Đại Phương Quảng
Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần
35
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng Mười
Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh
Tiến
Tập 1531
Chư vị pháp sư, chư
vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin
xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một, đoạn
kệ tụng thứ sáu, tiểu đoạn thứ hai, tức
phần Đổ Sự Cảnh Nguyện (睹事境願, những
nguyện phát khởi khi thấy cảnh và sự).
Hôm qua, chúng tôi đă nói đến
nguyện thứ ba. Ba bài kệ một, hai, ba rất dễ
khơi gợi mọi người, [bởi lẽ], trong cuộc
sống hằng ngày, hầu như mỗi ngày chúng ta đều
có thể gặp [những chuyện ấy]. Khi gặp, có
thể dấy lên nguyện tâm hay chăng? Rất khó! Khó ở
chỗ nào? Cổ nhân nói: “Chỗ
sống, chỗ chín chẳng chuyển được”. Tập
khí phiền năo của chúng ta đă
dưỡng thành thói quen, rất thân thuộc. Do vậy, bất
luận trong cảnh giới, bất luận nơi chốn
nào, khởi tâm động niệm luôn tùy thuận phiền
năo, chẳng có cách nào tùy thuận Tánh Đức.
Một trăm bốn mươi
mốt nguyện này, nguyện nào cũng đều là Tánh
Đức. Hiện thời, tập khí phiền năo của
chúng ta đă chín muồi, quá thuần thục, c̣n Tánh Đức
hết sức xa lạ! Ở đây, Phật, Bồ Tát nói
với chúng ta, chúng ta nghe dạy cũng hết sức hoan
hỷ, nhưng chớp mắt là quên bẵng! Trong cuộc
sống hằng ngày, khi gặp gỡ những người
hoặc sự vật ấy, vẫn tùy thuận phiền năo,
chẳng có cách nào tùy thuận tự tánh. Những chỗ này
cũng gọi là “công phu chẳng
đắc lực”. V́ sao công phu chẳng đắc lực?
Do chẳng thể chuyển cảnh giới, có nghĩa là quư
vị chẳng quay đầu được! Quay đầu
là bờ, “bờ” là “bờ kia” (彼岸, bỉ
ngạn) của Bồ Tát, là “bờ
kia” của Phật Đà. Nay chúng ta đang ở bên nào?
Chúng ta đứng đối diện, đối diện Phật,
Bồ Tát, [thuộc về] bờ phàm phu, bờ lục
đạo luân hồi! Nếu chẳng chuyển lại
được, nếu chúng ta hỏi: “Niệm Phật có thể
văng sanh hay không?” Thưa cùng chư vị, [nếu như] chẳng chuyển lại
được, dẫu niệm Phật, chẳng thể
văng sanh! Nói thật đấy, chẳng giả đâu nhé!
Chẳng phải là Tịnh Tông
nói “đới nghiệp văng
sanh” ư? Không sai! Trong kinh cũng nói như thế, tổ
sư đại đức cũng thường dạy chúng
ta như thế; nhưng quư vị phải ghi nhớ: Nói
“đới nghiệp” (帶業, mang
theo nghiệp) chính là “đới
cựu nghiệp” (mang theo nghiệp cũ), là mang theo tập
khí, chẳng phải là mang theo hiện hành. “Hiện hành” (現行) chính là
khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác trong
hiện tiền, chẳng thể mang theo những thứ ấy!
Nói cách khác, hạn độ thấp nhất để niệm
Phật văng sanh là phải khống chế hiện hành; điều
đó được gọi là “chế
phục phiền năo”. Chẳng đoạn phiền năo, nhưng
ta có năng lực khống chế nó, khiến cho nó chẳng
khởi tác dụng, như vậy th́ mới hữu dụng.
Vừa niệm Phật, vừa nổi
nóng, làm sao có thể văng sanh cho được? Làm sao có thể
cảm ứng cho được? Vừa tụng
kinh, vừa nghĩ đến chuyện xấu.
Đấy là nghiệp chướng quá nặng, chẳng thể
chuyển được, phiền toái ở chỗ này. Chúng
ta chớ nên không biết!
Có cần phải dụng công
hay không? Thật sự phải dụng công! Ta chẳng chuyển
được! Chẳng chuyển được là do công phu
chẳng đắc lực, vẫn phải tăng cường,
quyết định chẳng có ngờ vực! Nếu quư vị
có ngờ vực, sai mất rồi, quyết định chẳng
có ngờ vực! Nói thật ra, công phu vẫn phải tăng
cường. Chẳng phải là không có công phu, mà là chưa đủ độ
mạnh. V́ thế, chẳng chuyển được! Cái tâm
cảnh giác không đủ; đấy là do ngu si nặng nề,
chẳng thấu triệt giáo lư. Phải đọc kinh cho
nhiều, nghe kinh cho nhiều, chuyện này quan trọng lắm,
tri kiến đấy nhé! Chánh tri chánh kiến sẽ hướng
dẫn quư vị có chánh ngữ, chánh hạnh, hết thảy
đều là chánh. Tà tri tà kiến hướng dẫn quư vị,
hết thảy sẽ đều là tà. Kẻ học Phật
mấy chục năm nhưng chẳng thể chuyển
cảnh giới rất nhiều! Tịnh Tông coi trọng thật
thà niệm Phật. Phàm là người hành tŕ thật thà, chẳng
có ai không thành tựu! Chúng ta hăy ngẫm lại chính ḿnh, nói
thật sự là chẳng thật thà! “Chẳng thật thà” là ǵ? Chẳng nghe lời! Chẳng
nghe theo lời đức Phật dạy! Hằng ngày đọc,
hằng ngày nghe, chẳng làm theo; niệm th́ cứ niệm,
nghe th́ cứ nghe, nhưng trong cuộc sống hằng ngày,
quên sạch sành sanh! Vậy th́ làm sao được nữa
đây?
Quư vị thấy trong tiểu
đoạn này, bài kệ đầu tiên quan trọng nhất:
Phải cư xử ḥa thuận cùng hết thảy mọi
người, chúng ta có làm được hay không? Kinh chép: “Nhược kiến chúng hội”
(Nếu thấy nhiều người
tụ tập). “Chúng” (眾) là đại
chúng. [“Chúng hội”] là đại chúng tụ tập
lại. Người Hoa cứ ba nguời th́ gọi là Chúng.
Quư vị thấy cách viết chữ Chúng (眾) là do ba
chữ Nhân (人) ghép lại. Trong
Phật pháp, bốn người th́ gọi là một Chúng. Từ
bốn người trở lên là một đoàn thể nhỏ.
Thấy có bốn năm người tụ tập tại đó,
thông thường toàn là chuyện gẫu, tán nhảm, chẳng
có một tí lợi ích nào, tạp tâm tán gẫu mà! Bọn đệ
tử học Phật chúng ta phải v́ họ “thuyết thậm thâm pháp, nhất
thiết ḥa hợp” (nói pháp rất sâu, hết thảy ḥa
hợp). Trong xă hội hiện thời, sự động
loạn đă đến t́nh trạng khiến cho con người
không thể chịu đựng nổi, rất đáng sợ.
Giữa con người với nhau bất ḥa, chúng ta phải
thường suy ngẫm v́ sao bất ḥa? Lại c̣n phải
suy ngẫm cớ sao cổ thánh tiên hiền, chư Phật,
Bồ Tát có thể cư xử ḥa thuận? Nói chung, chẳng
khó ǵ mà không rút ra một kết luận: Những vị ấy
đáng gọi là “chí đồng
đạo hợp”, tự nhiên các Ngài bèn có thể cư
xử ḥa thuận. Bọn phàm nhân chúng ta nhóm lại, dẫu
cho chúng ta ở trong cùng một đạo tràng, sẽ như
thế nào? Chí bất đồng, đạo chẳng hợp,
sẽ bất ḥa ngay!
Trong kinh điển nhà Phật
đă vạch ra, bày ra trước mặt chúng ta mười
đường, tức là Phật đạo, Bồ Tát
đạo, Thanh Văn đạo, Duyên Giác đạo, thiên
đạo, A Tu La đạo [nhân đạo, súc sanh đạo,
ngạ quỷ đạo, địa ngục đạo]. Đấy
là mười pháp giới, hoặc [c̣n gọi là] “mười đường”
(thập đạo). Chúng ta thuộc về đường
nào? Chuyện này cũng rất rơ ràng. Hiện thời, ở
trong cùng một đạo tràng, [thế mà] đạo bất
đồng. Chúng ta là người trong cùng một đạo
tràng, trong tương lai, khi văng sanh, mạnh ai đi
theo đường nấy. Tu hành rất tốt đẹp,
[sẽ tiến nhập] Phật đạo, văng sanh chính là đạo
thành Phật. Chẳng thể văng sanh, có người ở
trong thiên đạo, có người ở trong nhân đạo,
có người ở trong súc sanh đạo, trong địa
ngục đạo, hay trong ngạ quỷ đạo. Mười
đạo là nói tổng quát, trong mỗi đạo rất
phức tạp, cũng có rất nhiều đẳng cấp
bất đồng. Nay chúng ta trên h́nh thức tuy đều
là đang học Phật, trên thực tế, có phải là thật
sự [học Phật] hay không? Trong tâm mọi người
hiểu rơ, chẳng cần phải nói! Nhưng nói chung, phải
ghi nhớ, mọi người đều có nguyện vọng
hướng thượng, v́ sao chẳng dấy khởi, phải
biết điều này! Chẳng làm người tốt đẹp,
làm sao quư vị có thể tăng tấn cho được?
Trong các buổi giảng, chúng tôi thường xuyên khuyến
khích, cổ vũ các đồng học về chuyện này.
Chư Phật, Bồ Tát đă nêu gương tốt nhất
cho chúng ta, các Ngài thật sự làm được!
Tri kiến, Kiến Ḥa Đồng
Giải, là đối với chân tướng của vũ
trụ và nhân sinh, các Ngài thật sự hiểu rơ ràng, thật
sự hiểu minh bạch. Chân tướng của
vũ trụ và nhân sinh là ǵ? Kinh Bát Nhă đă nói hay lắm: “Hết
thảy các pháp vô sở hữu, rốt ráo không, chẳng thể
được”. Kiến Ḥa Đồng Giải
được gọi là “chí
đồng đạo hợp”. Có tri kiến chánh xác th́
gọi là “chánh tri chánh kiến,
Phật tri Phật kiến”. V́ thế, tâm các Ngài định.
Các Ngài ở trong thế gian này, sáu căn tiếp xúc cảnh giới
sáu trần, như như bất động, hiểu rành mạch.
Như như bất động là Định, hiểu rành
mạch là Chiếu, tức “chiếu
kiến”; đó chính là Giới Ḥa Đồng Tu. Tiêu chuẩn
này chẳng phải là tiêu chuẩn b́nh phàm, mà là tiêu chuẩn
của hàng Pháp Thân Bồ Tát, tức Pháp Thân Bồ Tát như
trong kinh Hoa Nghiêm đă nói, chẳng phải là phàm phu, đương
nhiên là hết thảy ḥa hợp. Hết thảy vạn pháp
trong khắp pháp giới hư không giới chẳng có ǵ không
ḥa hợp.
Chúng
ta chẳng đạt đến cảnh giới này là do nghiệp
chướng quá nặng, chẳng thể không hạ thấp
chuẩn mực. Nay chúng ta ắt cần phải buông xả
tri kiến của chính ḿnh. Quư vị nhất định phải
biết: Tri kiến của chính ḿnh khẳng định là sai lầm! Trong kinh, đức Phật đă dạy:
Khi nào quư vị chứng đắc quả A La Hán, mới có
thể tin vào tri kiến của chính ḿnh. Nói cách khác, trước
khi chưa chứng quả A La Hán, tri kiến của chính
ḿnh là sai lầm. Nếu chẳng phải là sai lầm, cớ
sao quư vị phải luân hồi trong lục đạo?
Đấy là sự thật. Tri kiến đă chánh, làm sao luân
hồi cho được? Đức Phật dạy chúng
ta tri kiến như thế nào th́ mới được coi
là chánh tri kiến? A La Hán là tiêu chuẩn thấp nhất, buông
xuống hết thảy chấp trước đối với
người, sự, vật. Chấp trước là Kiến
Tư phiền năo, quư vị phải buông xuống thứ ấy
th́ mới là chánh tri chánh kiến. Nói theo Phật pháp, sẽ
là Chánh Giác. A La Hán là Chánh Giác, là chánh tri chánh kiến.
Nay
chúng ta phải nỗ lực, trước hết, phải buông
xuống những thứ bất thiện. Sau đấy, tiến
thêm bước nữa là thiện niệm cũng buông xuống.
Nhưng chư vị phải ghi nhớ, “buông xuống thiện
niệm” chẳng phải là buông xuống thiện sự.
Buông xuống ác niệm, buông xuống ác sự, đó gọi
là “đoạn ác, tu thiện”.
Tu thiện mà c̣n chấp trước điều thiện,
sẽ chẳng phải là thượng thiện. Thượng
thiện là tuy tu thiện mà chẳng chấp trước; đó
là thượng thiện. V́ thế, buông xuống [ư niệm
chấp trước điều] thiện, chẳng phải
là buông xuống thiện sự! Điều này rất quan
trọng, hăy buông xuống thiện niệm “làm chuyện lành”,
dùng cái tâm thanh tịnh để làm việc thiện; đấy
là thượng thiện. Quư vị chẳng buông xuống thiện,
th́ thiện vẫn là ô nhiễm, đó là thiện so với
thiện ác đối chiếu
với nhau, chẳng phải là chân thiện,
chẳng phải là thiện thuộc về bản tánh, mà là
thiện thuộc về tập tánh. Trong tập tánh có thiện
và ác, trong bản tánh chẳng có thiện hay ác. Trong bản
tánh có thiện sự, có thiện hạnh, chắc chắn
là chẳng có ác sự, chẳng có ác hạnh, phải biết
điều này, thuần tịnh thuần thiện. Từ
chỗ này sẽ lại tăng tấn dần dần.
Bọn
phàm phu chúng ta nhập môn từ chỗ nào? Đức Phật
dạy chúng ta nhập môn từ tŕ giới. Tŕ giới là đối
trị tập khí phiền năo từ vô thỉ tới nay của
chúng ta, là chuyện như thế đó. Nếu quư vị chẳng
tŕ giới, chắc chắn sẽ chẳng đoạn
được tập khí. Tŕ giới lại được
thực hiện từ chỗ nào? Mấy năm nay, chúng tôi
đề xướng thực hiện từ Đệ Tử
Quy. Đệ Tử Quy nói tất cả một trăm
mười ba chuyện, ít hơn phẩm Tịnh Hạnh.
Phẩm Tịnh Hạnh gồm một trăm bốn mươi
mốt chuyện. Đệ Tử Quy chỉ có một
trăm mười ba chuyện, phải thực hiện, phải
làm được. Chẳng làm sẽ không được! Đề
xướng học tập Đệ Tử Quy mấy năm
qua, tuy thời gian chẳng dài, đă thấy đôi chút hiệu
quả, vẫn phải tăng cường!
Tại
Trung Hoa, đề xướng phong trào đọc kinh, sớm
nhất có lẽ là tiến sĩ Vương Tài Quư[1],
ông ta đă từng
đến gặp tôi. Tuy đề
xướng đọc kinh bao nhiêu năm, nhưng ông ta đă
sơ sót chuyện học tập Đệ Tử Quy; đấy
cũng là do quan niệm sai khác. Ông ta cho rằng trẻ nhỏ
chỉ cần đọc kinh, đọc nhiều, chẳng
cần hành. Trẻ nhỏ quá bé, chúng cũng chẳng thể
làm được, chúng cũng chẳng biết làm! Nhưng
trẻ nhỏ phải được vun quén căn cội
bằng Đệ Tử Quy, ông ta đă sơ sót chỗ này,
[cho nên] làm đă bao nhiêu năm, đến cuối cùng gặp
khó khăn. Ông ta đến t́m tôi, tôi đặc biệt nhấn
mạnh tầm trọng yếu của Đệ Tử Quy.
Đối với trẻ nhỏ, đức hạnh là cơ
sở, [cơ sở ấy] phải được kiến
lập trước khi ba tuổi. Chẳng kiến lập
trước khi ba tuổi, “mất dê mới sửa chuồng” th́ vẫn c̣n kịp, đó là [vun quén căn cội]
trước khi bảy tuổi. Trước khi bảy tuổi,
nếu chẳng vun quén căn cội luân lư, đạo đức,
[sau này muốn vun
bồi đức hạnh] sẽ
khó khăn. V́ thế, đây là thật sự vun quén căn
cội giáo dục, Phật pháp được kiến lập
trên cơ sở này. V́ sao chúng ta chẳng làm được
Thập Thiện Nghiệp Đạo, chẳng làm
được Tam Quy, Ngũ Giới? Sa Di Luật Nghi lại
càng chẳng cần phải nói nữa. Suy nghĩ cẩn thận,
sẽ thấy [nguyên nhân chủ yếu] đều là v́ đă
sơ sót cơ sở, sơ sót Đệ Tử Quy.
Bản
thân chúng ta chắc chắn là phải có sự cảnh giác
cao độ. Nói thật ra, người hiện thời tự
hiểu rơ chính ḿnh rất khó, thấy sai sót của người
khác rất dễ dàng! Đó gọi là “mắt nhân dân sáng như tuyết”, họ có thể thấy [những sai trái của] người
khác, chẳng thể thấy [lỗi lầm của] chính ḿnh. Chúng ta muốn
dối gạt quần chúng, có được hay không? Không được!
Người ta đă sớm nh́n thấu suốt quư vị, rốt cuộc quư vị là thật hay giả,
chẳng thể gạt gẫm người khác đâu nhé! Có các đồng
tu trong nước khi gặp mặt tôi, đă phê b́nh người
xuất gia làm chuyện chẳng đúng pháp. Nói trước
mặt tôi th́ được, chớ nên nói với người
khác. V́ sao? Phá hoại h́nh tượng Phật giáo là chuyện
của họ, nếu
quư vị đi nói khắp nơi, cũng
sẽ là phá hoại h́nh tượng Phật giáo. Họ
thường sơ sót nơi phương diện này; v́ thế,
nhất định phải học: “Nếu người thật tu đạo, chẳng
thấy lỗi thế gian”.
Người
ấy có sai sót, quư vị hăy quan sát cẩn thận, có thể
khuyên lơn người ấy, người ấy có thể
tiếp nhận th́ nhất định phải khuyên bảo.
Nếu người ấy chẳng thể tiếp nhận,
nghe quư vị phê b́nh sẽ dấy ḷng sân hận, như vậy
th́ đừng nói! Nhân quả của ai, kẻ ấy chịu
trách nhiệm; chính ḿnh chẳng cần phá hoại h́nh tượng
Phật giáo. [Chuyện này] quan trọng hơn bất cứ
điều nào khác. Người ấy đọa địa
ngục, nhưng quư vị thường xuyên phê
b́nh người ấy, trong tương lai, chính quư vị cũng
đọa địa ngục. Quư vị nói chuyện này có
phải là oan uổng hay không? Đấy chẳng phải là
kẻ thông minh, mà là kẻ rất ngu si. Thấy người
khác đọa địa ngục, chính ḿnh cũng theo họ
nhảy vào đó. Đấy là lầm lỗi của người
ta, nếu quư vị hủy báng, phê b́nh, rêu rao khắp nơi,
khiến cho đại chúng trong xă hội nẩy sanh ấn
tượng chẳng tốt đối với Phật giáo,
quư vị phải chịu trách nhiệm nhân quả. Người
nói rất nhiều, nhưng đều sơ sót, chẳng
biết tầm quan trọng
của trách nhiệm nhân quả!
Quư
vị thấy Đệ Tử Quy cũng nói rất hay: “Đạo nhân thiện, tức thị
thiện” (Nói kẻ khác là lành, tức là [chính ḿnh] lành). Người
ta có thiện hạnh, đáng nên ca ngợi. Nói điều ác của
người khác, tức là ác. Kể [lỗi] của người
khác chính là tạo ác nghiệp. Tôi vừa mới nhắc tới
đạo lư này, nếu quư vị nghe hiểu, quư vị sẽ
minh bạch. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta có tạo
tác ác nghiệp này hay không? Nếu thường tạo, đáng sợ quá! Cổ thánh tiên hiền dạy chúng ta, đức hạnh
cơ bản để làm người là “ẩn ác, dương thiện” (隱惡揚善, che giấu điều ác, tuyên dương điều
thiện); tức là thấy lỗi lầm của người khác
sẽ chẳng nói, thấy người khác có chuyện lành
phải nên tán dương. “Ẩn
ác, dương thiện” là chánh xác. Đối với người
khác, nhất định là phải cư xử ḥa thuận,
phải hỗ trợ hợp tác. Chữ “ḥa hợp” trong hai câu này (“thuyết thậm thâm pháp, nhất thiết ḥa hợp”)
chính là “cư xử ḥa thuận,
hỗ trợ hợp tác”. Xă hội này hài ḥa, thế giới là hài ḥa, hết thảy chúng
sanh mới thật sự có thể sống cuộc đời
hạnh phúc mỹ măn. Then chốt của hạnh phúc mỹ
măn là hai chữ ấy (“ḥa hợp”).
Ta chẳng thể cư xử ḥa thuận với mọi người,
ta phá hoại xă hội này, phá hoại dân tộc này, quư vị
nói xem tội ấy có nặng hay không? Bản thân quư vị
hăy suy nghĩ, quư vị sẽ dần dần hiểu rơ!
Quư
vị thấy thế giới hiện thời hỗn loạn
đến mức khó thể chịu đựng, do nguyên
nhân nào? Do khuyết thiếu điều này! Hiện thời
hết thảy đều chẳng ḥa hợp. Người
học Phật chúng ta phải có tâm từ bi. Tâm từ bi ở
chỗ nào? Dẫn đầu nêu gương ḥa hợp cho đại
chúng trong xă hội trông thấy. Đấy là Bồ Tát hạnh,
người ấy đang hành Bồ Tát đạo. Đó là
giác ngộ. Tự hành là hóa độ người khác, hóa độ
người khác là tự hành, là một chuyện, chẳng
phải là hai chuyện. Do vậy, phải có phương tiện
thiện xảo!
Quyết
định chớ nên trái nghịch Lục Ḥa Kính. Trái nghịch
Lục Ḥa Kính là phá hoại ḥa hợp Tăng, là phá hoại
chánh pháp của Như Lai, trong giới kinh kết tội này
là A Tỳ địa ngục. Quư vị có thể hộ tŕ
chánh pháp, sẽ là công đức vô thượng. V́ sao chẳng
làm chuyện tốt lành? V́ sao muốn tiêu diệt Phật
pháp? Chẳng ḥa hợp chính là tiêu diệt Phật pháp. Nếu
chúng ta hỏi v́ sao bất ḥa ư? Vẫn chẳng phải
là do ai nấy đều có thành kiến của riêng ḿnh, đôi
bên chẳng chịu buông xuống, sẽ sanh ra hiện tượng ấy! Nếu trong hai người
mà có một người lui một bước, sẽ chẳng
có vấn đề. Người lui bước là bậc giác
ngộ, người lui bước là Bồ Tát. Kẻ chẳng
lùi trông thấy đối phương lùi bước, kẻ
ấy cũng sẽ mềm mỏng hơn. Chẳng nhượng
bộ lẫn nhau th́ mới nẩy sanh hiện tượng
này.
“Nhược kiến đại thụ”
(nếu thấy cây to), chuyện này cũng gần như
là chúng ta có thể trông thấy hằng ngày. Hằng ngày, tôi từ bên Hương
Cảng sang đây giảng kinh, trên đường cũng
có không ít cây to. Quư vị thấy thân cây nâng đỡ cành, lá,
hoa, quả. Chuyện này nhằm khải thị chúng ta:
Người sống trong thế gian này ắt cần phải gánh vác trách nhiệm thế gian. Mỗi gia đ́nh
giống như một cội cây to, vợ con là thân cây, cành
cây, chồng là cội rễ, toàn thể trọng trách do ông
ta gánh vác. Quư vị phải nghiêm túc nhận lănh trách nhiệm,
chăm sóc họ đàng hoàng, dạy dỗ họ đến
nơi đến chốn. Dùng phương pháp ǵ để
dạy? Dùng Đệ Tử Quy để dạy, cả nhà
ḥa thuận, vui sướng. Gia ḥa, vạn sự hưng!
Trong công ty, hăng xưởng, cửa tiệm, quư vị làm chủ
nhân, chủ nhân là cội cây to, là cội rễ của cái cây
ấy! Trong công ty của quư vị có rất nhiều bộ
môn, có khá nhiều cán bộ. Đó là thân cây, nhánh cây. Tất
cả công nhân, viên chức, cũng như sự nghiệp của
quư vị chính là cành, lá, hoa, quả, quư vị phải gánh vác,
phải gánh vác như gia đ́nh vậy!
Do
vậy, bậc thánh hiền thời cổ dạy người
ta tu thân, tề gia, trị quốc. Quư vị cai quản một
công ty sẽ gần như là cai trị một
đất nước. Quư vị
có thể tề gia, có năng lực tề gia, sẽ có năng
lực trị quốc. Có năng lực trị quốc (治國, giữ cho đất nước b́nh trị), sẽ
có năng lực làm cho người trong thiên hạ đều
đạt được b́nh đẳng, đạt
được công bằng. “B́nh
thiên hạ” (平天下) là [làm cho] người trong thiên hạ đều đạt
được công bằng, nói theo Phật pháp sẽ là “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”.
Do vậy, thấy điều này, phải nghĩ chính
ḿnh trong một đời này phải gánh vác trách nhiệm,
có gánh nặng trách nhiệm. Nay chúng ta nói là “cảm giác trách nhiệm, cảm giác sứ mạng”,
chẳng có bất cứ điều kiện nào để
bàn luận cả. Nếu trong ấy mà có danh lợi, sẽ
là cái tâm luân hồi. Chẳng có bất cứ điều
kiện ǵ, sẽ là Bồ Đề tâm. Bồ Đề tâm
và tâm luân hồi khác biệt ở ngay chỗ này!
Người
trong thế gian làm chuyện ǵ cũng đều có điều
kiện, luôn có lợi ích cho chính ḿnh trong ấy. Phật, Bồ
Tát khác hẳn phàm phu; Phật, Bồ Tát làm bất cứ chuyện
ǵ cũng đều chẳng có lợi ích của chính ḿnh,
hoàn toàn là v́ chúng sanh. Giúp đỡ chúng sanh dẹp khổ,
ban vui; đấy là đại từ đại bi. Giúp
đỡ chúng sanh phá mê khai ngộ, ĺa khổ, được
vui; đó là đại Bồ Đề tâm. Mục tiêu chung
cực là phải giúp đỡ họ khai ngộ. Chư vị
phải biết: Để giúp họ khai ngộ, chính ḿnh nhất
định phải khai ngộ trước đă. Chính ḿnh
chẳng ngộ; làm sao quư vị có thể giúp cho người
khác khai ngộ? Chẳng có lẽ ấy! V́ thế, chính ḿnh
phải giác ngộ trước đă. Nếu chính ḿnh muốn
giác ngộ, nhất định là phải y giáo tu hành, phải
tŕ giới, đắc định, khai huệ. Đó gọi
là “mười phương ba
đời Phật, một đường Niết Bàn môn”, đều đi theo con
đường này. Do vậy, giới luật quan trọng
hơn bất cứ ǵ khác, chớ nên sơ sót!
Trong
thế gian này, bất luận là trong hay ngoài giáo, bất luận
là phương Đông hay phương Tây, bất luận dân
tộc nào, nếu quư vị hỏi, có ai chẳng tham tài? Có
ai chẳng tham tiếng tăm, lợi dưỡng? Hiện
tượng tham lam này giống như lũ lớn tràn dâng,
chẳng thể thâu thập! Phải đối trị như
thế nào? Thực hiện từ nơi ta, ta nêu gương,
nêu gương ǵ vậy? Chẳng tham! Không tham danh, không tham
lợi. Ta không tham mà vẫn có thể sống rất vui
sướng, chẳng thua kém quư vị. Làm cho kẻ khác thấy,
khiến cho họ giác ngộ, khiến cho họ quay đầu.
Hiện thời, ngôn giáo vô dụng, phải là thân giáo.
Tôi
dạy các đồng học, bất luận bất cứ
nơi nào mời quư vị giảng kinh, đừng tiếp nhận cúng dường! Người khác cúng dường,
cứ nhận lấy, họ cúng dường phong bao th́ nhận
lấy; nhận xong, đưa cho thường trụ nơi
ấy. Nơi nào mời ta, thảy đều trao cho họ,
giúp đỡ đạo tràng của họ, chẳng lấy
một đồng nào. Tối đa chỉ tiếp nhận
chi phí đi lại, tiếp nhận thực phẩm của
họ, [tiếp nhận sự] cúng dường chỗ cư
trụ, tiếp nhận sự tiếp đăi của họ,
những thứ khác đều chớ nên! Đấy là giáo dục, là giáo
dục của đức Phật. Giáo dục của đức
Phật chính là giáo dục trí huệ, là sự giáo dục giúp
đỡ chúng sanh đoạn phiền năo, tăng trưởng
trí huệ. Quư vị đi giảng kinh, giảng hay cách mấy
đi nữa, mà vẫn tham danh, vẫn tham lợi, truyền
quy y ở chỗ nào, bèn đ̣i tiền ở nơi ấy.
Sau khi quư vị ra đi, thường nói là “mắt của nhân dân sáng như tuyết”, sẽ
có kẻ phê b́nh quư vị: “Gă đó chẳng phải là người
thật sự có đạo tâm”. Người khác vẫn chẳng
phục quư vị! Quư vị thuyết pháp, giảng kinh ở
nơi đó, hiệu quả bị tước giảm rất
lớn, chẳng thâu được hiệu quả, sai mất
rồi!
Do
vậy, chư vị phải hiểu: Lợi tha mới là thật
sự tự lợi. Tự lợi quyết định là
hại chính ḿnh, mà cũng hại người khác; tự và
tha đều bất lợi. Lợi tha thật sự là “tự tha lưỡng lợi”.
Từ vô thỉ kiếp đến nay, phàm phu chẳng buông
xuống tập khí xấu xa. Nhất là trong xă hội hiện
thời, sức dụ dỗ, mê hoặc quá mạnh. Trong có
phiền năo, ngoài có dụ dỗ, mê hoặc, mấy ai có thể
chống đỡ được? Quư vị giảng Đệ
Tử Quy, nhưng chính ḿnh chẳng làm được, người khác ở
bên cạnh trông thấy sẽ bảo là gạt người!
Quư vị giảng Thập Thiện Nghiệp Đạo, chẳng
làm được, đó là lừa người! Nếu chính
ḿnh chẳng làm được, cổ nhân sẽ không nói.
Sau khi chính ḿnh đă làm được rồi mới nói.
Khi có người mời, họ đến giảng, hễ
chính ḿnh chẳng làm được, sẽ không dám nói. Đấy
là chỗ khác biệt giữa cổ nhân và người hiện
thời. Họ c̣n tuân giữ luân lư, đạo đức.
Chính ḿnh chẳng làm được mà đi khắp nơi
giảng giải, đó là gạt người, là buôn danh chuốc
dự! V́ sao đi giảng? V́ tiếng tăm, lợi dưỡng,
trong tâm chẳng buông xuống tiếng tăm, lợi dưỡng,
làm sao quư vị có thể nói thứ ǵ tốt đẹp cho
được?
Rất
nhiều đồng học biết Thái Lễ Húc giảng Đệ
Tử Quy khá lắm, mọi người đều ca ngợi,
rất nhiều người nghe xong đều bội phục.
Do đạo lư nào? Thưa cùng chư vị, rất đơn
giản, anh ta làm được, thực hiện toàn bộ
một trăm mười ba chuyện trong ấy. Anh ta kể
với tôi, anh ta dùng thời gian một năm để thực
hiện, sau khi đă làm được rồi mới nói.
Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo cũng giống như
vậy! Quư vị chẳng làm được Thập Thiện
Nghiệp Đạo, giảng kinh ấy bằng cách nào đây?
Sa Di Luật Nghi lại càng chẳng phải là ngoại lệ.
Mười giới, hai mươi bốn môn oai nghi đều
làm được. Trong Phật môn có pháp sư, có thiền sư,
có luận sư, có luật sư. Làm được mười
giới và hai mươi bốn môn oai nghi, quư vị là luật
sư của luật Sa Di. Điều đáng quư là trong xă hội
hiện tiền, tuy khó khăn mà có thể làm được.
Phật pháp có thể phục hưng hay không, then chốt ở
ngay chỗ này!
Nếu
chẳng có giới luật, chỉ có kinh giáo, những thứ
kinh giáo ấy sẽ gọi là Phật học, chẳng phải
là học Phật! Phật học và học Phật là hai
chuyện [khác nhau], chẳng phải là một chuyện! [Phật
học] tức là coi kinh điển nhà Phật như một
môn học thuật thông thường để nghiên cứu,
chẳng ăn khớp với xă hội, chẳng liên quan
đến cuộc sống của đại chúng trong xă hội.
Thứ ấy có thể học hay không đều được,
chẳng phải là một môn tu tập bắt buộc. Nếu
là học Phật, ắt sẽ là một môn phải tu tập,
ắt cần phải học tập. V́ sao? Nâng cao phẩm
chất cuộc sống của chính ḿnh. Không chỉ là cuộc
sống tinh thần của chính ḿnh, ngay cả cuộc sống
vật chất cũng được nâng cao! [Nói đến]
cuộc sống vật chất chẳng phải là nói cuộc
sống của quư vị tốt đẹp hơn rất
nhiều, đem lại cho quư vị rất nhiều của
cải, chẳng phải là ư nghĩa ấy, mà là “an bần lạc đạo”.
Cuộc sống của Thích Ca Mâu Ni Phật là ba y một bát,
vui sướng vô cùng. Vừa mở đầu, sách Luận
Ngữ đă h́nh dung “Khổng
Nhan chi lạc”, tức là niềm vui của Khổng Tử,
niềm vui của Nhan Hồi. Họ vui sướng với
điều ǵ? “Học nhi thời
tập chi, bất diệc duyệt hồ?” (Học rồi
thường tập luyện, há chẳng vui sao?) Khác hẳn!
Do vậy, cuộc sống tinh thần có thể ảnh
hưởng liên đới đến cuộc sống vật
chất; chẳng phải là cuộc sống vật chất
rất phong phú! [Nếu hiểu lầm là cuộc sống vật
chất dư dả], quư vị đă hiểu sai mất rồi!
[Người
có cuộc sống tinh thần phong phú], nhu cầu về cuộc
sống vật chất có số lượng rất ít. Dưỡng
sanh, dưỡng thân là đủ rồi, chẳng cần rất
nhiều. Tâm địa càng thanh tịnh, lượng nhu cầu
càng ít, cuộc sống vật chất càng thỏa măn rất
dễ dàng! Sau khi đă thỏa măn, ngạn ngữ có câu: “Nhân đáo vô cầu,
phẩm tự cao” (Người
đạt đến mức
chẳng cầu mong, phẩm hạnh
tự cao). Kẻ nào giàu có nhất? Kẻ chẳng mong cầu
sẽ là giàu có nhất, kẻ ấy chẳng cần chi hết!
Kẻ phú quư vẫn mong có thêm một chút, vậy th́ kẻ đó
vẫn là bần cùng, do kẻ ấy c̣n có nhu cầu.
Người kia nhu cầu ǵ cũng đều chẳng có;
quư vị cứ so sánh giữa hai đằng, [sẽ
biết ngay] ai giàu? Đấy là học vấn. Chẳng có
học vấn, quư vị sẽ không hiểu. Chẳng có học
vấn, quư vị sẽ không thấy. Thật sự có học
vấn, quư vị sẽ thấy rất rơ ràng. Đối với
người chẳng mong cầu, cái tâm cung kính, cái tâm
ngưỡng mộ của quư vị tràn trề nẩy
sanh!
Do
vậy, nói tóm lại
bằng một câu, trước
hết là chính ḿnh phải làm được! Bất luận
học Nho hay học Phật, cho đến học bất cứ tôn giáo nào khác, đều là đ̣i hỏi chính ḿnh phải làm
được trước đă! Làm được
trước hết chính là như kinh Phật đă dạy:
“Vị nhân diễn thuyết”
(V́ người khác diễn, nói), quư vị v́ người
khác mà biểu diễn! Khi nào sẽ nói? Người khác
đến thỉnh giáo, quư vị sẽ nói cho họ.
Người khác chẳng thỉnh giáo, bèn biểu diễn. Người ta trông thấy quư vị
[làm như thế] bèn sanh tâm hoan hỷ, bội phục, tán thán, thỉnh giáo quư vị, quư vị bèn có thể nói với
họ. Do vậy, học th́ phải nhấn mạnh là “cầu học”. Họ có điều mong cầu, có thành ư, ắt sẽ
là “một phần thành kính được
một phần lợi ích; mười phần thành kính được
mười phần lợi ích”, việc dạy học ấy
mới sanh ra hiệu quả tốt đẹp. Nếu kẻ
đó chẳng có thành ư, quư vị nói với họ thế nào
đi nữa cũng vô dụng! Họ chẳng nghe lọt
tai, nói phí lời! Do vậy, mấy nguyện này có ư nghĩa
hết sức sâu xa, có quan hệ quá lớn đối với
sự tu học của chúng ta, chớ nên sai sót. A! Nay đă
hết thời gian rồi! Chúng ta nghỉ ngơi mấy phút.
***
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Bài kệ thứ ba trong tiểu đoạn
thứ hai nói đến tùng lâm (叢林, rừng rậm). Ở Trung Hoa, theo thói quen, đạo
tràng Phật giáo được gọi là “tùng lâm”, tức là đại đạo tràng. Vị
trụ tŕ phương trượng theo tập tục cũng
gọi là chủ tịch của tùng lâm. Do vậy có thể
biết, Phật giáo thời cổ thật sự chẳng
phải là tôn giáo, nó là một cơ cấu học thuật,
giống như nói đến đại học trong hiện
tại. Những vị học tập trong ấy đều
là người có đức hạnh, có học vấn. V́ thế,
trông thấy tùng lâm bèn dẫn phát đại nguyện: “Chư thiên cập nhân, ưng cai
lễ kính” (Chư thiên và người, đều nên lễ
kính). Trong phần chú giải của Thanh Lương đại
sư chỉ có tám chữ:
(Sớ)
Đức do tùng lâm, sâm tủng khả kính.
(疏)德猶叢林,森聳可敬。
(Sớ:
Đức như rừng rậm, cao tột đáng kính).
Điều
này nhằm nói rơ: Đạo đức của những bậc
tu hành trong đạo tràng Phật giáo đáng cho kẻ khác tôn
kính. Đạo đức là ǵ? Giới, Định, Huệ,
những vị ấy thật sự tŕ giới.
Đạo
tràng được gọi là “ḥa
hợp Tăng đoàn”. Quư vị thấy trong Tam Quy, “quy y Tăng, chúng trung tôn”. Chữ
“chúng” (眾) được nói trong Phật giáo, nay ta gọi là “đoàn thể”. “Chúng trung tôn”
(眾中尊) nghĩa là trong tất cả các đoàn thể, đoàn thể
này đáng được mọi người tôn kính nhất,
có ư nghĩa này. “Chúng trung tôn”
mang ư nghĩa này. V́ sao đáng được mọi người
tôn kính? Họ có đạo đức, họ cư xử ḥa thuận, tu Lục Ḥa Kính. Do đó, Tăng đoàn,
chư vị phải ghi nhớ, chữ Tăng trong “Tăng đoàn” là thanh tịnh,
[quy y Tăng] là quy y Tịnh. Tăng có nghĩa là Tịnh. Sáu
căn thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần! Lục
Tổ đại sư nói Tam Quy, bảo “quy y giác, quy y chánh, quy y tịnh”. Quư vị hiểu
ư nghĩa này; sau đấy, quư vị sẽ hiểu, Tăng
đoàn không nhất định là người xuất gia!
Gia đ́nh của quư vị, nhà quư vị có bốn người,
bốn người trở lên sống cùng một chỗ, người
sống trong cùng một nhà, hai vợ chồng và hai đứa
con, là người một nhà. Nếu người trong một
nhà đều tu Lục Ḥa Kính, người trong nhà quư vị
được gọi là “Tăng
đoàn”. Bốn người gọi là Chúng, là đoàn thể.
“Chúng trung tôn”, tiêu chuẩn của
Tăng là tu Lục Ḥa Kính. [Tăng đoàn] là một đoàn
thể Lục Ḥa Kính. Đạo tràng trong Phật môn, từ
bốn người trở lên tu Lục Ḥa Kính th́ mới
được gọi là Tăng đoàn. Nếu chẳng có
Lục Ḥa Kính, sẽ chẳng thể gọi là Tăng
đoàn; nhưng hiện nay, theo thói quen đều gọi là Tăng
đoàn. Tăng đoàn kiểu ấy hữu danh vô thực!
Tham
gia vào Tăng đoàn, điều kiện đầu tiên là buông
xuống thành kiến của chính ḿnh th́ mới có thể ḥa
hợp cùng mọi người. Bất luận là đối
với người, đối với sự, đối với
vật, nếu tôi có cách nh́n của tôi, quư vị có cách nh́n
của quư vị, ư kiến của chúng ta sẽ chẳng hợp!
Trong sự ḥa hợp, điều này là căn bản, là cơ
sở; do vậy, nó được xếp thành điều
thứ nhất trong Lục Ḥa, tức Kiến Ḥa Đồng
Giải. Phải đặt vững cơ sở này như
thế nào? Phương pháp của đức Phật hay lắm!
Ngài chẳng nói “quư vị thảy đều buông xuống
ư kiến của chính ḿnh, hăy nghe theo ta!” Đức Phật
chẳng nói kiểu ấy, nếu [Ngài nói] như vậy th́
đức Phật sẽ biến thành chuyên chế, độc tài.
Đức Phật nói như thế nào? “Chúng ta thảy đều buông xuống, đều
chẳng có thành kiến”; đấy chẳng phải là
ḥa hợp ư? Phương pháp này tuyệt diệu, vừa đơn giản, vừa khiến cho người
khác tâm phục, khẩu phục.
V́
sao phải buông xuống? Buông xuống, tâm sẽ thanh tịnh.
Quư vị không buông xuống, những thứ ấy sẽ là
phiền năo. Cách nghĩ và cách nh́n khác nhau, [đó chính là] phiền
năo, tức Kiến Tư phiền năo! Kiến Tư (見思) là ǵ? Kiến giải và tư tưởng của quư
vị. Chỉ cần có kiến giải, chỉ cần có tư
tưởng, sẽ hiểu biết sai lầm. V́ sao? Chư
Phật, Bồ Tát chẳng có kiến giải, chẳng có tư
tưởng, phát sanh trí huệ! Hễ có kiến giải, có
tư tưởng, sẽ sanh phiền năo, sanh ra ǵ? Phiền
Năo Chướng, Sở Tri Chướng. Phàm và thánh khác nhau ở
chỗ này. V́ thế, Phật giúp đỡ chúng sanh, Bồ
Tát giáo hóa chúng sanh, [sử dụng] chiêu này hết sức cao
minh. Đối với kẻ mới học, quư vị bảo họ ngay lập tức buông xuống, họ chẳng thể buông xuống
được! Vậy th́ làm thế nào? Bất đắc
dĩ cầu cái kém hơn, chúng ta hăy buông cách nghĩ và cách
nh́n [của cá nhân] xuống, nương theo Thích Ca Mâu Ni Phật,
điều này mọi người cũng chẳng tranh căi
ǵ! Đấy là biện pháp tốt nhất để tiếp
dẫn kẻ sơ cơ. Cách này chẳng phải là biện pháp rốt
ráo, mà là pháp phương tiện.
Ví
như chúng ta tu Tịnh Độ Tông, nương vào ǵ? Nương
vào kinh Vô Lượng Thọ, nương vào kinh Quán Vô
Lượng Thọ Phật, nương theo kinh A Di Đà,
ba kinh. Tổ sư c̣n có một bộ luận, gọi là Văng
Sanh Luận, ba kinh một luận. Về sau, các vị đại
đức lại thêm vào hai thứ, thêm vào rất hữu lư!
Tổ sư đại đức Tịnh Tông chẳng có vị
nào không bội phục! Thêm vào Phổ Hiền Hạnh Nguyện
Phẩm, gọi là Tịnh Độ Tứ Kinh. Phổ Hiền
Hạnh Nguyện Phẩm do cư sĩ Ngụy Mặc Thâm
thêm vào trong niên hiệu Hàm Phong đời Thanh, thêm vào hay lắm! Chúng
ta thấy kinh Vô Lượng Thọ, hiện thời chúng
ta đọc bản hội tập, quư vị xem trong phần
Tự, sẽ thấy: “Hàm cộng tuân
tu Phổ Hiền đại sĩ chi đức” (đều cùng vâng theo, tu tập phẩm đức
của đại sĩ Phổ Hiền). Do vậy, người
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, người
văng sanh tu pháp môn ǵ? Thảy đều tu Phổ Hiền hạnh!
V́ thế, thêm Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm [vào
Tịnh Độ Tam Kinh] hay lắm!
Đến
cận đại, sau khi vị tổ đời thứ
mười ba của Tịnh Tông là Ấn Quang đại
sư đă ghép chương Đại Thế Chí Bồ Tát
Niệm Phật Viên Thông vào sau Tịnh Độ Tứ
Kinh, biến thành Tịnh Độ Ngũ Kinh, [kinh điển
Tịnh Độ] đă viên măn, xác thực là đại viên
măn. Kinh văn của Đại Thế Chí Viên Thông Chương
không dài, hai trăm bốn mươi bốn chữ, c̣n ít hơn
Bát Nhă Tâm Kinh. Bát Nhă Tâm Kinh là hai trăm sáu mươi chữ,
c̣n Đại Thế Chí Viên Thông Chương là hai trăm bốn
mươi bốn chữ. Đó là ǵ? Tâm Kinh của Tịnh
Độ Tông, mầu nhiệm chẳng thể diễn tả
được! V́ thế, hiện thời kinh điển
của Tịnh Độ Tông là năm kinh một luận.
Chúng ta dùng những thứ này để làm căn cứ ḥng
buông xuống thành kiến của chính ḿnh, phải nương
theo năm kinh một luận. Mọi người đều
nương theo những thứ này, chẳng phải là kiến
giải của chúng ta đều giống nhau ư? Kiến
Ḥa Đồng Giải rồi, mọi người đều chẳng
có vấn đề ǵ!
Giới
Ḥa Đồng Tu: Ngoài Tam Quy và Ngũ Giới ra, các đồng
tu xuất gia c̣n có giới Sa Di, chúng ta chỉ mong cầu những
giới này, mức độ thấp nhất! Trừ những
thứ ấy ra, c̣n có những quy củ mà [mọi người
đều] cùng phải tuân thủ, tức là Đệ Tử
Quy và Thập Thiện Nghiệp Đạo. V́ thế, nói
chung, trong Giới Ḥa Đồng Tu, chúng ta học tập,
thực hiện Đệ Tử Quy, Thập Thiện Nghiệp,
Tam Quy, Ngũ Giới, và Sa Di Luật Nghi. Đấy chính là
đạo tràng chánh pháp. Chẳng thể không tuân thủ những
quy củ ấy, quư vị sẽ chẳng thể tham gia
Tăng đoàn. V́ sao? Tham gia Tăng đoàn, chắc chắn
là quư vị sẽ nhiễu loạn nó. Cái tội nhiễu
loạn Tăng đoàn rất nặng, sẽ chịu trách
nhiệm nhân quả, gánh không nổi, [tội ấy]
được gọi là “thật sự phá ḥa hợp Tăng”.
Quả báo của chuyện phá ḥa hợp Tăng là địa
ngục A Tỳ, quư vị cần ǵ phải làm chuyện ngốc
nghếch ấy? Điều này đáng cho chúng ta cảnh giác, kiêng dè. Hăy cảnh giác cao độ, đừng nên làm chuyện
sai trái trong đời này, do mê hoặc, điên đảo, về
sau đọa tam đồ. Sai lầm đặc biệt to
tát!
Thật
sự thấu hiểu, bằng ḷng tuân thủ, dùng tiêu chuẩn
của giới luật để khắc phục tập
khí phiền năo của chính ḿnh, mọi người cùng
tu với nhau sẽ có lợi ích rất lớn, người
hiện thời nói là “từ
trường khác hẳn”. Ai nấy đều tu Lục
Ḥa Kính, từ trường chỗ ấy sẽ khác hẳn.
V́ thế, tiến nhập một đạo tràng ḥa hợp,
nhất định phải nỗ lực sửa đổi
tập khí lầm lỗi của chính ḿnh. Những điều
kế tiếp [trong Lục Ḥa Kính] đều là quả, Thân
Đồng Trụ, Khẩu Vô Tránh, Ư Đồng Duyệt,
và Lợi Đồng Quân.
Nói
đến Lợi Đồng Quân, thưa cùng chư vị,
“lợi” là ǵ? Cuộc sống
vật chất nhất định là chia đều, mọi
người đều như nhau. Trong tùng lâm thuở quá khứ,
chấp sự, tức là vị chủ tịch của tùng
lâm, ăn uống giống hệt như đại chúng.
Tuy có lúc vị ấy không ở cùng một pḥng ăn với
đại chúng, mà có một pḥng ăn nhỏ, nhưng thức
ăn trong pḥng ăn nhỏ ấy và thức ăn trong pḥng
ăn lớn giống hệt nhau, chẳng khác ǵ cả, ḥa
hợp mà! Trong pḥng ăn nhỏ, [nếu như] thức ăn
của vị Phương Trượng khác thức ăn của
đại chúng, sẽ bất ḥa, lấy đâu ra ḥa? Xưa
kia, thuở đức Thế Tôn tại thế, thuở ấy,
mỗi cá nhân trong Tăng đoàn đi khất thực, xin
được đồ ăn khác nhau. Chẳng phải là
xin xong bèn ăn ngay trên đường! Vừa đi đường
vừa ăn, oai nghi sẽ khó coi lắm! V́ thế, sau khi đă
khất thực xong, nhất định quay về. Sau khi đă
về đến nơi, đồ khất thực của
mỗi người thảy
đều gom chung lại, rồi
[tùy thuộc mỗi người cần] ăn bao nhiêu mà lấy bấy nhiêu, giống
như tiệc tự phục vụ của chúng ta trong hiện
thời. Thức ăn c̣n thừa sẽ bố thí cho chim thú,
thật sự làm được ḥa hợp! Có người
khất thực khá lắm, được cúng dường
[thức ăn] rất ngon. Có người xin nhằm thứ
không dễ ǵ nuốt nổi, thảy đều trộn lẫn
với nhau. Quư vị thấy chế độ ấy có ai
mà chẳng phục?
Hiện
thời tuy chẳng khất thực, phương thức sống
của chúng ta trong hiện thời chẳng giống xưa
kia, nhưng chắc chắn là [trong cùng một đạo
tràng] chẳng có sự đăi ngộ nồng hậu hay nhạt nhẽo, cơm
và thức ăn hoàn toàn như nhau; đấy là chánh xác. Chỗ
bất đồng là ǵ? Tuổi tác cao, bị bệnh, phải
được chăm sóc đặc biệt, nhưng trường hợp này th́ có thể bất đồng: Tuổi
đă cao, thể lực đă suy, vị ấy phải ăn
những thứ rất mềm. Người Hoa nói là “dưỡng lăo”, đấy là
chánh xác. Có bệnh th́ đương nhiên là thể lực
suy kém, hệ thống tiêu hóa yếu ớt, phải cho vị
ấy ăn thứ dễ tiêu hóa. V́ thế, có thể nấu
đặc biệt. Thân thể khỏe khoắn, hết thảy
b́nh thường, chắc chắn là [ăn uống] giống
hệt như đại chúng!
Do
vậy, chớ nên không tu Lục Ḥa Kính. Chẳng có Lục
Ḥa Kính, thưa cùng chư vị, sẽ chẳng có Phật
pháp. Trong đoàn thể nhỏ này, mọi người có cần
phải yêu thương, che chở nhau hay không? Chúng ta có
đối xử ḥa thuận với đại chúng hay không?
Chẳng thể không sửa đổi tập khí, khuyết
điểm của chính ḿnh. Có những kẻ đă dưỡng
thành thói quen, tuổi tác đă cao, từ bé đă dưỡng
thành thói quen, nói năng toàn theo kiểu ra lệnh, khiến
cho người khác nghe rất khó chịu, phải sửa
đổi! Sửa đổi th́ phải sửa từ nơi
tâm, chúng tôi thường nói, “phải sửa đổi, trừ bỏ ư niệm
đối lập với hết thảy người, sự,
vật, chẳng đối lập với người khác”,
phải thật sự làm!
Người
khác hủy báng, lăng nhục ta, phải tu Nhẫn Nhục
Ba La Mật, chớ nên so đo. Ta bị oan uổng, cũng
chẳng cần phải giăi bày nỗi oan uổng, chẳng
có ư nghĩa chi cả! Hăy nghĩ đến câu kinh Kim Cang: “Phàm những ǵ có h́nh tướng
đều là hư vọng”,
chuyện ǵ cũng đều hóa giải! Thật sự
thành tựu Nhẫn Nhục Ba La Mật của chính ḿnh,
tăng cao Nhẫn Nhục Ba La Mật của chính ḿnh. Có thể
nhẫn th́ sau đấy mới có Định, cái tâm thanh tịnh
của quư vị mới có thể hiện tiền. Ngạn
ngữ có câu: “Tiểu bất
nhẫn tắc loạn đại mưu” (Chẳng
nhẫn được chuyện nhỏ, ắt mưu tính
lớn sẽ bị rối loạn). Loạn “mưu tính
lớn” ǵ vậy? Hễ tâm quư vị loạn, sẽ chẳng
có Định, chẳng có Huệ, quư vị nói xem, có phải
là chuyện lớn hay chăng? Hằng ngày mong cầu Giới,
Định, Huệ, kết quả là chính ḿnh hoàn toàn phá sạch
Giới, Định, Huệ. Hễ nổi cáu, hễ bực
tức, toàn thể Giới, Định, Huệ sẽ chẳng
có, tổn thất ấy quá ư to tát, chớ nên không biết! Điều ǵ cũng đều
có thể chịu đựng, thứ ǵ cũng đều [coi như] chẳng sao! Từ đầu đến cuối, ǵn
giữ tâm b́nh khí ḥa, lợi ích đầu tiên là thân thể
khỏe mạnh, có lợi ích to tát!
Mấy
bữa nay, quư vị xem sáu đĩa CD Sơn Tây Tiểu Viện,
quư vị thấy trong ấy đă tường tŕnh bốn
mươi người, chẳng phải là số ít, là thật,
chẳng giả! Thân thể họ đều không khỏe,
đều mắc bệnh, có rất nhiều người mắc bệnh rất nghiêm trọng, bác sĩ đều tuyên
bố chẳng thể trị liệu. Thôi trị liệu,
trở về đợi chết! Họ tụng kinh, niệm
Phật, nghiễm nhiên lành bệnh. Họ cũng chẳng
t́m đến bác sĩ, cũng không uống thuốc, [thế
mà] lành bệnh! Do nguyên nhân nào? Ở đây, có một đạo
lư. Trong lần trước, tôi đă dùng thời gian một
tiếng đồng hồ để giải thích cho quư vị:
Có căn cứ lư luận, có luận chứng khoa học,
chuyện này chẳng phải là mê tín. [Dùng] ư niệm khắc phục chính ḿnh, dùng ǵ vậy? Thiện
niệm! Đối với tất
cả ác niệm và hành vi ác của chính ḿnh, toàn bộ đều
dùng Phật hiệu, dùng kinh Phật
để chuyển đổi,
các tế bào và các khí quan trên thân thể
sẽ khôi phục b́nh thường, bệnh chẳng c̣n nữa! Đạo lư ở chỗ này.
Do
vậy, thí nghiệm với nước kết tinh của tiến
sĩ Giang Bổn Thắng người Nhật đă chứng
minh đạo lư được nói trong kinh Phật. Thí nghiệm
ấy đă chỉ ra minh bạch: Toàn thể vũ trụ, nói theo kiểu
hiện thời, sẽ là hữu cơ, là có sanh mạng. Bùn,
cát, đá cũng đều là hữu cơ. Nói cách khác, chúng
nó có thể thấy, có thể nghe, có thể hiểu ư nghĩ
của con người. Nếu chúng chẳng có thấy,
nghe, hay, biết, chư vị hăy ngẫm xem: Ngài Đạo
Sanh thuyết pháp, v́ sao đá có thể gật đầu? Công án ấy đă
được lưu truyền rất lâu tại Trung Hoa, là
thật, chẳng giả. Đá tảng gật đầu,
từ thí nghiệm của ông Giang Bổn Thắng, chúng ta bèn
tin tưởng. Phải hiểu rơ ràng đạo lư và chân
tướng sự thật này. Nó có thể thấy, có thể
nghe, có thể hiểu ư nghĩ của con người. Người
ta dùng thiện niệm, nó sẽ phản ứng hết sức
tốt đẹp. Bất cứ sự vật nào, hễ dùng
thiện niệm để nghĩ tới nó, sẽ đều
là tốt đẹp. Nghĩ đến nó bằng ác niệm,
thảy đều biến thành hư hoại. V́ thế, cảnh
giới bên ngoài chẳng có tốt hay xấu, Ngẫu Ích
đại sư đă nói rất hay: “Cảnh duyên chẳng có tốt hay xấu, tốt hay
xấu khởi từ tâm”. Tâm quư vị tốt lành, chẳng
có ǵ không tốt lành. Tâm quư vị bất hảo, chẳng có
thứ ǵ tốt đẹp!
Hiện
thời, địa cầu rối beng dường ấy là do nguyên nhân nào? Ḷng người, ư niệm, hành vi của
người trên địa cầu bất hảo. Tin tức
bất hảo ấy truyền đến hết thảy hoàn
cảnh, hết thảy hoàn cảnh đều biến thành bất hảo, nguyên nhân là như thế đó. Do
vậy, trong khi tôi giảng kinh, đă vài lần thưa tŕnh
cùng quư vị: Hoa Tạng và Cực Lạc chẳng khác Sa Bà!
V́ sao cảnh giới bên kia đẹp đẽ dường
ấy? Chẳng có chi khác! Ḷng người tốt đẹp,
người trong các thế giới đó đều là thiện
nhân, khởi tâm động niệm không ǵ chẳng tốt
lành. V́ thế, tất cả hết thảy cảnh giới,
cây cối, hoa, cỏ, núi, sông, đại địa, cho
đến các hiện tượng trong hư không đều hiện bày mỹ măn ngần ấy, tâm tốt lành mà!
Nếu người trong thế gian này hiểu
rơ, giác ngộ, chuyển đổi ư niệm, thế
giới này sẽ là thế giới Cực Lạc.
Mọi
người chẳng chuyển được, một ḿnh
ta chuyển được, sẽ giống y hệt. Một
ḿnh quư vị sẽ cảm thấy hoàn cảnh của quư vị
hạnh phúc, tốt đẹp, mọi người cảm
thấy hoàn cảnh rất xấu xa, kém cỏi, chẳng
thể chịu đựng nổi! Thảy đều là
chuyển từ tâm niệm. Nếu quư vị chẳng hiểu
đạo lư này, sẽ vĩnh viễn chẳng có cách nào giải
thích. Đấy là như trong giáo pháp Đại Thừa thường
nói: “Hết thảy các pháp sanh
từ tâm tưởng”, “sanh”
là ǵ? Sanh khởi biến hóa; hết thảy các pháp biến
thành thiện hay biến thành ác, đều từ tâm tưởng.
Cảnh giới là như thế, mà thân thể của mỗi
cá nhân chúng ta cũng lại là như thế. Mỗi tế bào,
mỗi khí quan trên thân thể chúng ta đều là một đơn
vị độc lập, là vật chất. Mỗi tế bào
đều có thấy, nghe, hay, biết. Mỗi sợi tóc, mỗi
cọng lông của chúng ta cũng đều có [tánh năng]
thấy, nghe, hay, biết. Do vậy, chúng ta là thiện tâm, sẽ
chẳng có thứ ǵ không tốt. Tâm bất thiện, chẳng
có thứ ǵ tốt đẹp! Phật pháp không ở ngoài,
mà ở bên trong, cho nên gọi là Nội Học. Trong Ngũ
Minh[2],
[Nội Học] được gọi là Nội Minh, kinh điển
được gọi là Nội Điển. Chẳng phải
là bảo quư vị học từ bên ngoài, mà là hăy chuyển
biến từ ư niệm!
“Kiến tùng lâm” (Thấy rừng
rậm) là thấy người có đức hạnh. Nay chúng
ta thường nói là trông thấy người tu hành có đạo
đức, có học vấn, nhất định phải tôn
trọng. V́ sao? Đấy là tự hành, hóa độ kẻ
khác. Bởi lẽ, đại chúng trong xă hội hiện thời
đă mê, mê quá sâu, thời gian mê quá lâu! Vào thời
cổ, đối với nhân dân trong xă hội, đẳng cấp cao nhất
là người đọc sách: Sĩ, nông,
công, thương; quư vị thấy họ được xếp theo
thứ tự. Ngạn ngữ có câu: “Vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc
thư cao” (Tạm dịch: Mọi hạng đều thấp lè tè, chỉ người
đọc sách là cao ngút trời). Nhưng người đọc
sách quá nửa là thanh bần, nghèo khó. V́ thế, người
thuở trước thuờng nói là “cùng tú tài” (窮秀才, anh chàng tú tài nghèo kiết xác), người đọc
sách đấy! Tuy vậy, trong quá khứ, người ấy
có địa vị trong xă hội. Trong những cuộc tụ
họp đông đảo, ngồi ở vị trí cao quư nhất định là
người đọc sách. Bọn phú thương, kẻ
có thế lực chẳng thể ngồi ở ghế
đầu, ngồi ghế đầu nhất định là
người đọc sách. Tôn trọng đạo đức,
xă hội an định. Tuy người đọc sách cuộc
sống vật chất gian khổ, vẫn có rất nhiều
người bằng ḷng [sống cuộc đời ấy].
Xă
hội hiện nay khác hẳn! Hiện thời đúng là điên
đảo cả rồi. Trong các cuộc tụ hội, kẻ
nào ăn trên ngồi chốc? Kẻ có tiền, có thế, chứ
người đọc sách chẳng có ma nào ngó ngàng! Bởi
lẽ, phong khí xă hội coi trọng của cải. Hiện
nay, thứ ǵ cũng xếp kinh tế hàng đầu, văn
hóa xếp hạng bét! Xưa kia, hết thảy là v́ văn hóa mà phục vụ,
v́ luân lư, đạo đức mà phục vụ; hiện nay,
hết thảy v́ kinh tế mà phục vụ, điên đảo
cả rồi! Mỗi cá nhân đều tranh lợi, tranh giành
lợi lộc chẳng kiêng dè. Tranh giành lợi lộc chắc
chắn sẽ chẳng thể tránh khỏi tổn người,
lợi ḿnh, tạo thành đối lập trong xă hội, tạo
thành sự cạnh tranh cho tất cả mọi người!
Mọi người đều cạnh tranh, cạnh tranh nâng
cao hơn sẽ là đấu tranh. Đấu tranh tăng cấp
đến cuối cùng là chiến tranh! Hiện thời, quư
vị đều biết chiến tranh rất đáng sợ.
Vũ khí trong hiện tại xác thực là có sức sát thương
to lớn. Hiện nay, một trái bom hạch nhân, hoặc một
quả bom khinh khí phải [có sức tàn phá] hơn quả
bom đă thả xuống Trường Kỳ (長崎, Nagasaki) và Quảng Đảo (廣島, Hiroshima)[3]
trong quá khứ mấy ngàn lần! Thuở đó, khi một
quả bom nguyên tử rơi xuống,
có hơn tám vạn người tử vong. Quư vị cứ
nghĩ một thành phố lớn trong hiện nay, có hơn
mười triệu người, một quả bom là chết
sạch cả rồi!
Khi
xưa, lúc tôi mới giảng kinh đă nói đến chuyện
này: Tiểu tam tai như nhà Phật đă nói chính là chiến
tranh vũ khí hạch nhân. Đức Phật nói tiểu tam
tai, trên thế giới này c̣n chưa phát minh bom nguyên tử;
từ ba ngàn năm trước, đức Phật đă
trông thấy. Tiểu tam tai, kinh dạy, đao binh kiếp
là chiến tranh, bảy ngày bảy đêm. Kế đó là ôn
dịch, ôn dịch bảy tháng bảy ngày. Kế tiếp là
đói kém, bảy năm bảy tháng bảy ngày. Trong kinh
đức Phật đă dạy điều này. Từ xưa
đến nay, chẳng có ai giảng rơ đoạn kinh
văn này, thuở trẻ, tôi đối với chuyện này
cũng hoài nghi: Đao binh kiếp là chiến tranh, chiến
tranh bảy ngày, ôn dịch bảy tháng, đói kém bảy năm!
Thuở trẻ, tôi sống trong thời kỳ Kháng Chiến,
[người Hoa] đánh nhau với người Nhật suốt
tám năm, chẳng coi đó là đao binh kiếp. Phải là
chiến tranh kiểu nào th́ chiến tranh trong bảy ngày mới
được coi là đao binh kiếp? Đại chiến
thế giới lần thứ nhất và đại chiến
thế giới lần thứ hai, thời gian dài như vậy,
vẫn chưa được coi là đao binh kiếp. Kết
quả là tôi cũng do ba mươi năm trước, theo
pháp sư Đạo An của Đài Loan, lăo nhân gia lập một đoàn sang thăm viếng Nhật Bản, tôi tham dự.
Đến Nhật Bản, đương nhiên là chúng ta sẽ
đến thăm Trường Kỳ và Quảng Đảo.
Sau khi trông thấy tôi mới hoảng nhiên đại ngộ: Nguyên lai, tiểu
tam tai như đức Phật đă nói là chuyện như
thế đó.
Khi
chúng tôi đến thăm, h́nh như Nhật Bản đầu
hàng c̣n chưa đến mười năm, đại khái
là năm thứ chín. Chỗ sau khi bị ném bom nguyên tử,
xác thực là bị bức xạ của bom nguyên tử chiếu
đến, chính là “ôn dịch” như kinh Phật đă nói. [Người bị nhiễm bức xạ] nghiêm trọng
th́ chẳng sống quá bảy tháng. Bảy, tám tháng sau sẽ
chết! Hậu di chứng của những người sống
sót măi cho đến nay vẫn hết sức đau khổ,
đúng là sống trong địa ngục nơi nhân gian.
Người nơi ấy nói với chúng tôi, chỗ bị
ném bom cây cỏ chẳng mọc được. Khi chúng tôi
đến đó, đă có một ít cây nhỏ. Họ bảo
chúng tôi: Năm trước (năm thứ tám) trên mặt
đất mới mọc cỏ. Chúng tôi nghĩ: Đức
Phật nói đói kém bảy năm bảy tháng bảy ngày,
trên mặt đất chẳng có thực vật, cỏ cây
chẳng mọc được, ngũ cốc, các thứ lương
thực, các thứ rau thảy đều chẳng có, đấy
chẳng phải là đói kém hay sao? V́ thế, từ chỗ
này bèn hiểu: Tiểu tam tai như đức Phật
đă dạy chính là chiến tranh vũ khí hạch nhân.
Có
thể xảy ra chiến tranh vũ khí hạch nhân hay không?
Hiện thời thấy càng có thể, càng có khả năng
này! Hiện tại, những vị lănh đạo quốc gia
coi như c̣n khá, có thể kiềm chế, ai cũng chẳng
mong phát động đại chiến hạch nhân. Nhưng
ba mươi năm sau, sáu mươi năm sau, cho đến
khi đó, những người [lănh đạo] khi ấy c̣n
có thể kiềm chế chính ḿnh hay không? Rất khó nói! Chúng
ta thấy thanh thiếu niên trong thời đại này tiếp
nhận sự giáo dục ǵ? Quư vị hăy nh́n từ chỗ
này. Hiện thời, phổ biến là được giáo dục
bởi những tṛ giải trí trên computer. Từ đường
phố, chúng ta thấy rất nhiều, những nơi có tṛ
chơi điện tử, trẻ nhỏ đắm ch́m, mê
man trong ấy! Xem ǵ vậy? Đánh đấm, thật sự
là bạo lực, t́nh dục, giết, trộm, dâm, dối,
chúng nó tiếp nhận sự giáo dục ấy. Từ nhỏ
đă tiếp nhận sự giáo dục ấy, chúng cứ
ngỡ là b́nh thường.
Hôm
trước, có một đồng tu đưa cho tôi xem một
trang báo, tôi liếc qua
những tiêu đề lớn, [thấy có đăng tin] học tṛ Sơ Trung (cấp
Hai) do chẳng có tiền mua máy chơi game điện
tử bèn trộm tiền, bị một bà cụ phát hiện,
bà cụ đă tám mươi bốn tuổi, hai đứa
nhỏ ấy liền giết phăng bà lăo! Học từ
tṛ chơi điện tử. Chúng nó đang chơi đùa,
chẳng biết giết người là có tội, chẳng
biết sát nhân là chuyện sai quấy! Quư vị nói c̣n làm thế
nào được nữa! Sau đấy, tôi xem trang sau tờ
báo, [thấy báo viết là] trong thời gian gần đây nhất,
chuyện thuộc loại như vậy đă phát sanh sáu lần!
[Thủ phạm] toàn là thanh thiếu niên, đều là chơi
game điện tử, đều học theo. Lại c̣n
nghe nói hai đứa học tṛ ấy c̣n là học sinh hết
sức ưu tú, quư vị nói làm thế nào được nữa?
Do vậy, ba mươi năm sau, người thuộc thế
hệ bọn chúng trưởng thành, nắm quyền lực
quốc gia trong tay, đối với những thứ vũ
khí hạch nhân và hóa học, chúng có thể coi là tṛ chơi
để ném lung tung hay không? Điều này rất khó nói! Từ
giáo huấn trong lịch sử, chúng ta biết giáo dục là “trên làm, dưới bắt
chước theo”, người thuộc thế hệ sau
học tập người thuộc thế hệ trước.
Chúng ta chẳng biết ngăn ngừa, thế hệ sau đă
biến thành chơi đùa, ngỡ chiến tranh là tṛ chơi,
đến thế hệ sau nữa, vấn đề càng
nghiêm trọng!
Do
vậy, có người lo lắng, nhân loại trên địa
cầu c̣n có thể sống thêm một trăm năm nữa
trên địa cầu hay chăng? Rất có vấn đề!
Nhân loại sẽ bị tiêu diệt toàn bộ trên
quả địa cầu này, chuyện này chẳng phải
là không thể! Hiện thời, tất cả mọi người
đều biết, trên thế giới có khá nhiều quốc
gia có vũ khí hạch nhân, nếu gộp lại, sẽ có
thể hủy diệt địa cầu mấy trăm lần.
Chẳng phải là mấy chục lần, mà là mấy trăm
lần, người trên địa cầu c̣n có cơ hội
sống sót hay chăng? Đây là sự thật bày ra trước
mặt chúng ta. V́ thế, gần đây, tôi đă nói vài
lượt: Biện pháp để pḥng ngừa chuyện này hữu hiệu
nhất chính là những quốc gia có vũ khí hạch nhân hăy tiêu trừ
hết các thứ vũ khí hạch nhân và vũ khí hóa học,
thảy đều tiêu trừ, thảy đều tiêu hủy.
Đấy là phương pháp an toàn nhất. Nếu những
thứ ấy c̣n lưu lại đó, bản thân quư vị chẳng dùng, bọn người
đời sau sẽ sử dụng, rốt cuộc là họa
hại!
V́
thế, quư vị càng nghĩ, [sẽ càng lo ngại] nhân loại
chẳng có tương lai, trong khá nhiều tôn giáo, điều
này được gọi là “tận
thế”. Hiện thời, hiện tượng tận thế
hết sức rơ ràng, hết sức hiển nhiên, chúng ta có
chú ư hay chăng? Quư vị chú ư điều này, [sẽ nhận
thấy] giữa con người với nhau, có ǵ đáng
để tranh giành nữa hay chăng? C̣n có chuyện tất
yếu phải tranh giành nữa chăng? Thật thà niệm
Phật, cầu sanh Tịnh Độ; đấy mới là
người thông minh bậc nhất trong nhân gian. Buông xuống
muôn duyên! Thế giới sẽ hướng đến tận
thế, chúng ta văng sanh thế giới Cực Lạc, đấy
là đúng, hoàn toàn chánh xác! Chúng ta có sự nhận biết này,
cảm nhận tánh chất nghiêm trọng của vấn
đề, nỗ lực liên kết những người
thật sự yêu chuộng ḥa b́nh, thật sự mong góp phần cống
hiến v́ ḥa b́nh trên thế giới để cùng nhau nỗ lực.
Phương
pháp duy nhất để có thể cứu vớt là hăy mạnh
mẽ, cực lực đề xướng giáo dục luân
lư, đạo đức, đề xướng giáo dục
yêu thương. Đệ Tử Quy có nói: “Phàm là người, đều phải yêu
thương”. Phải phát huy rạng rỡ nền giáo dục
yêu thương, đương nhiên là phải làm từ chính
bản thân ta. Trông thấy những vị có đức hạnh,
có lương tâm trong xă hội, chúng ta phải tôn kính, phải
tôn trọng, phải lễ kính, phải cùng nhau hợp tác để
cứu văn “thế vận” (世運), tức vận mạng của thế giới. Chuyện
này chẳng phải là một quốc gia, một khu vực,
mà là liên quan tới toàn thể địa cầu, toàn thể
nhân loại! Có sự nhận biết ấy, đấy chính
là Phật tri Phật kiến. Có cái tâm bi mẫn ấy, sẽ
là đại từ đại bi. Quư vị phải có đức
hạnh, phải có trí huệ, phải có phương tiện
thiện xảo. Hiện thời, trên thế giới, có khá
nhiều người có chí, có ḷng nhân đề ra: “Hóa giải xung đột, xúc tiến
xă hội an định, ḥa b́nh”. Đấy là đại
sự bậc nhất trong lúc này.
Người
lănh đạo Trung Hoa đề xuất “thế giới hài ḥa, làm từ nơi tâm”. Phương
hướng ấy chánh xác, mục tiêu
chánh xác. Thực hiện bằng cách nào? Do vậy, cục
tôn giáo quốc gia đề ra ba câu: “Tâm tịnh, cơi
nước tịnh. Tâm an, chúng sanh an. Tâm b́nh, thiên hạ
b́nh”, đề xuất khá lắm! Ba câu ấy chính là cảnh
giới của bậc Pháp Thân Bồ Tát trong Đại Phương
Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, thật sự có thể giải
quyết vấn đề. Tâm thanh tịnh như thế nào?
Tâm b́nh như thế nào? Tâm an như thế nào? Nẩy sanh vấn
đề! Vấn đề này xác thực ở trong kinh Vô
Lượng Thọ, trong kinh Hoa Nghiêm, trong kinh Pháp Hoa, trong
kinh Lăng Nghiêm. Các bài kệ trong ba đoạn này đều
có. Quư vị thấy, “nhất
thiết ḥa hợp, ly ngă tránh tâm, vô hữu phẫn hận,
chư thiên cập nhân, sở ưng kính lễ” (hết
thảy ḥa hợp, ĺa tâm ngă tránh, chẳng có phẫn hận,
chư thiên và người, đáng nên kính lễ), toàn là những
cách làm cụ thể để đạt đến “tâm tịnh, tâm an, tâm b́nh”. Nói
chung, trong kinh Đại Thừa, đức Phật đă
dạy chúng ta điều này: Ĺa vọng tưởng, ĺa phân
biệt, ĺa chấp trước th́ sẽ viên măn, “tâm tịnh, tâm an, tâm b́nh” sẽ
đạt tới viên măn rốt ráo.
Trong
kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và
đức tướng của Như Lai, chỉ v́ vọng
tưởng, chấp trước mà chẳng thể chứng
đắc”. Ba món vọng tưởng, phân biệt, và chấp
trước là chướng ngại. Có vọng tưởng,
tâm sẽ mê. Mê th́ sẽ chẳng an, giác ngộ bèn an. Trong
phần trước, tôi đă vài lượt nhắc đến
Nhị Tổ Huệ Khả của Thiền Tông. Tâm Ngài bất
an, thỉnh tổ sư Đạt Ma an tâm cho. Tổ sư
Đạt Ma nói mấy câu, dẫn phát ngài Huệ Khả giác
ngộ. Do giác ngộ, tâm bèn an. Có vọng tưởng, cái tâm
của quư vị làm sao có thể an cho được? Có phân
biệt, tâm quư vị làm sao có thể b́nh cho được?
Có chấp trước, tâm quư vị làm sao có thể tịnh
cho được? Chúng ta ĺa hết thảy chấp trước,
tâm sẽ thanh tịnh. Chấp trước là Kiến
Tư phiền năo. Ĺa hết thảy phân biệt, tâm b́nh
đẳng. Ĺa hết thảy vọng tưởng, tâm an,
từ Sơ Trụ trở lên, là cảnh giới của bậc
Pháp Thân Bồ Tát. Đề xuất khá lắm! Thật sự
nắm được cốt lơi để giải quyết
vấn đề, chúng ta chẳng thể không bội phục
điều này! Ba câu đề mục phụ thuộc ấy,
chẳng phải là kẻ ngoài ŕa mà ḥng nói được đâu
nhé!
Do
đó, chúng ta học tập hằng ngày, có thực hiện
được hay chăng? Vấn đề ở chỗ
này. Hằng ngày học tập mà vẫn chẳng thể thi
hành, tai nạn vẫn sẽ xảy ra, vẫn chẳng có cách
nào hóa giải, chúng ta chẳng nỗ lực th́ làm sao
được nữa? Tôi thường bảo các vị
đồng học: Phải thực hiện từ bản
thân chúng ta, phải buông xuống ư niệm khống chế hết
thảy người, sự, vật của chính ḿnh. Buông xuống
ư niệm đối lập, chúng ta mới có đường
nẻo để tiến vào. Nếu chẳng thể buông
xuống những điều ấy, quư vị sẽ chẳng
có đường nẻo ḥng tiến nhập; dẫu biết
đạo lư này, vẫn chẳng thể giải quyết vấn
đề. À! Chúng tôi bổ sung đoạn kinh văn này
đến đây!
Tập 1532
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ
mười một, tiểu đoạn thứ hai trong đoạn
lớn thứ sáu, xem từ bài kệ tụng thứ tư:
(Kinh)
Nhược kiến cao sơn, đương nguyện
chúng sanh, thiện căn siêu xuất, vô năng chí đảnh.
(Kinh: Nếu thấy núi cao, nguyện cho chúng sanh,
thiện căn vượt trỗi, chẳng thể tới
đỉnh).
Ra
ngoài khất thực, trên đường có thể trông thấy
núi, mà cũng có thể thấy sông ng̣i. Đấy là cảnh
quan dọc đường. Trông thấy núi cao, dẫn phát hoằng
nguyện của Bồ Tát: “Thiện
căn siêu xuất, vô năng chí đảnh” (Thiện căn
vượt trỗi, chẳng thể đạt tới đỉnh
được). Trong cảnh giới hiện tiền, chúng
ta sử dụng cái tâm phàm phu, tâm luân hồi, tu học Phật
pháp, ắt phải tác ư
(作意), tức là phải có ư nghĩ. Chúng ta ắt cần
phải biết, phẩm kinh Hoa Nghiêm này là cảnh giới
của Pháp Thân Bồ Tát. Sáu căn của Pháp Thân Bồ Tát
tiếp xúc cảnh giới sáu trần có cần tác ư hay chăng?
Thưa cùng chư vị, các Ngài đă chẳng có ư. Tông Pháp
Tướng nói là “chuyển Thức thành
Trí”. Hoa Nghiêm là kinh điển cơ bản
của Pháp Tướng, [kinh điển cơ bản của
Pháp Tướng bao gồm] sáu kinh và mười một luận,
trong sáu kinh có kinh Hoa Nghiêm. V́ kinh này dạy hết thảy vạn
vật trong vũ trụ đều là “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, cho
nên Pháp Tướng Duy Thức xếp bộ kinh này thành một
môn công khóa chủ tu của họ.
Trong
cảnh giới Hoa Nghiêm, đă chuyển tám thức thành bốn
trí. V́ thế, các Ngài chẳng khởi tâm động niệm,
mà cũng chẳng có phân biệt, chấp trước, phản
ứng là tự nhiên. Nay chúng ta hiểu rất rơ đạo
lư này. Quư vị thấy thí nghiệm của tiến sĩ
Giang Bổn Thắng người Nhật, c̣n có nghi hoặc
ǵ nữa chăng? Nước là khoáng vật, nó chẳng có
tâm phân biệt, mà cũng chẳng có tâm chấp trước.
Đối với bất cứ hiện tượng nào,
nước tuyệt đối chẳng khởi tâm động
niệm, nhưng v́ sao nó có thể hiện bày sắc tướng
bất đồng? Chúng ta thấy điều này dưới
kính hiển vi. Từ chỗ này, chúng ta bèn hiểu rơ, hiểu
chư Phật, Bồ Tát và chúng sanh trong mười pháp giới
cảm ứng đạo giao cũng giống như vậy!
Chúng sanh có cảm, Phật, Bồ Tát có ứng. Chúng sanh cảm
là hữu tâm, có nghĩa là họ có vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, họ có ư niệm. Phật,
Bồ Tát ứng chẳng có ư niệm. Chẳng có ư niệm
th́ các Ngài mới có thể “phổ
ứng” (普應, ứng trọn khắp), mới thật sự là thanh
tịnh, b́nh đẳng, đại giác, từ bi. Điều
này cho thấy chỗ khác biệt giữa chư Phật, Bồ
Tát và chúng sanh trong chín pháp giới, chúng ta chớ nên không biết.
V́
lẽ đó, một trăm bốn mươi mốt nguyện
ở đây đều là phản ứng tự nhiên của
Pháp Tánh, nay chúng tôi nói thông thường là “phản ứng” cho mọi người dễ hiểu
hơn đôi chút. Các Ngài chẳng có khởi tâm động niệm.
Chúng ta phải nên học theo cách nào? Chúng ta nhất
định sẽ khởi tâm động niệm, phàm phu mới
học Hoa Nghiêm, chúng ta luôn bắt đầu từ chỗ
này, thế nhưng bản thân chúng ta cần phải nên biết
[điều này], v́ sao? [Có biết] th́ mới có thể không
ngừng tăng tấn cảnh giới của chính ḿnh. Trông
thấy núi cao bèn nhắc nhở chúng ta không ngừng tăng
tấn thiện căn giống như thế, quá trọng
yếu!
Hiện
thời, thế giới ô nhiễm nghiêm trọng, hết sức
bất an, do nguyên nhân nào? Các đồng học trong đạo
tràng chúng ta phải nên biết rất rơ ràng: Chúng ta hằng
ngày cùng nhau học tập, cùng nhau thảo luận. Trong kinh
giáo Đại Thừa, đức Phật thường dạy:
“Cảnh chuyển theo tâm”.
Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đă nói rất rơ
ràng: “Nếu có thể chuyển
cảnh, ắt giống Như Lai”. Nay chúng ta phải học,
chẳng cần học điều chi khác, mà là học chuyển
cảnh giới như thế nào! Ta phải học chuyển
cảnh! Có thể học chuyển cảnh, tự nhiên sẽ
chẳng bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh bên
ngoài, quư vị có thể làm chủ hoàn cảnh. Nhưng phàm
phu thường là chẳng thể làm chủ hoàn cảnh, bị
hoàn cảnh bên ngoài xoay chuyển. Đó gọi là “học theo điều xấu”.
V́ sao học theo cái xấu? Họ chẳng có thiện
căn. Thiện th́ phải có căn! “Căn” là nói tỷ dụ, giống như thực
vật, cây cối, hoa, cỏ có cội rễ, sẽ có thể
sanh trưởng, sẽ xum xuê, sẽ đơm hoa, kết
quả. Chúng ta biết: Trong xă hội hiện tại, đại
đa số mọi người đánh mất thiện
căn. Nói thật ra, thiện căn hoàn toàn chẳng bị
mất đi, mà là do chính ḿnh mê, thiện căn bị biến
chất. Biến thành ǵ? Biến thành Tam Độc. Nguyên lai
là thiện căn, có thể sanh ra hết thảy thiện pháp,
nay bị biến thành Tam Độc, có thể tạo tác vô
lượng vô biên tội nghiệp. Học Phật, chư
vị phải hiểu, phải chuyển biến, phải
quay lại từ chỗ này, phải quay đầu. Quay lại,
quư vị mới có thể cứu chính ḿnh, trong tương
lai, chẳng đọa trong ba ác đạo. Nếu quư vị
chẳng quay lại, sẽ có phần trong tam đồ.
Ba
thiện căn, tức là ba thiện căn trong pháp thế
gian chính là không tham, không sân, không si. “Thiện căn” là nói tới chuyện này. Ba thiện
căn có thể sanh ra hết thảy các thiện pháp trong lục
đạo. Nếu tu ba thiện căn đến mức
viên măn, [đó là] “siêu xuất”.
Ở đây nói là “vô năng
chí đảnh” (chẳng thể đạt tới đỉnh),
thiện căn ấy thật sự đạt đến
đỉnh điểm. Đạt đến đỉnh điểm,
sẽ vượt thoát lục đạo luân hồi, người
ấy được gọi là A La Hán. Vô tham, vô sân, vô si.
Trong tam giới th́ có tham, sân, si; trái ngược [với vô
tham, vô sân, vô si], sẽ là Tam Độc. Đoạn hết
Kiến Tư phiền năo, sẽ chẳng có luân hồi trong
lục đạo. Quư vị bèn hiểu v́ sao có luân hồi trong lục
đạo? Chính là do tham, sân, si biến hiện. Quư vị
chẳng thể chuyển ba thứ ấy, sẽ chẳng
thoát khỏi luân hồi. Quư vị tu hành, kể như là vẫn có thiện căn, trong đời quá khứ
hoặc đời trước có thiện căn, quư vị
có thể gặp gỡ pháp môn Tịnh Độ. Pháp môn Tịnh
Độ th́ chẳng cần đoạn Tam Độc tham,
sân, si, vẫn có thể văng sanh, vẫn có thể vượt
thoát lục đạo, vượt thoát mười pháp giới.
Đấy là pháp môn chẳng thể nghĩ bàn, nhưng như
thế nào? Quư vị phải có thể khống chế Tam Độc!
Nếu chẳng thể khống chế, quư vị vẫn
thường để cho chúng nó phát tác, vậy là chẳng
có cách nào cả! Tuy tu pháp môn này, chẳng thể văng sanh trong
một đời này! Khá nhiều đồng tu chúng ta phải
nên hiểu rơ điều này, chớ nên bỏ lỡ cơ hội!
[Bỏ lỡ] th́ quá đáng tiếc!
Nhất
định phải biết, bất cứ điều ǵ
trong thế gian đều là giả. Kinh Bát Nhă nói: “Phàm những ǵ có h́nh tướng
đều là hư vọng”. Kinh Đại Bát Nhă tổng
kết: “Hết thảy các pháp
vô sở hữu, rốt ráo không, chẳng thể được”.
Câu nào cũng đều là nói lời thật với quư vị,
chớ nên không biết. Do vậy, đừng nên bị gạt
gẫm bởi những giả tướng này. [Nếu bị
chúng gạt gẫm], quư vị sai lầm mất rồi! Nếu
quư vị thông hiểu, giác ngộ, những giả tướng
ấy có gây trở ngại nơi Sự hay chăng? Chẳng
trở ngại nơi Sự! V́ sao? Chúng chẳng thật! Chỉ
cần quư vị chẳng động tâm, không động
niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước đối
với sáu căn, sáu trần, sáu thức, chuyện ǵ cũng
đều chẳng bị trở ngại. Đó gọi là “Lư Sự vô ngại, Sự Sự
vô ngại”. Kinh Hoa Nghiêm nói bốn loại pháp giới vô
chướng ngại, chẳng sai tí nào!
Bốn
loại pháp giới vô chướng ngại này chính là thọ
dụng từ sở tu, sở chứng của chư Phật,
Bồ Tát. Trọn khắp hư không, pháp giới, các Ngài có
thể đáng nên dùng thân ǵ để đắc độ,
bèn hiện thân ấy, đáng nên dùng phương pháp ǵ, tự
nhiên hiện ra phương pháp ấy, chẳng cần khởi
tâm động niệm. Giống như trong thí nghiệm kết tinh nước,
xác thực là nước chẳng khởi tâm, chẳng động
niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước,
thế mà cảm ứng trọn khắp với mọi người!
Chúng ta đông người như vậy, đối diện
với b́nh nước này, sắc tướng phản ứng
đối với mỗi người thảy đều
khác nhau. V́ sao khác nhau? Tâm mỗi người chẳng giống nhau; đó
là vọng tâm. Tới khi nào sẽ giống nhau? Chư Phật
và Pháp Thân Bồ Tát xem chén nước ấy, phản ứng
sẽ giống như nhau. Quư vị hỏi “v́ sao nước
phản ứng giống nhau” ư? V́ các Ngài đều chẳng
khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt,
chẳng chấp trước; do vậy nói “Phật Phật đạo đồng”. Chỉ cần
khởi tâm động niệm, hai người làm sao có thể
khởi tâm động niệm giống như nhau
được? Do vậy, sắc tướng sẽ phản
ứng khác nhau, phải hiểu điều này!
Khoa
học hiện thời thật ra vẫn là hữu hạn. Từ giáo pháp Đại Thừa,
chúng ta đọc thấy, v́ sao nước có thể phản
ứng? Tất cả vật chất đều là pháp
tướng, bản thể của chúng là Pháp Tánh. Nay chúng tôi dựa theo kiểu nói trong khoa học cho mọi
người dễ hiểu đôi chút, nhà Phật gọi là
Pháp Tánh, khoa học gọi nó là ǵ? Khoa học nói là “trường” (field). Nơi trường tụ
tập một số lớn năng lượng, sẽ biến thành vật chất; khi chúng tách ĺa
nhau th́ gọi là Trường. Do đó, Trường và vật
chất chẳng có ǵ phân biệt, là một, không hai. Trong Phật
pháp nói là “tụ, tán”; tụ
tập th́ nó biến thành vật chất, ĺa tan th́ gọi là
Trường. Nói theo Phật pháp, Pháp Tánh trọn khắp
pháp giới hư không giới, giống như Trường.
Pháp tướng th́ sao? Pháp tướng là vật chất, nó
có h́nh tướng, là Trường tụ tập lại, sẽ
biến thành tướng, [ta thường nói là] “hiện tướng”. Nói theo Duy
Thức Luận, Trường là Tự Chứng Phần, vật
chất là Tướng Phần; trong ấy c̣n có Kiến Phần.
Kiến Phần là thế giới tinh thần. Tinh thần chẳng
phải là vật chất, nó cũng là do Trường biến
hiện hành. Nói theo Phật pháp, trước hết là biến
thành tinh thần, sau đấy mới ngưng tụ biến
thành vật chất. Do vậy, Phật pháp c̣n nói tỉ mỉ
hơn khoa học một bậc! Tuyệt đối chẳng
phải là nói Trường trực tiếp biến thành vật
chất! Các nhà khoa học nói do một duyên nào đó, dưới
một điều kiện chi đó, đó chính như Phật
pháp nói đến Kiến Phần. Nhất định là trước
hết Tự Chứng Phần biến thành Kiến Phần,
rồi mới biến thành Tướng Phần.
Tướng
về cơ bản th́ có sắc, thanh, hương, vị, có
bốn loại trạng thái ấy. Khoa học hiện thời
có thể phát hiện, chỉ thấy sắc, c̣n có thanh (âm thanh),
c̣n có hương, c̣n có vị, vẫn chưa phát hiện!
Do vậy, tôi bảo tiến sĩ Giang Bổn Thắng, ông
vẫn phải dụng công. Nay ông đă từ nước phát hiện
sắc tướng của nó, chứ thanh, hương, vị,
ông vẫn chưa thể phát hiện. Ông đă phát hiện “thấy, nghe, hay, biết”. Thấy,
nghe, hay, biết là tánh năng, là bản năng, tức năng
lực sẵn có trong Pháp Tánh, chẳng có sanh diệt. Trừ
“năng” ra, nó c̣n có “đức”, đức là ǵ? Đức là sắc, thanh, hương,
vị. Ông ta phát hiện từ nước, tôi bảo ông
ta, kinh Phật có nói: Tất cả hết thảy vạn sự
vạn vật thảy đều có [tánh năng “thấy,
nghe, hay, biết”, đều có phẩm đức sắc,
thanh, hương, vị], ngay cả hư không cũng có.
Hư
không cũng là một pháp trong vạn pháp, chuyện này hết
sức chẳng thể nghĩ bàn! Nó có thể thấy, nghe,
hay, biết, nó có sắc, thanh, hương, vị. Nay chúng
ta nói là “lan truyền”, là “dao động”. Nếu nó chẳng có [những đức năng như
vừa mới nói], nó
sẽ lan truyền bằng ǵ? Lan
truyền với tốc độ nhanh nhất, thần kỳ
nhất chính là ư niệm của hữu t́nh chúng sanh. Bất
luận thiện niệm hay ác niệm, hễ ư niệm vừa
động, sẽ lập tức lan truyền khắp pháp giới
hư không giới. Chư vị phải biết: Ánh sáng lan
truyền, sóng điện từ lan truyền [với tốc
độ] một giây là ba mươi vạn cây số. Ánh
sáng mặt trời chiếu đến địa cầu
phải mất hơn tám giây. Ư niệm của chúng ta vừa
động đă trọn khắp pháp giới hư không giới,
sóng điện từ và ánh sáng làm sao có thể sánh bằng?
Đấy là “tiểu vu kiến
đại vu” (thầy đồng tay mơ gặp đại
phù thủy), chẳng có cách nào so sánh đuợc! Hiện thời,
khoa học kỹ thuật đă dần dần t́m ra những
chân tướng sự thật này, đối với chuyện
này, dường như họ đă dần dần thấu
hiểu phần nào. Hết sức đáng tiếc, các nhà
khoa học chẳng học Phật, chuyện này hết sức
đáng tiếc! Tôi tin là nếu họ học Phật, đọc
kinh Phật, sẽ có tánh chất khơi mở càng lớn hơn, họ
sẽ phát hiện càng nhiều thứ hơn nữa. Rất
đáng tiếc! Đấy có lẽ cũng là do người
phương Tây chẳng có phước báo bằng Trung Hoa. Bất
quá tôi nghĩ, cũng có lẽ là ḷng từ bi của Phật,
Bồ Tát!
Rốt
cuộc, tiến bộ khoa học là hữu ích hay là có hại
cho nhân loại? Phải xét theo ḷng người! Quư vị sử
dụng nó theo phương diện thiện, sẽ hữu ích
cho nhân loại. Dùng theo phương diện bất thiện,
sẽ làm hại nhân loại! Nó có thể tạo phước
cho nhân quần, mà cũng có thể tiêu diệt toàn thể nhân
loại. V́ thế, thiện căn quá trọng yếu. Nếu
cư dân trên địa cầu ai nấy đều có thiện
căn, nói thật thà, thiện căn là Tánh Đức, vốn
sẵn có trong tự tánh. Thưa cùng chư vị, trong tự
tánh chẳng có tham, sân, si, chẳng có ích kỷ, tiếng
tăm, lợi dưỡng, trong tự tánh thảy đều
chẳng có. Trong tự tánh chẳng có giết, trộm, dâm,
dối! V́ sao bị biến thành như vậy? Bằng một
câu nói, đức Phật đă nói toạc vấn đề:
“Mê mất tự tánh!” Tự
tánh vẫn tồn tại, [nhưng bị] biến chất,
thứ tốt đẹp nhất bị biến thành thứ
xấu xa nhất. Từ rất nhiều thứ vật chất,
chúng ta cũng thấy, thứ tốt nhất và thứ tệ
nhất là cùng một thứ, rất kỳ diệu! Có thể
hiểu rơ ràng, hiểu minh bạch tâm tánh, sẽ chẳng có
niềm nghi hoặc ấy nữa!
Do
vậy có thể biết, hết thảy chúng sanh vốn sẵn
có thiện căn. Tổ tiên dạy mọi người “nhân chi sơ, tánh bổn thiện” (con người thoạt đầu tánh vốn lành),
đó chính là thiện căn. “Nhân
chi sơ” chẳng phải là nói lúc mới sanh ra, mà là nói
tới bản tánh của quư vị. Bản tánh của quư vị
vốn sẵn lành. Trong Phật pháp có nói: “Hết
thảy chúng sanh đều có Phật tánh”, bản tánh là
Phật tánh, là thiện, chẳng phải là ác. V́ sao bị biến
thành ác? Mê rồi! Kinh Phật dạy: “Do một
niệm bất giác, mà có vô minh”, đấy là mê. V́ sao một
niệm bất giác? Một niệm bất giác bắt đầu
từ thuở nào? Từ xưa tới nay, rất nhiều
người nêu ra vấn đề này. Phật giáo gọi vấn
đề này là “đại vấn đề”, tức chẳng phải là một vấn đề
nhỏ nhoi, mà là một vấn đề to lớn. Thời
Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, chúng ta đọc kinh Lăng
Nghiêm thấy chép tôn giả Phú Lâu Na đă hỏi Thích Ca Mâu
Ni Phật vấn đề này: “V́
sao có vô minh? Vô minh có từ khi nào? Chúng ta thật sự trải
qua vô lượng kiếp tu hành ḥng đoạn
trừ vô minh. Sau khi đă đoạn, khi nào vô minh sẽ lại
dấy lên?” Tôn giả Phú Lâu
Na đă hỏi nhiều vấn đề như vậy, hỏi
rất hay, đức Thế Tôn giải đáp rất khéo.
[Những điều này đều được ghi chép
trong] kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng
Nghiêm, h́nh như là trong quyển thứ tư.
Hôm
qua, có một vị lăo pháp sư đến gặp tôi, tôi
chẳng nhớ ra, đă ba mươi năm chẳng gặp
gỡ. Sư năm nay tám mươi lăm tuổi. Sư nói
với tôi: Ba mươi năm trước, tôi giảng
kinh Hoa Nghiêm ở phố Lam Đường (Blue Pool Road), Sư
đến nghe mỗi ngày. Tôi ngẫm nghĩ, bảo: “Chẳng
phải là tôi giảng kinh Hoa Nghiêm, mà là giảng kinh Lăng
Nghiêm”. Ba mươi năm chẳng gặp mặt, đôi bên
rất cảm khái. Thính chúng ba mươi năm trước
tại phố Lam Đường, [trong đó có] những vị
pháp sư, khi đó c̣n có không ít vị pháp sư đến
nghe kinh, quá nửa đă chẳng c̣n tại thế, đời
người vô thường! Khó có, Sư đă tám mươi
lăm tuổi, vẫn nhớ đến thăm tôi!
Bởi
lẽ, tuy có thiện căn, nhưng quư vị đă mê, lại
c̣n mê quá lâu, càng mê càng sâu hơn, rất khó giác ngộ. Vậy th́ cần
phải nhờ vào ǵ? Nương cậy Phật, Bồ Tát
dắt d́u. Bồ Tát là ai? Người giác ngộ là Bồ
Tát. V́ sao? Người giác ngộ có cảm, ví như trong các
đồng học chúng ta do biết có Phật, biết có
Phật giáo, biết mời pháp sư đến giảng kinh,
đến dạy học, đấy là giác. Quư vị có cái
tâm ấy, sẽ có cảm ứng, sẽ có người
đến dạy quư vị, đấy là đạo lư nhất
định. Có người có cái tâm ấy, nhưng từ
đầu đến cuối chẳng có cảm ứng, tức
là sự cảm của quư vị chưa đủ sức
mạnh. Nếu đủ sức mạnh, sẽ ứng chẳng
thể nghĩ bàn. Cớ sao chẳng đủ độ mạnh?
Tâm quư vị chẳng chân thành! Ấn Quang đại sư dạy:
“Một phần thành kính được
một phần lợi ích, hai phần thành kính được
hai phần lợi ích, mười phần thành kính được
mười phần lợi ích”. Tâm quư vị có sự chân
thành, nhưng chẳng đủ, vẫn chẳng đủ
sức, đạo lư là như thế đấy!
Từ
sự trải nghiệm của chính ḿnh trong đời này,
tôi hiểu rơ. Khi tôi học Phật, thái độ hết sức
kiền thành. V́ sao? Tôi đă đến mức hết
đường xoay sở! Trong hoàn cảnh gian nan, khốn
khó đến tột cùng, không đường nào xoay xở.
Ngay khi ấy được nghe Phật pháp do Phương
tiên sinh giới thiệu. Trước kia, tôi ngỡ [Phật
pháp] là mê tín, hoàn toàn chẳng thể tiếp nhận. Thầy
Phương giới thiệu, tôi mới hoảng nhiên đại
ngộ, thật sự là ǵ? Toàn thân gieo vào! Quư vị thấy
đấy chính là “có cảm”, bản
thân tôi cũng chẳng ngờ! Gặp gỡ một vị
thân vương cuối đời Thanh, vào đời Thanh,
ông ta hiển hách lắm, sau khi nhà Thanh mất nước, ông
ta biến thành thường dân. Thuở ấy, chúng tôi là hàng
xóm, ở cách nhau chẳng xa, quen biết nhau. Ông ta giới
thiệu, dẫn tôi đến gặp gỡ, quen biết
Chương Gia đại sư. Vừa gặp mặt đă
thân thiết, hữu duyên mà! Đại thiện tri thức
đặt vững cơ sở Phật pháp cho tôi. Tôi theo Ngài
ba năm, lăo nhân gia viên tịch. Một năm sau đó, quen biết thầy Lư. Thầy Lư
là học tṛ của Ấn Quang đại sư, tôi theo thầy
mười năm. Toàn tâm theo học, chẳng có hoài nghi, chẳng
xen tạp, chẳng gián đoạn. Thuở ấy, tôi hai mươi
sáu tuổi, học Phật suốt năm mươi lăm
năm, suốt cả đời xác thực là cảm ứng
chẳng thể nghĩ bàn.
V́
thế, tôi nói: “Chẳng thể nói là quư vị không có cảm,
chỉ là chẳng đủ độ mạnh, cho nên các vị
chẳng thể được thọ dụng, [hoặc là]
được thọ dụng quá nhỏ, chẳng thể chuyển
cảnh giới. Nói cách khác là do chẳng buông xuống tham,
sân, si, mạn, nghi. Bản thân quư vị khéo phản tỉnh
sẽ biết”. Ích kỷ, tiếng tăm, lợi dưỡng,
ngũ dục, lục trần, tham, sân, si, mạn, tôi
thường nói mười sáu chữ ấy, quư vị
đă buông xuống mấy phần? Khi quư vị chẳng học
Phật th́ là một trăm phần trăm, nay quư vị
buông xuống mấy phần? Buông xuống một, hai phần
mà thôi, vậy th́ làm sao được! Tối thiểu là quư
vị phải buông xuống năm mươi phần trăm,
sáu mươi phần trăm, sẽ khác hẳn! Nếu quư
vị có thể buông xuống tám mươi, chín mươi
phần trăm, cảm ứng sẽ rất rơ rệt! Chẳng
có chi khác, nói toạc ra, bí quyết là như thế đó!
Ngày đầu tiên, tôi gặp Chương Gia đại
sư, Ngài đă truyền dạy phương pháp này cho tôi,
tôi tin tưởng Ngài, thật sự làm theo. Phải buông
xuống tham, sân, si, siêng tu Giới, Định, Huệ.
Cư
xử với hết thảy người, sự, vật,
có khó khăn ǵ? V́ sao hiện
thời ngay cả người trong cùng một
đạo tràng cư xử với nhau khó khăn dường
ấy, do nguyên nhân nào? Chẳng buông xuống! Chư vị
đồng tu nhất định phải hiểu điều
này! Tổ tiên đă dạy hết sức hợp lư, thường
nói là “hành hữu bất đắc,
phản cầu chư kỷ” (có chuyện
ǵ chẳng làm được, hăy xét lại chính ḿnh). Quư vị
chẳng cần trách móc kẻ khác, hăy tự ḿnh buông xuống.
Nếu quư vị mong kẻ khác buông xuống, đúng là c̣n khó hơn
lên trời! Cổ nhân nói đời người có hai thứ
khó khăn to lớn: “Đăng thiên nan, cầu
nhân nan” (Lên trời là khó, cầu cạnh người khác là khó).
Để thành Phật, thành Tổ, chớ cầu kẻ khác, hăy cầu
nơi chính ḿnh! Cầu chính ḿnh, chỉ cần chính ḿnh chịu
làm, sẽ chẳng khó. Chính ḿnh chẳng chịu làm, khó lắm!
Chuyện này chớ nên cầu cạnh người khác! Ta có
thể buông xuống ḷng ích kỷ hay không? Có thể buông xuống
tiếng tăm, lợi dưỡng hay không? Có thể buông
xuống tham, sân, si, mạn hay không? Có thể buông xuống hết
thảy những thứ dụ dỗ, mê hoặc hay không?
Trong Đàn Kinh, Lục Tổ đă yêu cầu chúng ta phải
buông xuống Thập Ác, phải buông xuống Bát Tà, c̣n
phải buông xuống hết thảy những tập khí bất
thiện. Ngài nói ra một hơi mười một loại;
cuối cùng, dạy quư vị buông xuống hết thảy các
hành vi bất thiện. Quư vị thấy bậc đại
đức trong Tông Môn, từ giáo huấn của Ngài, vẫn
là trước hết là Giải, sau đó mới hành. Cuối
cùng là buông xuống hết thảy các hành vi bất thiện,
đó là Hành, quư vị mới có thể khế nhập cảnh
giới của Bồ Tát th́ mới có thể được
thọ dụng!
Thọ
dụng là ǵ? Thọ dụng ngay trong hiện tiền, chính
là cuộc sống hiện tiền. Trong hiện tiền,
trong công việc, đăi người, tiếp
vật hằng ngày, xác thực là khế nhập cảnh giới
khác hẳn. So với trước kia, giống như quư vị
biến đổi thành một con người khác hẳn,
chẳng phải là cùng một người! Tâm địa
quư vị thanh lương, tự tại, sẽ giống
như Huệ Năng đại sư đă nói: “Chỉ sanh trí huệ, chẳng sanh
phiền năo”. Nay quư vị sống cuộc đời ǵ?
Sống cuộc đời giống như mọi người,
nhưng mọi người sống đời phàm phu, quư vị
sống cuộc đời Bồ Tát. Trong tâm mọi người
chỉ sanh phiền năo, chẳng sanh trí huệ. Quư vị chỉ
sanh trí huệ, chẳng sanh phiền năo. Vậy th́ làm sao có
thể giống nhau cho được? Nếu muốn khế
nhập cảnh giới này, chẳng có ǵ khác, hăy buông xuống.
Đă buông xuống, vẫn phải [tiếp tục] buông xuống!
Giống như lên núi, quư vị chẳng buông xuống
bước dưới thấp, làm sao có thể bước lên cao hơn được?
Giống như chúng ta lên cầu thang, quư vị buông xuống
tầng thứ nhất, mới có thể lên được
tầng thứ hai, buông xuống tầng thứ hai, quư vị
mới có thể lên tầng thứ ba.
Trong
mười pháp giới, chúng ta cũng giống như vậy.
Nay chúng ta ở trong nhân đạo, hăy buông xuống nhân đạo
để đến thiên đạo, buông xuống thiên đạo
để đạt đến Thanh Văn đạo, buông
xuống Thanh Văn đạo để đạt đến
Duyên Giác đạo. Từng bước lên cao hơn là đúng;
đó gọi là thiện căn. Nếu mê mất tự tánh,
sanh phiền năo, chẳng sanh trí huệ, tạo ác nghiệp,
chẳng biết tạo thiện nghiệp, quư vị sẽ
tuột dốc. Từ nhân đạo tuột thẳng xuống
súc sanh, trượt xuống ngạ quỷ, trượt xuống
địa ngục, sai mất rồi! Quư vị đi theo
hướng ngược lại, trái nghịch Tánh Đức.
Học Phật, đức Phật dạy chúng ta tùy thuận
Tánh Đức, đó là đúng. Quư vị chớ nên trái nghịch.
Khi trái nghịch Tánh Đức, chắc chắn là quư vị
sẽ tuột dốc. Tùy thuận Tánh Đức, tiền
đồ của quư vị là một bầu quang minh kim sắc.
Chớ nên không biết chuyện này!
Hiện
thời, chúng ta có ba thiện căn ấy hay chăng? Phải
hỏi chính ḿnh. Chẳng có tâm tham đối với pháp thế
gian và xuất thế gian. Trong hết thảy nghịch cảnh,
chẳng sanh sân khuể. Hết thảy các pháp thế gian
và xuất thế gian ở trước mặt, đều hiểu rành
mạch, rơ ràng, đó là chẳng ngu si. Đấy là Tánh
Đức của chính ḿnh, do chính ḿnh vốn sẵn trọn đủ, nay đă mê mất. Do mê mất liền
biến thành tham, sân, si. Tham, sân, si là Tam Độc phiền
năo, có thể sanh ra hết thảy các ác nghiệp trong lục
đạo, quư vị nói có đáng sợ lắm hay không? Mỗi
cá nhân đều trọn đủ tham, sân, si, mạn. Tham,
sân, si, mạn tăng trưởng hằng ngày. V́ thế,
thuở đức Thế Tôn trụ trong thế giới này,
Ngài đă nói “ngũ trược
ác thế”. Đức Thế Tôn đă nói lời ấy
từ ba ngàn năm trước. Cho đến ngày nay, năm
món trược ác ấy đă đạt tới mức tột cùng. Trược ác khiến cho con người không cách nào chịu đựng được. Thế giới
này đúng là “tận thế”
như các tôn giáo phương Tây đă nói.
Những vị thánh nhân sáng lập
mỗi tôn giáo đều biết, đều thấy rất rơ ràng, rất minh bạch. Trong thời
đại hiện tại, đă tiến nhập bờ mé
tận thế, có thể cứu văn hay không? Có thể hóa giải
hay không? Có thể là đẩy lùi tận thế hay không? Câu
trả lời luôn là khẳng định, chỉ cần quư
vị chuyển biến ư niệm. Quư vị có thể chuyển
đổi Tam Độc, biến chúng thành ba thiện căn,
sẽ chẳng có hiện tượng này. Giống như
trong thí nghiệm với nước, chúng ta viết chữ
“tham, sân, si”, trong tâm thật
sự là tham, sân, si, viết ra ba chữ ấy, dán trên b́nh
nước, b́nh nước sẽ [có kết tinh] hết sức
khó coi! Chúng ta gỡ bỏ ba chữ “tham, sân, si”, đổi
thành Giới, Định, Huệ, lại dán lên, [kết
tinh của] nước sẽ biến thành hết sức đẹp
đẽ, có tác dụng bồi bổ hết sức tốt
đẹp đối với thân thể của con người.
Nước chẳng biến đổi, do ư niệm của
chúng ta biến đổi, nó biến đổi theo. Đấy
gọi là “cảnh chuyển
theo tâm”, vạn sự vạn vật trong vũ trụ đều
chuyển theo cái tâm của chính ḿnh. Hiểu đạo lư
này, ai nấy đều ǵn giữ thiện tâm, đều có
thiện niệm, đều có hành vi tốt lành, tam tai bát nạn
sẽ chẳng có, thế giới này liền biến thành thế
giới Cực Lạc.
Nói
“tâm tịnh ắt cơi Phật tịnh,
tâm an ắt chúng sanh an, tâm b́nh ắt thiên hạ b́nh” là thật,
chẳng giả, có thể làm được, chẳng phải
là không làm được. Nhất định phải cậy
vào sự nỗ lực và giác ngộ của mọi người.
Dùng phương pháp ǵ? Ngoài giáo dục ra, c̣n có cách nào hay chăng?
Tổ tiên từ năm ngàn năm đă dạy chúng ta, nội
dung dạy bảo là ǵ? Tôi quy nạp thành bốn điểm,
luân lư, đạo đức, nhân quả, tôn giáo, bốn loại
giáo dục ấy. Bất luận gia đ́nh cũng thế,
mà trường học và xă hội cũng thế, thảy
đều nói tới bốn loại giáo dục ấy, nhưng
căn bản là trong gia đ́nh. Vun quén căn cội gia giáo
sâu dầy, đấy thật sự là tốt lành, có căn
cội, suốt đời sẽ chẳng biến đổi.
Bất luận trong một đời, gặp phải những
cái gọi là nghịch cảnh, ác cảnh, nghịch duyên hay
ác duyên ngặt nghèo, người ấy đều có thể
như như bất động, đều có thể b́nh an
vượt qua, đó là ǵ? Thiện căn sâu dầy, chịu
nổi sự khảo nghiệm của gió to, mưa lớn,
người ấy vẫn có thể sừng sững bất
động. Thiện căn sâu dầy th́ người ấy mới có
thể vượt qua. Nếu thiện căn chẳng sâu dầy
dường ấy, sẽ rất dễ dàng bị cảnh
giới bên ngoài lay động!
Tiếng
tăm, lợi dưỡng, trong ấy, nghiêm trọng nhất
là tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê. Hiện
thời, sự dụ dỗ, mê hoặc vượt trỗi
thời cổ không chỉ là gấp trăm lần, quư vị
có thể chẳng động tâm ư? Quư vị có thể
chẳng bị dụ dỗ, mê hoặc ư? Nhưng chính quư
vị phải giác ngộ: Quư vị động tâm, trong cảnh
giới quư vị chẳng thể chống đỡ
được, sẽ đi vào tam đồ. Cái tâm tham ái dấy
lên, sẽ là ngạ quỷ đạo. Tâm sân hận dấy
lên, sẽ là địa ngục đạo. Chẳng thể
phân biệt tà, chánh, thiện, ác, sẽ là súc sanh đạo.
Do vậy, v́ sao các vị cao tăng đại đức
thời cổ đều kiến lập đạo tràng ở
chỗ núi non hẻo lánh, ít dấu chân người lui tới,
nguyên nhân ở chỗ nào? Do biết kẻ sơ học chẳng
thể chống nổi dụ dỗ, mê hoặc, [cho nên] tách
ĺa. Quư vị chẳng có năng lực đối kháng, giống
như hiện thời mắc bệnh, chẳng có sức miễn
dịch, bèn ngay lập tức rời khỏi, ĺa khỏi
chỗ đang có bệnh dịch. Quư vị thật sự có
sức miễn dịch th́ được, quư vị có thể
đến giúp đỡ những người bệnh ấy.
Nếu không, quư vị chẳng có năng lực ấy mà tới
giúp đỡ người bệnh, tự ḿnh tặng không
một mạng, sai mất rồi! Nay đă hết thời
gian rồi, chúng ta nghỉ ngơi mấy phút!
***
Chư
vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin hăy
xem bài kệ tiếp theo:
(Kinh)
Kiến cức thích thụ, đương nguyện chúng
sanh, tật đắc tiễn trừ, Tam Độc chi thích.
(Kinh: Thấy cây gai góc, nguyện cho chúng sanh, nhanh chóng cắt
bỏ, gai nhọn Tam Độc).
Bài
kệ này hoàn toàn tương phản với bài kệ
trước. Trong bài kệ trước, khi thấy núi cao, phản
ứng tự nhiên là “thiện
căn vượt trỗi”. Nay trông thấy những cây
có gai, thứ này cũng rất nhiều, khá nhiều cây cối,
hoa, cỏ có gai. Sau khi trông thấy, phản ứng tự
nhiên là “tật đắc tiễn
trừ” (nhanh chóng cắt bỏ). Chữ “tiễn” (翦) này có cùng ư nghĩa với chữ
“tiễn đao” (剪刀,
kéo) thông thường, tức là nhanh chóng diệt trừ. Chữ
Thích (刺) khiến chúng ta liên tưởng Tam Độc,
“Tam Độc chi thích”
(gai góc Tam Độc). Nh́n từ quả báo, họa hại
của Tam Độc là chúng sẽ cảm vời ba ác đạo.
Hơn nữa, trong xă hội hiện tiền, Tam Độc
tham, sân, si khiến cho chúng ta có cảm xúc sâu
xa, gây thương tổn nghiêm trọng nhất cho xă hội.
Nếu chẳng thể ngăn ngừa, rất có thể sẽ
dẫn tới sự hủy diệt toàn thể nhân loại
trên địa cầu. Đấy chẳng phải là thiên
tai, nhân họa, mà là do ác nghiệp của chính ḿnh chiêu cảm.
Trong
những năm gần đây nhất, chúng ta thấy lứa
tuổi phạm tội dần dần hạ thấp. Thời
cổ, chẳng nghe thấy thanh thiếu niên phạm tội,
[lư do là v́ thuở
trước] gia đ́nh quản
giáo rất nghiêm ngặt, gần như chẳng hề có
chuyện này! Hiện thời, tôi nghe các đồng học
kể, lứa tuổi phạm tội nhỏ nhất là hai
tuổi, quư vị nói có đáng sợ lắm hay không? Phổ
biến nhất là mười mấy tuổi, rất phổ
biến. Do nguyên nhân ǵ? Tham, sân, si chẳng ngừng tăng
lên. Bên ngoài lại có dụ dỗ, mê hoặc; tiếng tăm, lợi
dưỡng, tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ
nghê dụ dỗ, mê hoặc. Thêm vào đó, chẳng
có giáo dục luân lư, đạo đức, chẳng có giáo dục
nhân quả, tôn giáo, cứ ngỡ làm những chuyện ấy
sẽ chẳng có báo ứng, không ai có thể trừng phạt.
Hiện thời, chẳng biết mỗi ngày có bao nhiêu
trường hợp thanh thiếu niên phạm tội, chúng
tôi chẳng điều tra. Nếu quư vị nh́n thấy con
số ấy, đúng là mắt thấy chuyện đáng sợ, ḷng kinh hăi, thế giới này c̣n có tương lai [tươi
sáng] nổi ư?
V́
sao có hiện tượng này? Tự nhiên khiến tôi nghĩ
tới lời nói của tiên sinh Phương Đông Mỹ
vào năm xưa: Ai dạy bọn nhi đồng? TV dạy
dỗ, computer dạy dỗ, Internet dạy dỗ. Hiện
thời c̣n ghê gớm hơn, tṛ chơi điện tử dạy
dỗ, làm sao được nữa? Chúng nó chẳng biết
là phạm tội, bọn chúng chơi đùa, chẳng biết
là tội lỗi, đùa bỡn, [cứ tưởng] giết người
là tṛ chơi. V́ sao? Hằng ngày thấy chuyện sát nhân
trong tṛ chơi điện tử, thấy quá nhiều. Đó
là tṛ du hư, giết người thật sự th́ cũng là
tṛ du hư, quư vị nói có đáng sợ hay chăng? Khiến
cho tôi liên tưởng có rất nhiều quốc gia trên thế
giới hiện thời tồn trữ vũ khí hạch nhân,
vũ khí hóa học, thường gọi là “vũ khí có sức sát thương to lớn”. Số
lượng hợp chung lại có thể nhiều hơn
mười vạn món, có thể hủy diệt địa
cầu hơn mấy trăm lần. Quư vị nói có đáng
kinh hăi hay không? Qua ba mươi năm sau, lũ trẻ nhỏ
ấy lớn lên, do được tṛ chơi điện tử
dạy dỗ từ bé, chúng nó có thể lấy bom nguyên tử
quăng khắp nơi để chơi giỡn hay không? Rất
khó nói! Hiện thời, những vị lănh đạo quốc
gia c̣n có thể kiềm chế, kiềm chế chính ḿnh chẳng phát động chiến
tranh vũ khí hạch nhân. Ba mươi năm sau, bọn trẻ
lớn lên, chúng nó có thể kiềm chế hay chăng? Rất
có vấn đề!
Từ
chỗ này, khiến cho chúng tôi cảm nhận rất sâu về
tận thế. Rốt cuộc ngày nào nhân loại trên địa
cầu sẽ bị diệt mất, rất nhiều vị
học giả tôn giáo nói: “Chẳng có ai biết được
chuyện này. Gia Tô (Jesus) cũng không biết, chỉ có Thượng Đế
biết. Nói theo Hồi giáo th́ chỉ có Allāh biết, Mục Hăn Mặc
Đức (Mohamed) cũng không biết”. Lời này nói cũng chẳng
sai! Nay chúng ta nh́n vào hiện tượng xă hội trong hiện
thời, quư vị nói xem có thể hay không? Hết sức là
có thể!
Làm
thế nào để cứu văn tai nạn to lớn, tai nạn
to lớn ấy của
toàn thể nhân loại? Thật sự chỉ có một phương
pháp, những vị lănh đạo và quốc dân của các đại
quốc và tiểu quốc có vũ khí hạch nhân trên thế
giới phải giác ngộ. Sau khi đă thật sự giác
ngộ, các thứ vũ khí hạch nhân ấy đều nên
hủy diệt, tiêu hủy, tai nạn sẽ giảm nhẹ!
Phải cực lực thúc đẩy giáo dục văn hóa đa
nguyên, giữa con người với nhau phải tôn trọng
lẫn nhau, quan tâm lẫn nhau, hỗ trợ hợp tác, cùng
nhau sáng tạo sự tiếp tục cư trụ lâu dài của
nhân loại trên địa cầu này, cùng nhau sáng tạo một
hoàn cảnh sống tốt đẹp, cần ǵ phải làm
chuyện ngốc nghếch “cùng nhau chết sạch” ấy?
Đây là một đại vấn đề xă hội nghiêm
trọng nhất trong thế kỷ hai mươi mốt.
Hiện thời, có khá nhiều người có chí, bậc nhân
từ trên thế giới này thường suy nghĩ làm như
thế nào để hóa giải xung đột, xúc tiến xă
hội an định, ḥa b́nh.
Có
thể thực hiện ḥa b́nh hay không? Chúng tôi ở tại
Đồ Văn Ba (Toowoomba) của Úc, đă chiêu đăi một
lần ở nơi ấy, [chiêu đăi] các trẻ nhỏ ở nơi đó. Có một đứa trẻ
đă nêu câu hỏi như thế này: “Có thật sự
hy vọng đạt
được ḥa b́nh hay không?” Nêu
câu hỏi là một đứa học tṛ Sơ Trung (cấp Hai). Một
đứa học tṛ nhỏ nẩy sanh cái nh́n hoài nghi nghiêm
trọng như thế đối với ḥa b́nh, chúng ta chẳng
thể không coi trọng. Người bàn chuyện này rất
nhiều. Liên Hiệp Quốc nghiên cứu, bàn bạc vấn
đề này hằng ngày, thực hiện như thế nào?
Thật sự muốn thực hiện, nhất định
là phải làm từ nơi ta, đừng đ̣i hỏi người
khác! Ai nấy đều quay lại làm từ chính ḿnh th́ mới
có thể hóa giải xung đột, mới có thể khôi phục
ḥa b́nh. Mong muốn người khác buông xuống trước,
sẽ chẳng thể được! Ai chịu buông xuống? Chuyện này
cần phải có trí huệ bậc cao, từ bi vô lượng
th́ mới có thể làm được, mới thoát ra được. Cứu chính ḿnh, cứu chúng sanh.
Động
lực là ǵ? Chính là giác ngộ, trong Phật môn nói là “đại triệt đại
ngộ”. Hiểu rơ ràng, hiểu minh bạch toàn bộ các chân tướng sự thật này, người ta sẽ
có thể làm được. Nếu chẳng hiểu rơ ràng
cho lắm, sẽ ngờ vực: “Ta buông xuống, kẻ khác
chẳng buông xuống th́ làm như thế nào đây? Chẳng phải là ta bị thua thiệt ư?”
Từ đầu tới cuối chẳng dám chịu thua
thiệt! Người Hoa nói “bị
thua thiệt là có phước”, họ nghe câu này sẽ chẳng
hiểu: “V́ lẽ ǵ thua thiệt lại có phước? Bị
thua th́ là họa hại, bị kẻ khác lừa gạt, phụ
bạc mà vẫn là phước ư?” Bị thua thiệt thật
sự là phước, đạo lư này quá sâu, cũng chẳng
phải là những kẻ b́nh phàm mà ḥng thật sự nh́n
ra sự thật này! Trước mắt, bị thua thiệt
là to lớn, chẳng ngờ về sau phước vô cùng! Lư
và Sự này đều quá sâu, phải rất lắng ḷng
quan sát, tư duy kỹ càng, chẳng chấp trước,
chẳng phân biệt, quư vị mới có thể thật sự
đạt đến chân tướng sự thật, mới
hiểu lời cổ thánh tiên hiền là chân lư, chắc chắn
chẳng sai!
Sâu
hơn một tầng nữa, quư vị sẽ hiểu rơ nhân
quả ba đời. Nhân quả ba đời: Báo ân, báo oán,
đ̣i nợ, trả nợ. Nếu trong đời quá khứ,
quư vị chẳng có oán cừu với kẻ ấy, dẫu
là địch thủ, gặp phải hắn, hắn cũng
chẳng giết quư vị. Nếu bảo là “ngộ sát” (誤殺, lỡ tay giết lầm), chẳng có chuyện ấy
đâu nhé! Ngộ sát cũng có nhân duyên. Giống như nhà
tiên đoán Khải Tây (Edgar Cayce) của Mỹ thuộc thế kỷ trước
đă nói, bất cứ người
nào trên toàn thể thế giới, những chuyện gặp
gỡ trong một đời [người ấy], chẳng
có chuyện nào là không có nhân (chẳng có cái nhân trước)
đột nhiên phát sanh.
Ông ta nói “chẳng hề có!” Ông ta nói hết sức khẳng định: “Chuyện
dẫu nhỏ nhặt cách mấy, đều có cái nhân trong
quá khứ”.
Người Hoa nói “nhất ẩm, nhất
trác, mạc phi tiền định” (một hớp uống, một miếng ăn, không
ǵ chẳng phải là đă được định sẵn),
lời ông ta nói và câu thành ngữ [vừa dẫn trên đây] có ư nghĩa hoàn toàn giống nhau.
Phật
pháp bảo chúng ta: “Muốn biết
cái nhân đời trước, những ǵ hứng chịu
trong đời này là nó. Muốn biết cái quả trong đời sau,
những ǵ đă làm trong đời này chính là nó”. Chúng ta hiểu rơ đạo lư này, có thể thật
sự buông xuống, sẽ chẳng bận ḷng, mà cũng sẽ
chẳng sợ hăi. Nếu gặp phải oan gia đối
đầu, trong quá khứ ta giết kẻ đó, đời
này hắn nhất định giết ta, ta chẳng cần
phải chống cự, đền mạng. Trong quá khứ,
ta đoạt tài sản của hắn, đời này ta vẫn
phải đền trả hắn, hắn tước đoạt
của ta. Quư vị tiếp nhận sự báo ứng này, tâm
b́nh khí ḥa, nợ của ta
đều trả sạch cả rồi! Đây là chuyện tốt đẹp, chẳng phải
là chuyện xấu, đời sau là bạn tốt. Ta trả
nợ mà chẳng oán hận, chẳng báo thù, đời này
ta khẳng định tăng tấn, sẽ chẳng đọa
lạc, điều này quan trọng lắm!
Người
trong thế gian này thọ mạng ngắn ngủi, trăm năm
[giống như] một cái khảy ngón tay. Thời gian chẳng
phải là thật! Kẻ đă trưởng thành cảm thấy
thời gian hết sức nhanh chóng. Tiến sĩ Thang Ân Tỷ
(Arnold Toynbee) đă từng nói, khi ông ta c̣n thơ ấu,
trước lúc bảy tuổi là một giai đoạn, cảm
giác thời gian bảy năm ấy khá dài. Sau bảy tuổi,
măi cho đến lúc ông ta tám mươi lăm tuổi, trong
hơn bảy mươi năm ấy, ông ta có cảm giác
giống như lúc bảy tuổi. Ông ta nói rất có lư: Trong
cảm giác của con người, thời gian dài hay ngắn
khác nhau. Trong thời thơ ấu, cảm
thấy [thời gian] đặc biệt dài. Càng đến
lúc tuổi già, cảm giác thời gian càng ngắn! Sao
mà cứ giống như chưa được vài ngày là lại qua
một năm nữa
rồi! Có cảm giác ấy. Đời người
khổ sở, ngắn ngủi, chớ nên tạo nghiệp.
Đáng phải đền mạng th́ đền mạng, đáng
phải trả nợ th́ đền nợ, luôn dùng thiện
tâm thiện ư giúp đỡ hết thảy chúng sanh khổ nạn.
Chuyện này được gọi là “đoạn ác, tu thiện, tích lũy công đức”.
Nguời gặp pháp môn Tịnh Độ này quá may mắn, buông
xuống muôn duyên, nhất tâm niệm Phật, quư vị đi
làm Phật, có chuyện nào khác tốt đẹp như vậy
ư?
Hiện
thời, quư vị chẳng thành Phật, chẳng văng sanh
được, là do nguyên nhân nào? Nguyên nhân là do quư vị chẳng
buông ân oán xuống. Không chỉ là quư vị bị báo ứng,
mà c̣n đang tạo tác. Thật sự hiểu rơ, thật sự
giác ngộ, thật sự minh bạch, quư vị sẽ chẳng
c̣n coi thường chuyện này. Chẳng có ư niệm thấy
thứ ǵ đó không vừa mắt. Người khác lừa
gạt, phụ bạc quư vị, hủy báng quư vị, quư vị
cũng coi như chẳng có chuyện ǵ, tâm b́nh khí ḥa. V́ sao?
Tiêu nghiệp cũ, tu cho đời sau, quan niệm của
quư vị biến đổi. Người khác đối xử
với ta chẳng tốt là do cựu nghiệp. Họ hủy
báng ta, lăng nhục ta, hăm hại ta, ta chẳng có tâm sân khuể,
thản nhiên, biết là ǵ? Nghiệp tiêu, báo mất! Nếu
có tâm sân khuể, phiền phức rồi! Quư vị có ḷng oán
hận, toan trả đũa, đời sau quư vị sẽ
lại báo thù kẻ đó. Đời này hắn hiếp đáp
ta, đời sau ta sẽ lại hiếp đáp hắn,
đời đời kiếp kiếp chẳng hết, chẳng
xong, đôi bên đều đau khổ, cần ǵ phải vậy?
Trong hai kẻ, có một kẻ giác ngộ, vấn đề
sẽ được hóa giải. Cả hai đều chẳng
giác ngộ, hỏng bét rồi! Một người đă giác
ngộ, hai người chẳng va chạm nhau nữa, oan
oan tương báo đến đây là kết thúc, chẳng
c̣n nữa! Phải hiểu đạo lư này, phải thấy
thấu suốt chân tướng sự thật này!
Chẳng
c̣n dấy ḷng tham đối với hết thảy các pháp
thế gian, v́ sao? Biết tâm tham là nghiệp nhân của ngạ
quỷ. Quư vị có mong đi vào ngạ quỷ đạo
hay không? Chẳng muốn đến đó, chớ nên có tâm
tham, đương nhiên là càng chớ nên có hành vi tham. Sân hận,
nổi cáu, sẽ là địa ngục đạo. Quư vị
có muốn đọa trong địa ngục hay không? Mong vào địa ngục th́ sẽ
thường xuyên nổi giận. Chẳng mong vào địa
ngục, từ nay trở đi, chẳng c̣n nổi
giận nữa. Cảnh giác cao độ, vừa nóng máu, bèn
nghĩ: “Đọa địa ngục th́ chẳng phải
là kẻ khác đọa địa ngục, mà là chính ḿnh đọa
địa ngục”. Chẳng hiểu rơ đúng, sai, chẳng
hiểu rơ tà, chánh, sẽ là súc sanh đạo. Chúng ta nói
đến chuyện học Phật, mà chẳng thể phân
biệt chánh pháp và tà pháp, đấy là súc sanh. Tu hành theo chánh
pháp sẽ khổ sở hơn, trong tà pháp th́ là lời ngon ư
ngọt, thường lừa gạt quư vị, quư vị bị
dụ dỗ, mê hoặc, vứt bỏ chánh pháp, tin tưởng
tà pháp; đấy là súc sanh đạo. Chướng ngại
kẻ khác tu học chánh pháp, tội lỗi ấy nặng
lắm. Trong Phật pháp thường nói là “đoạn Pháp Thân huệ mạng của người
ta”, quả báo thảy đều là trong địa
ngục. Chớ nên làm chuyện này, chẳng thể làm! V́
thế, phải hiểu rơ sự tai hại của Tam Độc.
Trong
hiện tiền, trong tâm thường có tham, sân, si, mạn,
thân thể quư vị nhất định sẽ không khỏe
mạnh, từ tuổi trung niên trở đi, sẽ có rất
nhiều tật bệnh. Bệnh do đâu mà ra? Bệnh do Tam
Độc mà có. Trong có Tam Độc, ngoài có sự cảm
nhiễm, sẽ bị lây nhiễm rất dễ dàng. Bởi
lẽ, kẻ có Tam Độc, nói chung là chẳng có sức
chống cự, nói theo y học hiện thời là “chẳng
có sức miễn dịch”, dễ dàng bị lây nhiễm. Nói
ngược lại, chẳng có Tam Độc, mà có ba thiện
căn, tốt lắm, quư vị có sức miễn dịch
rất mạnh. Đối với quư vị, vi khuẩn cỡ
nào, quư vị đều có năng lực miễn dịch,
sẽ chẳng bị lây nhiễm. Đây là chân tướng
sự thật. Các đồng tu ở Bắc Kinh tặng tôi
một bộ sáu đĩa CD Sơn Tây Tiểu Viện, báo
cáo hơn bốn mươi người. Thân thể họ
chẳng khỏe mạnh, thường xuyên bị bệnh tật, [thế mà]
do tụng kinh, niệm Phật, nghiễm nhiên lành bệnh,
chẳng cần uống thuốc, chẳng cần khám bác sĩ,
họ đều lành bệnh. Do nguyên nhân nào? Chẳng phải
là kỳ tích, trong ấy có đạo lư, tức là chuyển
Tam Độc thành ba thiện căn. Đạo lư là như
vậy đó!
Phàm
phu chẳng thể không có vọng tưởng. Đoạn
vọng tưởng, quư vị sẽ chứng thánh quả,
tối thiểu là chứng A La Hán, quư vị chẳng có cách
nào đoạn được! Chẳng có cách nào đoạn
th́ bảo quư vị hăy chuyển biến ư niệm. Chuyển
ác niệm thành thiện niệm, dễ làm hơn! Chuyển
ư niệm “tổn người” thành ư niệm “lợi ích chúng
sanh”, chuyển ư niệm “lợi ḿnh” thành ư niệm “lợi
lạc người khác”. Chỉ cần quư vị có thể
chuyển được, chuyển ô nhiễm thành thanh tịnh,
chuyển kiêu căng, ngă mạn thành b́nh đẳng, chuyển
ngu si thành trí huệ, chuyển ích kỷ thành đại từ,
đại bi, hễ quư vị chuyển được, thân
thể sẽ khỏe khoắn. V́ sao? Trong phần trước,
chúng tôi đă nói với quư vị rất nhiều: Mỗi tế
bào trên toàn thân quư vị đều biến thành khỏe mạnh
nhất. Khỏe mạnh nhất là tự nhiên, quư vị trở
về tự nhiên.
V́
thế, phải hiểu, tất cả hết thảy thiện
tâm, thiện niệm, thiện hạnh đều vốn sẵn
có trong tự tánh. Tương ứng với tự tánh th́ gọi
là “trở về tự nhiên”, “tự nhiên” là tự tánh, sẽ
là khỏe mạnh nhất. Phàm là ư niệm bất thiện,
tư duy bất thiện, ngôn hạnh bất thiện đều
trái nghịch Tánh Đức, biến Tánh Đức thành ác độc,
nơi hiện tướng bèn biến thành tam đồ. Ngạ
quỷ, địa ngục, súc sanh do đâu mà có? Tâm hiện,
thức biến. Nếu nói lời thật với quư vị,
không chỉ là chẳng có tam đồ, mà lục đạo
cũng chẳng có. Lại thưa cùng quư vị, mười
pháp giới cũng chẳng có. Có thứ ǵ? Có Nhất Chân
pháp giới, có thế giới Hoa Tạng, có thế giới
Cực Lạc. Tất cả các thế giới thảy
đều là thế giới Cực Lạc, đều là thế
giới Hoa Tạng. Chúng nó bị vặn vẹo, bị biến
đổi dáng vẻ là do chúng sanh mê mất tự tánh, càng
mê sâu hơn, cho nên mới nẩy sanh những huyễn tướng
ấy, chẳng phải là thật. Kinh Kim Cang nói rất
hay: “Nhất thiết hữu vi
pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh, như lộ diệc
như điển, ưng tác như thị quán” (Hết
thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng,
như sương cũng như chớp, hăy nên quán như
thế). Cách nh́n của quư vị như vậy là đúng,
chẳng nh́n sai, chúng chẳng phải là thật! Chúng ta giống
như đang nằm mộng, chẳng tỉnh giấc, c̣n
đang nằm mộng. Vĩnh Gia đại sư nói rất
hay, [trong] Chứng Đạo Ca [đại sư] đă nói
rất hay: “Mộng lư minh minh hữu
lục thú, giác hậu không không vô đại thiên” (Trong mộng
rành rành phô sáu nẻo, giác rồi ba cơi rỗng toang hoang). Sau
khi quư vị tỉnh giấc, không chỉ là chẳng có lục
đạo, mà tứ thánh pháp giới cũng chẳng có. Đấy
là nói lời thật, nói chân tướng với quư vị.
Trong
khi quư vị đang mê, quư vị sẽ coi mộng cảnh
như thật, sẽ bị thua thiệt to lớn. Quư vị
coi chúng là thật, chắc chắn sẽ tạo nghiệp
trong ấy. Tạo nghiệp th́ phải chịu báo, sẽ
vĩnh viễn chẳng thoát ra được. Nói cách khác,
vĩnh viễn chẳng tỉnh giấc! Tuy có thiện căn,
phước đức, nhưng bị vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước che lấp,
chẳng khởi tác dụng, phải chịu khổ trong lục
đạo luân hồi. Tuy thiên đường đỡ
hơn đôi chút, chẳng phải là nơi rốt ráo! Thời
gian là giả, chẳng thật. Thọ mạng trên trời
rất dài, quư vị ngỡ là thật ư? Chẳng phải
là thật. Thời gian và không gian đều chẳng
thật. Các nhà khoa học hiện thời đă chứng thực,
phát hiện. Họ nói: “Dưới
một điều kiện nào đó, không gian và thời gian
sẽ bằng zero”. Không gian bằng zero, sẽ chẳng
có khoảng cách. Thời gian bằng zero, sẽ chẳng có
trước sau. Từ mấy ngàn năm trước, trong
kinh đức Phật đă nói rơ chuyện này, điều
này gọi là ǵ? Bất nhị! Lớn và nhỏ bất
nhị, trước và
sau bất nhị, xa và gần bất
nhị. Đức Phật dùng phương pháp ǵ để
đạt tới cảnh giới này? Dùng Thiền Định.
Chỉ cần quư vị buông xuống vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, cảnh giới này liền
hiện tiền. Do vậy có thể biết, thời gian và
không gian, bao gồm tất cả hết thảy vạn vật,
do đâu mà có? Do từ vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước mà ra. Chỉ cần buông xuống vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, sẽ đều chẳng
có.
Trong
giáo pháp Đại Thừa, đức Phật đă dạy
rất rơ ràng: Buông xuống hết thảy chấp trước,
lục đạo sẽ chẳng có. Buông xuống hết thảy
phân biệt, sẽ chẳng có mười pháp giới, tức
là tứ thánh pháp giới cũng chẳng có. Tứ thánh lục
phàm tức mười pháp giới đều chẳng có.
Nay chúng ta vẫn hằng ngày chấp trước kiên cố,
vậy th́ có cách nào? Nếu quư vị hỏi, khi nào quư vị
mới có thể thoát khỏi lục đạo ư? Câu trả
lời rất đơn giản, khi nào buông xuống, khi ấy
sẽ thoát khỏi! Khi nào có thể thoát ĺa mười pháp giới?
Khi nào có thể chẳng phân biệt, khi ấy sẽ thoát
khỏi! Đơn giản như thế đó! V́ sao phải
chấp trước kiên cố dường ấy? Nhất
là đối với tam đồ, mắc hại quá sâu!
Quư
vị thấy khá nhiều người, già lẫn trẻ
đều có, mắc phải cái gọi là “tuyệt chứng” (絕症, bệnh
ngặt nghèo chẳng thể chữa được), khổ chẳng thể diễn tả được.
Đối với bệnh tật, Phật môn cũng đă
nói, nguyên nhân gây nên bệnh có ba loại:
1)
Thứ nhất là bệnh thuộc về sinh lư. Trong ăn
uống, trong sinh hoạt hằng ngày, do chẳng
chú ư, bị phong hàn, bị nhiễm bệnh như vậy.
Đấy là bệnh tật thuộc về phương diện
sinh lư. Bác sĩ chỉ có thể chữa loại bệnh này,
chứ những căn bệnh khác, họ chẳng có cách nào.
2)
Loại thứ hai là ǵ? Bệnh do oán nghiệp, hiện thời
rất nhiều. Đó gọi là “oan
gia trái chủ, linh quỷ dựa thân”, họ đến gây phiền phức, đến đ̣i
nợ. Đối với loại bệnh này, bác sĩ chẳng
có cách nào cả! Đến bệnh viện kiểm tra, chẳng
thấy ǵ, không có bệnh ǵ hết! Ngũ tạng lục phủ
đều b́nh thường, chẳng có bệnh. Chúng ta nói
là ǵ? Tinh thần phân liệt (Schizophrenia), hiện thời rất nhiều! Ở Trung Hoa, bên ngoại
quốc, mỗi khi tôi đến một chỗ nào gần
như đều sẽ gặp. Tuyệt đối chẳng
phải là họ giả vờ, họ rất đau khổ.
3)
Loại thứ ba gọi là bệnh thuộc nghiệp chướng.
Thật sự là họ chẳng có oán thân trái chủ, nhưng
do chính họ đă tạo tác ác nghiệp quá nhiều. Loại
bệnh này khó trị nhất. Oán thân trái chủ dựa thân
th́ c̣n có cách điều giải. Nếu là trong tôn giáo, Phật
môn nói là siêu độ họ, điều giải với họ.
Có khi họ đồng ư, sẽ làm công đức hồi
hướng cho họ. Họ đồng ư sẽ ĺa khỏi,
chẳng c̣n kiếm quư vị gây phiền phức nữa. Đại đa số đều tiếp nhận
điều giải, cũng có một số rất ít hết
sức ngoan cố. Đại khái là v́ nỗi oán hận quá sâu, chẳng thể tiếp nhận, chẳng
báo thù sẽ không được. Trường hợp này rất
phiền phức.
Ba
loại nguồn gốc này, quư vị hăy ngẫm xem, bệnh
do nghiệp chướng khó trị nhất, căn cội
là ǵ? Tham, sân, si. Bệnh do oán nghiệp th́ cũng
chẳng ĺa khỏi tham, sân, si. Trong quá khứ đă hại
người ta, đời này họ t́m đến thân ta. Các đồng
tu học Phật đều biết trong Phật môn có Tam
Muội Thủy Sám. Câu chuyện trong Tam Muội Thủy Sám
là chuyện quốc sư Ngộ Đạt bị ghẻ h́nh mặt
người, gần như mất mạng. Ghẻ mặt người
là chuyện như thế nào? Do trong quá khứ, Sư đă
hại chết người ấy. Người ấy ôm ḷng
báo cừu hết sức thống thiết, nhưng sau khi Sư
chết đi, hễ đầu thai vào đời sau đều
là bậc xuất gia. Ngài Ngộ Đạt là cao tăng
mười đời, cũng khó có lắm! Liên tục
mười đời đều được làm thân người,
lại c̣n đều xuất gia. Tu hành khá lắm, cho nên Sư
luôn có thần hộ pháp, oan gia muốn báo cừu đều
chẳng có cơ hội. Kẻ ấy thật sự kiên nhẫn,
[chờ đợi] đến khi Sư thành quốc sư.
Từ chỗ này, chúng ta cũng có thể thấy được
một chút tin tức. Sư chẳng tu thành [quốc sư]
trong một đời, mà là do mười đời tu thành;
[do vậy] có địa vị cao như vậy trong Phật
môn. Hoàng đế bái Sư làm thầy, biếu Sư một
ṭa báu bằng trầm hương. Sư rất đắc
ư, cảm thấy chính ḿnh có chỗ đáng nên kiêu mạn, kiêu
ngạo: “Kẻ xuất gia nào trong thiên hạ cũng chẳng
đạt được!” Hoàng Thượng cung kính Sư
như thế mà! Một tí ư niệm ấy vừa sanh khởi,
thần hộ pháp bỏ đi, quư vị hăy ngẫm xem: Sau khi thần
hộ pháp bỏ đi, oán thân trái chủ t́m đến bên
thân, Sư mắc chứng bệnh ấy!
Điều
này rất đáng cho bọn người đời sau chúng
ta cảnh giác, răn dè: Một niệm sai lầm, quư vị liền đọa
lạc. Oán thân trái chủ đời đời kiếp kiếp
trong quá khứ t́m kiếm quư vị. Dẫu sao quốc sư Ngộ
Đạt có căn cơ tu hành mười đời, tự
nhiên cảm ứng Phật, Bồ Tát giúp đỡ. Sư
cảm ứng tôn giả Ca Nặc Ca, là một vị A La Hán,
ra tay điều giải cho Sư. Kết quả là đối
phương tiếp nhận, rời khỏi, Sư lành bệnh.
Do vậy, bản thân chúng ta phải suy nghĩ, chính ḿnh có đức
hạnh như vậy hay chăng? Nếu đức hạnh
thua kém Ngài, tạo nghiệp c̣n nặng hơn Ngài, như vậy
là quư vị sẽ bị phiền phức to lớn. Chớ
nên không cảnh giác, chớ nên không biết.
Do
vậy, trong đạo tràng này, mọi người cùng nhau
học tập, lợi ích to nhất là chúng ta hằng ngày học
Giáo, hằng ngày nhắc nhở, rất khó có. Người
hiện thời ba ngày ĺa khỏi kinh giáo sẽ quên sạch
bách, lại khởi tâm động niệm, gai Tam Độc
lại trồi ra, chẳng biết là đáng sợ! V́ thế,
các bậc đại đức từ thời cổ, chẳng
có ngày nào không đọc kinh, chẳng có ngày nào không giảng
kinh. Giảng kinh th́ Ngài chẳng đến giảng
đường giảng kinh cho mọi người. Ngài tṛ
chuyện với kẻ khác đều là giảng kinh. Quư vị
chú tâm quan sát, [sẽ thấy] Ngài tiếp đăi đại
chúng, nói năng có phải là căn cứ hoặc
trích dẫn kinh điển hay chăng? Một người
khách cũng là giảng kinh, mà hai người khách cũng là
giảng kinh.
Chư
vị phải biết: Trong Phật môn thường nói, Thích
Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, thuyết pháp bốn mươi
chín năm, quư vị có hiểu hay không? Những ǵ Thích Ca Mâu
Ni Phật đă nói, được ghi chép lại bèn gọi
là kinh. Bất cứ khi nào, bất luận ở chỗ nào,
đối với bất cứ ai, đối với một
người cũng thế, mà đối với đại
chúng cũng thế. Nếu quư vị hỏi v́ sao ư? V́ tâm
Ngài chỉ nghĩ lợi ích chúng sanh, niệm nào cũng đều chẳng
ngoài giúp đỡ chúng sanh phá mê khai ngộ, ĺa khổ
được vui, lẽ nào chẳng phải là kinh? Từ
sáng đến tối mở miệng đều là giảng
kinh, chuyện này chẳng giả. Không nhất định phải
lên ṭa mới gọi là giảng kinh. Do tùy thuộc từng
đối tượng mà thí giáo, kinh Lăng Nghiêm nói: “Tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri
lượng” (Tùy thuận cái tâm của chúng sanh, ứng với khả
năng lănh hội của họ); trước nay, chưa
ngưng nghỉ giáo hóa chúng sanh! Khi không có ai ở trước
mặt Ngài, ư niệm toàn là hết thảy chúng sanh khổ
nạn trong trọn khắp pháp giới hư không giới.
Cảnh giới “đương
nguyện chúng sanh” ở đây hết sức to lớn,
chính là hết thảy chúng sanh khổ nạn trong trọn
khắp pháp giới hư không giới.
V́
thế, Phật, Bồ Tát hóa độ chúng sanh, giảng kinh,
thuyết pháp cho tới hiện thời chẳng hề gián
đoạn, chẳng gián đoạn từng phút, từng giây
nào, quư vị có thể lănh hội hay không? Quư vị có hiểu
hay không? Đă hiểu, quư vị mới có thể bắt
đầu học tập. Nếu ngay cả điều này
mà không thấu hiểu, không hiểu rơ ràng, quư vị sẽ học
từ chỗ nào? Nhất định là trước hết
phải tự tu chính ḿnh, quư vị mới ḥng lănh hội.
Nếu quư vị không tu chính ḿnh trước, làm sao có thể
thấu hiểu cho nổi? Trong tâm quư vị toàn là chướng
ngại, tập khí phiền năo là chướng ngại, vô lượng
chướng ngại. “Phiền
năo vô tận thệ nguyện đoạn”, vô lượng
chướng ngại, Kiến Tư phiền năo, Trần Sa
phiền năo, Vô Minh phiền năo sẽ chẳng thể thấu
hiểu nổi! Chuyện này phải thật sự hành, chẳng
thể làm giả được! Thật sự hành chính là
thật sự thực hiện, từ nội tâm thể hiện
ra hành vi, thật sự làm!
Đă
học, học rất nhiều, cũng có thể nói những
đạo lư tốt lành. Đó là ǵ? Đó gọi là cái học
do ghi nhớ, do hỏi han nhiều, chứ quư vị chẳng
ngộ! Ngộ th́ mới là của chính quư vị. Chẳng
giác ngộ th́ những ǵ quư vị đă học toàn là của
người khác. Người khác chẳng liên quan ǵ với ḿnh,
chẳng cứu nổi chính ḿnh, chẳng giúp được
ḿnh, chẳng mảy may dính dáng ǵ đến tập khí phiền năo của
chính ḿnh, quư vị chẳng sửa được! Nhất
định là phải nghiêm túc thực hiện, từ nội
tâm cho đến bề ngoài, thật sự làm, như vậy
th́ được! Càng làm, quư vị sẽ càng có hứng
thú, càng làm càng hoan hỷ. V́ thế, pháp hỷ sung măn. Do vậy,
quư vị mới có thể đạt được lợi
ích thật sự. Chẳng làm sẽ không học được,
quư vị chẳng đạt được lợi ích. Hôm
nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi giảng tới
chỗ này.
Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 35 hết
[1] Ông
Vương Tài Quư, sanh năm 1949 tại Đài Loan,
được coi là đệ tử nhập thất của
Mâu Tông Tam (ông Mâu được coi là bậc
tông sư Nho gia cận đại). Ông Vương dạy Triết
Học tại Đại Học Đông Hải, Đại
Học Sư Phạm Đài Trung và Đại Học Quốc
Lập Trung Ương. Ông Vương đậu Tiến
Sĩ ngành Triết Học tại đại học Văn
Hóa vào năm 1996. Ông theo học Nho với các vị Chưởng
Mục Dân và Mâu Tông Tam, theo học thư pháp với ông
Vương Khải Ḥa.
[2] Ngũ Minh (Pañcavidyā) là năm truyền thống học thuật của cổ
Ấn Độ, có thể coi như năm hệ thống
khoa học. Theo Du Già Sư Địa Luận, quyển ba
mươi tám, Ngũ Minh là:
1. Thanh
minh (Śabda Vidyā): Bao gồm
ngôn ngữ học, huấn hỗ học, văn học
v.v…
2. Nội
Minh (Adhyātma Vidyā) bao gồm
giáo lư học, triết. Riêng trong Phật giáo, Nội Minh
chính là thông hiểu Tam Tạng kinh điển. Nếu hiểu
sâu hơn, Nội Minh chính là sự chứng ngộ của
bậc hành giả trong Phật giáo.
3. Nhân
Minh (Hetuvidyā): Bao gồm Lư luận học (logic), thuật
biện luận, đả phá các tà thuyết của ngoại
đạo bằng sự thực chứng, hiển
dương thánh giáo, chẳng phải bằng cách ăn nói
nhanh nhẹn, hay lời lẽ sắc sảo.
4. Y
Phương Minh (Cikitsā
Vidyā) bao gồm y học, dược học,
cho đến những loại chú thuật để chữa
bệnh.
5. Công Xảo
Minh (Śilpa-karma-sthāna Vidyā): Bao gồm nghệ thuật, khoa học, công nghệ,
nông nghiệp v.v… tức là những tài nghệ cần thiết
cho cuộc sống hằng ngày.
[3] Theo lệnh của tổng thống Mỹ là Harry S.
Truman, hai quả bom nguyên tử đă được ném xuống
Hiroshima (ngày 6 tháng Tám năm 1945) và Nagasaki (ngày 9 tháng Tám
năm 1945). Hai quả bom ấy đă sát hại tối thiểu
129.000 người. Lúc đó, Đức Quốc Xă đă chấp
nhận thua cuộc vào ngày Tám tháng Năm, 1945, nhưng chính
quyền Nhật vẫn không chịu đầu hàng. Phe
Đồng Minh ra tuyên cáo tại Postdam đ̣i Nhật đầu
hàng vô điều kiện vào tháng Sáu, năm 1945, nhưng Nhật
Hoàng khước từ. Do vậy, Mỹ đă chọn giải
pháp thả bom nguyên tử để đánh gục Nhật
cũng như nhằm dằn mặt các nước khác,
đặc biệt là Liên Sô. Quả bom được thả
ở Hiroshima có biệt hiệu là Little Boy chế bằng
uranium, c̣n quả thả xuống Nagasaki chế bằng
plutonium (thường gọi bằng biệt hiệu Fatman).
Chính quyền Nhật kư văn kiện đầu hàng ngay
sau đó vào ngày Hai tháng Chín cùng năm. Phe Đồng Minh chọn
Hiroshima v́ đây là một hải cảng lớn, là trung tâm
công nghiệp và có sở chỉ huy quân sự của Nhật.
Kyoto được chọn v́ là một trung tâm quân sự
quan trọng theo sự đề nghị của Leslie R.
Groves, người đứng đầu dự án Manhattan
(ném bom đánh gục Nhật), nhưng bộ trưởng
bộ Chiến Tranh Hoa Kỳ là Henry Stimson đă đề
nghị chọn chỗ khác v́ Kyoto có quá nhiều di tích lịch
sử văn hóa. Tổng Thống Truman đồng ư, do
đó Nagasaki được chọn. Sau vụ nổ nhiều
năm, vẫn có người chết v́ bị bỏng, v́
nhiễm bức xạ.