Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh

Phẩm thứ mười một,

Tịnh Hạnh Phẩm

Phần 32

大方廣佛華嚴經

(十一)淨行品

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Địa điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội

Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng Mười Một năm 2005

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh Tiến

Tập 1525

 

          Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một, đoạn lớn thứ sáu, tức đoạn Khất Thực Đạo Hành (乞食道行, trên đường khất thực) trong phần kệ tụng, xem từ bài kệ thứ sáu:

 

          (Kinh) Kiến thăng cao lộ, đương nguyện chúng sanh, vĩnh xuất tam giới, tâm vô khiếp nhược.

          ()昇高路。當願眾生。永出三界。心無怯弱。

          (Kinh: Thấy lên đường cao, nguyện cho chúng sanh, vĩnh viễn thoát tam giới, tâm chẳng khiếp nhược).

 

          Trên đường, chúng ta thường nói có đường lên dốc, có đường xuống dốc. “Thăng cao lộ” (昇高路) là lên dốc. Chúng ta biết xưa kia chẳng có đường sá bằng phẳng như hiện thời, đường sá luôn lên cao xuống thấp, không bằng phẳng. Đi đường cũng khá vất vả, hoàn toàn là đi bộ. Huống chi thuở đức Thế Tôn tại thế, kẻ b́nh phàm đều chẳng đi giày. Phong tục Ấn Độ không đi giày, cũng chẳng mang vớ, đều là chân trần. Do vậy, hễ ra ngoài, sau khi trở về, nhất định phải rửa chân. Từ kinh điển, chúng ta thường thấy chuyện này!

          Đi lên đường dốc cao, tức là tiến lên cao, dẫn phát đại nguyện “đương nguyện chúng sanh, vĩnh xuất tam giới” (nguyện cho chúng sanh, vĩnh viễn thoát khỏi tam giới). Tam giới là Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới. Trong kinh, đức Phật đă giới thiệu: Tam giới có tổng cộng hai mươi tám tầng trời, mỗi tầng sau cao hơn tầng trước. V́ thế, sanh lên trời, kẻ b́nh phàm nói mơ hồ là “sanh thiên”, rốt cuộc sanh vào tầng trời nào? Trạng huống trong mỗi tầng lại c̣n khác nhau! Phật giáo thường nói đến trời Đao Lợi nhiều nhất, kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện do đức Thế Tôn giảng trên trời Đao Lợi, chẳng phải là giảng trong nhân gian. Xét theo bề ngang, trời Đao Lợi bao gồm ba mươi ba cơi trời (Tam Thập Tam Thiên); rốt cuộc là cơi trời nào?

          Trong Tam Thập Tam Thiên, khổ và lạc không giống nhau. Chư thiên không có phước báo sẽ chẳng bằng đế vương trong nhân gian! Đương nhiên là phước báo của họ vẫn to hơn những kẻ b́nh phàm khá nhiều, nhưng so với đế vương trong nhân gian th́ vẫn khá thua kém. Nhưng vị trời nào có phước báo, phước báo to lớn, th́ đế vương trong nhân gian sẽ chẳng có cách nào sánh bằng, huống hồ thiên vương! Đức Phật đă giới thiệu những chuyện này rất nhiều. Sau khi đă hiểu rơ, [sẽ biết] tuy phước báo trong thiên đạo to lớn, thọ mạng lâu dài, nhưng chẳng rốt ráo! Cớ sao nói là chẳng rốt ráo? Họ vẫn có sanh, lăo, bệnh, tử. Càng lên cao hơn, ba khổ và tám khổ càng mỏng, càng ít, đến Sắc Giới Thiên sẽ chẳng có tám khổ. Tám khổ là sanh, lăo, bệnh, tử, yêu thương phải chia ĺa, oán ghét cứ phải gặp gỡ, cầu chẳng được, năm ấm lừng lẫy. Dục Giới có tám nỗi khổ ấy, Sắc Giới chẳng có.

          Do vậy, điều quan trọng nhất trong học Phật là phải có thể buông xuống. Tôi đă thưa tŕnh với các đồng học nhiều lần; V́ sao không buông xuống tập khí phiền năo nặng nề được? Thực hiện từ chỗ nào? Đây là chuyện lũ sơ học chúng ta rất quan tâm. Thuở tôi mới học, cũng chẳng phải là ngoại lệ. Thuở ấy, có thể nói là vừa mới tiếp xúc Phật pháp hơn một tháng, quen biết Chương Gia đại sư, ngày đầu tiên gặp mặt, tôi bèn thỉnh giáo Ngài vấn đề ấy: “Nhập môn bằng cách nào?” Ngài dạy tôi “thấy thấu suốt, buông xuống”. Thực hiện từ chỗ nào? Từ bố thí. Bố thí là Xả, phạm vi ấy quá ư to lớn! Sau khi đă thâm nhập Phật pháp mới hiểu, có thể nói: Bố thí bao hàm toàn bộ Phật pháp từ sơ phát tâm cho đến địa vị Như Lai. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, đều chẳng ĺa khỏi bố thí. Phạm vi ấy to lớn lắm!

          Nói thông thường, đấy cũng là như rất nhiều vị tổ sư đại đức thường nói: “Chúng ta biết phương pháp bố thí, bố thí được thực hiện từ chỗ nào?” Phiền năo và tập khí của mỗi người mỗi khác. Có người coi Tài (của cải) rất nặng, nếu gặp đức Phật, đức Phật nhất định sẽ bảo quư vị buông tài xuống. Có người thấy danh rất nặng, chẳng coi trọng tài, đức Phật nhất định bảo quư vị buông danh xuống. Có nghĩa là giống như thầy thuốc trị bệnh cho kẻ khác, bệnh tật rất nhiều, bệnh nào nghiêm trọng nhất, không trị sẽ mất mạng, trước hết, hăy trị lành căn bệnh nặng ấy, sau đấy mới lại chữa trị những căn bệnh khác. Đức Phật giáo hóa chúng sanh cũng giống như thế. Tập khí, khuyết điểm nào của quư vị nặng nhất? Tham tài, tham sắc, tham danh, ham mê quyền lực, ham mê địa vị, nhiều lắm! Thậm chí đă học Phật bèn tham mê Phật pháp! Tham mê Phật pháp, quư vị thấy trong kinh Kim Cang, đức Phật nói rất hay: “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp” (Pháp c̣n nên bỏ, huống hồ phi pháp). Pháp cũng phải nên bố thí, chớ nên chấp trước.

          Nói chung, trong các buổi giảng, chúng tôi thường khuyên lơn, khích lệ các đồng học, đấy là nói theo căn bản. Đầu tiên, chúng ta phải buông xuống ư niệm khống chế đối với hết thảy mọi người, hết thảy sự, hết thảy vật, ta chớ nên khống chế người khác. Hăy buông xuống ư niệm khống chế, buông xuống ư niệm chiếm hữu. Cái này cũng muốn chiếm làm của ḿnh, cái kia cũng muốn chiếm làm của ḿnh. Hễ đạt được bèn hoan hỷ, chẳng đạt được bèn oán hận; vậy là không được rồi! Phải buông xuống ư niệm đối lập với kẻ khác. Ư niệm c̣n phải buông xuống, huống hồ là sự thật! Nếu chúng ta không thực hiện từ chỗ này, sẽ thực hiện từ chỗ nào đây?

          Quư vị buông xuống càng nhiều, tâm thanh tịnh sẽ hiện tiền. Quư vị không chịu buông xuống, tâm của quư vị làm sao có thể đạt đến thanh tịnh cho được? Kinh Vô Lượng Thọ đă dạy chúng ta cương lănh tu hành “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”. Đấy chính là thâm tâm trong Bồ Đề tâm! V́ sao quư vị chẳng làm được? Quư vị chẳng có cái Thể của Bồ Đề tâm! Có Thể th́ mới có Dụng. “Thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” là tác dụng, Thể ở chỗ nào? Thể là ǵ? Chân thành. Ấn Quang đại sư đă nói hay lắm: “Một phần thành kính được một phần lợi ích”, thành kính là Thể. Chân thành, cung kính. Tâm chân thành cung kính đối với chính ḿnh, đó“tự ái” (自愛, yêu thương chính ḿnh). Đối với chính ḿnh th́ như thế nào? Sẽ là thanh tịnh, b́nh đẳng, giác. Nhất định phải giữ cho cái tâm của chính ḿnh thanh tịnh, b́nh đẳng, giác chứ không mê. Có tâm thành kính đối với người khác, đại từ, đại bi, [đấy là] Tha Thọ Dụng. Đối với người thật sự tu hành, một trăm bốn mươi mốt nguyện trong phẩm Tịnh Hạnh là nêu đại lược những sự tướng làm việc, xử sự, đăi người tiếp vật trong cuộc sống hằng ngày, thực hiện từ nơi đó. Bất luận là trong thuận cảnh hay nghịch cảnh, thiện duyên hay ác duyên, đối với chính ḿnh, nhất định phải ǵn giữ “thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác”, đối với người khác, nhất định là đại từ, đại bi. Người ấy thật sự biết yêu thương chính ḿnh, biết yêu thương người khác.

          Đại từ, đại bi là yêu thương người khác; “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” là yêu thương chính ḿnh. Nếu quư vị hiểu đạo lư này, sẽ hiểu điều nào đáng nên buông xuống! Trước hết, phải buông hư ngụy xuống. V́ có hư ngụy, sẽ chẳng có chân thành, cái Thể của Bồ Đề tâm sẽ chẳng có, tức là quư vị đă mê Bồ Đề tâm, biến chân thành trở thành hư ngụy. Chân thành và hư ngụy là một Thể, là mê hay ngộ khác nhau. Mê là hư ngụy, ngộ là chân thành. V́ thế, phải bỏ hư ngụy, phải bỏ ngạo mạn. V́ sao chẳng cung kính người khác? Ngạo mạn là căn bản phiền năo. Quư vị thấy tham, sân, si, mạn, phải buông xuống những chữ ấy! Buông xuống ngạo mạn th́ đối với tu hành, quư vị mới có thể nhập môn!

          Trong pháp thế gian, chúng ta mở Lễ Kư ra. Câu đầu tiên trong thiên Khúc Lễ là: “Khúc Lễ viết, vô bất kính” (Khúc Lễ nói: “Không có ǵ chẳng kính”). “Vô bất kính” chính là như trong Phật môn thường nói “nhất thiết cung kính, nhất tâm đảnh lễ”, là như Phổ Hiền Bồ Tát đă nói “lễ kính chư Phật”. Chúng ta có cái tâm ấy hay không? Có coi hết thảy chúng sanh đều như chư Phật Như Lai hay chăng? Quư vị có cái tâm ấy hay không? Chẳng có! Rất tôn kính Phật, chẳng kính chúng sanh! Chẳng biết chúng sanh là vị lai Phật. [Chư Phật] trong “lễ kính chư Phật” bao gồm hết thảy chúng sanh. “Chư Phật” là nói quá khứ Phật, hiện tại Phật, và vị lai Phật. Quá khứ, hiện tại [chư Phật] th́ đức Thế Tôn đă v́ chúng ta giới thiệu rất nhiều; vị lai th́ sao? Vị lai [chư Phật] là hết thảy chúng sanh trong hiện tại. Hết thảy chúng sanh trong hiện tại là vị lai Phật! Quư vị khinh mạn, coi thường họ, tâm quư vị làm sao có thể chân thành cho được? Chân thành sẽ vĩnh viễn chẳng hiện tiền! Chân thành vốn sẵn có trong tự tánh, nhưng bị tập khí phiền năo chướng ngại. Nay quư vị buông xuống tập khí phiền năo, “chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi” thảy đều hiện tiền. Buông xuống tập khí phiền năo càng nhiều, quư vị sẽ cảm thấy Tánh Đức cũng thấu lộ càng nhiều. Chẳng chịu buông xuống tập khí phiền năo của chính ḿnh, Tánh Đức cũng vĩnh viễn chẳng thấu lộ!

          Chư vị phải biết “Bồ Đề tâm là chân tâm”, có ai mà chẳng có! Tuy chúng ta mê, [Bồ Đề tâm] hoàn toàn chẳng mất đi. Chư Phật, Bồ Tát hiểu rất rơ, cớ sao các Ngài cung kính mỗi chúng sanh dường ấy? Các Ngài trông thấy Phật Tánh của quư vị, “hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh”. Các Ngài biết quư vị vốn lành, bản tánh vốn lành. Các Ngài đă biết, lẽ nào chẳng tôn kính quư vị? V́ sao cái tâm cung kính hết thảy chúng sanh của chúng ta chẳng thể sanh khởi? Chúng ta thấy họ hằng ngày tạo ác, [tức là chỉ] thấy h́nh tướng của họ, chứ không biết cái gốc của họ, chẳng biết bản tánh của họ, chỉ thấy biểu hiện trong hiện tại. Các thứ biểu hiện bất thiện trong hiện tại chính là tập tánh, chẳng phải là bản tánh. Bản tánh của họ là Phật, bản tánh vốn lành. Đấy là Phật, Bồ Tát có cách nh́n con người chẳng giống chúng ta. Hết thảy mọi người không chỉ là vị lai Phật, mà hết thảy chúng sanh cũng là vị lai Phật. Kinh Hoa Nghiêm c̣n nói theo phạm vi lớn hơn nữa, “t́nh dữ vô t́nh, đồng viên Chủng Trí” (hữu t́nh và vô t́nh đều viên thành Chủng Trí). Vô t́nh bao gồm những ǵ? Thực vật, khoáng vật, c̣n bao gồm hết thảy các hiện tượng tự nhiên; có nghĩa là chẳng có một pháp thế gian hay xuất thế gian nào chẳng phải là Phật. V́ thế, hễ giác ngộ, hết thảy các pháp đều là Phật pháp. Khi mê, kinh Hoa Nghiêm cũng chẳng phải là Phật pháp! Khi mê, hết thảy đều mê; khi ngộ, hết thảy đều ngộ.

          Chúng ta hiểu trong Dục Giới có sáu tầng trời. Chúng ta có thể xem nhẹ ngũ dục, lục trần, sau đấy quư vị mới có thể buông xuống. Buông xuống chẳng nhiều, sẽ sanh vào Tứ Vương Thiên. Nếu buông xuống nhiều hơn nữa, sẽ sanh vào Đao Lợi Thiên. Nếu buông xuống toàn bộ ngũ dục, lục trần, vậy th́ chúc mừng quư vị, quư vị sanh vào Sơ Thiền Thiên. C̣n có ít phần chẳng buông xuống được, sẽ là Hóa Lạc Thiên hoặc Tha Hóa Tự Tại Thiên; càng lên cao [ngũ dục, lục trần] càng nhạt mỏng! Trong kinh, đức Phật đă dạy rất rơ ràng, rất minh bạch; do vậy, buông xuống có lợi ích cho chính ḿnh quá lớn. Chấp trước cứng chắc, chẳng chịu buông xuống, quả báo là trong tam đồ địa ngục, có ǵ tốt đẹp cơ chứ?

          Nếu chúng ta hỏi, v́ sao những kẻ b́nh phàm chẳng thể buông xuống? Học Phật, biết rành rành là phải nên buông xuống, [thế mà] vẫn chẳng buông xuống được? Nguyên nhân là do tập khí phiền năo quá nặng; kế đó, là do chẳng liễu giải thấu triệt chân tướng sự thật. Nếu thật sự liễu giải thấu triệt, quư vị sẽ rất hoan hỷ buông xuống, chẳng cần ai khuyên quư vị! V́ sao? Biết chuyện này thật sự có lợi cho chính ḿnh, lẽ nào người ấy chẳng thể buông xuống? Chúng ta liễu giải chẳng đủ thấu triệt, nghe hằng ngày, thậm chí nghe suốt hai ba chục năm, ba bốn chục năm, [vẫn cứ] bán tín bán nghi! Học vài chục năm, chẳng thể nói là không tin; nhưng trong niềm tin ấy có nghi hoặc, chẳng đoạn hết nghi! Ví như ta có tám mươi phần trăm tin tưởng, c̣n có hai [mươi] phần nghi hoặc, hai [mươi] phần ấy sẽ sanh ra chướng ngại, sẽ dấy lên tác dụng, chắc chắn sẽ chướng ngại quư vị. Quư vị buông xuống chẳng triệt để, cảm ứng chẳng thể hiện tiền.

          Chớ nên lưu luyến các địa vị Bồ Tát. Chứng đắc địa vị Sơ Tín Bồ Tát bèn rất hoan hỷ, an trụ trong địa vị Sơ Tín, chắc chắn là quư vị chẳng thể đạt đến Nhị Tín. V́ sao? Quư vị chẳng buông xuống được. Quư vị phải buông xuống Sơ Tín th́ mới có thể đạt đến Nhị Tín. Buông Nhị Tín xuống th́ mới có thể tăng cao hơn thành Tam Tín, tăng cao không ngừng! Nói cách khác, sẽ là không ngừng buông xuống, đạo lư là như thế đó. Buông đến cuối cùng, thứ ǵ cũng đều chẳng có, sẽ thành Phật. Do vậy, nói chung, nói thông thường, buông xuống sự chấp trước đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, sẽ chứng quả A La Hán, thoát khỏi tam giới. [Nếu người ấy] niệm Phật văng sanh Tịnh Độ, sẽ chẳng sanh vào cơi Đồng Cư, mà sanh vào cơi Phương Tiện Hữu Dư. Lại có thể buông xuống phân biệt đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, quư vị sẽ chứng quả vị Bồ Tát, văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, sanh trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Bốn cơi, ba bậc, chín phẩm, từng cấp bậc đều tăng lên cao dần.

          Tăng lên cao, trong kinh, đức Phật đă dạy, chẳng phải là trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, mà là ngay trong hiện tiền. V́ sao? Tăng tấn trong hiện tại sẽ có tốc độ mau chóng hơn so với khi đă đến Tây Phương Cực Lạc thế giới! Há chẳng nghe trong kinh đức Phật đă dạy: “Tu hành một ngày trong thế giới Sa Bà bằng tu hành một trăm năm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới” ư? Chúng ta tu hành ở nơi đây mười ngày, sẽ bằng tu hành trong thế giới Tây Phương một ngàn năm. Chúng ta tu hành một trăm ngày trong thế giới Sa Bà, sẽ bằng tu hành một vạn năm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới! Đấy là đạo lư ǵ vậy? Thế giới Tây Phương là thế giới thanh tịnh, đoạn phiền năo rất thong thả. V́ thế, thời gian [cần thiết để tăng tấn sẽ] lâu dài. Ở nơi đây (thế giới Sa Bà), hoàn cảnh nhân sự và hoàn cảnh vật chất hằng ngày thử thách quư vị. Nếu quư vị có thể hứng chịu, có thể chịu đựng thử thách, sẽ tăng tấn với một mức độ to lớn. Chẳng thể chịu nổi thử thách, cũng sẽ bị đọa lạc trên một mức độ to lớn! Đạo lư ở chỗ này! Do vậy, nói theo phía người thật sự tu hành, thế giới Sa Bà đúng là có ưu điểm. Tu hành [phải mất] một vạn năm trong thế giới Tây Phương th́ trong thế giới Sa Bà, [chỉ cần] một trăm ngày là xong rồi. [Vậy th́] thế giới Sa Bà có ǵ là không tốt? Nơi đây tăng tấn mau chóng, mà đọa lạc cũng nhanh chóng! Điều then chốt là niệm niệm giác ngộ, niệm niệm cảnh giác, răn dè. Một niệm bất giác, sẽ lập tức tuột xuống!

          Con người sống trong thế gian, thọ mạng ngắn ngủi, các bậc đại thánh đại hiền đă v́ chúng ta thị hiện, chúng ta nh́n vào đó, phải biết cảnh giác. Thích Ca Mâu Ni Phật đă v́ chúng ta thị hiện trụ thế tám mươi năm, người Hoa nói theo “hư tuế” (, tuổi ta), người ngoại quốc nói theo tuổi thật. Thích Ca Mâu Ni Phật viên tịch lúc bảy mươi chín tuổi, Khổng Tử bảy mươi ba tuổi; đó là các bậc thánh nhân. Cổ nhân thường nói “nhân sanh thất thập cổ lai hy” (người sống bảy mươi xưa nay hiếm). “Hy” () là chẳng nhiều. Nhất là sống trong xă hội hiện đại, đại hoàn cảnh bị ô nhiễm nghiêm trọng, thời thời khắc khắc uy hiếp sức khỏe và thọ mạng của chúng ta. Chớ nên không biết t́nh h́nh này, chớ nên không giác ngộ! “Thế gian vô thường, cơi nước mong manh”. Trong hoàn cảnh này, người giác ngộ chỉ biết một chuyện này: Tăng tấn cảnh giới của chính ḿnh. Đấy là tuyệt đối chánh xác.

          Lục đạo là tam giới, nói “tam giới” tức là Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới, nói “lục đạo” là có thiên đạo, A Tu La đạo, nhân đạo, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Đấy là nói về lục đạo. V́ thế, lục đạo và tam giới có cùng một ư nghĩa! “Vĩnh xuất tam giới” (vĩnh viễn thoát khỏi tam giới) sẽ là từ A La Hán trở lên! Chư vị phải hiểu A La Hán thành tựu như thế nào? Đoạn hết Kiến Tư phiền năo! Nói thông thường, [Kiến Tư phiền năo] sẽ là căn bản phiền năo, tức tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Ác kiến là Kiến Hoặc, gồm có Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Thủ Kiến, Tà Kiến. Hễ đoạn hết [Kiến Hoặc], sẽ chứng đắc quả A La Hán, vĩnh viễn thoát khỏi tam giới. Tuy thoát khỏi tam giới, hoàn toàn chẳng kiến tánh. Ngoài tam giới c̣n có tứ thánh pháp giới, họ tu hành ở nơi ấy. Thanh Văn là A La Hán, [ngoài ra là] Bích Chi Phật, Bồ Tát, và Phật [hợp thành tứ thánh pháp giới]. Thiên Thai đại sư nói Phật trong mười pháp giới là Tương Tự Tức Phật. Tứ thánh pháp giới đều là tương tự. Công phu trong [những địa vị] tương tự ấy có cạn hay sâu khác nhau. Cao nhất là Phật pháp giới, thấp nhất là A La Hán. Ắt cần phải phá một phẩm vô minh để thoát khỏi mười pháp giới; vượt thoát tứ thánh pháp giới th́ mới chứng đắc Nhất Chân pháp giới. Trong kinh Hoa Nghiêm, phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, sẽ là Sơ Trụ Bồ Tát. Đó là chân Phật, chẳng phải là giả Phật, Thiên Thai đại sư gọi [địa vị Phật ấy] là Phần Chứng Tức Phật, là chân Phật. Tuy là thật, vẫn chưa viên măn. V́ sao nói là chưa viên măn? Vẫn c̣n tập khí vô minh; đoạn hết tập khí vô minh th́ mới là rốt ráo viên măn.

          Ở đây, v́ sao chẳng nói “vĩnh xuất thập pháp giới”, chỉ nói tam giới, chẳng nói “vĩnh xuất thập giới”? Chúng ta phải hiểu đạo lư này, tam giới khó thoát ra nhất! Hết thảy chúng sanh ở trong lục đạo, luân hồi trong lục đạo, thoạt ch́m thoạt nổi, khổ không thể nói nổi! Tứ thánh pháp giới tốt đẹp hơn quá nhiều, đă đến gần [địa vị] Phật rồi, ba khổ lẫn tám khổ đều chẳng có. Nói cách khác, họ tiến lên cao hơn, tiến nhiều, lui sụt ít. Dẫu lui sụt, cũng sẽ chẳng lui vào tam giới, chẳng lui vào lục đạo. Chứng đắc A La Hán, sẽ chẳng c̣n lui xuống [các địa vị] thấp hơn A La Hán! Do vậy, thành tựu Vô Thượng Đạo chỉ là vấn đề thời gian! Xác thực là xét theo thời gian th́ có người rất nhanh chóng, có người rất chậm răi. V́ sao có hiện tượng này? Chúng tôi nghĩ đến câu nói “nói chung là do gặp duyên khác nhau” của Thiện Đạo đại sư. Câu nói ấy hay lắm, đă giải quyết khá nhiều nỗi nghi hoặc cho chúng ta. Từ câu nói ấy, chúng ta phải giác ngộ, thời thời khắc khắc, nơi nơi chốn chốn, chớ nên quên kết thiện duyên cùng hết thảy chúng sanh, trong tương lai, chúng ta sẽ gặp duyên thù thắng. Nếu thường chẳng tạo sự thuận tiện cho người khác, chẳng kết thiện duyên cùng người khác, con đường Bồ Đề của chúng ta cũng sẽ không thuận lợi. Đấy là đạo lư ǵ vậy? Nhân như thế nào, sẽ đạt được cái quả như thế ấy, vẫn là “tự làm, tự chịu”, chẳng thể trách ai khác!

          Phật pháp chẳng ĺa nhân quả. Quư vị thấy Thanh Lương đại sư phán định kinh Hoa Nghiêm là Ngũ Châu Nhân Quả (năm tầng nhân quả), Thiên Thai đại sư phán định kinh Pháp Hoa là Nhất Thừa Nhân Quả. Pháp thế gian và xuất thế gian chẳng ĺa nhân quả. Nay chúng ta liễu giải nhân quả chẳng đủ thấu triệt; do vậy, trong cuộc sống hằng ngày, đăi người tiếp vật thường xuyên phạm lỗi. Hữu ư hay vô ư, cái tâm cảnh giác chẳng đủ, chẳng có trí huệ, chẳng thể thông quyền đạt biến. Nói theo kiểu hiện thời, sẽ là chẳng thể vận dụng sống động, chẳng thể “học sống động, vận dụng sống động”. Chẳng làm được, nhưng nếu quư vị có cái tâm ấy, thường xuyên cầu Phật gia tŕ, thường xuyên sám hối, như vậy th́ sẽ có thể dần dần cải thiện. Nhất định là có sự cảnh giác cao độ: Mạng người vô thường, hăy kịp thời làm lành, nắm chắc thời gian, nắm chắc duyên phận, chúng ta thường nói là “cơ hội”, hăy nắm chắc cơ hội, nỗ lực làm lành. Làm lành chẳng có ǵ khác, tạo phương tiện cho chúng sanh! “Từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa”, ḷng từ bi của quư vị biểu hiện ở chỗ nào? Từ phương tiện, tạo phương tiện cho người khác, tạo phương tiện cho hết thảy chúng sanh.

          Tâm địa phải thanh tịnh, có phương hướng, có mục tiêu, có quyết tâm, có dũng khí, dũng mănh tinh tấn, mới không thoái chuyển, chịu được thử thách, chịu được những công kích. Ngày hôm qua, chúng tôi cũng nhắc tới hoàn cảnh ấy, dùng cái tâm chân thành thanh tịnh để tiếp nhận, sẽ tiêu trừ nghiệp chướng nhanh chóng nhất. Nhất là những lời đồn đại vô căn cứ, kẻ khác bịa đặt gây chuyện hủy báng quư vị, người thế gian nói là “oan uổng, bị ủy khuất, bị oan ức”, nếu quư vị chẳng nóng giận, chẳng trả đũa, nghiệp chướng sẽ tiêu sạch. Đấy là tiêu trừ nghiệp chướng nhanh chóng! Đối với kẻ bịa đặt gây chuyện, đối với kẻ hủy báng, đối với kẻ lăng nhục hăm hại, chẳng mảy may ghim trong ḷng, chẳng oán hận, chẳng trả đũa, chẳng oán trời, chẳng hờn người! Chính ḿnh sẽ nghĩ: Kẻ ấy hủy báng ta, cớ sao chẳng hủy báng người khác? Nói chung là do trong đời quá khứ, ta đă từng hủy báng, lăng nhục, hăm hại họ. Trong đời này, chúng ta chạm mặt họ, những hành vi của kẻ ấy đối với ta có phải là đáng nên làm hay chăng? Đáng lắm chứ! Ăn miếng trả miếng, nay ta đă giác ngộ rồi!

          Người giác ngộ có nhân quả hay không? Có chứ! Chẳng thể nói “đă giác ngộ, sẽ chẳng có nhân quả!” Người giác ngộ chẳng lầm nhân quả, tức là hiểu rơ ràng, rành rẽ tiền nhân hậu quả, hoan hỷ tiếp nhận. Lại c̣n đối với những kẻ tạo tác các nghiệp ấy, không chỉ là chẳng oán hận, mà c̣n có tâm cảm ơn. Kẻ đó tạo tội nghiệp khiến cho ta tiêu nghiệp chướng. Những kẻ ấy sẽ đọa lạc, họ đọa lạc, chúng ta chẳng nỡ ḷng. V́ thế, sẽ hồi hướng công đức tu hành của chính ḿnh cho họ ḥng giảm nhẹ nỗi khổ của họ. Tâm đại từ bi mà! Đề Bà Đạt Đa nhiều lượt hủy báng Thích Ca Mâu Ni Phật, phá hoại Tăng đoàn, tạo tội Ngũ Nghịch, Thập Ác, đọa địa ngục A Tỳ. Thích Ca Mâu Ni Phật có oán hận ông ta hay chăng? Chẳng oán hận! Thích Ca Mâu Ni Phật thương xót, hồi hướng công đức cho ông ta. Đương nhiên là ông ta vẫn phải đọa địa ngục, nhưng sự thọ khổ trong địa ngục được giảm nhẹ. Chúng ta phải hiểu đạo lư này. Phật, Bồ Tát đă v́ chúng ta thị hiện. Những người ấy trong tương lai dẫu đọa trong tam đồ, họ chịu khổ nhẹ, sẽ chẳng chịu khổ rất nặng! Điều này cũng phù hợp Tứ Hoằng Thệ Nguyện của Bồ Tát, “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Kẻ hủy báng, hăm hại ta cũng là chúng sanh, ta chẳng thể bỏ sót họ. Nói chung, chẳng thể phát nguyện: “Loại trừ những chúng sanh đă hủy báng, hăm hại ta, ta chẳng độ họ!” Chẳng có lẽ ấy! Do v́ chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, thảy đều được bao gồm trong ấy!

          Từ bi trọn khắp pháp giới, thiện ư đầy ắp Sa Bà. Tâm đại từ bi phát xuất, bất luận trong hoàn cảnh như thế nào, quư vị đều có thể chẳng bị hoàn cảnh quấy nhiễu. Hoàn cảnh dẫu khổ sở cách mấy, hoàn cảnh dẫu xấu ác đến cách mấy, đều chẳng đánh mất “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”. Nói cách khác, [sẽ là như] Khổng Tử nói “học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ? (học rồi thường xuyên tập luyện, cũng chẳng vui ư?), quư vị vẫn sống trong niềm sung sướng. Niềm sung sướng ấy thuộc về tinh thần, chẳng phải là nơi vật chất. Tinh thần vui sướng có ảnh hưởng tới vật chất hay không? Ảnh hưởng chứ! Chắc chắn là ảnh hưởng. “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, tâm có thể chuyển cảnh giới. Dẫu cảnh giới hèn tệ đến mấy đi nữa, tâm quư vị là thiện, cảnh giới sẽ đều thiện. Đấy là nói lên điều ǵ? Trong cộng nghiệp có biệt nghiệp, thật đấy! Chẳng giả tí nào! Cộng nghiệp bất thiện, biệt nghiệp là thiện. Trong cộng nghiệp có khá nhiều người thiện căn sâu dầy, họ cũng có thể hưởng ái tâm thiện ư của quư vị. Họ có thể hưởng được nhiều hay ít, sẽ tỷ lệ thuận với ái tâm và thiện ư của họ nhiều hay ít. Nay đă hết thời gian rồi, chúng ta nghỉ ngơi mấy phút!

***

          Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem tiếp bài kệ thứ bảy:

         

          (Kinh) Kiến thú hạ lộ, đương nguyện chúng sanh, kỳ tâm khiêm hạ, trưởng Phật thiện căn.

          ()趣下路。當願眾生。其心謙下。長佛善根。

          (Kinh: Thấy đến đường thấp, nguyện cho chúng sanh, cái tâm khiêm tốn, nhún nhường, trưởng dưỡng thiện căn của Phật).

         

           Bài kệ này có ư nói khi quư vị đi đường, đến chỗ đường dốc xuống. Nay tuy chúng ta rất ít đi bộ, ra khỏi cửa là có xe, dẫu ngồi xe bus, đó là phương tiện giao thông của đại chúng, xe chạy trên đường, cũng có khi lên dốc xuống đồi. Khi chúng ta lên dốc, xuống dốc, có thể dấy lên ư niệm ấy hay chăng? Ư niệm này là nguyện, có thể sanh khởi ư niệm này hay chăng? Từ chỗ này, hăy tự phản tỉnh, sẽ biết là chúng ta cách Bồ Tát khá xa. Bồ Tát thời thời khắc khắc niệm niệm chẳng quên. Dẫu chúng ta đă học ở chỗ này, khi đi đường bèn quên sạch bách! Có những người đi đường hoặc ngồi xe vẫn chẳng quên Phật hiệu, vẫn là khá lắm, nhưng [khởi niệm] giống trong lời nguyện đă nói th́ thường là chẳng có! Đấy là điều đáng cho chúng ta phản tỉnh, suy nghĩ!

          Nhất là tâm lượng to lớn. Hiện thời, tâm lượng của chúng ta thật sự quá bé; nói chung là chẳng thể mở rộng được! Do vậy, một trăm bốn mươi mốt nguyện này, câu thứ hai trong mỗi nguyện đều là “đương nguyện chúng sanh”. “Chúng sanh” ở đây là nói tới hết thảy chúng sanh trong trọn khắp pháp giới hư không giới, tâm lượng to lớn. Thông thường, chúng ta thấy trong sớ văn của pháp hội có câu: “Tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”. “Đương nguyện” xác thực là bao quát trọn khắp pháp giới hư không giới. Tuy chẳng phát cái tâm ấy, nhưng thường xuyên niệm th́ cũng có lợi. Niệm đôi ba năm, niệm tám năm, mười năm, khẳng định là tâm lượng của quư vị sẽ mở mang. Tuy chẳng có tâm lượng to lớn như Bồ Tát, chắc chắn là cũng có tiến bộ trên một mức độ to lớn so với xưa kia, tối thiểu là có thể bao dung mọi người!

          Chướng ngại lớn nhất của chúng ta trong hiện tiền là chẳng thể bao dung người khác. Thấy điều lành của kẻ khác bèn sanh tâm ganh tỵ, thấy điều ác của người khác bèn sanh tâm khinh mạn, thảy đều sanh phiền năo. Quư vị nói chuyện này có phiền toái hay không? Do vậy, bản thân chúng ta hăy lắng ḷng suy nghĩ, [hăy xét xem] từ sáng đến tối, từ ngày Mồng Một đầu năm cho đến Ba Mươi tháng Chạp, có ngày nào chẳng sống trong phiền năo hay không? Có ngày nào chẳng sống trong thị phi hay không? Thị phi, phiền năo do đâu mà có? Chẳng đến từ bên ngoài, mà xuất phát từ nội tâm. Cảnh giới bên ngoài chỉ là trợ duyên dẫn khởi phiền năo của quư vị. Nếu quư vị tham cứu thấu triệt đạo lư này, sẽ vĩnh viễn chẳng trách móc kẻ khác, chúng ta nói là “oán trời, hờn người”. Chuyện này chẳng tốt! Quư vị sẽ chẳng trách móc kẻ khác, khởi tâm động niệm sẽ hướng vào trong để xem xét, chẳng c̣n nh́n ra ngoài. Quán Thế Âm Bồ Tát tu hành chứng quả là do dùng phương pháp này: “Phản văn văn tự tánh, tánh thành vô thượng đạo” (Xoay trở lại cái Nghe để nghe nơi tự tánh, tánh trở thành vô thượng đạo). Chúng ta thường nói là “hồi quang phản chiếu”, chẳng nghĩ tới cảnh giới bên ngoài, hăy quay lại, suy xét chính ḿnh.

          Cổ thánh tiên hiền đă nói: “Hành hữu bất đắc, phản cầu chư kỷ” (Có chuyện ǵ chẳng làm được, hăy xét lại chính ḿnh), có ư nghĩa hoàn toàn giống như “phản văn văn tự tánh” của Quán Thế Âm Bồ Tát, cũng có nghĩa là bên ngoài chẳng có lầm lỗi. Ngẫu Ích đại sư đă nói rất hay: “Cảnh duyên vô hảo xú” (Cảnh duyên chẳng có tốt hay xấu), “cảnh” là hoàn cảnh vật chất, “duyên” là hoàn cảnh nhân sự. Trong hoàn cảnh nhân sự và vật chất, đều chẳng có tốt hay xấu, đều chẳng có thiện hay ác, mà cũng chẳng có đúng hay sai. Đúng sai, thiện ác, tốt xấu đều là chuyện trong tâm của chính ḿnh. Lục căn tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, trong tự tâm của quư vị dấy lên phản ứng. Phải tham cứu thấu triệt đạo lư này; sau đấy, bất luận trong cảnh giới nào, chắc chắn là quư vị đều hướng đến tâm b́nh khí ḥa. Trọn đủ điều kiện này th́ mới có thể nói đến chuyện tu đạo. V́ sao? Chẳng trọn đủ điều kiện này, quư vị mong tu đạo, những thứ này sẽ chướng ngại, phá hoại, quư vị sẽ chẳng tu thành công! Quư vị phải hiểu rơ những thứ ấy, buông chúng xuống, tu đạo sẽ chẳng bị chướng ngại!

          V́ thế, nhất định là phải biết chướng ngại ở bên trong, chẳng ở bên ngoài! Từ cảnh duyên bên ngoài, quư vị sẽ thấy chân tướng. Chân tướng là ǵ? Chân tướng là thanh tịnh, là b́nh đẳng. Khi nào thấy hoàn cảnh bên ngoài thanh tịnh, b́nh đẳng, chúc mừng quư vị, dẫu quư vị chẳng kiến tánh, đă cách kiến tánh cũng chẳng xa! Bậc minh tâm kiến tánh, Pháp Thân Bồ Tát thấy hết thảy cảnh duyên là thanh tịnh, b́nh đẳng. V́ thế, người thật sự có công phu, sẽ hướng nội, chẳng hướng ngoại. Phật pháp được gọi là Nội Học, có lư lắm! Bồ Tát tu hành được gọi là “phản văn” (反聞, xoay lại để nghe nơi nội tâm), ngôn ngữ, văn tự, hết thảy các thứ hiển thị không ǵ chẳng nhằm khải thị mọi người. Nếu quư vị xem hiểu, nghe hiểu, sẽ lập tức quay đầu. Quay đầu sẽ là đúng!

          V́ thế, khi đi đến chỗ đường dốc xuống, sẽ nghĩ tưởng, Bồ Tát phát nguyện “kỳ tâm khiêm hạ, trưởng Phật thiện căn” (cái tâm khiêm tốn, nhún nhường, trưởng dưỡng thiện căn của Phật). Nay chúng ta đi đến chỗ đường dốc xuống, phải nghĩ đến sự khiêm hư, nhún ḿnh, đối với hết thảy mọi người, hết thảy các vật, người Hoa nói là “khiêm cung, hữu lễ”, tức là khiêm hư, cung kính, lễ độ. Người như vậy tự nhiên được đại chúng tôn kính, đại chúng yêu mến. Quư vị làm việc sẽ có nhiều người giúp đỡ. Dẫu quư vị có trí huệ, dẫu có năng lực, nhưng một chữ Ngạo không thể kiềm chế nổi, thái độ ngạo mạn, lấn hiếp người khác, kết quả sẽ là như thế nào? Người khác ĺa khỏi quư vị. Quư vị làm việc, người khác sẽ chẳng giúp đỡ! Quư vị suốt ngày từ sáng đến tối luôn oán trời hờn người: “Tâm ta rất tốt, ta mong làm việc thay cho người khác, [thế mà] chẳng có ai giúp đỡ!” Quư vị có ngẫm xem v́ sao người ta chẳng giúp đỡ quư vị hay chăng? Nhất định là có nguyên nhân. Quư vị t́m ra nguyên nhân, tiêu trừ nguyên nhân ấy. Đó là đúng!

          “Trưởng Phật thiện căn”: Trước hết, phải trưởng dưỡng thiện căn của pháp thế gian. V́ sao? Phật pháp được kiến lập trên pháp thế gian. Nói cách khác, Phật pháp dùng điều thiện thế gian để làm cơ sở. Đấy là như trong kinh Phật Tạng, đức Thế Tôn đă dạy chúng ta: “Không học Tiểu Thừa trước, sau đấy học Đại Thừa, sẽ chẳng phải là đệ tử Phật”. Lời ấy đă nói rất rơ ràng, rất minh bạch, v́ sao? Tiểu Thừa nói từ điều thiện thế gian. Điều thiện trong thế gian là hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy. Phật pháp là sư đạo, chúng ta gọi Thích Ca Mâu Ni Phật là Bổn Sư (本師), tức là vị thầy căn bản, là người sáng lập nền giáo dục của Phật Đà, [đức Phật] là vị thầy căn bản. Sư đạo được kiến lập trên cơ sở hiếu đạo. Do vậy, câu đầu tiên trong Tịnh Nghiệp Tam Phước là “hiếu dưỡng phụ mẫu”, câu thứ hai mới là “phụng sự sư trưởng”. Ngài chẳng đặt phụng sự sư trưởng làm câu thứ nhất. Chẳng có! Phụng sự sư trưởng là câu thứ hai. Nay chúng ta thường nói là “hiếu thân tôn sư” (hiếu thảo với cha mẹ, tôn kính thầy); đấy là thiện căn.

          Phải trưởng dưỡng thiện căn như thế nào? Nay chúng ta dùng phương pháp thực hiện Đệ Tử Quy. Nếu chẳng làm được những ǵ Đệ Tử Quy đă dạy, lấy đâu ra thiện căn? Vậy là hai câu “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng” đều chẳng có, sẽ là hai câu nói suông! Quư vị phải thực hiện hai câu ấy! Hễ thực hiện được, sẽ là Đệ Tử Quy. Một trăm mười ba chuyện được nói trong Đệ Tử Quy hễ quư vị đều có thể làm được, quư vị bèn có hai câu ấy, có căn cội. Chẳng làm được, quư vị sẽ chẳng có [căn cội]! Có thể niệm th́ không được rồi, có thể thuộc ḷng cũng không được, có thể giảng vẫn không được, đều chưa phải là của chính quư vị. Làm được th́ sẽ là của quư vị. Thân làm được, trong tâm thật sự có, quư vị có thiện căn. Đă có thiện căn, c̣n phải tăng trưởng. V́ sao? Thiện căn ấy chính là thiện căn của nhân thiên, c̣n phải tăng trưởng. Tăng trưởng hơn nữa, [sẽ là] Thập Thiện Nghiệp Đạo. Thập Thiện Nghiệp Đạo là Đệ Tử Quy được nâng lên cao hơn, đặt cơ sở vững chăi, chắc thật cho việc học Phật.

          Ba thiện căn “không tham, không sân, không si” được nói trong Phật pháp thuộc về Thập Thiện Nghiệp Đạo. Trong hết thảy thuận cảnh, chẳng sanh tham ái; trong hết thảy nghịch cảnh, ác duyên, chẳng sanh sân khuể. Bất luận là trong khi hoàn cảnh nhân sự hay hoàn cảnh vật chất hiện tiền, đều hiểu rơ ràng, rành rẽ, trọn chẳng si mê. Đấy là không si. “Không tham, không sân, không si” là ba thiện căn. Nay chúng ta mong muốn tạo lập ba thiện căn ấy cỡ nào đi nữa, vẫn chẳng thể kiến lập, nguyên nhân ở chỗ nào? [Đó là v́] chẳng có cơ sở Đệ Tử Quy, chẳng có cơ sở “hiếu thảo cha mẹ, tôn kính thầy” trong pháp thế gian, vấn đề nẩy sanh ở chỗ này! Chúng ta theo một vị thầy để học tập, quư vị có thể thật sự phụng sự sư trưởng hay không? Chẳng làm được! Luôn nghi lự (có ḷng hoài nghi, có sự lo ngại) đối với giáo huấn của thầy, tín tâm chẳng đủ! Dẫu đang trong lúc học tập, vẫn luôn đặt tri kiến của chính ḿnh lên hàng đầu, những chỗ nào thầy giảng tương ứng với tri kiến của chính ḿnh bèn gật gù, chỗ nào khác biệt với cách nghĩ, cách làm của chính ḿnh bèn lắc đầu quầy quậy. Chẳng làm được những ǵ thầy răn dạy, làm sao có thể thành tựu cho được? Một vị thầy dạy mấy chục học tṛ, học tṛ mỗi đứa thành tựu mỗi khác. Thầy dạy trong cùng một giảng đường, hoặc trong cùng một pḥng học, cớ sao mỗi cá nhân có thành tựu khác nhau? Được lợi ích chẳng giống nhau? Chính là do mức độ thành kính đối với thầy khác biệt. Ấn Quang đại sư đă nói rất hay: “Một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính sẽ được mười phần lợi ích”. Thầy dạy mà chẳng tin tưởng, không thể y giáo phụng hành, thế mà quư vị mong đạt được công đức thù thắng, nhiệm mầu, há dễ dàng ư?

          Ở đây nói: “Kỳ tâm khiêm hạ, trưởng Phật thiện căn” (Cái tâm khiêm hư, nhún nhường, tăng trưởng thiện căn của Phật). Quư vị phải dùng phương pháp ǵ th́ mới có thể làm được? Đối với chúng ta mà nói, hiện thực nhất, hữu hiệu nhất chính là thực hiện Đệ Tử Quy, thực hiện Thập Thiện Nghiệp. Đấy là nhập môn, như vậy th́ mới có thể nhập môn. Sau khi đă nhập môn, c̣n phải không ngừng tăng tấn, không ngừng tăng trưởng. Lại phải tiến cao hơn, Đệ Tử Quy, Thập Thiện Nghiệp Đạo tiến cao hơn nữa, sẽ là Tam Quy, Ngũ Giới, Sa Di Giới, Tỳ Kheo Giới, Bồ Tát Giới, phẩm Tịnh Hạnh, mười nguyện Phổ Hiền, tiến cao hơn từng bước một! Nếu quư vị thật sự mong tăng tấn cao hơn, phải dùng tâm thái như thế nào? Chính là “kỳ tâm khiêm hạ” (cái tâm khiêm tốn, nhún nhường) như đang nói ở đây, quư vị mới có thể thành tựu. Chẳng khiêm hư, chẳng hiếu học, sẽ chẳng có cách nào thành tựu được! Có những kẻ thấy người khác học rất khá, cũng rất khó có, họ cũng hoan hỷ tán thán, nhưng chính ḿnh th́ không được! Rất muốn giống như người khác, nhưng học chẳng được, nguyên nhân ở chỗ nào? Chẳng khiêm hư! Khi theo người ta [học hỏi], chẳng thể buông xuống cái tôi, vĩnh viễn chẳng thể tăng tấn cảnh giới được, họ chẳng biết nguyên nhân ở chỗ nào! Chính ḿnh có lầm lỗi mà chẳng chịu xin lỗi người khác, chẳng thừa nhận lỗi lầm của chính ḿnh. Trong tâm biết rơ, hiểu rành, đó gọi là “chẳng chịu mất mặt”, hạng người ấy rất nhiều. Quư vị chỉ cần lưu ư nh́n, sẽ thấy chỗ nào cũng có! Đấy là ǵ? Bốn thứ phiền năo tham, sân, si, mạn thảy đều trọn đủ. Chuộng thể diện chính là ngạo mạn!

          Người nào khiêm hư? Chúng ta thấy Phật, Bồ Tát khiêm hư. V́ sao biết [các Ngài] khiêm hư? Đáng nên dùng thân ǵ để đắc độ, bèn hiện thân ấy; từ chỗ này mà nh́n ra. Nhà Phật nói “bổn tích nhân duyên”, các Ngài vốn là Phật, là Bồ Tát, nay v́ muốn hóa độ quư vị, bèn hiện thân phàm nhân, đáng nên dùng thân ǵ để đắc độ, bèn hiện thân ấy, buông xuống thể diện! Nếu các Ngài không buông xuống thể diện, sẽ chẳng thể thị hiện thân phận thấp hơn Bồ Tát! Muốn độ súc sanh, nhất định phải hiện thân súc sanh. Để độ quỷ đạo, nhất định phải hiện thân trong quỷ đạo. Có lẽ chư vị cũng đă thấy lễ Phóng Diệm Khẩu; đối diện với đài Diệm Khẩu, thường dùng giấy tạo h́nh một quỷ vương, mặt xanh, nanh chĩa, tên của vị ấy là Tiêu Diện Đại Sĩ. Đó là ai? Hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát. Để độ chúng sanh trong quỷ đạo, Quán Thế Âm bèn hiện thân quỷ. Nếu tâm Ngài chẳng khiêm hạ, làm sao Ngài có thể làm nổi? Do vậy, nếu quư vị chẳng thể khiêm hạ, đương nhiên quư vị chẳng thành Phật. Dẫu quư vị thành Phật, cũng chẳng thể độ chúng sanh. V́ sao? Chẳng buông cái thân xuống được! Câu nói “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” biến thành câu nói rỗng tuếch, quư vị vĩnh viễn chẳng thể thực hiện được!

          Pháp thế gian và xuất thế gian, nhất là trong giáo học, giáo học có thành tựu to cỡ nào, điểm then chốt chính là một câu “kỳ tâm khiêm hạ” (cái tâm khiêm hư, nhún nhường) này! Do vậy, chẳng thẹn thùng học hỏi kẻ thấp hơn, như vậy th́ mới có thể thành tựu học vấn. Bởi lẽ, do có khả năng mà hỏi kẻ thiếu khả năng, do ở bậc cao mà hỏi kẻ thấp kém hơn, cho nên mới có thể đạt được thành tựu viên măn. V́ sao thánh nhân trở thành thánh nhân? Chẳng có ǵ khác, không vị nào chẳng hiếu học, đa văn, chẳng thẹn học hỏi kẻ thấp kém hơn, đều là từ cái tâm cung kính mà đạt được. Tin tưởng thầy, chẳng hoài nghi thầy, y giáo phụng hành lời thầy chỉ dạy một trăm phần trăm, họ mới có thể thành tựu. Nếu quư vị chẳng y giáo phụng hành, làm sao quư vị có thể thành tựu cho được? Lời này nói dễ lắm, mọi người cũng đă nghe nhàm cả tai rồi, có mấy ai thật sự làm được?

          Trong đời này, bản thân chúng tôi là người đă từng trải nghiệm, làm học tṛ. Trong hội của thầy Lư, lăo nhân gia mở một lớp học kinh nhằm bồi dưỡng nhân tài hoằng pháp giảng kinh. Lớp học ấy kéo dài hai năm, hai mươi mấy học tṛ. Tuy thời gian chẳng dài, thầy dùng phương pháp theo cách dạy học trong trường tư thục thuở trước. Hai mươi mấy vị đồng học tŕnh độ chẳng đồng nhất, nói chung là có những vị đă học đại học nhưng chưa tốt nghiệp (hai mươi mấy bạn học chúng tôi, có một hai vị đă học đại học nhưng chưa tốt nghiệp), có người học Cao Trung (cấp ba), có người học Sơ Trung (cấp hai), gần như là một nửa mới học xong Tiểu Học. Do vậy, thầy chọn cách dạy từng tṛ một. Trong hai mươi mấy người ấy, có người thành tựu, có người chẳng thành tựu. Có người đă thành tựu rồi, chẳng thể tiến cao hơn nữa. Tiến cao hơn nữa chỉ có mấy vị, chẳng nhiều! Chú tâm quan sát, [sẽ thấy] hiếu học và khiêm tốn là nhân tố mang tánh chất quyết định. Hễ là người khiêm tốn, nhún nhường, hiếu học, người ấy sẽ có thành tựu, sẽ không ngừng tiến cao hơn!

          Khóa học trong hai năm ấy do thầy đă mở chính là cơ sở. [Nếu học tṛ] thật sự khiêm hư, thành kính, hiếu học, từ cơ sở ấy, quư vị sẽ không ngừng tiến cao hơn. Giống như nông phu gieo trồng, gieo hạt giống xuống ruộng, nhân duyên trọn đủ, hạt giống có thể từ mầm cây trở thành cây nhỏ, tăng trưởng thành cây to, đơm bông, kết trái. Cái duyên ấy chính là “chân thành, khiêm tốn, hiếu học” như tôi vừa mới nói. Chẳng có ba chữ ấy, thời gian không lâu, mười năm, hai mươi năm bèn bị đào thải. V́ sao? Chẳng thể chống nổi sự dụ dỗ, mê hoặc của tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần, sẽ lại mê, lại đọa lạc. [Những trường hợp như thế] chiếm đại đa số. Người có thể chẳng mê, [có thể] từ mầm cây nhỏ tăng trưởng thành cây to, rất ít! Từ trong hội của thầy Lư, chúng tôi đă trông thấy, sau đấy lại suy tưởng: Thuở đức Thế Tôn tại thế, trong hội của lăo nhân gia, hoặc nh́n vào những hội tự hành hóa tha của lịch đại tổ sư đại đức (“một hội” là nói suốt cả một đời, đấy là một hội), sẽ thấy rất rơ ràng, rất minh bạch.

          Trong lịch đại tổ sư đại đức, trong một đời, người có thể bồi dưỡng học tṛ có thành tựu nhiều nhất chính là Lục Tổ Huệ Năng đại sư của Thiền Tông: [Học tṛ thành tựu] bốn mươi ba người, bốn mươi ba vị minh tâm kiến tánh. Trong mười tông, chẳng t́m thấy vị thầy thứ hai nào mà trong một đời [có thể] thành tựu nhiều người dường ấy! Chẳng t́m thấy! Nhân duyên hy hữu, thầy giỏi, học tṛ cũng khá. Huệ Năng đại sư gặp những chúng sanh căn cơ đă chín muồi. Nếu chẳng phải là căn cơ đă chín muồi, có theo Ngài cũng vô dụng! Trong đạo tràng của lăo nhân gia, mấy ngàn người, mấy vạn người theo Ngài tu học. Quư vị thấy trong một đời Ngài, thành tựu bốn mươi ba người. Nh́n về trước, mỗi vị pháp sư suốt đời chỉ truyền được một người. Các học tṛ trong hội của Huệ Năng đại sư sau khi thành tựu, ai nấy đều đi giáo hóa một phương, lịch sử đă ghi chép chuyện này rất rơ ràng: Trong hội của họ, kẻ đạt thành tựu, ít th́ là một, hai người, nhiều th́ bốn, năm người. [Những trường hợp có thể thành tựu] bốn năm người cũng rất ít, c̣n có rất nhiều vị chẳng có [đệ tử đắc pháp nào cả]! Suốt đời hoằng pháp lợi sanh, [thế mà trong các đệ tử], một người kiến tánh cũng chẳng có, rất nhiều [trường hợp giống như vậy]! Điều then chốt chúng ta phải hiểu: [Đạt thành tựu] không do thầy! Thầy là một vị thầy giỏi, [nhưng đạt thành tựu hay không] là do tâm thái học tập của học sinh!

          Hiện thời, rất nhiều người coi trọng phương pháp, sai lầm rồi! Tôi đă nói điều này rất sớm, đại khái là khi xuất gia đă nói rồi! Hơn bốn mươi năm trước, tôi thường nói: “Thành tựu hay không, tỷ lệ thuận với tâm thái, phương pháp là phụ thuộc”. Nếu dùng tỷ dụ phần trăm để nói, phương pháp tối đa chỉ chiếm mười phần trăm, tâm thái sẽ chiếm tới chín mươi phần trăm, chớ nên không biết! Đă hiểu rơ, bản thân chúng ta phải suy nghĩ, trong đời này, ta có mong muốn thành tựu hay không? Chỉ là nói “ta mong muốn”; nói suông “mong muốn” ngoài miệng sẽ vô dụng, chẳng phải là thật sự mong muốn! Thật sự mong muốn th́ đối với thầy, vị thầy bậc nhất trong các vị thầy chính là vị thầy căn bản, vị thầy căn bản chính là Thích Ca Mâu Ni Phật, quư vị có thật sự tin tưởng Thích Ca Mâu Ni Phật hay không? Nếu c̣n ngờ vực kinh điển, [tức là] chẳng thật sự tin tưởng Thích Ca Mâu Ni Phật. Chân tín sẽ chẳng nghi, được gọi là “đoạn nghi sanh tín”. Ḷng tin ấy là chân tín; hễ c̣n có nghi hoặc, sẽ là bất tín!

          Suốt đời, Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng kinh rất nhiều. Có rất nhiều kinh [chúng ta] xem không hiểu. Xem không hiểu th́ làm như thế nào? Chẳng cần xem! Tám vạn bốn ngàn pháp môn, chỉ cần quư vị hiểu một môn là được rồi. Kinh Kim Cang đă nói rất hay: “Pháp môn b́nh đẳng, chẳng có cao thấp”. Cổ đại đức thường xuyên dạy chúng ta: “Một kinh thông, hết thảy các kinh đều thông”. Huống chi cổ đại đức c̣n làm mẫu, nêu gương, suốt đời thọ tŕ một bộ kinh, v́ người khác diễn nói cũng là diễn thuyết một bộ kinh. Từ Cao Tăng Truyện, chúng ta thấy có vị thọ tŕ Phật Thuyết A Di Đà Kinh, suốt đời giảng hai trăm, ba trăm lượt. Đúng là thâm nhập một môn, chẳng thay đổi đề mục, chắc chắn sẽ văng sanh. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, đương nhiên là “hết thảy đều thông”. Chẳng sanh đến Tây Phương Cực Lạc cũng thông! Đă thông, v́ sao chẳng giảng hết thảy các kinh? Đại từ, đại bi, nêu gương tốt đẹp cho quư vị, khiến cho quư vị đích thân trông thấy thành tựu vô thượng đạo như thế nào: “Thâm nhập một môn, huân tu lâu dài”. Dẫu thông đạt hết thảy các kinh, nhưng chẳng giảng, ta chuyên giảng một bộ, làm gương cho hậu học. Đấy là đại từ đại bi. Do vậy, một kẻ chẳng ham học, lười nhác, tán loạn, chẳng khiêm hư, đương nhiên là chẳng có tinh tấn. Kẻ như vậy thành tựu hữu hạn, trong một đời, tối đa là chỉ có thể học được một ít thường thức về Phật pháp, học bề ngoài của kinh giáo, chẳng thâm nhập, rất khó tăng trưởng thiện căn!

          Tôi cũng thường nói lời này. Hiếu học th́ nhất định là khiêm nhường, nhún ḿnh, nhất định là tôn sư, tin tưởng Phật, tin tưởng kinh điển, chẳng hoài nghi tí nào, tin tưởng thầy! Văn Thù Bồ Tát dạy Thiện Tài. Những phần kinh văn ấy khi xưa chúng tôi đă từng giảng tại đây. [Thuở ấy] chúng ta chẳng có đạo tràng, trước kia là thuê chỗ của Giai Phường Phước Lợi Hội[1], tôi chọn giảng phần năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử trong Tứ Thập Hoa Nghiêm. Ngài đă làm mẫu, nêu gương cho chúng ta. Thầy của Thiện Tài đồng tử là Văn Thù Bồ Tát. Ngài thành tựu Căn Bản Trí trong hội của Văn Thù Bồ Tát, chúng ta thường nói là “minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ”. Sau khi đă ngộ bèn tốt nghiệp, hiện thời nói là “tốt nghiệp”, người thời cổ bảo là “xuất sư”, có thể rời khỏi thầy để đi tham học. Do vậy, tham học là có điều kiện, chẳng phải là tùy tiện! Văn Thù Bồ Tát dạy Thiện Tài phải dùng tâm thái như thế nào để thân cận thiện tri thức? Điều quan trọng nhất là chẳng thấy lỗi của thiện tri thức, Văn Thù Bồ Tát đặc biệt coi trọng điều này. V́ sao? Quư vị theo học với một vị thầy, nếu quư vị thường thấy lỗi lầm của thầy, sẽ chẳng có tín tâm đối với thầy, người bị hại là chính ḿnh! V́ quư vị cầu học từ nơi thầy, có thể đạt được bao nhiêu, tùy thuộc cái tâm thành kính của quư vị đối với thầy. “Một phần thành kính, được một phần lợi ích. Mười phần thành kính, được mười phần lợi ích”. Cái tâm thành kính của quư vị đối với thầy bị hạ thấp, lợi ích do quư vị đạt được cũng bị giảm thấp. Chính ḿnh bị tổn thất, chẳng phải là ai khác!

          Trong phần chú giải, Thanh Lương đại sư đă nói rất hay. Thầy tiếp xúc rất rộng, học tṛ ở bên cạnh nh́n thấy, căn tánh của chúng sanh chẳng giống nhau. Do đó, thầy tiếp xúc ứng đối đại chúng sẽ là tùy cơ ứng biến. Quư vị nh́n nhiều, nghe nhiều, chẳng hiểu ư thầy, chỉ chú trọng nơi h́nh tướng, [sẽ đâm ra thắc mắc] sao thầy ăn nói mâu thuẫn thế nhỉ? Quư vị liền nẩy sanh nghi hoặc. Chuyện này không chỉ là trong Phật pháp, pháp thế gian cũng giống như thế. Quư vị xem Luận Ngữ, [sẽ thấy] học tṛ hỏi Khổng Tử về Hiếu, mấy người hỏi, Khổng Tử trả lời chẳng giống nhau. Ứng cơ thí giáo mà! Cuối cùng, nói đến chuyện Quyền Thật khó phân! Thầy có rất nhiều phương tiện thiện xảo, thông quyền đạt biến, ứng phó căn tánh bất đồng, thiên biến vạn hóa, quư vị phải hiểu nhé! Nếu có nghi hoặc, có thể hỏi han, thầy nhất định sẽ giải thích. Chúng tôi đă từng gặp chuyện này, thấy thầy Lư tiếp đăi đại chúng, chúng tôi có nghi hoặc. Đợi cho đến khi người ta đă rời khỏi, bèn thỉnh giáo lăo nhân gia. Ngài giải thích v́ sao dùng những phương pháp ấy để dạy, đều là có đạo lư. Chúng ta là kẻ mới học, chẳng nh́n ra, cũng chẳng biết dụng tâm của thầy. Lâu sau mới biết, bất luận thầy làm theo kiểu nào, cũng đều nhằm lợi ích chúng sanh. V́ thế, một nguyên tắc của các Ngài (các vị thiện tri thức, Phật, Bồ Tát) là quyết định khiến cho người ấy (người đến thỉnh giáo, đến tiếp xúc) đạt được lợi ích, chẳng thể để họ đến uổng công! Đấy là từ bi nhiếp thọ! Đó là trí huệ bậc cao, thật sự thông đạt quyền biến, chẳng có phương pháp nhất định, phải biết điều này! Như vậy th́ mới có thể tăng trưởng thiện căn của chính ḿnh, tăng trưởng trí huệ của chính ḿnh. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi nói tới chỗ này!

 

Tập 1526

 

          Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một, đoạn lớn thứ sáu trong phần kệ tụng. Xin xem bài kệ thứ tám.

 

          (Kinh) Kiến tà khúc lộ, đương nguyện chúng sanh, xả bất chánh đạo, vĩnh trừ ác kiến.

          ()見斜曲路。當願眾生。捨不正道。永除惡見。

           (Kinh: Thấy đường cong vạy, nguyện cho chúng sanh, bỏ đạo bất chánh, măi trừ ác kiến).

 

          “Tà khúc lộ” (斜曲路) là con đường nhỏ ngoằn ngoèo. Trên đường khất thực, có lúc (đường nhỏ là đường tắt), phải đi đường tắt. Đi trên đường tắt, cũng dẫn phát đại nguyện của Bồ Tát y hệt như vậy. Tâm hạnh của chúng sanh trong lục đạo bất chánh nhiều lắm; đây là nói về nhân đạo trong lục đạo. Thiên đạo bất chánh ít hơn, chứ nhân đạo th́ nhiều. Do vậy, ngạn ngữ thường nói “người chết đều biến thành quỷ”, người ta chết đi bèn làm quỷ! Người học Phật chúng ta nghe lời ấy, biết nói kiểu ấy trật rồi! Rơ ràng là có lục đạo, con người sau khi đă chết làm sao đều làm quỷ cho được? V́ sao khẳng định như thế? Quư vị chẳng nói họ sanh lên trời, chẳng nói họ sanh trong nhân gian, cớ sao đều nói là làm quỷ? Nhưng quan sát cặn kẽ, [sẽ thấy] lời ấy chẳng phải là vô lư. V́ sao? Quư vị nh́n vào nghiệp nhân trong lục đạo sẽ hiểu rơ!

          Đối với Dục Giới Thiên trong thiên đạo, thượng phẩm Thập Thiện sẽ sanh thiên, trung phẩm Thập Thiện là nhân đạo, hạ phẩm Thập Thiện là Tu La đạo, chúng ta chớ nên không biết điều này! Từ Sắc Giới Thiên trở lên, ngoài Thập Thiện ra, c̣n phải tu Tứ Vô Lượng Tâm, tức từ, bi, hỷ, xả. Ngoài những điều ấy ra, c̣n phải tu Thiền Định. Tứ Thiền Bát Định là hai giới trên, Sắc Giới là Tứ Thiền, Tứ Không Thiên là Tứ Định. Tứ Định gộp chung với Tứ Thiền bèn gọi là Bát Định, chẳng phải là ngoài Tứ Thiền mà có Bát Định. Bát Định bao gồm Tứ Thiền. Do Tứ Thiền Bát Định, Tứ Vô Lượng Tâm, thượng phẩm Thập Thiện th́ mới sanh thiên. Do vậy, có thể nói là chư thiên chẳng có “tà khúc lộ”, chẳng có những con đường nhỏ ngoằn ngoèo, nhân gian th́ có. Đại đạo trong nhân gian, thông cả trời lẫn người. Thù thắng nhất là thông thấu Phật, Bồ Tát; đấy là con đường thành Phật; nhưng những con đường cong quẹo kia, quá nửa là thông tới tam đồ, tức ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục. Nghiệp nhân của con đường tam đồ cũng nhiều, toàn là bất thiện. Trong kinh luận, đức Thế Tôn đă nói đến mười ác nghiệp; đấy là tam đồ. Trong Đàn Kinh, Lục Tổ Huệ Năng đại sư đă nói đến tám tà, tức “mười ác, tám tà”, c̣n nói đến khá nhiều tập khí bất thiện trong cái tâm. Chúng đều là nghiệp nhân của con đường cong quẹo, chúng ta chớ nên không biết, chớ nên không sửa đổi chúng!

          Quư vị thấy ở đây Bồ Tát dạy chúng ta, hăy “xả bất chánh đạo, vĩnh trừ ác kiến” (bỏ đạo bất chánh, vĩnh viễn trừ khử ác kiến). Ác kiến chính là Ngũ Lợi Sử như kinh đă nói, tức là Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Thủ Kiến, Tà Kiến. Đấy là ác kiến. “Mười ác, tám tà” như Lục Tổ đă nói trong Đàn Kinh đều thuộc về “bất chánh đạo” đang nói ở đây! Thập Thiện là chánh đạo, Thập Ác là bất chánh đạo, tám tà là ác kiến. Bước lên đường tắt, đường nhỏ, bèn dẫn phát đại nguyện này. Chúng ta phải rất nghiêm túc phản tỉnh chính ḿnh có [những thứ bất chánh đạo] hay chăng? Chính ḿnh thấy được lỗi lầm của bản thân rất khó! Tôi cũng đă nói rất nhiều, người có thể thường xuyên thấy lỗi của chính ḿnh chẳng phải là phàm nhân, mà là bậc đại thiện căn, nói theo Phật môn, sẽ là bậc thượng thượng căn. Thường thấy lỗi của chính ḿnh, chẳng thấy lỗi của kẻ khác; đấy là bậc thượng thượng căn. Kẻ căn tánh trung hạ chẳng biết lỗi của chính ḿnh, chỉ thấy lỗi của người khác.

          Rốt cuộc, trong loài người, căn tánh trung hạ đông đảo; v́ thế, Phật, Bồ Tát cũng rất từ bi, dạy chúng ta một phương pháp rất hay, chẳng phải quư vị không thấy lỗi của chính ḿnh hay sao? Không sao cả! Quư vị thấy lỗi của người khác, tuy thấy lỗi của kẻ khác, chớ nên phê b́nh người ta. Hễ phê b́nh người ta, sai mất rồi! Hễ thấy lỗi của kẻ khác, hăy ngay lập tức hồi quang phản chiếu, người ấy giống như một tấm gương cho ta. Ta thấy người ấy phạm lầm lỗi, hăy suy nghĩ chính ḿnh có [lầm lỗi ấy] hay không? Hễ có bèn sửa đổi, hễ không th́ càng thêm tự khích lệ, gắng sức. Nếu có, nhất định phải biết sửa lỗi. Hễ chẳng có, hăy khích lệ chính ḿnh chớ nên phạm lầm lỗi như người ấy, bản thân chúng ta mới có thể nâng cao cảnh giới. Người khác là gương soi cho chúng ta! Quư vị có thể học tập như vậy, thiên hạ chẳng có ai không phải là thiện tri thức!

          Thiện nhân là thiện tri thức của ta, ta trông thấy sự tốt lành của họ, hăy quay lại suy nghĩ ta có [sự tốt lành ấy] hay không. Nếu ta chẳng có, phải học theo người ấy. Khi ta cũng có, hăy khéo ǵn giữ, đừng để mất đi. Thiện nhân là thiện tri thức của ta! Thấy kẻ ác, hăy nghĩ ta có điều ác giống như người ấy hay không. Hễ có, ta phải sửa. Chẳng có, ta cũng chớ nên phạm lầm lỗi như người ấy. Kẻ ác cũng là thiện tri thức. Đấy chính là như Khổng Tử đă nói: “Tam nhân hành, tất hữu ngă sư” (Ba người cùng đi, ắt có người là thầy ta). Ba người th́ một là thiện nhân, người kia là ác nhân, và chính ta. Hai người ấy đều là thầy của ta, thị hiện hai thứ cảnh giới bất đồng để dạy ta. Thật sự đúng như trong Tông Luận của Ngẫu Ích đại sư đă nói: “Cảnh duyên vô hảo xú, hảo xú khởi ư tâm” (Cảnh duyên không tốt xấu, tốt xấu do tâm khởi). “Cảnh” là hoàn cảnh vật chất, “duyên” là hoàn cảnh nhân sự, nhất định phải biết điều này. Trong hoàn cảnh nhân sự và hoàn cảnh vật chất, chẳng có thị phi, chẳng có thiện ác, chẳng có tốt xấu. Tốt xấu là “hảo, hoại”, chẳng có “hảo, hoại”!

          Đúng sai, thiện ác, hảo hoại sanh từ chỗ nào? Sanh từ trong tâm của chính ḿnh. Quư vị thấy cái này chẳng vừa mắt, hết thảy đều chẳng tốt, đều là xấu xa! Hễ ta thấy bèn rất hoan hỷ, hết thảy đều là tốt. Trong thời kỳ gần đây, chúng tôi thường dùng thí nghiệm với nước của tiến sĩ Giang Bổn Thắng để chứng minh đạo lư này, quư vị hiểu ngay! Chúng tôi chọn mười hai bức h́nh kết tinh nước làm thành ảnh chụp, có thể chiếu lên màn huỳnh quang. Vài hôm nữa sẽ có thể hoàn tất, chúng tôi cũng thường xuyên chiếu lên cho mọi người thấy. Quư vị thấy ư niệm ấy: Nước có thể nhận biết chữ viết, có thể nghe âm nhạc, có thể hiểu ư nghĩ của con người. Chúng tôi viết hai chữ Chiến Tranh dán trên b́nh đựng nước, đặt nước ấy dưới kính hiển vi để xem, [trông thấy] nó kết tinh rất khó coi. Chúng ta bóc [cái nhăn] ấy đi, lại dán một tờ đề chữ Ḥa B́nh, lại thấy kết tinh của nó biến thành rất đẹp đẽ. Nước chẳng có tốt hay xấu, chẳng có thiện hay ác, tùy thuận ư niệm của con người. Ư niệm của con người là thiện, nó bèn thiện; ư niệm của con người là ác, nó bèn ác. Chư vị nhất định phải hiểu [chuyện này]!

          Cũng phải có sự tu dưỡng kha khá, người khác hiểu lầm chúng ta, thường xuyên có chuyện ấy. Cổ nhân nói: “[Trong mười chuyện], chuyện chẳng như ư có đến tám chín”. Lời lẽ hoặc thái độ của chúng ta do vô t́nh hay hữu ư khiến cho kẻ khác mất ḷng, nhất là đối với người hiện thời. Người hiện thời chẳng có sự tu dưỡng, tâm t́nh bộp chộp, xáo động, chẳng an định, mừng, giận, buồn, vui biến hóa rất lớn. Khi họ bực ḿnh, chúng ta làm ǵ họ cũng đều thấy ngứa mắt. Khi họ vui thích, chúng ta làm chuyện chẳng đúng, họ cũng cảm thấy chẳng sao cả! Rất khó nắm bắt! Nhưng điều quan trọng nhất là chính ḿnh phải biết tu dưỡng, hằng ngày phản tỉnh, hằng ngày truy t́m lỗi lầm của chính ḿnh, hằng ngày sửa đổi, hằng ngày sửa lỗi đổi mới, như vậy th́ quư vị sẽ tiến cao hơn từng bước. Đấy là đúng. Tiêu chuẩn quyết định là nương theo giáo huấn của thánh nhân, xác thực là tiêu chuẩn tuyệt đối. Tiêu chuẩn cơ sở trong pháp thế gian, bước khởi đầu, chúng ta học Đệ Tử Quy, phải thực hiện từ chỗ này, nhập môn từ chỗ này. Trong Phật pháp, sẽ là kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo; đấy là cơ sở của chúng ta. Chẳng học từ chỗ này, quư vị sẽ vĩnh viễn chẳng có tiêu chuẩn. Chẳng có tiêu chuẩn, quư vị sẽ không biết chính ḿnh làm sai, [do v́] chẳng có một tiêu chuẩn để biện định đúng sai, tà chánh.

          Trong Đàn Kinh, Lục Tổ đă nói rất hay, ngoài mười ác, tám tà ra, mọi người đều hiểu rất rơ ràng, Ngài c̣n nói mười một loại tâm bất thiện, tâm bất hảo. Những thứ ấy đều là nẻo tà, là đường nhỏ, phải nên tránh né. Trước tiên là đối với hết thảy mọi người, hết thảy sự, hết thảy vật bất thiện, thiện là ǵ, ác là ǵ? “Bất thiện” là ác, bất lợi cho chúng sanh, chẳng có điều tốt lành. Chúng ta có một thí dụ hết sức rơ rệt, như trong xă hội hiện thời có nhiều nơi giải trí, thu hút rất nhiều khách hàng, nội dung biểu diễu đều là t́nh dục, bạo lực, giết, trộm, dâm, dối, bất thiện! Quư vị muốn người khác mua vé để kiếm tiền, dạy người ta học theo cái xấu, chuyện ấy có nên làm hay chăng? Làm nghề ấy, trước mắt đạt được một chút lợi lộc, tiểu lợi th́ vẫn là do trong mạng có. Nếu trong mạng quư vị chẳng có, quư vị làm sự nghiệp ấy sẽ bị cụt vốn, cũng chẳng làm nổi. [Làm nổi] là do trong mạng có. Chuyện này được nói thấu triệt trong giáo dục nhân quả. Quư vị đọc Liễu Phàm Tứ Huấn ba trăm lượt sẽ hiểu cái tâm ấy bất thiện! Do vậy, kẻ hiện thời kinh doanh ngành giải trí mà có thiện tâm, thiện ư ít lắm; nhưng họ chẳng biết là bất thiện, chẳng biết đấy là không tốt, cứ ngỡ là b́nh thường. Quư vị nói rơ ràng, minh bạch với họ, họ sẽ hoảng nhiên đại ngộ là đang hại người!

          C̣n có những tiệm ăn, tôi nghe các đồng học kể, thức ăn trong tiệm nào đó ngon lành, rất hấp dẫn mọi người, ăn rồi sẽ thường nghĩ đến tiệm ấy ăn nữa. Họ vừa ăn, vừa có âm nhạc, mà cũng có biểu diễn. Mức độ thấp nhất là tiệm có TV phát h́nh các tiết mục âm nhạc cho quư vị thưởng thức. V́ sao nó có thể thu hút người khác như vậy? Họ nói trong máy điều ḥa không khí, [chủ tiệm] có bỏ chất gây nghiện, giống như heroin hay morphine vậy, khiến cho quư vị khi hít thở ở chỗ đó sẽ cảm thấy rất hưng phấn, “quán này khá quá chớ!” Thế là dần dần đâm ghiền, chẳng đến quán của họ sẽ không được. Không đến quán của họ, sẽ không đă ghiền! Họ cứ ngỡ như vậy là thủ đoạn rất cao minh, rất thông minh, cái tâm bất thiện! Cạnh tranh nghề nghiệp chớ nên dùng loại thủ đoạn ấy. Nếu như quư vị lừa gạt, hại kẻ khác, tuy người ta chẳng biết quư vị hại họ, [chính quư vị] trốn chẳng thoát nhân quả đâu nhé! Trong xă hội hiện thời, chỗ nào cũng đều là bẫy rập, quư vị đi ra ngoài phải chú tâm, cẩn thận, quá đáng sợ!

          Do đó, v́ sao thế giới có tận thế, v́ sao có nhiều tai nạn như vậy, khá nhiều vị có chí, có ḷng nhân trên khắp thế giới đang suy tính cách hóa giải như thế nào, làm thế nào để có thể giúp cho chúng sanh giác ngộ. Thật sự nói xuyên suốt th́ vẫn là như năm mươi năm trước, tiên sinh Phương Đông Mỹ đă bảo: “Muốn hy vọng xă hội tốt đẹp, khôi phục sự b́nh thường, nhất định là phải quét sạch những thứ văn hóa tà vạy dụ dỗ con người”. Khi đó, thầy Phương nói, phải đóng cửa đài truyền h́nh, truyền thanh, phải đ́nh bản nhật báo, tạp chí, những thứ ấy hằng ngày hại người! Cụ nói rất có lư, nhất là nay chúng ta thấy giới khoa học thông báo, năm trăm con sông lớn trên thế giới, đă có một nửa (hai trăm năm mươi con sông) bị cạn nước. Trong năm trăm con sông ấy, có Hoàng Hà của Trung Hoa! Hiện thời, nước Hoàng Hà chẳng đổ ra biển, có hiện tượng khô kiệt. Vấn đề này rất nghiêm trọng, mấy ngàn năm qua, chưa hề có chuyện này! C̣n có rất nhiều con sông bị công nghiệp gây ô nhiễm, nước chẳng thể dùng để uống được, thậm chí chẳng thể dùng để tưới cây, chẳng thể dùng để trồng trọt ngũ cốc, các thứ lương thực! Quư vị thấy vấn đề này nghiêm trọng lắm, có thể dẫn đến suy giảm sản lượng lương thực trên thế giới. Sản lượng lương thực suy giảm, dân cư lại tăng thêm, chẳng biết trong tương lai sẽ có bao nhiêu người chết đói. Đấy là ǵ? Con người không biết yêu thương, bảo vệ thiên nhiên. Khoa học kỹ thuật phát triển, mặc t́nh phá hoại sanh thái tự nhiên, rừng rậm bị đốn phá!

          Khá nhiều nhân tố khiến cho nhiều con sông bị khô cạn, các khoa học gia công nhận nhân tố đầu tiên là rừng rậm bị chặt trụi. Chư vị phải biết, nay chúng ta dùng giấy, nguyên liệu để làm giấy là cây cối. Hằng ngày quư vị xem báo chí, chúng tôi không đọc báo, nhưng chúng tôi thấy báo biếu tặng. Mỗi tờ nhật báo dường như có mấy chục trang, chúng tôi ngồi máy bay thường trông thấy, đến hôm sau là chẳng dùng được nữa, [phải vứt đi]. Quư vị nói lượng tiêu hao hằng ngày của nhật báo, tạp chí nhiều cỡ nào, phải tốn bao nhiêu cây cối? Ngẫm lại đúng là quá đáng sợ! Thời cổ chẳng có hiện tượng này, [là v́] kỹ thuật ấn loát chẳng phát triển. Kỹ thuật ấn loát phát triển khiến rừng rậm gặp tai ương, họ cần lấy nguyên liệu.

          Nếu quư vị chú tâm quan sát, [sẽ thấy] thế giới này thật sự đang gia tăng tốc độ tiến đến tận thế. Chúng ta giác ngộ, đối với cuộc sống hằng ngày của chính ḿnh, chẳng thể không tiết kiệm, phải biết tiết kiệm nước uống. Nước uống lẫn nước sử dụng đều phải biết tiết kiệm, chớ nên lăng phí. Lăng phí là tội lỗi! Đối với tất cả hết thảy vật liệu cần thiết cho cuộc sống, quư vị phải biết hiện thời tài nguyên trên địa cầu hữu hạn, hiện thời đă cảm thấy hết sức thiếu hụt, đều phải nên quư tiếc, đều phải nên tiết kiệm, chớ nên lăng phí. V́ thế, chớ nên có cái tâm bất thiện; đó là con đường cong vạy! Cái tâm tà mê chính là con đường cong vạy! Đấy là ǵ? Chẳng có trí huệ. Người hiện thời rất dễ mắc lừa, chẳng có năng lực phân biệt chân, vọng, chẳng có năng lực phân biệt đúng sai, tà chánh, thường điên đảo, coi tà là chánh, coi chánh như tà, đối với chánh pháp bèn bài xích, đối với tà pháp lại đặc biệt biểu dương! Chuyện này phiền toái to lớn! Hăy ngẫm xem bản thân chúng ta có [khuyết điểm như thế] hay không? Thấy khá nhiều người như vậy, chúng ta rất đau ḷng. Sau khi đă mê, quay đầu khó lắm, rất khó khăn!

          Cái tâm cướp hại, nói thông thường sẽ là “tổn người lợi ḿnh”. Cái tâm tổn người lợi ḿnh chính là cái tâm cướp hại. “Cướp” là “cướp đoạt, chiếm đoạt”. Rất nhiều kiểu cọ, mánh khóe rất cao minh, khiến cho quư vị bị mắc bẫy mà chẳng hay chẳng biết, đến khi chính ḿnh rốt cuộc bị hại, hối hận chẳng kịp. Chuyện cướp hại thường thấy nhất là cờ bạc, quư vị hăy ngẫm xem cờ bạc có phải là cướp hại hay chăng? Khiến cho quư vị tự sa vào lưới rập. Quư vị vốn mong chẳng tốn công sức để hưởng, một vốn vạn lời. Ta đặt cược sẽ có thể thắng rất nhiều tiền; có kẻ nào phát tài là do dựa vào cờ bạc để lập nghiệp? Chẳng có lẽ ấy! Mười kẻ đánh bạc, chín kẻ thua cháy túi. Dùng phương pháp ấy để cướp đoạt tài vật của quư vị, bản thân quư vị hoàn toàn mê muội, bất giác! Khá nhiều kẻ [cứ mơ màng như thế đó], xưa nay trong ngoài nước đều có, dường như người Hoa đặc biệt có lắm kẻ khuynh gia đăng sản [v́ cờ bạc].

          Từ bé, tôi đă thấy một tấm gương. Dượng của tôi, tức anh rể của bố tôi, là con em nhà giàu, thích cờ bạc. Đến tuổi trung niên, thuở ấy [ông ta] c̣n chưa đến bốn mươi tuổi. Khi tôi ĺa khỏi quê hương, ông ta c̣n chưa đến bốn mươi tuổi mà đă tan nhà nát cửa. Vào thuở đó, tại quê nhà chúng tôi, gia tộc của họ khá giàu có, nhà xây bằng gạch, tường gạch mái ngói. Chúng tôi ở nhà lợp tranh, nhà tranh vách đất; c̣n nhà họ là tường gạch mái ngói, phải là kẻ rất có tiền. Cuối cùng, ngay cả căn nhà ấy cũng thua mất. Chúng tôi thấy người ta đến dỡ nhà, dỡ ngói xuống, cậy gạch lên, khuân đi. Cô tôi hằng ngày khóc lóc, dường như bà c̣n bốn, năm đứa con thơ! Trông thấy trạng huống thê thảm ấy, vốn một nhà cuộc sống rất hạnh phúc, đến cuối cùng gian nan ngần ấy, thua bạc mà! V́ thế, chúng tôi thấy sự cướp hại bèn nghĩ tới chuyện nhà cô tôi. Lại thấy trên thế giới hiện thời có rất nhiều ṣng bạc nổi tiếng, trông thấy đúng là rởn da gà, bao nhiêu người sau khi trót dính vào đă bị tiêu tan tài sản, sao lại khổ sở vậy!

          Tiếp đó, hăy xét tới cái tâm ác độc. Cái tâm hại người, trong tham, sân, si, nghiêm trọng nhất là sân khuể. Sân khuể nặng nề, ganh tỵ nặng nề, thấy kẻ khác có chuyện thù thắng, chuyện tốt đẹp, kẻ đó chẳng chịu nổi, nghĩ trọn đủ mọi phương pháp để chướng ngại, hăm hại. Đấy cũng là chuyện đă có từ xưa tới nay! Đức Phật răn dạy chúng ta chớ nên có cái tâm ấy. Hễ có cái tâm ấy, sẽ là địa ngục; không nói là tam đồ, mà là địa ngục! Trong cái tâm luân hồi, tâm bất thiện là tâm luân hồi. Trong cái tâm luân hồi, sẽ là tâm địa ngục. Chẳng thể dung nạp người tốt, chuyện tốt, nghĩ trọn mọi phương pháp để phá hoại, đáng sợ quá! Đức Phật bảo chúng ta, chúng ta thấy chuyện tốt của người khác, tức là thấy người tốt, chuyện tốt, sẽ có thể tu công đức mà chẳng tốn công phu. “Chẳng tốn công phu” là ǵ? Tán thán. Tán thán [kẻ ấy] mấy câu, công đức đấy!

          Trong Phật môn, chư vị phải biết, thù thắng nhất, không chi hơn giảng kinh, niệm Phật. Đấy là trong thời đại hiện tại. Ở chỗ này, hằng ngày giảng kinh, hằng ngày trong Niệm Phật Đường có người niệm Phật, nếu quư vị ở bên ngoài hủy báng: “Chẳng cần đến nghe, chẳng cần tới đó niệm Phật”. Đấy là cái tâm ác độc, quư vị đoạn Pháp Thân huệ mạng của người khác, đương nhiên là sẽ có quả báo. Báo đền quả báo xong xuôi; sau đấy, nếu trở lại nhân gian, sẽ ngu si. [Do v́] quư vị đoạn trí huệ của người khác, cho nên đời đời kiếp kiếp ngu si. Đến khi nào quư vị quay đầu, sám hối sửa lỗi, mới dần dần sanh trí huệ, rất phiền toái, chẳng dễ dàng! Quư vị phải thay đổi thái độ, giới thiệu người khác đến nghe kinh, khuyên người khác đến niệm Phật, công đức của quư vị sẽ to lớn. Thành tựu của người khác là thành tựu của chính ḿnh. V́ sao họ thành tựu? Ta tiếp dẫn họ, giới thiệu họ. V́ thế, cát, hung, họa, phước ở chỗ nào? Ở ngay trong một niệm của chính chúng ta. Một niệm thiện sẽ là cát, một niệm bất thiện là hung, là họa hại. Chớ nên không biết điều này!

          Lại nói đến ganh tỵ. Ganh tỵ chắc chắn là chẳng thể chấp nhận người khác vượt trỗi chính ḿnh, hoặc là có của cải, hoặc là thông minh, trí huệ. Người khác tốt đẹp hơn ta, ta chẳng bằng kẻ ấy, cái tâm ganh tỵ sanh khởi! Nghiêm trọng th́ làm thế nào để chướng ngại, hủy báng kẻ khác, không ǵ chẳng nhằm mục đích nâng cao chính ḿnh, có thể thu được hiệu quả trước mắt, nhưng từ nay về sau sẽ bị thua thiệt to lớn. Nh́n vào lịch sử, chúng ta thấy Nhạc Phi đời Tống bị Tần Cối ganh tỵ. Tống Cao Tông cũng ganh ghét Nhạc Phi. V́ sao? Khi ấy, họ tuổi c̣n rất trẻ, ba mươi mấy tuổi. Anh của Tống Cao Tông là Khâm Tông, cha nhà vua là Huy Tông. Cha và anh đều bị người Kim bắt làm tù binh, Cao Tông chạy trốn về Giang Nam[2], đóng đô ở Hàng Châu, tự làm hoàng đế ở nơi ấy. Nhạc Phi là danh tướng kháng Kim, trận nào cũng thắng lợi. Nếu Nhạc Phi thật sự nghênh đón cha và anh của Cao Tông trở về, trong ḷng Tống Cao Tông lo lắng, “sẽ để anh của ta [trở lại] làm hoàng đế hay do chính ḿnh làm?” Đương nhiên là cha của nhà vua sẽ không làm, cha trở về sẽ là Thái Thượng Hoàng, [Tống Cao Tông] lo âu chuyện ấy. Ngoài miệng nói là mong mỏi nghênh đón cha và anh quay về, trên thực tế là v́ lợi ích của chính ḿnh, quyết định chẳng để cho họ trở về! Tần Cối th́ nghĩ (Tần Cối là Tể Tướng), nếu Huy Tông và Khâm Tông thật sự trở về, luận công th́ Nhạc Phi công lao to nhất, có thể ngôi Tể Tướng sẽ là của Nhạc Phi, bản thân Tần Cối chẳng thể ngồi yên ở vị trí này được! V́ muốn bảo toàn địa vị quan chức của chính ḿnh, chỉ nghĩ phương cách diệt trừ Nhạc Phi, ḥa đàm với quân Kim, hết thảy sẽ đều duy tŕ hiện trạng. Họ đă xuất phát từ tâm thái ganh tỵ!

          Trong đời này, tôi đă thấy rất nhiều chuyện như vậy. V́ cái tâm ganh tỵ mà tạo thành tổn thương, tàn hại. Trước mắt là tổn thương, làm hại kẻ khác, đến cuối cùng, chắc chắn là chính ḿnh bị thương tổn, mắc hại nghiêm trọng. Quư vị thấy Tống Cao Tông và Tần Cối đáng gọi là “di xú vạn niên” (để lại tiếng xấu vạn năm) trong lịch sử. Nếu Tần Cối biết trước mộ phần của Nhạc Phi tạc tượng hắn (Tần Cối) bằng sắt, vĩnh viễn quỳ ở đó, tôi tin tưởng là hắn sẽ chẳng dám làm chuyện này! Măi cho đến hiện thời, đă một ngàn năm, chẳng có ai tha thứ cho hắn, để lại tiếng xấu muôn năm! Do ḷng ganh tỵ to lớn đă tổn thương, tàn hại quốc gia, dân tộc! V́ ganh tỵ một hai người mà làm tổn hại, thương vong quốc gia lẫn dân tộc, khiến cho dân tộc nhục nhă, v́ [lợi ích] cá nhân mà tạo ác nghiệp như thế ấy. Ḷng ganh tỵ nhỏ hơn th́ có thể làm hại, tổn thương một đoàn thể, tội ấy nặng lắm! Không chỉ là tổn thương, làm hại một người đâu nhé!

          Trong Phật pháp, mở đầu kinh Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo, trong quá khứ, chúng tôi đă giảng kinh này ba lượt. Kinh nói có hai vị pháp sư giảng kinh, thuyết pháp khá lắm, thính chúng rất đông. Hai vị pháp sư khác nẩy ḷng ganh tỵ, ở trong thính chúng hủy báng hai vị pháp sư, bảo: “pháp sư ấy tuy biết giảng kinh, chẳng có đức hạnh!” Thính chúng nghe xong, mất tín tâm đối với pháp sư, thính chúng ngày càng ít ỏi. Do ganh tỵ mà bịa chuyện, về sau bị đọa địa ngục. Tâm ganh tỵ là [sự ghen ghét] đối với một người nào đó, nhưng sự tổn hại đă khiến cho bao nhiêu thính chúng mất đi tín tâm, bị mất cơ duyên nghe kinh, nghe pháp. Do vậy, họ bị kết tội là kết từ chỗ này. Chưa chắc các pháp sư [bị họ hủy báng] đă có ḷng sân khuể đối với họ, chưa chắc đă muốn báo thù, nhưng có khá nhiều người [v́ họ bịa đặt mà] chẳng có cơ hội nghe kinh, nghe pháp, tu học bị thoái chuyển, hoặc đi theo tà đạo. Trách nhiệm nhân quả ấy to cỡ nào? Do vậy, họ đă tạo tội phá ḥa hợp Tăng, tạo cái nhân ác gây chướng đạo, quả báo là trong địa ngục A Tỳ. Há nên có cái tâm ấy!

          Phải biết, những cái tâm bất thiện đă tổn thương, làm hại chính ḿnh quá lớn, thường khiến cho chính ḿnh đời đời kiếp kiếp đọa trong địa ngục, chẳng thể thoát ra. Chúng ta chẳng có cách nào tưởng tượng nỗi khổ trong địa ngục, ngạn ngữ có câu “khi con người đau khổ, sống một ngày bằng cả năm”. Trong kinh, đức Phật đă dạy chúng ta, mở đầu kinh Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo, [có nói] hai kẻ bịa chuyện hủy báng, chướng ngại sự hoằng pháp, đọa trong địa ngục, tính theo thời gian trong nhân gian là một ngàn tám trăm vạn năm, chẳng biết trong địa ngục là bao nhiêu kiếp, có thể thấy đă tạo tội nghiệp nặng nề. Người xuất gia tạo nghiệp ấy lại càng đáng thương! Tần Cối tuy tạo nghiệp này, đă có người tiêu tội chướng cho hắn ta. Tiêu trừ bằng cách nào? Tượng sắt của hắn quỳ trước mộ Nhạc Phi, mỗi người đi qua đều nhổ một băi nước miếng, chửi hắn một tiếng. Đó là tiêu nghiệp chướng, c̣n có nhiều người tiêu nghiệp chướng cho hắn như thế. Quư vị là người xuất gia, làm chuyện ác, chẳng có ai tiêu nghiệp chướng cho quư vị, quư vị nói xem chuyện này có đáng sợ hay không?

          Đọc sách, học Phật th́ cái tâm phải tinh tế, phải đều có thể quan sát mọi mặt, nghiệp nhân quả báo chẳng thể nghĩ bàn! Hiện thời, thế gian này hoàn toàn chẳng có luân lư, đạo đức, tà tri tà kiến trọn khắp thế gian. Chuyện này giống như một tấm lưới to, chẳng có một ai mà ḥng trốn thoát! Nếu quư vị chẳng có thiện căn và phước đức thật sự, làm sao có thể bảo toàn chính ḿnh? Đừng nói là tạo lợi ích cho người khác, bảo toàn chính ḿnh cũng chẳng dễ dàng. Chỉ có chính ḿnh có thể bảo toàn, quư vị mới có thể giúp đỡ người khác. Giúp đỡ người khác, nhà Phật thường nói là “Phật độ người hữu duyên”. Chẳng có duyên th́ kẻ ấy chẳng thể tiếp nhận, kẻ ấy không tin, chẳng có mảy tâm tôn kính đối với Phật, đối với Pháp, đối với người hoằng pháp; đấy là kẻ vô duyên. Thành tựu trong pháp thế gian lẫn Phật pháp, đạt thành tựu to cỡ nào đều do ḷng thành kính. Xác thực là như tổ Ấn Quang đă nói rất hay: “Một phần thành kính sẽ được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích”. Hoàn toàn chẳng có ḷng thành kính, sẽ chẳng đạt được lợi ích ǵ. Đấy là “xả bất chánh đạo, vĩnh trừ ác kiến” (bỏ đạo bất chánh, vĩnh viễn trừ ác kiến). Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta nghỉ ngơi mấy phút.

***

          Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem tiếp bài kệ thứ chín:

 

          (Kinh) Nhược kiến trực lộ, đương nguyện chúng sanh, kỳ tâm chánh trực, vô siểm, vô cuống.

          ()若見直路。當願眾生。其心正直。無諂無誑。

          (Kinh: Nếu thấy đường thẳng, nguyện cho chúng sanh, cái tâm chánh trực, chẳng nịnh, chẳng dối).

 

           Chúng ta cũng thường nói “trực lộ” (直路) là đại lộ, gọi đường cong quẹo là tiểu lộ, đường tắt, ngơ nhỏ. Đi trên đường lớn bằng phẳng, thật sự là từng ly từng tí đều khải phát Tánh Đức của chúng ta lưu lộ viên măn. Chúng ta phải nên nghiêm túc học tập điều này. Các vị Bồ Tát hằng ngày đi khất thực, đi đường cũng thành thói quen, đại khái là luôn theo một hành tŕnh nhất định. Giống như ở đạo tràng này, các đồng học từ bốn phương tám hướng đến nghe kinh, bất luận quư vị là đi bộ hay ngồi xe đến. Xe cũng có lúc đi theo đường nhỏ, đi theo đường tắt. Có lúc xe chạy trên đại lộ, thời gian kẹt xe rất lâu; v́ thế, liền ṿng theo ngơ nhỏ, đâm ra có thể tiết kiệm thời gian. Chúng ta thường trải qua chuyện này, thậm chí mỗi ngày phải đi qua mấy con đường. Mấy con đường ấy có đường lên dốc, xuống dốc, có đường bằng phẳng, có đường ngoằn ngoèo, luôn thấy hiện tượng này; nhưng chúng ta chẳng phát ra nguyện này, chẳng bằng các vị Pháp Thân Bồ Tát. Khi Pháp Thân Bồ Tát đi đường, quư vị thấy các Ngài phát bao nhiêu nguyện, cho thấy niệm nào cũng đều tương ứng với Tánh Đức.

          Chúng ta ở trên đường, có người niệm Phật, khi chẳng niệm Phật sẽ luôn luôn là vọng tưởng. Dẫu sao, người niệm Phật rốt cuộc là thiểu số, kẻ dấy vọng tưởng, luống uổng thời gian chắc chắn là đa số. Người khác có trạng huống là ǵ, chúng ta chẳng cần phải quan tâm, đầu tiên là phải hỏi chính ḿnh (tự xét ḿnh). Nếu trong cuộc sống hằng ngày, thật sự từng ly từng tí đều tương ứng với Tánh Đức, quư vị sẽ phạm rất ít lầm lỗi. Đấy là điều khẳng định! V́ sao có lắm lầm lỗi ngần ấy? Phạm lầm lỗi trong cuộc sống, trong công việc, trong xử sự đăi người tiếp vật, [phạm lỗi] càng nhiều. Đến khi nào chúng ta thật sự có thể dấy lên cái tâm cảnh giác; khi ấy, công phu sẽ đắc lực, nói theo Tịnh Tông sẽ là “công phu thành phiến”. Công phu thành phiến sẽ nắm chắc văng sanh.

          Do đó, đối với thế gian hiện tiền, trong kinh giáo, đức Phật thường xuyên dạy chúng ta, phải coi thế giới như lữ quán, địa cầu là ǵ? Địa cầu là lữ quán trên đường lữ du, chẳng phải là chỗ cư trụ lâu dài. Ở vài ngày sẽ phải đi. Trong đời này, tôi đă được dưỡng thành quan niệm này từ bé, v́ sao? Chẳng có chỗ ở cố định. Trải qua nhiều năm ngần ấy, chẳng biết đă dọn chỗ ở bao nhiêu lượt. Chạy loạn trong thời Kháng Chiến, mỗi nơi ở dăm ba ngày ngắn ngủi rồi lại lên đường, ở lâu th́ đôi ba tháng, chẳng ở nơi cố định, chẳng có quan niệm về “nhà”! Sau khi đă xuất gia nhiều năm ngần ấy, năm mươi lăm năm, vẫn là không ở một nơi cố định, chẳng có chùa! Do vậy, chẳng phải là tôi thích đi khắp nơi, mà là chẳng có cách nào cả! Chỗ nào mời tôi giảng kinh, tôi sẽ đến chỗ đó; nói chung là chẳng có thời gian ở một nơi cố định. Những năm ở Mỹ, hằng năm đều đi giảng giáp ṿng mười mấy thành phố ở Mỹ và Gia Nă Đại, xác thực toàn là ở trong khách sạn! Sau khi trở về, ở chưa đầy nửa tháng hoặc một tháng lại phải đi, suốt đời đúng là nhọc nhằn bươn bả, chẳng ở chỗ nào cố định. V́ thế, chẳng có quan niệm “nhà”. Quan niệm đạo tràng cũng chẳng có, chẳng có đạo tràng! Tôi học theo gương Thích Ca Mâu Ni Phật, học tập lăo nhân gia. Lăo nhân gia suốt đời chẳng ở một nơi cố định, bên bờ sông, dưới cội cây, dẫn theo một nhóm đệ tử, giữa trưa ăn một bữa, nghỉ dưới cội cây, tôi có thể hiểu niềm vui thú trong cuộc sống ấy. Thân tâm đều chẳng có gánh nặng, chẳng có sức ép, nhà Phật nói là “tự tại”.

          Đi trên đường lớn, “đương nguyện chúng sanh, kỳ tâm chánh trực, vô siểm, vô cuống” (nguyện cho chúng sanh, tâm họ chánh trực, chẳng nịnh bợ, chẳng dối trá). “Siểm” () là siểm khúc, hay siểm mị, ta thường nói là bợ đỡ! Đối với kẻ có quyền thế, có tài sản, có thế lực, luôn nhắm đến mục đích chiếm một chút tiện nghi, kẻ b́nh phàm thường nói là “hưởng ké”, có cái tâm kiếm chác, cái tâm cầu cạnh. Cái tâm ấy bất thiện. Dẫu quư vị tu hành khá lắm, đă đoạn trừ cái tâm ấy, nhưng hữu ư hay vô t́nh hăy c̣n có tập khí. Tập khí khó đoạn, sẽ h́nh thành chướng ngại, nhân duyên gây chướng đạo. Dối trá, hư vọng là chuyện thường thấy xưa nay, trong nước lẫn ngoài nước, là những hiện tượng thường tự coi ḿnh là đúng, dẫu dùng lư lẽ áp đảo người khác, cũng chẳng khiến cho kẻ khác phục; những điều ấy đều thuộc loại dối trá. Nay kẻ b́nh phàm thường nói là chẳng buông thể diện xuống được, biết chính ḿnh đă sai, vẫn chẳng thừa nhận. Căn bệnh này cũng chẳng cạn, chướng ǵ? Chướng đạo, chướng học, [khiến cho] đạo nghiệp lẫn học nghiệp đều chẳng thể thành tựu. Đạo nghiệp và học nghiệp cần phải nhờ vào ǵ? Tấm ḷng rỗng rang, thành kính, khiêm hư, nhún nhường th́ mới có thể thành tựu học nghiệp, mới có thể thành tựu đạo nghiệp.

          Nh́n từ Liễu Phàm Tứ Huấn, quư vị thấy tiên sinh Liễu Phàm đă nhiều lần đi thi, ông ta trọn chẳng thuận buồm xuôi gió. Thi Cử Nhân, thi Tiến Sĩ, dường như phải đi thi Tiến Sĩ ba lượt, lần thứ ba mới đỗ, dường như Cử Nhân cũng phải thi hai lần. Đối với những bè bạn cùng đi thi, ông ta xem xét, có thể đoán rất chuẩn xác, có thể đoán định trong khoa thi này (lần này) trong các đồng bạn của chúng ta, có mấy người nhất định sẽ thi đỗ. Ông ta phán đoán thật sự chẳng sai tí nào! Khi yết bảng, quả nhiên đúng như lời ông ta nói. Người ta liền hỏi ông Viên, ông nh́n từ chỗ nào? [Ông Viên đáp: Tôi] thấy vị đồng học kia khiêm hư, thấy vị đồng học này ôn ḥa, lễ phép đối với người khác, tâm b́nh khí ḥa, chẳng có tập khí bộp chộp, hời hợt, người ấy nhất định sẽ thi đậu.

          Nói theo Phật pháp, tâm b́nh khí ḥa thuộc về Định. Tiểu định sẽ có tiểu huệ, đại định có đại huệ, định sanh huệ, lẽ đâu người ấy chẳng thi đỗ? Định là phước báo, người thật sự có phước cái tâm sẽ thanh tịnh, tâm b́nh khí ḥa. Hễ cái tâm bộp chộp, xáo động, thái độ và lời lẽ sẽ chẳng khoan dung người khác, kẻ ấy chẳng có phước! Thuở trước, tiên sinh Liễu Phàm đă phạm sai lầm ấy; v́ thế, nhiều lần đi thi đều trượt. Được thiền sư Vân Cốc giáo huấn cặn kẽ một phen, ông ta mới giác ngộ. Ông ta tự ngẫm chính ḿnh xác thực là chẳng có phước báo, xác thực là chẳng giống như người làm quan. Một phen kiểm điểm phản tỉnh như vậy, bèn sửa lỗi, đổi mới. Tuy sửa lỗi, đổi mới, tập khí rất khó đoạn! Đối với các đồng học, ông ta thấy người khác tốt đẹp, ông ta có ưu điểm này, chẳng ganh tỵ, chẳng ghen ghét người khác, mà c̣n tán thán.

          Do vậy, chúng ta mong tu phước, hăy tu phước báo thật sự từ chỗ nào? Quư vị phải hiểu, phước báo thật sự chính là tâm b́nh khí ḥa. Quư vị thật sự tâm b́nh khí ḥa; dẫu chẳng có phước báo, phước báo cũng sẽ mau đưa đến, chẳng xa! Nếu cái tâm bộp chộp, xáo động, dẫu quư vị có phước báo, đại khái cũng chẳng hưởng được mấy, sẽ nhanh chóng hưởng hết! Thật đấy! Chẳng giả tí nào! Nh́n vào cổ nhân, quư vị sẽ thấy rơ ràng, sau đấy mới cẩn thận quan sát những người quư vị đă quen biết trước mắt. Quư vị nh́n vào ngôn hạnh và cử chỉ của họ sẽ biết, sẽ hiểu rơ. Sau đấy, quay lại suy ngẫm chính ḿnh, sẽ tự biết phải nên tu như thế nào, phải nên học tập như thế nào? Liễu Phàm Tứ Huấn dạy chúng ta khá nhiều lư luận, phương pháp của ông ta xuất phát từ Công Quá Cách. Công Quá Cách chính là Thái Thượng Cảm Ứng Thiên. Suốt đời, Ấn Quang đại sư đề xướng Cảm Ứng Thiên Vựng Biên, đấy là tiêu chuẩn để đoạn ác, tu thiện, sửa chữa khuyết điểm. V́ thế, suốt đời tổ Ấn Quang toàn tâm toàn lực đề cao ba bộ sách Liễu Phàm Tứ Huấn, Cảm Ứng Thiên Vựng Biên, và An Sĩ Toàn Thư, tôn sùng suốt cả một đời!

          Năm 1977, lần đầu tiên tôi đến Hương Cảng giảng kinh, đă phát hiện [chuyện ấy]. Khi đó, tôi hết sức kinh ngạc, v́ ba thứ ấy đều chẳng phải là của Phật môn, Ngài là tổ sư của Tịnh Tông, là một vị tổ sư của cả một thế hệ, v́ sao chẳng tôn sùng kinh điển, mà lại tôn sùng ba thứ ấy? Tôi nghĩ suốt mấy tuần mới vỡ lẽ. Từ thế giới trong hiện thời, đă thấy rất rơ ràng. Đấy chính là lăo pháp sư có tầm nh́n xa sáng suốt. Xă hội chẳng có nhân quả, chẳng có luân lư, chẳng có đạo đức, nếu lại dùng luân lư và đạo đức để dạy sẽ rất khó, dùng nhân quả sẽ hữu hiệu hơn Nho và Phật. Nhưng trong hiện thời, ba tác phẩm ấy đều thuộc thể loại Văn Ngôn, trong nhà trường hiện thời, chỉ nói đến khoa Văn, chẳng nói đến những khoa khác, tŕnh độ Quốc Văn của các sinh viên khoa Văn đọa lạc ngàn trượng! Đọc những sách ấy, họ không hiểu. Do đọc không hiểu, họ sẽ chẳng xem!

          Chúng ta lư giải nỗi khổ tâm và bi nguyện của tổ sư, thật sự cứu khổ cứu nạn, rộng độ chúng sanh, làm như thế nào đây? Đối với người hiện thời, văn hóa hiện đại là TV. Chẳng có kẻ nào không xem TV, hằng ngày đều tốn một khoảng thời gian khá dài trước TV. V́ thế, chúng tôi đă biên soạn ba thứ ấy thành phim truyền h́nh nhiều tập. [Bộ phim] Liễu Phàm Tứ Huấn đă hoàn thành, có lẽ có thể ra mắt vào tháng sau. Sau khi phát hành, hy vọng các đồng học phải giới thiệu cho nhiều. Sau khi phát hành, có thể là đài truyền h́nh cũng sẽ chiếu. Ngoài đài truyền h́nh ra, chúng ta có thể làm đĩa CD với số lượng lớn để giới thiệu và biếu tặng. Các vị xem ở nhà hằng ngày, xem hằng ngày chẳng gián đoạn. Mỗi ngày coi một đĩa, coi trọn cả năm, tâm quư vị sẽ biến đổi, quư vị sẽ có năng lực phân biệt đúng sai, thiện ác, sẽ có năng lực phân biệt nhân quả báo ứng. Bộ kế tiếp là Cảm Ứng Thiên Vựng Biên, khá dài. Trong ấy có nhiều câu chuyện, rất hào hứng. Chúng tôi chọn ra ba mươi chuyện để trong tương lai làm thành phim TV dài ba mươi tập. An Sĩ Toàn Thư cũng làm ba mươi tập, tổng cộng [cả ba bộ phim] là tám mươi tập. Nhưng bộ thứ nhất, thoạt đầu chúng tôi dự định làm hai mươi tập, họ làm thành hai mươi ba tập. Người viết kịch bản, đạo diễn, diễn viên, cho đến nhân viên công tác đều hết sức hoan hỷ, hết sức cảm động bởi tiết mục này. Tôi nghĩ nhóm người được độ đầu tiên là họ. Họ chế tác, biên tập, đạo diễn, diễn xuất, được hưởng lợi ích trước hết. Đấy là chúng ta là những kẻ làm học tṛ đời sau, hiểu ư thầy, biết bi tâm của thầy, chúng ta nhất định phải kế thừa, phải phát huy rạng rỡ. Bộ phim truyền h́nh này phải mất hơn một năm mới hoàn thành.

          Dối trá lẫn siểm khúc đều phải buông xuống, đều phải vứt bỏ, ǵn giữ chánh trực. Chánh trực chính là Bồ Đề tâm được nói trong giáo pháp Đại Thừa. Trực tâm là đạo tràng. Tôi tin là rất nhiều đồng học đă từng nghe, từng đọc rồi: “Trực tâm là đạo tràng”. “Chánh” là chánh tri chánh kiến, trừ bỏ hết thảy siểm khúc, tâm quư vị mới là “trực” (, ngay thẳng). Trừ bỏ hết thảy tà kiến, quư vị mới có chánh kiến. Nho gia nói “thành ư chánh tâm”, ở đây “thành ư” (ư chân thành) được nói là Trực, c̣n Đại Thừa Khởi Tín Luận nói là Bồ Đề tâm. Cái Thể của Bồ Đề tâm là trực tâm, Bồ Đề tâm khởi tác dụng là thâm tâm và đại bi tâm. Thâm tâm và đại bi tâm gộp lại sẽ là “chánh tâm” như Nho gia đă nói.

          Trong Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, đức Thế Tôn giảng về Bồ Đề tâm. Thể của Bồ Đề tâm là chí thành tâm. Chí thành: Chân thành đến cùng cực th́ gọi là Chí Thành. Nó khởi tác dụng, chia làm hai loại, Tự Thọ Dụng và Tha Thọ Dụng. Tự Thọ Dụng c̣n gọi là thâm tâm, Tha Thọ Dụng gọi là hồi hướng phát nguyện tâm. Hợp kinh luận lại để xem, ư nghĩa cũng rất rơ rệt. Trực tâm như Khởi Tín Luận đă nói chính là chí thành tâm trong Quán Kinh. Chân thành đến cùng cực, sẽ là trực tâm. Do vậy, gộp kinh luận lại, quư vị sẽ thấy rơ ràng. Thâm tâm th́ hai đằng (kinh và luận) đều như nhau. Luận nói là thâm tâm, kinh cũng nói là thâm tâm. Thâm tâm là ǵ? Tựa đề kinh Vô Lượng Thọ đă nói rơ ràng, “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”. Đối đăi chính ḿnh, thâm tâm là Tự Thọ Dụng, chân thành tâm là đối với chính ḿnh, đó là ǵ? Chính là cái tâm thanh tịnh, ĺa hết thảy nhiễm ô, tâm quư vị sẽ thanh tịnh. Ĺa hết thảy siểm khúc, dối trá, kiêu căng, ngă mạn, cái tâm bèn b́nh đẳng. Ĺa hết thảy si mê, tâm quư vị bèn giác. V́ thế, “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” là Tự Thọ Dụng của Bồ Đề tâm.

          Chúng ta tu hành là tu ǵ? Tựa đề kinh Vô Lượng Thọ đă nói tu hành gồm năm chữ, “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”. Nói đến quả báo, phần đầu [của tựa đề kinh] chính là quả báo, Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm. Đấy là quả báo, Vô Lượng Thọ là chánh báo, Trang Nghiêm là y báo, y báo và chánh báo trang nghiêm. Tu thành bằng cách nào? Dùng “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” để tu thành. Ngay trong tựa đề kinh chính là sự tu nhân, chứng quả, c̣n nói tỉ mỉ sẽ là [nội dung] của bộ kinh Vô Lượng Thọ. Từ kinh ấy, trước hết chúng ta thấy y báo và chánh báo trang nghiêm, sự trang nghiêm trong thế giới Cực Lạc được tu bằng cách nào? Nay trong các phương pháp, chúng ta chọn cách tŕ danh niệm Phật, chấp tŕ danh hiệu, nhằm mục đích ǵ? Mục đích là “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”. Quư vị dùng câu A Di Đà Phật có niệm cho ra cái tâm thanh tịnh hay không? Có niệm cho cái tâm quư vị b́nh đẳng hay không? Có phải là niệm nào cũng đều là giác chứ không mê hay không? Công phu niệm Phật đắc lực!

          Nếu chẳng thể đào ra Tánh Đức của chính ḿnh, “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” là Tánh Đức, Phật hiệu giống như công cụ đào ra kho báu Tánh Đức, quư vị sẽ giống như chẳng niệm, niệm có tác dụng ǵ? Phải niệm như thế nào để lấy ra được thanh tịnh, b́nh đẳng, giác? Trong ấy có phương pháp, quư vị phải hiểu! Trong cuộc sống hằng ngày, công việc, xử sự, đăi người tiếp vật, lục căn tiếp xúc cảnh giới lục trần, nói chung là chẳng thể tránh khởi tâm động niệm, nẩy sanh thất t́nh, ngũ dục. Những thứ ấy chính là ǵ vậy? Nhiễm ô. Thấy dễ coi bèn nh́n chằm chặp, nếm thấy ngon miệng bèn muốn ăn nhiều hơn một tí, tham đấy nhé! Tham, sân, si, mạn đă dấy lên, quư vị đă bị nhuốm bẩn! Khi ấy, sẽ làm như thế nào? “A Di Đà Phật” để chấm dứt ư niệm ấy. Đó là “biết niệm Phật”.

          Trong cảnh giới, bất luận là người, sự hay vật, hễ [thứ ǵ] có thể khiến cho chúng ta tham ái, hăy “A Di Đà Phật” để gạt bỏ tham ái. Đối với những thứ có thể khiến cho chúng ta chán ghét, hăy “A Di Đà Phật” để gạt bỏ sự chán ghét. Một câu A Di Đà Phật bảo vệ, che chở quư vị đạt được cái tâm thanh tịnh. Quư vị có niệm theo cách ấy hay không? Phàm những ǵ khiến cho quư vị sanh phiền năo, những ǵ khiến cho quư vị dấy động t́nh dục, hăy dùng một câu Phật hiệu để áp chế. Khi thất t́nh ngũ dục dấy lên, một câu Phật hiệu bèn áp chế nó, chế phục phiền năo, thật sự chế phục. Hễ gặp chuyện chẳng như ư, cái tâm sân khuể sanh khởi, sắp nổi cáu, khi ấy bèn giác ngộ, “A Di Đà Phật”, đè nén sân khuể! Nói cách khác, vĩnh viễn ǵn giữ tâm b́nh khí ḥa, quư vị sẽ ở trên đường Bồ Đề, đi trên chánh đạo. Hễ dấy động t́nh thức, sanh khởi tham, sân, si, mạn, quư vị đang đi trên tà đạo!

          Tham, sân, si, mạn là ba ác đạo, chư vị phải biết, ba ác đạo đấy nhé! Hễ dấy lên tham, sân, si, mạn, hăy ngay lập tức giác ngộ, ta chẳng phải là hành Bồ Tát đạo, mà là hành ba ác đạo. Chính ḿnh hăy suy ngẫm cặn kẽ, nếu từ sáng đến tối, từ mồng Một Tết cho đến Ba Mươi Tháng Chạp, tham, sân, si, mạn nhiều, quư vị đang hướng đến ba ác đạo. Hằng ngày tu hành là tu ǵ vậy? Tu ba ác đạo. Nếu quư vị từ sáng đến tối xa ĺa ba ác đạo, xa ĺa tham, sân, si, mạn, sẽ là Thập Thiện Nghiệp Đạo. Thập Thiện Nghiệp Đạo là nhân thiên đại đạo, là thành Phật chi đạo. Đấy là “tâm chánh trực”. Niệm Phật phải niệm theo cách như vậy th́ mới được, mới có thọ dụng. Chẳng phải là nói “tôi mỗi ngày niệm Phật mấy vạn câu”. Niệm mấy vạn câu mà vẫn có tham, sân, si, mạn, chẳng có tí xíu hữu dụng chi hết! Đúng như cổ nhân thường bảo: “Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn, gào toạc cổ họng vẫn uổng công”. Mỗi ngày niệm mười vạn câu đều uổng phí, vô dụng, chẳng đắc lực. Thấy điều ǵ hợp ư của chính ḿnh bèn hoan hỷ, chẳng hợp ư ḿnh bèn nổi cáu, mỗi ngày niệm mười vạn câu đều vô dụng! V́ thế, niệm Phật th́ phải biết niệm ǵ? Niệm thanh tịnh, b́nh đẳng, giác. Ta niệm Phật, cái tâm thanh tịnh có hiện tiền hay không? Tâm b́nh đẳng có hiện tiền hay không? Ta thấy người này bèn ưa thích, thấy kẻ kia bèn chán ghét, quư vị đă bất b́nh, vẫn si mê, chẳng giác ngộ, trí huệ chẳng mở mang, thanh tịnh, b́nh đẳng, giác thảy đều chẳng có, quư vị niệm Phật kiểu đó sao được?

          Lại thưa cùng chư vị, tông phái trong nhà Phật rất nhiều. Trong kinh, đức Phật thường nói tám vạn bốn ngàn pháp môn. Chúng ta hằng ngày thường niệm Tứ Hoằng Thệ Nguyện, “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Vô lượng pháp môn là nói pháp môn nhiều lắm. “Pháp” là phương pháp, “môn”môn kính (門徑, cửa nẻo). Phương pháp và cửa nẻo rất nhiều, tu ǵ? Thưa cùng chư vị, toàn là tu giác, chánh, tịnh. Tham Thiền cũng là tu giác, chánh, tịnh, tŕ chú vẫn là tu giác, chánh, tịnh, học Giáo và niệm Phật đều chẳng phải là ngoại lệ. Giác, chánh, tịnh hiện tiền, tức là công phu đắc lực. Chẳng có giác, chánh, tịnh, quư vị đă tu uổng công mất rồi! Tham Thiền chẳng đạt được giác, chánh, tịnh, tŕ chú chẳng đạt được giác, chánh, tịnh, học Giáo, niệm Phật chẳng đạt được giác, chánh, tịnh”, vẫn phải luân hồi, chẳng có cách nào thoát ly luân hồi! Thầy Lư bảo: “Công phu chẳng đắc lực, chẳng tránh khỏi luân hồi bao kiếp dài lâu!” Thời gian luân hồi trong lục đạo khá dài, để luận định, phải tính bằng kiếp số. Tuy gieo một tí thiện căn trong Phật pháp, do công phu không đắc lực, không thoát khỏi luân hồi, chẳng có cách nào văng sanh, đạo lư ở chỗ này! Chúng ta chớ nên không biết điều này, giác, chánh, tịnh trọng yếu như thế đó.

          Hiện thời có rất nhiều người hỏi, rốt cuộc chúng ta thực hiện từ chỗ nào? Tôi bảo các đồng học, nhất định phải tuân thủ tổng nguyên tắc, tổng cương lănh tu học do đức Thế Tôn đă dạy, phải nắm được! Tổng nguyên tắc, tổng cương lănh là ǵ? Tịnh Nghiệp Tam Phước được nói trong Quán Kinh chính là tổng nguyên tắc, tổng cương lănh. Quư vị trái nghịch điều này, thứ ǵ cũng đều chẳng thể thành tựu. Điều đầu tiên trong tổng nguyên tắc và cương lănh là “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng”, ai nấy đều hiểu. Kinh Địa Tạng là Hiếu Kinh của Phật môn, Địa Tạng Bồ Tát là hiếu tử của Phật môn, Ngài làm cho chúng ta thấy, hiếu đạo phải tu như thế nào? Nay chúng ta dùng Đệ Tử Quy thay thế Tiểu Thừa, quư vị có thể thực hiện Đệ Tử Quy một trăm phần trăm, tức là quư vị đă thực hiện hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng. Dùng điều này làm cơ sở, rồi lại học Thập Thiện Nghiệp Đạo, Thập Thiện Nghiệp Đạo cũng thực hiện một trăm phần trăm, như vậy là quư vị đă làm được “từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp”. Đă làm được điều thứ nhất, quư vị có thể tăng tấn, tăng tấn ǵ vậy? Học Phật, quư vị có tư cách học Phật. Quư vị đă trọn đủ điều kiện học Phật. Chẳng có hai điều trước, quư vị sẽ chẳng thể thật sự học Phật. Thật sự muốn học, nhưng quư vị chẳng có năng lực ấy, [bởi lẽ] chẳng trọn đủ điều kiện. Quư vị mới hiểu điều này trọng yếu.

          Cớ sao nói là chẳng trọn đủ điều kiện? Quư vị chẳng thể tŕ giới. V́ sao người thời cổ có thể tŕ giới, người hiện tại chẳng thể tŕ giới? Thời cổ, mọi người đều có cơ sở này. V́ thế, họ chẳng có vấn đề. Người hiện thời chẳng học những thứ của Nho gia, đương nhiên là càng không học những thứ của Đạo gia. Cũng chẳng muốn học Tiểu Thừa! Hâm mộ Đại Thừa, vừa nhập môn bèn tiến vào Đại Thừa, có tiến vào nổi hay chăng? Chẳng có! Ở ngoài cửa Đại Thừa, chẳng nhập môn. Chớ nên không biết những chân tướng sự thật này! Sau khi đă biết, chớ nên không cảnh giác, làm như thế nào đây? Học tập bổ sung, học bù! Bổ sung Đệ Tử Quy, bổ sung Thập Thiện Nghiệp Đạo, bổ sung Tam Quy, Ngũ Giới, bổ sung Sa Di Luật Nghi, đấy là các vị đồng học xuất gia, quư vị mới có cơ sở, giống như cây cối hoa cỏ, quư vị mới có căn cội. Chỉ cần có rễ, nhất định sẽ nẩy mầm, nhất định sẽ đâm tược, đơm bông, kết trái! Vấn đề trong sự học Phật hiện thời chính là chẳng có căn cội. Mong học cỡ nào, học cách nào đi nữa, đều chẳng thể thành tựu, nguyên nhân ở chỗ này, chớ nên không biết!

          Trước kia, người xuất gia đều hiểu, đều có cơ sở. Người xuất gia không chỉ có thể tự chăm sóc chính ḿnh, mà chắc chắn c̣n có thể chăm sóc đại chúng, việc ǵ cũng đều biết làm. Thường nói là người xuất gia có ba con dao. Ba con dao nào vậy? Đầu tiên là dao cạo tóc, có thể tự cạo tóc. Thứ hai là dao xén, chính ḿnh có thể may y phục. Thứ ba là dao xắt, chính ḿnh có thể nấu cơm. Cuộc sống cơ bản đấy mà! Nay chúng ta có thể làm như vậy hay không? “Chẳng thể” th́ không được rồi! Ai sẽ chăm sóc quư vị? Những việc nặng nề trong tự viện am đường xưa kia là do ai làm? Chẳng phải là người làm công quả, cũng chẳng phải là nhờ người ngoài làm, mà là do kẻ mới xuất gia [đảm nhiệm]. Năm năm học giới, khi quư vị mới xuất gia, trong năm năm, quư vị phải chăm nom đại chúng; sau đấy, quư vị sẽ được nâng cao, những kẻ đến sau sẽ chăm nom quư vị! Năm năm học giới chính là học quy củ; cũng có nghĩa là trong năm năm, nhất định phải thực hiện như chúng tôi đang nói hiện thời, Đệ Tử Quy, Thập Thiện Nghiệp, Tam Quy, Ngũ Giới, và Sa Di Luật Nghi, phải thực hiện trong năm năm. Đấy là hành kinh (行經, kinh để hành tŕ), nay ta nói là “tu dưỡng đức hạnh”, thật sự là cơ sở. Há có vị Bồ Tát nào chẳng có đạo đức?

          Sau đấy mới từ trong kinh giáo, đó là chỗ khác nhau giữa các tông phái, quư vị muốn học một môn nào, sẽ tiến nhập tông phái ấy để học Giáo. Học Giáo là trong năm năm chẳng có ai giảng, sư phụ giao kinh bổn cho quư vị học thuộc. Quư vị niệm hằng ngày cho thuộc. Sau năm năm, quư vị mới có tư cách bước vào giảng đường nghe kinh, vào Niệm Phật Đường niệm Phật, hoặc là tham Thiền trong Thiền đường. Quư vị thấy trước hết là năm năm tu phước; quư vị chẳng có phước báo, lấy đâu ra trí huệ? Trước hết, phải hầu hạ, chăm sóc đại chúng, năm năm sau đó, quư vị có thể tiếp nhận người khác chiếu cố. Đấy là nhân quả, ta chiếu cố người trước, đương nhiên là người sau sẽ chiếu cố ta. Đó là thông lệ trước kia. Chẳng nói nay ta vừa xuất gia bèn học kinh giáo, chuyện ǵ trong thường trụ cũng đều chẳng phải làm, có thể đến Niệm Phật Đường niệm Phật, đến Thiền đường tham Thiền, phước báo chẳng tránh khỏi quá to đấy nhé! Phước báo quá to, tiêu thụ không nổi, sẽ là trạng huống ǵ? Trăm bệnh đều sanh, các chứng bệnh đều xuất hiện, [nguyên nhân là v́] quư vị chẳng có phước báo to lớn như vậy [mà ra]. Hằng ngày hông đau, lưng nhức, chỗ này không khỏe, chỗ kia không ổn, hằng ngày phải đi bác sĩ, hằng ngày phải uống thuốc, quả báo đấy mà! Chính ḿnh phải thấy rất rơ ràng, rất minh bạch!

          Lứa tuổi tôi vào thuở ấy, khi xuất gia vẫn phải chăm sóc lăo ḥa thượng. Trước khi xuất gia, tôi ở lều tranh của pháp sư Sám Vân tại Bộ Lư nửa năm. Công việc của tôi là chăm sóc ba vị pháp sư trong lều tranh và một vị cư sĩ. Ba vị pháp sư ấy là pháp sư Sám Vân, pháp sư Đạt Tông, và pháp sư Bồ Diệu. Trồng rau trên núi, đẵn củi ([thật ra], củi chẳng phải đốn, v́ trên núi cành cây rất nhiều, mỗi ngày chỉ đi nhặt củi), dọn rửa nhà vệ sinh, gánh phân, cũng trồng một ít rau, làm bếp. Đấy là công việc của tôi, tôi làm nửa năm. Sau khi rời khỏi đó, đến Đài Trung thân cận thầy Lư, theo thầy học kinh giáo. Ở Đài Trung, vừa đúng dịp thầy lập Từ Quang Đồ Thư Quán, tôi thay thầy làm nhân viên quản lư, coi như là nhân viên trong thư viện, mang thân phận người làm công quả. Sau khi xuất gia, thường trụ phân chia việc cho tôi. Công việc cố định là quét đất, quét sân, c̣n những công việc bất ngờ cũng rất nhiều, phải v́ thường trụ phục vụ. Vừa xuất gia mà giống như hiện thời đi học Phật Học Viện, phước báo ấy rất lớn. Nhưng tôi cũng thấy học tṛ trong các Phật Học Viện chẳng mạnh khỏe, trong tâm tôi hiểu rơ v́ sao họ chẳng khỏe mạnh! Hưởng phước báo quá lố đó mà! Phương pháp của cổ nhân hay lắm, sau năm năm quư vị mới có thể đi học, cơ sở của quư vị đă được đặt vững rồi; v́ thế, họ có thành tựu. Hiện thời chẳng đắp nền, sau khi học xong tại Phật Học Viện, vẫn chẳng thể thành tựu, đạo lư là ở chỗ này, chớ nên không hiểu! Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi nói tới chỗ này.

Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh

Phẩm thứ mười một,

Tịnh Hạnh Phẩm

Phần 32 hết

 



[1] Giai Phường Phước Lợi Hội (Kaifong Welfare Association) là một tổ chức tương trợ của Hương Cảng, được thành lập từ năm 1949 dưới sự giúp đỡ của Dân Chánh Sự Vụ Tổng Thự (Home Affairs Department) của chính quyền thuộc địa Hương Cảng. Giai Phường (街坊) có nghĩa là những người sống trong cùng một khu phố. Hiệp Hội được thành lập nhằm cung cấp những dịch vụ giáo dục và y tế với chi phí rẻ cho dân tỵ nạn đến từ Hoa Lục. Dần dần, hiệp hội c̣n cung cấp những dịch vụ pháp lư và bảo vệ môi trường.

[2] Tống Cao Tông tên thật là Triệu Cấu, tự Đức Cơ, con trai thứ chín của Tống Huy Tông (Triệu Cát). Tống Huy Tông ưa thích mỹ thuật, chỉ chú tâm kiến tạo những công tŕnh nghệ thuật to lớn, trọng dụng gian thần Thái Kinh, Đồng Quán, khiến công khố gần như cạn kiệt. Năm Tuyên Ḥa thứ 10 (1125), Kim Thái Tông (Hoàn Nhan Thịnh) sai Hoàn Nhan Tà Dă Hoàn Nhan Tông Dụ dẫn quân xâm lăng biên cảnh nước Tống. Tống Huy Tông lúng túng không biết đối phó ra sao, bèn nhường ngôi cho con là Triệu Hoàn (tức Tống Khâm Tông), lên làm Thái Thượng Hoàng. Năm Tĩnh Khang thứ hai (1127), quân Kim đại phá quân Tống, cầm tù cha con Huy Tông và Khâm Tông, đưa về Yên Kinh (Bắc Kinh), bắt họ bái lạy thái miếu nhà Kim, quỳ lạy xưng thần trước Kim Thái Tông. Khi quân Kim chuẩn bị rút quân, đă lập Trương Bang Xương làm hoàng đế, đổi quốc hiệu thành Sở. Trương Bang Xương phải mượn danh nghĩa Mạnh Thái Hậu để lập Triệu Cấu lên làm vua, tức Tống Cao Tông, lập ra nhà Nam Tống.