Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần
33
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng
Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh
Tiến
Tập 1527
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống.
Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một, đoạn
lớn thứ sáu trong phần kệ tụng, xem từ bài
kệ thứ mười:
(Kinh) Kiến lộ đa trần,
đương
nguyện chúng sanh, viễn ly trần bộn, hoạch thanh
tịnh pháp.
(經)見路多塵。當願眾生。遠離塵坌。獲清淨法。
(Kinh: Thấy đường nhiều bụi, nguyện
cho chúng sanh, măi ĺa bụi nhuốm, đắc pháp thanh tịnh).
Trên
đường, rất nhiều bụi đất, chúng ta
nói là “tro bụi rất nhiều”,
đặc biệt là chỗ xe, ngựa qua lại. Giao thông
hiện thời quá nửa là đường trải nhựa,
hoặc đúc bằng xi-măng, hiện tượng bụi
bặm cũng rất ít. T́nh h́nh như được nói
trong kinh, [chính là t́nh h́nh thường thấy] trong thời
Kháng Chiến khi [Trung Hoa] đánh nhau với người Nhật Bản. Lứa tuổi tôi vào thuở ấy c̣n là học
tṛ, đại khái là lúc mười mấy tuổi. Khi Kháng
Chiến khởi đầu, tôi mười một tuổi.
[Kháng Chiến kéo dài] tám năm. Trong tám năm ấy, quả
thật chúng tôi đă đi qua rất nhiều con đường,
đi lánh nạn qua rất nhiều nẻo đường.
Đặc biệt là xa lộ trong thời Kháng Chiến, xa
lộ thuở ấy c̣n là đường rải cát và
đá, xe hơi chạy qua, phía sau bụi bặm bốc lên rất cao. Dẫu ngồi xe công cộng, hễ
đi xa, từ thành thị này sang thành thị khác, sau khi xuống
xe, bụi bặm đầy mặt, đầy thân, nhất
định phải rửa mặt, rửa tay, rửa chân kỹ
lưỡng, lại c̣n phải giặt áo. Đường
sá hiện thời đă hoàn toàn thay đổi, chẳng có
t́nh h́nh ấy!
Đức
Thế Tôn dạy chúng ta, ở trên đường, trông thấy
t́nh huống đường sá ấy, hăy dẫn phát đại
nguyện. Ở Hương Cảng hiện thời, rất khó trông thấy t́nh huống đường
sá như thế. Bất quá, giống như khí trời hôm nay, không
khí bị ô nhiễm hết sức nghiêm trọng,
Hương Cảng và Cửu Long đối diện nhau mà
không thấy! Nay chúng ta thấy nhiều bụi bặm trong
không trung! Phàm là đi đường, trên đường
và không trung giống nhau, nhưng trước kia, dường
như hiện tượng [bụi bặm] trên không trung giống
như thế này rất ít. Ba mươi năm trước,
tôi cũng chẳng thấy có hiện tượng như vậy.
Do vậy có thể biết, những năm gần đây,
không khí bị ô nhiễm hết sức nghiêm trọng. Nguyện
được dẫn phát chắc chắn là giống nhau, “đương nguyện chúng sanh,
viễn ly trần bộn” (nguyện cho chúng sanh, xa ĺa bụi
nhuốm). Nay không khí cũng bị ô nhiễm, chúng ta đổi
hai chữ ấy (“trần bộn”)
thành “ô nhiễm”: “Viễn ly ô nhiễm, hoạch
thanh tịnh pháp” (xa ĺa ô nhiễm, được pháp
thanh tịnh).
Khá
nhiều đồng học đều biết, hiện thời,
ô nhiễm nghiêm trọng đă uy hiếp sự sinh tồn
của người và vật trên địa cầu. Ô nhiễm
đến mức độ [trầm trọng] như vậy!
Ô nhiễm nghiêm trọng nhất là khí quyển và biển cả.
Nếu là người có đôi chút kiến thức khoa học
sẽ biết, chứ kẻ b́nh phàm vẫn chưa thể
cảm nhận; nhưng rất nhiều người đă
từng nghe nói đến cái gọi là “cân bằng sanh thái trên địa cầu”. Phàm là
những động vật sanh trưởng trên địa
cầu cũng thế, thực vật cũng thế, khoáng
vật cũng thế, bất cứ loại sinh vật nào
cũng đều có tác dụng giúp cho sự cân bằng
sanh thái trên địa cầu. Thiếu một thứ, sẽ
dính dáng những thứ khác, chúng ta gọi là “nẩy sanh tác dụng phụ”.
Nói thật ra, toàn thể địa cầu giống như
thân người chúng ta. Quư vị nh́n vào thân thể con
người, hăy chú tâm quan sát, bên ngoài có ngũ quan, có tứ
chi, có thân thể, bên trong có ngũ tạng, lục phủ, có
hệ thống thần kinh. Thiếu một thứ, thân thể
sẽ không khỏe mạnh. Chẳng phải là thiếu một
thứ cũng chẳng có quan hệ to tát ǵ đâu nhé! Nó
liên quan đến các khí quan khác, ảnh hưởng những
kinh mạch khác. Yêu thương, bảo vệ thân thể của chính ḿnh, phải nên giống như cổ
nhân đă nói, “phải trân quư
lông tóc của chính ḿnh”. V́ sao? Chỉ cần chúng tồn
tại, mọc trên thân thể, sẽ chẳng đánh mất
sự cân bằng sanh thái trên thân thể. Chúng ta dễ dàng thông
hiểu điều này, nhưng đă sơ sót đối với
địa cầu. Toàn thể địa cầu chẳng
khác thân thể của mỗi người. Tiểu vũ trụ và đại
vũ trụ hoàn toàn giống nhau.
Trước
kia, dân số ít, chẳng đông đúc như hiện
thời, khoa học kỹ thuật chưa phát minh, hoàn cảnh
sống bị ô nhiễm rất ít. Chúng ta rất hiếm
khi nghe nhắc tới danh từ “ô nhiễm”. Từ đầu
thế kỷ này cho tới hiện thời, đặc biệt
là trong nửa thế kỷ gần đây, khoa học kỹ
thuật tiến bộ quá nhanh chóng, đột nhiên tăng lên mạnh
mẽ, khác lạ từng tháng, từng ngày! Thoạt nh́n
dường như là tiến bộ, khoa học kỹ thuật
tiến bộ, nhưng ḷng người, luân lư, đạo
đức bị thoái chuyển trên một mức độ
to lớn. Có thể nói là hiện thời đă thoái chuyển
đến tận đáy hang, đem lại nguy cơ nghiêm
trọng cho sanh thái của địa cầu! Hiện thời,
mọi người biết trên địa cầu này c̣n sót
lại hai mảnh tịnh thổ, một là Nữu Tây Lan
(New Zealand), hai là Úc. Chỉ có ở nơi đó,
quư vị có thể thấy trời xanh, mây trắng, có thể
thấy nước biếc, non xanh. Ở bên đó, chắc
chắn chẳng thấy t́nh trạng không khí ô nhiễm
như tại Hương Cảng trong hiện thời. Ngoài
hai chỗ ấy ra, những đại đô thị khác
trong các quốc gia trên thế giới gần như [đều
ô nhiễm] chẳng khác biệt cho mấy!
Tôi
đă ở Lạc Sam Cơ (Los Angeles) một khoảng thời gian, không trung của Lạc Sam Cơ không khác
Hương Cảng cho mấy, bất quá trạng huống
giống như hôm nay th́ chẳng thường thấy! Chẳng
thấy trời xanh, mây trắng; buổi tối chẳng
thấy tinh tú sáng ngời. Gần như là các đại
đô thị trên cả thế giới đều có vấn
đề. V́ thế, chánh phủ của mỗi quốc gia trên thế
giới đều cực lực khuyên nhủ dân chúng phải
biết bảo vệ môi trường, bảo vệ
hoàn cảnh. Ba năm trước, chẳng nghe nhắc tới
danh từ “bảo vệ môi
trường”! Đấy là đă ư thức
phẩm chất của hoàn cảnh sống đang bị ô
nhiễm quá nghiêm trọng. Nếu chẳng thể cải
thiện, chuyện
cải thiện xác thực
là đ̣i hỏi
toàn thể cư dân đều
có ư thức này, cùng nhau hợp tác th́ mới có thể hoàn
thành được, nhưng gần như là
đại chúng trong xă hội hiện thời, ai nấy
đều nghĩ tới
lợi ích của bản
thân, chẳng nghĩ đến lợi ích của mọi người.
Chỉ cần thuận tiện cho chính ḿnh, chẳng
nghĩ tới sự an toàn của xă hội. Công việc bảo
vệ môi trường có thể thực hiện tốt
đẹp được sao?
Đối với sự ô nhiễm, quan trọng nhất là ô nhiễm tinh thần,
ô nhiễm tâm lư. Ô nhiễm nơi cảnh
giới bên ngoài xác thực là một loại hiện tượng
phản xạ sự ô nhiễm nơi thân tâm, đạo lư này rất sâu. Trong Phật pháp
thường nói: “Y báo chuyển
theo chánh báo”. Hoàn cảnh bên ngoài là y báo, c̣n chánh báo chính là cái
tâm của chúng ta, nay nói là “tinh
thần, tâm lư”. Tâm vốn
thanh tịnh, trong Phật pháp thường nói ngũ dục,
lục trần là ô nhiễm. Ngũ dục là nói đến
tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê. Quư vị
mơ tưởng những thứ ấy, cái tâm đă bị
ô nhiễm. Lục trần là sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp. Lục căn tiếp xúc lục trần, sẽ dấy
lên thất t́nh, ngũ dục, dấy lên tham, sân, si, mạn.
Chư vị hăy ngẫm xem, hiện thời chúng ta có phải
là như vậy hay không? Đấy là ô nhiễm, ô nhiễm
nghiêm trọng! Phật, Bồ Tát chẳng giống chúng ta,
chẳng giống như thế nào? Quư vị xem một
trăm bốn mươi mốt bài kệ này, [sẽ thấy]
khác hẳn! Thấy sắc, nghe tiếng, niệm nào
cũng trở về tự tánh. Hai câu cuối trong mỗi
bài kệ quyết định là tương ứng với
tự tánh. Câu đầu tiên là tiếp xúc giữa căn và
trần, câu thứ hai bèn chuyển, v́ chẳng có ư niệm
ích kỷ, chuyển thành ǵ vậy? Chuyển đến hết
thảy chúng sanh trong trọn khắp pháp giới hư không
giới. Ta phải v́ hết thảy các chúng sanh tu pháp thanh
tịnh, ta phải v́ hết thảy các chúng sanh vĩnh viễn
trừ khử ác kiến. Đấy là tương ứng
với tự tánh.
Trong
hiện tại, từ đầu thế kỷ này tới
nay, tức thế kỷ hai mươi, những t́nh trạng
bất hảo trên địa cầu đă phát sanh rất
rơ rệt: Ngu si, tham lam, chẳng biết yêu thương
chính ḿnh, tổn người, lợi ḿnh, [những điều
ấy] cảm vời thiên tai, nhân họa! Những tai
ương phát sanh trong thế kỷ này chưa hề có
trong lịch sử quá khứ, quư vị suy nghĩ sẽ thấy xác thực là hết sức đáng sợ! Con người vứt
bỏ đạo đức, vứt bỏ luân lư. Khoa học
tiến bộ làm Tăng Thượng Duyên cho sự tham
lam. Những kẻ mông muội theo đuổi sự hưởng
thụ vật chất, đánh mất ư nghĩa và sự
tôn nghiêm của nhân sinh, giá trị nhân sinh bị quên sạch
sành sanh! Thời cổ, tư tưởng, hành vi, và cách sống
của con người đều là không ǵ
chẳng tùy thuận thiên nhiên, có ḷng kính sợ tự nhiên. Quư
vị thấy xưa kia hiến tế núi sông, hiến tế
tổ tiên, hiến tế quỷ thần, quư vị bèn hiểu
rơ! Trong gia đ́nh th́ có thần giữ cửa, có Táo Quân. Gia
đ́nh không lớn, thần th́ nhiều. Đó là ǵ? Cái tâm
kính sợ tự nhiên. Tôn trọng tự nhiên, đó là sự
tôn nghiêm của thiên nhiên, mọi người hiểu điều
này. V́ thế, đối với khởi tâm động niệm,
cổ nhân thường nói: “Cử
đầu tam xích hữu thần minh” (Ngẩng
đầu, trên cao ba thước bèn có thần minh). Hiện
thời, khoa học tiến bộ, [con người] bèn nghĩ
là chẳng có chuyện ấy. Ai nấy tin tưởng khoa học, chẳng c̣n tin vào
truyền thống, chẳng c̣n tin tưởng tôn giáo nữa. Nếu con người chẳng tin vào truyền thống,
chẳng tin tôn giáo, chẳng tin nhân quả, ngày tàn của thế giới sẽ chẳng xa!
Ngày tàn của thế giới là ǵ? Toàn thể nhân loại trên quả địa cầu
sẽ biến mất, chẳng c̣n nữa! Các khoa
học gia đă có chứng cứ về trường hợp
này. Trong quá khứ, trên địa cầu có khá đông sinh vật,
chẳng biết là do nguyên nhân ǵ mà đều bị tuyệt
diệt! Như chúng ta thường nghe nói tới khủng long và đại tượng cổ đại
(mammoth)[1],
chúng là cổ sinh vật, sau một thời gian [tồn tại],
thảy đều bị tuyệt diệt. Các khoa học
gia nặng ḷng ưu tư, sợ nhân loại trên địa
cầu cũng sẽ bị tuyệt diệt toàn bộ giống
như những sanh vật ấy. Nhân tố gây ra tuyệt
diệt có rất nhiều thứ, các nhà khoa học đă
liệt kê từng điều, cảnh cáo chúng ta. Khoa học
gia có thể phát hiện nguồn cội bệnh tật, nhưng
không biết trị liệu như thế nào! Do vậy, có
những vị học giả, chuyên gia bảo mọi
người, cách trị liệu nói chung chẳng thể
tách rời tôn giáo! Tôn giáo thật sự hữu hiệu
ư? Hễ quư vị tin tưởng th́ sẽ hữu hiệu;
chẳng tin th́ sẽ vô hiệu. Hết thảy các pháp sanh từ tâm
tưởng mà!
V́
sao nói hễ tin th́ sẽ sanh ra hiệu lực? Mỗi tôn giáo đều nói tới nhân
quả. Thiện có thiện báo, ác có ác báo, nhân quả báo ứng
vĩnh viễn tuần hoàn. Tôn giáo đều khuyên con người
làm lành. Mỗi tôn giáo đều có giới điều, giới
điều đều là chí thiện. Dạy quư vị chớ
nên sát sanh, chớ nên trộm cắp, chớ nên tà dâm, chớ
nên nói dối, gần như trong tất cả các tôn giáo đều
có những giới điều ấy! Nếu quư vị tin
tưởng, y giáo phụng hành, hễ quay đầu, sẽ
tương ứng với Tánh Đức. Nếu quư vị
chẳng tin tưởng, bỏ đó không màng tới, vẫn
tùy thuận tập khí phiền năo của chính ḿnh y như
cũ, vấn đề sẽ nghiêm trọng. Tạo tác vô
lượng vô biên tội nghiệp, tưởng là tổn
người sẽ lợi ḿnh. Thật ra, trong các buổi
giảng, chúng tôi đă nói rất nhiều lượt: “Tổn
người chắc chắn sẽ bất lợi cho chính ḿnh!” Như
thế nào mới là có lợi cho chính ḿnh? Lợi người
mới thật sự là lợi ḿnh! Há có kẻ nào tổn hại
người khác mà đạt được lợi ích
ư? Chẳng có lẽ ấy!
Phật
pháp giảng giải giới luật rất tỉ mỉ.
Giết người có thể lợi ḿnh hay không? Kẻ ấy
gây trở ngại cho ta, hoặc là chướng ngại ta
có được của cải, hoặc chướng ngại
ta thăng quan, chướng ngại quyền thế của
ta, tốt nhất là giết phăng hắn đi, diệt
trừ hắn, cứ ngỡ là chướng ngại của
ta sẽ mất đi. Há có chuyện đơn giản
như vậy ư? Lớn th́ sẽ là các quốc gia xung
đột lợi ích, phát sanh chiến tranh. Chiến tranh có
thể giải quyết vấn đề hay không? Trong lịch
sử, đă có quá nhiều chiến tranh. Chẳng có lần
nào chiến tranh giải quyết vấn đề! Bề
ngoài dường như là tạm thời giải quyết
vấn đề, nhưng để lại khá nhiều hậu di chứng, vĩnh
viễn chẳng thể giải quyết được. Hậu
di chứng là ǵ? Oan oan tương báo, chẳng hết, chẳng
xong! Nếu quư vị biết chân tướng sự thật
này, có nên làm chuyện ấy hay chăng?
Lợi
ích thật sự là ǵ? Tổn ḿnh lợi người!
Đấy mới là lợi ích chân thật. Nếu quư vị
chẳng tin tưởng, hăy xem những vị sáng lập của
mỗi tôn giáo đều là những người thông minh nhất,
đều là người có trí huệ cao độ. Những ǵ do họ biểu hiện, thể hiện
sự hy sinh dâng hiến đối với xă hội, đối
với đại chúng. Họ đạt được những
lợi ích ǵ? Bọn phàm phu chúng ta chẳng thấy, nhưng họ bảo cho quư vị biết, quư vị có thể
tin tưởng hay chăng? Họ đạt được
lợi ích là sanh lên thiên đường. Phật, Bồ Tát
bảo chúng ta: Lợi ích của các Ngài là sanh về thế
giới Hoa Tạng, sanh về thế giới Cực Lạc.
Thời gian trong nhân gian rất ngắn, mấy chục
năm ngắn ngủi hy sinh dâng hiến, đến cơi trời
hưởng phước trong một thời gian khá dài! Quư
vị có thể tin tưởng hay không? Nếu quư vị chẳng
bằng ḷng buông bỏ phước báo nhỏ nhoi trước
mắt, chẳng muốn buông bỏ, cứ liều mạng
tranh đoạt, đời sau sẽ đi về đâu?
Ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục. Quư vị hăy thấy
rơ ràng, thấy minh bạch chuyện này, tổn người
có phải là lợi ḿnh hay không? Chẳng lợi ḿnh! Huống
hồ chuyện tổn hại người khác là chuyện
thiếu đạo đức, người thế gian nói
là “tội nghiệt” (罪孽)! Có thể làm hay không? Đối với quả báo, nhà
Phật nói có hoa báo và quả báo. Hoa báo (花報) là báo ứng
hiện tiền ngay trong đời này, quả báo là [báo ứng
trong] đời sau. Hoa báo là ǵ? Giảm phước, tổn
thọ. Kẻ b́nh phàm cũng rất khó hiểu chuyện
này, người hiện thời cũng chẳng dễ dàng
tiếp nhận. Nguyên nhân là do họ tiếp nhận sự
giáo dục của thánh hiền quá ít, thậm chí về
căn bản là chưa hề tiếp xúc. Tiếp nhận
giáo dục nhân quả cũng quá ít!
Không
như xưa kia! Người thuộc về sáu mươi
năm trước, Trung Hoa nói là “một
giáp tư”[2], vẫn thường đọc cổ thư. Quư vị
đến tiệm sách mà xem, đến tiệm sách c̣n thấy
rất nhiều sách cổ thuộc loại khâu gáy bằng
chỉ. Hơn nữa, từ trường ở tiệm
sách tốt nhất. Thuở trẻ, tôi thích la cà nơi tiệm
sách, thích vào thư viện, từ trường tốt
đẹp. Quư vị đến nơi ấy, tâm rất an
định, cảm giác nơi ấy xác thực có khí phận
của sách vở. Người Hoa nói là khí phận (氣氛), người
ngoại quốc nói là từ trường (磁場), do có nhiều
sách của cổ thánh tiên hiền! Hiện thời th́ không
được rồi, nay tôi cũng chẳng đến tiệm
sách, mà cũng chẳng
đến thư viện; thỉnh
thoảng có đến thăm thư viện trong trường
học, vẫn c̣n hơi tốt đẹp đôi chút, nhưng thua kém xưa
kia, tiệm sách càng tệ hơn nữa! Từ trường
ở các tiệm sách hiện thời hết sức bất
hảo, do nguyên nhân ǵ? Trong các sách được lưu trữ,
sách thánh hiền ít ỏi. Chẳng thể nói là không có,
nhưng rất ít thứ cổ điển. Những thứ
hiện đại đại khái phải chiếm tới
bảy tám mươi phần trăm! Những tác phẩm
hiện đại từ đâu mà có? Chư vị hăy ngẫm
xem, có phải là từ vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước hay không? Những tác phẩm ấy dạy
người ta điều ǵ? Xác thực là tăng trưởng
ḷng tham lam của mỗi người. Trong tác phẩm có quá nhiều bạo lực,
t́nh dục, giết, trộm, dâm, dối, hoàn toàn theo đường hướng trái ngược một trăm tám mươi độ
với luân lư, đạo đức. Những thứ của cổ nhân, dẫu là tác phẩm
văn nghệ, đều có thể tuân thủ giáo huấn
của Phu Tử, “tư vô tà”
(思無邪, không
nghĩ tà vạy). Hiện thời, chỉ sợ quư vị
chẳng nghĩ bậy, chỉ sợ quư vị không xấu xa!
Đấy chính là “kiến lộ
đa trần” (thấy đường nhiều bụi)
trong bài kệ này, “trần” (塵) là ô nhiễm.
Giáo
dục xưa kia đúng là đạo tràng thanh tịnh. Nho
có đạo của Nho, Đạo gia có đạo của
Đạo gia, Phật có đạo của Phật, đều
là thanh tịnh. Trường học hiện thời
cũng là ṿ nhuộm, những kẻ trẻ tuổi hoàn
toàn bị nhuộm bẩn. Quư vị nói có đáng sợ lắm hay không? V́
thế, có khá nhiều học giả, chuyên gia đàm luận
về trạng huống xă hội trước mắt, cảm
thấy trong thế kỷ hai mươi mốt, tức là
cho đến năm 2100, nhân loại trên địa cầu
có thể sống tới cuối thế kỷ này hay không, có nghĩa là trong
ṿng một trăm năm, nhân loại có thể bị biến
mất khỏi thế giới này! Chuyện này đáng sợ quá! Họ
nói có lư hay không? Quư vị hăy quan sát cẩn thận, [sẽ
thấy] có lư lắm! Quyết chẳng phải là ăn ốc
nói ṃ, đă có những chỉ dấu ngay trong hiện tiền!
Người tâm địa thanh tịnh, người có tâm
địa thiện lương đă thấy rơ ràng, rành rẽ.
Làm như thế nào đây? Nhà Phật thường nói: “Phật độ kẻ hữu
duyên”, kẻ hữu duyên là ai? Ở đây, chúng tôi
cũng thường nói, kẻ có thể tin, có thể hiểu,
có thể hành, đấy là người hữu duyên! Quư vị
có thể tin tưởng, có thể lư giải, đối với
giáo huấn của thánh hiền, có thể y giáo phụng
hành, quư vị sẽ “viễn
ly trần bộn” (xa ĺa bụi nhuốm). Chỉ cần
quư vị xa ĺa hết thảy ô nhiễm, sẽ có thể
đạt được pháp thanh tịnh.
Tâm
tịnh, ắt quốc độ tịnh, “quốc độ” chính là hoàn cảnh sống của
chúng ta. Tâm ta thanh tịnh, hoàn cảnh ta đang cư trụ
có thanh tịnh hay không? Thanh tịnh! Quư vị nói [chuyện
này], chẳng có ai tin tưởng! [Họ sẽ bắt bẻ]:
“Tâm quư vị thanh tịnh, tôi chẳng thanh tịnh, hai
người chúng ta đồng thời đứng ở chỗ
này, hoàn cảnh giống hệt như nhau. Quư vị nói hoàn
cảnh của quư vị thanh tịnh, hoàn cảnh của
tôi chẳng thanh tịnh, làm sao tôi có thể tin
tưởng cho được?” Từ thí nghiệm với
nước của ông Giang Bổn Thắng, đă cho thấy
[điều vừa nói trên đây] là thật, chẳng giả!
Hoàn cảnh giống y hệt, nhưng ư niệm của hai
người chúng ta khác nhau, hành vi khác nhau, phản ứng [của
nước] sẽ chẳng giống nhau. Thí nghiệm ấy
nói thật ra rất dễ dàng, chẳng khó khăn tí nào!
Tôi đến thăm pḥng thí nghiệm của ông Giang, nói thật
ra, pḥng thí nghiệm của ông ta là một cái tủ lạnh
to, tủ lạnh cỡ thật to, người ta có thể
ngồi trong ấy. Kính hiển vi cũng chẳng phải
là loại có độ phóng đại lớn, chỉ phóng
to hai trăm năm mươi lần. Nói thật ra kính hiển vi để làm thí nghiệm của học sinh Trung Học, hoàn toàn chẳng
phải là rất cao cấp. Tôi thấy những thiết bị
ấy liền hiểu rơ, chúng ta có thể tự ḿnh làm thí
nghiệm. Dưới năm độ âm, nước bắt
đầu đóng băng, quư vị lấy ra xem hoa tuyết
dưới kính hiển vi, sẽ thấy được h́nh
dạng kết tinh. Thiện niệm, tâm thanh tịnh, h́nh dạng
kết tinh hết sức đẹp đẽ. Ác niệm,
tâm chẳng thanh tịnh, cùng một chén nước, hai
người chúng ta thí nghiệm sẽ [có kết quả] khác
nhau. Người tâm thanh tịnh thí nghiệm sẽ thấy
hoa tuyết rất đẹp; kẻ tâm chẳng thanh tịnh,
h́nh tướng của hoa tuyết sẽ rất khó coi, rất
rơ ràng!
Quư
vị lại thấy, cho tới hiện thời, không khí bị
ô nhiễm nghiêm trọng, mỗi người hít thở,
thân thể sẽ cảm nhận khác nhau. Đúng là “tâm tịnh, quốc độ tịnh”.
Nó chẳng gây nhiều tổn hại cho thân thể! Tâm
địa chẳng thanh tịnh, bên ngoài cũng chẳng
thanh tịnh, trong và ngoài đều không thanh tịnh, vậy
th́ quư vị hấp thu như vậy sẽ có ảnh hưởng
rất lớn đối với thân thể. Sau mấy
ngày, chắc chắn là bị hen suyễn, bị cảm mạo,
có cảm giác chẳng thoải mái cho lắm, có liên quan
đến sự ô nhiễm của không khí. Có mang khẩu
trang cũng không xong, quan trọng nhất là tu cái tâm thanh tịnh.
Chúng
tôi thường nói, người ở trong thế gian này chẳng
thể không tiếp nhận giáo dục. Giáo dục chẳng
giới hạn trong nhà trường. Cổ nhân đă nói rất
hay: “Sống đến già, học
đến già, vẫn học chẳng xong!” Giáo dục
là suốt đời, suốt kiếp. Hằng ngày phải
đọc sách thánh hiền. Cổ nhân bảo: “Tam nhật bất độc
thánh hiền thư, diện mục khả tắng” (Ba ngày chẳng
đọc sách thánh hiền, mặt mũi đáng ghét).
Người hiện thời há cần đến ba ngày? Một
ngày chẳng đọc sách thánh hiền, thân tâm họ
đă bị bên ngoài nhuốm bẩn. Chẳng ra khỏi cửa
cũng bị nhuốm bẩn! V́ sao không ra khỏi cửa mà
vẫn bị nhuốm bẩn? TV nhuốm bẩn quư vị,
nhật báo, tạp chí nhuốm bẩn quư vị, đấy
là điều khẳng định! V́ thế, bản thân
chúng ta phải biết bảo vệ chính ḿnh, xa ĺa bụi
bậm dính nhuốm! Không xem báo chí, không nghe radio, không xem TV,
mà cũng chẳng xem tạp chí. V́ sao? Những thứ ấy chẳng
có ích ǵ cho thân tâm, toàn là ô nhiễm, toàn là trần uế. Quư
vị tiếp xúc những thứ ấy, tâm quư vị làm
sao có thể thanh tịnh cho được? Ngay cả
Đệ Tử Quy cũng bảo: Sách nào vô ích, chẳng có lợi
ích ǵ cho chính ḿnh, chớ nên xem! V́ sao? Nếu quư vị xem
xong, thân tâm sẽ bị ô nhiễm, đánh mất cái tâm
thanh tịnh. Những ǵ có lợi ích? Sách thánh hiền có lợi
ích rất nhiều! Ta xem suốt cả đời này c̣n chẳng
xong, há có thời gian để xem những thứ vớ vẩn
rối loạn nháo nhào ư?
Cổ
đại đức thường bảo: “Thế gian hảo ngữ Phật thuyết tận”,
[nghĩa là] những lời tốt đẹp nhất, tốt
lành nhất của thế gian, đức Phật đă nói
hết cả rồi! Đại Tạng Kinh của
Phật giáo phân lượng chẳng ít! Nếu quư vị
thích xem những kinh sách ấy, xem cả đời chẳng xong. V́ sao không xem thứ ấy? Những thứ tốt
đẹp của chư tử bách gia rất nhiều, v́
sao chẳng đọc? [Các tác phẩm] tôn giáo ngoại quốc,
văn học cổ điển cũng khá lắm, quư vị
xem cả đời này chẳng hết. Do vậy, c̣n có thời
gian nào để đọc nhật báo, tạp chí, xem TV,
nghe radio ư? Phải biết những thứ ấy gây tổn
hại nghiêm trọng cho chính ḿnh. Nay chúng ta đă hiểu
rơ, nhất định phải bảo ban các thanh thiếu
niên về lẽ lợi hại, được mất,
phân tích cặn kẽ cùng họ, ngơ hầu họ biết bảo
vệ chính ḿnh, xa ĺa hết thảy những thứ ô nhiễm
ấy, bảo vệ thân tâm của chính ḿnh thanh tịnh. Lợi
ích gần là khỏe mạnh, “thiểu bệnh, thiểu năo”, tức là ít phiền năo, ít bệnh tật. Lợi ích to hơn
nữa là đặt vững cơ sở luân lư đạo
đức thánh hiền cho chính ḿnh.
Mục
tiêu chánh xác trong đời người là phải nâng cao cảnh
giới của chính ḿnh, mong cầu liễu giải chân
tướng của nhân sinh và vũ trụ. Nói đến
chân tướng của nhân sinh và vũ trụ, khoa học
lẫn triết học đều nghiên cứu những thứ
này. Có thể dùng khoa học, triết học làm cơ sở;
sau đấy, quư vị nh́n lại tôn giáo, nh́n vào Phật
pháp, sẽ thấy [Phật pháp] giảng sâu hơn, rộng
hơn, thấu triệt hơn khoa học. Những vấn
đề mà khoa học và triết học hiện thời
chẳng thể giải quyết, hễ gặp Phật
pháp, sẽ chẳng có ǵ không thể giải quyết. V́ sao
chẳng đọc [kinh sách của Phật pháp]? V́ sao không
học? Đương nhiên là trong ấy cũng có nhân tố
khách quan, tức là những kinh điển ấy không chỉ
là nghĩa lư sâu xa, ngay cả văn tự cũng có độ
sâu nhất định. Văn chương Văn Ngôn, [ngay
cả] loại Văn Ngôn đơn giản nhất,
người hiện thời đọc sẽ rất tốn
công. V́ thế, sự tu dưỡng Quốc Văn so với
thuở trước đúng là đọa lạc ngàn trượng!
Những sinh viên tốt nghiệp từ các học viện
văn học hiện thời, chắc chắn chẳng
sánh bằng học tṛ Tiểu Học thời đầu
Dân Quốc. Thật đấy! Đấy cũng là một
loại chướng ngại cho chúng ta trong việc đọc
kinh điển của cổ thánh tiên hiền. Chướng
ngại ấy có thể đột phá, chính ḿnh phải có cái
tâm thường hằng, phải có nghị lực đột
phá chướng ngại ấy, tiếp nhận giáo huấn
của cổ thánh tiên hiền, mới thật sự có thể
giúp cho cái tâm thanh tịnh của chính ḿnh hiện tiền. Nay
đă hết thời gian rồi, chúng ta nghỉ ngơi mấy
phút.
***
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Xin xem tiếp bài kệ thứ mười:
(Kinh)
Kiến lộ vô trần, đương nguyện chúng sanh,
thường hành đại bi, kỳ tâm nhuận trạch.
(經)見路無塵。當願眾生。常行大悲。其心潤澤。
(Kinh: Thấy đường không bụi, nguyện
cho chúng sanh, thường hành đại bi, tâm địa
nhuần thấm).
Đường
rất sạch, chẳng có bụi đất; từ cảnh
giới ấy, Bồ Tát dẫn phát hoằng nguyện: Nguyện
cho hết thảy chúng sanh trọn khắp pháp giới
hư không giới “thường
hành đại bi”. Đấy là Tịnh Độ của
Phật, Bồ Tát, chứ trong cảnh giới của phàm
phu sẽ chẳng nhiều! Nhưng đối với Tịnh
Độ của Phật, Bồ Tát, xác thực là hết
thảy lục đạo chúng sanh trong khắp pháp giới
hư không giới đều ở trong sát độ (cơi nước) của chư Phật. Hoàn cảnh cư trụ trong
hiện thời của chúng ta là lục đạo trong thế
giới Sa Bà của Thích Ca Mâu Ni Phật. Đối với các sát độ của mười phương chư Phật, từ phẩm Hoa Tạng Thế Giới trong phần
trước, chúng ta đă đọc thấy, rất nhiều
cơi có trạng huống giống như thế giới Sa Bà,
có rất nhiều [thế giới như vậy] trong pháp
giới hư không giới. Nhưng Tịnh Độ của
chư Phật, Bồ Tát, tức là cơi Thật Báo Trang Nghiêm
chẳng có lục đạo và mười
pháp giới cũng chẳng ít. Chúng ta thấy Thích Ca Mâu Ni
Phật đă giới thiệu cũng chẳng ít, những cơi ấy thật
sự là cơi thanh tịnh. Do nguyên nhân nào mà có hiện tượng
này? Chúng ta chớ nên không hiểu đạo lư này! Luận
theo sự thật, cơi nước chẳng có tịnh hay uế!
Phải biết điều này! Cực Lạc là Tịnh
Độ, Sa Bà là uế độ, chính là nói phương
tiện, chẳng phải là nói chân thật. Đấy là
nói thuận theo tri kiến của phàm phu! Nếu xét theo sự
cảm nhận của Phật, Bồ Tát, tịnh và uế
chẳng hai! Chúng được gọi là Pháp Tánh Độ,
lấy đâu ra tịnh hay uế? Trong tâm quư vị chẳng
có tịnh hay uế, thế giới bên ngoài sẽ chẳng
có tịnh hay uế. Tâm quư vị tịnh bèn hiện Tịnh
Độ, tâm quư vị uế bèn hiện uế độ.
Chúng
ta vẫn dùng thí nghiệm với nước để tỷ
dụ. Chẳng có bất cứ ư niệm đối với nước, nước
chẳng có tốt hay xấu. Hễ có ư niệm, đối
với nước bằng thiện niệm, nó sẽ thiện.
Đối với nó bằng ác niệm, nó sẽ hiện
tướng ác. Thật sự là đối với giáo pháp
Đại Thừa, chúng ta đă hiểu rơ: Không chỉ là hết
thảy vật chất có thể hiện tướng, mà thấy,
nghe, hay, biết, sắc, thanh, hương, vị đều
vốn sẵn có trong tự tánh. Trong giáo pháp Đại Thừa,
đức Phật đă dạy rất nhiều, tự tánh
vốn trọn đủ, vạn pháp b́nh đẳng. Đấy
là Tánh Đức, tự tánh vốn sẵn đầy đủ.
Tất cả hết thảy vạn pháp đều do tự
tánh biến; hiện thời, khoa học cũng dần dần
hiểu được điều này. Vật chất chẳng
phải là thật, vật chất là một loại hiện
tượng tích tụ năng lượng. Nếu gặp lúc năng lượng ấy tan ra, hiện tượng
vật chất sẽ chẳng c̣n nữa. Chẳng c̣n nữa th́ hiện tượng tan rời này được
khoa học gọi là Trường. Do vậy, Trường
và vật chất là một, chẳng hai. Một đằng
là tụ, một đằng là tán. Nay chúng ta gọi Trường
là “không gian”. Nếu nhằm lúc nó hội đủ nhân duyên, khi có những điều kiện ấy, nó lại có thể biến thành vật chất. Do vậy,
vật chất được nói là “vô trung sanh hữu” (từ trong Không mà sanh ra Có),
đă có lại trở về không, tụ tán vô thường.
Nhưng
vật chất dẫu nhỏ đến đâu đi nữa,
chúng ta nói là “trạng thái vật chất cơ bản”, trong
khoa học hiện thời vẫn chưa thể nói xác
định, [nhưng Phật pháp đă khẳng định],
chúng thảy đều trọn đủ Tánh Đức “thấy,
nghe, hay, biết, sắc, thanh, hương, vị”. Đấy
là bất sanh, bất diệt; vật chất dẫu nhỏ
đến mấy đi nữa cũng đều có trọn đủ [những Tánh
Đức ấy]. Do vậy,
chẳng có bất cứ ngoại cảnh nào quấy nhiễu,
chính là như Lục Tổ đă nói, “vốn chẳng có một vật”. Thiện niệm
đối với nó, nó sẽ hiện thiện. Có ác niệm
đối với nó, nó sẽ hiện ra ác. Bản thân nó là
chẳng thiện, chẳng ác. Cái gọi là thế giới
Cực Lạc, cái gọi là thế giới Hoa Tạng, cái
gọi là Nhất Chân pháp giới của chư Phật, chẳng
có ǵ sai khác, chính là hết thảy các ư niệm thiện hay ác thảy đều chẳng có. Cổ nhân nói là “phản phác quy chân” (反璞歸真, trở về
cái chất phác, quay về cái chân thật), đó là Nhất
Chân. Hễ có thiện, có ác, sẽ chẳng phải là Nhất
Chân.
[Nói
đến] “có thiện”, so
sánh với lục đạo th́ tứ thánh pháp giới là
thiện, lục đạo bất thiện. Lại so sánh trong
lục đạo, ba thiện đạo là thiện, ba ác đạo
là bất thiện. So sánh trong bất cứ đường
nào, vẫn là có thiện và ác. Trong địa ngục đạo,
chịu khổ ít là thiện, chịu khổ nhiều là bất
thiện; trong loài người, người phú quư là thiện,
người bần cùng là bất thiện. Do vậy, thiện
và ác là tương đối, tương đối th́ mới
hiển hiện, nhưng trong bản tánh chẳng có tương
đối. Khởi tâm động niệm, vẫn chưa
có đối lập, đấy là căn bản vô minh. Hễ
cái tâm phân biệt dấy lên, sẽ có đối lập, sẽ
có tương đối. Có phân biệt, có chấp trước,
sẽ là đối lập nghiêm trọng. Do có chấp
trước, nên mới có lục đạo. Do có phân biệt,
nên mới có mười pháp giới, mới có tứ thánh
pháp giới. Phân biệt lẫn chấp trước thảy
đều chẳng có, sẽ
chính là Nhất Chân pháp giới. Giáo
pháp Đại Thừa đă giảng những điều
này rất hay, rất cặn kẽ!
Do
vậy, chúng ta thấy một hoàn cảnh thanh tịnh, hăy
ngay lập tức quay lại nghĩ đến thân tâm thanh
tịnh. Cảnh giới ấy tốt đẹp, tốt
đẹp th́ sao? Sợ quư vị sẽ lưu luyến cảnh
giới ấy, thân an, tâm an. Quư vị thấy Phật là
như thế, mà truyền thống giáo học của Trung
Hoa cũng là như thế. Thiên Khúc Lễ trong sách Lễ Kư
có câu: “An an nhi năng thiên”
(an trụ trong chỗ an ổn, mà vẫn có thể tiếp
nhận sự biến đổi), hoàn toàn tương ứng
với hai câu này. Tâm của quư vị an, thân của quư vị
an, quư vị sẽ sống hết sức thoải mái, tự
tại; nhưng chúng sanh gặp khổ nạn, quư vị có
phải giúp đỡ họ hay chăng? Nếu quư vị
giúp họ, ắt phải bỏ hoàn cảnh sống an
định như vậy, phải ḥa quang đồng trần
với các chúng sanh khổ nạn, cùng họ chịu khổ,
chịu nạn, ḥng giúp đỡ họ, dạy bảo họ.
Mọi người đều quay đầu, thế giới
chúng ta đang sống trong hiện tiền cũng có thể
biến thành thế giới Cực Lạc. Dẫu chẳng
đạt được thế giới Cực Lạc, nhưng
đạt tới thiên đường như các tôn giáo
phương Tây đă nói sẽ chẳng phải là chuyện
khó! Chỉ cần cư dân trên địa cầu hồi
tâm hướng thiện, ai nấy đều có thể tuân thủ khuôn phép ngũ luân, bát đức, thế
giới này sẽ là thiên đường. Thật vậy,
chẳng giả! Hoa Tạng, Cực Lạc và [thế giới
này của] chúng ta là một, không hai; thiên đường và
địa ngục c̣n là ngoại lệ ư? Ḷng người
chẳng lành, địa cầu biến thành địa ngục.
Nếu ḷng người thảy đều sửa lỗi,
hướng thiện, địa cầu sẽ biến
thành thiên đường. Hoàn cảnh chuyển theo ḷng
người! Kinh Lăng Nghiêm đă nói rất hay: “Nếu có thể chuyển vật,
ắt giống như Như Lai”. Do vậy, cảnh chuyển
theo tâm, chẳng phải là tâm chuyển theo cảnh. Tâm mà chuyển
theo cảnh, quư vị hoàn toàn mê hoặc, bị ảnh
hưởng bởi hoàn cảnh bên ngoài.
Nhưng
hiện thời kẻ hoàn toàn mê hoặc quá ư là nhiều,
thời gian mê hoặc cũng rất dài, muốn giúp họ
quay đầu, há dễ dàng ư? Chuyện này khó khăn,
chẳng dễ dàng, nhưng vẫn phải làm, chẳng thể
kêu khó rồi không làm. [Nếu viện cớ] chẳng dễ
dàng, để rồi buông bỏ, vậy là quư vị chẳng
có ḷng đại bi! Đại từ đại bi chẳng
có bất cứ điều kiện nào, quư vị liễu giải
chân tướng sự thật. Chân tướng ấy là
ǵ? Trọn khắp pháp giới hư không giới và chính
ḿnh là một. Lời này chẳng dễ hiểu, chúng tôi nói cách
khác, “trọn khắp pháp giới hư không giới là một
sanh mạng cộng đồng thể”. Mọi
người chấp nhận điều này khá dễ dàng. Từ
chỗ này, quư vị có thể dần dần khế nhập.
Đạt đến cảnh giới cao nhất, quyết
định là một Thể. Trong giáo pháp Đại Thừa
thường nói một Thể ấy chính là “mười phương ba đời
Phật, cùng chung một Pháp Thân”, c̣n thân thiết hơn
một sanh mạng cộng đồng thể, một Pháp
Thân đấy nhé! Nếu quư vị thừa nhận, khẳng
định, “vô duyên đại
từ, đồng thể đại bi” sẽ tự
nhiên xuất sanh, chẳng cần ai khuyên bảo! Cũng có
nghĩa là chuyện này là chuyện phải nên làm!
Khó
làm mà có thể làm, khó hóa độ mà có thể hóa độ,
chỉ cần chính ḿnh dùng cái tâm chân thành để thực
hiện. Chính ḿnh có tín tâm, sẽ nhất định có thể
cảm hóa, sẽ thật sự cảm hóa được.
Nếu quư vị thực hiện mà trong tâm đánh dấu hỏi,
“có thể cảm hóa được hay không?”, thường
có ư niệm ấy, sẽ phiền toái rất lớn, đúng
là khó thể cảm hóa. V́ sao? Trong tâm quư vị có nghi hoặc,
sức mạnh cảm hóa sẽ bị chiết khấu rất
lớn. Trong tâm chẳng có nghi hoặc, trong tâm hết sức
kiên định, sẽ rất dễ dàng. Do vậy, quư vị
phải luôn nắm vững một nguyên lư về tín tâm,
chính là “hết thảy các pháp sanh
từ tâm tưởng”. Thời cổ, v́ sao vua Thuấn
có thể cảm hóa cả nhà? V́ sao Ngài có thể cảm hóa
láng giềng, cḥm xóm? Chẳng có ǵ khác, tín tâm! Mảy may nghi
hoặc đều chẳng có. Do vậy, hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian được kiến
lập từ chỗ nào? Kiến lập từ tín tâm, [v́ thế], Hoa Nghiêm và Đại Luận (Đại Trí Độ Luận) mới nói: “Tín vi đạo
nguyên, công đức mẫu” (Tín là nguồn đạo, mẹ công
đức),“đạo” (道) là đạo trong thế gian và xuất thế gian, “nguyên” (元) là khởi nguồn, cội nguồn, là mẹ của
hết thảy các công đức. “Mẫu” (母) là tỷ dụ, mẹ có thể sanh, có thể
dưỡng. Tín tâm có thể sanh, có thể dưỡng, có
thể thành tựu hết thảy các pháp. Thiện pháp được
thành tựu bởi nó, ác pháp cũng do nó thành tựu. Chúng ta
phải hiểu rơ, chớ nên không biết!
Do
vậy, dẫu hoàn cảnh sống của chính ḿnh thoải
mái cách mấy đi nữa, nhưng v́ chúng sanh, cũng
phải buông bỏ. Gia Cát Lượng tiếp nhận giáo
dục truyền thống, ông ta là tín đồ của Nho
gia và Đạo gia. Hoàn cảnh sống tại Long Trung[3]
rất tự tại. Thiên hạ động loạn,
Lưu Bị đến mời ông ta, thường nói là “tam cố mao lư” (三顧茅廬, ba lượt đến lều tranh), ông ta có thể
chẳng đi hay sao? Bỏ cuộc sống thoải mái của
chính ḿnh, v́ chúng sanh khổ nạn mà bươn chải nhọc
nhằn. Đấy là tâm đại bi. “Kỳ tâm nhuận trạch”: “Nhuận trạch” (潤澤) là đối với dân đen đông đảo, đối
với hết thảy chúng sanh khổ nạn, bèn niệm
niệm chẳng quên, nói theo Phật pháp sẽ là “niệm niệm gia tŕ”. Dùng
phương pháp ǵ? Giáo dục! Trong giáo
dục, quan trọng nhất là thân giáo. Có thể nói “giáo dục hiện thời đă thất bại”,
ngay từ ba mươi năm trước, tiến sĩ Thang Ân Tỷ (Arnold
Toynbee) của Anh đă nói điều ấy từ ba
mươi năm trước! Hiện thời, chánh phủ
đánh mất ḷng tin của nhân dân, cha mẹ đánh mất
ḷng tin của con cái, nhân dân chẳng tin tưởng chánh phủ,
con cái chẳng tin tưởng cha mẹ, do nguyên nhân ǵ? Cảm nhận
những lời họ đă nói chẳng tương ứng với những
ǵ họ đă làm. V́ thế, mất đi sự tín nhiệm,
quyền uy cũng mất theo! Do vậy, chánh phủ chẳng
thể cai quản nhân dân tốt đẹp, cha mẹ chẳng
thể dạy dỗ con cái nên thân. Đạo lư ở chỗ
này. Vấn đề này thuộc về vấn đề
giáo dục.
Hiện
thời, những kẻ b́nh phàm chẳng hiểu rơ ư
nghĩa được bao hàm trong hai chữ giáo dục cho
mấy! Giáo là ǵ? Dục là ǵ? Giáo dục là ǵ? Người
thực hiện công tác giáo dục có thể giải đáp
rơ ràng ba câu hỏi ấy chẳng nhiều! Lẽ nào họ
giáo dục chẳng
bị thất bại? Nói thật ra, chỉ
cần làm người th́ phải nên hiểu rành rẽ, rơ
ràng hai chữ ấy. V́ sao? Dạy chính ḿnh! Sau khi quư vị
đă dạy chính ḿnh nên thân th́ quư vị mới có thể dạy
người khác. Cổ thánh tiên hiền tạo chữ, Giáo
(教) có nghĩa là “trên làm, dưới bắt
chước theo”. Quư vị nh́n từ ư nghĩa, Giáo là
dùng phương pháp ǵ? Thân giáo. Ngạn ngữ có câu: “Thượng lương bất
chánh, hạ lương oai” (kèo trên chẳng ngay, kèo
dưới lệch). “Thượng
lương” là nói tới thế hệ trước, “hạ lương” là thế
hệ tiếp theo. Thế hệ kế tục học theo
thế hệ trước. Thế hệ trước bất
chánh, thế hệ kế tiếp sẽ học theo càng
tồi tệ hơn. Thế hệ trước chánh
đáng, thế hệ sau cũng học theo lẽ chánh
đáng. Đạo lư ở chỗ này.
Xưa
kia, bất luận người nào, chẳng cần biết
quư vị có biết chữ hay không, sanh trưởng tại
thành thị, hay sanh trưởng tại nông thôn, ai nấy
đều biết đạo lư cơ bản ấy. V́ thế,
nhất cử nhất động của người lớn
đều đoan chánh, [do vậy] trẻ thơ đă học
kỹ càng từ tấm bé. Tại những vùng nông
thôn, dân gian học từ chỗ nào? Hoàn toàn học từ
thân giáo. Những người lănh đạo tại địa
phương như huyện thị trưởng, những
người có học ở chỗ nào sẽ là thầy ở
nơi ấy. Ở phương Nam Trung Hoa, tôi lúc nhỏ,
khi mười mấy tuổi ở Phước Kiến, giữa mỗi
căn nhà ở Phước Kiến đều có thờ
bài vị tổ tiên, chính giữa đề năm chữ “thiên địa quân thân sư”,
bài vị [tổ tiên] đặt ở dưới đó, tức
“thiên địa quân thân sư
chi thần vị”. Quư vị thấy câu “quân thân sư” (vua, cha mẹ, thầy) là ǵ? Câu này
nói về người lănh đạo. Chức trách của
người lănh đạo là “quân,
thân, sư”, ông ta là huyện trưởng ở nơi đây,
tức là “quân”. Ông ta phải
chăm lo cuộc sống của dân chúng, thường gọi
là “quan phụ mẫu”, phải
coi toàn thể nhân dân trong huyện như cha mẹ, anh em,
con cái của chính ḿnh. Ông ta phải nuôi nấng, phải
giúp cho họ sống được. Đó là Thân. Quư vị
c̣n phải dạy dỗ họ, dạy như thế nào? Quư
vị giữ ḿnh đoan chánh, là khuôn mẫu cho nhân dân cả
huyện, là tấm gương tốt nhất cho mọi
người, dân chúng học theo quư vị. Quư vị chánh
đáng, ai nấy sẽ đều chánh đáng. Nếu quư
vị là tà, ai nấy đều tà, trọng yếu lắm!
Trước
kia, đế vương tuyển chọn các cán bộ, họ
cũng rất cao minh; có hai nguyên tắc để tuyển chọn
hạng người nào ḥng bồi dưỡng thành những
cán bộ của nước nhà trong tương lai. Chọn
lựa trong dân gian, tiêu chuẩn là hiếu liêm. Đứa
trẻ nào biết hiếu thuận với cha mẹ, liêm
khiết, chẳng tham tài. Đấy là điều kiện
cơ bản. Kẻ nào rất coi trọng đạo
nghĩa, coi tiền tài rất đạm bạc, sẽ tuyển
chọn những kẻ ấy. Ai thay hoàng đế tuyển
chọn? Quan viên địa phương có sứ mạng ấy.
Trước kia, điều này được gọi là “tấn hiền thọ thượng
thưởng”, nghĩa là quư vị thay nước nhà chọn
lựa nhân tài, sẽ được quốc gia ban thưởng
cao nhất. V́ thế, các quan viên hễ rảnh rang bèn cải
trang đi thăm ḍ. Họ đổi sang trang phục b́nh
phàm để ra ngoài sẽ chẳng có ai nhận ra, thường
đi xem xét, thăm ḍ trong khu vực quản hạt của
chính ḿnh: Chỗ này có đứa trẻ hiếu thuận với
cha mẹ, nói đến những chuyện cũ của nó,
hễ là liêm khiết, vị quan bèn ghi nhớ trong tâm. Sau một
khoảng thời gian, lại đến xem nó có phải thật
sự là hiếu và liêm hay không. Hễ là thật, sẽ chọn
lựa nó để nước nhà bồi dưỡng. Do vậy,
trường học thuở ấy đều do quốc
gia tạo lập. Kẻ có thể tận hiếu, sẽ
có thể tận trung với quốc gia, liêm khiết th́ sẽ
chẳng tham ô. Những người lănh đạo thuộc
các tầng lớp chánh phủ trong ngoài nước xưa
nay, hễ có thể làm được hai chữ ấy, xă
hội sẽ an định, thiên hạ thái b́nh, nhân dân an lạc.
Nếu các quan viên bất hiếu với cha mẹ của họ,
chắc chắn sẽ không có ḷng trung đối với
nước nhà. Chẳng liêm khiết, chắc chắn sẽ
tham ô. Như vậy th́ chắc chắn sẽ khiến cho dân oán, tức là khiến cho dân chúng oán hận! Xă hội sẽ động loạn,
sẽ chẳng ổn định. Do vậy, hết thảy
đều phải cậy vào giáo dục!
Hiện
thời, tuy là đời đại loạn, nếu thật
sự tiến hành từ giáo dục, vẫn c̣n cứu
được. V́ có thể sử dụng các phương
thức khoa học kỹ thuật cao, nay ta nói là “dạy học
từ xa”. Quốc gia to lớn dường ấy, nhân tài
nhiều ngần ấy, chọn ra mấy chục vị thầy
tốt đẹp sẽ chẳng phải là chuyện khó khăn. Sau khi đă
tuyển ra, quốc gia hăy khéo tiếp đăi những vị
thầy ấy để họ thành lập một đoàn thể
nhỏ, hằng ngày dạy học trong pḥng thâu h́nh. Sau khi
thâu h́nh, sẽ phát sóng mỗi ngày, khiến cho mọi
người trên cả nước và trên toàn thể thế
giới có thể tiếp sóng, đều có thể tiếp
nhận giáo huấn về luân lư đạo đức,
thánh hiền. Có thể làm theo cách như vậy, chúng tôi tin là xă hội
này từ nửa năm cho đến một năm sẽ
an định, ḷng người sẽ khác hẳn! Đấy
chính là quư vị phải biết vận dụng khoa học
kỹ thuật cao cấp trong hiện đại, vận dụng
nó để dạy
bảo nhân dân cả nước, dạy dỗ
nhân dân trên toàn thế giới, công cụ tốt đẹp
như thế cớ sao chẳng dùng? V́ sao để cho công cụ
ấy hằng ngày dạy kẻ khác về bạo lực, t́nh
dục, giết, trộm, dâm, dối? Dạy hư mọi
người, xă hội này
làm sao có thể an định cho
được? Lẽ nào nhân dân chẳng đáng
thương? Quư vị dạy như thế nào?
Tôn
giáo sa sút, khá nhiều tín đồ tôn giáo kiền thành hết
sức cảm thán đối với tôn giáo mà chính ḿnh đang tín ngưỡng! Tín đồ tôn giáo chẳng
thể thực hiện những giáo huấn trong kinh điển,
chẳng thể tuân thủ giới điều của tôn
giáo. Do vậy, khiến cho đại chúng trong xă hội thấy
các nhân sĩ tôn giáo lời nói và việc làm chẳng phù hợp;
v́ thế, bèn xa lánh, tạo thành sự khinh rẻ của
đại chúng trong xă hội đối
với tôn giáo. Chuyện này chắc
chắn là chẳng thể trách móc đại chúng trong xă hội,
hăy trách bản thân chúng ta chẳng làm tốt. Chúng ta có lỗi
với Phật, Bồ Tát, có lỗi với tổ sư
đại đức, có lỗi với cha mẹ, có lỗi
với sư trưởng, có lỗi với hết thảy
chúng sanh. Thật vậy, chẳng giả! Đă biết,
đă hiểu rơ, phải nên sám hối, nghiêm túc học tập.
Học Phật th́ phải giống như Phật. Thích Ca
Mâu Ni Phật là tấm gương tốt nhất cho chúng
ta. Học Bồ Tát th́ phải giống như Bồ Tát. Phật,
Bồ Tát tuyệt đối chẳng phải là A Tu La, tuyệt
đối chẳng phải là La-sát. Nay chúng ta học Phật,
xử sự, đăi người tiếp vật vẫn bằng
bản mặt khó đăm đăm, lại c̣n nổi giận,
đấy là ǵ? Chính là A Tu La, là La-sát, Phật ở chỗ
nào? Có khi nào Quán Thế Âm Bồ Tát nổi đóa? Có khi nào Thích
Ca Mâu Ni Phật đập bàn? Chẳng có chuyện ấy! Chư
Phật, Bồ Tát khiêm hư cung kính đối với hết
thảy chúng sanh.
Quư
vị thấy người ta khởi tâm động niệm,
dẫn phát các nguyện toàn là Tánh Đức. Nay chúng ta từ
sáng đến tối, khởi tâm động niệm đều
là ích kỷ, thị phi, nhân ngă, tham, sân, si, mạn. Niệm nào
cũng chỉ mong lợi lạc cho chính ḿnh, chẳng biết lợi
ích chúng sanh, chỉ biết thuận tiện cho chính ḿnh, chẳng
biết tạo thuận tiện cho kẻ khác. Phật pháp
gọi cái tâm thái ấy là tâm luân hồi. Tâm luân hồi tạo
tác hết thảy Phật pháp th́ cũng là nghiệp luân hồi,
v́ sao? Tâm bất thiện, hành vi thảy đều là bất
thiện, động cơ (motivation) sai lầm! Động
cơ bất thiện, tuyệt đối là chẳng có
chuyện nào là thiện thành tựu! Động cơ phải
thuần chánh. Muốn đạt đến động
cơ thuần chánh, điều kiện đầu tiên là
trước hết phải đạt đến vô ngă; chứ
động cơ hữu ngă sẽ rất khó thuần chánh!
Do
vậy, trong kinh Kim Cang, đức Phật đă dạy: “Nếu Bồ Tát có ngă tướng,
nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng,
sẽ chẳng phải là Bồ Tát”. Một trăm bốn
mươi mốt nguyện trong kinh Hoa Nghiêm là Bồ Tát hạnh.
Vậy th́ quư vị bèn
hiểu, những vị [Bồ Tát]
này không chỉ là đă phá tứ tướng,
mà tứ kiến cũng chẳng có! Tứ kiến là
như trong nửa sau của bộ
kinh Kim Cang đă nói: “Ngă
kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến”.
Kiến (見) là ư niệm. Không chỉ là chẳng có tướng, mà ư niệm
cũng chẳng có. Do vậy, khởi tâm động niệm
đều trọn khắp pháp giới hư không giới,
tuyệt đối chẳng có ư niệm v́ chính ḿnh, v́
đoàn thể nhỏ của chúng ta. Chẳng có! Tuyệt
đối chẳng có ư niệm ấy. V́ khu vực này của
ta, v́ quốc gia của ta, v́ thế giới này, tâm lượng
vẫn là quá nhỏ! Tâm lượng của Bồ Tát là trọn
khắp pháp giới hư không giới, đấy là như
mọi người thường niệm “tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”. Tâm
lượng của những vị trong kinh Hoa Nghiêm là tâm
bao thái hư, lượng châu sa giới. Tâm lượng của
chúng ta quá nhỏ, chớ nên không biết. Sau khi đă biết,
chớ nên không phát tâm.
Đă
đạt đến “thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác”, đấy là một mục tiêu
quan trọng trong sự tu hành của chúng ta, đặc biệt
là đối với các đồng học tu Tịnh Độ.
Tựa đề kinh Vô Lượng Thọ là Phật Thuyết
Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh
B́nh Đẳng Giác Kinh, đoạn trước nói về quả
báo, đoạn sau nói về tu nhân. Do đâu mà có Đại
Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm? Từ thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác mà ra. Chúng ta dùng phương pháp ǵ để
tu? Dùng ngay một câu Phật hiệu. Câu Phật hiệu
được gọi là “diệu
âm” (妙音,
âm thanh mầu nhiệm), câu Phật
hiệu chính là danh xưng của Tánh Đức. Nam-mô có
nghĩa là Quy Y, Cung Kính, Quy Mạng. A Di Đà Phật là Vô
Lượng Giác, Vô Lượng Thanh Tịnh, Vô Lượng
B́nh Đẳng. Câu danh hiệu này bao gồm viên măn Tu Đức!
Cái
Thể của danh hiệu là Tánh Đức, chấp tŕ danh
hiệu là Tu Đức. Tánh và Tu chẳng hai! Quư vị hiểu
ư nghĩa này, niệm câu Phật hiệu sẽ khác hẳn.
Đó gọi là “một niệm
tương ứng một niệm Phật, niệm niệm
tương ứng niệm niệm Phật”. Quư vị
chẳng hiểu ư nghĩa của danh hiệu, hằng ngày
niệm mà chẳng tương ứng. Chẳng
tương ứng th́ như cổ nhân đă nói: “Miệng niệm Di Đà, tâm tán loạn”. Trong tâm vẫn là tạp niệm, vọng niệm
tơi bời. V́ thế, “miệng
niệm Di Đà tâm tán loạn, gào toác cổ họng cũng uổng
công”. Tuy là hằng ngày
niệm Phật, chẳng thành tựu công đức! Muốn thành tựu công đức giống như Bồ Tát,
trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, hết
thảy cảnh duyên, tự nhiên niệm nào cũng
tương ứng với Tánh Đức; vậy th́ quư vị ắt cần phải có tiêu chuẩn của
kinh Kim Cang. Buông xuống tứ tướng, tứ kiến
cũng buông xuống, hạnh nguyện Phổ Hiền sẽ
chẳng khó tu! Chẳng buông xuống tứ tướng và
tứ kiến, sẽ chẳng làm được điều
này, mà nguyện nào trong một trăm bốn mươi
nguyện cũng đều chẳng làm được!
Nay
chúng ta đang học tập vấn đề này, hy vọng
chúng ta có thể làm được. Trước hết, hăy
thực hiện từ Đệ Tử Quy, Đệ Tử
Quy là thiện pháp trong loài người. Trước hết,
phải làm một thiện nhân, làm một người tốt,
sau đấy, quư vị mới có thể học Phật, mới
có thể thành Bồ Tát, thành Phật. Chẳng có tư cách
của một người tốt, làm sao có thể làm Phật,
làm Bồ Tát cho được? Đạo lư ở chỗ
này. Do vậy, nhất định là trước hết phải
học Đệ Tử Quy, một trăm mười ba
chuyện trong Đệ Tử Quy c̣n ít hơn [những nguyện]
ở đây, ở đây là một trăm bốn
mươi mốt nguyện. Đệ Tử Quy chỉ có
một trăm mười ba chuyện, thảy đều
làm được. Chỉ cần quư vị làm được,
dẫu không học Phật, đời này quư vị chắc
chắn sẽ chẳng đọa ác đạo! V́ sao? Duyên của
ba ác đạo đă bị đoạn mất, dẫu trong
đời quá khứ đă tạo cái nhân của ba ác đạo,
nhưng do nhân chẳng có duyên, nó chẳng thể dấy lên
hiện hành.
Đă
có cơ sở này, chúng ta mong học Phật, vậy là quư vị
có tư cách học Phật. Cơ sở để học Phật
là ǵ? Thập Thiện Nghiệp Đạo. Điều
đầu tiên trong Tịnh Nghiệp Tam Phước dạy:
“Từ tâm chẳng giết, tu thập
thiện nghiệp”. Từ chỗ này, quư vị mới có thể vào được cửa. Phải thực hiện Thập
Thiện. Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo phải
thuộc, phải hiểu rơ, phải làm được,
như vậy là quư vị có điều kiện để
học Phật. Quư vị có điều kiện ấy th́ mới
có thể tiến nhập Phật môn, tiếp nhận Tam
Quy, Ngũ Giới. Quư vị thật sự đắc Tam
Quy, thật sự đắc Ngũ Giới, là đệ tử
thật sự của đức Phật. Trong giới kinh
đă dạy rất hay, quư vị thật sự đạt
được Tam Quy, ba mươi sáu vị thần hộ
pháp sẽ gia hộ quư vị. Thật sự đắc
Ngũ Giới, mỗi giới điều có năm vị
thần hộ giới, [thọ trọn năm giới] sẽ
có hai mươi lăm vị thần hộ giới, ba mươi
sáu vị thần hộ pháp ngày đêm bảo vệ quư vị.
Quư vị đến chỗ nào, yêu ma quỷ quái chẳng thể hại quư vị, chẳng dám đến gần quư vị.
Chúng
ta cũng thường nghe có chuyện [ma quỷ] dựa
vào thân. Linh quỷ dựa thân, dựa vào thân kẻ xuất
gia, chúng ta hiểu rơ: Nếu người xuất gia có Tam
Quy, Ngũ Giới, quỷ thần có thể dựa thân hay
chăng? Chẳng thể! Những vị thần hộ
pháp, thần hộ giới làm sao có thể để cho
linh quỷ dựa thân người ấy được?
Há có lẽ ấy! Linh quỷ có thể dựa thân th́ nói
cách khác, quư vị chẳng có thần hộ pháp, mà cũng chẳng
có thần hộ giới. Quư vị thọ Tam Quy Ngũ Giới
là hữu danh vô thực! Người thọ Tam Quy, khởi
tâm động niệm tương ứng với “giác,
chánh, tịnh”, tức là “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” như tựa
đề kinh Vô Lượng Thọ đă nói. Khởi tâm
động niệm chẳng trái nghịch “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, đạt
được Tam Quy. Phật là giác, Pháp là chánh, Tăng là tịnh,
giác chứ không mê, chánh chứ không tà, tịnh chứ chẳng
nhiễm, quư vị thật sự đạt được.
Do vậy có ba mươi sáu vị thần hộ pháp. Đối
với Ngũ Giới, quư vị có thể đắc một
điều giới, sẽ có năm vị thần hộ giới,
hai điều giới th́ sẽ có mười vị thần
hộ giới. Ngũ Giới thảy đều trọn
đủ, quư vị sẽ có hai mươi lăm vị thần
hộ giới, linh quỷ nào dám dựa thân?
Có
các đồng học hiểu đạo lư này, cũng bị
quỷ dựa thân, nhưng không dám nói. V́ sao? Lúng túng! Người
khác vừa nghe nói quỷ dựa vào thân ta, chứng tỏ
ta chẳng có thần hộ pháp, mà cũng chẳng có thần
hộ giới. Do đó, quỷ thần có thể t́m
được quư vị. Người ấy có cái tâm cảnh
giác, được lắm, vậy th́ như thế nào? Nhất
định là nghiêm túc học, nhất định phải
học từ Đệ Tử Quy, từ kinh Thập Thiện
Nghiệp Đạo. Chẳng có cơ sở này sẽ rất
khó! Do vậy, trong những năm qua, chúng tôi đặc biệt
nhấn mạnh, nguyên nhân là ở chỗ này. Lui lại
để thực hiện cơ sở tốt đẹp,
mới là thật sự tiến bộ. Từ nay về
sau, tiến bộ rất nhanh. Đó gọi là “lùi bước vốn là tiến
về trước”. Cơ sở của quư vị chẳng
tốt, chẳng có cơ sở, cứ hùng hục tiến về trước
thế nào đi nữa, đến cuối cùng đều
thất bại, chớ nên không biết Lư Sự này. Hôm nay
đă hết thời gian rồi, chúng tôi giảng tới
đây!
Tập
1528
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ
mười một, đoạn lớn thứ sáu trong phần
kệ tụng, xem từ bài kệ thứ mười hai.
(Kinh)
Nhược kiến hiểm đạo, đương
nguyện chúng sanh, trụ chánh pháp giới, ly chư tội
nạn.
(經)若見險道。當願眾生。住正法界。離諸罪難。
(Kinh: Nếu thấy đường hiểm, nguyện
cho chúng sanh, trụ chánh pháp giới, ĺa các tội nạn).
Bài
kệ này ư nói, trong các con đường, xác thực là có “hiểm đạo”, chúng ta
nói là trên đường có nguy hiểm. Ở đây, cổ
đức bảo chúng ta, nói thông thường th́ có hai loại,
trong phần chú giải, Thanh Lương đă nói:
(Sớ)
Hiểm đạo hữu nhị, nhất đa tặc quỷ
độc thú.
(疏)險道有二,一多賊鬼毒獸。
(Sớ: Hiểm đạo có hai loại, một là
có nhiều giặc, quỷ, thú độc).
Đấy
là một loại. Loại thứ hai là…
(Sớ)
Hiệp kính trở tuyệt.
(疏)狹徑阻絕。
(Sớ:
Đường hẹp, trắc trở, đoạn tuyệt).
Đấy là ở trên
đường có thổ phỉ, có cường đạo,
hoặc là có rắn độc, có mănh thú. “Tặc” (賊) là đạo tặc, hoặc trên đường có
những loài được gọi là quỷ quái. Hiện
thời, trên đường sá vẫn có những chuyện
giống như vậy, bất quá ít hơn xưa kia. Hơn
nữa, hiện thời, chúng ta ngồi xe an toàn hơn xưa
kia quá nhiều. Cơ bản là khi gặp rắn độc,
mănh thú trên đường, đi xe th́ có thể ngăn ngừa
được. Nếu gặp phải giặc cướp
th́ vẫn rất phiền phức, chúng ta thường nói
là “t́nh huống trị an”, tức là t́nh trạng trị an trong xă hội.
Chuyện
quỷ mị là thật sự có. Tôi nghĩ
trong các đồng học chúng ta có lẽ là cũng có rất
nhiều người cũng đă gặp. Đặc biệt
là đường núi, đường nhỏ, đường
quanh co khúc khuỷu, thường xảy ra tai nạn xe cộ.
Hễ có tai nạn xe cộ, nhất định là có người
tử vong. Chúng ta thường nói là kẻ bị chết v́
tai nạn xe cộ t́m người thế thân. Thật ra, dẫu
ở ngoại quốc cũng chẳng thể tránh khỏi
chuyện này. Người Hoa đă biết. Thuở trước,
tôi ở Đài Loan, tại Đài Loan thường là chỗ
nẩy sanh tai nạn xe cộ, thường lập một
tấm bia, có cái bằng đá, mà cũng có cái bằng gỗ,
viết danh hiệu của Phật, Bồ Tát, “nam-mô A Di Đà Phật”, “nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát”, “nam-mô Địa Tạng
Vương Bồ Tát”, quư vị thường trông thấy,
thấy chỗ lập bài vị bèn biết nơi ấy thường
xảy ra tai nạn xe cộ.
C̣n
có những người tài xế nói với chúng tôi, đấy
là lời nói chân thật, chẳng phải là đặt chuyện.
Những người tài xế ấy rất thân thuộc đối
với chúng tôi. Đặc biệt là vào buổi tối, buổi
tối chạy xe trên con đường ấy, thường
thấy giữa đường có người ngoắc
tay. Thấy có người ngoắc, xe phải tránh họ.
V́ đường rất hẹp, phía dưới là hố
thẳm rất sâu, rất dễ xảy ra chuyện. Tài xế
có kinh nghiệm, biết đấy chẳng phải là người,
trực tiếp chạy xuyên qua thân họ, chẳng sao cả!
Kẻ chẳng có kinh nghiệm, sẽ tránh họ. Hễ tránh
họ, xe sẽ rơi xuống khe núi. Do vậy, đấy
chẳng phải là người, mà là quỷ t́m kẻ thế
thân! Những tài xế có kinh nghiệm bảo tôi, thật vậy,
chẳng giả, họ chính mắt
trông thấy. Hơn nữa, những người
“đồng xa” (cùng ngồi
trên xe) đều cùng trông thấy, chẳng phải chỉ
có một ḿnh tài xế trông thấy. Rất nhiều năm
trước kia ở Đài Loan, tôi đă từng gặp những
chuyện ấy. Đó là “hiểm
đạo”. Đối với hiểm đạo, phải
đặc biệt cẩn thận, v́ trước kia đi đường chẳng
phải là ngồi xe. Hiện thời, đúng là xe có tác dụng
bảo vệ; trước kia, tối đa là quư vị ngồi
kiệu, cưỡi ngựa, đi bộ, cho nên những
con đường nguy hiểm khá nhiều!
Một
loại khác là “hiệp kính”
(狹徑, đường hẹp), “kính” (徑) là con đường rất hẹp. Khe núi, hai bên là
núi lớn. Núi ấy hết sức chênh vênh, do vậy, h́nh
thành sơn cốc, bên trong đúng là đường ruột
dê nhỏ bé, rất khó đi. Có lúc đường bị sụt
lở, con đường ấy bị đứt đoạn. Có thể đứt đoạn mấy mét, có thể
đứt đoạn mấy chục mét, rất
khó đi, có thể gặp phải trạng huống này.
Thường là người thích đi đây đó sẽ
gặp phải, nhất là [những chỗ] núi non nổi
tiếng, sông lớn. Tuy hiện thời đường sá
mở mang tiến bộ hơn trước rất nhiều,
thậm chí rất nhiều nơi có xe cáp treo, tại Trung
Hoa gọi [đường cáp treo] là “sách đạo” (索道), xác thực là an toàn khá nhiều; nhưng thật
sự muốn du ngoạn ngắm cảnh th́ vẫn phải
đi bộ. Bởi lẽ, ngoạn cảnh danh thắng
mà ngồi trên xe sẽ không thấy ǵ, tốc độ quá
nhanh! Khi thật sự du ngoạn, du sơn ngoạn thủy,
nhất định phải đi bộ. Đi bộ sẽ
gặp phải những t́nh trạng giống như trong
kinh đă nói, nói chung là phải chú tâm cẩn thận.
Năm
trước, tôi có dịp cùng mấy vị đạo hữu đến
chơi Hoàng Sơn. Cái phông nền hiện thời [trong pḥng
thâu h́nh này] chính là Hoàng Sơn, dường như bức ảnh
này là do tôi chụp. Nhưng chúng tôi ngồi xe đến chân
núi, sau đấy, đi
xe cáp, ngồi xe cáp lên đỉnh núi,
tiết kiệm rất nhiều thời gian. Thời gian chúng
tôi du ngoạn rất ngắn, ở trên núi dùng cơm trưa,
buổi chiều trở về. Do vậy, thật sự muốn
đến ngoạn cảnh nơi ấy, tối thiểu
là phải mất hai tuần, ở trên núi hai tuần. Mỗi
ngày tản bộ, quư vị mới có thể thấy cảnh sắc
trong núi biến đổi. Chúng tôi rất mong đến
ngoạn cảnh, nhưng chẳng có thời gian dài như
thế, xác thực là đáng để ngắm. Hoàng Sơn
là một quả núi danh tiếng tại Trung Hoa, rất đáng
đến xem, phong cảnh bốn mùa khác nhau. Dưới
chân núi là Hoàn Nam Huy Thương Cố Cư (vùng cư trụ
cũ của các thương nhân Huy Châu[4]
ở phía Nam đất Hoàn), c̣n giữ được nền
văn hóa xứ Huy của Hoàn Nam, cũng rất đáng
để xem. Điều hết sức đáng tiếc là
những thôn văn hóa, những thôn trang cổ lỗ chẳng
được tu bổ đă lâu, chúng tôi trông thấy rất
khó chịu. Nghe nói có mấy chục cựu thôn trang đă hơn
ba trăm năm như thế, c̣n giữ được
mười mấy thôn trang, tôi chỉ đến xem hai thôn.
Những
điều được nói trong kinh nhằm biểu thị
pháp. Hai thứ hiểm đạo được nói theo sự
biểu thị pháp, loại thứ nhất là:
(Sớ)
Sơ, hoặc nghiệp tội khổ, phàm phu chi hiểm đạo
dă.
(疏)初惑業罪苦,凡夫之險道也。
(Sớ:
Thứ nhất là hoặc nghiệp, tội khổ, đấy
là đường hiểm của phàm phu).
Loại
thứ hai sau đó là “hiệp
kính trở tuyệt” (đường hẹp, trắc trở,
đoạn tuyệt), biểu thị:
(Sớ)
Tự điều trệ tịch, Nhị Thừa chi hiểm
đạo dă, giai vi nạn xứ.
(疏)自調滯寂,二乘之險道也,皆為難處。
(Sớ: Trầm trệ, ngưng lặng nơi sự
tự điều phục chính là đường hiểm của
Nhị Thừa, đều là chỗ tai nạn).
Trước hết, chúng ta nói
đến hiểm đạo của phàm phu. Loại thứ
nhất là “hoặc nghiệp tội
khổ”. Hoặc (惑) là mê hoặc, do mê hoặc mà tạo nghiệp, “tội khổ” là thọ báo, là
chịu báo. “Tội khổ”
là nói ǵ vậy? Luân hồi trong lục đạo, đặc
biệt là nói tới ba ác đạo. Đại Thừa Phật
pháp thường nói, đặc biệt là trong xă hội hiện tiền, có thể nói
mỗi bước đều là bẫy rập, mỗi
bước đều là hố lửa. Trong có phiền năo,
tức là các phiền
năo tham, sân, si, mạn, ngoài có tiếng tăm, lợi dưỡng,
ngũ dục, lục trần dụ dỗ, mê hoặc, bị tiếng
tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần dụ
dỗ, mê hoặc. Từ vô thỉ kiếp đến nay, đă tích tập phiền năo rất
nặng nề, chẳng biết những sự dụ dỗ mê hoặc đă tăng nhiều hơn trước bao
nhiêu lần! Chắc chắn không chỉ là gấp mười
lần hoặc trăm lần đâu nhé!
Đối
với các đồng học tại Hương Cảng, lần
đầu tiên tôi đến Hương Cảng giảng
kinh là năm 1977, ba mươi năm trước. Ba mươi
năm trước, sự dụ dỗ, mê hoặc trong xă hội
Hương Cảng chính là sự dụ hoặc thông thường
trong các đại đô thị thuở ấy; sức
dụ dỗ mê hoặc hết sức to lớn, mạnh mẽ. Hiện thời là Hương Cảng
ba mươi năm sau, quư vị ngẫm xem, [sức mạnh
ấy] đă tăng trưởng hơn trước bao nhiêu
lần? Có thể tu hành trong hoàn cảnh này hay chăng? Vào
thời chiến tranh giải phóng[5],
lăo ḥa thượng Hư Vân đă từng đến Hương
Cảng, các đồng tu Hương Cảng rất khó có,
đă lập cho Ngài một đạo tràng nhỏ (tinh xá),
tôi có đến thăm, hoàn cảnh rất u tĩnh. Các
đồng tu Hương Cảng thuở ấy hy vọng
ḥa thượng Hư Vân sẽ ở Hương Cảng lâu dài
để hoằng pháp. Lăo ḥa thượng nh́n hoàn cảnh
Hương Cảng, bảo mọi người: “Chỗ này
chẳng thể tu hành! Tiếng tăm, lợi dưỡng,
ngũ dục, lục trần dụ dỗ, mê hoặc nghiêm
trọng, có người tu hành nào ở nơi đây mà có thể
chẳng động tâm?” Do vậy, đến cuối cùng,
Ngài ở một tháng rồi vẫn quay về Trung Hoa [Lục
Địa]. Có lư, chẳng phải là vô lư!
Tu
hành ở nơi đây mà có thể chẳng bị ô nhiễm,
thưa cùng chư vị, đó là công phu chân thật, thật
sự buông xuống, thật sự giác ngộ, đă hiểu
rơ. Công phu chẳng đến nơi đến chốn, ở
trong hoàn cảnh này, quư vị cũng rất khó thành tựu.
Nói theo phía người tu hành c̣n là phàm phu, chẳng có thành tựu,
hoàn cảnh này là hiểm đạo. Không chống nổi sự
dụ dỗ, mê hoặc, quư vị bị mê hoặc. Hễ
mê hoặc, nhất định sẽ dấy lên tham, sân, si.
“Hoặc” là si, quyết
định sẽ dấy động tham, sân, nghi, mạn.
Nói cách khác, trong hoàn cảnh này, hằng ngày quư vị sanh phiền
năo, chẳng phải là sanh trí huệ, mỗi ngày một đi
xuống, chẳng phải là tăng tấn cao hơn, quư vị
bị đọa lạc. V́ thế, đạo tràng của
các vị cổ đại đức thường
được dựng trong chốn núi rừng!
Chẳng
phải là Hương Cảng không có đạo tràng, có chứ!
Đại Dự Sơn có đến mấy đạo tràng.
Trước kia, chưa mở xa lộ, phải đi bộ
vào đó. Con đường ấy rất dài, cũng là
đường nhỏ. V́ sao? Chẳng để cho quư vị
quá thuận tiện! Hiện thời, Đại Dự Sơn
đă mở xa lộ. Ba mươi năm trước, khi
tôi đến đó, có thể lái xe, nhưng đường
rất hẹp, thật sự là hiểm đạo. Người
lái xe rất giỏi ở Hương Cảng đến Đại
Dự Sơn chẳng dám lái xe. Đường quá hẹp,
quá hiểm, núi rất cao, đường sá ngoằn ngoèo,
rất khó đi. Những tài xế rất kinh nghiệm ở
trên núi, thường lái trên những con đường này,
đă quen thuộc, lái xe rất cẩn thận.
Năm
1977, pháp sư Thánh Nhất mời tôi đến thăm chùa
Bảo Lâm của Ngài. Chúng tôi ngồi xe đến chùa Bảo Liên. Từ
chùa Bảo Liên đến chùa Bảo Lâm, xe không chạy
được. Đường nhỏ, [thuộc loại]
đường hẹp ruột dê, phải đi bộ mất
nửa tiếng, xe chẳng chạy được, như
vậy đó! Khi ấy, tôi rất bội phục pháp
sư Thánh Nhất, Ngài chẳng sửa đường. Du
khách thông thường nghe nói phải đi bộ nửa tiếng đồng hồ sẽ chẳng muốn đến. Du khách ít đến,
quư vị mới có thể đạt được thanh tịnh.
V́ thế, thuở ấy ở nơi đó tham Thiền, chùa
có Thiền Đường, c̣n có hơn bốn mươi người
hằng ngày tọa hương trong Thiền Đường,
khó có một đạo tràng tốt đẹp dường
ấy. Chúng tôi trông thấy hết sức hoan hỷ!
Đạo
tràng trước kia đều được tạo dựng trong chốn núi thẳm. Thường là từ con
đường dưới chân núi lên đến chùa phải
đi mất ba ngày. Trên đường, có những lều
tranh nhỏ để quư vị nghỉ ngơi, giống như
từng trạm một. V́ thế, người xuất gia xa ĺa, không
chỉ là đô thị, mà ngay cả thôn trang cũng xa ĺa,
nhà Phật gọi [những chốn tu hành ấy] là A Lan
Nhă. A Lan Nhă (Araṇya) là tiếng
Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Tịch Tĩnh
Xứ. Nơi ấy thanh tĩnh (清靜, thanh tịnh, vắng lặng), tiêu chuẩn là chẳng
nghe tiếng trâu kêu. Tiếng trâu kêu ở nông thôn rất lớn,
ở nơi này chẳng nghe thấy. Nói cách khác, cách xa nông
thôn tối thiểu là ba dặm trở lên, chẳng nghe thấy
tiếng trâu kêu. Đấy là v́ lẽ nào? Nói theo cách hiện
thời, sẽ là “hoàn bảo”
(環保), tức
là bảo vệ hoàn cảnh, bảo vệ cái tâm thanh tịnh
của người tu đạo, bảo vệ người
tu đạo chẳng ô nhiễm. Những người tu đạo
là phàm phu. Nay chúng ta thấy những đạo tràng thời
cổ, hiện thời đều xây dựng xa lộ, xe có
thể lái đến tận cửa chùa, lái đến
trước chánh điện, rất thuận tiện. Du khách
liên miên chẳng ngớt. V́ thế, hiện thời đều
biến thành ǵ? Là chỗ du lịch ngắm cảnh nổi
tiếng, chư vị phải nhớ nhé: Chẳng
phải là đạo tràng thanh tịnh để tu hành. Đạo
tràng cả trăm, cả ngàn năm, ai mà chẳng mong đến thăm? Đấy là cổ
tích của văn hóa Trung Hoa, đặc biệt là những
khách du lịch từ nước ngoài đều mong viếng
thăm. Chẳng thể phê phán nặng nề chuyện này
được!
Tôi
nhớ lần đầu tiên trở về Trung Hoa, dường
như là vào năm một ngàn chín trăm tám mươi mấy,
ở Bắc Kinh, có đến thăm cụ Triệu Phác Sơ.
Chúng tôi là đồng hương, cho nên hết sức thân
thiết. Lần đầu tiên gặp mặt, chúng tôi tṛ chuyện hết bốn tiếng đồng hồ.
Cụ mời tôi dùng cơm. Khi ấy, tôi bèn thưa với
lăo nhân gia: Những đạo tràng ấy thôi th́ hăy mở rộng cho du lịch ngắm cảnh. Trong du
lịch, phải chú trọng cơ hội giáo dục. Nhân
viên tiếp đăi sẽ giới thiệu Phật pháp với khách viếng thăm,
hướng dẫn viên du lịch cũng phải được
tập trung huấn luyện, giảng giải cho họ những
điều thường thức về Phật pháp để
họ cũng có thể giới thiệu [Phật pháp với
du khách]. Người thật sự tu hành, do hiện thời
phương tiện giao thông thuận tiện, chẳng như
xưa kia, hăy chọn nơi khác để dựng đạo
tràng tu hành. Đạo tràng tu hành trong hiện thời không cần
xây dựng pḥng ốc theo kiểu cung điện. Chẳng
cần thiết! Đấy là kiến trúc thời cổ. Đạo
tràng hiện thời phải nên xây dựng như thế nào?
Xây dựng theo h́nh thức các trường học trong hiện
thời! Khi đó, tôi ở Mỹ, các viện đại học tại Mỹ đă ban cho tôi một
sự khải thị rất lớn. Mười tông phái Phật
giáo chỉ cần lập mười đạo tràng là đủ
rồi, thành lập mười viện đại học như vậy. Đạo tràng chia
thành hai bộ môn, một là Giải Môn, hai là Hạnh Môn. Giải
Môn th́ gọi là Học Viện. Thiền Tông th́ là Thiền Học Viện.
Hạnh môn th́ có thể dùng danh xưng Học Hội, Thiền
Học Hội. Tịnh Độ Tông chúng ta sẽ là Tịnh
Tông Học Hội, trong ấy là đạo tràng tu hành. Tịnh
Tông Học Viện là đạo tràng giáo học của Tịnh
Độ Tông. Mười tông phái, mỗi tông phái đều
chia thành hai bộ môn như vậy, hai môn Giải và Hạnh.
Như Hoa Nghiêm, [sẽ là] Hoa Nghiêm Học Hội, chúng ta thấy
Học Hội bèn biết đấy là đạo tràng tu hành.
Hoa Nghiêm Học Viện là đạo tràng giáo học. [Tông Thiên Thai th́ là] Thiên Thai Học Viện và Thiên Thai Học Hội. Cụ
Triệu Phác Sơ nghe nói như vậy, hết sức hoan
hỷ, cụ bảo: “Chủ ư ấy khá lắm! Nếu thật
sự làm như vậy, chúng ta sẽ khiến cho Phật giáo
hưng vượng”.
Tất
cả những đạo tràng từ mấy trăm năm
trở lên thảy đều mở cửa cho du lịch,
ngắm cảnh. Nhất định phải xây dựng đạo
tràng mới, cái mới th́ hoàn toàn theo h́nh thức trường
học, [bao gồm] hai môn Giải và Hạnh. Tứ chúng tại
gia và xuất gia đều có thể thu lưu. Chọn lựa
một chỗ tốt đẹp, dần dần h́nh thành một
thành phố văn hóa mới. Từ văn hóa thôn trở thành
văn hóa trấn, đến cuối cùng, nhất định
h́nh thành giống như một thành phố đại học.
Tôi tŕnh bày cách nghĩ ấy với cụ, cụ rất hoan
hỷ. Hết sức đáng tiếc, cụ Triệu tuổi
đă quá cao, thật sự là tâm có thừa, nhưng sức
chẳng đủ! Chúng tôi vẫn hy vọng trong tương
lai sẽ đi theo đường lối này. Nhất là xă
hội hiện thời cởi mở, cả thế giới
trở thành một địa cầu thôn, sự giao tiếp
giữa con người rất mật thiết. Nếu muốn
thật sự hóa giải xung đột, xúc tiến an định,
ḥa b́nh, sự giao du giữa con người với nhau chính
là một mắt xích quan trọng nhất. Con người giao
du, qua lại với nhau. Giống như trong tôn giáo, Phật
giáo Trung Hoa có mười đại đạo tràng, quan sát,
học tập văn hóa Phật giáo, có chỗ để cho
người ta đến xem, có những thứ cho người
ta học tập. Đó là đúng!
Trước
mắt, chúng ta đang ở trong hoàn cảnh đúng là hiểm
đạo. “Hiểm đạo”
có nghĩa là đạo tràng chẳng dạy chúng ta giảm
thiểu tham, sân, si, tăng trưởng Giới, Định,
Huệ. Chư vị đồng học, quư vị thấy
ở chỗ nào có một đạo tràng như vậy? Nó thật sự
giúp quư vị dứt diệt tham, sân, si, tăng trưởng
Giới, Định, Huệ. Đấy là đạo tràng thật
sự, đúng là hữu tu, hữu học, chúng ta chớ nên
không biết. Đối
với đạo tràng Hạnh Môn, trong đạo
tràng c̣n có một chuyện mà chúng ta chớ nên không biết: Nhất định là “thâm
nhập một môn, huân tu lâu dài” th́ mới có thể thành
công. Trụ trong đạo tràng, tâm là định. Cái tâm nhấp
nhổm, hời hợt th́ Phật, Bồ Tát đều chẳng
giúp đỡ
được. Tâm nhất định
phải định, phải thanh tịnh. Cổ nhân nói: “Thân an tắc đạo long” (Thân yên ổn,
đạo sẽ hưng thịnh), hoàn cảnh cư trụ
phải an tĩnh, dẫu sơ sài, quê kệch, chẳng sao
cả, [chỉ cần] chỉnh tề, sạch sẽ, nhà
tranh cũng rất tốt. Thật sự dựng một túp
lều nhỏ đă là rất tốt, ngăn nắp, sạch
sẽ, thuận tiện thanh tu!
Nghiên
cứu giáo, đương nhiên là có một loại trường
học với quy mô lớn th́ tốt lắm, nhưng tại
Trung Hoa chẳng có. Năm trước, tôi sang thăm Ai Cập,
có đến thăm một đại học Hồi giáo.
Đại học ấy đă có hơn một ngàn năm lịch
sử, rất có địa vị và danh tiếng trên thế
giới, tôi thấy vậy rất cảm động. Phật
giáo chẳng có một đại học Phật giáo, chẳng
có một Phật học viện nào đă có hơn một
ngàn năm lịch sử, chẳng có! Đấy là một
chuyện rất đáng tiếc. Trước kia, giáo học
và tu hành trong Phật giáo đều ở trong chùa chiền.
Nói thật ra, chùa chiền là trường học. Vị
ḥa thượng Thủ Tọa phụ trách giáo học. Giảng
kinh, thuyết pháp, bồi dưỡng nhân tài hoằng pháp là
chuyện của Ngài. Các vị đường chủ của
các đường suất lănh đại chúng tu hành, Thiền
Đường, Niệm Phật Đường cũng rất
có quy mô, nhưng so với học hiệu của người
ta, học hiệu xác thực là một chế độ tốt
đẹp. Ưu điểm của người khác vẫn
rất nhiều, những chỗ đáng cho chúng ta học tập chẳng ít!
Trong
hoàn cảnh hiện tiền, chúng ta phải biết làm như
thế nào để có thể tránh khỏi tai nạn trong
hiểm đạo? Vậy th́ quư vị nhất định
phải biết khắc chế chính ḿnh. Trong các buổi giảng,
chúng tôi thường nói: Đối với ư niệm
ích kỷ, tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục,
lục trần, tham, sân, si, mạn, hăy thời thời khắc
khắc kiểm điểm, phản tỉnh, phải buông chúng
xuống! Trong cuộc sống hằng ngày, niệm niệm
chẳng trái nghịch giáo huấn của đức Phật,
mà hạnh nào cũng chẳng ĺa khỏi những quy củ do cổ
thánh tiên hiền lưu lại. Chúng ta học từ chỗ nào? Phải
học từ Đệ Tử Quy. Quư vị có thể làm
được một trăm mười ba chuyện trong Đệ
Tử Quy, quư vị sẽ có công cụ để pḥng thân
trong hiểm đạo. Sau đấy, lại tiến thêm
bước nữa là thực hiện Thập Thiện Nghiệp
Đạo. Đạo tặc, quỷ mị, độc xà,
mănh thú trên con đường
ấy đều chẳng dám xâm phạm quư
vị, quư vị sẽ có thể “lư hiểm như di” (履險如夷,đi trong đường hiểm mà
thong dong), an toàn vượt qua hiểm đạo. Quư vị
chẳng có hai bản lănh pḥng thân ấy, rất có thể là
hễ tiến vào, sẽ chẳng thoát ra được, sẽ
bị hại. Tiến
vào mà chẳng thoát ra được, quư vị
sẽ bị đọa trong tam đồ. Ai chịu nghiêm
túc học tập Đệ Tử Quy, nghiêm túc học tập
Thập Thiện Nghiệp? Có chứ! Ai vậy? Người
thiện căn sâu dầy, người có thiện căn, có
phước đức, chúng ta thường nói là “người có phước, có huệ”.
Có huệ là có thiện căn, có phước đức th́ người ấy chịu tu, chịu sốt sắng
tu tập. Nói cách khác, chẳng thể nghiêm túc học tập,
chẳng thể thực hiện, nguyên nhân là ǵ? Thiện
căn và phước đức quá mỏng,
cũng có thể nói là chẳng chống nổi sự dụ
dỗ, mê hoặc bên ngoài, thiện căn và phước
đức mỏng tanh!
V́
thế, trong kinh Tiểu Thừa, đức Thế Tôn đă
dạy chúng ta: Để học đạo th́ phải có điều kiện đầu tiên là cầu minh sư
truyền giới. Đấy là điều kiện thứ
nhất. “Minh” chẳng phải
là tiếng tăm to lớn, mà là minh trong quang minh, minh sư!
Vị thầy ấy hữu tu, hữu chứng, quư vị theo
vị ấy sẽ chẳng bị sai lầm. Tuy nói như
thế, chỉ sợ rằng trong hiện thời, rất
khó t́m được một vị thầy hữu tu hữu
chứng. Trong quá khứ, thầy Lư đă dạy chúng tôi, t́m
không thấy th́ bất đắc dĩ, t́m một vị kém
hơn. Phải t́m một vị nào? Một vị thầy có hạnh, có giải, hạnh và giải tương
ứng! Tuy thầy chẳng chứng, nhưng thầy thật
sự chịu tu, hiếu học, thông hiểu, lại c̣n
nghiêm túc hành tŕ. Trong hiện thời, cũng rất khó kiếm
được một vị thầy như vậy. Có chứ!
Chẳng phải là không có, đương nhiên là chẳng nhiều
lắm. Nếu thật sự t́m chẳng thấy, thầy
Lư bảo chúng tôi, hăy c̣n có cách, t́m cổ nhân! V́ thế, lăo
nhân gia thường khuyên tôi lấy Ấn Quang đại sư làm thầy, học tập theo lăo
nhân gia. Ấn Quang đại sư chẳng c̣n [tại thế],
Văn Sao hăy c̣n, cương lănh chỉ đạo của đại
sư hăy c̣n. Hăy nắm lấy cương lănh, học tập
từ Văn Sao. Thật sự [hành tŕ như vậy], sẽ
là học tṛ tốt nhất của Ấn Quang đại
sư, há có lẽ nào chẳng thành tựu? Quư vị có mong bái Ngài làm thầy hay không? Có mong học tập
Ngài hay không?
Tổng
cương lănh để tự hành, hóa độ người
khác trong cả một đời lăo nhân gia là bốn câu: “Đôn luân tận phận, nhàn tà
tồn thành, tín nguyện tŕ danh, cầu sanh Tịnh Độ”
(Giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, ngăn chặn tà vạy, giữ ǵn ḷng thành, tín nguyện tŕ danh, cầu
sanh Tịnh Độ), đúng là rất giống với sự
hành tŕ của Đại Thế Chí Bồ Tát. V́ thế, có người
nói Ngài là Đại Thế Chí Bồ Tát tái lai, tôi tin tưởng [chuyện này]. Quư vị thấy tấm ḷng của lăo nhân gia, nh́n vào
hạnh nguyện cả đời của lăo nhân gia, hết
sức gần với Đại Thế Chí Bồ Tát, chúng
ta phải hiểu điều này. Thực hiện “giữ vẹn luân thường,
trọn hết bổn phận” th́ phải làm như thế nào? Thưa cùng chư vị, chính là Đệ
Tử Quy. “Giảm thiểu tà
vạy, giữ ǵn ḷng thành” chính là Thập Thiện Nghiệp
Đạo. Quư vị có cơ sở này, sau đấy, tín nguyện
tŕ danh; đấy là ba tư lương của Tịnh Tông,
tức Tín, Nguyện, Hạnh, cầu sanh Tịnh Độ,
chẳng có một ai không văng sanh. Do vậy, các đồng
tu niệm Phật phải hiểu, nếu chẳng có hai câu
trước, quư vị chỉ có “tín
nguyện tŕ danh, niệm Phật cầu sanh” trong phần
sau, sẽ chẳng đáng trông cậy, không nhất định
là sẽ có thể văng sanh. Hai câu trước là cơ sở;
từ cơ sở ấy, quư vị phát nguyện cầu
sanh Tịnh Độ th́ mới có thể thành tựu. Giáo
dục cơ sở quan trọng hơn bất cứ điều
ǵ khác! Hy vọng các đồng học trong một đời
này thật sự mong thành tựu, quyết định chớ
nên sơ sót sự giáo dục cơ sở do thánh nhân đă
trao cho chúng ta. Đấy là nói về phàm phu.
Phàm
phu mong thành tựu chẳng phải là không thể thành tựu.
Đấy là như Thiện Đạo đại sư
đă nói rất hay, có thể thành tựu hay không, thành tựu
cao hay thấp, “nói chung là do gặp
duyên khác nhau”. Nếu có một đạo tràng tốt đẹp,
quyết định chớ nên khinh thường, bỏ
qua. Hễ bỏ qua, quư vị sẽ đến đâu
để học? Thế nào là đạo tràng đúng pháp? “Thâm nhập một môn, huân tu lâu
dài”; đấy là đúng pháp. Thuở tôi c̣n trẻ mới
học Phật lúc hai mươi mấy tuổi, sau khi vừa
được tiếp xúc Phật pháp, thân cận thầy
Lư, ở dưới ṭa thầy Lư mười năm. Tôi nhận
biết thầy Lư lúc ba mươi mốt tuổi. Đấy
là một đạo tràng đúng pháp. Về Giáo, tuy thầy
Lư giảng rất nhiều kinh luận, nhưng bộ kinh
luận nào cũng đều kết quy Tịnh Độ,
rất khó có! Đến cuối cùng đều kết quy Tịnh
Độ, khiến cho quư vị biết một phương
hướng, một mục tiêu.
Tôi
đă kể với các đồng học: Khá nhiều pháp sư,
đại đức, cư sĩ, hễ đến Đài
Trung, nhất định sẽ đến thăm Đài
Trung Liên Xă và Từ Quang Đồ Thư Quán, thầy nhất
định tiếp đăi họ. Tôi thấy thầy chuẩn
bị lễ vật, chuẩn bị mời họ dùng cơm,
cơm chay cũng do thầy đích thân nấu, nhưng chưa
bao giờ thỉnh họ khai thị, chẳng mời người
ta giảng kinh. Tôi mới đến, thấy t́nh h́nh ấy
vài lượt, trong tâm rất hoang mang, sao chẳng để
cho chúng tôi nghe những vị đại đức ấy
[giảng giải]? Về sau, thầy nh́n ra ư niệm, thấy
được tâm tư của chúng tôi, bèn đặc biệt
dạy chúng tôi. Thầy nói chẳng phải là không thỉnh,
cùng là người niệm Phật, nhưng mỗi cá nhân có
tư tưởng và quan niệm khác nhau. Mời họ
đến giảng, nếu họ nói pháp môn của họ
hay, pháp môn này của chúng ta chẳng bằng họ. Nếu
là niệm Phật, phương pháp của họ hay, phương
pháp của chúng ta không bằng họ. Nhiều đồng
tu chúng ta đă theo thầy mười mấy năm, sau khi
nghe lời ấy, trong tâm dao động, quư vị nói xem phải
làm như thế nào? Phải tốn bao nhiêu thời gian, bao
nhiêu tinh lực th́ mới có thể khôi phục nguyên trạng cho mọi người? Khi ấy, tôi mới hiểu rơ, nghĩ cổ nhân đă
nói, “ninh động thiên giang thủy,
bất động đạo nhân tâm” (thà động
nước ngàn sông, chẳng động tâm người tu
hành). Tôi hiểu đạo lư này!
Thật
sự là bậc hành gia, bậc nội hành chẳng nhiều
lắm. Bậc nội hành th́ quư vị nhất định
phải thỉnh vị ấy. V́ sao? Chắc chắn sẽ
có lợi cho đạo tràng của chúng ta. Bậc nội hành
sẽ nói ǵ? Chắc chắn là vị ấy không nói về
[pháp tu, cách hành tŕ của] chính ḿnh. Vị ấy hễ nói với
chúng ta, nhất định sẽ tán thán đạo tràng,
tán thán pháp môn, tán thán thầy, tán thán đồng học, khiến
cho đồng học có tín tâm đối với đạo
tràng, có tín tâm đối với pháp môn này, có tín tâm đối với thầy. Đó là
đúng. Đấy là bậc nội hành. Vị ấy đến
chỗ này giúp quư vị hoằng pháp lợi sanh, khiến
cho tín tâm của tín đồ và học tṛ của
quư vị được kiên cố.
Đấy là bậc nội hành. Bậc nội hành thật
sự chẳng nhiều! Kẻ ngoại hành (kẻ thực hành, hiểu biết lơ mơ bề ngoài) sẽ luôn tán
thán pháp môn của chính ḿnh. Hoặc là tuy chẳng hủy
báng, nói chung, sẽ luôn đề cao pháp môn của chính ḿnh là tốt đẹp, [cho rằng] những pháp môn khác đều chẳng
sánh bằng, đều kém cỏi hơn, khiến cho mọi
người nghe xong, trong tâm dấy lên ngờ vực, như
vậy là sai mất rồi! Nếu thầy Lư không giảng những
đạo lư đó rơ ràng ngần ấy, chúng tôi chẳng biết,
chẳng nghĩ đến. [Nếu không hiểu, sẽ cứ
nghĩ] “nghe nhiều, chẳng tốt hơn ư?” Mới
hiểu là thật sự có khuyết điểm. Có người
nghe xong, đúng là ư niệm bị xoay chuyển, đi vào ngơ
rẽ, đi vào ngơ quanh quẹo, đúng là “hiểm
đạo”. À! Đă hết thời gian rồi,
chúng ta nghỉ ngơi mấy phút!
***
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Chúng ta đọc trước bài kệ này
một lượt.
(Kinh)
Nhược kiến hiểm đạo, đương
nguyện chúng sanh, trụ chánh pháp giới, ly chư tội
nạn.
(經)若見險道。當願眾生。住正法界。離諸罪難。
(Kinh: Nếu thấy đường hiểm, nguyện
cho chúng sanh, trụ chánh pháp giới, ĺa các tội nạn).
Trong
phần trước, chúng tôi đă nói đến hiểm đạo
của phàm phu. Nói thật ra, hiểm đạo quá nhiều, chớ
nên không biết tránh né, ắt cần phải hiểu rơ. Cổ
nhân thường nói: “[Mười
chuyện trên cơi đời th́ thường là] hết tám chín
chuyện chẳng như ư”. Trong một đời này, bất
luận tại gia hay xuất gia, bất luận theo đuổi
nghề nghiệp nào, nếu suốt đời b́nh ổn,
thuận buồm xuôi gió, đó là phước báo to cỡ nào?
Mấy ai có thể đạt được? Từ xưa
tới nay, người có phước báo như vậy quá ít.
Chẳng phải là không có, mà là quá hiếm có! Vậy th́ quư
vị sẽ hỏi: “Cớ sao có cát, hung, họa, phước?”
Trong kinh luận, đức Phật đă dạy rất rơ
ràng, “nhân quả ba đời”.
Đúng như câu nói: “Dục
tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả thị. Dục
tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị” (Muốn
biết cái nhân trong đời trước, những ǵ hứng
chịu trong đời này chính là nó. Muốn biết cái quả
trong đời vị lai, những ǵ đă làm trong đời
này chính là nó). Lời này đă nói rất rơ ràng, rất minh bạch.
Những ǵ ta đă tạo trong đời quá khứ là nghiệp
nhân của đời này. Ta tạo tác điều thiện,
đời này sẽ có nhiều thuận cảnh, nghịch
cảnh ít đi. Nếu trong đời quá khứ tạo nhiều ác nghiệp,
đời này nhất định là ta làm bất cứ chuyện
ǵ, sẽ có nhiều chướng ngại, khó khăn, thuận
cảnh ít ỏi. Tự làm, tự chịu, chẳng thể
oán trời hờn người. Hễ oán trời, hờn người,
quư vị đă sai mất rồi, chớ nên không biết điều
này! Phải nghĩ đến đời sau. Nếu ta nghĩ
đến đời sau, mong có quả báo thù thắng, có thể
tốt đẹp hơn đời này, vậy th́ quư vị
phải biết: Nhất định
phải tạo thiện nhân. Do thiện nhân
mới cảm thiện quả, ác nhân nhất định sẽ
cảm ác đạo. Trong đời này, có thể biết đoạn
ác, tu thiện, quả báo trong đời sau nhất định thù
thắng.
Trong
đời này, gặp kẻ oan uổng, hủy báng, hăm hại
ta, phải biết thảy đều là do có cái nhân từ
đời trước, biết đấy là nhân quả
báo ứng, cái tâm của chúng ta sẽ b́nh lặng. Đă hứng
chịu những nỗi khinh nhục, thậm chí hăm hại,
tâm vẫn tĩnh lặng, chẳng oán trời, chẳng hờn
người. “Chẳng hờn
người” là không trách móc kẻ khác, mà là tự trách chính
ḿnh trong quá khứ chẳng tu tốt đẹp, lẽ đâu
có thể trách móc kẻ khác? Trong đời này, hăy tuân giữ
giáo huấn của đức Phật, “bất niệm cựu ác, bất tắng ác nhân”
(chẳng nghĩ điều ác cũ, chẳng ghét kẻ ác).
Trong quá khứ, kẻ đó đối xử với ta chẳng
tốt ra sao, đều chớ nên ghim trong ḷng. Kẻ ấy
làm bao nhiêu chuyện xấu, cũng chớ nên sân hận hắn,
cũng chớ nên kể tội hắn, mà cũng chẳng
cần chỉ trích hắn. Thấy hắn có thiện sự
bèn tán thán. Ai nấy đều có lương tâm, [do nhận
thấy] làm một chút chuyện tốt, người ta sẽ
tán thán, làm bao nhiêu chuyện xấu, người ta có thể
bao dung chẳng nhắc tới, cái tâm hổ thẹn [của
kẻ ấy] sẽ sanh khởi. Đấy là phương
pháp tốt nhất để giúp cho kẻ ấy quay đầu,
giúp kẻ ấy sửa lỗi đổi mới. Kẻ ấy
có lầm lỗi, quư vị hằng ngày chửi bới, hằng
ngày chỉ trích, trong tâm kẻ ấy chẳng phục, chẳng
thể tiếp nhận. Nếu kẻ ấy có tâm lư phản
kháng, sẽ làm chuyện tệ hại hơn, quư vị thu
được hiệu quả trái ngược, [lại c̣n]
kết oán với người khác, sai mất rồi! “Oan gia hăy nên cởi gỡ, đừng
trói buộc”. Kẻ ấy thắt buộc với ta, muốn
thắt hai sợi dây lại, đối phương phải
hợp tác. Đối phương chẳng hợp tác, quư vị
thắt gút kiểu nào cũng đều chẳng thắt
được! Phải hiểu đạo lư này! Người
ta muốn kết oán với ta, ta không kết oán với họ,
sẽ chẳng kết được, chắc chắn là
chẳng kết được! Do vậy, phải học
tâm b́nh khí ḥa, phải hiểu rơ lư, phải biết chân
tướng của vũ trụ và nhân sinh. Đấy là chỗ
then chốt cơ sở nhất. Sau khi đă thật sự
hiểu rơ, quư vị sẽ tâm khai ư giải.
Do
vậy, quan trọng nhất vẫn là phải đọc sách.
Đọc sách của cổ thánh tiên hiền, đọc
kinh Phật, quư vị thảy
đều có thể hiểu rơ ràng,
hiểu minh bạch những đạo lư này. Sau đấy,
trong một đời này, biết rành mạch phương
hướng và mục tiêu, nhất định có thể làm
được, giống như đi đường, ta nhất
định đạt tới chỗ đích đến. Chỗ
chúng ta nhắm đến chính là thế giới Cực Lạc.
Mọi người đều mong về thế giới Cực
Lạc, quư vị có đi lạc đường hay không? Rất
khó nói! Con đường của quư vị có thật sự
thông sang thế giới Cực Lạc hay không? Đấy là
đại học vấn, chẳng phải là chuyện đơn
giản! Trong phần trước đă nói, nếu chúng ta
theo Ấn Quang đại sư, chắc chắn sẽ chẳng
sai, đi theo Liên Tŕ đại sư, đi theo Ngẫu Ích
đại sư, chắc chắn sẽ đạt tới
chỗ nhắm đến.
“Đôn luân tận phận” (Giữ vẹn
luân thường, trọn hết bổn phận) trọng
yếu lắm! V́ thế, Đệ Tử Quy và Thập Thiện
Nghiệp Đạo là hai câu trước, tức “đôn luân tận phận, nhàn tà
tồn thành”, câu sau là kinh Thập Thiện Nghiệp
Đạo, câu trước là Đệ Tử Quy. Sau đấy
mới trọn đủ “tín
nguyện tŕ danh”, chân tín, nguyện thiết, tŕ danh niệm
Phật. “Chân” (真) là ǵ? “Thiết” (切) là ǵ? Chẳng hoài nghi, không xen tạp, chẳng gián
đoạn, đấy là tướng trạng của chân
tín, thiết nguyện. Niệm nào trong tâm cũng đều
có thế giới Cực Lạc, có A Di Đà Phật, lẽ
đâu người ấy chẳng văng sanh? Dẫu ở
trong hiểm đạo, chính ḿnh có năng lực tự bảo
vệ chính ḿnh. Thập Thiện Nghiệp Đạo và Đệ
Tử Quy là hai thứ bảo vệ, bên ngoài lại cảm
Phật, Bồ Tát hộ niệm, long thiên, thiện thần
giúp đỡ, sẽ b́nh an vượt qua hiểm đạo.
Quyết định phải hiểu đạo lư này!
Trong
Tăng Thượng Duyên, quư vị phải nhận biết
đạo tràng. Đạo tràng này thật sự đúng pháp,
như lư, như pháp, chúng ta thâm nhập một môn, huân tu lâu
dài. Do vậy, quư vị sẽ thành tựu trong một đạo
tràng ngay trong một đời. Nếu quư vị thường
đi tới các đạo tràng khắp nơi, sẽ khó khăn.
V́ sao? Tâm loạn! Mỗi đạo tràng có đạo phong
và học phong khác nhau, quư vị chỉ có thể chọn lựa
một nơi tương ứng với chính ḿnh, có nguyện
vọng giống như nguyện vọng của chính ḿnh. Đă
chọn lựa một nơi, sẽ không thay đổi. Chọn
lựa một vị thầy, chọn lựa một pháp môn, chọn lựa một đạo tràng, suốt đời
chẳng thay đổi, chẳng có ai không thành công! Ắt cần
phải biết: “Pháp môn b́nh
đẳng, chẳng có cao thấp”. V́ sao đức Phật
mở ra nhiều pháp môn ngần ấy? Nhằm thích ứng
căn tánh bất đồng, đạo lư ở chỗ này!
Căn tánh của chúng sanh khác nhau, hễ thích hợp căn
tánh của họ, sẽ tu tập dễ dàng. Đấy là
điều then chốt bậc nhất để chúng ta thành
hay bại.
Thuở
ấy, khi tôi mới học Phật, thầy tôi đă buốt
ḷng rát miệng ra rả giáo huấn: “Học Giáo quyết định chẳng thể học
nhiều [thứ cùng một lúc], hễ nhiều sẽ
như thế nào? Tham nhiều, nhai không nát! Vẫn
là một môn”. Thầy c̣n bảo
chúng tôi: “Một kinh thông, hết
thảy các kinh đều thông, chỉ sợ các vị chẳng
thông một kinh nào!” Thầy thường nhắc đi
nhắc lại những lời ấy, khiến cho chúng tôi ghi khắc ấn tượng sâu đậm. Do vậy, phải
nghiêm túc học một bộ kinh, học tập trong một
thời gian dài. Tôi giảng kinh Lăng Nghiêm, trước sau
đă giảng bảy lần. Giảng kinh Vô Lượng
Thọ, giảng mười một lần. Giảng kinh Di
Đà cũng giảng rất nhiều lần, nhất
định phải hiểu “thâm
nhập một môn”.
Tuy
là thâm nhập một môn, hiện thời, tôi cũng nghe nói
có đồng học rất phát tâm, giảng kinh Vô Lượng
Thọ mấy chục lần, giảng hơn một trăm
lần. Khi đó, sợ nhất là đi vào đường
tà. “Tà” là như thế nào?
Thâm nhập một môn, sẽ giảng khá lắm, tất nhiên
là có kẻ tán thán, có người cúng dường. Hễ
được tán thán, cúng dường, tâm tham dấy lên,
Hoặc nghiệp dấy lên, quư vị sẽ mê hoặc, vậy
là hỏng rồi! Do vậy, bất cứ điều ǵ vốn
thuộc về chánh đạo, hễ dấy động ư
niệm danh lợi, dấy động ư niệm si mê, sẽ
lập tức đọa lạc, vậy là quá đáng tiếc!
V́ thế, thâm nhập một môn là một chuyện; sau khi đă
thâm nhập, nếu quư vị chẳng biết “thấy thấu suốt, buông xuống”,
dẫu thâm nhập cũng là hiểm đạo, dẫn dắt
quư vị tiến vào hiểm đạo, khiến cho quư vị sanh khởi
tham danh, tham lợi, tham cầu cúng dường, hỏng mất
rồi! Kết quả là ǵ? Coi Phật pháp như chuyện
kinh doanh buôn bán, cổ nhân nói là “bán
chác Như Lai”. Quư vị coi chuyện giảng kinh, thuyết
pháp như một loại hàng hóa, coi tín đồ như khách
hàng. Giảng kinh mà tham cầu cúng dường, phiền phức
mất rồi!
Chư
vị phải biết Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh suốt
một đời, giảng suốt bốn mươi chín
năm, chẳng lấy từ người khác một tí cúng
dường nào! Đức Phật mong mỏi mọi người
cúng dường Ngài như thế nào? Dùng pháp để cúng
dường. Pháp cúng dường là ǵ? Y giáo phụng hành.
Kinh thường nói “thọ
tŕ, đọc tụng, v́ người khác diễn thuyết”.
Đấy là thật sự cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật,
Ngài hoan hỷ. Đối với giáo huấn của đức
Phật, quư vị thật sự tiếp nhận. Quư vị
tin tưởng, tiếp nhận, [tức là] “tín thọ”, “phụng hành” là làm theo. Đức Phật dạy
ta, ta thảy đều làm được; v́ hết thảy
đại chúng th́ “diễn”
(演) là biểu diễn,
làm cho mọi người thấy. Đấy chẳng là giả.
“Thuyết” (說) là ta nói cho mọi người nghe, trước hết
phải làm, sau đấy mới nói. Tín thọ phụng
hành, v́ người khác diễn thuyết chính là thật sự
cúng dường.
Trong
Phật môn, nếu thật sự hiểu giáo huấn của
đức Thế Tôn, như lư, như pháp, hiểm đạo
nào đi nữa đối với với quư vị đều
chẳng khởi tác dụng. Tâm quư vị vĩnh viễn là
thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, chẳng ô nhiễm,
vĩnh viễn là khiêm hư, nhún nhường, cung kính. Phổ
Hiền Bồ Tát dạy chúng ta, câu đầu tiên là “lễ kính chư Phật, xưng
tán Như Lai, quảng tu cúng dường”. Người
xuất gia dùng ǵ để cúng dường? Chính là câu nói này
của đức Phật, “tín
thọ, phụng hành, v́ người khác diễn thuyết”.
Đấy là sự cúng dường của người xuất
gia, của đệ tử Phật đối với hết
thảy đại chúng, cúng dường hết thảy chư
Phật, Bồ Tát, chẳng do tài vật, vậy th́ quư vị
sẽ tránh khỏi hiểm đạo. Từ chỗ này, quư
vị phải chú tâm lănh hội, quan sát. Trong hiện thời,
thế gian này có rất nhiều hiểm đạo.
Có
những nơi chốn, quư vị chẳng thể không nhận
cúng dường. Tín đồ đến “gieo phước điền”. Tấm y này có người
nói là “phước điền
y”, trên thực tế, đă nói rất minh bạch với
quư vị. Chúng sanh mong tu phước, chẳng biết tu
phước bằng cách nào, họ đưa tiền đến
nơi đây, chúng ta phải thay họ tu phước.
Đấy là đúng. Chúng ta lấy món tiền ấy để
hưởng thụ, sai mất rồi! V́ thế, quyết
định chẳng dùng món tiền cúng dường ấy
để cải thiện cuộc sống hiện thời
của chính ḿnh. [Dùng tiền do đàn na tín thí cúng dường]
để cải thiện cái gọi là “phẩm chất cuộc sống”, th́ sai mất rồi!
Thánh nhân thế gian đều có thể cam ḷng sống cuộc
đời thanh bần, v́ sao người học Phật chúng
ta vẫn cứ tham cầu hưởng thụ cuộc sống
vật chất? Quư vị có ư niệm ấy, cho thấy quư
vị tham luyến lục đạo luân hồi. Hễ có ư
niệm ấy, sẽ không thoát ra được, Phật sẽ
chẳng đến tiếp dẫn. V́ sao? Ư niệm của
quư vị bất thiện, c̣n có tham, sân, si, mạn.
Tâm
của mọi người trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới đều thanh tịnh, tâm quư vị chẳng
thanh tịnh, quư vị sẽ nhiễu loạn đại
chúng, làm sao quư vị có thể văng sanh cho được? Làm
sao đức Phật có thể tiếp dẫn quư vị
được? Khi nào sẽ đến tiếp dẫn quư
vị? [Khi nào quư vị] tâm thanh tịnh, thật sự buông
xuống ngũ dục lục trần, Phật sẽ tự
nhiên đến. Xét theo điều ǵ? Thấy quư vị vẫn
là khá lắm, chẳng khác biệt người trong thế
giới Cực Lạc cho mấy, đương nhiên là
hoan nghênh quư vị đến thế giới Cực Lạc!
Quư vị c̣n có thất t́nh, ngũ dục, vậy là không
được. Thế giới Cực Lạc quyết
định chẳng để cho quư vị nhiễu loạn.
Nh́n không vừa mắt sẽ chửi người, sẽ nổi
nóng, làm sao A Di Đà Phật dám tiếp dẫn quư vị? Phải
thường suy nghĩ đạo lư này, phải nghĩ thông suốt!
Kinh
đă nói rất rơ ràng về thế giới Cực Lạc,
“chư thượng thiện
nhân câu hội nhất xứ” (các vị thượng thiện
nhân nhóm họp cùng một chỗ), ta có phải là thượng
thiện hay chăng? Nếu ta là thượng thiện, ta
có nguyện vọng cầu sanh Tịnh Độ, dẫu chẳng
niệm Phật, A Di Đà Phật cũng đón ta đi, đầy
đủ điều kiện đấy mà! Quư vị chí
đồng đạo hợp với đại chúng trong thế
giới Cực Lạc. Nếu chúng ta c̣n ích kỷ, c̣n có tham,
sân, si, mạn, sẽ chẳng ăn khớp với mọi
người ở trong thế giới Cực Lạc, làm
sao Phật có thể đến tiếp dẫn quư vị
cho được? Thượng thiện phải học tập
trong cuộc sống hằng ngày, quyết định bỏ
tham, sân, si, mạn, thật sự tu hành trong xử sự, đăi
người, tiếp vật trong cuộc sống hằng ngày. Tu ǵ
vậy? Niệm Phật cũng giống như thế, niệm
ǵ? Niệm “phiền năo khinh,
trí huệ trưởng”. Niệm một câu “A Di Đà Phật” để trừ hết phiền năo. Trong thuận cảnh có ư niệm
tham ái, [hăy] “nam-mô A Di Đà Phật”,
niệm cho tan ư niệm tham ái ấy! Trong nghịch cảnh,
cái tâm sân khuể sanh khởi, hăy niệm một câu “nam-mô A Di Đà Phật” cho tan
cái tâm sân khuể. Đó gọi là “biết niệm”. Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến
đều bị trừ sạch bằng niệm Phật, quư
vị chính là thượng thiện nhân. Trong thuận cảnh,
chẳng có tham ái. Trong nghịch cảnh, chẳng có sân khuể;
niệm nào cũng đều là giác chứ không mê, chánh chứ
không tà, tịnh chứ không nhiễm, tương ứng với
“giác, chánh, tịnh” của
kinh Vô Lượng Thọ! Đấy là đại đạo
của A Di Đà Phật, là đại đạo để
văng sanh Tịnh Độ, là đại đạo để
thành Phật viên măn ngay trong một đời, chớ nên không
biết. Do vậy, đối với hết thảy các hiểm
đạo, chính ḿnh phải nhận biết. Phàm những ǵ
chướng ngại chúng ta tu học, đều là hiểm
đạo, [những ǵ] dụ dỗ chúng ta ĺa khỏi “đôn luân, tận phận, nhàn tà, tồn thành, lăo thật niệm Phật” (giữ vẹn luân thường, trọn hết
bổn phận, giảm thiểu tà vạy, giữ ḷng chân
thành, thật thà niệm Phật) sẽ đều là hiểm
đạo. Phải có năng lực phân biệt rơ ràng, quyết
định chẳng đọa trong hiểm đạo.
Nói
tới Nhị Thừa, chúng ta chẳng phải là Thanh
Văn, Duyên Giác, nhưng có tập khí của Nhị Thừa.
Những tập khí ấy do đâu mà có? Khẳng định
là trong quá khứ đă từng học Tiểu Thừa, cho
nên quư vị có tập khí Tiểu Thừa. Tập khí Tiểu
Thừa là ǵ? Bảo thủ, là chính ḿnh chỉ quan tâm đến
chính ḿnh, chẳng mong giúp đỡ kẻ khác, chính ḿnh
rơi vào sự thanh tịnh. “Trệ”
(滯) [trong câu “tự điều trệ tịch”
của phần chú giải] là ngưng trệ, [“tự điều trệ tịch”
là] ưa thích thanh tịnh, [cứ nghĩ] chúng sanh có khổ
nạn là do chính họ tạo nghiệp, đáng nên hứng
chịu quả báo, chẳng liên can ǵ đến ta! Đấy
là hạng Tiểu Thừa, được gọi là “độc thiện kỳ thân” (chỉ
biết tốt lành cho riêng ḿnh), chẳng có bi nguyện tạo lợi
lạc cho khắp thiên hạ. Có thể văng sanh hay không? Chẳng
thể! V́ sao chẳng thể? Chẳng tương ứng với
nguyện của A Di Đà Phật. Nguyện của A Di
Đà Phật là phổ độ chúng sanh. Nếu quư vị
nói sau khi ta văng sanh, ta sẽ quay lại phổ độ chúng
sanh. Được! Như vậy th́ có thể. Ta cảm
thấy hiện thời năng lực vẫn chẳng đủ,
hăy toàn tâm toàn lực tu Tây Phương Tịnh Độ.
Nói
tới chỗ này, cũng có một trạng huống hiện
thực, trong xă hội hiện thời cũng thấy.
Đấy cũng chính là một câu hỏi do mấy vị
pháp sư nêu ra vào thuở trước. Họ đọc Văng
Sanh Truyện, đọc Tịnh Độ Thánh Hiền Lục
(đấy cũng là Văng Sanh Truyện), nói với tôi: “Thưa
pháp sư! Cớ sao những người tu Tịnh Độ
văng sanh, dường như là niệm Phật khoảng ba năm,
năm năm đều ra đi? Đại đa số là
như vậy”. Họ hỏi: “Có phải là do thọ mạng
của họ c̣n ba năm, hay năm năm sẽ chết?”
Hỏi tôi một vấn đề như thế đó! Khi
ấy, tôi trả lời họ: - Nếu nói mỗi người
niệm Phật, ba năm là đă hết thọ mạng,
chẳng có khả năng cho lắm. V́ sao họ niệm ba
năm bèn văng sanh? Tôi nghĩ công phu của họ đă
đến nơi đến chốn, thường nói là “công phu thành phiến”. Thượng
phẩm công phu thành phiến có thể tự tại văng sanh,
tuy c̣n có thọ mạng, chẳng cần, đến thế
giới Cực Lạc sớm hơn một tí, có được
hay không? Được chứ!
Một
thí dụ rơ rệt nhất trong Văng Sanh Truyện là pháp
sư Oánh Kha, người đời Tống, Sư sám hối
văng sanh. V́ đây là một vị xuất gia, truyện kư
ghi chép rất rơ ràng: Sư chẳng giữ Thanh Quy,
thường xuyên phá giới, làm sao có thể văng sanh cho
được? Sư thật sự tin tưởng nhân quả
báo ứng, chính Sư suy ngẫm hạnh nghiệp của chính
ḿnh, đă tạo các tội nghiệp ấy, ắt đọa
địa ngục. Nghĩ tới địa ngục, Sư
hoảng sợ. V́ thế, cầu các đồng tham đạo
hữu, hỏi họ có phương pháp nào cứu vớt
tôi hay không? Các đồng học cho Sư một quyển Văng
Sanh Truyện, [chép các tấm gương] niệm Phật văng
sanh. Sư xem xong, hết sức cảm động; do vậy, đóng
chặt cửa liêu pḥng, chẳng ăn, chẳng uống, chẳng ngủ,
niệm một câu Phật hiệu đến cùng. Quư vị
phải hiểu đấy chính là “không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn”
như kinh đă nói. Niệm suốt ba ngày ba đêm, niệm
A Di Đà Phật hiện đến. Cảm ứng đấy!
Chúng sanh có cảm, Phật, Bồ Tát sẽ
có ứng!
A
Di Đà Phật bảo Sư: “Tuổi thọ của ông
hăy c̣n mười năm. Thọ mạng của ông hăy c̣n mười
năm. Ông hăy khéo tu, đến
khi ông hết tuổi thọ, ta sẽ đến tiếp dẫn
ông”. Có cảm ứng tốt đẹp như vậy. Oánh
Kha nghe xong, bèn thưa với A Di Đà Phật: “Căn tánh
của con kém hèn rất nặng. Con không chống nổi sự
quyến rũ, mê hoặc bên ngoài. Hễ bên ngoài dụ dỗ,
mê hoặc, con sẽ tạo tội nghiệp, sẽ lại
phá giới. Trong mười năm ấy, chẳng biết
con lại tạo bao nhiêu tội nghiệp?’ Sư nói: “Mười năm [tuổi thọ] con chẳng cần,
nay con đi theo Phật”. Nghe xong, A Di Đà Phật cũng
gật đầu: “Được! Vậy th́ ba ngày sau ta
đến tiếp đón ông”. Sư hết sức cao hứng,
hoan hỷ, mở cửa pḥng, bảo đại chúng: “Ba ngày
sau tôi sẽ văng sanh”. Trong chùa miếu, chẳng có một ai
tin Sư. Phá giới, phạm quy, chẳng phải là một người xuất
gia tốt đẹp, cớ sao đóng chặt cửa pḥng
niệm Phật ba ngày, bèn nói ba ngày nữa sẽ văng sanh? Giọng
điệu chẳng giống như lừa người,
dường như là thật! Mọi người đều
chờ xem, cũng may là ba ngày chẳng xa, xem thử sau ba ngày,
ngươi có văng sanh hay chăng? Đến ngày thứ ba, Sư
yêu cầu đại chúng niệm Phật tiễn Sư, đại
chúng cũng rất hoan hỷ, quả nhiên Sư thật
sự ra đi. Sư niệm chừng một khắc, bảo
mọi người: “A Di Đà Phật đến tiếp
dẫn tôi, tôi đi đây”. Thật sự văng sanh, chẳng
ngă bệnh.
Khá
nhiều người thấy câu chuyện này, đều muốn
học theo Sư. Được lắm, quư vị ắt phải buông
xuống vạn duyên, thật sự niệm A Di Đà Phật
hiện đến, quư vị theo Ngài văng sanh là đúng. Quư vị
thấy chính ḿnh có thể niệm A Di Đà Phật hiện
đến hay không? Thưa cùng A Di Đà Phật, “dẫu
con c̣n thọ mạng, con cũng chẳng cần, nay con đi
theo Ngài”, vậy là được! Nếu ba ngày ba đêm hoặc
là bảy ngày bảy đêm, A Di Đà Phật vẫn chẳng
đến, vậy th́ quư vị hăy khéo tự suy ngẫm, nhất
định là quư vị chẳng đúng lư, chẳng đúng
pháp. Quư vị phải hiểu, pháp sư Oánh Kha thuở ấy
thật sự sám hối, dũng mănh sửa lỗi đổi
mới. V́ sao Sư chẳng cần mười năm thọ
mạng? Chính Sư đă nói rất rơ ràng, căn tánh hèn kém quá mức,
chính ḿnh chẳng có công phu, chẳng chống nổi sự
dụ dỗ, mê hoặc, sẽ lại phá giới, sẽ lại vi phạm quy củ! A Di Đà Phật thật sự có thể thông cảm
cho Sư chuyện này, Sư có tấm ḷng như thế, Phật
dẫn Sư đi. Điều kiện của mỗi người
khác nhau, thiện căn, phước đức, và nhân duyên trong
đời quá khứ khác nhau, chẳng phải là ta có thể
học theo trạng huống của kẻ khác được,
há đơn giản như thế ư? Từ đời
Tống đến hiện thời cũng đă gần một
ngàn năm, trong một ngàn năm ấy, đương
nhiên chẳng phải là không có, khẳng định là có [những
trường hợp thành tựu ngoạn mục như pháp
sư Oánh Kha], nhưng là thiểu số, chẳng phải là
đa số.
Do
vậy, nói thông thường, người văng sanh th́ một
là b́nh thường tu hành như pháp, như lư, tích lũy công
đức, lâm chung văng sanh, hai là kẻ b́nh thường chẳng
hiểu Phật pháp, hữu ư hay vô ư tạo tác rất nhiều
tội nghiệp, khi lâm chung, thật sự sám hối, thật
sự sửa lỗi đổi mới, niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ. Đă có một tấm gương,
vua A Xà Thế niệm Phật văng sanh chính là một thí dụ
tốt, một tấm gương tốt. Nói theo h́nh thức,
có hai loại như thế, nhưng bất luận là loại
nào, khẳng định đều là có liên quan mật thiết
với thiện căn và phước đức trong đời
trước. Há có chuyện đơn giản bèn sanh khởi
tín tâm đối với pháp môn này ư? Đừng nói là nh́n
thấy người khác [thành tựu], ta cũng làm ra vẻ
giống như vậy là được. Vờ vĩnh làm ra vẻ,
chẳng thể thành tựu đâu nhé! Những người
ấy trong đời quá khứ chắc chắn là đă
đời đời kiếp kiếp tu pháp môn Tịnh Tông,
khi lâm chung, do bị một niệm sai lầm chướng
ngại, chẳng văng sanh được, nhưng sẽ thành tựu trong một đời này. Chúng ta
[chỉ] thấy sự thành tựu của họ, chẳng
thấy trong đời quá khứ, họ đă gieo thiện
căn, phước đức, nhân duyên. Chúng ta chớ nên
không biết điều này!
Sự
sám hối của họ là hễ đoạn, bèn thật sự
là một đao cắt đứt phăng, thật sự
đoạn phiền năo, tập khí, ác nghiệp, cho nên thật
sự văng sanh. Nay chúng ta học theo kiểu của họ,
có thể ngay lập tức đoạn hết phiền năo
trong nội tâm hay chăng? Điểm then chốt ở
ngay chỗ này! Tham, sân, si, mạn, nghi, tôi thường nói là
“ích kỷ, tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục,
lục trần, tham, sân, si, mạn”, có thật sự bỏ
hết ngay lập tức hay không? Thật sự có thể
thảy đều buông xuống, vị đường chủ
Niệm Phật Đường thường nói “thân, tâm, thế giới”, “thân” là thân thể, “tâm” là ư niệm, thân tâm thế
giới, “thế giới” là
hoàn cảnh bên ngoài, “hết thảy
đều buông xuống”. Quư vị có một chuyện
chẳng thể buông xuống, vậy là không được
rồi, sẽ bị chướng ngại. Thảy đều
buông xuống, triệt để buông xuống, cầu sanh Tịnh
Độ sẽ hữu hiệu. Nhưng quư vị vẫn
phải phát tâm Đại Thừa, chứ cái tâm Nhị
Thừa sẽ chẳng thể văng sanh. Tâm Nhị Thừa là
tự lợi, tâm Đại Thừa lợi tha. Ta cầu
sanh Tịnh Độ chẳng phải v́ chính ḿnh, cầu
sanh Tịnh Độ nhằm phổ độ chúng sanh.
Hiện
thời, trong thế gian này, điều thứ nhất là
ta chẳng có năng lực, điều thứ hai là ta chẳng
có duyên phận, [vậy th́] có thể đến thế giới
Cực Lạc trước. Nếu trong thế gian này, chúng
sanh hữu duyên với quư vị, quư vị c̣n có năng lực,
thông đạt Tịnh Tông, trong hiện thời quư vị phải nên tự hành, hóa tha, phải “tín, thọ, phụng hành, v́
người khác diễn thuyết” các giáo huấn của đức Thế Tôn, làm cho mọi
người thấy. Tốt lắm! Chuyện này hoàn toàn tương
ứng với A Di Đà Phật, quyết định được
văng sanh. [Tuy thân xác] ở trong Sa Bà mà [thật ra đă ở]
trong Cực Lạc, thiền sư Trung Phong đă nói về
điều này rất hay: “Phương
này chính là Tịnh Độ, Tịnh Độ chính là
phương này”, “tâm này chính
là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật chính là tâm này”. Thân,
tâm, cảnh giới hoàn toàn dung hợp với A Di Đà Phật,
há có lẽ nào chẳng văng sanh? Chúng ta phải thực hiện
Di Đà hoằng nguyện cho mọi người thấy, đó
là đúng.
Quư
vị c̣n có cái duyên này, c̣n có năng lực này, quư vị chẳng
làm, mong cầu văng sanh trước, đó là có hiềm nghi,
chúng ta thường nói là “trốn tránh trách nhiệm”. Phàm là
tâm lư trốn tránh, quư vị nghĩ xem Tây Phương Cực
Lạc thế giới có dung nạp quư vị hay không? Phải
hiểu rơ ràng! Có thể dung nạp kẻ trốn tránh hiện
thực hay chăng? Kẻ ấy có thể thực hiện
cái nguyện đă phát hay không? Do vậy, thế giới Cực
Lạc cần ai? Dũng mănh gánh vác trách nhiệm, dũng mănh
thực hiện, quư vị mới có thể rộng độ
chúng sanh, phổ độ chúng sanh. A Di Đà Phật chẳng
phải là một kẻ trốn tránh trách nhiệm; v́ thế,
tâm thái ấy, hành vi ấy sẽ chẳng tương ứng!
Quư vị học theo Oánh Kha chẳng xong, học vua A Xà Thế
cũng chẳng học được! Quy củ, thật
thà, vẫn là từ Đệ Tử Quy, Thập Thiện
Nghiệp Đạo, tuân thủ giáo huấn của Ấn
Quang đại sư, “đôn luân
tận phận, nhàn tà tồn thành” (giữ vẹn luân
thường, trọn hết bổn phận, giảm thiểu
tà vạy, giữ ḷng chân thành) và
giáo huấn từ Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật
Viên Thông Chương, “nhiếp
trọn sáu căn, tịnh niệm liên tục”. Đấy
là đúng!
Do
tâm thái của hàng Nhị Thừa, họ chẳng thể văng
sanh. Kinh luận của Phật và chú sớ của tổ
sư đă nói minh bạch: Tâm nguyện của hàng Nhị Thừa trái nghịch A
Di Đà Phật. Trái nghịch A Di Đà Phật tức là
trái nghịch tâm nguyện của tất cả đại
chúng trong thế giới Cực Lạc, làm sao có thể văng
sanh cho được? Tây Phương Tịnh Độ là
Đại Thừa, chẳng phải là Tiểu Thừa. Phật
Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm
Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác chẳng phải là Tiểu
Thừa! Do vậy, [kẻ
nào có] tâm thái Tiểu Thừa sẽ chẳng
thể văng sanh, vậy th́ phải như thế nào? Hồi
Tiểu hướng Đại. Thật sự tu hành, niệm
nào cũng đều là đă giống như thấy thế giới này rất lạnh nhạt, được
lắm, hễ quay đầu sẽ là Bồ Đề tâm,
v́ sao? Ta sống trong thế gian này chẳng v́ chính ḿnh, mà v́
hết thảy các chúng sanh khổ nạn, hoàn toàn tương
ứng với bổn nguyện của A Di Đà Phật.
Chúng ta phải khéo nêu gương tốt cho mọi người
thấy, cho người niệm Phật thấy, ḥng tăng
trưởng tín tâm của họ, giúp họ tiến cao hơn.
Kẻ chẳng niệm Phật trông thấy, sẽ gieo thiện
căn, họ trông thấy thụy tướng ấy bèn sanh khởi ḷng hâm mộ, đó gọi là “hễ
lọt qua mắt, hễ thoảng qua tai, vĩnh viễn là
chủng tử của đạo”. Chúng ta nêu gương
làm một người niệm Phật thật
sự tốt đẹp, hằng ngày làm cho người khác
nh́n vào!
Kinh
Vô Lượng Thọ phải đọc thuộc. Phải
thực hiện giáo huấn trong kinh Vô Lượng Thọ,
đầu tiên là phải thực hiện Thập Thiện
Nghiệp. Quư vị thấy phần đầu kinh Vô Lượng
Thọ đă dạy: “Thiện
hộ khẩu nghiệp, bất cơ tha quá; thiện hộ
thân nghiệp, bất thất luật nghi; thiện hộ ư
nghiệp, thanh tịnh vô nhiễm” (Khéo ǵn giữ
khẩu nghiệp, chẳng chê trách lỗi của kẻ khác.
Khéo thiện hộ thân nghiệp, chẳng đánh mất luật
nghi. Khéo giữ ǵn ư nghiệp, thanh tịnh vô nhiễm), tu từ
Thập Thiện Đạo. Chúng ta có thể đều làm
được; đấy là biểu diễn, biểu diễn
cho đại chúng thấy. Không chỉ là chẳng sát sanh,
phàm là ư niệm tổn hại chúng sanh cũng chớ nên có!
Hễ có ư niệm tổn thương chúng sanh, đấy
là sát tâm, quư vị chẳng hành sát nghiệp, nhưng chẳng
đoạn ư niệm giết chóc. Tuy quư vị chẳng trộm
cắp, nhưng c̣n có ư niệm chiếm tiện nghi của
kẻ khác; ư niệm chiếm tiện nghi là cái tâm trộm cắp,
chẳng đoạn cái tâm trộm cắp!
Chúng
ta đều phải rất chân thật làm được,
chính ḿnh làm được, chắc chắn sẽ ảnh
hưởng người chung quanh. Chúng ta ở trong đạo
tràng này th́ phải yêu thương, bảo vệ đạo tràng này. Nếu
chẳng làm được Thập Thiện Nghiệp, không
chỉ là chẳng yêu thương, bảo vệ đạo
tràng, mà đâm ra lại là phá hoại đạo tràng.
Người ta trông thấy, [sẽ nghĩ] đạo tràng
này chẳng thật, họ là người tu hành ở chỗ
nào? Người tu hành theo
kiểu ǵ vậy? Do đó, một
kẻ chẳng đúng pháp, khiến cho kẻ khác tạo tội
nghiệp, khiến cho kẻ khác hủy báng Tam Bảo. Kẻ
ấy hủy báng Tam Bảo là do quư vị xui khiến, quư vị
có phải nhận lănh trách nhiệm nhân quả hay không? Chắc chắn là
phải. Do vậy, chính ḿnh ở trong đạo tràng, thậm
chí ở bất cứ chỗ nào, chớ nên không cẩn thận,
chớ nên khiến cho kẻ khác v́ ta mà hủy báng Tam Bảo.
Ta làm chẳng đúng pháp, sẽ hại họ đọa địa
ngục. Họ đọa địa ngục, ta cũng chẳng
được lợi, ta cũng chạy chẳng thoát, ta làm
Tăng Thượng Duyên cho họ mà! Những điều
này đều là hiểm đạo trong sự tu hành của
phàm phu, chớ nên không biết. Hôm nay đă hết thời
gian rồi, chúng tôi nói tới đây!
Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 33 hết
[1] Đây là một loại voi cổ đại, ta thường
gọi là voi ma mút (phiên âm theo tiếng Pháp Mammouth). Loài voi này
tồn tại trên địa cầu khoảng 4,8 triệu
năm trước. Đặc điểm là lông rất dài
(xấp xỉ 50cm), rậm, ngà dài và cong, răng voi ma mút rất
dài, quặp vào trong, chân sau ngắn, vai nhô cao. Mỗi con voi
thuộc loại này cao từ 3 đến 3,3m, có thể nặng
đến tám tấn. Cũng như voi hiện thời, voi
ma mút ăn cỏ, lá cây, các bụi cây nhỏ. Cho đến
hiện thời vẫn chưa đạt được một
cách giải thích nhất quán tại sao chúng bị diệt
chủng. Đa phần cho là v́ nhiệt độ nóng lên,
khiến băng tan, lục địa ch́m xuống khiến
cho voi thiếu thức ăn. Một số nhà khoa học c̣n
cho là voi ma mút bị tuyệt chủng do người cổ
đại (thuộc giống Homo erectus) săn bắt quá mức.
[2] Gọi là “một giáp tư” (đôi khi c̣n gọi là Lục Thập
Hoa Giáp) v́ theo cách tính lịch thuở trước, tên gọi
của mỗi năm gồm một chữ trong mười
thiên can (giáp, ất, bính, đinh…) và một chữ trong
mười hai địa chi ghép lại (tư, sửu, dần,
mẹo…), chẳng hạn năm 2017 là năm Đinh Dậu.
Do bội số chung nhỏ nhất của 10 và 12 là 60, cho nên
phải hết sáu mươi năm mới trở lại
chữ đầu tiên là Giáp Tư.
[3] Long
Trung là một trấn nhỏ thuộc thành phố
Tương Dương, tỉnh Hồ Nam hiện thời.
Thông thường, người ta tin là Gia Cát
Lượng cày ruộng, ẩn cư tại Long Trung suốt
mười năm. Nhưng cũng có thuyết bảo: Thật ra, Gia Cát Lượng ẩn
cư tại Ngọa Long Cương thuộc thành phố
Nam Dương tỉnh Hà Nam. Từ xưa, tại Ngọa Long Cương đă có miếu thờ Gia
Cát Lượng, gọi là Vũ Hầu Từ, hằng
năm đều tế lễ. Phong
tục này đă có từ đời
Tấn.
[4] Huy
Thương (徽商) là cách
gọi tắt của Huy Châu Thương Nhân (khách buôn bán xứ
Huy Châu), bao gồm các thương nhân từ sáu huyện Hấp,
Hưu Ninh, Vụ Nguyên, Kỳ Môn, Y, Tích Khê của phủ
Huy Châu (c̣n gọi là quận Tân An) thuộc miền Nam tỉnh
An Huy. Do vùng này là núi non, đất đai cằn cỗi,
không thể sống bằng nông nghiệp, dân cư phải
buôn bán khắp nơi để kiếm sống. Vùng
thương mại này rất hưng thịnh từ đời
Tống cho đến đầu đời Thanh. Hưng thịnh
nhất là vào thời Minh v́ họ tập trung vào việc
buôn muối. Hoàn là tên gọi tắt của tỉnh An Huy.
Do Huy Châu ở phía Nam tỉnh An Huy, nên gọi
là Hoàn Nam (皖南).
[5] Chiến
tranh giải phóng chính là cuộc nội chiến giữa hai
phe cộng sản và quốc gia tại Trung Hoa kéo dài từ
năm 1945 đến năm 1950. Danh xưng này do Trung Cộng
đặt ra. Thoạt đầu, phe Cộng Sản liên kết
với phe Quốc Dân Đảng trong cuộc chiến chống
Nhật (thường gọi là thời kỳ Kháng Chiến).
Sau Thế Chiến thứ hai, sau khi Nhật
thua trận, quân
Cộng Sản với sự trợ giúp của Liên Sô,
cũng như tận dụng những yếu kém do sự
tham nhũng và quan liêu trầm trọng trong guồng máy Quốc
Dân Đảng, Mao Trạch Đông đă đánh bại
Tưởng Giới Thạch, chiếm lănh toàn bộ Trung
Hoa Đại Lục. Tưởng Giới Thạch phải
chạy ra Đài Loan. Đây là cuộc chiến đẫm
máu nhất, các sử gia không chấp nhận con số thống
kê của Trung Cộng v́ thường là phóng đại, bóp méo sự thật. Căn cứ
trên sử liệu Đài Loan, tổng số thương
vong của quân Quốc Dân Đảng lên tới 171 vạn
người, không kể mấy chục vạn lính bị
bắt làm tù binh; trong khi đó theo phía Trung Cộng, quân Cộng
Sản chỉ thương vong 26 vạn người, không ai bị bắt làm tù binh!