Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần
34
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng
Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh
Tiến
Tập 1529
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống.
Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một, tiểu
đoạn thứ hai thuộc đoạn thứ sáu trong
phần kệ tụng, tức Đổ Sự Cảnh
Nguyện (睹事境願, các nguyện
phát khởi khi thấy sự và cảnh). Đoạn này là
trên đường đi (tức là trên đường khất
thực), gặp gỡ các trạng huống, có [trạng huống]
nhân sự, mà cũng có [trạng huống thuộc về] hoàn
cảnh, có hoàn cảnh vật chất. Chúng ta xem bài kệ thứ
nhất. Phần này có tất cả mười chín bài,
cũng là những thứ chúng ta sẽ tiếp xúc hằng
ngày khi ra khỏi cửa. Ở chỗ này, chúng ta phải chú
tâm lănh hội, sau đấy mới thật sự hiểu
rơ chúng ta và Bồ Tát có chỗ nào khác biệt?
Sự
tu hành của Bồ Tát đáng gọi là “công đức viên măn”, viên măn ở chỗ nào?
Chúng ta hăy nên học tập như thế nào? [Hiểu rơ những
điều ấy], chúng ta sẽ chẳng uổng
công đọc phẩm kinh này, xác thực là hữu ích rất
lớn cho sự tu học của chúng ta. Trước khi giảng
đoạn này, do đoạn được giảng trong
ngày hôm qua có ư nghĩa rất dài, vẫn cần phải bổ
sung đôi chút. Chúng ta đọc bài kệ trước
đó một lượt, [tức là bài kệ] đă
được giảng hôm qua.
(Kinh)
Nhược kiến hiểm đạo, đương
nguyện chúng sanh, trụ chánh pháp giới, ly chư tội
nạn.
(經)若見險道。當願眾生。住正法界。離諸罪難。
(Kinh: Nếu thấy đường hiểm, nguyện
cho chúng sanh, trụ chánh pháp giới, ĺa các tội nạn).
Nói
tới “hiểm đạo” (險道), hiện
thời, khắp nơi trên thế gian này, xác thực là
“nơi nơi đều là hầm bẫy”, có chỗ nào chẳng
phải là hiểm đạo? Dẫu không bước chân ra
khỏi nhà, vẫn là hiểm đạo! Chẳng bước chân ra khỏi
nhà th́ hiểm đạo ở đâu ra? Trong nhà quư vị, đối diện với TV chính là
hiểm đạo. Nó dụ dỗ, mê hoặc quư vị. [Ngoài]
TV, [c̣n có] Internet; hiện thời, người sử dụng
computer đông đảo, những thứ được
truyền bá trong Internet c̣n nhiều hơn TV. Tuyệt đại
đa số nội dung đều là những thứ phản
diện, những thứ chánh đáng quá ít. V́ thế, đấy
là hiểm đạo. “Hiểm đạo”,
nói đơn giản [là những thứ] đủ để
mang lại sự xấu xa cho chúng ta, từ người lớn
cho đến trẻ nhỏ, khiến cho chúng ta tăng
trưởng tham, sân, si, mạn; đấy là hiểm đạo.
Cảnh giới của chúng ta chẳng thể tăng tấn,
tuột dốc xuống dưới, quư vị nói xem, có phải
là hiểm đạo hay không? Đọa xuống dưới
th́ chính là tam đồ địa ngục. Người
tiến lên cao hơn, mọi người đều biết
tam giới có hai mươi tám tầng trời, [đó là]
lên cao hơn; đi xuống th́ là địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh. Đó là quả, quả ắt có nhân. Tiến
lên cao hơn sẽ là ǵ? Là Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh
Văn. Nghiệp nhân của thiên đạo là thượng
phẩm Thập Thiện, Tứ Vô Lượng Tâm (từ,
bi, hỷ, xả), Tứ Thiền, Bát Định, tiến
lên cao! Người muốn tăng tấn th́ trong luân lư,
đạo đức, cái quan trọng nhất, cái cơ bản
nhất chính là Ngũ Luân, Ngũ Thường, Bát Đức. Cổ thánh tiên hiền
đă dạy [những điều ấy] từ năm ngàn
năm qua!
Năm
ngàn năm qua, từ thời đại của Khổng Tử,
Khổng Tử cách hiện thời hai ngàn năm trăm
năm, Lăo Tử sống cùng thời đại với
Ngài. Quư vị thấy trong Đạo Đức Kinh, Lăo Tử
đă nói: “Thất đạo nhi
hậu đức”, [nghĩa là] đạo đă mất,
nhưng c̣n có đức. Khi nào hành đạo? [Thời] Tam
Hoàng Ngũ Đế, thuở ấy là hành đạo, vô vi
nhi trị[1]. Thật sự
là vô vi, nhưng không ǵ chẳng làm, tâm địa của con người
thuần hậu, thanh tịnh. [Thời đại] Nghiêu Thuấn
đă thấp hơn một bậc, đạo đă mất
đi, nhưng có đức; Nghiêu Thuấn nắm vững đức.
Sau khi đức đă mất, tiếp đó c̣n có nhân. Sau
khi nhân đă mất, bèn có nghĩa. Sau khi nghĩa đă mất,
bèn có lễ. Lễ không ngừng tuột dốc như vậy,
tuột dốc cho tới hiện thời, lễ cũng chẳng
có! Lễ là hạn độ thấp nhất; nếu chẳng
có lễ, xă hội lẽ nào chẳng loạn? Thiên hạ
đại loạn.
Trong
Phật môn, giới đă mất, chẳng có giới tỳ-kheo!
Ngẫu Ích đại sư đă nói lời này. Lăo nhân gia sống
vào cuối đời Minh, đầu đời Thanh. Ngài chào
đời vào thời Minh, khi văng sanh nhằm đời
Thanh, nghiên cứu giới luật rất tường tận.
Cận đại, mọi người đều biết
vị đổ nhiều công sức nơi giới luật
là pháp sư Hoằng Nhất. Ngẫu Ích đại sư nói:
“Tại Trung Hoa, từ sau triều đại Nam Tống,
chẳng có tỳ-kheo”. Chẳng có tỳ-kheo, sẽ chẳng
có cách nào đắc giới tỳ-kheo! Giới tỳ-kheo nhất
định phải do tỳ-kheo trao truyền. Tối thiểu
là năm vị tỳ-kheo làm yết-ma th́ mới có thể
truyền trao giới tỳ-kheo. Tốt nhất là có mười
vị, tức tam sư thất chứng. Tốt nhất là
có mười vị! Thật sự bất đắc
dĩ th́ năm vị cũng được. Năm vị
trở lên đă chẳng có!
Tống,
Nguyên, Minh, từ đời Tống đến đời
Minh gần bốn trăm năm, người xuất gia thọ
giới, tức giới tỳ-kheo, Ngẫu Ích đại
sư hiểu rất rơ ràng [thọ giới] là hữu danh
vô thực! Do vậy, sau khi Ngài thọ giới, bèn đối
trước Phật, Bồ Tát thoái giới, suốt đời
tŕ giới Sa Di. Chư vị phải hiểu, giới Bồ
Tát và giới Sa Di [nếu] không có ai truyền, tự
ḿnh đối trước h́nh tượng Phật, Bồ
Tát, tự ḿnh có thể phát thệ cầu giới, có thể
cầu được. Trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo đă nói [chuyện này] rất rơ ràng, chỉ riêng giới
tỳ-kheo là không được, chẳng có khai duyên cho chuyện
này! Do vậy, bản thân Ngẫu Ích đại sư suốt
đời thọ tŕ giới Bồ Tát và Sa Di Luật Nghi,
Ngài tự xưng là “Bồ Tát giới
sa-di”. Tại gia cư sĩ, Bồ Tát giới Ưu-bà-tắc;
nữ cư sĩ, Bồ Tát giới Ưu-bà-di th́
được!
Thế
nào mới là “đắc giới”?
Chúng ta biết đức Thế Tôn là một người
rất thông t́nh đạt lư, lại c̣n
là một người rất viên dung, Ngài chẳng chấp
trước! Do vậy, khi tôi học Phật, khi đó vừa
mới học Phật, vừa vào Phật môn, Chương
Gia đại sư dạy tôi: “Phật
giáo coi trọng thực chất,
chẳng coi trọng h́nh thức”. Thọ giới là h́nh thức, có h́nh thức
theo nghi lễ. Thầy dạy chúng tôi câu ấy, chúng tôi thỉnh giáo Ngài, [Ngài giảng]:
Điều ấy hoàn toàn chẳng
phải là không coi trọng h́nh thức! H́nh thức rất
quan trọng, nhưng chẳng phải là quan trọng nhất!
Điều quan trọng nhất chính là thực chất. Thực
chất là ǵ? Quư vị phải làm được! Thọ
giới điều “chẳng
sát sanh”, [vậy th́] muỗi, trùng, kiến đều chớ
nên sát hại! Không chỉ là chẳng thể sát hại, mà
c̣n chớ nên dấy lên ư niệm tổn thương, gây hại
cho chúng. Dấy lên ư niệm là ǵ? Đó là sát tâm. Tuy quư vị
chẳng phạm giới, nhưng chẳng đoạn
ư niệm sát, không được rồi! Kết tội trong giới Bồ Tát là luận theo tâm, chẳng
luận theo sự. Quư vị dấy một ư niệm muốn hại
chúng nó, tức là quư vị đă phá giới. Không giống như giới
tỳ-kheo [thuộc về Tiểu
Thừa], giới tỳ-kheo luận sự,
chẳng luận tâm; v́ thế, giới ấy rất
coi trọng h́nh thức. Giới tỳ-kheo hết sức coi
trọng h́nh thức, chẳng giống giới Bồ Tát!
Giới Bồ Tát coi trọng khởi tâm động niệm;
do vậy, giới Bồ Tát khó tŕ. Đối với giới
trộm cắp, ta chẳng ăn trộm của người
ta, cũng chẳng ăn cắp của kẻ khác,
nhưng mong chiếm đôi chút tiện nghi của họ,
như vậy là đă phạm giới trộm cắp! Ta chẳng
làm chuyện ấy, nhưng quư vị dấy động ư
niệm, [tức là đă] bị kết tội từ khởi
tâm động niệm. V́ thế, rất khó tŕ!
Do
vậy, Ấn Quang đại sư, thầy tôi là lăo cư
sĩ Lư Bỉnh Nam, suốt đời chẳng khuyên kẻ
khác thọ giới. Suốt đời, đại sư Ấn Quang chẳng truyền giới, chẳng
khuyên kẻ khác thọ giới, chẳng khuyên kẻ khác xuất
gia. Các Ngài chỉ khuyên quư vị học Phật, tối
đa là khuyên quư vị cầu thọ Tam Quy, phương tiện
thọ Ngũ Giới, tuyệt đối chẳng khuyên quư
vị thọ giới Bồ Tát, v́ sao? Chẳng làm
được! Ngũ Giới là căn bản của giới luật: Chẳng sát sanh, chẳng trộm cắp,
đồng tu tại gia th́ không tà dâm, chẳng nói dối,
chẳng uống rượu, năm điều ấy. Quư
vị có hiểu rơ hay chăng? Tuy đă thọ, thọ rồi
có hiểu hay không? Nhất định là phải làm sao cho
hiểu rất rơ ràng, rất minh bạch, cách tŕ giới ấy
là như thế nào? Trong đó có khai, giá, tŕ, phạm. Trong
hoàn cảnh khác nhau, sẽ có cách làm khác nhau, sống động,
chẳng phải là chết cứng. Quư vị phải có trí huệ để
phán đoán, thông đạt quyền biến, tŕ giới
như vậy mới là viên măn!
V́
thế, chẳng có giới luật cơ bản, sẽ chẳng
có Phật! Chẳng có Phật th́ cái c̣n lại sẽ
được gọi là ǵ? Cái c̣n lại được gọi
là Phật học! Chư vị đồng tu phải biết,
Phật học và học Phật là hai chuyện [khác nhau]! Chẳng
có người học Phật, Phật học c̣n lại
trong thế gian, Phật học biến thành một loại
học thuật thế gian, để cho những kẻ
thích nghiên cứu làm công tác nghiên cứu, là tài liệu để
họ nghiên cứu, biến thành Phật học. Nhưng
[những nhà nghiên cứu ấy] chuyên môn nghiên cứu những
lư luận này, chính ḿnh chẳng thể y giáo phụng hành, chính
ḿnh chẳng làm được! V́ chẳng buông xuống ḷng
ích kỷ, chẳng buông xuống tiếng tăm, lợi
dưỡng được! Chẳng thể buông xuống
sự tham cầu hưởng thụ ngũ dục lục
trần, chẳng buông xuống tham, sân, si, mạn, tuy họ
nghiên cứu Phật pháp rất sâu. Quư vị để họ
lên giảng đài giảng giải, họ sẽ giảng chỗ
nào cũng phù hợp đạo, [giảng đến nỗi]
hoa trời rơi tán loạn, đó gọi là Phật học,
chẳng phải là học Phật. Học Phật th́ nhất
định là khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo
tác trọn chẳng trái nghịch Tam Quy, Ngũ Giới, Thập
Thiện, người ấy thảy đều làm
được. Tuy người ấy chẳng niệm
kinh, chẳng biết chữ, mà cũng chẳng thể giảng
kinh, nhưng người ấy làm được; đấy
là “học Phật”. Niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ, đối với Tây Phương Cực Lạc
thế giới A Di Đà Phật, người ấy chẳng
hoài nghi, chẳng xen tạp, suốt ngày từ sáng đến
tối bèn nghĩ nhớ Ngài chẳng ngừng, tâm và miệng
tương ứng, khẳng định là sẽ văng sanh. Người
niệm Phật sợ nhất là bị cảnh giới bên
ngoài dụ dỗ, mê hoặc, chính ḿnh chẳng nắm vững,
hễ cảnh giới hiện tiền, đối với
thuận cảnh bèn dấy ḷng tham, đối với nghịch
cảnh bèn dấy ḷng sân khuể. Như vậy là không
được rồi! V́ thế, khắp nơi đều
là hiểm đạo.
Bồ
Tát phát nguyện, “đương
nguyện chúng sanh”, nguyện cho hết thảy chúng sanh
trong khắp pháp giới hư không giới, “trụ chánh pháp giới”. Đấy là cái nhân. “Ly chư tội nạn” (ĺa các tội nạn), “tội
nạn” (罪難) là tam
đồ, tức ngạ quỷ, địa ngục, và súc
sanh; đấy là tội nạn. Súc sanh là tội báo; ngạ
quỷ và địa ngục chính là gặp đại nạn.
Do tội nghiệt sâu nặng bèn cảm lấy khổ báo,
“trụ chánh pháp giới” sẽ
là điều trọng yếu. Đối với chánh pháp
trong thế gian, trong khá nhiều quốc gia và dân tộc thuộc
phương Đông và phương Tây đều có những
bậc thánh triết xuất hiện; giáo huấn của những
vị ấy đều là chánh pháp. So ra, cái được gọi
là “chánh pháp” trong Phật pháp
có tiêu chuẩn cao hơn một chút. Chánh pháp trong Phật
pháp, nói theo lư, tiêu chuẩn tuyệt đối là Pháp Tánh. Hễ
tương ứng với Pháp Tánh th́ là chánh pháp, hễ trái
nghịch th́ là tà pháp. Nói theo h́nh thức và nghi thức, hễ
phù hợp tiêu chuẩn Giới, Định, Huệ th́ là
chánh pháp; trái nghịch Giới, Định, Huệ th́ là tà
pháp, chẳng phải là chánh pháp!
Giới
luật là tiêu chuẩn của chánh pháp giới. Ngôn ngữ
và tạo tác của chúng ta phải nương theo tiêu chuẩn
này để tu học. Ngôn ngữ và động tác
tương ứng với tiêu chuẩn ấy sẽ là hợp
chánh pháp; chẳng tương ứng với tiêu chuẩn th́
quư vị phải sửa đổi cho đúng, đó gọi
là “tu hành”. Cái cơ bản
nhất chính là Thập Thiện Nghiệp Đạo. Tất
cả các kinh điển thuộc giáo pháp Đại Thừa
gần như chẳng có kinh điển nào không nói đến
Thập Thiện Nghiệp Đạo. Bộ kinh điển
chánh yếu nhất để làm căn cứ cho Tịnh
Tông là kinh Vô Lượng Thọ; vừa mở đầu kinh
Vô Lượng Thọ, đức Thế Tôn dạy chúng ta:
“Thiện hộ khẩu nghiệp,
bất cơ tha quá; thiện hộ thân nghiệp, bất thất
luật nghi; thiện hộ ư nghiệp, thanh tịnh vô nhiễm”
(Khéo giữ ǵn khẩu nghiệp, chẳng chê trách lỗi
của kẻ khác. Khéo giữ ǵn thân nghiệp, chẳng mất
luật nghi. Khéo giữ ǵn ư nghiệp, thanh tịnh chẳng
nhiễm). Ba câu ấy nói về thân, khẩu, ư, tức là
nói về Thập Thiện Nghiệp. Trong hai đoạn
kinh văn lớn là Tam Bối Văng Sanh (ba bậc văng sanh) và Văng Sanh Chánh
Nhân, trong đó, đức Phật đă giảng Thập
Thiện Nghiệp rất rơ ràng: “Không
sát sanh, không trộm cắp, không dâm dục, không nói dối,
không nói đôi chiều, không nói thêu dệt, không ác khẩu,
không tham, không sân, không si”, đă nói rành rẽ với quư vị.
Thực hiện từ chỗ này, quư vị phải thật
sự làm. Tŕ giới niệm Phật th́ mới có thể văng
sanh.
Niệm
Phật mà chẳng tŕ giới, không được rồi!
Nếu quư vị hỏi v́ sao ư? Thế giới Tây
Phương chẳng gọi là Tịnh Độ hay sao? V́
sao cơi ấy tịnh? Trong kinh, đức Phật đă giảng
rất hay: “Tâm tịnh, ắt
cơi Phật tịnh”. Chư vị hăy ngẫm xem, nếu
quư vị chẳng làm được Thập Thiện Nghiệp
Đạo, cái tâm của quư vị làm sao thanh tịnh cho
được? Quư vị c̣n có ư niệm sát sanh, c̣n có ư niệm
trộm cắp, c̣n có ư niệm dâm dục, c̣n có ư niệm
nói dối, c̣n có ư niệm khuấy đảo thị phi, [tức
là] chẳng thanh tịnh. Tâm chẳng thanh tịnh, sẽ
không tương ứng với Tịnh Độ. Nay chúng
ta đă học giáo pháp Đại Thừa nhiều năm
ngần ấy, đă hiểu nguyên lư và nguyên tắc
đôi chút. Tâm quư vị không thanh tịnh, sẽ chẳng thấy
Tịnh Độ, làm sao có thể sanh về Tịnh Độ
cho được? Tâm thanh tịnh, quư vị sẽ thấy
Tịnh Độ. Có thấy Tịnh Độ, quư vị
mới có thể sanh về Tịnh Độ. Chuyện này
quá trọng yếu!
Theo
giáo pháp Đại Thừa, nhân Giới đắc Định,
Định là tâm thanh tịnh. Nhân Định khai Huệ,
Định có thể chế phục phiền năo. Tuy chẳng
đoạn phiền năo, nó chẳng dấy lên hiện hành.
Tu những pháp môn khác, cảnh giới này tối đa chỉ
có thể sanh thiên, chẳng thoát khỏi tam giới; nhưng pháp môn Tịnh Tông
thù thắng, chuyện này được gọi là “đới nghiệp văng sanh”.
Chư vị phải biết: “Đới
nghiệp” (帶業, mang theo nghiệp) là quư vị chế phục nghiệp,
dùng Định để chế phục. Định ở
đây là ǵ? Chính là công phu niệm Phật, chúng ta thường
nói “công phu thành phiến”,
công phu thành phiến chính là Định. “Thành phiến” là ǵ? Công phu của quư vị có thể
khống chế tập khí phiền năo; tuy nó vẫn có,
nhưng chẳng dấy lên tác dụng. Thảy đều khống
chế những tập khí ác và ư niệm ác, đương nhiên là
quư vị sẽ chẳng làm chuyện ác. Do công phu như vậy
th́ mới có thể văng sanh, sanh về cơi Phàm Thánh Đồng
Cư trong Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Công phu ấy nếu cao hơn, sẽ có thể đoạn trừ Kiến
Tư phiền năo. Có thể đoạn trừ Kiến
Tư phiền năo, nhưng chẳng đoạn Trần Sa
phiền năo! Trần Sa phiền năo là ǵ? Vọng tưởng,
phân biệt, chẳng đoạn những thứ ấy. Chẳng
có tham, sân, si, mạn, nghi, tức là Kiến Tư phiền
năo thảy đều đoạn hết. Thị phi, nhân
ngă, tiếng tăm, lợi dưỡng đều chẳng
có, chẳng ích kỷ, hễ sanh về Cực Lạc, sẽ
sanh trong cơi Phương Tiện Hữu Dư, tiến cao
hơn! Nếu Thiền Định càng sâu, sáu căn đối
trước cảnh giới sáu trần, thật sự chẳng khởi
tâm, không động niệm. Khởi tâm động niệm
c̣n chẳng có, lấy đâu ra phân biệt, chấp trước?
Do cảnh giới này, hễ
văng sanh thế giới Tây
Phương sẽ sanh trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm.
Bọn
phàm phu chúng ta có đạt tới cảnh giới cao ngần
ấy hay chăng? Thiện Đạo đại sư đă
trả lời khẳng định, được chứ,
có thể chứ! Vấn đề ở chỗ nào? “Nói chung là do gặp duyên khác nhau”.
Trọng yếu nhất trong các duyên là Giải. Trong [chú giải]
kinh Hoa Nghiêm, ngài Thanh Lương đă nói bốn giai đoạn
là Tín, Giải, Hành, Chứng. Nay Hạnh của chúng ta, tức
công phu tu hành chẳng đắc lực, nguyên nhân thật sự
là ở chỗ nào? Do Giải chẳng đủ triệt
để. Đối với lư luận, cảnh giới, và
phương pháp của Phật pháp, chúng ta hiểu biết
rất hữu hạn, đi theo con đường này bằng
cách nào đây? V́ thế, Giải phải sâu, Giải phải
rộng, Giải phải viên th́ mới dễ đi theo con
đường này được.
[Khi]
Phật giáo truyền sang Trung Hoa, đức Phật đă
diệt độ một ngàn năm. Vào năm Vĩnh B́nh
thứ mười đời Minh Đế nhà Đông Hán, tức năm 67 Công Nguyên, năm nay là 2006; vào năm 67 Công Nguyên, [Phật giáo được]
truyền sang Trung Hoa, [cho đến nay] đă gần hai
ngàn năm. Trong hai ngàn năm ấy, tại Trung Hoa đă h́nh
thành mười tông phái. Cho đến những năm đầu
đời Thanh, có chùa miếu nào chẳng giảng kinh? Có
chùa miếu nào chẳng niệm Phật, chẳng tham Thiền?
Hạnh môn đến cuối cùng, tổng kết lại,
sẽ là hai loại phương thức: Một loại là
tham cứu, loại kia là niệm Phật. Do vậy có giảng
đường, có Thiền Đường, có Niệm Phật
Đường. Có Giải, có Hạnh, Giải và Hạnh tương
ứng; đấy là chánh pháp.
Thưa
cùng chư vị, kinh sám Phật sự và pháp hội như
trong tự viện hiện thời, vào thời cổ chẳng
có. Vào đầu đời Thanh rất ít, chẳng có những
thứ ấy! Thời cổ, kinh tế của tự viện
(nguồn sống) chẳng dựa vào pháp hội, chẳng
cậy vào kinh sám Phật sự, chẳng có những chuyện
ấy. Kinh tế của nhà chùa rất ổn định,
v́ trong chùa miếu luôn có ruộng vườn, có núi non, những
thứ ấy đều do trai chủ cúng dường.
Trong các trai chủ, gần như một nửa là quốc
gia. Quư vị thấy hoành phi của tự miếu nào [ghi]
Sắc Kiến, [có nghĩa là ngôi chùa ấy] do quốc gia
xây dựng: Hoàng đế hạ lệnh kiến tạo tự
viện th́ gọi là Sắc Kiến (敕建). Tự viện nhất định có núi, nhất
định có ruộng đất, núi và ruộng đất
để cho nông dân canh tác, tự viện thâu tô, [tức là]
đến lúc gặt hái lúa thóc và các loại lương thực,
chùa miếu được chia một phần. Đấy
là cội nguồn kinh tế của chùa miếu; do vậy,
nó rất ổn định, chẳng dựa vào kinh sám Phật
sự, mà có nguồn kinh tế cố định.
Hiện
thời, chẳng có chế độ này. Vào cuối thời
nhà Thanh, đầu thời Dân Quốc th́ hăy c̣n có. Sau khi Giải
Phóng[2],
đất đai đều là của nhà nước, cho
nên chùa miếu chẳng có đất đai, chẳng có núi
non, ruộng đất đều không có! Chẳng có ruộng
đất, nguồn sống trở thành vấn đề.
Trong Phật môn thường có câu nói: “Pháp luân vị chuyển, thực luân tiên” (Chưa
chuyển pháp luân, nhưng đă phải lo cái ăn trước).
Câu này có nghĩa là: Muốn tu học Phật pháp th́ trước
hết phải ăn no bụng, quư vị mới có thể
nói đến chuyện tu hành. Cuộc sống của quư vị
chẳng ổn, c̣n có thể nói đến chuyện tu hành nữa
ư? Đấy chính là điều kiện tiên quyết. V́
thế, nguồn kinh tế của đạo tràng quá trọng yếu. Trước kia, họ có thu nhập
cố định, có nguồn thu ổn định, cho nên
an tâm. Tâm yên ắt đạo hưng thịnh! Thân tâm an ổn,
cuộc sống tuy kham khổ đôi chút, chẳng sao cả,
có thể sống được, bèn chuyên tâm nơi đạo
nghiệp. Khẳng định là cuộc sống rất
kham khổ, giống như nông dân. Người xuất gia
tự ḿnh tối đa là trồng một ít rau; cấy lúa
rất ít, trồng rau nhiều hơn, ít tốn thời
gian hơn, chẳng trở ngại sự tu hành của họ!
V́ thế, chánh pháp có điều kiện của chánh pháp!
Trong
hoàn cảnh hiện thời, chúng ta chẳng thể không cảm
kích Ấn Quang đại sư, chẳng thể không bội
phục Ấn Quang đại sư. Lăo nhân gia nh́n vào xă hội
hiện thời, bèn dạy người đời sau: Đối
với đạo tràng từ nay về sau, phải biết
tạo dựng những đạo tràng nhỏ, số
người cộng tu chẳng thể vượt quá hai mươi người. Nói theo kiểu hiện thời,
sẽ là “tiểu mao bồng”
(小茅蓬, lều
tranh nhỏ). V́ sao? Đạo tràng nhỏ ít người, chi tiêu ít, thật sự có mấy vị
thí chủ phát tâm cúng dường là đủ rồi, quư vị
có thể giống như xưa kia: Giải và Hạnh đều
coi trọng! Trong tiểu đạo tràng này của chúng ta, mỗi
ngày có thể nghe kinh từ bốn cho đến sáu tiếng
đồng hồ, [đó chính là] “lên lớp”. Niệm Phật mười tiếng
hoặc tám tiếng đồng hồ. Nếu mỗi ngày
nghe kinh sáu giờ, niệm Phật tám giờ, [hay là] nghe
kinh bốn giờ, niệm Phật mười giờ. Ấn
định khóa tŕnh mỗi ngày là mười bốn giờ.
Cũng
có lẽ các đồng học sẽ nói: “Niệm
Phật Đường của các vị cổ đại
đức chỉ có niệm Phật, chẳng có giảng
kinh!” Thời cổ [làm như vậy] th́
được; v́ sao được? Thứ nhất, phàm
là người học Phật, ít nhiều đều có
cơ sở nơi giáo lư của đức Phật. Họ
chẳng phải là kẻ ngoài ŕa. Thứ hai, thiện
căn và phước đức sâu dầy, phiền năo nhẹ
nhàng, trí huệ tăng trưởng. [Do vậy, chỉ niệm
Phật] th́ được, có thể chẳng
cần nghe kinh. V́ sao hiện thời cần [nghe kinh]? Hiện
thời, thiện căn, phước đức, và nhân
duyên của chúng ta chẳng bằng cổ nhân, thế mà sự
dụ dỗ, mê hoặc trong xă hội hiện thời chẳng
biết đă vượt trội thời cổ bao nhiêu lần! Nếu
quư vị chẳng nghe kinh, sẽ chẳng thể đoạn
nghi hoặc. Nếu chẳng nghe kinh, rất dễ bị kẻ
khác dụ dỗ, mê hoặc. Nghe kinh nhằm mục đích
giúp quư vị đoạn nghi sanh tín, giúp quư vị kiên định
tín nguyện, mục đích ở chỗ này, rất trọng
yếu!
Nếu
chúng ta có một đạo tràng hai mươi người
như thế, cùng nhau niệm Phật, cùng nhau tu hành, nhất
định là phải thật sự làm được Thập
Thiện Nghiệp Đạo, Tam Quy, Ngũ Giới. Nghe
kinh hiện thời thuận tiện hơn xưa kia. Quư vị
mời pháp sư chẳng phải là chuyện dễ dàng đâu
nhé! Nay chúng ta dùng TV, dùng đĩa DVD để nghe kinh rất
tiện. Nghe kinh th́ phải nghe theo cách nào? Một bộ kinh. Người
tu hành chân thật phải hiểu: “Thâm nhập một môn, huân tu lâu dài”. Do vậy,
nghe một bộ. Sau khi đă nghe xong, nghe lại từ
đầu. Nghe xong bèn nghe lại từ đầu, nghe
trăm lượt chẳng chán. Quư vị nghe kinh như vậy
sẽ khai ngộ, tâm quư vị đă định. Nếu
nghe đồng thời vài bộ kinh, sẽ bị loạn.
Ví như mỗi ngày bảo quư vị nghe kinh bốn giờ,
quư vị nghe kinh Kim Cang một tiếng, nghe kinh Hoa Nghiêm một
tiếng, lại nghe kinh Địa Tạng một tiếng,
rồi lại nghe kinh Di Đà một tiếng nữa, có
được hay chăng? Giống như đi học
trong trường, thưa cùng chư vị, chẳng đạt được
lợi ích! Nghe pháp kiểu đó, tối đa là đạt
được đôi chút kiến thức Phật học
thông thường, biết được bề ngoài của
Phật pháp, chẳng đạt được thọ dụng
thật sự. Thọ dụng thật sự là: Nghe kinh
cũng là tu Định, cũng là hoàn thành Tam Học Giới,
Định, Huệ trong một lượt. Đấy là
thật sự tu hành.
Nghe
kinh quy củ, an tĩnh, đó là Giới. Nhất tâm chuyên
chú chính là Định. Nghe kinh giáo rành mạch, rơ ràng, đó
là Huệ. Do vậy, chúng ta nghe kinh bốn tiếng đồng
hồ chính là tu Giới, Định, Huệ bốn tiếng
đồng hồ; [nghe kinh] sáu giờ là tu Giới, Định,
Huệ sáu giờ. Hằng ngày nghe một bộ kinh. Phương pháp
trong pháp môn Tịnh Tông hay lắm, thâm nhập một môn, huân
tu lâu dài. Một bộ kinh Di Đà cũng thế, mà một
bộ kinh Vô Lượng Thọ cũng thế. Nói chung, một
bộ là được rồi, chẳng cần phải
nghe quá nhiều. Như vậy th́ mới thật sự có
thành tựu. Một bộ tâm sẽ Định. Quá nhiều
bộ, tâm quư vị bị động, chẳng định!
Mục
đích niệm Phật là ở chỗ nào? Ở chỗ nhất
tâm bất loạn, tâm không điên đảo. “Tâm tịnh, ắt cơi Phật tịnh”.
Bởi lẽ, thâm nhập một môn, sẽ dễ dàng
đạt tới nhất tâm bất loạn. Đă đạt
tới nhất tâm bất loạn, đương nhiên là tâm quư vị
chẳng điên đảo, chẳng có vọng tưởng,
công phu mới đắc lực. Điều này được
gọi là “trụ chánh pháp giới”.
Dẫu cho quư vị công phu chẳng đạt mức,
chẳng thể văng sanh, chắc chắn là quư vị chẳng
đọa trong tam đồ. Quư vị tu hành như vậy,
tuy chẳng thể văng sanh, đời sau sẽ hưởng
phước báo trong cơi trời người, chắc chắn
chẳng đọa vào ba ác đạo. Quư vị nói thử
xem, đấy có phải là “chánh
pháp giới” hay không? Tà pháp khiến cho quư vị lọt vào
tam đồ. Chư vị phải ghi nhớ: Chánh pháp là thâm
nhập một môn, quyết định chẳng xen tạp,
chẳng hoài nghi, chẳng tạp loạn, chẳng gián
đoạn. Lũ b́nh phàm chúng ta dễ bị xen tạp nhất.
Trong các chướng ngại, [chướng ngại] nghiêm
trọng nhất cũng là xen tạp. Thâm nhập một
môn, sẽ không bị xen tạp.
Ở
đây, chúng tôi đang giảng Hoa Nghiêm, chư vị phải
biết v́ sao cần giảng bộ kinh này? Bộ kinh này
liên quan đến Tịnh Độ Tông. Cổ đại
đức nói kinh Hoa Nghiêm là Đại Bổn của kinh
Vô Lượng Thọ, kinh Vô Lượng Thọ là Trung Bổn
Hoa Nghiêm, thật sự có mối quan hệ. Cũng có
nghĩa là: Kinh Hoa Nghiêm là kinh Vô Lượng Thọ được
nói cặn kẽ. Tôi cũng thường nói: Có những vị
đồng học phát tâm giảng kinh, quư vị muốn giảng
kinh Vô Lượng Thọ cho hay, hăy học kinh Hoa Nghiêm rồi
mới giảng kinh Vô Lượng Thọ. Chắc chắn
là sẽ giảng hay lắm. Rất ít người giảng
kinh này, kinh này lại trọng yếu ngần ấy. V́ thế,
đây là rất bất đắc dĩ. Tôi hy vọng giảng
kinh này một lượt, lưu lại một bộ băng
thâu h́nh để dành cho đại chúng tham khảo, mục
đích là ở chỗ này. Nếu quư vị hỏi đạo
tràng Tịnh Tông của chúng ta có thể nghe bộ kinh này
hay không ư? Được chứ, vẫn được!
Bộ kinh này chỗ nào cũng chỉ quy, cuối cùng là mười
đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ
Tát hướng dẫn về Cực Lạc. Chúng ta coi phần
ấy như kinh điển của Tịnh Tông. Tâm thái tu học
như vậy th́ được, nhất tâm niệm Phật!
Có người thích cặn kẽ, có thể nghe Hoa Nghiêm. Có
người ưa đơn giản, chẳng thích phức
tạp, rườm rà ngần ấy, quư vị bèn nghe kinh Vô
Lượng Thọ, hoặc nghe kinh A Di Đà.
Nói chung là “thâm nhập một
môn, huân tu lâu dài”; đấy mới thật sự là “trụ chánh pháp giới, ly
chư tội nạn” (trụ trong chánh pháp giới, ĺa các
tội nạn), trí huệ đấy! Nay đă hết thời
gian rồi, đoạn này được giảng đến
đây.
***
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Chúng ta xem đoạn kế tiếp [của
phần] Đổ Sự Cảnh Nguyện, bài kệ tụng
thứ nhất:
(Kinh)
Nhược kiến chúng hội, đương nguyện
chúng sanh, thuyết thậm thâm pháp, nhất thiết ḥa hợp.
(經)若見眾會。當願眾生。說甚深法。一切和合。
(Kinh: Nếu thấy tụ hội, nguyện cho
chúng sanh, nói pháp rất sâu, hết thảy ḥa hợp).
Đấy
là chuyện quư vị gặp trên đường, có thể
là gặp hằng ngày, thường xuyên gặp. “Chúng” (眾) là nhiều
người, “hội” (會) là tụ hội. Chúng ta hăy đọc phần chú giải
của Thanh Lương đại sư, [Ngài chú giải]
không nhiều.
(Sớ)
Sơ, đổ chúng hội, vị chúng tụ.
(疏)初, 睹眾會,謂眾聚。
(Sớ: Thứ nhất, trông thấy nhiều
người tụ tập th́ gọi là “chúng tụ”).
“Sơ”, đây là nguyện thứ
nhất. “Đổ chúng hội,
vị chúng tụ”, rất nhiều người tụ tập
một chỗ.
(Sớ)
Đa đàm vô nghĩa, cố nguyện thuyết thâm pháp,
chúng tâm dị quai, cố linh ḥa hợp.
(疏)多談無義,故願說深法,眾心易乖,故令和合。
(Sớ:
Phần nhiều nói chuyện vô nghĩa, v́ thế, nguyện
[họ sẽ] nói pháp sâu. Do tâm của mọi người dễ
chống trái, [nên nguyện] họ ḥa hợp).
Đây chính là như trong Phật
pháp đă nói: “Từ bi vi bổn,
phương tiện vi môn” (từ bi làm gốc, phương tiện
làm cửa), hiển thị ở những chỗ như thế
này. Nói theo kiểu hiện thời, đấy chính là “cơ hội giáo dục”. Bất
luận bao nhiêu người, hễ thấy có người
đang đàm luận, đang tán gẫu, đang bàn bạc,
nếu quư vị có thời gian, hăy nên tham dự. Tham dự
để làm ǵ? Độ chúng sanh, [tức là] giới thiệu
Phật pháp cho họ. Quư vị có phương tiện thiện
xảo tùy thuận chủ đề tṛ chuyện của họ
th́ mới có thể khế nhập, dần dần dẫn
dắt họ về Phật pháp. Nhất là ứng dụng
linh hoạt, trong xă hội hiện tiền, đặc biệt
giúp đỡ
họ giải quyết vấn
đề. Họ gặp phải khó khăn, gặp phải
thử thách, hoặc là gặp phải nghi hoặc, bất
luận là vấn đề cá nhân, hay vấn đề trong
công việc nơi đoàn thể, vấn đề nơi
hoàn cảnh vật chất, hay vấn đề nơi hoàn
cảnh nhân sự, sẽ chỉ dạy, hướng dẫn
họ. Trong khi chỉ dạy, hướng dẫn, giữa
người và người với nhau, hăy đề xuất
“ḥa vi quư” (ḥa là quư). Trong khi đại
chúng đàm luận, sẽ chẳng tránh khỏi tranh luận,
quư vị phải giải quyết êm đẹp chuyện ấy
như thế nào, khiến cho mọi người hóa giải
đối lập, hóa giải mâu thuẫn, cư xử ḥa
thuận. Đó là tốt đẹp.
Nếu
họ thích nghe Phật pháp, sẽ giới thiệu Phật
pháp với họ. Họ có nghi vấn, sẽ giải đáp tường
tận, cơ hội giáo dục mà! Thường xuyên gặp
gỡ, tại nông thôn, hoặc tại tiểu trấn, cơ
hội ấy càng nhiều. Trái lại, tại các nơi đô
hội, sẽ ít có cơ hội hơn. Quư vị thấy mọi
người ở nơi đại đô hội rất vội
vă, tuy ở cùng một chỗ, xác thực là đến khi
già chết, chẳng qua lại với nhau! Chúng ta ở cùng
một tầng lầu, trong một tầng lầu này có mấy
gia đ́nh ở với nhau tại đây mấy chục năm,
họ của người cách vách là ǵ, không biết! Trông thấy
người nhà của họ, trước nay chưa hề
chào hỏi, t́nh cảm con người hiện thời nhạt
nhẽo! Tại nông thôn, không chỉ là hàng xóm đều biết
nhau, chào hỏi lẫn nhau, mà người ở thôn trang bên
cạnh cũng biết, cũng sẽ chào hỏi nhau, [tuy những
người ấy] ở tại thôn trang khác. Tại nông thôn,
có t́nh thân thiết nồng đậm; càng là đô thị lớn,
t́nh người thân thiết chẳng có. Cuộc đời
này khó sống quá!
Giữa
con người với nhau, kỵ nhất là không qua lại.
Tôn trọng, quan tâm, hỗ trợ hợp tác, hiện thời
đều chẳng có. Đấy là một hiện tượng
hết sức đáng buồn, nguyên nhân là ở chỗ
nào? Ai nấy đều truy cầu cuộc sống vật
chất, đều mê man, ch́m đắm trong dục vọng
vật chất, chẳng có cuộc sống tinh thần, chẳng
có luân lư, đạo đức. Thật sự là trong hiện
thời, nói đến “luân lư là ǵ, đạo đức là
ǵ”, rất ít người có thể nói được! Đạo
là ǵ? Đức là ǵ? Đạo đức là ǵ? Luân là ǵ? Lư
là ǵ? Luân lư là ǵ? Rất ít người có thể nói
được! Nếu vào thời cổ, trẻ nhỏ
đều có thể nói những vấn đề này! Danh từ
hiện thời nói đến “văn
minh tinh thần”, chẳng có cách nào so sánh với thuở
trước. Trước kia, con người sống trong thế
gian có t́nh thú, giữa con người với nhau có ân, có
nghĩa, có đức, có đạo, hiện thời những
thứ ấy đều chẳng có. Người sống
trong thế gian này để làm ǵ?
Nếu
con người chôn vùi luân lư, đạo đức, chư
vị hăy ngẫm xem, có khác ǵ cầm thú? Thời cổ c̣n có người
nói, ai nói? Từ cổ thư, chúng ta thấy Nghiêu, Thuấn
nói. Người sống vào thuở ấy, nông nghiệp
đă rất phát triển, mọi người đă đạt tới
mức cơm áo no đủ. Cơm ăn, áo mặc, cuộc
sống cơ bản chẳng có vấn đề, cư trụ
cũng rất an định. V́ thế, nhân dân đúng là
hưởng phước thái b́nh. Sau khi trông thấy điều
này, thánh nhân đă nghĩ, nếu không khéo dạy bảo dân
chúng th́ họ khác ǵ cầm thú? Do vậy, mới đề
xuất, tiến hành giáo dục. Người đề xuất,
tiến hành giáo dục là Nghiêu, Thuấn, cách hiện thời
bốn ngàn năm trăm năm trước. Những bậc
cổ thánh tiên vương đă nghĩ đến tầm
trọng yếu của việc giáo dục, dạy và học
tăng trưởng lẫn nhau. Để thực hiện
giáo dục th́ điều đầu tiên là “tu thân làm gốc, giáo học làm đầu”, bất
luận gia đ́nh, xă hội, hay quốc gia, đều đặt
giáo dục vào vị trí hàng đầu. V́ sao nền văn
minh cổ của Trung Hoa vượt trội những nền
văn minh cổ của
các sắc dân khác trên thế giới?
V́ sao những nền văn minh cổ trên thế giới
đều tiêu mất, đều chẳng c̣n? V́ sao dân tộc
Trung Hoa c̣n tồn tại? Nguyên nhân là do người Hoa biết
giáo dục, nhiều thế hệ truyền thừa, lại
c̣n có thể phát huy rạng rỡ. Đấy chính là điều
mà măi cho đến hiện thời, khá nhiều bậc chí
sĩ, nhân nhân (志士仁人,người có chí, bậc có ḷng nhân)
hễ nhắc đến đều tôn kính, đều bội
phục. Người Hoa chớ nên không biết, chớ nên
quên mất đức hạnh của tổ tiên! Đấy là những
thứ tốt đẹp, chân thật, chịu nổi [sự
khảo nghiệm của] thời gian và không gian, muôn đời
vẫn luôn mới mẻ, người hiện thời gọi
chúng là “chân lư” vĩnh hằng
bất biến.
Trong
xă hội hiện thời, đối với các xă hội
trên toàn thể thế giới, điều cần thiết
cấp bách là an định. Xă hội quá loạn, loạn
đến nỗi mọi người không có cách nào chịu
đựng nổi! Mắt thấy các hiện
tượng rối loạn mà nếu chẳng thể cải
thiện, xă hội tiếp tục suy đồi. Rất
nhiều nhà khoa học, triết gia, những nhà tôn giáo, nhà giáo
dục đều cảm nhận điều này: Nhân loại
trên địa cầu c̣n có thể sống sót thêm một
trăm năm nữa hay chăng? Điều này có nghĩa
là sau một trăm năm nữa, nhân loại trên thế
giới chẳng c̣n; tôn giáo phương Tây gọi chuyện
này là “tận thế”. Xác thực
là chuyện phiền phức, rất phiền phức! Điều
chúng ta cần phải làm trong hiện thời chính là: Phải
coi chuyện này là đại sự bậc nhất cần phải thực
hiện trong đời này. Tuy biết làm chuyện này rất
khó, rất cực nhọc, phải trả giá rất lớn,
có cần phải làm hay không? Vẫn phải làm! Bất luận
phải trả giá bao nhiêu, cũng đều phải trả! Chuyện này nhằm
cứu giúp sự tồn vong của con cháu, hóa giải xung
đột, xúc tiến an định, ḥa b́nh, có cơ hội
th́ phải dạy, hễ có cơ hội th́ phải tham dự, chớ nên sợ nhọc nhằn. Dẫu giáo
hóa chúng sanh vất vả cách mấy, vẫn
phải dạy; không dạy th́ làm sao được? Hiện thời
giáo hóa chúng sanh, người ta trọn chẳng cảm kích,
thậm chí sau lưng c̣n rỉa rói, chê quư vị
ngu xuẩn. Dẫu ngu xuẩn cũng phải làm! Chẳng
làm, sẽ thấy tốc độ băng hoại của
xă hội tăng nhanh! Làm từ chỗ nào? Làm từ chính ḿnh! Bản thân không ngừng
nâng cao cảnh giới của chính ḿnh, xây đắp cơ
sở vững vàng cho chính ḿnh. Cơ sở là Thập Thiện
Nghiệp Đạo, là Đệ Tử Quy, Tam Quy, Ngũ
Giới, nhất định phải thực hiện tốt
đẹp. Chính ḿnh chẳng làm được, quư vị sẽ
chẳng thể khuyên kẻ khác. Quư vị khuyên người ta, [họ sẽ bắt bẻ] “ngươi khuyên người ta, bản thân ngươi
có làm được hay không?” Chính ḿnh làm được th́
mới có thể khuyên người khác, người ta mới
tin tưởng. Chính ḿnh phải nêu gương tốt cho xă hội, “học vi nhân sư,
hành vi thế phạm” (học làm thầy người, làm
gương mẫu cho đời).
Pháp
xác thực là “thậm thâm” (rất
sâu), nhưng pháp thậm thâm thường nói là “thâm nhập, thiển xuất”
(thâm nhập sâu xa, diễn tả nông cạn), người ta
mới có thể nghe hiểu th́ mới có thể lư giải. Chính quư
vị có một phần yêu thương, chân thành, chẳng
có chút tư tâm nào, ḷng chân thành ấy sẽ có thể cảm
động người khác. Chính ḿnh có tâm riêng tư, có dục
vọng, có mục đích, có điều mong cầu,
vậy là không được rồi! Muốn độ chúng
sanh th́ phải độ chính ḿnh trước. Muốn dạy
người khác th́ trước hết phải dạy chính
ḿnh, nhất định phải dạy chính ḿnh tốt đẹp.
Phải nhận biết cơ hội giáo dục, quyết
định chớ nên khinh dễ, bỏ qua! Con người
sống theo đoàn thể, trong lư tưởng của
chúng ta: Mọi người trên toàn thế giới đều
b́nh đẳng, có ǵ sai khác? Đệ Tử Quy đă nói,
đấy chính là điều được tổ tiên truyền
thừa qua các đời: “Phàm thị
nhân, giai tu ái” (phàm là người, đều nên yêu thương). Giáo dục
Trung Hoa là nền giáo dục yêu thương, tâm chân thành yêu
thương, che chở, giúp đỡ chúng sanh.
Hiện
thời, thế giới động loạn, ai nấy
đều có trách nhiệm, nhất định phải thực
hiện từ chính bản thân ḿnh. Sau đấy mới từ
gia đ́nh của chính ḿnh, quư vị sẽ ảnh hưởng
đến gia đ́nh, ảnh hưởng đến
đoàn thể của chính ḿnh. Người tại gia ảnh
hưởng công ty, hăng xưởng, cửa hàng của chính
ḿnh; người xuất gia sẽ ảnh hưởng đạo
tràng, ảnh hưởng đồng học và đạo
hữu của chính ḿnh. Quư vị phải nêu gương tốt
cho kẻ khác trông thấy, chẳng sống phí uổng
đời này. Bất luận giữ cương vị nào
trong công việc, thảy đều trọn đủ cơ
duyên “tự hành, hóa độ kẻ
khác”. Vấn đề là quư vị phải nhận biết.
Quư vị phải nắm chắc [cơ hội], phải khéo có thể vận dụng, phát huy. Trong kinh, đức Phật thường dạy chúng ta: “Thọ
tŕ, đọc tụng, v́ người khác diễn nói”.
Thọ tŕ, đọc tụng là tự hành, v́ người khác
diễn nói là hóa tha (化他, giáo hóa người
khác). “Thọ” (受) là ta tiếp nhận, [có nghĩa là] ta tiếp nhận
Thập Thiện Nghiệp do Thích Ca Mâu Ni Phật
đă trao cho chúng ta. Ta tiếp nhận Tam Quy, Ngũ Giới,
đă tiếp nhận th́ phải làm được, phải làm cho đến hết đời. Ta sống
một ngày, phải thực hiện một ngày. Đó gọi là “tận h́nh thọ” (盡形壽, [thọ tŕ] cho đến hết tuổi thọ), đấy
chính là Tŕ, tức bảo tŕ (保持, ǵn giữ). Bất luận trong hoàn cảnh nào, thuận
cảnh hay nghịch cảnh, ta đều có thể bảo
tŕ, chẳng để mất đi. Khởi tâm động
niệm, ngôn ngữ, tạo tác nhất định tương
ứng với giáo huấn của đức Phật, đấy
mới là đệ tử Phật thật sự, là đứa
học tṛ tốt của đức Phật. Ta thực hiện
nhằm biểu diễn, biểu diễn cho kẻ khác trông
thấy.
Kinh
Vô Lượng Thọ nói rất hay, kinh dạy chúng ta xếp
khẩu nghiệp vào hàng đầu: “Thiện hộ khẩu nghiệp, bất cơ tha
quá” (Khéo bảo vệ khẩu nghiệp, chẳng gièm chê lỗi
của người khác). V́ sao? Dễ phạm nhất! Chuyện dễ phạm nhất chính là nói ra lỗi lầm của
kẻ khác. Quư vị xem kinh Vô Lượng Thọ, [sẽ
thấy] khẩu nghiệp quá ư là nhiều; điều
này là điều nặng nhất, là điều dễ phạm phải nhất. Thấy người
khác phạm lầm lỗi chớ nên nói, [bởi lẽ] hiện thời có kẻ
nào mà chẳng có lỗi lầm? Lỗi lầm quá nhiều! Ai nấy đều có! Nh́n lại chính
ḿnh, cũng chẳng ít! Do vậy, người thật sự
tu hành trông thấy lỗi lầm của kẻ khác, bèn hồi quang phản chiếu chính
ḿnh có [những lỗi lầm ấy] hay chăng? Hễ có bèn sửa; hễ
không có, bèn càng thêm gắng sức. Đó là đúng! Làm sao có
thể rêu rao lỗi lầm của kẻ khác cho được?
Kể
lỗi người khác, Đệ Tử Quy bảo “chính là ác”, đấy chẳng
phải là chuyện tốt lành. “Đạo
nhân thiện, tức thị thiện” [nghĩa là] quư vị
khen ngợi người khác, kể những chuyện tốt
của người ta, tốt lắm! Đó gọi là “ẩn ác, dương thiện”
(隱惡揚善,che giấu điều ác, tán dương điều thiện), sẽ có thể cải
thiện phong khí xă hội. Kẻ khác tạo tác chuyện bất thiện, chúng ta có thể bao dung. Kẻ khác làm điều thiện
nhỏ, chúng ta tán thán. Thường xuyên ở
trong hoàn cảnh ấy, lương tâm của kẻ đó
sẽ dấy khởi: “Quư vị thấy tôi làm bao nhiêu chuyện
xấu, mọi người đều chẳng chê trách tôi.
Tôi làm chuyện tốt
cỏn con bèn khen ngợi tôi”. Lương tâm
bèn dấy lên, kẻ đó sẽ sửa ác, hướng
lành. Đấy chính là độ một người quay
đầu! Để độ người khác quay đầu; trước hết, phải độ chính ḿnh. Từ
nay về sau, chính ḿnh chẳng c̣n nói lỗi lầm của kẻ khác nữa!
Trong
khẩu nghiệp, không nói dối. Từ nay trở đi, chẳng
c̣n dối gạt người khác, chẳng c̣n gạt gẫm
kẻ khác. Chẳng khuấy động thị phi, trước
mặt Giáp nói chuyện xấu của Ất, trước
mặt Ất nói chuyện xấu của Giáp, khiến cho
hai người ấy bất ḥa. Chuyện ấy có khi là cố
ư, có khi là vô t́nh. Cố ư th́ có tội, vô t́nh là lầm lỗi,
chuyện này chính là có lúc “người
nói vô tâm, kẻ nghe hữu ư”. Do vậy, ăn nói chẳng
thể không cẩn thận. Phu tử dạy học có bốn
khoa, ngôn ngữ được xếp vào hàng thứ hai. Thứ
nhất là đức hạnh, thứ hai là ngôn ngữ, quư vị
nghĩ xem Ngài coi trọng [ngôn ngữ] dường ấy!
Người biết ăn nói, trong một đời sẽ
có rất nhiều thuận tiện, rất nhiều người
thích giúp đỡ quư vị. Kẻ chẳng biết ăn
nói, sẽ rất thua thiệt, chẳng được
người khác giúp đỡ. Người ta trông thấy quư
vị, tránh quư vị cho xa, chẳng dám tiếp cận quư vị.
V́ sao? Quư vị thường ăn nói vô trách nhiệm,
thường thốt lời tổn thương người
khác!
Ngạn
ngữ có câu “lai thuyết thị
phi giả, tiện thị thị phi nhân” (kẻ đến
nói chuyện thị phi, chính là kẻ thị phi)! Hiểu đạo
lư này, chẳng dễ bị lừa gạt cho lắm! Đối
với kẻ đến khuấy động, kể lể
kẻ nào đó nói này nói nọ quư vị, Hàn quán trưởng
trước kia của Hoa Tạng Đồ Thư Quán đích xác là rất lợi hại. Có kẻ nào khuấy động
thị phi trước mặt bà ta, bà nghe xong, chỉ cười
x̣a. Sau khi người ấy đi rồi, bà ngay lập tức
điều tra, t́m ra người ấy, hỏi người
ấy có nói những lời ấy hay chăng? Có rất nhiều
người nói “chẳng có, tôi chẳng nói lời ấy”.
Quán Trưởng lại t́m người kể chuyện [thị phi] ấy
đến đối chất; về sau, không có ai dám nói
chuyện thị phi trước mặt bà ta. V́ sao? Bà ta sẽ
t́m người đến đối chất, chẳng nghe
lời nói từ một phía. Đấy là trí huệ, là giáo
dục. Nếu quư vị bịa chuyện, sanh sự, nhất
định sẽ hỏi quư vị: “V́ sao quư vị phải
làm như vậy? Mục đích ở chỗ nào?” Truy hỏi
động cơ, mục đích của người ấy,
nếu [kẻ ấy] nói không được, sẽ là hồ
đồ.
Nói
thêu dệt, hoa ngôn xảo ngữ, phạm vi ấy quá to! Kể
cả cái gọi là “văn nghệ
biểu diễn” trong hiện thời, nay chúng ta nói đến
TV, điện ảnh, hư kịch (drama), nhạc rap, nội
dung là ǵ? Vài chục năm nay, tôi chẳng tiếp xúc, ngay cả
TV tôi cũng không xem, báo chí cũng không xem, vài chục năm
rồi! Đại khái là bốn, năm chục năm trước
th́ [những thứ ấy] c̣n khá một chút, hiện thời
có thể là chẳng có cách nào xem được! V́ tôi thấy
từ trường tại tiệm sách và thư viện
trong hiện thời chẳng bằng quá khứ. Thuở trẻ,
tôi vào tiệm sách hoặc vào thư viện, từ trường
hết sức tốt đẹp. Sau khi
vào đó, tâm hết sức yên ổn, b́nh thản, tâm rất
dễ định. Hiện thời th́ chẳng được.
Hiện thời, tiến vào những chỗ đó, sẽ
cảm giác rất loạn, rất bất an, khiến cho quư
vị chẳng có cảm giác an toàn. Đấy là ǵ? Nội
dung của các sách vở, nhật báo, tạp chí chẳng tốt,
sẽ sanh ra sự dao động [bất hảo] ấy,
chúng ta bị chúng nó khuấy nhiễu. V́ thế, ít tiếp
xúc với chúng vẫn là tốt hơn!
Thông
thường, những thứ bản thân chúng tôi tiếp
xúc là kinh điển và sách vở của thánh hiền. Trong
thư pḥng của tôi ở Hương Cảng, chỉ có
hai bộ sách: Một bộ là Đại Tạng Kinh, bộ
kia là Tứ Khố Toàn Thư Hội Yếu.
Thông thường, thời gian của tôi dùng vào những thứ ấy, đọc sách, [tức là] đọc sách thánh hiền, thân cận Phật,
Bồ Tát, thân cận cổ thánh tiên hiền. Đấy
chính là “thọ tŕ, đọc tụng”. Tiếp xúc với
kẻ khác, bất luận là ai, những điều bàn luận
đều là giáo huấn của cổ thánh tiên hiền. Gặp
các đồng tu Phật môn, xác thực là luôn bàn bạc pháp
tạng thậm thâm với họ, hoặc là giúp họ tháo gỡ các nghi nan.
Thuở
đức Thế Tôn tại thế, từ kinh điển
chúng ta thấy, suốt bốn mươi chín năm, hằng
ngày lăo nhân gia “nhị thời giảng
kinh” (hai thời giảng kinh). “Nhị thời” là tám tiếng đồng hồ hiện thời. Một
“thời” của cổ Ấn
Độ bằng bốn tiếng đồng hồ hiện
thời, có phải là giống như lên lớp trong hiện
thời hay không? Có chứ! Hằng ngày lên lớp cho mọi
người, dạy dỗ các học tṛ cố định.
Tôi tin là chẳng thể có khả năng dạy họ suốt
tám giờ cho mấy, tối đa là một nửa [thời
gian], nửa kia là “cơ hội
giáo dục” như đang nói ở đây. Người thân cận đức Phật rất nhiều,
họ đến từ bốn phương tám hướng
nêu câu hỏi, đức Phật có giải đáp cho họ
hay chăng? Sẽ! Hiện thời, chư vị thấy
trong kinh Tiểu Thừa có quá ư là nhiều [trường
hợp giống như thế], toàn là do người khác hỏi.
Do vậy, chúng ta bèn hiểu rơ, trong bất cứ trường
hợp nào đức Thế Tôn bàn luận với bất cứ
ai, hễ ghi chép lại, toàn thể đều gọi là
Kinh. Mỗi ngày, [đức Phật] nói tám tiếng đồng
hồ. Ngoài tám tiếng đồng hồ [giảng kinh] ra,
bản thân Ngài đều ở trong Định, lăo nhân gia
nhập Định. Biểu diễn cho chúng ta thấy, dạy
chúng ta “thọ tŕ, đọc
tụng, v́ người khác diễn nói”, bản thân Ngài phải làm được. V́ người
khác diễn nói mỗi ngày tám tiếng đồng hồ, những
thời gian khác dành để thọ tŕ, đọc tụng, biểu diễn kiểu cách này!
Do
vậy, Thường Tùy Chúng theo Ngài, chúng ta thường thấy
trong kinh [ghi chép] một ngàn hai trăm năm mươi lăm
vị Thường Tùy Chúng, [đó là] biểu diễn. Thầy
thực hiện như vậy, các Ngài (các môn đệ) cũng
chẳng ra ngoài lệ ấy. Những vị ấy hằng
ngày theo học với thầy, nghe thầy tiếp dẫn
đại chúng. Thời gian lâu dài, lâu năm chầy tháng,
ai nấy đều nghe nhuyễn nhừ, tự ḿnh hằng
ngày đi khất thực, gặp những t́nh huống ấy,
ai nấy đều có thể nói những đạo lư tốt
lành. Bất luận ở nơi đâu, bất luận nơi
chốn nào, hễ mở miệng đều gọi là “đàm
kinh”. Tṛ chuyện th́ nội dung tṛ chuyện toàn là kinh, người
hiện thời gọi là “cơ
hội giáo dục”. Phàm những người gặp gỡ
đều là kẻ hữu duyên, v́ sao? Họ chịu nghe, nghe
một câu cũng được, nghe một phút cũng
được, nghe năm phút cũng được, nghe
mười phút cũng được. Chỉ cần người
ấy có thể nghe lọt tai, nghe hoan hỷ, sẽ đều
là người hữu duyên. Lẽ nào chúng ta có thể không làm?
Chớ nên không biết, chớ nên không học điều này.
Trong
xă hội hiện thời, điều quan trọng nhất,
điều cần phải học nhất chính là “Phật giáo là ǵ?” V́ sao? Đại
chúng trong xă hội hiểu lầm Phật giáo quá nhiều!
Người ta thắc mắc, nhất định sẽ hỏi
quư vị, nếu quư vị có thể chỉ dạy, hướng
dẫn họ chánh xác, giúp họ phá mê. Chẳng cần họ
sanh ḷng tin, chỉ mong họ không nẩy sanh hiểu lầm đối với Phật giáo, tức là mục tiêu bước đầu của quư
vị đă đạt được. Nếu người
ta hỏi quư vị: “Phật giáo có rất nhiều pháp môn, quư
vị tu pháp môn nào?” Nói chung là phải hiểu rơ Tịnh
Độ. Chúng ta tu Tịnh Độ, chẳng thể không
liễu giải Tịnh Độ! Điều quan trọng
nhất trong Tịnh Độ là “tâm tịnh th́ cơi Phật tịnh”. Chúng ta dùng phương
pháp tŕ danh, sợ người ta nói quư vị, hiểu lầm
quư vị mê tín. Tŕ danh chẳng phải là mê tín, mà là hết sức phù
hợp tinh thần và phương pháp khoa học. Con người
chớ nên có tạp niệm, tạp niệm rất bất
hảo. Tâm tạp niệm chẳng thanh tịnh, ô nhiễm
nghiêm trọng. Nói theo thân thể hiện thời, vọng
tưởng, tạp niệm nhiều, chắc chắn là quư
vị chẳng khỏe mạnh. Từ thí nghiệm của
tiến sĩ Giang Bổn Thắng người Nhật, quư
vị thấy kết tinh nước hiện ra h́nh thức
hết sức khó coi.
Tôi
c̣n thấy tại Đài Loan có những học sinh Tiểu
Học làm thí nghiệm, thầy hướng dẫn học
tṛ làm thí nghiệm, dùng ǵ? Dùng cơm, dùng ḿ sợi, dùng bánh
mạn đầu, nấu trong cùng một nồi, chia thành
hai bát, đặt hai bên cửa, để cho học tṛ, mỗi
tṛ đi qua, đối trước thứ đựng
trong bát [này bèn] nói: “Ngươi ăn ngon lắm, ta rất
thích ngươi, rất hoan hỷ”. Đối với thứ
đựng trong bát kia bèn nói: “Ta không thích ngươi, ta ghét
ngươi”. Chia thành hai tổ như thế, mỗi ngày nói
như vậy. Sau một tuần, đương nhiên là cơm
biến đổi. Cơm được ca ngợi hằng
ngày, quư vị ngửi mùi vị, tuy nó lên men, nhưng mùi vị
rất dễ ngửi, màu sắc vàng tươi, cũng khá
dễ coi! Cơm bị nhục mạ, chán ghét mỗi ngày, một tuần sau biến thành đen
thui, ngửi thử, mùi rất khó ngửi! Cho thấy điều
ǵ? Nước có phản ứng, cơm có phản ứng,
mạn đầu cũng có phản ứng, ḿ sợi cũng có phản ứng. C̣n có ǵ nữa? Cây bonsai cũng có phản ứng. Cây
bonsai được ca ngợi sẽ tăng trưởng hết
sức tươi tốt. Cây mỗi ngày bị chê là đáng
ghét, chửi bới, nó sẽ gục đầu, ủ rũ.
Đấy chính là mở rộng thí nghiệm với nước
của ông Giang Bổn Thắng, dùng những thứ khác
để thí nghiệm, chứng tỏ điều được
dạy trong kinh Phật: “Hết
thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”. V́ thế,
trong tâm quư vị nghĩ ǵ, nó sẽ biến ra thứ ấy.
Trong tương lai, chúng tôi sẽ tập hợp một số
những tài liệu này để mọi người tham khảo.
Quư
vị đă hiểu ư niệm là khẩn yếu. Tâm chúng ta
có ư niệm thiện, ngôn ngữ thiện, hành vi thiện, thân
tâm sẽ khỏe mạnh. Đấy chính là những lợi
ích quư vị đạt được trong hiện tại.
Nói theo Phật pháp, [sự thọ dụng đạt
được] trong hiện tại là hoa báo. Hoa báo rất
tốt, có thể suy ra quả báo [sẽ tốt đẹp
như thế nào]. Do vậy, bất luận ở nơi đâu,
cũng đều phải biết khuyến thiện. Muốn
khuyên người khác đoạn ác tu thiện, chính ḿnh phải
làm được trước đă. Đối với người,
đối với sự, đối với vật, chẳng
có ác niệm, tôi thường nói là “chẳng có đối lập,
chẳng có mâu thuẫn, chẳng có hiểu lầm, chẳng
có ngờ vực vô căn cứ, chỉ có tâm yêu thương,
tâm kính trọng, tôn kính, quan tâm, hỗ trợ hợp tác”. Đấy
là điều trọng yếu!
Phật
pháp dạy chúng ta: Chính ḿnh và người khác chẳng hai, tôn
trọng kẻ khác như tôn trọng chính ḿnh. Chẳng tôn
trọng người khác tức là không tôn trọng chính ḿnh.
Chẳng yêu thương người khác là không yêu thương
chính ḿnh. Chính ḿnh và người khác là một, không hai. Sự
tự tôn trọng, tự yêu thương của quư vị được
biểu hiện ở chỗ nào? Biểu hiện từ ḷng
yêu thương, tôn kính người khác. Nếu chẳng xuất phát từ ḷng yêu thương, tôn kính người khác, quư
vị sẽ biến thành tự tôn tự đại, biến
thành cuồng vọng. Cuồng vọng là tự yêu thương
chính ḿnh ư? Cuồng vọng là tự tôn trọng hay chăng? Sai mất rồi! [Tự tôn trọng, tự yêu thương]
đều được biểu hiện
bằng sự nghiêm túc nhận trách nhiệm đối với
người, đối với sự, đối với vật.
Đối với hết thảy vạn vật, đều
giữ ḷng kính sợ. Cổ đại đức là như
thế đó, giáo huấn mấy ngàn năm qua cũng là dạy như thế đó!
Người
và người đối xử ḥa thuận với nhau, chẳng
có tranh chấp, “nhất thiết
ḥa hợp” (hết thảy ḥa hợp). Do vậy, hiện
thời, điều khẩn yếu bậc nhất chính là
phải thực hiện Lục Ḥa Kính. Đối với Lục
Ḥa Kính, hiện thời thực hiện hai điều Kiến
Ḥa Đồng Giải và Giới Ḥa Đồng Tu như thế
nào? Thưa cùng chư vị, nói cụ thể, sẽ là thực
hiện Đệ Tử Quy, thi hành Thập Thiện Nghiệp
Đạo. Làm được hai điều đầu
trong Lục Ḥa Kính, những điều sau đó sẽ rất
dễ dàng! Thân Ḥa Đồng Trụ, Khẩu Ḥa Vô Tránh, Ư Ḥa
Đồng Duyệt, và Lợi Ḥa Đồng Quân tự
nhiên làm được. V́ thế, quan trọng nhất là
hai điều đầu. Chúng ta có nhận thức chung, sẽ
là Kiến Ḥa Đồng Giải, có sự nhận thức
chung “Đệ Tử Quy là trọng
yếu, Thập Thiện Nghiệp Đạo là trọng yếu”;
đấy là Kiến Ḥa Đồng Giải. Đối với
Giới Ḥa Đồng Tu, thực hiện Đệ Tử
Quy, thực hiện Thập Thiện Nghiệp Đạo chính
là Giới Ḥa Đồng Tu. Đó là căn cội của giới
luật, là giới luật căn bản, quyết định
chẳng thể sơ sót, phải nghiêm túc nỗ lực thực
hiện nó.
Chính
ḿnh làm được, tự nhiên quư vị sẽ có thể
cảm hóa cả nhà. Chẳng cần khuyên kẻ khác làm, hăy
tự ḿnh làm. Sau khi quư vị đă làm được, người
ta sẽ học theo quư vị, đó gọi là “kẻ trên làm, người dưới
bắt chước theo”. Trong nhà của ta có cha mẹ, c̣n
có ông bà, ta làm như vậy: Kẻ dưới làm, người
trên cũng bắt chước theo. [Bởi lẽ], họ
trông thấy cũng rất hài ḷng, trông thấy bèn rất hoan
hỷ. Do vậy, chính ḿnh bất tri bất giác mà từ khởi
tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác đều có
thể thâu liễm, cảm hóa người trong nhà. Trong lịch
sử, có quá nhiều trường hợp như vậy. Một tấm
gương nổi tiếng nhất chính là vua Thuấn. Vua
Thuấn cảm hóa cha, mẹ, và em trai của chính ḿnh, cảm hóa hàng
xóm, láng giềng làng nước. Dùng phương pháp ǵ? Tự
hành. Bản thân quư vị chẳng làm th́ không được
rồi! Phải nêu gương tốt nhất.
Kẻ
khác chẳng sửa đổi tật xấu, lỗi lầm,
[tức là] chính ḿnh chưa làm đủ tốt. Đấy
mới là lời thật, mới là nguyên nhân thật sự.
Ta làm rất tốt, mà người khác vẫn chẳng bị
cảm động, quư vị vẫn làm chưa đủ!
Ngày nào quư vị làm được như vua Thuấn, chắc
chắn họ sẽ bị cảm động. Do vậy, “hành hữu bất đắc, phản
cầu chư kỷ” (có điều ǵ chẳng làm
được, hăy xét lại ḿnh), lời này là chân lư, chắc
chắn chẳng sai. Nay chúng ta chẳng cảm động đạo
tràng, chẳng cảm động gia đ́nh chúng ta, tức
là ta chẳng làm đủ tốt, nhất định phải
sanh ḷng hổ thẹn. Thật
sự làm tốt, há có lẽ nào chẳng
cảm động kẻ khác? Quư vị muốn khiến
cho người khác tốt đẹp, chính ḿnh phải tốt
đẹp trước đă. Chính ḿnh chẳng tốt, sẽ
chẳng có tư cách dạy người khác. Hôm nay đă hết
thời gian rồi, chúng tôi nói tới chỗ này!
Tập
1530
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ
mười một, đoạn thứ hai trong tiểu đoạn
Đổ Sự Cảnh Nguyện thuộc đoạn lớn
thứ sáu, xem từ bài kệ tụng thứ hai.
(Kinh)
Nhược kiến đại trụ, đương nguyện
chúng sanh, ly ngă tránh tâm, vô hữu phẫn hận.
(經)若見大柱。當願眾生。離我諍心。無有忿恨。
(Kinh: Nếu thấy cột lớn, nguyện cho
chúng sanh, ĺa tâm ngă tránh, chẳng có phẫn hận).
Đối
với bài kệ này, trong phần chú giải, Thanh
Lương đại sư đă chú thích rất rơ ràng.
(Sớ)
Cựu kinh vân đại thụ.
(疏)舊經云大樹。
(Sớ: Bản dịch cũ nói là “cây to”).
Đây
là v́ phiên dịch [sai khác]. Danh từ tiếng Phạn có hai ư
nghĩa, từ tiếng Phạn dịch sang tiếng Hán,
Trung Hoa sử dụng lối phiên âm thành Tát-đam-bà
(Stambha). Ở Ấn Độ vào thời cổ, Tát-đam-bà
có hai ư nghĩa: Một là đại trụ (大柱, trụ
to), hai là đại thụ (大樹, cây to). Do
đó, trong Lục Thập Hoa Nghiêm, bài kệ này được
chép là “nhược kiến
đại thụ” (nếu thấy cây to), c̣n trong Bát Thập
Hoa Nghiêm là “nhược kiến
đại trụ”. Đây là một danh từ mà có hai ư
nghĩa. Hai ư nghĩa ấy tuy khác nhau, nhưng cổ nhân
giải thích cũng rất có lư: Chúng đều có tác dụng
chịu đựng sức nặng. Tạo dựng nhà ở,
cây cột chịu sức nặng rất lớn. Cây to cũng
giống như vậy, cành lá hoa quả hết sức xum xuê cũng
là do thân cây gánh chịu. V́ thế, nói theo phương diện
này, ư nghĩa có thể tương thông.
Đây
là những sự vật mà bậc tỳ-kheo trông thấy
trên đường khi ra ngoài khất thực. Trong phần
trước là thấy người, trên đường trông
thấy người ta, có khá nhiều người tụ tập
tán gẫu; đấy là một cơ hội giáo dục cho
người xuất gia, chớ nên xem nhẹ! Niệm nào cũng
đều mang đại nguyện độ chúng sanh, niệm
nào cũng đều mong giúp cho hết thảy chúng sanh giác
ngộ. Một trăm bốn mươi mốt nguyện trong phẩm kinh này chính là pháp tu của bậc
Pháp Thân Bồ Tát. V́ thế, từ chỗ này, chúng ta thấy
được sự học Phật của chúng ta và sự
học Phật của Bồ Tát. So sánh hai chuyện ấy,
sẽ thấy rất rơ! Trong tâm Bồ Tát, niệm nào cũng
đều chẳng quên chúng sanh, đều nhằm giúp đỡ
chúng sanh giác ngộ. Thấy có mấy kẻ đang tụ họp tán gẫu, Ngài bèn “đương nguyện chúng sanh,
thuyết thậm thâm pháp, nhất thiết ḥa hợp”
(nguyện cho chúng sanh, nói pháp rất sâu, hết thảy ḥa
hợp). Bài kệ ấy (tức bài kệ trước bài
kệ này) hết sức thích hợp nhu cầu hiện thời.
Trong hiện thời, xă hội cực kỳ bất ḥa, ḷng
người bộc lộ rơ tánh bộp chộp, xáo động,
xác thực là chỉ mong cầu lợi lộc, niệm nào
cũng đều là “tổn
người, lợi ḿnh”. V́ thế, xă hội xáo động,
bất an.
Mọi
người đều biết nhu cầu bức thiết
trong xă hội hiện thời là an định, ḥa b́nh. Nếu
chẳng thể thực hiện an định, ḥa b́nh, nói
theo tôn giáo phương Tây, sẽ là “tận thế”, chúng tôi càng nghĩ càng thấy có
thể! Lại c̣n càng thấy là dường như chuyện
này sẽ hiện tiền rất nhanh chóng! Đấy là một
vấn đề hết sức nghiêm trọng! Có biện
pháp nào cứu văn hay chăng? Xác thực là có biện pháp!
Đặc biệt là Đại Thừa Phật pháp. Trong
niên đại bảy mươi, một triết gia
người Anh là tiến sĩ Thang Ân Tỷ (Arnold Toynbee) đă
nói rất có lư: “Để giải
quyết những vấn đề xă hội trong thế kỷ
hai mươi mốt, chỉ có học thuyết Khổng Mạnh
của Trung Hoa và Đại Thừa Phật pháp”.
Từ
Đại Thừa Phật pháp, chúng ta thấy: Đối
với bất luận vấn đề nào trong hiện thời,
nếu dùng những điều này làm nguyên tắc chỉ đạo
để giải quyết hoặc thực hiện, sẽ
chẳng có khó khăn tí nào! Nhưng người hiện thời
chẳng tin tưởng Phật pháp, cứ ngỡ đấy
là tôn giáo, là mê tín, chẳng mong muốn tiếp xúc. Thứ tốt
đẹp như thế, thứ đối với hiện
tiền có lợi ích thù thắng khôn sánh như vậy ở
ngay trước mặt mà bỏ lỡ, quư vị nói có đáng
tiếc lắm hay chăng? Chuyện này chúng ta chẳng thể
trách người khác, mà trách ǵ? Trách bọn tứ chúng đệ
tử học Phật chúng ta chẳng thực hiện tốt đẹp! V́ thế khiến
cho đại chúng trong xă hội nẩy sanh hiểu lầm
nghiêm trọng đối với Phật giáo. Ngẫm xem,
thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, v́ sao người
ta chẳng hiểu lầm? Thuở Gia Tô (Jesus), Mục Hăn Mặc
Đức (Mohamed) tại thế, bao nhiêu kẻ tôn kính, bao
nhiêu người học theo họ. V́ sao? Chẳng có chi khác,
rất đơn giản, họ đă làm được.
Làm được rồi mới nói, chẳng có ai không phục!
Do vậy, đấy là những bậc thánh nhân. Thánh nhân và phàm nhân sai
khác ở chỗ này. Phàm nhân nói suông, chứ chẳng làm
được. Nói rồi làm chẳng được th́ chính
là gạt người! Thánh nhân làm được rồi Ngài
mới nói, Ngài làm được trước đă! Hiền
nhân là học tṛ của thánh nhân, sau khi đă nói bèn có thể
làm được. Chúng ta phải hiểu đạo lư này,
phải nghiêm túc học tập đạo lư này.
So
sánh bài kệ này giữa Lục Thập Hoa Nghiêm và Bát Thập
Hoa Nghiêm, tôi cảm thấy phiên dịch như Lục Thập Hoa
Nghiêm rất hay. V́ sao? Xác thực là quư vị thường
thấy cây to trên đường, chứ cột to chẳng
dễ thấy cho lắm! Trừ phi có kiến trúc theo kiểu
cung điện th́ quư vị mới có thể trông thấy cột
to. Kiến trúc dân gian thông thường chẳng có cột rất
lớn, chẳng dễ trông thấy; do vậy, tôi cảm
thấy dịch là “đại
thụ” hay hơn “đại
trụ” rất nhiều! Thấy chuyện này, dẫn phát
hoằng nguyện của Bồ Tát, “ly ngă tránh tâm, vô hữu phẫn hận” (ĺa tâm ngă
tránh, chẳng có phẫn hận). “Tránh” (諍, tranh chấp) là cội nguồn của sự oán hận;
chẳng có tranh chấp, lấy đâu ra oán hận? Chuyện
này cũng chẳng phải là chuyện nhỏ! Những
chuyện phát sanh trong cuộc sống hằng ngày đúng là
vô lượng vô biên, Bồ Tát nêu ra một trăm bốn
mươi mốt thí dụ. Một trăm bốn mươi
mốt thí dụ ấy, triển khai ra, sẽ là vô lượng
sự vật lụn vụn mà sáu căn của chúng ta tiếp xúc! Quư vị liễu
giải đạo lư này, mới hiểu mỗi câu, mỗi
chữ trong phần kinh văn này đều chứa đựng
ư nghĩa rất sâu, hết sức trọng yếu! Pháp thế
gian và Phật pháp đều chẳng ĺa nhân quả. Khá nhiều
chuyện phát sanh, nếu truy cầu nguyên nhân khiến cho sự
t́nh phát sanh, sẽ vĩnh viễn chẳng t́m được
cái nhân thật sự. Đến đâu để t́m? Cái nhân
thật sự phải t́m trong đời quá khứ!
Năm
xưa, tôi ở Mỹ, các đồng tu ở Mỹ đại
khái đều biết: Trong thời gian Kháng Chiến,
tại Mỹ có một nhà tiên đoán tên là Khải Tây (Edgar
Cayce). Tôi có xem truyện kư của người này, dường
như là ông ta chỉ học hết Sơ Trung (cấp hai),
chẳng có học vị ǵ. Năng lực của ông ta, nói
theo kinh Lăng Nghiêm, là do có linh quỷ dựa thân, chẳng
phải là năng lực [thật sự] của ông ta. Linh
quỷ ấy rất có duyên phận với ông ta, [duyên phận]
trong quá khứ hết sức tốt đẹp, cho nên linh
quỷ đến báo ân, đến giúp đỡ ông ta. Do vậy, năng lực của ông
ta quá nửa là [thể hiện] trong khi ngủ. Chẳng phải
là ông ta thôi miên người khác, mà là tự ḿnh ngủ. Trong
khi ngủ, người khác nêu ra câu hỏi, ông ta thuận
miệng trả lời, người khác thâu âm, ghi chép lại.
Sau khi ông ta tỉnh giấc, đem hỏi ông ta, chuyện ǵ
ông ta cũng đều
không biết. Người mắc nghi
nan tạp chứng ông ta đều có thể chữa khỏi.
Bác sĩ đă bỏ cuộc, chẳng có cách nào trị liệu,
t́m đến ông ta; ông ta dùng phương pháp này có thể
trị lành bệnh của người
đó. Ông ta t́m ra nguyên nhân gây bệnh, t́m
trong đời quá khứ, t́m được cái nhân gây ra bệnh. Ông ta có
năng lực ấy. Sau khi đă t́m ra, lại c̣n nói rơ với
người ấy, nghi lự trong ḷng người ấy buông
xuống. Đấy mới chính là cái gốc bệnh. Sau
khi đă hóa giải, người ấy chẳng có nghi lự.
Do vậy, kết luận cuối cùng chính là “hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng” như Phật pháp đă nói. Trong tâm quư vị
thật sự có hoài nghi, có nghi lự; đó chính là gốc
bệnh. Chuyện nghi lự thường là dính dáng đến
đời quá khứ.
Do
đó, Khải Tây kết luận, ông ta nói: “Người
trên toàn thể thế giới, bất cứ chuyện ǵ phát
sanh trong đời của bất cứ ai, chuyện lớn
hay nhỏ, chẳng có chuyện ǵ là ngẫu nhiên, đột
nhiên phát sanh, chẳng có nguyên nhân! Chẳng thể nào!” Nói cách
khác, bất cứ chuyện ǵ cũng đều có nhân duyên
trong đời quá khứ, có nhân duyên trong kiếp trước.
Nhân trong đời trước là như nhà Phật nói: “Muốn biết cái nhân trong đời
trước, những ǵ phải hứng chịu trong đời
này chính là nó. Muốn biết cái quả trong đời sau,
những ǵ đă làm trong đời này chính là nó”. Nhân quả
ba đời th́ quư vị mới có thể giải quyết
vấn đề. Y Tư Lan (Islam), tức là đạo Hồi,
nói nhân quả hai đời, nhưng tôi đọc kinh Cổ
Lan (Q’uran), vẫn thấy là nhân quả ba đời. Trong kinh Cổ
Lan có sáu tín điều cơ bản, một điều
trong ấy là “tin vào tiền
định”. Lời này nói rất hữu lư, nói suông tai.
Nếu chẳng có tiền định, Thượng Đế
tạo ra loài người, cớ sao tạo người này
hưởng phước, tạo ra kẻ kia chịu tội?
Chẳng phải là Thượng Đế rất không công
bằng ư? Há có lẽ ấy! Tin vào tiền định,
vấn đề này đă được giải quyết.
Thượng Đế tạo ra con người chẳng
do ư nghĩ của chính Ngài, [mà là] do tiền định.
Trong đời quá khứ, quư vị tu thiện, đời
này quư vị hưởng phước. Trong đời quá khứ
đă tạo tội nghiệp, đời này quư vị phải
chịu tội. Nói kiểu ấy xuôi tai, tin vào tiền định
mà! Đời này quư vị nghèo, giàu, sang, hèn, cát, hung, họa,
phước được định đoạt bởi
những nghiệp nhân do quư vị đă tạo trong đời
quá khứ. Điều này giống như Phật pháp đă
nói. Nói theo Phật pháp là nhân quả, chẳng phải là do Thượng
Đế ban cho quư vị, chẳng phải là do Phật, Bồ
Tát ban cho quư vị! Phật, Bồ Tát chẳng có năng lực
ban phước cho quư vị, mà cũng chẳng có năng lực
khiến cho quư vị chịu tội. Thật đấy! Cát,
hung, họa, phước là do nghiệp báo của chính quư vị!
“Tránh” (諍, tranh căi) là ác duyên, “phẫn
hận” là nghiệp nhân. Chúng tôi nghĩ tới nền giáo dục trong thế giới hiện thời. Năm
trước, học viện Ḥa B́nh thuộc đại học
Côn Sĩ Lan (Queensland) của Úc mời tôi tổ chức một
buổi tọa đàm dành cho các giáo sư của họ. Chủ
đề thảo luận là “làm
thế nào để hóa giải xung đột, xúc tiến
sự an định, ḥa b́nh trên thế giới?” Đề
mục này rất lớn. Trước đó, tôi nghe học
viện Ḥa B́nh báo cáo, mới biết tám đại học
trên khắp thế giới mở khoa này, mà đại học
Côn Sĩ Lan vẫn dẫn đầu trong tám đại học.
Sau sự kiện Mười Một tháng Chín, các giáo sư
trong học viện cảm thấy chiến tranh lạnh
hay nóng đều chẳng thể giải quyết vấn
đề; cho nên đă nghĩ có thể thay đổi phương
pháp hay không, vận dụng phương pháp ḥa b́nh. V́ thế,
vị Hiệu Trưởng cử hai giáo sư đến
Đồ Văn Ba (Toowoomba) kiếm tôi, mời tôi cùng đến
thảo luận vấn đề này.
Tôi
nghe báo cáo xong, [nhận thấy] cách nghĩ và cách làm của
họ chẳng t́m ra nguyên nhân thật sự gây nên xung đột.
Họ lại c̣n có quan niệm giải quyết vấn
đề lệch lạc. Họ cho rằng phương
pháp tốt nhất để tiêu diệt khủng bố là
trả đũa, dùng vũ lực, dùng giáng trả. Chúng ta
biết, dùng vũ lực, dùng báo thù th́ sự oán cừu càng
ngày càng kết sâu dầy hơn, đời
đời kiếp kiếp chẳng hết, chẳng xong. Nguyên nhân chánh yếu là
v́ quư vị cường đại, họ chẳng đánh
nổi quư vị. Đánh chẳng
nổi th́ người ta sẽ nghĩ
ra phương thức khác, tức là chiến tranh du kích, hoặc
chiến tranh khủng bố. Do vậy, tôi nói với họ,
đấy là một loại h́nh thái chiến tranh khác dành
cho các nước lớn, quư vị có vũ khí hạch
nhân, có hỏa tiễn, có xe tăng, nhưng thảy
đều chẳng dùng được. Cuộc chiến tranh
ấy quư vị hoàn toàn chẳng sử dụng được [những thứ vũ khí vừa kể
trên đây]. Trong một năm, hoạt động
khủng bố kiểu đó xảy ra dăm ba lượt, khiến cho ḷng người
trong cả nước bất an. Hằng ngày luôn sống
trong khủng bố, tinh thần của quư vị căng thẳng.
Người sống cuộc đời căng thẳng, dăm
ba năm thần kinh sẽ có vấn đề, họ
(đối thủ của quư vị) sẽ chiến thắng.
Quốc
gia của quư vị có một phần ba [dân chúng] mắc bệnh
thần kinh, hoặc có một nửa bị bệnh thần
kinh, như vậy th́ họ đă chiến thắng rồi!
Quư vị hăy suy ngẫm t́nh h́nh thực tế có phải đúng
như vậy hay chăng? Pḥng ngự chẳng nổi,
đấy là chuyện lớn, chẳng phải là chuyện
nhỏ! Nếu chẳng thể hóa giải chuyện này, họ
hỏi tôi, hoạt động khủng bố ước
chừng mất bao lâu mới có thể kết thúc? Tôi nói tối
thiểu là ba trăm năm, mọi người nghe nói
đều sững sờ! Thật đấy, chẳng giả!
Cổ nhân thường nói: “Oan
gia nghi giải bất nghi kết” (Oan gia nên
cởi gỡ, đừng nên thắt buộc). Nhất
định phải hóa giải, quyết định chẳng
thể dùng vũ lực, vũ lực chẳng thể giải
quyết vấn đề. Từ xưa tới nay, quư vị
nh́n vào lịch sử toàn thế giới, có chuyện nào có
thể giải quyết bằng chiến tranh? Mỗi lần
chiến tranh đều lưu lại hậu quả. Trong
lịch sử vẫn chưa có trường hợp nào [chứng
tỏ] chiến tranh [có thể] giải quyết vấn
đề! Chúng ta chớ nên không hiểu điều này.
Do
vậy, tôi hỏi một vị giáo sư già ngồi đối
diện với tôi. Tôi thấy tên ông ta được xếp
hàng thứ hai, [ông ta] phải là một vị giáo sư già
rất uyên thâm. Ông ta là người Mỹ. Tôi hỏi ông ta,
tôi nói: “Ở Mỹ, có phải là từ Mẫu Giáo, trẻ
con đă được bắt đầu dạy cạnh
tranh hay không?” Ông ta bảo: “Đúng vậy! Dạy cạnh
tranh từ nhỏ”. Tôi nói: “Ngài có biết hay không? Cạnh
tranh ở mức độ cao hơn, sẽ là đấu
tranh. Đấu tranh lại ở mức độ cao hơn,
sẽ là chiến tranh. Quan niệm giáo dục ấy chính là
đi theo tử lộ!” Ông ta nghe xong, ngẫm nghĩ, chẳng
đáp lời tôi. Sau đấy, tôi mới nói với ông ta,
ở phương Đông, giáo dục của Trung Hoa từ
bé dạy điều ǵ? Dạy lễ nghĩa, nhường
nhịn, nhượng bộ lẫn nhau, chẳng tranh chấp.
Hễ tranh chấp, nhất định là sẽ có thắng
bại. Kẻ thua chẳng cam ḷng, lẽ nào chẳng oán hận?
Kẻ thắng kiêu ngạo, cuồng vọng. Nói theo phía kẻ
thua, sẽ kích động sự tức giận, kích động
ḷng ganh tỵ của kẻ đó. Mâu thuẫn xung đột
trong xă hội sẽ nẩy sanh từ chỗ này. Phải nên
biết điều này. Đấy là vấn đề giáo dục, tùy thuộc
quư vị dạy dỗ theo cách nào.
Nói
đến giáo dục, so sánh với bất cứ quốc
gia, dân tộc nào trên cả thế giới, Trung Hoa xác thực
là bậc nhất. Nền giáo dục Trung Hoa có lịch sử
năm ngàn năm, kinh nghiệm năm ngàn năm, trí huệ
năm ngàn năm, phương pháp và hiệu quả năm ngàn
năm. Nếu quư vị xem kỹ lịch sử, sẽ có thể thấy quốc gia dân tộc này vĩnh viễn
là ḥa b́nh, nỗi bất hạnh nẩy sanh cũng bất quá là chuyện trong hơn một trăm năm
gần đây. Sau cuộc chiến tranh Nha Phiến, người
Hoa nẩy sanh niềm hoài nghi đối với truyền thống,
niềm nghi hoặc ấy là sai lầm. Tiếp đó, nhà Măn
Thanh suy bại, diệt vong, tiến vào đầu thời
Dân Quốc, quân phiệt cát cứ. Kế đó là chiến
tranh Trung Nhật, cuối cùng là Cộng Sản thống trị.
V́ thế, nền giáo học năm ngàn năm của Trung
Hoa bị cắt đứt như thế đó. Thời gian thật sự đứt đoạn đại khái là bảy, tám chục năm. Bảy,
tám chục năm không kể là dài, nhưng cũng chẳng
ngắn, hiện thời muốn cứu văn c̣n kịp. Hiện
thời chẳng cứu, nếu qua năm năm, mười
năm nữa, thần tiên cũng chẳng cứu
được, v́ sao? Chẳng có người.
Lứa
tuổi tôi c̣n dính líu mấp mé đôi chút với giáo dục
truyền thống, những kẻ nhỏ hơn tôi năm tuổi
sẽ chẳng dính dáng, dẫu mấp mé cũng chẳng
có! Nhưng một chút mấp mé ấy vẫn khởi tác dụng
rất lớn: Suốt đời này chẳng học theo điều
xấu, chẳng bị dụ dỗ, mê hoặc, chẳng bị
dao động bởi tiếng tăm, lợi dưỡng,
ngũ dục, lục trần, [toàn là] do cậy vào một
chút căn cơ ấy. Ngạn ngữ Trung Hoa có câu: “Tam tuế khán bát thập, thất
tuế khán chung thân” (Từ tính cách của một người
lúc ba tuổi, sẽ có thể thấy
tính cách vào lúc tám
mươi tuổi. Từ tính cách lúc bảy tuổi, có thể
thấy tính cách của con người suốt đời).
Xác thực là tôi được tiếp xúc bờ mé [của
nền giáo dục truyền thống] trước khi bảy
tuổi. Sau khi tôi đă bảy tuổi, sự giáo dục ấy
chẳng c̣n nữa, nền giáo dục tư thục đă
bị thay thế bởi nhà trường [công lập], chẳng c̣n những lễ tiết thời cổ, đă
đổi thành h́nh thức hiện đại. Khi đó, chúng
tôi vào trường tư thục gặp thầy bèn quỳ
lạy dưới đất. Về sau, nhà trường đă
thành lập, trông thấy thầy bèn khom ḿnh, chẳng quỳ
lạy nữa! Trong tư thục, hễ vào học, trước hết,
nhất định là phải hành lễ ba lần quỳ,
chín lần dập đầu trước Khổng Tử.
Vào trường học, chẳng có thứ lễ ấy. Từ xưa tới
nay, Trung Hoa là “lễ nghĩa
chi bang” (xứ sở lễ nghĩa). Nếu lễ bị
mất đi, bị sơ sót, sẽ chẳng có quy củ, sẽ chẳng có khuôn phép! Nếu con người chẳng có khuôn phép,
người ta có thể làm lành, có thể tạo ác. Nếu
chẳng có khuôn phép, họ sẽ hướng theo phía làm ác,
rất nhiều người nói “kẻ ấy ngay cả cầm thú vẫn chẳng
bằng!” Thật vậy! Quư vị thấy
hiện thời người tạo nghiệp rất nhiều!
Điểm
đặc sắc trong nền giáo dục Trung Hoa là gia
đ́nh, bắt đầu dạy từ lúc trẻ nhỏ
vừa mới được sanh ra. Ai dạy nó? Cha mẹ.
Tuy nó rất nhỏ, mới ra đời hai, ba ngày, vừa
mở mắt ra, nó có thể nh́n, tai nó có thể nghe. Những
lời nói, hành vi, cử chỉ của người lớn
đă tạo ấn tượng cho nó. Nói theo kiểu hiện
thời là “in vào năo”, nói theo Phật
pháp là “in vào A Lại Da Thức”.
“Thiểu thành nhược thiên
tánh, tập quán thành tự nhiên” (Tập thành
từ nhỏ sẽ giống như bẩm tánh, do thói quen mà
trở thành tự nhiên). Đấy là căn cội của
nó, sẽ dấy lên tác dụng rất lớn. Nếu căn
cội ấy sâu dầy, kiên cố, ba tuổi là nó đă có
năng lực phân biệt điều nào là tốt, điều
nào xấu, điều nào là đúng, điều nào là sai, nó
có năng lực ấy. Do vậy, nó sẽ chẳng học
theo điều xấu! Phải vun quén căn cội ấy
sâu xa, phải vun quén cho vững. V́ vậy, đây là chuyện
của người mẹ.
Trong
Ngũ Luân có “nam nữ hữu biệt”,
[ư nói] chức trách của người nữ nặng hơn
người nam chẳng biết bao nhiêu lần. Khổng Tử
là do mẹ Ngài dạy dỗ. Ngài ba tuổi, cha mất, mẹ
nuôi lớn khôn, mẹ Ngài đă dạy dỗ Ngài nên người.
Mạnh Tử cũng do mẹ dạy dỗ. Các bậc
khai quốc nhà Châu như Văn Vương, Vũ Vương,
Châu Công, có vị nào chẳng phải do mẹ dạy dỗ?
Hiện thời, người Hoa gọi vợ là “thái thái” (太太). Hai chữ Thái Thái do đâu mà có? Chính là do ba người
mẹ vĩ đại khai quốc của nhà Châu. Bà nội
của Châu Văn Vương là Thái Khương (太姜), mẹ Ngài là Thái Nhậm (太任), vợ Ngài là Thái Tự (太姒). Tên của ba vị ấy đều có chữ Thái.
Quư vị thấy phát xuất từ gia đ́nh họ, Châu Văn
Vương là con trai của Thái Nhậm, Châu Vũ Vương
là con trai của Thái Tự. Châu Công cũng là con của Thái
Nhậm. Do vậy, gọi là Thái Thái. Thái Thái là mẹ của
thánh nhân, bà ta có thể dạy [con cái] thành thánh nhân.
Nhà
Châu làm vua suốt tám trăm năm, là triều đại dài
nhất trong lịch sử Trung Hoa. Hoàng đế đời
cuối trái nghịch giáo huấn của tổ tiên, làm
ngược lại, nên mới mất nước. Nếu
có thể tôn sùng khuôn phép của tổ tiên, đều có thể
y giáo phụng hành, chỉ sợ cho tới thời đại
hiện thời, vẫn là nhà Châu! Khổng Tử hết sức
tán thán chế độ thời Châu. Chế độ ấy
do Châu Công định ra. Châu Lễ tương đương
với hiến pháp trong hiện thời. Thuở trẻ, tôi
thân cận tiên sinh Phương Đông Mỹ, thầy Phương
hết sức tán thán Châu Lễ. Cụ bảo tôi rất
nhiều lượt, bảo tôi phải đọc. Tôi có
mua sách ấy, nhưng chẳng đọc. Đối với
Tam Lễ[3], tôi chỉ đọc
Lễ Kư, chứ Châu Lễ và Nghi Lễ đều chẳng
đọc. V́ sau này, đă tiếp xúc Phật pháp, tôi cũng
chẳng mong làm chánh trị, cho nên chẳng có hứng thú sâu
đậm đối với chúng. Nhưng thầy đă nói
quá nhiều lần, tôi biết tầm trọng yếu của
bộ sách ấy. Thầy nói mấy ngàn năm qua, măi cho
đến hiện thời, chẳng có bất cứ một
bộ pháp điển nào có thể sánh bằng Châu Lễ! Thầy
Phương bảo tôi như thế đó!
Do
vậy, giáo học Trung Hoa là giáo dục ấu nhi, người
ngoại quốc chẳng nghĩ tới chuyện này. Cha mẹ
ở trước mặt con cái, trẻ thơ sanh ra vài ngày,
lời ăn tiếng nói và cử chỉ [của cha mẹ]
đều chẳng thể tùy tiện, hoàn toàn phải để
cho trẻ thấy, nghe, tiếp xúc, toàn là những thứ
chánh đáng. Nói cách khác, luân lư, đạo đức phải
do cha mẹ làm cho trẻ nhỏ thấy. Trẻ nhỏ từ
bé đă trưởng thành trong hoàn cảnh ấy, suốt
đời nó sẽ chẳng thay đổi. V́ thế, người
mẹ rất vĩ đại! Đời sau tôn xưng [người
vợ] là Thái Thái, danh từ Thái Thái tôn quư khôn sánh! Người hiện thời chẳng biết hai chữ
ấy do đâu mà có, cũng chẳng hiểu ư nghĩa thật
sự, [là v́] người hiện thời phạm lỗi
không đọc sách.
Ông
Thang Ân Tỷ (A. Toynbee) nói rất hay. Toàn thể xă hội
động loạn dường ấy, ḷng người bộp
chộp, xáo động, Nho và Phật đều nói đến
Tĩnh, đều nói đến Định. Nho gia bảo:
“Tri chỉ nhi hậu hữu định,
định nhi hậu năng tĩnh, tĩnh nhi hậu
năng an, an nhi hậu năng lự, lự nhi hậu
năng đắc” (Sau khi đă biết ngưng dứt,
sẽ có Định. Sau khi đă có Định bèn có thể
tĩnh. Tĩnh rồi sẽ có thể an. Đă an sẽ có
thể suy nghĩ, sau khi đă suy nghĩ sẽ có thể đạt
được). Lự là do trí huệ sanh khởi,
Định sanh Huệ. Nhà Phật gọi “tri chỉ” là Giới. Đă tri chỉ rồi th́ sẽ
có Định, nhân Giới đắc Định, nhân Định
khai Huệ.
Nếu
muốn cho xă hội khôi phục nề nếp b́nh thường,
xă hội xác thực vốn là hài ḥa, vũ trụ vốn
là hài ḥa. Tinh hệ là hài ḥa, địa cầu là hài ḥa. Tất
cả các sinh vật trên địa cầu vốn là hài ḥa,
v́ sao hiện thời lại loạn như thế? Ắt
là do tư duy, ngôn hạnh của những người sống
trên địa cầu lệch lạc, đi sai phương
hướng. Họ đi theo hướng nào? Đi theo
hướng ích kỷ. Ai nấy đều ích kỷ, ai cũng
muốn tổn người lợi ḿnh, lẽ nào chẳng
xung đột cho được? Làm sao
không oán hận cho được? Lẽ đâu chẳng trả
đũa cho được? Đấy mới là cái nhân thật
sự; cái nhân thật sự gây ra xung đột là ở
chỗ này. Hóa giải bằng cách nào? Để hóa giải
mà quư vị đ̣i hỏi đối phương hóa giải
trước th́ sẽ chẳng thể được! Sẽ
vĩnh viễn chẳng thể làm được! Thánh nhân
dạy mọi người: “Hành
hữu bất đắc, phản cầu chư kỷ”
(Có chuyện ǵ chẳng làm được, hăy quay lại xét
ḿnh). Chỉ có từ nội tâm của chính ḿnh, hóa giải
hết sạch ư niệm đối lập với hết
thảy người, hết thảy sự, hết thảy
vật, vĩnh viễn chẳng đối lập với
kẻ khác, vĩnh viễn chẳng đối lập với
sự, chẳng đối lập với hết thảy mọi
vật, cái tâm của quư vị sẽ b́nh lặng. Lại có
thể buông xuống hết thảy nghi lự, phân biệt,
buông xuống phiền năo, tâm quư vị sẽ thanh tịnh. V́
sao không thanh tịnh? Do ích kỷ, tiếng tăm, lợi
dưỡng, ngũ dục, lục trần,
tham, sân, si, mạn, tâm quư vị làm sao thanh tịnh cho nổi?
Tâm chẳng
thanh tịnh, trí huệ chẳng
sanh!
Trong
kinh Kim Cang, đức Phật đă nói rất hay: “Tín tâm thanh tịnh, tắc sanh Thật
Tướng” (Tín tâm thanh tịnh, sẽ sanh Thật
Tướng). Thật Tướng là trí huệ Bát Nhă. Kinh Hoa
Nghiêm nói rất hay: “Hết thảy
chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai”, trí huệ viên măn trọn đủ. Nói cách
khác, quá khứ, hiện tại, vị lai, cơi này, phương
khác, không ǵ chẳng biết. Là ai vậy? Là bản thân quư vị, là bản năng (本能, năng lực
sẵn có) của quư vị. Nay quư vị đánh mất năng
lực ấy, v́ sao bị mất? V́ quư vị có vọng
tưởng, có phân biệt, có chấp trước, chướng
ngại tồn tại! Quư vị có năng lực, “đức” (德) là năng
lực, thường nói là “vạn
đức vạn năng”, chẳng có thứ ǵ trong vũ
trụ mà quư vị không biết! Năng lực của quư vị
đi đâu rồi? Vẫn là do bị những thứ ấy
chướng ngại! “Tướng”
(相) là tướng
hảo, hiện thời nói là “phước
báo”. Tướng hảo của quư vị,
nói theo thân thể, th́ thân có vô lượng tướng, mỗi
tướng có vô lượng hảo, chẳng phải chỉ
là ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo!
Tướng hảo bị mất đi! Đối với
hoàn cảnh sống, quư vị đọc kinh Di Đà, đọc
kinh Hoa Nghiêm, quư vị nh́n vào sự hưởng thụ vật
chất trong thế giới Cực Lạc, thế giới
Hoa Tạng. Chẳng cần nói chi khác, nói đến đất
th́ “hoàng kim vi địa” (vàng
ṛng làm đất), vàng ṛng dùng để lót đường!
Đường sá trong cơi đất hiện thời của
chúng ta là đường trải nhựa, thế giới Tây
Phương là vàng ṛng lót đường. Vật liệu
để xây dựng cung điện là bảy báu, chẳng
phải là gỗ. Quư vị nghĩ phước báo ấy to
cỡ nào! Đều là những thứ quư vị vốn sẵn
có, vốn trọn đủ, nay đều bị mất đi, nguyên nhân là do vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, đời đời kiếp
kiếp bị hại thê thảm, quư vị vẫn chẳng
biết!
Đức
Phật dạy chúng ta: Chỉ cần quư vị buông xuống,
[những đức năng, tướng hảo ấy] sẽ
ngay lập tức hiện tiền. V́ thế, buông xuống
chấp trước, chẳng c̣n chấp trước hết
thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, người
ấy sẽ chứng quả A La Hán, vượt thoát lục
đạo, phước báo ấy to lớn. Nếu buông xuống
phân biệt, chẳng c̣n
phân biệt hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian, sẽ chứng quả vị Bồ
Tát. Lại tiến cao hơn một tầng nữa, buông xuống
vọng tưởng, vọng tưởng là khởi tâm
động niệm, quư vị sẽ nhập cảnh giới
Hoa Tạng, sẽ là Thường Tịch Quang Tịnh
Độ hoặc Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Độ trong
thế giới Cực Lạc.
Đức
Phật nói lời thật cùng chúng ta: Mê là do chính quư vị mê,
ngộ cũng là do chính quư vị ngộ. Phật [có muốn]
giúp đỡ dẫu bằng
mảy may cũng không được!
Đức Phật chỉ bảo quư vị: “Ta đă buông
xuống, thảy đều đạt được. Nếu
quư vị buông xuống, sẽ giống như ta, quư vị cũng
sẽ đạt được”. Đấy là chân tướng
sự thật, kinh Bát Nhă [gọi chân tướng ấy] là
“chư pháp Thật Tướng”.
Quư vị mới có thể thật sự thấu hiểu, khế nhập
cảnh giới này, sẽ là như trong giáo pháp Đại
Thừa thường nói: “Mười
phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân”.
Câu nói này có nghĩa là ǵ? Toàn thể thân tâm của quư vị
và vũ trụ dung hợp thành một Thể, chẳng có sanh
diệt. Điều này được gọi là Đại
Bát Niết Bàn, chẳng có sanh diệt! Trung Quán Luận nói: “Bất sanh, bất diệt, bất
lai, bất khứ, bất thường, bất đoạn,
bất nhất, bất dị” (Chẳng
sanh, chẳng diệt, chẳng đến, chẳng đi, chẳng
thường, chẳng đoạn, chẳng một, chẳng
khác). Nói đến tám cái Bất, đấy chính là chân
tướng sự thật. Do vậy, căn bệnh là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.
Chẳng buông những thứ ấy xuống, quư vị sẽ
chẳng thể nhập thế giới chân thật, vĩnh
viễn cách biệt chân tướng của thế giới
ấy một tầng. Bất luận là từ vật lư
hay từ tâm lư, đều chẳng được! V́ thế,
bí quyết giáo học của nhà Phật là “thấy thấu suốt, buông xuống”, Chương
Gia đại sư dạy tôi điều này, chúng ta dễ
hiểu. Nếu dùng danh từ Phật học, đôi khi chúng
ta mê hoặc, đâm ra khó hiểu! Nhà Phật nói là Chỉ
Quán. Quán là “thấy thấu suốt”,
Chỉ là “buông xuống”. Hoặc
là như nhà Thiền nói Tĩnh Lự, Tĩnh là buông xuống,
Lự là thấy thấu suốt. Chúng ta thấy Nho gia nói
đến chuyện này, tuy chẳng tinh vi như nhà Phật,
nhưng cũng là có nhắc đến.
Truyền
thống giáo dục của Trung Hoa lấy Nhân (ḷng nhân từ) làm gốc. Ai muốn thật sự đạt
được hạnh phúc mỹ măn trong một đời,
phải dùng điều này làm quan niệm cốt lơi cho sự
giáo học. V́ thế, người Hoa nói đến “phước” th́ thuở thiếu
niên, giáo dục nhằm vun quén căn cội cho quư vị. Căn
cơ của phước đức [được vun
đắp] trong tuổi thiếu niên. Người
phương Tây cũng khẳng định, tôi đọc
những lời bàn luận của ông Thang Ân Tỷ (A. Toynbee), ông
ta cũng có đề cập: “Nhân
cách nhất định phải được bồi
dưỡng trước bảy tuổi”. Điều này
hoàn toàn giống như quan niệm của cổ thánh tiên hiền.
Người Hoa nói: “Tam tuế khán
bát thập, thất tuế khán chung thân”, hoàn toàn tương
ứng với quan niệm của ông Thang Ân Tỷ, giống
như xây nhà vậy. Dàn khung của căn nhà, kết cấu
khung đỡ phải hoàn thành trước khi bảy tuổi.
Sau bảy tuổi, [những thứ thêm vào] sẽ là những
thứ trang hoàng, thuộc về bề ngoài, là trang sức
cho nội quan, [nội quan] phải chắc thật. Phải
dựng khung nhà kỹ lưỡng trước, quư vị nói
xem, có trọng yếu lắm hay không?
Hiện
thời, những thứ ấy đă bị chúng ta vứt
bỏ gần tám mươi năm. Hiện thời, phải
thực hiện chuyện khôi phục từ ở chỗ này.
Đối với giáo học trong hiện tại, chúng tôi
đề xướng Đệ Tử Quy, đề
xướng Thập Thiện Nghiệp Đạo. V́ sao? Đấy
là căn bản của căn bản, là kết cấu
khung nhà. Đệ Tử Quy là kết cấu khung nhà của
Nho gia, Thập Thiện Nghiệp Đạo là kết cấu
khung nhà của Phật pháp. Đối với ư kiến do ông
Thang Ân Tỷ đă nêu ra, tôi cũng thêm vào một dấu hỏi:
“Nho thật sự có thể cứu văn thế giới này ư?
Phật thật sự có thể cứu chúng sanh ư?” Quư vị
thấy hiện thời người học Phật bao nhiêu,
hiện thời người học Nho cũng không ít, họ
có thể cứu văn thế giới ư? Họ có thể
giải quyết vấn đề trước mắt hay
chăng? Hễ hỏi điều này, mọi người
đều nghi hoặc, v́ sao? Hễ nói tới Nho, nhất
định sẽ nghĩ tới Tứ Thư, Ngũ Kinh, hoặc
mười ba kinh. Nói tới Phật, nhất định
nghĩ đến Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, những kinh giáo Đại
Thừa giống như vậy. Không được rồi,
đó là những món trang sức của chúng (Nho và Phật),
là cành, lá, hoa, quả của chúng, quư vị phải t́m cho ra
cội rễ. Chẳng thấy cội rễ chôn vùi trong bùn
đất.
Cội
rễ của Phật là Thập Thiện Nghiệp Đạo,
cội rễ của Nho là cội rễ của nền giáo
dục truyền thống Trung Hoa. Nho kế thừa truyền
thống giáo học của Trung Hoa. Cội rễ chính là Ngũ
Luân, Ngũ Thường, Bát Đức. Luân thường đạo
đức được ứng dụng trong cuộc sống
hằng ngày qua xử sự, đăi người, tiếp vật
chính là Đệ Tử Quy. Quư vị mới biết thứ
này quan trọng. Nếu quư vị nghiêm túc học hai thứ
này, [sẽ là] chúng sanh có phước, có thể giúp đỡ,
có thể tiếp nhận, thế giới này c̣n được
cứu. Chúng sanh thật sự chẳng có phước th́
[tối thiểu là] chính ḿnh được cứu giúp. V́ sao?
Dẫu thế giới này hủy hoại, đấy là chuyện
thường có. Chúng sanh đều bị tiêu diệt, hủy
diệt, nhưng linh tánh bất diệt. [Cái bị] hủy
diệt là thân thể, thân chẳng phải là ta. Linh tánh bất
diệt, linh tánh tiến cao hơn, chẳng bị đọa
xuống. Nếu quư vị có ư niệm ấy, tức là tư
tưởng ư niệm ấy bất chánh, quư vị tạo ác
nghiệp, đă trái nghịch tâm tánh, vậy là quư vị sẽ bị
đọa lạc, sai mất rồi! Tư tưởng và
ngôn hạnh của quư vị phải luôn tương ứng
với bản tánh, bản tánh vốn lành. Quư vị thấy
Tam Tự Kinh nói: “Nhân chi sơ,
tánh bổn thiện” (Con người thoạt đầu
tánh vốn lành). Bản tánh vốn là lành, hết thảy những
thứ bất thiện chính là tập tánh, chẳng phải
là bản tánh! Phàm tư tưởng và hành vi tương ứng
với bản tánh, quư vị nhất định sẽ tăng
tấn cao hơn. Đó là chuyện tốt đẹp, chẳng
phải là chuyện xấu; nhưng phải thật sự
hiểu rơ đạo lư này, giống như cây to hoặc trụ
lớn có thể gánh vác, nâng đỡ, gánh lấy gánh nặng,
giúp quư vị tăng tấn cao hơn từng cấp một!
Quư
vị nh́n vào nguyện này, nhất định phải thực
hiện từ chính ḿnh, hóa giải đối lập, hóa giải
nghi lự, hóa giải mâu thuẫn, hóa giải sự chiếm
hữu trong nội tâm của chính ḿnh; trong khi giảng
kinh, chúng tôi thường xuyên nhắc tới điều này.
Chớ nên có những ư niệm ấy, các ư niệm ấy
chắc chắn sẽ gây thương tổn nghiêm trọng
cho chính ḿnh. A! Hôm nay đă hết thời gian rồi! Chúng tôi
giảng tới chỗ này!
***
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Xin xem bài kệ thứ ba kế tiếp:
(Kinh)
Nhược kiến tùng lâm, đương nguyện chúng sanh,
chư thiên cập nhân, sở ưng kính lễ.
(經)若見叢林。當願眾生。諸天及人。所應敬禮。
(Kinh: Nếu thấy rừng rậm, nguyện cho
chúng sanh, chư thiên và người, đáng nên kính lễ).
“Tùng lâm” (叢林) là khá nhiều
cây cối mọc cùng một chỗ. Nó đă hiện tướng,
đem lại một sự khải thị, tức là [khải
thị về] sự hoạt động xă hội của nhân
loại. Trong rừng rậm, nếu chúng ta quan sát kỹ
lưỡng, [sẽ thấy] cây cối đều cùng thuộc
một loại, rất ít có giống khác mọc xen tạp. Đấy chính là như kinh Dịch đă
nói: “Vật dĩ loại tụ,
nhân dĩ quần phân” (Vật tụ theo từng loại,
con người chia thành nhóm). Do vậy, ngay cả thực vật
đều mọc theo từng loại một, h́nh thành giống
như một đoàn thể. [Điều này đă] ban cho chúng
ta một khải thị, con người là động vật
mang tánh chất sống thành bầy đàn trong xă hội.
Trong sự quần cư (群居, sống
thành từng bầy, từng nhóm), điều quan trọng nhất
là ḥa thuận. Ngạn ngữ Trung Hoa có câu: “Thiên thời chẳng bằng địa lợi,
địa lợi chẳng bằng nhân ḥa”; trong giáo học
truyền thống của tổ tiên, “ḥa vi quư”.
Phật
pháp càng coi trọng cư xử ḥa thuận. Tăng đoàn
Phật pháp, bốn người sống cùng với nhau, cùng
tu, phải nên tuân thủ Lục Ḥa Kính. Đức Phật
nói Lục Ḥa, điều thứ nhất là Kiến Ḥa Đồng
Giải, điều thứ hai là Giới Ḥa Đồng Tu,
[những điều c̣n lại là] Thân Ḥa Đồng Trụ,
Khẩu Ḥa Vô Tránh, Ư Ḥa Đồng Duyệt, và Lợi Ḥa
Đồng Quân, nói sáu điều. Cổ thánh tiên hiền nói
ba điều, tức là nói đến Thái Ḥa (太和), Trung Ḥa
(中和) và Bảo
Ḥa (保和). Đại
vũ trụ là Thái Ḥa. Giữa con người với nhau,
con người và trời đất, vạn vật cư
xử ḥa thuận, điều này thuộc về Trung Ḥa. Làm
thế nào để ǵn giữ mối quan hệ này dài lâu,
đấy là Bảo Ḥa. Thật sự làm được
ba điều Ḥa ấy, sẽ là thánh nhân, chẳng phải
là phàm nhân. Làm được ba món Ḥa viên măn, chẳng thiếu
khuyết mảy may,
thưa cùng chư vị, tức là thế
giới Hoa Tạng, thế giới Cực Lạc mới
có thể làm được. Thánh nhân nêu ra cho chúng ta [thấy
biết điều này], cho nên mới nói “ḥa vi quư”.
Thực
hiện từ chỗ nào? Thực hiện từ nội tâm.
Nội tâm bất ḥa, hễ chúng ta có ư niệm ích kỷ sẽ
bất ḥa, nội tâm sẽ bất ḥa. Có cái tâm danh lợi,
nội tâm sẽ bất ḥa. Có tham, sân, si, sẽ bất ḥa.
Nội tâm bất ḥa, thân thể sẽ không khỏe mạnh.
Đặc biệt là tham, sân, si, đức Phật gọi
chúng là Tam Độc. Vi khuẩn gây bệnh nghiêm trọng
nhất trong thế gian chính là những thứ này. Do bên trong
có tham, sân, si, hễ bên ngoài vừa mới có một chút ô
nhiễm, quư vị mới có thể cảm nhận ô nhiễm.
Nếu quư vị chẳng có tham, sân, si, sẽ chẳng cảm
nhận những thứ bên ngoài. Nói theo y học hiện thời,
người ấy có năng lực miễn dịch, chẳng
bị cảnh giới bên ngoài lây nhiễm. Từ bi có thể
giải độc; v́ thế, nói theo lư luận, lẽ ra
con người chẳng bị mắc bệnh. Hễ bị
bệnh, chắc chắn là tư tưởng và kiến giải
của quư vị có sai lầm. Nếu quư vị có thể hoàn
toàn tùy thuận thiên nhiên, thiên nhiên là Thái Ḥa, Trung Ḥa và Bảo Ḥa; đức Phật đă dạy điều
này hết sức rơ ràng, hết sức thân thiết, đó
là Lục Ḥa.
Thái
Ḥa, Trung Ḥa và Bảo Ḥa chính là điều thứ nhất,
tức là Kiến Ḥa Đồng Giải trong Lục Ḥa, bao
gồm trong ấy. Thực hiện bằng cách nào? Đức
Phật đă dạy rất cụ thể, ba điều
sau đó là để thi hành. Giới Ḥa Đồng Tu, quư vị
nhất định phải giữ quy củ. Trong Phật pháp,
đấy chính là nói đến Thập Thiện Nghiệp
Đạo, Tam Quy, Ngũ Giới, giới tỳ-kheo, giới
Bồ Tát, ắt cần phải tuân thủ. Lại tiến cao hơn, thoát ly mười
pháp giới, trở về Nhất Chân pháp giới, có c̣n phải
tuân thủ những quy luật ấy hay không? Phải! Quy
luật là ǵ? Mười nguyện Phổ Hiền. Nay chúng
ta học tập một trăm bốn mươi mốt
nguyện trong phẩm Tịnh Hạnh, chẳng phải là
mười pháp giới, mà là Nhất Chân pháp giới; do vậy,
lư này cũng rất sâu. Ai nấy đều tin tưởng,
vâng giữ, xă hội này sẽ ḥa thuận lắm!
Triết
học Trung Hoa có nói “ḥa khí sanh
tài”, lời này là thật, chẳng giả! Người
hiện thời hoài nghi, ḥa khí th́ của cải do đâu mà
có? Thật sự có! Nếu quư vị nắm vững nguyên
lư, sẽ chẳng hoài nghi. Nguyên lư là ǵ? Hết thảy các pháp
sanh từ tâm tưởng. Của cải là to tâm tưởng
biến hiện, có thể biến bùn đất thành vàng ṛng
hay không? Thưa cùng chư vị, có thể chứ! Vật
chất trọn chẳng phải là chân thật, khoa học
hiện thời đă hiểu [điều này]. Tất cả
vật chất bất quá là do công thức cấu tạo khác
nhau mà thôi; thật ra, vật chất cơ bản giống
hệt như nhau. Có nghĩa là ngày nào đó, quư vị có năng
lực khiến cho tất cả vật chất biến hóa
thuận theo ḷng mong muốn, vậy là được rồi,
cảnh giới này sẽ hiện tiền. Ở nơi đâu?
Thế giới Cực Lạc là như thế đó, thế
giới Hoa Tạng là như thế đó. Dân cư bên ấy
thuận theo ḷng mong
muốn, tâm tưởng, sự thành, chẳng
cần lo toan, chẳng cần tạo tác, há có phải sống
vất vả như loài
người chúng ta, chẳng cần! Ḥa khí sanh
tài là thật, chẳng giả! Do quư vị bất ḥa, bản
thân quư vị cũng bất ḥa. Một kẻ thường
cáu giận, đối xử tốt với kẻ này,
đối xử tệ với kẻ kia, sẽ là bất
ḥa. Nếu thật sự ḥa, do ḥa sẽ b́nh, quư vị
đối với hết thảy người, hết thảy
sự, hết thảy vật, chắc chắn là b́nh đẳng,
do vậy là ḥa. Bất b́nh th́ lấy đâu ra ḥa? Bất
b́nh cũng chẳng thanh tịnh, trong ấy có đạo
lư to lớn.
Trông
thấy rừng cây, bèn nghĩ đến rất nhiều người
tụ tập cùng một chỗ; do vậy, vào thời cổ, đạo
tràng của Phật giáo được gọi là Tùng Lâm. Khá nhiều
người tu hành cùng một chỗ, ở chung một chỗ,
sinh hoạt với nhau, giống như rừng cây vậy.
Do vậy, trông thấy rừng cây, khi quư vị đi khất
thực, nhất định sẽ gặp phải, [điều
ấy] dẫn phát hoằng nguyện của Bồ Tát, “chư thiên cập nhân, sở ưng
kính lễ” (chư thiên và người, đáng nên kính lễ).
Niệm nào cũng đều chớ nên quên mất chữ
Kính này! Phàm phu khác Phật, Bồ Tát ở chỗ nào? Phật,
Bồ Tát thời thời khắc khắc ǵn giữ “lễ kính chư Phật”. Hoa
Nghiêm là cảnh giới Phổ Hiền. Tỳ Lô Giá Na Phật
trong kinh Hoa Nghiêm biểu thị bản thể của vạn
hữu trong vũ trụ. Tỳ Lô Giá Na Phật chẳng có
h́nh tướng, [Ngài chính là] Pháp Tánh. Tuy chính Ngài
chẳng có h́nh tướng, Ngài có thể hiện hết thảy
hiện tướng, có thể biến hết thảy hiện
tướng, đó là ǵ? Đấy là Ngài khởi tác dụng.
Có Thể, sẽ có Dụng; hễ có Dụng, sẽ có thể
hiện tướng. Do vậy, Tỳ Lô Giá Na tượng
trưng cho Lư Thể. Xét đến ư nghĩa của Tỳ
Lô Giá Na (Vairocana), [Tỳ Lô Giá Na] là tiếng Phạn, có nghĩa là Biến
Nhất Thiết Xứ (遍一切處, trọn khắp hết thảy mọi nơi), đương
nhiên cũng là trọn khắp hết thảy các thời, có
ư nghĩa này. Trọn khắp hết thảy mọi nơi
đấy nhé! Nói thật ra, ngay cả hư không cũng do
nó (Pháp Tánh) biến hiện. Các nhà vật lư học hiện
thời đă dần dần phát hiện: Hư không cũng
chẳng phải là thật. Thời gian và không gian đều
chẳng phải là thật. Rất khó có! Và cũng là khá thông
minh, họ đă phát hiện. Từ mấy ngàn năm trước, đức Phật đă dạy [chuyện này] rất
rơ ràng.
Nó
khởi Dụng (tác dụng), Dụng là do hai cương lănh,
một là Giải, hai là Hạnh, hai môn Giải và Hạnh. Giải
thuộc về trí huệ, lư giải, chúng ta thường gọi
nó là ǵ? Phật Tánh. Nói Pháp Tánh th́ Pháp Tánh là Tổng, nói Pháp
Tánh là nói đến Lư Thể. Nói Phật Tánh là nói đến
trí huệ vốn sẵn có trong Pháp Tánh! Chúng ta gọi trí huệ
Bát Nhă là Phật Tánh. Phật Tánh là giác tánh, Bổn Giác. Khởi
Tín Luận bảo: “Bổn Giác
vốn có”. Bổn Giác là Phật Tánh; v́ thế, hết
thảy hữu t́nh chúng sanh đều có Phật Tánh, Bổn
Giác vốn có mà! Mê: Mê là bất giác, “bất giác vốn không”. V́ thế, Bất Giác là tập
tánh. Cổ nhân nói “bản tánh vốn
thiện”, thiện ở đây chẳng phải là thiện
trong thiện ác. Thiện theo kiểu thiện ác là tập tánh,
chẳng phải là bản tánh! Trong bản tánh chẳng có
thiện hay ác, đấy mới là chân thiện. Thiện và
ác đều chẳng có, nó mới thật sự thanh tịnh.
Hễ có thiện và có ác th́ đă bị nhiễm bẩn. Nó
thật sự thanh tịnh, b́nh đẳng, chẳng phải
là tương đối, chúng ta phải hiểu điều
này. Hạnh môn là sự t́nh thiên biến vạn hóa; thiên biến
vạn hóa nơi mặt Sự quư vị đều có thể lư giải. Có thể
lư giải, đó là một phần Giác, một phần trí huệ;
do vậy, đó là Phật Tánh. C̣n như thiên biến vạn
hóa, danh từ sẽ là Pháp Thân: “Mười
phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân”.
Trong
kinh Hoa Nghiêm, vị biểu thị trí huệ chính là Văn
Thù Bồ Tát, vị biểu thị Hạnh Môn chính là Phổ
Hiền Bồ Tát. Hoa Nghiêm coi trọng Hạnh, nên xếp Phổ
Hiền Bồ Tát hạng nhất, Văn Thù Bồ Tát xếp
hàng thứ hai. Trong nghi thức, chúng ta thấy cách xếp
đặt h́nh tượng Phật, Bồ Tát, thờ phụng
tượng Phật trong Phật môn, nhất định là
một vị Phật, hai vị Bồ Tát. Đức Phật
biểu thị bản thể, hai vị Bồ Tát th́ một
vị biểu thị Giải Môn, vị kia biểu thị
Hạnh Môn. Quư vị nh́n vào cách thờ phụng, sẽ biết:
Một vị biểu thị Giải Môn, vị kia biểu
thị Hạnh Môn. Quư vị nh́n vào cách thờ phụng của
họ, sẽ biết tông phái ấy chú trọng Hạnh Môn
hay là Giải Môn, vừa thấy sẽ biết ngay.
Trong
Tịnh Độ Tông, quư vị thấy Quán Thế Âm Bồ
Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát: Quán Thế Âm Bồ
Tát được xếp vào thượng vị, Đại
Thế Chí Bồ Tát xếp tại hạ vị. Vừa thấy
bèn biết tông phái này coi trọng Hạnh. Quán Thế Âm Bồ
Tát biểu thị Hạnh, Đại Thế Chí Bồ Tát biểu
thị Giải, biểu thị trí huệ. Đối với
cách thờ trong tông Hoa Nghiêm, quư vị nh́n vào, thấy Văn
Thù Bồ Tát được xếp thứ nhất, Phổ
Hiền Bồ Tát được xếp sau đó, [sẽ
biết] tông Hoa Nghiêm thuộc về Giáo Hạ, coi trọng Giải Môn,
đă giải rồi mới tu. Tịnh Tông chẳng phải
[như vậy], Tịnh Tông vừa mở đầu đă
coi trọng tu, vừa tu vừa cầu giải, xếp tu vào
hàng đầu. Quư vị nh́n vào cách thờ h́nh tượng,
sẽ thông hiểu. Như trong cách thờ của tông Thiên
Thai, tông Thiên Thai thờ Thích Ca Mâu Ni Phật chính giữa,
hai vị tôn giả th́ một là thờ A Nan, vị kia là thờ
Ca Diếp. A Nan được thờ ở vị trí
thượng thủ, Ca Diếp thờ tại vị trí hạ
thủ. Vừa nh́n bèn biết họ coi trọng Giải Môn.
Giải trước đă, trước Giải sau Hạnh.
Giáo Hạ đều là “Giải
trước, Hạnh sau”. V́ thế, quư vị nh́n vào cách
thờ tượng Phật, sẽ biết tông phái ấy
thiên về môn nào. Hai môn Giải và Hạnh đều trọng
yếu.
Tuy
vậy, từ đầu cho đến chỗ này của
kinh Hoa Nghiêm, toàn là do Văn Thù Bồ Tát biểu thị pháp,
Văn Thù Bồ Tát đóng vai tṛ chủ đạo. Phẩm
kinh này tuy do Trí Thủ Bồ Tát nói, Văn Thù Bồ Tát nêu câu
hỏi, nêu ra khá nhiều câu hỏi, Trí Thủ Bồ Tát giải
đáp từng chuyện một[4].
Do vậy, nói theo cách hiện thời, Văn Thù Bồ Tát là
người chủ tŕ. Nhưng đến phần cuối
cùng của kinh, “mười
đại nguyện vương hướng dẫn về
Cực Lạc”. V́ thế, cổ nhân nói Hoa Nghiêm là Đại
Bổn của kinh Vô Lượng Thọ, rất có lư! Nếu
chúng ta đối với Tịnh Độ chẳng đủ
tín tâm, hoài nghi, hăy nên làm như thế nào? Học Hoa Nghiêm. Hoa
Nghiêm nói cặn kẽ, nói minh bạch. Tôi nẩy sanh tín tâm đối
với Tịnh Độ, xác thực là do Hoa Nghiêm. Nếu
chẳng đọc Hoa Nghiêm, từ đầu đến
cuối sẽ đánh dấu hỏi đối với Tịnh
Tông. Nghi vấn là chướng ngại lớn nhất cho người
tu hành.
Nhưng
trong Hạnh Môn, quan trọng nhất là học từ chỗ
nào? Chuyện này không chỉ là trong Phật pháp, ngay cả
pháp thế gian cũng chẳng phải là ngoại lệ. Chúng
ta làm người, cầu học, tu hành th́ bắt đầu
từ nơi đâu? Ngay từ một chữ Kính. Quư vị
nh́n vào truyền thống Nho gia, câu đầu tiên trong Lễ
Kư là “Khúc Lễ viết, vô bất
kính” (Khúc Lễ nói: “Không ǵ chẳng kính”). Trong các sám nghi,
tức các nghi thức sám hối để bái sám, câu đầu
tiên là “nhất thiết cung
kính, nhất tâm đảnh lễ”. Quư vị thường
thấy câu ấy, sẽ biết nhập môn từ nơi ấy.
Có người hỏi Ấn Quang đại sư, có bí quyết
để khế nhập cảnh giới của Phật
hay không? Ấn Quang đại sư bảo “có”, bí quyết
là ǵ? Thành kính. “Một phần
thành kính được một phần lợi ích, mười
phần thành kính được mười phần lợi
ích”. Quư vị học Phật mà chẳng đạt
được ǵ là do quư vị chẳng có công phu thành kính. “Thành” (誠) là chẳng có hư ngụy.
Phật
pháp bảo “trực tâm là đạo
tràng”, Khởi Tín Luận nói đến Bồ Đề
tâm, đầu tiên là “trực
tâm”. Trực tâm là chân tâm, là Thể của Bồ Đề
tâm. Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật giảng về Bồ
Đề tâm, gọi cái Thể của Bồ Đề tâm
là “chí thành tâm”. Luận (Khởi Tín Luận) gọi chí thành tâm là “trực
tâm”. Trực tâm là chí thành tâm, chân thành. Có Thể, đương
nhiên là có Dụng, đức Phật giảng cặn kẽ:
Dụng có Tự Thọ Dụng và Tha Thọ Dụng, tức
là chúng ta dùng cái tâm ǵ đối với chính ḿnh, dùng cái tâm
như thế nào để đối đăi kẻ khác.
Đối với chính ḿnh th́ gọi là thâm tâm, đối với
người khác th́ gọi là đại bi tâm. Nói cách khác, đối
với người khác phải đại từ đại
bi, đối với chính ḿnh phải thâm tâm. Thâm tâm là ǵ? Rất
khó nói cho rơ ràng! Tôi đọc các bản chú giải của
khá nhiều vị tổ sư đại đức từ
xưa, tôi thấy cũng rất khó vừa ḷng, càng xem càng mê
hoặc, càng giảng người ta càng nghe
không hiểu. Về sau, tôi đọc kinh Vô Lượng Thọ,
đột nhiên hiểu rơ. “Thanh
tịnh, b́nh đẳng, giác” trong tựa đề kinh
Vô Lượng Thọ chính là thâm tâm. Do vậy, đối với
chính ḿnh, phải ǵn giữ cái tâm thanh tịnh, phải ǵn
giữ cái tâm b́nh đẳng, ǵn giữ cái tâm giác, giác chứ
không mê. Đấy là thâm tâm.
Tôi
giảng “Bồ Đề tâm”
thành mười chữ, “chân
thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi”, những
điều này mọi người dễ hiểu. Chúng ta khởi
tâm động niệm đều có thể tương ứng
với năm điều ấy, đó gọi là “phát Bồ Đề tâm”. Nếu
quư vị khởi tâm động niệm trái nghịch với
những điều ấy, sẽ chẳng có Bồ Đề
tâm. Chẳng có Bồ Đề tâm th́ là luân hồi tâm. Trên
cơ bản, quư vị là hư ngụy. Hư ngụy không
chỉ là đối với kẻ khác, mà đối với
chính ḿnh cũng hư ngụy, mê mất bản thể của
cái tâm Bồ Đề. Mê mất bản thể,
đương nhiên cái tâm của quư vị sẽ chẳng thanh
tịnh. Quư vị có tham, sân, si, mạn, có ḷng ích kỷ, có
thị phi, nhân ngă, có tham cầu hưởng thụ ngũ
dục, lục trần, tâm quư vị chẳng thanh tịnh.
Quư vị có cái tâm cao thấp, có kiêu căng, ngă mạn, tâm quư
vị bất b́nh đẳng. Quư vị chẳng thể
đối đăi chúng sanh một mực nhân từ như
nhau, ta đối với con người th́ rất b́nh
đẳng, nhưng đối với muỗi, ruồi, kiến
th́ có b́nh đẳng hay không? Đối
với muỗi, ruồi, kiến cũng b́nh đẳng; đối
với các thứ bùn, đất, cát có b́nh đẳng
hay không? Đối với khoáng vật cũng phải b́nh
đẳng, chẳng dễ dàng! V́ sao b́nh đẳng? Cùng
do Pháp Tánh biến ra! “Duy tâm sở
hiện, duy thức sở biến”, cùng một tánh thức.
Do vậy, kinh Hoa Nghiêm nói: “T́nh
và vô t́nh, cùng viên thành Chủng Trí”, nói rất viên măn. “T́nh” là hữu t́nh chúng sanh, [bao
gồm] nhân loại, bao gồm động vật, đều
xem như có t́nh cảm. Nay chúng ta nói vô t́nh là thực vật,
khoáng vật, và hiện tượng tự nhiên. Cùng viên thành
Chủng Trí: “Viên” là viên măn, Chủng
Trí là thành Phật, đạt đến địa vị Phật
rốt ráo, làm sao có thể khinh dễ cho được? Làm
sao có thể chẳng có tâm cung kính?
Phổ
Hiền Bồ Tát dạy chúng ta, trong Hạnh Môn, Ngài đă
quy nạp vô lượng hạnh nguyện thành mười
loại lớn. Loại thứ nhất là “lễ kính chư Phật”. Chẳng làm được
điều này, sẽ chẳng đạt đến Phật
pháp giới [là pháp giới] cao nhất trong mười pháp
giới! Người nào có thể làm được? Pháp
Thân Bồ Tát, Ngài đă vượt thoát mười pháp giới,
trụ trong Nhất Chân pháp giới, có thể làm được.
C̣n có một pháp môn đặc biệt, văng sanh thế giới
Cực Lạc sẽ có thể làm được. Nay chúng
ta học tập, mức độ thấp nhất phải
giống như Nho gia đă nói: “Phàm
là người, đều phải nên yêu thương”.
Quư vị có thể làm được điều này đôi chút đă là khá lắm rồi. Tuy chưa thể viên măn, tuy chẳng thể đạt
tới mục tiêu, nhưng có cùng một phương hướng,
đấy là điều hết sức khó có, hết sức
đáng quư. Quư vị có thể yêu thương người khác,
sẽ chẳng thể hại người. Quư vị có thể yêu thương
người khác, sẽ tôn kính người khác. Quư vị có
thể yêu thương con người, sẽ có thể chăm
lo cho người khác, tự nhiên có thể giúp
đỡ người khác.
Tự
hành rồi sau đó sẽ có thể giáo hóa người khác.
Chính ḿnh chẳng làm được, toan dạy người
khác, giả trất! V́ sao? Quư vị nói, nói đến nỗi
hoa trời rơi tán loạn, bản thân quư vị chẳng
làm được, người khác sẽ đánh dấu hỏi
ngay sau đó: “Ngươi đang lừa dối
chúng ta! Nói nghe bùi tai như vậy, chính ngươi chẳng
làm được!” V́ sao? Người ta chẳng phục. Làm sao để
khiến cho người khác phục? Ta làm được.
Tôi làm được rồi mới nói cho quư vị nghe, quư
vị sẽ phục. Tôi nêu gương cho quư vị thấy.
V́ thế, tôi thường nói: Trên thế giới có khá nhiều
nhà tôn giáo, những vị sáng lập tôn giáo, đức Phật,
Gia Tô (Jesus), Ma Tây (Moses), Mục Hăn Mặc
Đức (Mohamed), Khổng Tử, Lăo Tử, đều
là tự ḿnh hoàn toàn làm được rồi mới nói, không
có ai chẳng phục. V́ thế, đối với “lễ kính chư Phật”, nay
chúng ta tối thiểu phải thực hiện bằng “phàm là người, đều phải
thương yêu”. Phàm là người th́ đều nên lễ
kính, “kính” là nội tâm, “lễ” là bề ngoài, phải
nghiêm túc thực hiện!
Hiện
thời, toàn thể thế giới động loạn, nếu
quư vị hỏi nguyên nhân gây ra động loạn ư? Do
đánh mất lễ kính. Giữa con người với
nhau chẳng có ḷng yêu thương, chẳng có cung kính, chẳng
có lễ phép, làm sao họ chẳng loạn cho được?
Thiện nhân thế gian và xuất thế gian đều đặc
biệt coi trọng giáo dục. Nho gia nói đến Lễ,
Phật pháp nói đến Giới, tức giới luật.
Trong giới luật bao hàm oai nghi, lễ kính ở trong oai
nghi. V́ thế, chẳng có giới, sẽ chẳng có Phật.
Chẳng có lễ, sẽ chẳng có Nho! Nay mọi người
đều biết Phật pháp suy vi, người học Phật
rất nhiều, v́ sao Phật pháp suy vi? Người học
Phật tuy đông, không tŕ giới, nghĩ “tŕ giới quá khó!”
Niệm Phật mà không tŕ giới th́ có thể văng sanh hay không?
Chẳng thể văng sanh, chúng tôi đă nói lời này rất
nhiều!
Từ
xưa, tổ sư đă rất từ bi nêu bày “tŕ giới niệm Phật”, đó
là đối ứng với đại chúng trong xă hội
hiện tiền mà nói. Kẻ tại gia học Phật, chẳng
làm được Thập Thiện, chẳng làm được
Tam Quy, Ngũ Giới, làm sao có thể thành tựu cho
được? V́ thế, ngày hôm qua có khá nhiều đồng
học hỏi về vấn đề niệm Phật văng
sanh, tôi cũng giải đáp cho mọi người: Quư vị
hăy khéo suy ngẫm. Thập Thiện, Tam Quy, Ngũ Giới chẳng
làm được, mỗi ngày niệm mười vạn câu
Phật hiệu, có thể văng sanh hay không? Chẳng thể!
Tiêu chuẩn của thiện và ác là giới luật. Tại
gia học Phật th́ Thập Thiện, Tam Quy, Ngũ Giới
nhất định phải làm được, quư vị mới
có thể văng sanh. Mở kinh ra, “thiện
nam tử, thiện nữ nhân” có phần của quư vị. Đấy chính là tiêu chuẩn
của thiện. Nếu chẳng có điều ấy, quư vị
chẳng phải là “thiện
nam tử, thiện nữ nhân”, mỗi ngày niệm mười
vạn câu Phật hiệu vẫn chẳng thể văng sanh.
Dùng phương pháp niệm Phật để niệm, chớ nên
bỏ mất nhân tố tŕ giới, như vậy
th́ được, sẽ có công đức; nhưng v́ sao chẳng
làm được? Chúng ta phải t́m ra cội rễ. Đức
Phật đă nêu cội nguồn, trong kinh Phật Tạng,
đức Phật đă dạy: “Nếu không học Tiểu Thừa trước, sau
đó học Đại Thừa, sẽ chẳng phải là
đệ tử đức Phật”. Học Phật chẳng
thể vượt cấp, phải tuân theo thứ tự, từ
Tiểu Thừa cho đến Đại Thừa, quư vị
mới có cơ sở. Thập Thiện Nghiệp Đạo
là Đại Thừa, chung cho Đại lẫn Tiểu Thừa.
Chúng
ta hăy suy ngẫm về Trung Hoa. Khi Phật giáo truyền sang
Trung Hoa, xác thực là kinh điển Tiểu Thừa truyền
sang khá phong phú, gần như là truyền sang toàn bộ.
Trong Tạng Kinh hiện thời, phần Tứ A Hàm chính là
kinh Tiểu Thừa. Nhưng Tiểu Thừa ở Trung Hoa,
đại khái là từ giữa đời Đường
trở đi, Tiểu Thừa bèn suy, chẳng có ai học.
Vào thời Đường, Tiểu Thừa có hai tông, tức
Câu Xá Tông và Thành Thật Tông, rất nhiều người cũng
chẳng biết hai tông ấy, [danh xưng của chúng] biến
thành danh từ lịch sử, chẳng c̣n nữa! V́ thế,
tại Trung Hoa chỉ có tám tông Đại Thừa, có thể
thành tựu hay chăng? Trải các đời, người
thành tựu vẫn thật sự chẳng ít! Do nguyên nhân nào?
Người học Phật tại Trung Hoa, bất luận
tại gia hay xuất gia, chẳng có ai không học Nho, chẳng
có ai không học Đạo, tức là đặt vững cơ
sở trên thư tịch của Đạo gia và sách vở
của Nho gia, vậy th́ được! Cơ sở ấy so ra trọn chẳng thua kém cơ
sở Tiểu Thừa; cho nên [Phật giáo tại Trung Hoa
thuở trước không cần học Tiểu Thừa] vẫn
được! Đến thế hệ của chúng ta, rắc
rối nẩy sanh, chẳng có cơ sở Nho, chẳng có cơ
sở Đạo, cơ sở Tiểu Thừa cũng chẳng
có. Do vậy, tu Thập Thiện khó khăn, xuất hiện
vấn đề ở chỗ này.
V́
thế, trong những năm qua, chúng tôi cực lực đề
xướng Đệ Tử Quy, v́ sao? Đệ Tử Quy
là cội rễ của Nho gia. Chúng ta kiến lập Phật
pháp từ cội rễ này, sẽ là đúng, Phật pháp có
thể sống động. Giống như trồng thực
vật, những mầm cây nhỏ, dùng nước, đất
để giúp nó tăng trưởng, ta dùng Đệ Tử
Quy để vun bồi, tăng trưởng [Phật pháp].
Nếu chẳng có căn cội ấy, [sẽ thực hiện] Thập Thiện Nghiệp Đạo rất khó, đạo
lư ở chỗ này. Do vậy, chúng ta phải khẳng định
Đệ Tử Quy thuộc về giới luật, là giới
luật cơ bản, là cơ sở của Thập Thiện
Nghiệp. Có Đệ Tử Quy, có Thập Thiện Nghiệp
Đạo, sau đấy lại học Tam Quy, Ngũ Giới,
người ấy (người học như vậy) sẽ
có thể thực hiện được. Hiện thời,
ngay cả Tam Quy và Ngũ Giới cũng đều chẳng
thể thực hiện.
Tam
Quy là tổng cương lănh, tổng nguyên tắc do Phật,
Bồ Tát truyền dạy cho chúng ta, vừa nhập môn bèn
truyền cho chúng ta, khiến cho chúng ta biết phương
hướng ấy, biết
mục tiêu ấy. Phật là giác chứ không mê, Pháp là chánh chứ
không tà, Tăng là tịnh chứ chẳng nhiễm. Do vậy,
Phật, Pháp, Tăng là giác, chánh, tịnh. Trong Đàn Kinh, Lục
Tổ đại sư đă nói rơ ràng, Ngài trao truyền quy
y cho kẻ khác, chẳng đọc “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”, Ngài đọc:
“Quy y giác, quy y chánh, quy y tịnh”.
Thuở trước, tôi xem Đàn Kinh thấy đoạn ấy,
bèn suy nghĩ: V́ sao Ngài phải nói theo kiểu như vậy?
Từ xưa tới nay đều là niệm “quy y Phật, quy y Pháp, quy y
Tăng”, v́ sao Lục Tổ lại thay đổi? Vào thời
đại Lục Tổ, Phật pháp đă truyền đến
Trung Hoa sáu, bảy trăm năm, chắc là thời gian đă
lâu, thường nói là “càng truyền,
càng sai ngoa”, mọi người đối với ư nghĩa
của Phật, Pháp, Tăng đều mơ hồ,
nẩy sanh hiểu lầm, chẳng đạt được
lợi ích thật sự từ Tam Quy. V́ thế, Tổ sửa
lại, sửa rất có lư. Tiếp đó, Ngài giải
thích, “Phật là giác, Pháp là
chánh, Tăng là tịnh”, Ngài có giải thích ngay sau đó.
Nay chúng ta khởi tâm động niệm là giác hay mê? Là chánh
hay tà? Là tịnh hay nhiễm? Nay chúng ta khởi tâm động
niệm vẫn rơi vào “mê, tà,
nhiễm”, há có “giác, chánh, tịnh”?
Tam Quy như vậy là giả trất, chẳng thật!
Làm
được điều nào trong Ngũ Giới? Ta chẳng
giết người, nhưng quư vị có giết muỗi,
kiến hay chăng? Muỗi cắn quư vị, chẳng phải
là quư vị đập bốp một phát khiến cho nó chết
tươi ư? Quư vị nh́n thấy gián, thấy chuột,
có ư niệm giết chúng hay không? Hễ có ư niệm ấy,
theo pháp Đại Thừa, quư vị đă phá giới. Giới
Đại Thừa luận tâm, chẳng luận sự. Quư
vị khởi tâm động niệm, c̣n có ư niệm sát, dẫu
chẳng có sát nghiệp, nhưng sát tâm chẳng đoạn!
Đối với trộm cắp, ta chẳng cướp đoạt của kẻ khác, cũng chẳng ăn trộm của người
ta, nhưng có ư niệm chiếm đôi chút tiện nghi hay không?
Hễ có ư niệm chiếm tiện nghi, tức là chẳng
dứt cái tâm trộm cắp, vậy th́ làm sao được?
Hiện thời, có rất nhiều người, đối
với chuyện đóng thuế cho quốc gia, luôn t́m cách sao cho có thể đóng ít hơn đôi chút. Đấy
là cái tâm ǵ vậy? Tâm trộm cắp! Khó lắm! Thật sự
là khó!
Đối
với điều này, trong một đời tôi đă từng
thấy một vị. Cụ hiệu trưởng của
tôi xưa kia là tiên sinh Châu Bang Đạo chẳng có mảy
may ư niệm chiếm tiện nghi của người khác.
Những chuyện khác tôi không dám nói, chứ điều này
chính mắt tôi thấy, đích thân trông thấy. Khi cụ làm
Chánh Vụ Thứ Trưởng của Khảo Tuyển Bộ[5],
tức là Phó Bộ Trưởng, nhà nước cấp cho
cụ một chiếc xe. Cụ đi làm, đi công tác bèn
ngồi xe ấy, nhưng đi thăm bạn bè riêng tư
th́ vẫn ngồi xe công cộng. Cụ nói: “Đó là việc
riêng của tôi, chẳng thể lăng phí xăng của nhà
nước”. Chánh quyền gắn điện thoại cho cụ.
Chuyện công th́ cụ dùng điện thoại ấy. Cụ
có chuyện ǵ thuộc về cá nhân cần gọi điện
thoại, bèn ra trạm điện thoại công cộng ngoài
ngơ để gọi. Do vậy, con trai cụ là bạn học
của chúng tôi có nói: “Ông già ấy quá ương
bướng! Chánh quyền cấp cho ḿnh, ḿnh sử dụng
là được rồi. Ông lăo cố chấp đến mức
độ như thế đó”. V́ thế, con cái cụ khi ở
nhà muốn gọi điện thoại cho bạn bè đều
không được, nhất định phải ra đầu
ngơ gọi điện thoại công cộng. Làm như thế
mới thật sự là chẳng có cái tâm trộm cắp, quư
vị liền biết là chẳng dễ dàng đâu nhé!
Từ
tuổi trung niên trở đi, thầy Châu theo lăo cư sĩ
Lư Bỉnh Nam học Phật. Nh́n từ sự hành tŕ ấy,
chúng ta thấy người làm quan chẳng có một mảy
ư niệm tham ô, rất hiếm có, giữ bổn phận. Tiền
lương của chính ḿnh cũng không dư dả cho lắm,
trong nhà hết sức tiết kiệm. Tiết kiệm
để c̣n giúp đỡ thân thích, bằng hữu tại
Đại Lục, hằng tháng cụ đều gởi chút
tiền về đó. Đời này, chúng tôi thấy vị ấy,
bội phục năm vóc sát đất. Bởi lẽ, thầy
dạy chúng tôi, thầy nói xong bèn làm được. Trong nhà
trường xưa kia là như vậy đó. V́ thế, các
đồng học chúng tôi vĩnh viễn cảm niệm cụ
hiệu trưởng ấy, xác thực là có phong vị của
cổ nhân. Đối đăi với bất luận kẻ
nào, cụ đều lễ độ, khiêm
hư, hạ ḿnh, cụ luôn làm cho chúng tôi trông thấy. Tại Đài
Trung Liên Xă, cụ làm công quả, quét sàn, khách từ bên ngoài
đến viếng thăm thầy Châu, cụ hỏi “vị nào?” [Thưa],
Châu Bang Đạo! Cụ chẳng nói chi hết, làm xong việc,
trở ra sau, mặc quần áo đàng hoàng ra tiếp khách,
“chính là tôi đây”. Người ta thấy vậy sững sờ,
lúc mới vào, cứ tưởng cụ là nhân viên tạp vụ của
liên xă, chẳng có một tí kênh kiệu nào! Thật sự có
học vấn, thật sự có đạo đức.
V́
thế, chúng ta phải hiểu, tu hành thực hiện từ
chỗ nào, hôm nay đọc đến phần “kính lễ” này, [mới hiểu
phải kính lễ] bất luận đối với ai.
Trước kia, ở Đại Lục, thầy Châu từng
làm sảnh trưởng[6]
của giáo dục sảnh tỉnh Giang Tây, là giáo sư đại học, đối xử
với người hầu đều luôn khách sáo, cho nên người
nào chỉ cần tiếp xúc cụ, chẳng có ai không bội phục.
Gia giáo hết sức nghiêm ngặt, con cái cụ thường
nói với tôi, làm học tṛ của cụ th́ được,
chứ làm con cụ khổ lắm, rất khó chịu. Con cái
cụ thường kể khổ trước mặt chúng tôi, họ
bị quản thúc quá nghiêm. Con cái đă khôn lớn cả rồi, đều đă ba, bốn mươi tuổi rồi, vẫn bị quản
lư như trẻ nhỏ, rất nghiêm ngặt. Những ưu
điểm trong suốt cuộc đời thầy quá nhiều,
đáng cho chúng ta học tập, đáng cho chúng ta ngưỡng
mộ. Cụ đă thực hiện giáo huấn của Phật
Đà và giáo huấn của thánh hiền.
Phổ
Hiền Bồ Tát dạy chúng ta “lễ
kính chư Phật”, “chư
Phật” là quá khứ Phật, hiện tại Phật, vị
lai Phật. Vị lai Phật là ai? Hết thảy chúng sanh
là vị lai Phật! Do vậy, đối với hết thảy
chúng sanh đều phải lễ kính, đạo lư ở
ngay chỗ này. Trong giáo pháp Đại Thừa thường nói “hết thảy chúng sanh đều
là cha mẹ của chúng ta trong quá khứ, là vị lai
chư Phật”. Nếu quư vị thật sự hiểu
hai câu này, sẽ thấy “lễ
kính chư Phật” chẳng khó! Nay đă hết thời
gian rồi, chúng tôi nói tới đây!
Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 34 hết
[1] “Vô vi nhi trị” (無為而治) là một
khái niệm rất đặc biệt của Nho gia. Theo
đó, bậc thánh nhân do đức hạnh sẽ tự
nhiên cảm hóa dân chúng, không cần phải ép buộc, g̣ ép
mọi người, mà mọi người đều đạt
đến cảnh giới của thánh nhân. Nói cách khác, “vô vi nhi trị” chính là cai trị
bằng đức, bằng nhân, sống thuận theo tự
nhiên.
[2] Ư nói:
Khi Mao Trạch Đông chiếm trọn Hoa Lục, lập
ra Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa.
[3] Tam Lễ
là danh xưng do Trịnh Huyền đặt ra từ đời
Hán để gọi ba bộ kinh điển về lễ
nghi. Chính Trịnh Huyền đă chú giải ba bộ sách ấy,
gọi chung là Tam Lễ Chú. Tam Lễ gồm:
1. Nghi Lễ:
Ghi chép các thứ nghi lễ thời Tiên Tần (trước
khi Tần Thủy Hoàng diệt chư hầu, thống nhất
Trung Hoa), chủ yếu ghi chép các lễ nghi của bậc
sĩ đại phu. Đến đời Hán, chỉ c̣n
sót lại một phần sách Nghi Lễ gồm mười
bảy thiên, chia thành bốn loại lớn. Tương
truyền sách Nghi Lễ do Cao Đường Sanh truyền
cho Tiêu Phấn, Tiêu Phấn truyền cho Mạnh Khanh, Mạnh
Khanh truyền cho Hậu Thương, Hậu Thương
truyền cho Đới Đức và Đới Thánh. Kinh Lễ
trong Ngũ Kinh của Nho gia chính là sách Nghi Lễ.
2. Lễ Kư là
tác phẩm được trước tác bởi các học
tṛ của Khổng Tử cũng như những Nho gia thời
Chiến Quốc. Đến đời Tây Hán, Đới
Đức đă rút gọn bản Lễ Kư do Lưu Hướng
truyền thừa từ một trăm mười ba thiên
thành tám mươi lăm thiên. Bản này gọi là Đại
Đới Lễ Kư. Đới Thánh lại tinh giản bản
này c̣n bốn mươi chín thiên gọi là Tiểu Đới
Lễ Kư, thêm vào thiên Nguyệt Lệnh. Bản Lễ Kư
thông dụng hiện thời là Tiểu Đới Lễ
Kư.
3. Châu Lễ
c̣n gọi là Châu Quan, hoặc Châu Quan Kinh ghi chép về chế
độ quan lại, các quy phạm về hành vi đạo
đức và những tập tục lễ nghi đời
Châu. Tương truyền sách này do chính Châu Công biên soạn.
Lúc mới xuất hiện, sách có tên là Châu Quan, đến
đời Tây Hán, Lưu Hâm mới gọi nó bằng danh
xưng Châu Lễ. Điểm đặc biệt nhất của
Châu Lễ là nhấn mạnh quan điểm “vua đối
xử với bầy tôi bằng lễ, bề tôi thờ
vua bằng ḷng trung thành”, tức là vua
cũng phải tuân thể lễ nghi, quy chế, tôn trọng
bầy tôi.
[4] Ở
đây, ḥa thượng vô ư nói nhầm. Phẩm kinh này do Trí
Thủ Bồ Tát hỏi, Văn Thù Bồ Tát đáp bằng
một trăm bốn mươi mốt nguyện. Do tôn trọng
nguyên văn, chúng tôi để nguyên không sửa.
[5] Khảo
Tuyển Bộ (考選部) là
một bộ được thành lập bởi sắc lệnh
Tổ Chức Tuyển Cử ban hành vào ngày Hai Mươi Mốt
tháng Bảy năm 1948 của Trung Hoa Dân Quốc, chuyên trách
các vấn đề thi cử để khảo hạch
công chức nhằm chọn lựa chuyên viên cho các cơ cấu
chánh phủ. Đồng thời kiêm nhiệm trách nhiệm
giám sát các cơ cấu trực thuộc về việc điều hành công tác
tuyển cử. Đứng đầu bộ này là một
bộ trưởng, hai thứ trưởng (phó bộ
trưởng) được gọi là Chánh Vụ Thứ
Trưởng và Thường Vụ Thứ Trưởng. Bộ
này lại chia thành nhiều ty, như Khảo Tuyển Quy Hoạch
Ty, Đặc Chủng Khảo Tuyển Ty, Tổng Vụ
Ty, Cao Phổ Khảo Thí Ty v.v… Khảo Tuyển Bộ trực
thuộc Khảo Thí Viện trong cơ cấu Ngũ Viện
của chánh quyền Trung Hoa Dân Quốc. Ngũ Viện là
Hành Chánh Viện, Lập Pháp Viện, Tư Pháp Viện, Khảo
Thí Viện và Giám Sát Viện.
[6] Sảnh
trưởng (廳長):
Sảnh trưởng là người đứng đầu
một cơ quan hành chánh chuyên trách cao nhất trong các tỉnh,
các khu tự trị, các thành phố. Có thể hiểu Sảnh
Trưởng tương đương với Ty của
Việt Nam. Sảnh giáo dục tức là ty giáo dục, ở
đây là ty giáo dục tỉnh Giang Tây. Trong các bộ, các
cơ cấu đặc trách chuyên biệt cũng gọi là
Sảnh.