật tại Hương Cảng.
Khi ấy tôi và sư chưa gặp mặt, chỉ có
thư từ qua lại, cậy sư sưu tập tài liệu tham
khảo giùm tôi, cho tới nay chưa hề thiếu sót! Muốn
tác phẩm nào, sư đều có thể thay tôi t́m ra. Có một
quyển sách thời gian kiếm lâu nhất, nửa năm
mới t́m được, là bộ Trung Quán Luận Sớ.
Tôi hết sức mong đọc bộ sách ấy. Đấy
là thời gian [t́m sách] dài nhất, sư t́m giùm tôi mất nửa
năm. Sư lại c̣n đối với tôi hết sức
tốt. V́ khi ấy, tôi mới xuất gia, chẳng được
cúng dường, cuộc sống hết sức khó khăn,
sách tôi cần sư sẽ gởi trước cho tôi, ghi sổ
nợ; khi nào có tiền,
khi ấy sẽ gởi cho sư. Sư giúp
đỡ quá lớn! V́ thế, tôi hết sức cảm
kích sư. Xác thực là có cầu ắt ứng, chưa hề
luống qua!
Trong
cuộc sống vật chất, tôi chưa hề mong cầu, nhưng
chưa hề thiếu hụt. Cảm ứng mỗi
năm một thù thắng hơn! Từ năm tôi học Phật
được biết Chương Gia đại sư,
cho đến nay là năm mươi lăm năm, đến
tuổi già, ngày càng thù thắng. Chư vị thấy
được điều này. Chỉ cần quư vị hành
Bồ Tát đạo, chớ nên ĺa khỏi Bồ Tát đạo,
chớ nên ĺa khỏi Phật đạo, xác thực là sẽ
được chư Phật, Bồ Tát hộ niệm,
long thiên thiện thần gia hộ. Những chuyện này
đều là do thầy dạy. Thầy dạy tôi thật
sự phát tâm, hết thảy đều v́ chánh pháp tồn
tại lâu dài, hết thảy nhằm lợi ích chúng sanh. Thầy
bảo: “Suốt đời
anh, Phật, Bồ Tát sẽ chiếu cố anh, chính
ḿnh chẳng cần bận tâm tí nào!” Tôi có ưu điểm là có tín tâm một trăm phần
trăm đối với thầy, chẳng có mảy may
hoài nghi giáo huấn của thầy. Suốt năm
mươi lăm năm, giáo huấn ấy đă hoàn toàn chứng
nghiệm. V́ thế, tôi khuyên người khác với thái
độ và ngôn ngữ hết sức khẳng định,
quyết định chẳng có mảy may nghi hoặc. Thầy
dạy tôi làm như thế nào, tôi làm như thế ấy, thật sự làm được. Tín, giải, hành, chứng
đă đem lại tín tâm kiên cố cho chúng tôi. Bố thí
đúng là càng ngày càng nhiều. Do thí tài, tài vật sử dụng
chẳng khuyết thiếu. Thí pháp, do pháp bố thí
được thông minh, trí huệ. Thí vô úy, yêu thương
bảo vệ chúng sanh.
Gần
đây, có khá nhiều đồng tu đề xướng
phóng sanh, hồi hướng công đức phóng sanh cho tôi.
Tôi nghe rồi cũng rất hoan hỷ. Tôi khuyên họ đem tiền
phóng sanh in Hộ Sanh Họa Tập có được hay
chăng? Hộ sanh (護生, bảo vệ sinh vật) c̣n trọng yếu hơn
phóng sanh! Gần đây, ở Úc, có một vị đồng
tu tặng tôi toàn tập Hộ Sanh Họa Tập (護生畫集) của Phong Tử Khải, điều này rất khó
có! Trong quá khứ, tôi thấy ở Đài Loan là năm tập.
Tại Đài Loan, chúng tôi cũng cho in lại, từ tập
thứ nhất cho đến tập thứ năm. Hiện
thời, tôi được thấy tập cuối cùng là tập
thứ sáu. Đọc lời tựa của Phong Tử Khải
trong thiên thứ hai, chúng ta liễu giải. Ông ta tự thuật
quá tŕnh h́nh thành Hộ Sanh Họa Tập. Khi pháp sư Hoằng
Nhất năm mươi tuổi, ông ta vẽ năm
mươi bức tranh chúc thọ thầy. Phong Tử Khải
là học tṛ của Hoằng Nhất đại sư. Hoằng
Nhất đại sư trông thấy rất hoan hỷ,
đối với mỗi trang, Ngài đều đề từ,
đích thân viết. Lại c̣n bảo ông ta: “Khi tôi sáu
mươi tuổi, anh lại vẽ một quyển sáu
mươi bức. Bảy mươi tuổi lại vẽ
một quyển gồm bảy mươi bức. Khi tám
mươi tuổi bèn vẽ tám mươi bức. Khi chín
mươi tuổi bèn vẽ chín mươi tuổi. Một
trăm tuổi, vẽ một trăm bức th́ viên măn”. Tuy
thầy sáu mươi mấy tuổi đă qua đời,
ông ta niệm niệm chẳng quên. Mỗi dịp mười
năm của thầy, tức là mỗi mười năm
vào ngày giỗ thầy, ông ta đều vẽ. V́ thế,
khi gặp dịp minh thọ[2]
một trăm tuổi của Hoằng Nhất đại
sư, tập thứ sáu gồm một trăm bức
được hoàn thành. Hiện thời, sáu tập
được in chung thành một quyển, xem xong, rất
cảm động!
Phải
biết nguyên nhân thứ nhất gây nên thiên tai, nhân họa
trong thế gian là sát sanh, giết sanh vật để
ăn thịt. V́ thế, vào lúc tuổi già, Hoằng Nhất
đại sư viết chữ, Ngài cũng là một nhà
thư pháp. [Hễ có ai] xin Ngài viết chữ, chữ nào có
chữ Đao (刀) bên cạnh, Sư sẽ không viết. Đấy là thị
hiện cho bọn người đời sau thấy, chẳng
nỡ ḷng viết chữ Đao, có thể thấy ḷng từ
bi được lưu lộ từ chỗ này. V́ thế, chúng tôi mong có thể
in lại sáu tập ấy để lưu thông. Đấy
là chuyện tốt, khuyên mọi người ăn chay, kiêng
giết, phóng sanh. Phải biết là đối với chuyện
phóng sanh, trong cuộc sống hằng ngày, các vị ra chợ
mua thức ăn, thấy những động vật
như tôm, cá c̣n sống, hăy quan sát kỹ càng. Nếu thả
chúng mà chúng c̣n có thể tiếp tục sống, bèn mua lấy,
đem phóng sanh. Nếu xét theo trạng huống tinh thần
của chúng, dẫu có thả, chúng nó cũng chẳng thể
sống được, vậy th́ không cần. Quyết
định là chớ nên [hành phóng sanh] theo kiểu ước
định sẵn: Vài hôm nữa, chúng ta sẽ làm đại
hội phóng sanh, quư vị ngay lập tức đi bắt
cá, bẫy chim. Đấy chẳng phải là phóng sanh, mà là hại
sanh! Quư vị chẳng phóng sanh, người ta sẽ không bắt.
V́ sao? Họ bắt về,
chẳng có cách tiêu thụ, bán không
được! Nhất là hai năm gần đây, ôn dịch
rất nhiều, có dịch cúm gia cầm, nay quư vị muốn thả cá, thả chim, các đơn vị y tế và
trị an của chánh phủ đều nơm nớp lo ngại,
sợ gây nên bệnh truyền nhiễm! V́ thế, chẳng
bằng làm những công việc thuộc về
phương diện hộ sanh!
C̣n
có những đồng học tôi luôn cổ vũ khích lệ;
cổ vũ khích lệ mọi người mở tiệm
đồ chay, tốt lắm! Khuyên người khác ăn
chay. Trong tiệm cơm chay, thường xuyên có những
quyển Hộ Sanh Họa Tập để kết duyên. Mấy
hôm trước, tôi có xem đĩa CD do các đồng học
ở Bắc Kinh biếu tặng, gồm hai đĩa, nội dung là “quư vị có nhẫn tâm ăn thịt bọn chúng hay
không?” Trông thấy trạng huống bắt giết thê thảm
ấy, rất nhiều người xem xong, cảm động,
chẳng ăn thịt nữa! Tốt lắm! Chỉ có hai
đĩa CD nên có thể lưu thông với số lượng
lớn. Phí tổn thực hiện đĩa CD c̣n thấp
hơn in sách, chúng tôi cũng hy vọng đem sáu quyển Hộ
Sanh Họa Tập làm thành đĩa CD, lồng nhạc vào,
có văn tự, có đọc tụng, tức là có âm thanh
đọc những lời đề từ là được
rồi, chẳng cần phải thêm lời giải thích. Làm
đĩa CD phí tổn thấp, mở lên, mọi người
có thể cùng nhau xem. Hơn nữa, phát h́nh phim ấy ở
các tiệm cơm chay tốt lắm, hết sức tốt!
Dùng phương thức này có thể chúc phước mọi
người vô lượng thọ, quang thọ vô lượng.
Những điều này đều là tâm từ bi, đều
là Bồ Tát đạo.
Muốn
thật sự đạt tới tiêu chuẩn trong Phật
pháp, sẽ là như chúng tôi thường nói, đối với
hết thảy người, hết thảy sự, hết
thảy vật, hăy buông xuống ư niệm khống chế!
[Hễ có ư niệm khống chế], cái tâm chẳng thanh tịnh.
Ư niệm chiếm hữu càng tồi tệ hơn! Hễ
quư vị c̣n có chiếm hữu, chắc chắn sẽ gây
trở ngại cho sự văng sanh! V́ thế, chúng ta phải thường
xuyên nghĩ đến Thích Ca Mâu Ni Phật đă v́ chúng ta thị
hiện, chúng ta có thể nắm quyền sử dụng, chớ nên có quyền
sở hữu. Có nghĩa là chúng ta vui vẻ sử dụng,
quyết định chẳng có ư niệm chiếm cứ
làm của ḿnh. Ư niệm ấy là sai trái. [Sách vở] tàng trữ
th́ sao? Hễ nhiều th́ lập Đồ Thư Quán, lập
chỗ lưu thông. Tốt lắm! Giống như mở tiệm
đồ chay, trong quán đồ chay bèn để kệ đặt
sách vở, có thể cho người khác mượn xem. Họ
mượn rồi không trả, chẳng sao hết. Không trả,
tôi cho quư vị luôn! Càng thí càng nhiều. Tôi tin là kệ sách
của quư vị sẽ thường xuyên đầy ắp.
V́ sao? Sẽ có rất nhiều người đến cúng
dường. Trong nhà họ có những sách vở dư ra,
hoặc là nhiều thứ chẳng c̣n đọc nữa, họ đều đưa đến chỗ quư vị
để cúng dường, kết duyên với mọi
người. Vậy là tiệm cơm chay của quư vị không
chỉ là đề xướng kiêng giết, phóng sanh, ăn
chay, mà quư vị c̣n tu Pháp Bố Thí, công đức vô lượng!
Nêu
lên thí dụ ấy, đấy chính là một cách để
chúng ta thực hiện “lư tịnh
pháp giới, tâm vô quái ngại” (nhập tịnh pháp giới,
tâm chẳng vướng mắc). Muốn thực hiện đạt tiêu chuẩn, xác thực là phải buông xuống
ư niệm khống chế, ư niệm chi phối và ư niệm chiếm hữu đối với hết thảy người,
sự, vật, quyết định là chớ nên có! Hễ
có những ư niệm ấy, tâm sẽ chẳng tịnh. Nếu
có những hành vi như vậy th́ càng tồi tệ hơn.
Vậy là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước
của quư vị càng ngày càng nặng. Không chỉ là chướng
ngại chứng quả, chướng ngại văng sanh, mà
ngay cả ngộ môn trong hiện tiền cũng đều
bị chướng ngại. Đọc tụng, nghiên cứu,
nghe kinh chẳng khai ngộ, v́ sao? Ngộ môn đă bị lấp
chặt! Nếu quư vị muốn mở toang ngộ môn, chẳng
có chi khác! Hễ buông xuống, sẽ mở được,
chính là do thật sự chịu buông xuống. Buông xuống,
vô lượng công đức. Không chịu buông xuống, chính
ḿnh có [những tài liệu, sách vở] mà chính quư vị thật
sự đọc tụng, nghiên cứu, th́ c̣n có thể chấp
nhận được. Nếu chính ḿnh có [sách vở, tài liệu]
mà chẳng có thời gian đọc tụng, lại không
cho người khác đọc tụng, quư vị nói xem, lỗi
lầm ấy to tát cỡ nào!
V́
thế, sau khi tôi đă xuất gia nhiều năm ngần ấy,
những sách vở, pháp vật sưu tập chẳng biết
nhiều hơn trước khi xuất gia bao nhiêu lần.
Hiện thời, chúng tôi có đạo tràng ở Úc, có pḥng
đọc kinh sách, toàn bộ những thứ do tôi đă
lưu trữ đều để tại đó, xác thực
là một thư viện nhỏ để đại chúng
xem đọc, đọc tụng. Do vậy, học tập
tại Đồ Văn Ba (Toowoomba), những tài liệu về
học thuật truyền thống của Trung Hoa và Phật
giáo Đại Tiểu Thừa gần như khá hoàn bị.
Tôi nghĩ rất chu đáo, quư vị đến đó, thật
sự định tâm, chăm chỉ học tập tại
đó, điều khẩn yếu là nâng cao cảnh giới
của chính ḿnh, nâng cao sự tu dưỡng phẩm đức của
chính ḿnh. Đấy là ta và người đều
được lợi!
Thật
sự đạt được tâm chẳng vướng mắc,
vẫn chưa được, c̣n phải buông xuống.
Chúng ta chỉ nói đến chấp trước, thật sự
buông xuống chấp trước, hăy c̣n có phân biệt. Chấp
trước là Kiến Tư phiền năo, phân biệt là Trần
Sa phiền năo. Trong phân biệt th́ Sở Tri Chướng
nhiều, trong chấp trước th́ Phiền Năo Chướng
nặng nề. Đấy đều là những chướng
ngại nghiêm trọng. V́ thế, đối với hết
thảy các pháp chẳng phân biệt, thứ ǵ cũng đều
tốt, chẳng có ǵ không tốt, người tốt th́ rất
tốt, mà người xấu cũng rất tốt! Chuyện
tốt th́ rất tốt, chuyện xấu cũng rất tốt.
Thiên hạ vốn vô sự, kẻ vụng về tự
ḿnh nhiễu loạn. Khi nào quư vị có thể đạt đến tâm vô chướng ngại? Gặp chuyện tốt,
quư vị hoan hỷ, quư vị bị hoan hỷ chướng
ngại; chuyện không tốt khiến cho quư vị sanh tâm phiền
năo, quư vị bị phiền năo chướng ngại. Chúng
ta thấy đông đảo chúng sanh lục căn tiếp
xúc cảnh giới sáu trần, có ai chẳng phân biệt, chấp
trước? Do vậy, tâm họ hằng ngày giống
như nổi sóng, trồi lên hụp xuống, hụp xuống rồi
lại trồi lên, vĩnh viễn chẳng thể b́nh lặng!
Cảnh giới bên ngoài nổi gió, bên trong chẳng thể làm
chủ tể được, chẳng có định lực,
lại chẳng biết tránh né! Khi chính ḿnh chẳng có định
lực th́ hăy ít tiếp xúc, chính ḿnh phải hiểu, chẳng
tiếp xúc.
Hằng
ngày, chính ḿnh tiếp xúc kinh giáo. Đọc kinh là tiếp xúc
Phật, Bồ Tát, tiếp xúc cổ thánh tiên hiền, tốt
lắm! Bầu bạn với bậc thiện nhân có đạo
đức, thân cận họ. Tuy họ chẳng c̣n, sách vở
hăy c̣n! Đọc sách Khổng Tử là thân cận Khổng
Tử. Đọc kinh sách nhà Phật là thân cận đức
Phật. Đọc kinh của Bồ Tát là thân cận Bồ
Tát. Thánh hiền nhiều ngần ấy, chúng ta luôn có cảm
thấy chẳng đủ thời gian, há có thời gian
để tiếp xúc những thứ bất thiện ư? Phải
hiểu điều này! Tuổi càng cao, tuổi đă cao th́
chính ḿnh phải thường nghĩ những ngày tháng c̣n lại chẳng nhiều,
quư vị c̣n có thể sống bao nhiêu ngày nữa? Do vậy,
đặc biệt coi trọng thời gian, yêu tiếc thời
gian, chẳng dám để luống qua. Chuyện này nói thật
ra, từ năm mươi tuổi trở lên, phải có sự cảnh giác cao độ
này. Cổ nhân thường nói: “Người đến bảy
mươi xưa nay hiếm”. Chúng ta thấy không ít
người chưa đến
bảy mươi tuổi bèn ra
đi, chẳng biết là bao nhiêu! Người có thể giữ
ḷng lành, làm việc lành, niệm niệm có thể quan tâm
người khác, có thể nghĩ giùm người khác,
đặc biệt là trong thời đại hiện thời,
phải giúp cho hết thảy chúng sanh phá mê khai ngộ. Chuyện
này quá quan trọng!
Hiện
thời, tai nạn rất nhiều, làm thế nào để
giúp chúng sanh hóa giải tai nạn? Rất nhiều người
không hiểu điều này, từ trong Phật pháp, từ
giáo huấn của thánh hiền, chúng ta đă hiểu rơ, đă
t́m được, chính ḿnh đă được
thọ dụng, hăy nên toàn tâm toàn lực giúp đỡ người
khác, phải có phương tiện thiện xảo. Xác thực
là người hiện thời tánh t́nh bộp chộp, hời
hợt, chẳng có ḷng nhẫn nại, quư vị bảo họ
đọc một quyển sách, đúng là khó khăn đến
tột cùng! Thậm chí ngay trong các buổi học trong
trường đại học, sinh viên cũng nhấp nha
nhấp nhổm, chẳng có ḷng kiên nhẫn. Thầy lên lớp bèn gắng
hết sức rút ngắn thời gian, giảng đôi chút
những điều trọng điểm, thời gian c̣n lại
phải để cho học tṛ cười nói th́ mới kéo
dài cho hết thời gian được, hoặc là nói tới
chuyện ngoài chương tŕnh học th́ mới có thể
khiến cho học tṛ nẩy sanh hứng thú. Nếu không, họ
sẽ chẳng thể tiếp nhận, lộ vẻ buồn
tẻ, vô vị trong buổi học, hoàn toàn chẳng giống
như trong nhà trường xưa kia. Hiện thời, trong
Phật môn chúng ta, giảng kinh, dạy học, các đồng
học c̣n có thể ngồi suốt mấy tiếng đồng hồ, rất nhiều vị giáo sư thấy vậy
đều cảm thấy rất kinh ngạc, hết sức
hiếm có, v́ sao tâm những người ấy định
như thế, có thể ngồi lâu như thế? Nếu
cái tâm chẳng định, làm sao có thể học những
thứ này! Đừng nói là Phật pháp, ngay cả pháp thế
gian cũng chẳng thể thành tựu!
Muốn
có thành tựu nơi pháp thế gian và xuất thế gian,
điều quan trọng nhất là phải hiếu học.
Nếu chẳng phải là thật sự hiếu học,
thầy dùng phương pháp ǵ để dạy đi nữa,
đều chẳng có hiệu quả. Tâm địa thanh tịnh,
thái độ chân thành, có thể khắc phục dục vọng
tham, sân, si, mạn của chính ḿnh th́ mới có thể đạt
được thành tựu. Do vậy, chúng tôi yêu cầu họ thực
hiện Đệ Tử Quy, thực hiện Thập Thiện
Nghiệp Đạo, là những thí dụ hết sức rơ
rệt. Người nào có thể thật sự thực hiện,
chúng ta sẽ biết người ấy là pháp khí, phải giúp
đỡ người ấy, người ấy sẽ có
thành tựu. Kẻ chẳng thể thực hiện, bề
ngoài tuân phụng, trong ḷng chống trái, vậy th́ chẳng
cần, tạo thiện căn cho họ, đời này, [kẻ
ấy] chẳng thể thành tựu, đời sau hoặc
đời sau nữa, có lẽ gặp gỡ cơ duyên, chuyện
này cũng rất khó nói! Phật độ kẻ hữu
duyên, nếu bản thân chúng ta có thể quan sát người
nào là kẻ hữu duyên, tức là [người ấy] có thể buông xuống, hiếu học, tâm địa
thanh tịnh, tôn sư, trọng đạo, hiếu thuận
cha mẹ. Đấy là điều kiện cơ bản.
Điều đầu tiên trong Tịnh Nghiệp Tam Phước
là “hiếu dưỡng phụ
mẫu, phụng sự sư trưởng”, đó là điều đầu
tiên! Nếu chẳng có điều kiện ấy sẽ rất
khó, chỉ có thể gieo thiện căn cho họ. Do vậy,
thiện tri thức thế gian và xuất thế gian, không vị
nào chẳng v́ kẻ tài năng mà thí giáo, chẳng thể miễn
cưỡng.
Chúng ta đọc
bài kệ tụng này, biết học tập như thế
nào, trong khoảng thời gian hữu hạn của một đời này, sẽ thành tựu chính ḿnh, tăng tấn chính
ḿnh, quan trọng hơn bất cứ điều chi khác! Tăng tấn đức hạnh của
chính ḿnh, thành tựu đạo nghiệp của
chính ḿnh, những thứ
khác đều chẳng quan trọng! C̣n như chuyện hoằng pháp lợi sanh, đấy là nhân
duyên. Có duyên th́ chúng ta làm. Chẳng có duyên, chắc chắn
chẳng mong cầu, quư vị chẳng phan duyên. Thành tựu
chính ḿnh là thành tựu hết thảy chúng sanh; chính ḿnh thật sự văng sanh, phạm vi giúp đỡ
chúng sanh sẽ to lớn. Tới Tây Phương Cực Lạc
thế giới, sẽ chẳng khác chư Phật, Bồ
Tát, đúng là “ngàn xứ nguyện
cầu, ngàn xứ ứng”, chúng sanh có cảm, quư vị sẽ
có thể ứng hóa. Đấy mới là phổ độ
chúng sanh. Chuyện này trọng yếu hơn bất cứ
điều nào khác. A! Nay đă hết thời gian rồi!
Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 31 hết
[1] Ở đây, Bồ
Tát đă ghép hai danh xưng Phạn và Hoa lại để tạo
thành tên Văn Cát. Theo tiếng Phạn, tên Ngài là Văn Thù
Sư Lợi, dịch nghĩa sang tiếng Hán là Biến
Cát, hoặc Cát Tường.
[2] Minh Thọ (冥壽) c̣n gọi là Sanh Kỵ (生忌) là sinh nhật của người
đă mất. Làm lễ sinh nhật cho người đă mất
th́ gọi chung là Minh Khánh.