Đại Phương Quảng
Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần
36
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng Mười
Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh
Tiến
Tập 1533
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống.
Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một, tiểu
đoạn thứ hai trong đoạn lớn thứ sáu của
phần kệ tụng, tức đoạn Đổ Sự
Cảnh Nguyện (睹事境願, những
nguyện [sẽ phát khởi] khi thấy cảnh và sự).
Xem từ bài kệ tụng thứ sáu:
(Kinh) Kiến
thụ diệp mậu, đương nguyện chúng sanh,
dĩ Định giải thoát, nhi vi ấm ánh.
(經)見樹葉茂。當願眾生。以定解脫。而為蔭映。
(Kinh: Thấy cây rậm lá, nguyện cho chúng sanh,
dùng Định giải thoát, để làm che chắn).
Trong
phần trước, chúng ta thấy núi cao, thấy cây có
gai. Ở chỗ này, thấy cây cối hết sức tươi
tốt, dẫn phát đại nguyện “dĩ Định giải thoát” (dùng Định để
giải thoát) của Bồ Tát. “Định”
là Thiền Định. Thiền Định là then chốt trong
sự tu hành của Phật giáo. Chỉ cần là Phật
pháp, bất luận Đại Thừa, Tiểu Thừa, Hiển
Giáo, Mật Giáo, Tông Môn, hay Giáo Hạ, cho đến cái gọi
là “tám vạn bốn ngàn pháp
môn”, vô lượng pháp môn, “pháp”
(法) là phương
pháp, “môn” là môn kính (門徑, đường lối). Vô lượng vô biên phương
pháp và đường lối đều là phương tiện
tu học. Tu ǵ vậy? Chư vị nhất định phải
hiểu điều này, toàn là tu Giới, Định, Huệ!
Ĺa khỏi Giới, Định, Huệ, sẽ chẳng phải
là Phật pháp, chư vị chớ nên không biết điều
này. Chúng ta học Tịnh Tông, Tịnh Tông dùng phương
pháp ǵ để tu Giới, Định, Huệ? Chúng ta chọn
lựa cách Tŕ Danh Niệm Phật; phải biết điều
này: Quư vị niệm Phật là tu ǵ, chớ nên không biết!
Nương theo phương pháp Niệm Phật, tức là
tŕ giới. Niệm đến mức nhất tâm bất loạn,
nhất tâm là Thiền Định, bất loạn là khai trí
huệ.
V́
thế, trong kinh Bát Nhă, đức Phật đă nói minh bạch:
“Pháp môn b́nh đẳng, chẳng
có cao, thấp”. Bất
luận tu pháp môn nào, cũng đều là như nhau; hễ tu
thành công, tất nhiên là đoạn Kiến Tư phiền
năo, đoạn Trần Sa phiền năo, đoạn Vô Minh phiền
năo, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, thảy
đều là như nhau. Thiền là như thế, Giáo
cũng là như thế; tŕ chú, niệm Phật cũng
như thế, chẳng khác ǵ! Đă đều là tu Giới,
Định, Huệ, cớ sao đức Phật nói pháp môn
nhiều ngần ấy? Đấy là để thuận
theo các căn tánh bất đồng của chúng sanh. Quư vị
cảm thấy học pháp môn nào thuận tiện, dễ dàng,
bèn chọn lựa pháp môn ấy. Căn tánh của mỗi người
khác nhau; v́ thế, đức Phật mới mở ra các pháp
môn nhiều ngần ấy. Đó gọi là “thù đồ đồng quy” (殊途同歸, khác
đường nhưng về cùng một chỗ), bất
luận bao nhiêu pháp môn!
Từ
lá cây, chúng ta có thể thấu hiểu ư nghĩa này. “Lá cây” ví như pháp môn. Một
cội cây to, rất nhiều lá, giống như tám vạn
bốn ngàn pháp môn. Quư vị thấy lá dẫu nhiều
đến mấy đi nữa, lá mọc từ chót nhánh,
chót nhánh mọc từ nhánh cây, nhánh cây sanh từ cành cây, cành
sanh từ thân, thân sanh từ cội rễ của cây. Quư vị
quan sát bất luận từ chiếc lá nào, đến cuối
cùng, đều là cùng một cội rễ! Quư vị bèn hiểu,
vô lượng vô biên pháp môn thảy đều quy vào một
căn bản. Căn bản ấy gọi là minh tâm kiến
tánh; căn bản ấy được gọi là Vô Thượng
Bồ Đề. Nhưng quư vị chẳng thể rối
loạn được, nhất định phải từ
một chiếc lá của chính ḿnh, [lần theo] chót, nhánh, cành,
thân, ḍ tới gốc, một mực ḍ cho đến
gốc, nhất định là quư vị phải đi theo
con đường ấy. Khi chưa đạt tới căn
bản, pháp môn dường như chẳng giống nhau, khác
biệt, nhưng đạt tới căn bản th́ là một.
Do vậy nói: “Một pháp môn đă
thông, hết thảy các pháp môn đều thông”. Tới khi
nào thông hết thảy các pháp môn, có giống như một
cội cây to hay không? Chúng ta coi điều này như một
cái cây, đây là cây, đây là gốc cây, đây là thân cây,
trong ấy có cành, nhánh, đạt tới gốc là đă thông [một
phần], đạt tới tận cội rễ là hoàn toàn
thông. Đấy chính là bảo quư vị phải thâm nhập
một môn. Chẳng thâm nhập sẽ không được,
nhất định phải có độ sâu kha khá th́ mới
thông được!
Đạt
tới gốc chính là “minh tâm kiến
tánh” như Thiền Tông đă nói, hoặc như Giáo Hạ
nói “đại triệt đại
ngộ”, Tịnh Độ Tông nói “Lư nhất tâm bất loạn”. Sự nhất tâm bất
loạn là thân cây, tức là Sự nhất tâm bất loạn
chưa đạt đến căn bản. Căn bản
là Lư nhất tâm bất loạn. Phải hiểu rành mạch,
rơ ràng những đạo lư và sự thật này! Do vậy,
chúng ta chọn chắc chắn một pháp môn, tự nhiên là quư vị
sẽ có tín tâm. Đối với các pháp môn khác, nhất
định là hết sức tôn kính, hết sức tôn trọng,
nhưng ta nhất định học một môn. Chỉ có
một môn th́ quư vị mới có thể đạt tới
căn bản! Quư vị đồng thời học hai hoặc
ba môn, hăy nghĩ tới cội cây, nghĩ tới t́nh huống
tăng trưởng của cây. Ta muốn nắm đồng
thời hai ba chót nhánh, quư vị làm sao có thể đạt
tới căn cội cho được? V́ thế, nhà Phật
nói, [tức là] cổ đại đức bảo: “Thức đắc nhất, vạn
sự tất” (Biết một chuyện, muôn chuyện
đều xong). “Thức” (識) ở đây là quư vị nhận biết, thật sự
nhận biết, thật sự hiểu rơ, “nhất” (一) là ǵ? Thâm
nhập một môn. Thâm nhập một môn đạt tới
tŕnh độ nhất định, sẽ hiểu rơ toàn bộ.
Lại
thưa cùng chư vị, không chỉ là hiểu rơ Phật giáo,
mà tất cả các tôn giáo đều hiểu rơ; thế
gian và xuất thế gian cũng hiểu rơ toàn bộ. Do nguyên nhân nào? Hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian đều cùng sanh từ một căn cội. Các tôn
giáo khác nhau dường như có nguồn gốc khác nhau,
[nhưng thật ra đều là] từ một cội rễ
có thể mọc ra mấy cây, mấy cây ấy có cùng một
cội rễ. Mấy cây ấy giống như các tôn giáo bất
đồng, hoặc các pháp thế gian và xuất thế
gian bất đồng;
cội rễ là một, do một cội
rễ sanh ra. Từ trong rừng rậm hoặc rừng cây,
chúng ta đều thấy: Cùng một gốc rễ mọc
ra ba cây, đôi ba cây, bốn, năm, sáu cây, do cùng một gốc
rễ sanh ra. Lănh hội từ chỗ này, sau
đấy quư vị mới hiểu:
Chỉ cần t́m được cội rễ, hết thảy
sẽ đều thông. T́m được cội rễ, nó
sanh ra hai cây cũng thế, mà ba cây cũng thế, năm cây
cũng thế, đă t́m được cội rễ, quư vị
sẽ thông suốt toàn bộ! Đạo lư ở chỗ này!
Do
vậy, học tập pháp thế gian và xuất thế gian,
điều quan trọng nhất là “thâm nhập một môn, huân tu lâu dài”. Nếu quư vị
chẳng [huân tu] lâu dài, công lực của quư vị sẽ
chẳng đạt tới căn cội. Chúng tôi dùng cây cối
để tỷ dụ: Quư vị nói đến lá cây, thâm
nhập một tầng sẽ là nhánh lá. Một nhánh lá có thể
mọc ra vài phiến lá. Quư vị t́m được nhánh lá,
đă nắm vững mấy phiến lá ấy. Nhánh lá
mọc từ nhánh cây, quư vị nắm được nhánh
cây, sẽ nắm được rất nhiều nhánh lá. Nhánh
cây mọc từ cành cây, nếu quư vị nắm được
cành cây, sẽ nắm được khá nhiều nhánh cây.
Khi quư vị lại đạt tới thân cây, sẽ nắm
giữ khá nhiều cành. Quư vị hăy quan sát cặn kẽ, có
phải là như thế hay chăng? V́ thế, quư vị càng
thâm nhập, trí huệ sẽ càng to!
Đă
từng có người hỏi tôi: “Giáo lư là ǵ? Giáo nghĩa là
ǵ?” Câu hỏi ấy hay lắm! Nếu quư vị thâm nhập
đến thân cây, cành cây, chúng đều thuộc loại
giáo nghĩa, quư vị sẽ có thể thông đạt cục
bộ. Nếu quư vị đạt tới căn cội, đó
là giáo lư, sẽ là thông đạt hết thảy. Nói cách
khác, nếu quư vị thông đạt giáo lư từ một bộ
kinh, tất cả hết thảy các kinh sẽ đều
thông suốt toàn bộ. Nếu quư vị đạt tới
giáo nghĩa, quư vị có thể thông hiểu một tông, một
tông phái, hoặc hai tông phái, chẳng thể thông đạt
toàn bộ! Chẳng có ǵ khác, đều là do vận dụng
công phu sâu xa th́ mới có cảnh giới như vậy hiển
hiện. V́ thế nói: “Một
kinh thông, hết thảy các kinh đều thông”. Tu hành,
thành tựu một pháp môn, hết thảy các pháp môn sẽ đều
trọn đủ. Ở đây, quan trọng nhất là Định;
v́ thế, Ngài phát nguyện “dĩ
Định giải thoát” (dùng Định để giải
thoát).
Lá
cây che bóng, rợp mát, có ư nghĩa này. Đấy là như ngạn
ngữ đă nói, “một
người có phước, đại chúng đều
hưởng phước của người ấy”.
Người ấy có địa vị càng cao, giống như
cái cây càng to. Nếu là người thật sự có đức
hạnh, có học vấn, có tài hoa, nếu người ấy
làm thị trưởng của chúng ta, mấy trăm vạn
người trong cả thành phố sẽ được
hưởng phước của người ấy. Người
ấy cai trị chỗ này rất khá. Nếu người ấy
là tỉnh trưởng, dường như là có tới mấy ngàn vạn người được hưởng
phước của người ấy. Nếu người
ấy là lănh đạo của quốc gia, hiện thời
có mười ba ức người Hoa được
hưởng phước của người ấy. Một
người có phước, giống như một cội
cây to, chúng ta đều hưởng bóng mát dưới cội
cây to. Cội cây to ấy trọn đủ viên măn Tam Học
Giới, Định, Huệ.
Ở
chỗ này nói đến Định, nói đến giải
thoát. Nói đến Định, chắc chắn là có Giới.
Nếu chẳng có giới, lấy đâu ra Định? Do
Giới đắc Định. Nói đến giải thoát,
đương nhiên là đă khai Huệ, trí huệ mở
mang! Chẳng khai trí huệ, sẽ chẳng thể giải
trừ tập khí phiền năo của quư vị. “Giải” (解) ở đây là hóa giải, giải trừ; hóa giải
ǵ vậy? Tập khí phiền năo, trong [khi giảng kinh] Hoa
Nghiêm, chúng tôi thường nói là “vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước”, giải
trừ, tháo gỡ chúng! “Thoát”
(脫) là ǵ?
Thoát khỏi lục đạo luân hồi, thoát khỏi mười pháp giới. Thoát ĺa, quư vị thấy: Hóa
giải, buông xuống chấp trước, sẽ thoát ĺa lục
đạo. Buông xuống phân biệt, đă giải trừ, đă buông xuống, sẽ thoát khỏi mười pháp giới. Trong lục
đạo, chúng ta hóa giải tham, sân, si, bèn thoát ĺa ba ác đạo; đấy là ư nghĩa giải
thoát. “Giải” là nói theo phương
diện phiền năo. “Thoát” là
nói theo phương diện tam đồ, lục đạo,
mười pháp giới. Nói cách khác, công lực của quư vị
càng sâu, cảnh giới càng cao, giúp đỡ chúng sanh, ở
đây là giáo hóa chúng sanh. “Nhi vi ấm
ánh” (而為蔭映, làm bóng
râm, che chắn sự chói chang) chính là chúng sanh được
lợi ích. Mức độ giáo hóa ngày càng rộng lớn,
hiệu quả giáo hóa ngày càng rơ rệt, chúng sanh thật sự
được phước. V́ thế, nếu chúng ta thật
sự muốn giúp đỡ người khác, giúp bằng cách
nào? Chính ḿnh phải thật sự tu. Chính ḿnh chẳng phải
là chân tu, mong giúp đỡ [kẻ khác], sẽ là như
thường nói “tâm có thừa
mà sức chẳng đủ”. Chẳng đủ năng
lực, rất muốn giúp đỡ họ, nhưng chẳng
có đủ năng lực. Phải hiểu đạo lư này!
Nếu
quư vị hỏi: “V́ sao ta tu bèn có thể giúp đỡ người
khác?” Người tu hành, nói theo kiểu hiện thời, “từ trường” khác hẳn.
Người thật sự tu hành, từ trường nơi
chỗ họ ở sẽ khác hẳn, quư vị sẽ cảm
thấy rất thoải mái, rất an toàn. Ở chỗ ấy,
chắc chắn chẳng có sợ hăi. Điều này rất
rơ rệt, chúng tôi nói rất nông cạn, dễ hiểu, quư
vị có thể cảm nhận được. Nếu nói
sâu hơn một tầng, “sóng” của người tu hành khác “sóng” của kẻ
không tu hành. Kẻ chẳng tu hành tập khí phiền năo rất
nặng, giống như gió to sóng lớn, kẻ ấy suốt
ngày từ sáng đến tối chẳng có cảm giác an toàn.
Trong đời kẻ ấy, chẳng có phương hướng,
chẳng có mục tiêu! Nói thật ra, chính kẻ ấy cũng chẳng hiểu
sống trong thế gian để làm ǵ. Đó là mê hoặc,
là điên đảo. Trong đời này, người tu hành
có phương hướng, có mục tiêu, người ấy
hiểu rơ ràng, rành rẽ, biết tương lai sẽ đi
về đâu. Do vậy, tâm người ấy an định,
tâm địa b́nh thản, tĩnh lặng. V́ thế, “sóng”
của người ấy là sóng nhỏ, chẳng to. Tuy c̣n
cuộn sóng, nhưng so với kẻ gió to sóng lớn, công
phu định lực của người ấy đă tỏ
lộ rất sâu. Nếu công phu chẳng ngừng tăng
cao hơn, tâm người ấy sẽ ngày càng b́nh ổn, tĩnh
lặng. Đạt đến bậc Địa Thượng
Bồ Tát, c̣n có sóng hay không? Có chứ, nhưng rất vi tế, bọn phàm
phu chúng ta chắc chắn là chẳng thể nh́n ra. Phàm phu
thấy tâm vị ấy đă b́nh lặng, thật ra, vẫn
chưa b́nh!
Phải
tới khi nào th́ mới thật sự b́nh? Đạt đến
quả vị rốt ráo; trong phần trước kinh Hoa
Nghiêm, chúng tôi đă nói rất nhiều. Sơ Trụ Bồ
Tát đă đoạn vọng tưởng; vọng tưởng
là ǵ? Khởi tâm động niệm. Sáu căn tiếp xúc cảnh
giới sáu trần, hễ khởi tâm động niệm th́
sẽ là vọng tưởng. Nói cách khác, sáu căn của Sơ
Trụ Bồ Tát tiếp xúc cảnh giới sáu trần, chẳng
khởi tâm, không động niệm. Quư vị phải biết:
Khi nào quư vị chứng đắc quả vị ấy, chính
quư vị sẽ hiểu rơ ràng, chẳng phải là chính ḿnh không
biết rơ! Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, lưỡi
nếm vị, mũi ngửi hương, chẳng khởi
tâm, không động niệm. Đấy là Sơ Trụ Bồ
Tát, là minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Nếu
c̣n có khởi tâm động niệm, nhưng chẳng phân
biệt, mà cũng chẳng chấp trước, đấy
là Bồ Tát trong bốn thánh vị của mười pháp
giới, thuộc vào bốn thánh vị. Nếu khởi tâm
động niệm c̣n có phân biệt, chẳng có chấp
trước, do chẳng có chấp trước, sẽ là A
La Hán. C̣n có chấp trước th́ là phàm phu trong lục
đạo. Chấp trước càng nặng, càng xuống
thấp hơn; chấp trước càng nhẹ, sẽ lên
cao hơn. Đấy là lục đạo. Thiên đạo chấp
trước nhẹ nhất, nhân đạo [chấp trước]
khá nặng, súc sanh đạo càng nặng hơn, nặng
nhất là địa ngục đạo. Quư vị hăy nghĩ
xem, có cần phải buông xuống các chấp
trước hay không? Chấp trước nghiêm trọng, nếu
chẳng chịu buông xuống, [sẽ là] chúng sanh trong địa
ngục đạo!
Do
vậy, đức Phật dạy chúng ta tám vạn bốn
ngàn pháp môn, chẳng có ǵ khác, quư vị chọn lựa một
phương pháp, dùng phương pháp ấy để học
tập. Học tập buông xuống chấp trước, buông
xuống phân biệt, buông xuống khởi tâm động
niệm, quư vị không ngừng tiến cao hơn. Hễ quư
vị buông xuống, tâm quư vị sẽ thanh tịnh. Buông
xuống chấp trước, chứng quả A La Hán. Kinh Lăng
Nghiêm nói A La Hán là Cửu Thứ Đệ Định.
Định chia làm nhiều đẳng cấp, trong lục
đạo có tám đẳng cấp, được gọi
Tứ Thiền Tứ Định (Tứ Không Định).
Chúng ta thường nói là Tứ Thiền Bát Định, bao
gồm tám đẳng cấp. Cấp thứ chín là sở
chứng của A La Hán, chúng ta gọi [đẳng cấp Định
này] là Đệ Cửu Định, hay Cửu Thứ Đệ
Định. Nếu lên cao hơn nữa, sẽ là sở chứng
của Bích Chi Phật. Lại lên cao hơn nữa, sẽ là
sở chứng của Bồ Tát. Nói chung là phải không ngừng tăng cao hơn, nương theo phương
pháp tu hành để nghiêm túc nỗ lực thực hiện,
điều này thuộc về Giới Học. Quư vị
đắc Định, Định có thể khai Huệ. Tiểu
định khai tiểu huệ, đại định khai đại
huệ. Tùy thuộc công phu định lực của quư vị
cạn hay sâu mà trí huệ sẽ khác nhau!
Nhưng
đạt tới Nhất Chân pháp giới, cũng là đă thoát ĺa mười
pháp giới. Thoát ĺa mười pháp giới là đạt đến
Nhất Chân pháp giới. Kinh Hoa Nghiêm nói thế giới Hoa Tạng,
hoặc là người niệm Phật văng sanh thế giới
Cực Lạc, thế giới Cực Lạc cũng là Nhất
Chân pháp giới, giống như Hoa Tạng, đều là đă
ĺa khỏi mười pháp giới. Rời khỏi mười
pháp giới, nói thông thường là b́nh đẳng. Tuy b́nh
đẳng, thưa cùng chư vị, công phu định lực,
trí huệ vẫn là có sai biệt, nhưng sự sai biệt ấy không rơ rệt,
đừng nói là chúng sanh trong lục đạo chẳng nh́n
ra, [ngay cả] tứ thánh pháp giới cũng chẳng nh́n
ra. Chỉ có người ở trong Nhất Chân pháp giới,
tầng cao biết tầng thấp hơn, tầng thấp
chẳng biết tầng cao hơn. Đó là nguyên nhân ǵ vậy?
Trong phần chú giải kinh này, Thanh Lương đại
sư đă bảo [nguyên nhân là do] tập khí vô minh có dầy
hay mỏng khác nhau. Vô minh đă đoạn, tập khí chưa
đoạn. Do vậy, kinh Hoa Nghiêm nói bốn mươi mốt
địa vị Pháp Thân đại sĩ, do đâu mà có bốn
mươi mốt tầng cấp ấy? Từ tập khí vô
minh khác nhau mà chia ra như vậy. Tập khí chẳng trở
ngại sự; v́ thế, quư vị nh́n từ bên ngoài, sẽ
là hoàn toàn b́nh đẳng, bên trong xác thực là vẫn có phân biệt. Chúng ta không có cách nào tưởng tượng
chuyện này! Chúng ta thấy Nhất Chân pháp giới là thế
giới b́nh đẳng, bốn mươi mốt địa
vị Pháp Thân đại sĩ là thế giới b́nh đẳng.
Sự
rợp mát này to lớn. Quư vị thấy bậc Sơ Trụ
Bồ Tát vừa mới thoát ĺa mười pháp giới, Ngài
có năng lực “tùy tâm ứng
lượng” (thuận theo tâm nguyện mà ứng với
khả năng tiếp nhận của chúng sanh), giống như
phẩm Phổ Môn đă nói: “Đáng
nên dùng thân ǵ để độ được bèn hiện
thân ấy”, tự nhiên! Đáng nên dùng thân Phật để
độ được, bèn hiện thân Phật để
thuyết pháp. Ngài có thể đến chín pháp giới, thuận
theo tâm của chúng sanh, ứng với khả năng tiếp
nhận của họ. Chúng sanh có cảm, Ngài tự nhiên hiện
thân, hiện thân ǵ vậy? Tùy thuộc người cảm!
Người cảm cầu Phật, Ngài sẽ hiện thân Phật.
Cầu Bồ Tát, Ngài sẽ hiện thân Bồ Tát. Thưa
cùng chư vị, bản thân Ngài hoàn toàn chẳng phân biệt,
mà cũng chẳng chấp trước, tùy thuộc đối
phương cảm bèn ứng. Đối phương cảm
bằng hữu tâm, Ngài vô tâm ứng. Đạo lư này rất
sâu.
Có
tâm cảm, cầu Phật, Bồ Tát, chúng ta hiểu dễ
dàng. Phật, Bồ Tát vô tâm mà ứng, khá khó hiểu! V́ sao? Phật, Bồ Tát quyết định chẳng
có phân biệt, chẳng có chấp trước, chẳng có
vọng tưởng. Vọng tưởng là khởi tâm
động niệm, [Phật, Bồ Tát] tuyệt đối
chẳng có khởi tâm động niệm. Do vậy, bóng rợp
của các Ngài to lớn, che rợp cỡ nào? Khắp pháp
giới hư không giới. Đúng là vô lượng, vô biên,
vô tận, vô số các cơi nước Phật. Chỉ cần
chúng sanh có cảm, các Ngài sẽ ứng. Đấy là cảnh
giới chẳng thể nghĩ bàn. Đối với thí
nghiệm với nước của tiến sĩ Giang Bổn
Thắng người Nhật, quư vị hăy chú tâm quan sát, suy
nghĩ, [sẽ thấy] ông ta đă thấu lộ một ít
tin tức.
Cảm
ứng ở chỗ nào? Cảm ứng trong hết thảy
thời, hết thảy chỗ. V́ thế, đối với
những điều do các bậc đại đức
trong Tông Môn đă nói sau khi khai ngộ, nếu quư vị thật
sự nghe hiểu những lời ấy, quư vị cũng ngộ nhập. Khi chưa khai ngộ,
sẽ gọi là “đạp phá
thiết hài vô mịch xứ” (đi nát giày sắt chẳng
có chỗ nào t́m được), đến khắp nơi
tham học, khổ chẳng thể nói nổi! Một mai
khai ngộ, “đắc lai toàn
bất phí công phu” (đạt được hoàn toàn chẳng
tốn công phu). V́ sao? [Các pháp mà] sáu căn của quư vị tiếp
xúc, chẳng có pháp nào không phải, là ǵ vậy?
Tâm tánh! Hết thảy các pháp “duy
tâm sở hiện”, quư vị hiểu rơ, đă biết tâm
là ǵ. “Duy thức sở biến”: Tâm có thể hiện, thức
có thể biến, quư vị thảy đều hiểu rơ, đó
gọi là “minh tâm kiến tánh”.
Tánh ở chỗ nào? Hết thảy các tướng vốn
là tánh; do vậy, chúng ta khởi tâm động niệm, hết
thảy các hiện tướng đều có ứng. Chúng
ta khởi tâm động niệm là cảm, tất cả hết
thảy hiện tướng đều có ứng. V́ sao chúng
ta chẳng thấy? Chúng ta bị mê mất tự tánh; do vậy, quư vị chẳng thấy.
Nếu
tâm quư vị thanh tịnh đến một mức độ
nhất định, “mức
độ nhất định” là chẳng khởi tâm, không
động niệm. Nói cách khác, bề ngoài đă b́nh lặng,
chẳng có mảy may gợn sóng, nhưng hăy c̣n có tập
khí. Tập khí là phía dưới mặt nước c̣n động,
vẫn chưa hoàn toàn an tĩnh. Bề ngoài nước
tĩnh lặng, phía dưới c̣n ḍng chảy ngầm,
nhưng ḍng chảy ngầm ấy chẳng trở ngại
tác dụng chiếu soi của nước! Nước giống
như một tấm gương, núi, sông, đại địa,
cây cối, hoa, cỏ bên ngoài soi vào trong ấy, [nước]
giống như một tấm gương, sẽ phản
chiếu rành mạch. Đó là tác dụng chiếu. Nó (ḍng
nước ngầm) chẳng trở ngại tác dụng chiếu.
Cảnh giới ấy giống như minh tâm kiến tánh. Nay
cái tâm của chúng ta không thanh tịnh, có vọng tưởng,
có phân biệt, có chấp trước, “nước” của chúng ta là gió to, sóng lớn. V́
thế, tuy có tác dụng chiếu ấy, vẫn đang chiếu,
nhưng chính ḿnh chẳng biết, đối với cảnh
giới, chính ḿnh chẳng biết chi hết! Cứ ngỡ
những cảnh giới hư huyễn chẳng thật là
chân thật, sanh khởi tham, sân, si, mạn trong ấy, khởi
tâm động niệm đều mong khống chế, khởi
tâm động niệm mong chiếm cứ làm của riêng ḿnh,
hoàn toàn là sai lầm! Đức Phật đă nói rất
hay, “phàm những ǵ có tướng
đều là hư vọng”, ngay cả thân thể của
chính ḿnh cũng là [hư vọng]. Chính ḿnh đă là hư vọng,
huống hồ cảnh giới bên ngoài ư? Đương nhiên là chẳng có thứ
ǵ thật sự tồn tại. Chớ nên không biết chân
tướng sự thật, chớ nên không hiểu rơ.
Từ
chỗ này, quư vị hăy chú tâm thấu hiểu: Định
càng sâu, trí huệ càng lớn, năng lực có thể giúp
đỡ hết thảy chúng sanh của quư vị càng mạnh.
Nhất định là đạt đến giải thoát mười
pháp giới, công lực của quư vị mới coi như
viên măn. Chẳng đạt đến cảnh giới ấy,
quư vị giúp đỡ người khác hữu hạn.
Đạt đến cảnh giới ấy, sẽ giúp
đỡ kẻ khác viên măn, tự tại, quư vị có thể
giáo hóa chúng sanh trong mười pháp giới. Chúng ta dùng phương
pháp niệm Phật có thể đạt được [cảnh
giới ấy] hay không? Có thể! Niệm đến Lư nhất
tâm bất loạn th́ sẽ viên măn. Nhưng Lư nhất tâm bất loạn
đúng là chẳng dễ dàng, [giống như] t́m đến
căn cội của một cái cây, Lư nhất tâm bất loạn
chính là căn cội. Sự nhất tâm bất loạn
cũng chẳng dễ dàng; [đạt đến] Sự
nhất tâm bất loạn bèn chứng quả A La Hán. Nay chuyện
chúng ta có thể làm được là công phu thành phiến, điều
này gọi là “đới nghiệp
văng sanh”. Sự nhất tâm và Lư nhất tâm th́ chẳng
đới nghiệp, [bởi lẽ], nghiệp đă tiêu hết
rồi! Đă đoạn Kiến Tư phiền năo, chẳng
mang theo Kiến Tư. Lư nhất tâm th́ đoạn Trần
Sa phiền năo, một phẩm vô minh cũng phá. Do vậy,
chẳng gọi là “đới
nghiệp”. V́ thế, “đới
nghiệp” là nói tới công phu thành phiến. Chúng ta thành tựu Niệm
Lực th́ Ngũ Lực đều thành tựu. Quư vị
thấy Ngũ Căn, Ngũ Lực, tức Tín, Tấn, Niệm,
Định, Huệ, Niệm Lực có thể chế phục
phiền năo, Ngũ Căn sanh ra sức mạnh, sẽ hữu
dụng. Quư vị có Ngũ Căn, nhưng Ngũ Căn chẳng
có sức mạnh, sẽ chẳng thể khống chế tập
khí phiền năo. Do vậy, chẳng thể văng sanh.
Chư
vị phải ghi nhớ, Tín, Tấn, Niệm, Định,
Huệ có sức mạnh, có thể khống chế phiền
năo. Tuy có tập khí phiền năo, chắc chắn là nó chẳng
dấy lên tác dụng, đă hoàn toàn bị chế phục. Đấy
gọi là “công phu thành phiến”,
sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư, quyết định văng
sanh. Đă thế, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới,
giống như kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật và kinh
Vô Lượng Thọ đă dạy, bèn được
bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ,
[do vậy], đến thế giới Cực Lạc, thần thông,
đạo lực, công phu định lực, và trí huệ
chẳng khác bậc Địa Thượng Bồ Tát cho mấy!
Đấy là chỗ thù thắng khôn sánh của Tịnh Tông! Năng
lực ấy chẳng phải do quư vị tu thành, mà là do Phật,
Bồ Tát gia tŕ, A Di Đà Phật gia tŕ. Trong các cơi Phật
khác, chẳng có [chuyện gia tŕ này], chỉ riêng A Di Đà
Phật trong thế giới Cực Lạc đúng là từ
bi tột bậc. Nói thật thà, khi Ngài c̣n đang tu nhân cũng
đă vượt trỗi chư Phật Như Lai. Tuy sự
thành tựu nơi quả là b́nh đẳng, nói theo Lư th́ b́nh
đẳng, nhưng trên thực tế, nói theo phương
diện ứng dụng, trí huệ, đức năng, và nguyện
lực sẽ khác hẳn! Chúng ta có thể văng sanh hay không, quư
vị phải hiểu rơ đạo lư này!
Tín
là chân tín. Tấn là như chúng ta nói “chẳng gián đoạn”. Niệm là không xen tạp.
Định là thâm nhập một môn. Trí huệ là có cùng nguyện
với Phật. A Di Đà Phật có bốn mươi tám
nguyện, ta cũng phát ra bốn mươi tám nguyện. Đó
là trí huệ chân thật, ba tư lương Tín, Nguyện,
Hạnh quư vị thảy đều trọn đủ. Tâm
là tâm của Phật Di Đà, nguyện là nguyện của Phật
Di Đà, chẳng xen tạp, không gián đoạn, há lẽ
nào chẳng văng sanh? Người niệm Phật đông đảo,
kẻ văng sanh ít ỏi, do nguyên nhân nào? Quư vị hăy chú tâm
quan sát, [sẽ thấy] những kẻ ấy [không văng sanh] là do chẳng trọn đủ những điều
kiện ấy. Đó gọi là “miệng
có, tâm không”, cổ đại đức bảo là “miệng niệm Di Đà tâm tán
loạn, gào toạc cổ họng cũng uổng công” chính
là nói về chuyện này.
Nay
chúng ta là kẻ sơ học, nhập môn từ chỗ nào?
Quư vị hăy nghĩ xem, thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại
thế, Ngài đă rát miệng buốt ḷng v́ đại chúng giảng
kinh, thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm, v́ lẽ
ǵ? Giúp cho chúng sanh giác ngộ! Nay ba chữ Tín, Nguyện, Hạnh
quư vị chẳng trọn đủ, hoặc là Tín, Nguyện,
Hạnh ta đều có, nhưng đều là công phu chẳng
đắc lực, người hiện thời nói là “chẳng
đủ độ mạnh”. Tín chẳng đủ độ
mạnh, Nguyện cũng chẳng đủ, Hạnh cũng
chẳng đủ, chẳng đạt tới tiêu chuẩn
văng sanh Tịnh Độ, nguyên nhân là ở chỗ này. Có lợi
ích hay không? Có lợi ích!
Kết duyên với A Di Đà Phật
và thế giới Cực Lạc, nhưng đời này chẳng
thể văng sanh được! Nếu quư vị nói, nếu
quư vị hỏi, khi nào sẽ văng sanh ư? Khi nào độ
mạnh Tín, Nguyện, Hạnh của quư vị đạt
tới tiêu chuẩn của Ngài th́ sẽ được. Tiêu
chuẩn là ǵ? Tôi vừa mới nói đấy thôi, Tín, Tấn,
Niệm, Định, Huệ có sức mạnh! Có sức mạnh,
sẽ có thể chế phục tham, sân, si, mạn, nghi. Nói
cách khác, chế phục Thập Ác. Thập Ác bị chế
phục, Thập Thiện sẽ hiện tiền. Đối
với Tam Quy, “mê, tà, nhiễm” bị chế phục, “giác, chánh,
tịnh” hiện tiền. Chẳng đoạn “mê, tà, nhiễm”, chỉ là chế phục, chúng chẳng dấy lên tác dụng là
được rồi; vậy là có thể văng sanh. Đó gọi
là “công phu thành phiến”.
Hiện
thời, kẻ niệm Phật rất nhiều, người
công phu thành phiến chẳng được mấy, nếu
quư vị hỏi v́ sao ư? Nói thật ra, là do phân biệt,
chấp trước quá nặng. Ngă Chấp quá mạnh mẽ.
Do vậy, thấy người này chẳng vừa mắt,
thấy chuyện kia chẳng vừa ư. Đấy là quư vị
chẳng buông xuống được! Nếu quư vị thật
sự có thể buông xuống chấp trước, sẽ
thấy ai cũng đều thuận mắt, thấy chuyện
ǵ cũng đều thỏa ư. Biểu hiện của quư vị
là tâm b́nh khí ḥa. Thuận cảnh cũng thế, mà nghịch
cảnh cũng thế, thiện duyên cũng thế, ác duyên
cũng thế, đạt được tâm b́nh khí ḥa từ
trong ấy. Công phu này hoàn toàn chẳng phải là rất sâu,
mà là mới vừa đắc lực, vừa mới đạt
tới công phu thành phiến, nhưng do công phu như vậy,
chắc chắn sẽ văng sanh.
Trong
công phu ấy cũng có ba bậc chín phẩm, ba bậc
thượng tuyệt lắm, văng sanh tự tại. V́ thế, văng sanh tự
tại, nói thật ra, công phu hoàn toàn chẳng phải là rất
cao. Điểm hay của “thành
phiến” là đạt tới tŕnh độ này. “Tự tại” là ǵ? Muốn
ra đi khi nào, bèn ra đi khi ấy; muốn ở thêm mấy
năm, chẳng trở ngại sự! Đó là ǵ? Sanh tử
tự tại. Trong Phật pháp gọi là “liễu sanh tử”, [nghĩa là] chuyện sanh tử
đă giải quyết xong! Cũng có thể nói là “đă hiểu
rơ, đă thông đạt”. Sau khi đă hiểu rơ, đă thông
đạt, có sanh tử hay không? Chẳng có sanh tử, thay
đổi nơi chốn mà thôi! Giống như hiện thời
chúng ta xuất ngoại lữ hành, chúng ta rời khỏi Hương
Cảng, ngày mai sang nước Mỹ, có ư nghĩa này. Ta rời
khỏi thế giới Sa Bà, đi sang thế giới Cực
Lạc, chẳng có sanh tử!
Nhục
thân này chẳng phải là thứ tốt đẹp, thường
gọi là “cái đăy da thối”.
Sanh về thế giới Cực Lạc, vứt bỏ
thứ này, chẳng cần nữa. V́ vậy, văng sanh thế
giới Cực Lạc là ra đi trong khi c̣n sống, tuyệt
đối chẳng phải là chết rồi mới đến đó, chẳng
có đạo lư ấy! Lại thưa cùng chư vị, cùng
một đạo lư, luân hồi trong lục đạo, quư
vị sanh vào đường nào, cũng là ra đi trong khi
c̣n sống, sau khi đă đến đó, vứt bỏ thân thể, cùng một đạo
lư! Quư vị chết rồi sanh vào ngạ
quỷ đạo, chính quư vị hiểu rơ ràng, linh tánh của
quư vị đến đó, chẳng cần thân thể! Đọa
địa ngục cũng là như vậy, biến thành súc
sanh cũng là như vậy. Sanh lên trời cũng là như
vậy, văng sanh cũng chẳng phải là ngoại lệ,
đều là biết rành mạch, rơ ràng.
Nhưng
như thế nào? Văng sanh th́ chính quư vị có thể làm chủ.
Luân hồi trong lục đạo, bất luận sanh vào đường
nào, bản thân quư vị chẳng thể làm chủ
được. Chính quư vị có thể làm chủ, lẽ đâu
có thể đi vào ba ác đạo cho được? Chẳng
thể làm chủ! V́ sao? Nghiệp lực lôi dẫn quư vị,
nhưng đến Tây Phương Cực Lạc thế giới
th́ chẳng do nghiệp lực, mà là do nguyện lực. Tín,
Nguyện, Hạnh, do nguyện lực, Phật đến
tiếp dẫn, quư vị theo Phật ra đi. [Văng sanh Cực
Lạc là] do nguyện lực, chẳng phải là nghiệp
lực, chúng ta nhất định phải hiểu rơ ràng,
phải hiểu minh bạch điều này. Đến thế
giới Cực Lạc, quư vị mới t́m được
căn bản, do được bổn nguyện và oai thần của
A Di Đà Phật gia tŕ, thần thông và đạo lực của
quư vị đều hiện tiền. Quư vị mới có thể
thật sự chăm sóc người nhà và quyến thuộc
của chính ḿnh, thật sự có thể giúp đỡ họ.
Chuyện này giống như bóng mát của cây to lớn, khiến
cho nhiều người được hưởng mát mẻ.
Nay đă hết thời gian rồi, chúng ta nghỉ ngơi
mấy phút!
***
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Xin xem bài kệ thứ bảy tiếp
theo:
(Kinh)
Nhược kiến hoa khai, đương nguyện chúng sanh,
thần thông đẳng pháp, như hoa khai phu.
(經)若見華開。當願眾生。神通等法。如華開敷。
(Kinh:
Nếu thấy hoa nở, nguyện cho chúng sanh, các pháp thần
thông như hoa x̣e nở).
Ở
đây là thấy hoa, dọc đường cũng sẽ
thường thấy [thứ này]. Đấy là hoa nở. Bài
kệ tiếp theo [sẽ
nói đến] “thụ hoa” (樹花, hoa của cây), không giống [điều được
nói] trong bài kệ này. Chúng ta nói có [loại hoa] thuộc về
thân thảo, có [loài hoa] thuộc về thân gỗ. “Thụ hoa” là nói đến
[hoa của] loài cây có thân gỗ, như cây đào, cây lê, những
thứ ấy đều là “thụ
hoa”. Ở đây là hoa của các loài thân thảo, chúng ta thấy
chúng nở hoa. Trông thấy những hoa ấy, cũng dẫn
phát hoằng nguyện của Bồ Tát. Nhất định
phải biết sự dẫn phát này là phản ứng tự
nhiên. Giống như chúng ta thấy sự kết tinh trong
thí nghiệm với nước: Tâm niệm thiện xác thực
là [nước sẽ] kết tinh đẹp đẽ như
hoa. Do ác niệm, [nước kết tinh] hiện ra h́nh
tướng rất xấu xí, thảy đều là một
loại phản ứng tự nhiên. Người hiện thời
nói là “phản ứng”, trong Phật
pháp nói là “cảm ứng”. Chúng
sanh có cảm, Phật, Bồ Tát có ứng; trên thực tế
là Pháp Tánh ứng, Phật, Bồ Tát là Pháp Tánh.
“Hoa” biểu thị thần
thông, “thần thông đẳng pháp”
(các pháp thần thông) giống như hoa nở. Hoa của loài
thân thảo hết sức phổ biến, bốn mùa đều
có. “Thần thông”: Trong Phật
pháp nói đến sáu thứ thần thông là Thiên Nhăn, Thiên
Nhĩ, Tha Tâm, Túc Mạng, Thần Túc, và Lậu Tận. Ngoài
Lậu Tận ra, nói thông thường là Ngũ Thông, tức
Thiên Nhăn, Thiên Nhĩ, Tha Tâm, Túc Mạng, và Thần Túc. Những
thứ này thường được gọi là Ngũ Thông.
Đối với thần thông, trong kinh, đức Phật
đă dạy rất rơ ràng: Hết thảy chúng sanh ai nấy
đều trọn đủ. Kinh Hoa Nghiêm đă nói rất
hay: “Hết thảy chúng sanh
đều có trí huệ và đức tướng của Như
Lai”. Thần thông là “đức”,
trí huệ của chúng ta b́nh đẳng. Đức năng
và thần thông của chúng ta cũng b́nh đẳng, tướng
hảo là b́nh đẳng. V́ sao? Pháp Tánh vốn trọn
đủ! Trí huệ, thần thông, và tướng hảo
là Tánh Đức. Tự tánh chẳng có sanh diệt, chẳng
có đến đi, chẳng có một hay khác. “Bát bất” như Trung Quán Luận
đă nói nó thảy đều trọn đủ.
Nay
v́ sao chúng ta chẳng có? Chư vị phải biết: “Chẳng có” chỉ là chẳng
thể hiện tiền. [Tức là] những năng lực
ấy ẩn kín, chẳng có cách nào thấu lộ ra; có nghĩa
là “chẳng khởi tác dụng”,
chẳng phải là không có, mà là thật sự có! Hiện
tượng này mỗi người mỗi khác, có mối
quan hệ chặt chẽ với công phu Thiền Định.
Công phu Thiền Định sâu xa, năng lực thần thông
bèn rộng lớn. Công phu Thiền Định nông cạn
th́ ứng theo đó, năng lực [thần thông] cũng nông
cạn! Như chúng ta trong hiện thời, chẳng có một tí công phu Thiền Định nào, mắt có
thể thấy hay chăng? Nó có thể thấy. Tai có thể
nghe hay không? Có thể nghe, nhưng âm thanh nhỏ sẽ chẳng
nghe thấy, nơi chỗ cách biệt cũng không nghe thấy.
Mắt có thể thấy, nhưng bị ngăn cách bởi
một tờ giấy sẽ không thấy.
Người
tâm địa thanh tịnh sẽ đột phá chướng
ngại ấy. Nói theo khoa học hiện thời, sẽ là
đột phá chướng ngại về các chiều không
gian. Cách vách, cách núi đều có thể xem thấy. Cách mặt
đất cũng có thể xem thấy. Người ấy có thể thấy
phía dưới đại địa có những thứ ǵ.
Đấy là đột phá các tầng cấp không gian. Nghe
cũng giống như vậy. Trong kinh, đức Phật
đă dạy chúng ta, năng lực của A La Hán là mắt
có thể trông thấy tiểu thiên thế giới, chúng ta nói
“tam thiên, trung thiên, đại
thiên”. Năng lực của A La Hán có thể thấy một
tiểu thiên thế giới; c̣n cực hạn th́ A La Hán có
thể thấy một đại thiên thế giới. Các vị
niệm kinh A Di Đà, trong ấy có ngài A Nậu Lâu Đà. Vị
này Thiên Nhăn bậc nhất trong các vị A La Hán. Ngài có thể
thấy tam thiên đại thiên thế giới, có năng lực
như vậy, c̣n lợi hại hơn viễn vọng kính
thiên văn trong hiện thời. Viễn vọng kính thiên văn
vẫn chưa thấy tam thiên đại thiên thế giới,
có thể thấy một tiểu thiên thế giới hay không
vẫn có vấn đề. Ngài (A Nậu Lâu Đà) thấy rất
rơ ràng, chẳng phải là rất mơ hồ. Kinh chép: “Như quán chưởng trung Am Ma
La quả” (Như thấy quả xoài đặt trong ḷng bàn tay). Một
trái cây nhỏ đặt trong ḷng bàn tay, đương
nhiên là sẽ thấy cặn kẽ. Ngài có thể thấy
tam thiên đại thiên thế giới rơ ràng dường ấy.
Năng lực Thiên Nhĩ cũng giống như thế!
Do
vậy, từ chỗ này, thật sự là rất thần
kỳ, chúng ta không có cách nào tưởng tượng được!
Nhưng chúng ta cũng đă nghe nói, có lẽ cũng có người
đă thấy qua, tức là như cận đại gọi
là “công năng đặc dị”.
Họ bị cách trở bởi một số chướng
ngại, [thế mà] họ có thể thấy rất rơ ràng.
Ví như quư vị viết mấy chữ, dùng bao thư dầy
cộp để gói lại, người ấy có thể
thấy quư vị viết ǵ trong đó. Quư vị dùng loại
giấy nào, dùng màu ǵ để viết, đều biết
rành rẽ. Người ấy có thể nói với quư vị,
nói chẳng sai tí nào, chẳng cần mở phong b́ ra. Thậm
chí, quư vị đặt thứ ǵ trong két sắt bảo hiểm,
cứ mỗi tầng bèn phong kín, bảo người ấy
nh́n từ nơi xa, căn bản là chẳng thể tiếp
xúc. Cách két sắt bảo hiểm vài mét, người ấy
nói thứ ǵ được bao bọc trong ấy, mà cũng
nói rành mạch. Hiện thời loại công năng đặc
dị này được gọi là “mắt tia X”. Người ấy có thể nh́n thấu
suốt, nh́n xuyên qua vách tường. Ngoài tường có những
trạng huống nào chúng ta chẳng thấy, v́ bị vách
ngăn trở, nhưng người ấy có thể thấy
rất rơ ràng. Nh́n một người, người ấy có
thể trông thấy ngũ tạng lục phủ của quư
vị. V́ thế, công năng đặc dị cũng có thể
chữa bệnh, chỗ nào bị bệnh, người ấy
biết ngay!
Những
điều này rốt ráo là đạo lư ǵ? Nói chung, chẳng
ra ngoài Thiền Định; nhưng những kẻ đó
chẳng tu Thiền Định! Nói theo Phật pháp, năng
lực có tu đắc và báo đắc. “Báo đắc” là ǵ? Bẩm sanh, sanh ra bèn có năng
lực ấy. Có hai loại [thần thông] tu đắc và báo
đắc như vậy. Thông thường, [thần thông]
của chư thiên là báo đắc, có Ngũ Thông. V́ thế,
quư vị sanh vào Tứ Vương Thiên, sanh vào Đao Lợi
Thiên, sẽ đều có Ngũ Thông. Trong Ngũ Thông, có Thần
Túc Thông, người có Thần Túc Thông muốn du hành
đến nơi đâu, có cần công cụ giao thông hay không? Chẳng cần. Trong tâm họ nghĩ
muốn đến nơi đâu, sẽ liền đến
đó; đấy là Thần Túc. Người ấy có thể
biến hóa, có thể phân thân, có thể biến ra rất
nhiều thân. Đây là chuyện rất kỳ diệu!
Một
đạo lư khác, kinh Di Giáo có nói: “Chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện”
(Tâm chế ngự một chỗ, không ǵ chẳng làm
được). Hiện tiền, chúng ta nh́n vào những người
có công năng đặc dị và những bậc thầy
Khí Công, quư vị thấy khi họ “phát công” (phát ra công lực) để biểu diễn,
trong khi phát công, nhất định là sẽ rất chuyên
tâm. Họ đang làm chuyện ǵ vậy? Chế tâm nhất
xứ! Trong kinh Phật có đạo lư này, họ có thể
trong một khoảng thời gian rất ngắn, buông xuống
hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước của chính ḿnh, hoàn toàn tập trung ư chí tinh thần.
Cái tâm của chúng ta b́nh thường luôn tán loạn, quư vị
hăy thử xem: Buông cái tâm tán loạn xuống, tập trung ư
chí, rất khó khăn! Những người ấy (người
có công năng đặc dị) tập trung rất dễ dàng,
nguyên lư ở ngay chỗ này. Chỉ cần quư vị có thể
tập trung, năng lực ấy có thể tạm thời
khởi tác dụng. V́ quư vị chẳng thể tập
trung vĩnh hằng, tập trung vĩnh hằng là Thiền
Định.
V́
thế, hễ có Thiền Định, nếu biểu diễn
những năng lực ấy, quư vị có cần tác ư giống
như tập trung hay không? Chẳng cần thiết! V́ tâm người ấy chẳng tán loạn, cho nên năng
lực của người đó hết sức tự tại.
Quư vị bảo người ấy xem thứ ǵ, người
ấy sẽ ngay lập tức trả lời, chẳng cần
phải tập trung tinh thần. Người ấy chẳng
cần! Công lực ấy cao lắm! C̣n phải mất mấy
phút, đôi khi mất mười mấy phút, thậm chí có
trường hợp c̣n phải gần đến nửa
tiếng đồng hồ người ấy mới có thể
tập trung. Nói thông thường, gần như là trong khoảng
thời gian chừng năm phút, người ấy có thể
tập trung ư chí. Đó là “chế
tâm nhất xứ”, đạo lư ở chỗ này!
Quư
vị có thể chế tâm nhất xứ trong một khoảng
thời gian rất ngắn, sẽ liễu giải: Năng
lực này hoàn toàn chẳng hiếm hoi, lạ lùng chi cả!
Năng lực này chính là bản năng (năng lực sẵn
có), là b́nh thường, chẳng có ǵ kỳ quái. Nó khởi
tác dụng, như họ có thể thấy những thứ
mà người khác không thấy. Tác dụng này rất nhỏ,
tối đa là có thể giúp một số người chữa
trị một số bệnh tật. Họ có thể nh́n xuyên
suốt thân thể của quư vị. Tuy quư vị mặc y
phục chỉnh tề, ngay cả ngũ tạng lục phủ
của quư vị, họ đều thấy rất rơ ràng:
Chỗ nào không b́nh thường, bị bệnh tật, họ
có thể điều chỉnh cho quư vị khôi phục b́nh
thường. Họ dùng phương pháp ǵ? Ư niệm, tập
trung năng lượng, tức là “chế
tâm nhất xứ”, hiện
thời nói là “tập trung năng
lượng”, bèn có thể khởi tác dụng như vậy. Do vậy,
công phu thật sự cao, sẽ trị chứng bệnh ung
thư rất hữu hiệu. Ung thư là trong nội tạng
sanh ra bướu, bất luận bướu độc
hay không, chẳng sao hết! Họ đều có thể hóa
giải, hoặc là hút nó ra, hút bướu ra, chẳng cần
giải phẫu. Quư vị thấy họ đặt bàn tay
đối diện chỗ ấy, nhọt bướu liền
bị hút vào ḷng bàn tay của họ. Quư vị thấy trong
bàn tay là mủ lẫn máu. Trên thực tế, họ đă hút
nó ra, da quư vị chẳng bị rách toạc mảy may! “Thần thông đẳng pháp”
như [kinh văn] đang nói ở đây có lớn, có
nhỏ. Công năng đặc dị là năng lực nhỏ,
là tiểu thông. Hễ đắc Thiền Định, thần
thông sẽ to.
Đến
khi nào sẽ có năng lực này? Kinh Phật có dạy, hễ
đắc quả Tu Đà Hoàn th́ sẽ có. Quả Tu Đà
Hoàn đạt được hai món trong Lục Thông, tức
là Thiên Nhăn và Thiên Nhĩ. Có khi nếu như công phu sâu hơn
một chút, [sẽ có] Tha Tâm, tức là trong tâm người khác
nghĩ ǵ, vị ấy đều biết. Thiên Nhăn, Thiên
Nhĩ, và Tha Tâm rất dễ dàng đạt được!
Nếu chứng đắc quả thứ hai (Nhị Quả),
sẽ lại có thêm một món nữa là Túc Mạng. Túc Mạng là biết
đời quá khứ, biết quả báo trong đời vị
lai, đột phá chướng ngại về mặt thời
gian. V́ thế, A La Hán có thể biết năm trăm đời,
năm trăm đời quá khứ, năm trăm đời
vị lai. A La Hán có năng lực ấy. Vượt hơn
năm trăm đời, Ngài sẽ chẳng biết, công
phu định lực vẫn chưa đủ! Công lực
của Bồ Tát vượt trỗi A La Hán quá nhiều, có
thể biết trăm ngàn đời, biết quá khứ và
vị lai.
Năng
lực của bậc thánh nhân Tam Quả lại mạnh hơn.
Thánh nhân Tam Quả có Thần Túc Thông. Thần Túc Thông là biến
hóa, giống như trong Tây Du Kư nói Tôn Ngộ Không có bảy mươi
hai phép biến hóa. Vị ấy có năng lực đó, có
thể biến hóa, có thể phân thân. Phân thân là từ thân của
chính ḿnh biến ra mấy thân, biến hiện mười
thân, biến thành mấy trăm thân, quư vị thấy [các
thân đă biến ra ấy] hoàn toàn giống hệt như nhau.
Trong Cao Tăng Truyện có chép, tôi quên mất tên họ của
vị ấy. Lúc mới học Phật, tôi đă xem, thích
xem những loại truyện kư. Thời cổ, có một vị
pháp sư, là cao tăng đến từ Ấn Độ,
hoằng pháp tại Trung Hoa. Khi Ngài trở về, rất
nhiều người mời Ngài dùng cơm để tiễn
hành, Ngài đều nhận
lời. Đến ngày hôm sau, khi tiễn đưa,
nơi đ́nh mười dặm vui vẻ tiễn biệt
Ngài, mỗi người đến tiễn chân đều
rất hoan hỷ, đều nói: “Pháp sư đối với
tôi tốt lắm! Hôm qua, thầy đến nhà tôi dùng cơm!”
Kẻ khác nghe nói, [phản đối]: “Không đúng! Hôm qua pháp
sư rơ ràng là ở nhà tôi!” Kết quả là nói qua nói lại,
mới biết vị pháp sư ấy có thuật phân thân,
đồng thời nhận lời thỉnh của năm
trăm nhà, nhà nào Sư cũng đều đến. Tới
khi tiễn đưa, mọi người nói như vậy,
mới vỡ lẽ, mới biết.
Nói
cách khác, vị này tối thiểu là Tam Quả La Hán. A La Hán
là Tứ Quả. [Tam Quả] là A Na Hàm. Tối thiểu, Sư
chứng Tam Quả th́ mới có năng lực này! Nhị
Quả vẫn chưa được. Nhị Quả có Tha
Tâm, có Túc Mạng, chẳng có Thần Túc. Đạt đến
Tứ Quả A La Hán th́ mới có Lậu Tận. Lậu Tận
là đoạn hết Kiến Tư phiền năo, cũng là
như chúng tôi giảng kinh Hoa Nghiêm đă nói: “Chẳng
c̣n chấp trước hết thảy các pháp thế gian và
xuất thế gian!” Đă đoạn chấp trước, chẳng
có mảy may chấp trước, chứng quả A La Hán, sáu
món thần thông đều trọn đủ. Phần
trước nói về Định, phần này nói về Huệ.
Trí huệ mở mang, năng lực này hiện tiền. Năng
lực nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân hiện
tiền. Do vậy, bậc thánh nhân Tam Quả muốn đến
nơi đâu, sẽ phi hành biến hóa, Ngài chẳng
cần đến công cụ.
Từ
những chỗ này, chúng ta có thể lư giải rất rơ
ràng: Trong cận đại, trên thực tế là thời cổ
cũng có ghi chép, nhưng chẳng nhiều và rơ rệt như
trong hiện tại. Nói đến điều ǵ? Người
ngoài hành tinh. Chúng ta thường thấy tin tức về đĩa
bay. Chuyện này đích thân tôi đă tận mắt trông thấy.
Khi đó, tôi c̣n chưa học Phật, hai mươi mấy
tuổi, có lẽ là khi hai mươi ba, hai mươi bốn
tuổi, tôi ở Đài Bắc. Có một hôm trông thấy một
chiếc đĩa bay. Nó tỏa ánh sáng màu xanh, bất động
trong không trung, rất sáng. Rất nhiều người trông
thấy, ngày hôm sau báo chí có đăng tải tin tức này.
Chúng tôi trông thấy, hết sức lạ lùng, chăm chú nh́n nó. Đại
khái là sau năm phút nó bắt đầu chuyển động.
Thoạt đầu tốc độ rất chậm, tiếp
đó càng lúc càng mau. Đại khái là sau hai phút chẳng thấy
nữa, chẳng trông thấy, tốc độ chuyển động
rất lớn. Đấy là chuyện chính mắt tôi trông
thấy.
Có
phải là họ có thần thông hay không? Họ chẳng có!
Người có thần thông chẳng cần công cụ giao
thông, c̣n họ (người ngoài hành tinh) vẫn phải sử
dụng công cụ giao thông. Đương nhiên là khoa học
kỹ thuật của họ tiên tiến hơn chúng ta. Nay
chúng ta thám hiểm vũ trụ, cũng có những công cụ
phi hành, nhưng năng lực chẳng bằng họ. Họ
tốc độ mau chóng, lại c̣n có thể dừng lại
trong không trung. Kỹ thuật này th́ khoa học trên địa
cầu vẫn chưa làm được, máy bay có thể ngừng
trên không trung hay không? Đĩa bay có năng lực dừng
lại, tốc độ nhanh chóng, lại c̣n tiến lùi như
ư. Các loại công cụ phi hành hiện thời của chúng
ta chỉ có thể tiến về trước, chẳng thể
lùi về sau. Đĩa bay có thể lùi về sau. Đương
nhiên [đĩa bay] là h́nh tṛn, khoa học hiện tại nói h́nh dáng ấy
thích hợp nhất cho việc phi hành, h́nh tṛn thích hợp
nhất, lại c̣n có tốc độ lớn ngần ấy!
V́ thế, rất nhiều người nói, nhất định
là người từ các tinh cầu khác ở ngoài không gian
đến địa cầu quan sát, hoặc trinh sát, có thể
có những chuyện như vậy. Chúng tôi bèn đoán định
họ thuộc về nhân đạo, chẳng phải là thiên
đạo. Dẫu là
[chư thiên đến từ] Tứ
Vương Thiên th́ họ
đều có Ngũ Thông, trong Ngũ Thông có Thần
Túc Thông, họ đến nơi đây sẽ chẳng cần
công cụ.
Đức
Phật dạy chúng ta: Ngoài thiên đạo có báo đắc
Ngũ Thông ra, c̣n có quỷ đạo cũng có báo đắc
Ngũ Thông. Năng lực của họ nhỏ bé, biết
các chuyện trong một thời gian ngắn. V́ thế,
quỷ đạo nói với quư vị, hễ nói chuyện
ǵ th́ chuyện trong ṿng hai ba tháng thường rất linh. Nếu
họ nói với quư vị chuyện thuộc hai ba năm
sau, chẳng nhất định là chuẩn xác, đấy
là v́ họ có năng lực hữu hạn. Nếu
là thiên đạo, họ nói cho quư vị biết chuyện
mấy năm sau, hoặc mấy chục năm sau, sẽ
đều rất chuẩn xác. Năng lực của họ
mạnh mẽ, khác hẳn.
C̣n
có “tu đắc”, tức là thần
thông đạt được do tu tập. Thiên Nhăn, Thiên
Nhĩ, Tha Tâm, Túc Mạng đều có thể tu được.
Tu được Thần Túc chẳng nhiều, phải có công
phu rất cao! Do trong nhân đạo có [những người
có thần thông này]; v́ thế, có những
người tu tiên, sau khi thật
sự thành tựu, người ấy có thể phi hành biến
hóa. Nói cách khác, người ấy có năng lực tương
tự như bậc Tam Quả La Hán, người ấy tu
được. C̣n có súc sanh đạo có thể tu đạt
được [thần thông]. Từ bút kư và tiểu thuyết
của cổ nhân, chúng ta có thể thấy, tôi thấy rất
nhiều. Thấy trên trời có một luồng sáng giáng xuống,
luồng sáng ấy rơi xuống đất giống như
tia chớp, nh́n vào chỗ giáng xuống, thấy có một
con hồ ly nhỏ. Đấy là ǵ? Đấy là tu đắc.
Khi nó phi hành, đă biến nhục thể thành luồng sáng,
tốc độ rất nhanh chóng. Sau khi đă tới nơi,
lại từ luồng sáng khôi phục thân thể, biến
trở lại. Hiện thời, nói theo lư luận sẽ thông
suốt, tức là năng lượng và vật chất có
thể chuyển biến [lẫn nhau]. Nhưng
hiện nay, các nhà khoa học vẫn chưa thể làm chuyện
này, vẫn chưa có cách nào biến nhục thể thành năng
lượng để di động rất xa, rồi có thể
trở lại như cũ. Nói theo lư luận th́ suông sẻ,
thật ra vẫn chưa làm được, chẳng biết
cách làm như thế nào!
Đối với những món [thần thông] tu được, bất luận
là người hay là súc sanh; trong loài súc sanh, hồ ly tu thành công
nhiều nhất. C̣n có những loại dă thú khác, có đấy,
chẳng phải là không có! Chúng ta biết theo truyền thuyết
dân gian Trung Hoa, có rất nhiều con chồn cũng có thể
tu thành công. Tu thành công, người b́nh phàm sẽ gọi nó
là “đại tiên, hồ tiên”,
chẳng phải là không có, thật sự có! Từ bút kư, tiểu
thuyết, chúng ta thấy súc sanh như hồ ly hoặc chồn
muốn tu thành thân người, nó có thể biến thành thân
người, qua lại với con người, quư vị cũng
chẳng nh́n ra kẻ ấy là súc sanh biến hiện. Có thể tu thành thân người,
nói thông thường, phải mất năm trăm năm. Có
thể tu được thân người, quư vị thấy
từ thân súc sanh mà có thể biến thành thân người,
sẽ thuộc về Thần Túc Thông. Năng lực của
nó tương đương với A Na Hàm, nhưng các phương
diện khác đều kém xa A Na Hàm. A Na Hàm là thánh nhân, quá nửa
trụ trong Tịnh Cư Thiên. Do vậy, kinh Phật cũng
thường gọi các vị ấy là chư thiên trời
Tịnh Cư. Tam Quả thuộc vào Ngũ Bất Hoàn Thiên.
Trừ phi các Ngài có nhân duyên đặc thù với nhân gian, đôi khi thị
hiện, chứ thường th́ các Ngài chẳng trụ
trong thế gian, mà ngự trong Tứ Thiền Thiên. Tu hành ở
nơi đó, đến cuối cùng đoạn sạch
Tư Hoặc, chứng quả A La Hán, vượt thoát lục
đạo.
Trong
kinh, đức Phật đă dạy về chuyện này rất
rơ ràng. Nếu quư vị thảy đều hiểu rơ, thông
đạt, sẽ hiểu minh bạch nguyên lư của công
năng đặc dị và Khí Công, sẽ biết chuyện
ấy chẳng hiếm hoi, kỳ lạ ǵ! Đấy chính là bản năng (năng lực sẵn
có) của hết thảy nhân loại. Chỉ là hiện thời
năng lực ấy của
chúng ta chẳng hiện, không phải là chẳng
có, nhưng năng lực ấy chẳng thể hiện tiền,
chẳng thể dấy lên tác dụng, nguyên nhân là do bản
thân chúng ta có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước
quá nặng. Nếu quư vị muốn khôi phục năng lực
ấy, hăy ghi nhớ câu kinh Phật này: “Chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện”
(chế ngự cái tâm vào một chỗ, không chuyện
ǵ chẳng làm được). Họ tu thành công, nguyên lư là ở
chỗ này. Họ có thể chế tâm nhất xứ,
cũng có nghĩa là như chúng tôi thường nói: Họ có
thể tập trung ư chí, năng lực bèn hiện tiền,
Thiên Nhăn, Thiên Nhĩ, Tha Tâm, Túc Mạng, và Thần Túc. Chế
tâm nhất xứ có rất nhiều đẳng cấp khác
nhau, chúng ta thường nói là “công
lực khác nhau”. Nguyên lư giống nhau, tập trung công lực
khác nhau. Do vậy, năng lực của họ có lớn hay
nhỏ sai khác. Cùng học Khí Công, người ta nói có người
[tŕnh độ] Khí Công rất lợi hại, có người
kém hơn, nguyên nhân đều là ở chỗ này. Phàm là tu học
thứ này, chắc chắn là phải hạ thấp dục
vọng. Nếu dục vọng rất nồng, tham, sân, si,
mạn rất nặng, chắc chắn sẽ bị chướng
ngại, tâm tán loạn, chẳng có cách nào tập trung
được!
Cùng
một đạo lư, trong những năm qua, tôi giảng
kinh, hoằng pháp suốt bốn mươi tám năm, trong
những năm ấy, tôi cũng gặp rất nhiều cảnh
giới rất khó giải thích! Xác thực là có những kẻ bị quỷ
thần dựa thân, chúng ta thường gọi họ là “linh môi” (spiritual medium), hé lộ
tin tức do kẻ dựa vào thân họ nói ra. Những quỷ
thần ấy bảo chúng tôi: “Tụng kinh, niệm Phật, làm pháp
sự siêu độ như thế nào th́ sẽ có hiệu
quả thù thắng nhất?” Tâm địa càng thanh tịnh, họ
đạt được lợi ích càng lớn. Niệm
kinh phải chuyên tâm niệm, [niệm] từ đầu
đến cuối bản kinh ấy chẳng thể có vọng
tưởng, rất khó làm được! Dấy vọng
tưởng th́ có lợi ích ǵ cho họ hay không? Có chứ,
luôn luôn có thể đạt được một tí lợi
ích. Vọng tưởng càng nhiều, họ đạt được
lợi ích càng ít. Vọng niệm càng ít, họ đạt
được [lợi ích] càng nhiều. Nếu chẳng có một vọng tưởng
nào, công đức ấy vô lượng. Chư vị ngẫm
xem có đúng như thế hay không? Vẫn là chế tâm nhất
xứ.
“Chế tâm nhất xứ” chính
là nói rơ công phu tu hành trong Tịnh Độ Tông. Vừa mới
đạt đến chuẩn mực chế tâm nhất xứ
th́ là công phu thành phiến. Sâu hơn nữa, sẽ là Sự
nhất tâm bất loạn; đến mức sâu nhất, sẽ
là Lư nhất tâm bất loạn. Công phu thành phiến, Sự
nhất tâm, Lư nhất tâm, đều có rất nhiều đẳng
cấp, mỗi cá nhân tu hành khác nhau. Thậm chí chính ḿnh tu hành,
công phu cũng khác biệt, bản thân chúng ta sẽ thể
nghiệm được. Ví như chúng ta niệm một bộ
kinh, niệm bộ kinh Vô Lượng Thọ này coi như
chẳng quá dài. Lúc mới học, mấy năm vừa mới
học, do vọng tưởng nhiều, vừa niệm
kinh vừa dấy vọng tưởng; nói chung, phải dăm
ba năm sau, khi vọng niệm ít đi, vọng niệm ít
hơn, tức là tinh thần của quư vị dần dần
tập trung. Nói thông thường, thật sự niệm một bộ kinh đến
mức chẳng có vọng niệm, tối thiểu là công
phu từ năm năm đến mười năm. Hơn
nữa, c̣n phải có thể thật sự buông xuống tiếng
tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần,
tham, sân, si, mạn; quư vị phải thật sự buông xuống!
Nếu quư vị chẳng thể buông xuống những tập
khí phiền năo ấy, quư vị niệm Phật cũng vậy,
đọc kinh cũng vậy, sẽ có vọng tưởng xen tạp vào
đó, tức là quư vị có tập khí phiền năo mà chẳng
thể chế phục. Tuy quư vị tu tập, công phu chẳng
đắc lực.
Tôi
tin là khá nhiều đồng tu có vấn đề này, v́
sao công phu chẳng đắc lực? Tôi rất nghiêm túc học,
cớ sao công phu chẳng đắc lực? Là v́ quư vị chẳng
buông xuống phiền năo, tập khí! Quư vị mong mỏi công
phu đắc lực, th́
chẳng thể không buông xuống!
Nếu bị ngoại duyên dụ dỗ, mê hoặc, quư vị
sẽ bị chúng quấy nhiễu. Hăy nên chọn lựa hoàn
cảnh tu học, tránh né những ngoại duyên ấy. Cổ
đại đức đều thực hiện như vậy.
Bậc thượng thượng căn rất ít, chẳng
nhiều lắm, ngoại duyên sẽ chẳng thể quấy
nhiễu họ. Trong lịch sử Phật giáo Trung Hoa, chúng
ta chỉ thấy có một vị rơ rệt nhất là Lục
Tổ Huệ Năng đại sư của Thiền Tông. Vị này lúc hai mươi mấy tuổi,
cảnh giới bên ngoài chẳng thể quấy nhiễu Ngài.
Nói cách khác, hết thảy dụ dỗ, mê hoặc đều
vô dụng đối với Ngài, Ngài chẳng bị dụ
dỗ, mê hoặc. Nói kiểu khác, người giống như
Ngài th́ trong bất luận hoàn cảnh nào cũng đều
được, như như bất động, tâm chẳng
điên đảo. Kẻ chẳng có công phu giống như
Ngài th́ không được, chắc chắn là phải chọn
lựa hoàn cảnh.
Ngay
cả đức Phật, quư vị thấy Ngài dạy các
đệ tử trụ trong A Lan Nhă. A Lan Nhă (Araṇya) là tiếng Phạn, là tiếng Ấn Độ,
nghĩa là ǵ? Chỗ an tĩnh! Tiêu chuẩn là ǵ? Chẳng
nghe tiếng trâu kêu. Xă hội vào thời cổ, tiếng trâu
kêu rất to, nơi họ ở, đương nhiên là người
tu hành ở trong núi rừng, đều ở ven sông, qua đêm
dưới cội cây, giữa trưa ăn một bữa,
chọn lựa nơi ấy, cách chỗ kẻ khác cư trụ tối thiểu hai ba dặm đường.
V́ sao? Chẳng nghe tiếng trâu kêu. Đức Phật dùng
chuyện này làm tiêu chuẩn, nói thông thường là khoảng
ba dặm đường, cách thôn trang ba dặm đường,
thanh tịnh, là chỗ không có người khác.
V́
thế, Phật giáo truyền sang Trung Hoa, các vị tổ
sư đại đức kiến lập đạo tràng
đều xây dựng trong núi thẳm, cách xa đô thị,
thôn trang. Từ chân núi đi đến đạo tràng trên núi,
tối thiểu quư vị phải đi mất một ngày,
chẳng dễ dàng, rất vất vả. Trên núi toàn là
đường hẹp, đường nhỏ ruột dê,
quư vị phải trèo lên từng bước một. V́ thế, ngạn ngữ
mới có câu: “Vô sự bất
đăng Tam Bảo điện” (Không có
chuyện ǵ, chẳng lên điện Tam Bảo), đi theo
con đường ấy rất vất vả, chẳng ai
muốn đi lên! Ở nơi ấy dễ tu hành, hoàn cảnh
thanh tịnh, chẳng có thị phi, nhân ngă, chẳng có những
phương tiện khoa học kỹ thuật tân tiến
hiện đại dụ dỗ, mê hoặc, tâm địa
dễ đạt được thanh tịnh, nhiếp tâm
dễ dàng! Ở nơi ấy, bất luận tu học pháp
môn nào, đều dễ dàng đắc Định. V́ thế,
tôi cũng thường nói, những bậc cao tăng đại
đức thời cổ nếu sanh trong xă hội hiện
tại, các Ngài cũng chẳng thể thành tựu, chúng ta có
thể tưởng tượng chuyện này!
Trong
xă hội hiện tại, những ǵ sáu căn của quư vị
tiếp xúc đều là những thứ dụ dỗ, mê hoặc
hết sức nghiêm trọng. Đừng nói là kẻ trung hạ
căn chẳng thể chống chọi, ngay cả bậc
thượng căn chỉ sợ cũng bị đọa
lạc; đấy chẳng phải là hoàn cảnh để
tu hành! V́ thế, hơn ba mươi năm trước, lăo
ḥa thượng Hư Vân đến Hương Cảng, ở
một tháng rồi quay về, bảo mọi người: “Hương Cảng chẳng phải
là nơi chốn để tu hành!” Hết thảy người,
sự, vật quư vị được tiếp xúc đều
dẫn phát tham, sân, si, mạn, đều tăng trưởng
ḷng ích kỷ của quư vị; đấy là nhân duyên gây
chướng đạo, làm sao quư vị có thể thành tựu
cho được? V́ thế, đức Phật bảo chúng
ta, người sơ học chọn lựa A Lan Nhă là tuyệt
đối chánh xác. Nhưng trong hiện thời, hoàn cảnh
đúng là quá khó khăn, quư vị tu các pháp môn khác, xác thực là chẳng
dễ dàng!
Cận
đại, xuất hiện một vị là Ấn Quang
đại sư. Vị này là Phật, Bồ Tát thị hiện,
Ngài dạy chúng ta trong hoàn cảnh hiện tiền tu hành như
thế nào để có thể đạt hiệu quả,
có thể thành tựu. Do vậy, tổ sư bảo chúng ta
chớ nên tạo đạo tràng lớn, phải làm đạo
tràng nhỏ, những người cộng tu chớ nên
vượt quá hai mươi người, chuyên tu Tịnh
Độ, buông xuống vạn duyên, cầu nguyện văng
sanh, sẽ có thể thành tựu. Ngài nói lời này hết sức
hợp lư. Nếu quư vị có thể thật sự buông xuống,
thật sự có thể chịu được tịch mịch,
thật sự mong thành tựu th́ có một bí quyết là “chỉ ngữ” (止語), tức không nói. Thấy người khác xá, bèn chắp
tay xá lại, chẳng nói một câu nào, tâm dễ đắc
Định. Tâm chẳng Định, nói quá nhiều, tạp
tâm chuyện gẫu. Do vậy nói “không tiếp khách, không tṛ chuyện”.
Thật sự dụng công trong Niệm Phật Đường, phương
pháp dụng công th́ như phương pháp do lăo pháp sư
Đế Nhàn đă dạy người thợ vá nồi
hết sức phù hợp. Tức là một câu Phật hiệu,
niệm mệt bèn nghỉ ngơi, tùy thời có thể nghỉ
ngơi. Nghỉ khỏe bèn niệm tiếp, chẳng phân biệt
ngày đêm. Khi nào mệt th́ khi ấy bèn nghỉ ngơi đôi
chút; sau khi tỉnh giấc, ngay lập tức vào Niệm Phật
Đường. Do đó, người thợ vá nồi [niệm
Phật] ba năm bèn thành công, ông ta văng sanh. Pháp sư Đế
Nhàn hết sức tán thán, Sư nói: “Các vị phương trượng đại tùng
lâm tự viện, pháp sư giảng kinh, thuyết pháp tại
Trung Hoa trong hiện thời, chẳng vị nào có thể
sánh bằng ông”. Khi mất là đứng mất, đă mất
rồi [vẫn đứng sững suốt] ba ngày, pháp
sư Đế Nhàn mới tới, giúp ông ta lo liệu hậu
sự. Ông ta đứng suốt ba ngày, người đă tắt
hơi đứng sững ba ngày, chờ lăo ḥa thượng
lo liệu hậu sự. Chúng ta có quyết tâm ấy hay không?
Có nghị lực ấy hay không? Trong thời đại hiện
tại, nếu muốn thành tựu, [đó là] tấm gương
tốt nhất. V́ thế nói, nếu như chẳng thể,
đạo tràng nhỏ phải tuân thủ giáo huấn của
lăo pháp sư. Đạo tràng nhỏ chẳng làm Phật sự,
chẳng có kinh sám Phật sự, chẳng có pháp hội.
Niệm
Phật trong hiện thời, tôi dạy chư vị, mỗi
ngày phải có mấy tiếng đồng hồ nghe kinh. V́
sao? Nếu chẳng hiểu kinh giáo, người niệm Phật
sẽ có nghi hoặc. Do nghi hoặc, sẽ sanh ra phiền
năo, sẽ tạo thành chướng ngại. V́ thế, hằng
ngày có thể nghe kinh bốn tiếng đồng hồ, chớ
nên gián đoạn, những thời gian khác bèn niệm Phật.
Như thế th́ tốt đẹp, Giải lẫn Hạnh
đều coi trọng. Vẫn là lấy Hạnh làm chủ,
dùng Giải để trợ giúp, biện pháp này tốt đẹp,
rất ổn thỏa. Hiện thời, trong và ngoài nước cũng có những
đạo tràng làm theo kiểu như vậy. A! Nay thời
gian đă hết rồi, hôm nay tôi giảng tới chỗ này.
Tập
1534
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ
mười một, đoạn lớn thứ sáu trong phần
kệ tụng, tiểu đoạn thứ hai, xem từ bài
kệ thứ tám.
(Kinh)
Nhược kiến thụ hoa, đương nguyện
chúng sanh, chúng tướng như hoa, cụ tam thập nhị.
(經)若見樹華。當願眾生。眾相如華。具三十二。
(Kinh: Nếu thấy cây hoa, nguyện cho chúng sanh,
các tướng như hoa, đủ ba mươi hai).
Đây
là ở trên đường trông thấy “thụ hoa”, chẳng giống như thấy hoa
trong phần trước. Trong phần trước là hoa của
loài thân thảo như các loại hoa dại phủ đầy
mặt đất. Ở đây là “thụ hoa” (樹華, hoa của
các loài cây); quá nửa các loại cây có hoa đều có quả,
đều kết trái. Dẫn phát đại nguyện của
Bồ Tát, “chúng tướng như
hoa” (các tướng như hoa), phạm vi rộng răi. Chúng
ta thường nói “chúng tướng”
(眾相, các
tướng) là “vạn tướng” (萬相), tất
cả hết thảy
các hiện tướng. Nói cách khác, nói
theo danh từ Phật pháp th́ là “pháp
tướng”. Pháp tướng do đâu mà có? Do Pháp Tánh
biến hiện. Pháp Tánh biến hiện ra pháp tướng,
không chỉ là Nhất Chân pháp giới, như Hoa Tạng, hoặc
như Cực Lạc, nó c̣n bao hàm y báo và chánh báo trang nghiêm trong
mười pháp giới, đúng là không ǵ chẳng bao hàm.
“Cụ tam thập nhị” (đủ
ba mươi hai), “ba
mươi hai” biểu thị sự viên măn, trọn chẳng
phải là một con số. Người trong thế gian cho
rằng một người có quư tướng, nói chung là có
ba mươi hai loại [quư tướng]. Ba mươi hai [quư
tướng ấy] đều trọn đủ, như vậy
th́ sẽ viên măn. Kinh Phật có nói đức Phật trọn
đủ ba mươi hai tướng, Đại Phạm
Thiên Vương cũng trọn đủ ba mươi hai
tướng, Luân Vương (Chuyển Luân Thánh Vương)
trọn đủ ba mươi hai tướng. Tuy Luân Vương
trọn đủ, [các
quư tướng ấy] hoàn toàn
chẳng rơ ràng như Phật, phải nh́n kỹ mới thấy
Luân Vương có, chẳng rơ ràng như vậy. Đương
nhiên là ở đây dùng ba mươi hai tướng của
đức Phật để tỷ dụ, chứ [thật
ra, kinh văn] có ư nói “hết thảy
các pháp tướng, không tướng nào chẳng viên măn”.
Hoa
tốt đẹp, quả nhất định tốt đẹp.
Nhà Phật nói là “quả báo”.
Chúng ta thường thấy trong kinh nói có hoa báo và quả
báo. Hoa báo là ǵ? Chính là những ǵ quư vị tu được
trong một đời này. Ví như đức Phật
thường dạy chúng ta, trong Măn Nghiệp bao gồm [quả báo do] tu ba loại bố thí, Dẫn Nghiệp ở trong nhân
đạo sẽ là Ngũ Giới, hướng dẫn chúng
ta sanh vào đường này, cũng phải hiểu rơ và
ghi nhớ rơ ràng điều này. Trong A Lại Da Thức của
hết thảy chúng sanh, có trọn đủ nghiệp nhân
của mười pháp giới. Nói cách khác, [nghiệp nhân] giống
như chủng tử
(hạt giống), quư vị thảy
đều trọn đủ. Mỗi cá nhân chúng ta đều
có nghiệp nhân của Phật; nói cách khác, [sẽ] có thể
làm Phật. Có nghiệp nhân của Bồ Tát, mà cũng có
nghiệp nhân của địa ngục và ngạ quỷ. Có
nghĩa là nghiệp nhân của đường nào hiện
tiền, khi nó dấy lên tác dụng, quư vị sẽ đi
vào đường ấy để hứng chịu
quả báo, điều này trọng yếu lắm!
Nếu
chúng ta hỏi, nh́n từ phía trên, cao nhất là Phật, vậy
th́ nghiệp nhân của Phật là ǵ? Kinh giáo đă dạy,
nghiệp nhân của Phật là tâm b́nh đẳng. Khi nào cái
tâm b́nh đẳng của quư vị hiện tiền, quư vị
sẽ tiến vào Phật đạo, chúng ta thường nói
“quư vị đă thành Phật”, tâm b́nh đẳng hiện tiền.
B́nh đẳng là ǵ? Có phân biệt th́ có b́nh đẳng hay
không? Đương nhiên là chẳng có! Có chấp trước
th́ có b́nh đẳng hay không? Đương nhiên là chẳng
có. Quư vị có khởi tâm động niệm, b́nh đẳng
hay bất b́nh đẳng? Vẫn chẳng có. Do vậy, chúng
ta hiểu, tâm b́nh đẳng là sáu căn của chúng ta tiếp
xúc cảnh giới bên ngoài, mắt thấy sắc, tai nghe
tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị,
chẳng chấp trước, chẳng phân biệt, không khởi
tâm, không động niệm, vậy th́ chúc mừng quư vị,
quư vị đă thành Phật. V́ sao? Đấy là thật sự
b́nh đẳng. Hễ khởi tâm động niệm th́ sẽ
chẳng b́nh đẳng, huống hồ c̣n có phân biệt, chấp
trước! Do vậy, trong A Lại Da Thức của chúng
ta thật sự có [nghiệp nhân thành Phật], mà chính ḿnh đă
mê mất, rối loạn, thấy sắc nghe tiếng vẫn
khởi tâm động niệm. Hễ khởi tâm động
niệm, duyên của chúng ta với đường ấy bị
mất đi, chẳng thể làm Phật được.
Chư
vị phải ghi nhớ: Ai nấy đều có tư cách
làm Phật, v́ ai nấy đều có cái nhân. Thân nhân duyên của
quư vị chẳng thiếu khuyết mảy may, ai cũng
đều có, đều là b́nh đẳng, tùy thuộc duyên
của quư vị. Duyên thứ nhất mà làm không được;
làm không được th́ hăy xem Bồ Tát như thế nào?
Kinh đă dạy, Dẫn Nghiệp của Bồ Tát, tức
là cái nghiệp dẫn dắt quư vị làm Bồ Tát. Đó
là ǵ? Lục Độ. Bồ Tát là cái tâm Lục Độ,
khởi tâm động niệm của chúng ta có tương ứng với Lục Độ hay không. Cái tâm Lục Độ quyết định chẳng
có ḷng ích kỷ. Quư vị thấy điều đầu tiên
là bố thí. Bố thí có nghĩa là ǵ? Bỏ ḿnh v́ người,
chưa hề nghĩ đến chính ḿnh, đúng như cổ
đại đức đă dạy người ta ba chữ
Quân, Thân, Sư. Tài Bố Thí là hy vọng họ có thể sống
tốt đẹp, sống thoải mái, sống vui sướng,
tức là thực hiện chữ Thân (親). Giống
như cha mẹ nuôi nấng con cái, chăm nom rất tốt
đẹp, khiến cho con vui sướng, khiến cho con
được ăn no, mặc ấm, đấy là Thân. Pháp
Bố Thí, khai trí huệ! Đấy là ǵ? Thực hiện
chữ Sư (師), làm thầy.
V́ thế, cha mẹ phải giáo dục con cái, giúp con phá mê
khai ngộ, trẻ nhỏ mai sau khôn lớn sẽ có trí huệ.
Quả báo của Vô Úy Bố Thí là khỏe mạnh, sống
lâu, làm được chữ Quân (君), lănh đạo chúng nó. Trong khỏe mạnh, sống
lâu, đă bao hàm đại viên măn.
V́
thế, người Hoa nói “quân,
thân, sư”, c̣n trong Phật pháp th́ nói trong Lục Ba La Mật
của Bồ Tát, Bố Thí Ba La Mật đă bao hàm viên măn
[cả sáu món Ba La Mật]. Lại c̣n dạy quư vị thực
hiện như thế nào. Nay chúng ta đối với
người nhà, đối với đại chúng trong xă hội,
đối với hết thảy chúng sanh trong thế gian này,
“hết thảy chúng sanh” bao
gồm động vật, thực vật, và khoáng vật,
chúng ta có bố thí bằng cái tâm yêu thương hay không?
Chúng ta dùng tinh thần, dùng sự nhọc nhằn của
chính ḿnh để chăm sóc họ. Điều này thuộc
về Tài Bố Thí, Nội Tài Bố Thí. Chúng ta giúp đỡ
họ, cải thiện họ, sử dụng trí huệ, sẽ
là Pháp Bố Thí. Thường xuyên chiếu cố là Vô Úy Bố
Thí, chẳng để cho họ bị tổn hại. V́ thế,
đối với người, đối với sự, đối
với vật mà có thể giữ tấm ḷng này, người
ấy hành Bồ Tát đạo, [tâm hạnh Bồ Tát ấy sẽ] dẫn dắt người ấy đi thọ sanh
trong đường Bồ Tát. V́ thế, Bồ Tát là Lục
Độ hạnh.
Duyên
Giác là nhân duyên sanh, chúng ta nói Thập Nhị Nhân Duyên, những
điều này đều thuộc về Tiểu Thừa.
Thập Nhị Nhân Duyên và Tứ Đế đều là Tiểu
Thừa. Tiểu Thừa chẳng thể chủ động
chiếu cố đại chúng; v́ thế, phước báo của
họ nhỏ hơn, nhưng họ có thể tự tốt
lành cho riêng ḿnh. Chẳng có hoằng nguyện “kiêm thiện thiên hạ” (兼善天下, khiến cho thiên hạ cũng được tốt
lành), chúng ta nói là “phát Bồ
Đề tâm, đại từ đại bi”. Họ chẳng
có. Hai loại người ấy (Thanh Văn và Duyên Giác) chẳng
có Bồ Đề tâm. Họ có cái tâm thanh tịnh, sẽ chẳng tổn thương,
làm hại người khác, chẳng làm tổn thương, gây
hại cho hết thảy người, sự, vật. V́ thế,
họ thuộc loại tiêu cực, nhưng cũng hết
sức khó có!
Thấp
hơn là thiên đạo, quư vị sanh vào thiên đạo bằng
cách nào? Đức Phật dạy: Cái hướng dẫn quư
vị vào thiên đạo là thượng phẩm Thập
Thiện và Tứ Vô Lượng Tâm. Tức là phải tu Thập
Thiện Nghiệp Đạo. Thập Thiện Nghiệp Đạo
đ̣i hỏi phải thực hiện một trăm phần
trăm, thật sự làm được! Do điều này,
sẽ được làm thân trời. Lại thêm vào Tứ
Vô Lượng Tâm, tức từ, bi, hỷ, xả, niệm
nào cũng chẳng đánh mất ḷng từ, bi, hỷ, xả,
đó gọi là Tứ Vô Lượng Tâm. Đấy là cái nhân
để sanh lên trời. [Cái nhân để sanh vào] nhân đạo là Ngũ Giới, tức trung phẩm Thập
Thiện. Học Phật thọ Ngũ Giới, tŕ Ngũ
Giới rất thanh tịnh, rất viên măn. Thập Thiện
Nghiệp chẳng phải là học Phật, người ấy
là thiện nhân. V́ thế, Thập Thiện là nhân thiên đạo,
vẫn chưa phải là Phật đạo, nhưng nó là cơ
sở của Phật đạo. Chớ nên không biết điều
này, là cơ sở của Phật đạo đấy nhé!
V́
thế, từ Tịnh Nghiệp Tam Phước, quư vị xem
điều thứ nhất. Điều thứ nhất là
nhân thiên phước báo; điều thứ hai là Nhị Thừa
phước báo; điều thứ ba là Đại Thừa
phước báo. Ba điều của Tịnh Nghiệp Tam Phước
[tương ứng với ba loại phước báo]. Điều
thứ nhất “hiếu dưỡng
phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ
tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp”. Do đó,
Thập Thiện là người chưa tiến nhập Phật
môn. Thập Thiện là Tánh Đức, nhất định
phải tu, quyết định chẳng thể trái nghịch.
Nếu quư vị trái nghịch, được rồi,
thượng phẩm Thập Ác là địa ngục, trung
phẩm Thập Ác là ngạ quỷ, hạ phẩm Thập
Ác là súc sanh, ba ác đạo đấy nhé! Chớ nên không biết
điều này! V́ thế, chúng ta phải đoạn ác tu
thiện, phải thường xuyên nghĩ tưởng. Trong
cuộc sống hằng ngày, trong xử sự, đăi người, tiếp vật, chúng ta có ư niệm hại người
khác hay không? V́ sao? Ư niệm hại người khác chính là cái
tâm giết hại. Tuy quư vị chẳng sát sanh, nhưng cái
tâm giết chóc, ư niệm giết chóc của quư vị chẳng
đoạn; hễ gặp cảnh duyên, nó sẽ dấy
lên hiện hành. Có ư niệm chiếm tiện nghi của kẻ
khác hay không? Ư niệm chiếm tiện nghi của người
khác chính là cái tâm trộm cắp. Có ư niệm hiếu sắc
hay không? Ư niệm hiếu sắc là dâm tâm.
Thực
hiện công phu từ chỗ sâu thẳm trong nội tâm, quư
vị mới có thể đạt được cái tâm
thanh tịnh. Chỉ cần cái tâm thanh tịnh, tŕ giới
nơi thân và miệng rất dễ dàng, chẳng khó! Tự
nhiên là quư vị có thể hành Thập Thiện, chẳng miễn
cưỡng mảy may! Đối với khẩu nghiệp th́ ngôn ngữ quyết
định chẳng có vọng ngữ, quyết định
chẳng có thị phi. Lưỡng thiệt (nói đôi chiều) là khuấy đảo thị phi, quyết định
chẳng hoa ngôn xảo ngữ, quyết định chẳng
nói lời thô tháp. Quư vị thấy khi mẹ Văn Vương
mang thai ông ta, trong thai giáo có “khẩu
bất xuất ngạo ngôn” (miệng chẳng thốt lời
kiêu ngạo). Ngôn ngữ thường ngày rất cẩn thận,
chẳng nói lời thô lỗ. Đương nhiên là càng chẳng
thể lừa gạt kẻ khác, tâm địa thanh tịnh,
thành khẩn, cung kính, dùng cái tâm ấy để dưỡng
thai nhi của bà ta. V́ thế, sanh ra đứa trẻ ấy,
về sau là Châu Văn Vương, là bậc thánh nhân! Đấy
là biết cách dạy dỗ như thế nào. Đó là thật
sự biết yêu thương chính ḿnh.
Biết yêu thương chính ḿnh, lại c̣n biết yêu thương người khác. “Yêu người khác” là đối
với con thơ của bà, bà ta biết yêu thương, che
chở con cái. Một kẻ chẳng biết yêu thương
chính ḿnh, sẽ chẳng biết yêu thương người
khác. Những điều này đều thuộc về vấn
đề giáo dục.
Trong
thời đại hiện tại, xác thực là giáo dục
nẩy sanh vấn đề, lại c̣n hết sức nghiêm
trọng, dẫn đến xă hội hỗn loạn. Xă hội
hỗn loạn, ḷng người hỗn loạn. Ḷng người
đă hỗn loạn, hiện tướng đương
nhiên là chẳng tốt đẹp. V́ sao? Tướng sanh từ
tâm; Phật pháp nói: “Hết
thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”. V́ thế, chúng
ta khởi tâm động niệm, tôi cũng
thường nói lời này trong các buổi giảng, hy vọng
các đồng học có thể cảnh giác: Chúng ta dấy
một thiện niệm, phải biết là thiện niệm
ấy lập tức trọn khắp hư không pháp giới.
Dấy một ác niệm, ác niệm ấy cũng lập tức
trọn khắp hư không pháp giới. Khởi tâm động
niệm, trên là cảm ứng đạo giao cùng hết thảy
chư Phật, Bồ Tát, dưới th́ cũng cảm ứng
đạo giao với thiên địa, quỷ thần. Vậy
th́ quư vị hăy ngẫm xem, ư niệm của chúng ta là thiện
th́ mới nên, hay ác th́ mới nên? Nếu quư vị thật
sự thông đạt, hiểu rơ chân tướng sự thật,
quư vị sẽ có ác niệm hay chăng? Sẽ không! Khởi
tâm động niệm chẳng thể lừa dối kẻ
khác được!
Người
đánh mất năng lực của chính ḿnh, do vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước mà đánh mất
năng lực. Từ loài người tiến lên cao hơn,
dẫu chư thiên cũng đánh mất năng lực, nhưng
các Ngài đánh mất ít phần. Do vậy, các Ngài có Ngũ
Thông. Quỷ thần cũng đánh mất, khi đă đánh
mất th́ cũng chẳng khác biệt loài người cho mấy,
nhưng quỷ thần có báo đắc Ngũ Thông, năng
lực của họ hoàn toàn chẳng to cho mấy, thế
nhưng chúng ta khởi tâm động niệm, họ biết
ngay! Nói theo kiểu hiện thời, chiều không gian của
chúng ta [và quỷ thần] rất gần, giống như xem các băng
tần truyền h́nh. Băng tần của chúng ta rất gần.
Nếu băng tần rất xa, rất lớn, có thể là
họ không biết. [Quỷ
thần có thể biết tâm niệm của chúng ta] là do rất gần. V́ thế, cổ nhân thường
nói: “Con người chớ nên
gạt nhau, khởi tâm động niệm th́ trời biết,
đất biết”. “Trời” là nói đến những
tầng cấp cao hơn, “đất”
là nói những tầng cấp thấp hơn. “Quư vị biết, tôi biết”,
làm sao có thể lừa kẻ khác cho được? Lời
này hết sức thân thiết, hết sức chân thật.
Khởi
tâm động niệm thiện, cái nhân của chúng ta tốt
lành, là thiện nhân. Do thiện nhân, nhất định sẽ
cảm thiện quả. Bài kệ kế tiếp nói về
quả, nhất định phải tu thiện nhân. Tiêu chuẩn
của thiện ác là ǵ? Tiêu chuẩn thù thắng nhất là
giáo huấn của Thích Ca Mâu Ni Phật, đó là tiêu chuẩn
thù thắng nhất. Chúng ta phải nên học như thế
nào? Phải đọc tụng, phải mong giải, phải
y giáo phụng hành, lại c̣n phải v́ người khác diễn
nói. Có thể y giáo phụng hành là Tiểu Thừa, có thể
v́ người khác diễn nói th́ là Bồ Tát. “Diễn” là ǵ? Biểu diễn cho người khác
thấy. Trong hết thảy những nơi đại chúng tụ
hội, ta nêu gương tốt cho mọi người nh́n vào.
Nêu
gương tốt ǵ vậy? Trước hết là làm
được Thập Thiện. Thưa cùng chư vị, Thập
Thiện nếu triển khai ra, sẽ là Đệ Tử
Quy. Trong Đệ Tử Quy đă nói tất cả một
trăm mười ba chuyện, chính là những điều
khoản chi ly của Thập Thiện Nghiệp. Thập
Thiện Nghiệp Đạo là cương lănh của
Đệ Tử Quy. Những điều khoản cặn kẽ
[và cương lănh] là một, không hai. Một trăm mười
ba chuyện ấy quư vị thảy đều thực hiện,
sẽ là thực hiện Thập Thiện Nghiệp Đạo.
Sau đấy, lại từ Thập Thiện Nghiệp
Đạo dần dần tiến lên cao hơn, tăng cao măi
cho đến Phật quả rốt ráo viên măn. V́ thế,
bước khởi sự để tu hành Phật pháp là Thập
Thiện Nghiệp, rốt ráo viên măn vẫn là Thập Thiện
Nghiệp. Rốt ráo viên măn Thập Thiện Nghiệp chính
là quả địa Như Lai. Chúng ta chớ nên không biết,
chớ nên không nghiêm túc học tập.
Trong
thế gian, rất ít kẻ có thể buông xuống, luôn mong
cầu lợi ích. Vậy th́ tôi bảo quư vị, lợi ích
này là vô lượng, vô biên, vô cùng, vô
tận, v́ sao quư vị chẳng cầu? Quư
vị nói “tôi mong cầu lợi ích chính là lợi ích trước
mắt”. Vô lượng vô biên lợi ích quư vị đều
có thể cầu được, quư vị hăy ngẫm xem, lợi
ích trước mắt có được bao gồm trong ấy
hay không? Bao gồm chứ! Chỉ cần quư vị chịu
tu, buông xuống tham, sân, si. Tham, sân, si chính là gốc họa!
Gốc họa ǵ vậy? Gốc họa của tam đồ,
lục đạo. Quư vị thật sự có thể hiểu
rơ chúng nó, hiểu rơ ràng, quư vị mới chịu buông chúng nó
xuống. Những thứ ấy chắc chắn là tai hại,
chẳng có mảy may lợi ích, v́ sao quư vị chẳng thể
bỏ đi? Con người sống trên cơi đời, những
thứ tài vật để duy tŕ lẽ sống chẳng cần
nhiều! Các vị hăy ngẫm xem, hằng ngày quư vị ăn uống th́ chỉ cần có thể ăn no, quần áo chỉ cần
có thể mặc ấm, nhà cửa chỉ cần có thể
che gió, đụt mưa, đủ rồi! Vui sướng
hơn bất cứ chi khác. Chẳng tham cầu, người
ấy sẽ viên măn về mặt của cải!
Người
mà có những điều kiện chưa viên măn, tức là ḷng
tham đang quấy phá, tham lam chẳng chán! Quư vị tham lắm
như vậy, có thể hưởng thụ hay chăng? Quư
vị vẫn mỗi ngày ăn cơm ba bữa, đêm ngủ
chừng sáu thước, quư vị có thể hưởng thụ
ǵ vậy? Do vậy, phải thấy thấu suốt, sau
đấy mới thật sự chịu từ bỏ.
Đức Phật dạy chúng ta bỏ, quư vị thấy đó:
Bỏ hết thảy chấp trước, sẽ chứng
quả A La Hán, sẽ thoát khỏi lục đạo luân hồi.
Bỏ hết thảy phân biệt, sẽ chứng Bồ
Tát. Trong tứ thánh pháp giới, quư vị là Phật, Bồ
Tát. Lại bỏ khởi tâm động niệm, mười pháp
giới sẽ chẳng có, tức là đă buông bỏ mười pháp giới, chứng Phật quả, người ấy bèn thành Phật.
V́ thế, Phật pháp tu ǵ vậy? Chẳng có ǵ khác, buông xuống
mà thôi!
Năm
xưa, khi tôi mới gặp Chương Gia đại
sư lần đầu, đă thỉnh giáo lăo nhân gia về
chuyện này. Tôi hỏi một đề mục: “Con biết
Phật pháp hết sức thù thắng, hết sức tốt
đẹp, con rất muốn học”. Tôi thỉnh giáo lăo
nhân gia: “Có phương pháp nào để con có thể khế
nhập rất nhanh chóng hay không?” Lăo nhân gia dạy tôi: “Thấy thấu suốt, buông xuống”.
Về sau, trong nhiều năm ngần ấy, chúng tôi thật
sự thấu hiểu: Đạo để thành Phật từ
lúc mới phát tâm cho đến địa vị Như Lai là
tu ǵ vậy? Chính là hai điều ấy, thấy thấu
suốt và buông xuống! Buông xuống giúp quư vị thấy
thấu suốt. Thấy thấu suốt là trí huệ. Thấy
thấu suốt lại giúp quư vị buông xuống. Buông xuống
lại giúp quư vị thấy thấu suốt. Thấu suốt
ngược lại sẽ giúp quư vị buông xuống. Chúng
giúp nhau thành tựu, một mực cho đến địa
vị Như Lai. Phật pháp chẳng có ǵ khác, lại thưa
cùng chư vị, vô lượng trí huệ, vô lượng thần
thông, vô lượng phước báo đều tu từ chỗ
này!
Của
cải càng xả, sẽ càng nhiều, đă có nhiều th́
như thế nào? Đă nhiều th́ nhất định phải
xả, chớ nên tích cóp! Đức Phật nói hay quá: “Tích tài táng đạo” (Tích lũy
tài sản, đạo sẽ bị chôn vùi). V́ sao chớ nên
tích cóp? Tích cóp là c̣n có ḷng tham, sẽ sanh ra phiền năo, chẳng
sanh trí huệ. Như thế nào th́ mới có thể sanh trí
huệ? Buông xuống; hễ xả, sẽ sanh ra trí huệ.
Do vậy, phải ghi nhớ, người hiện thời
trên thế gian có ai chẳng tích cóp tài sản? Học Phật
chẳng thể đắc đạo! Niệm Phật, nói
thật thà, chẳng đạt được công phu thành
phiến! Chẳng đạt được công phu thành phiến,
chẳng mong chi văng sanh! Do nguyên nhân nào? Chẳng thể buông
xuống được! Quư vị có thể thật sự
buông xuống hết thảy, xả hết, văng sanh sẽ
chẳng có tí ti vấn đề nào! Có phải Xả là thật
sự chẳng có ǵ hết hay chăng? Thưa cùng chư vị,
hễ xả, quư vị sẽ đạt được càng
nhiều. Quư vị xả tài, sẽ đạt được
của cải. Quư vị xả pháp, sẽ càng thông minh, càng
có trí huệ. Quư vị thí vô úy, sẽ càng khỏe mạnh,
càng sống lâu. Quả báo chân thật là như vậy!
Nhưng
quyết định chớ nên có mảy may tâm tham. Hễ có
tiền tài, hăy giúp đỡ những kẻ nghèo khổ, nhất
định phải xả. Quư vị có thông minh, trí huệ,
phải v́ chúng sanh phục vụ, đặc biệt v́ chúng
sanh khổ nạn, phải giúp đỡ họ. Quư vị
có sức khỏe, sống lâu, càng phải dùng thân thể làm
công cụ [phụng sự chúng sanh] chẳng nề hà vất
vả. Nói thật ra, có vất vả hay chăng? Người
khác thấy là vất vả, chính quư vị chẳng cảm
thấy vất vả, chính ḿnh cảm thấy ǵ? Vui sướng.
Người thế gian nói, đời người lấy
phục vụ làm mục đích, sung sướng, giúp người
là cái gốc của sự vui sướng. Nói theo Phật pháp,
“chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ”. Câu nói này chính là “giúp
người là cội rễ của sự sung sướng”,
tức là đời người lấy chuyện phục
vụ làm mục đích. Kẻ chẳng thể v́ đại
chúng phục vụ, cuộc sống chẳng có mục
đích, chẳng thể giúp đỡ kẻ khác, chẳng
có niềm vui sướng.
Do
vậy, hiện thời chư vị hăy khéo học, càng chịu
giúp đỡ kẻ khác, sẽ càng vui sướng, nhà Phật
nói là “pháp hỷ sung măn, thường
sanh tâm hoan hỷ”. Sống cuộc đời vui sướng,
sẽ chẳng bị già nua, sẽ chẳng sanh bệnh tật.
Nguyên nhân gây lăo hóa là “hết thảy
các pháp sanh từ tâm tưởng”. Trong tâm chẳng vui
sướng, thường xuyên ưu tư, lo lắng, thường
nghĩ tưởng chính là phiền năo, con người sẽ
bị lăo hóa. Tới khi người ấy có cảm giác đă
già, sẽ thường nghĩ đến sự già nua: “Ta già khọm
mất rồi!” Lăo hóa sẽ rất nhanh chóng. Một năm
không gặp, [khi gặp lại], trông giống như đă
cách biệt mười năm, nhanh chóng như thế đó.
Đă già th́ sẽ như thế nào? Người ấy nhất
định sẽ nghĩ đến bệnh tật, đau
chỗ này, nhức chỗ kia; do vậy, bệnh liền đưa
tới! Hễ bị bệnh, người ấy bèn nghĩ
tới cái chết. Do đó, v́ sao con người chết?
Mong chết! Họ nghĩ đến bệnh liền sanh bệnh,
nghĩ đến chết sẽ phải chết!
Đức
Phật đă giảng đạo lư này đúng là thấu
triệt! V́ sao quư vị phải nghĩ đến bệnh,
v́ sao phải nghĩ đến chết? Chẳng nghĩ tới
bệnh tật, chẳng nghĩ đến cái chết, hăy
nghĩ ǵ? Nghĩ giúp đỡ chúng sanh; đấy là Bồ
Tát! Phật, Bồ Tát là như vậy, niệm nào cũng
nghĩ giúp đỡ hết thảy chúng sanh khổ nạn.
Để giúp đỡ chúng sanh, có quá nhiều hạng mục,
chẳng thể nói trọn hết được! Nhưng
trong nhiều hạng mục, có một hạng mục chủ
yếu nhất, chủ yếu là ǵ vậy? Giúp đỡ chúng sanh
phá mê khai ngộ, họ mới thật sự ĺa khổ
được vui, giống như Phật, Bồ Tát. Nếu
quư vị chẳng giúp họ điều này, mà giúp đỡ
những điều khác, đó gọi là “đau đầu chữa đầu, đau chân chữa
chân”, quư vị chẳng thể thật sự giúp chúng
sanh khôi phục sức khỏe. Thật sự giúp đỡ
họ khôi phục sức khỏe th́ nhất định là
phải giúp họ giác ngộ.
Do
vậy, hết thảy chư Phật, Bồ Tát, chẳng
có vị nào không giáo hóa chúng sanh. Thích Ca Mâu Ni Phật đă v́
chúng ta thị hiện, giảng kinh hơn ba trăm hội,
thuyết pháp bốn mươi chín năm, mọi người
đều biết điều này. Đức Thế Tôn giúp
đỡ hết thảy chúng sanh khổ nạn, đủ
loại chuyện giúp đỡ khác nữa, nhưng [những chuyện ấy] rất ít được ghi chép. Chẳng phải là
không có, thảy đều có! Hễ thấy liền làm, hễ
nghe liền làm, chẳng phải là không làm. Điều quan
trọng nhất là hằng ngày giảng kinh, hằng ngày giáo
học, giảng kinh là giáo học. Trong các học tṛ, có những
vị thật sự thấu hiểu, khế nhập cảnh
giới. V́ thế, có vị chứng quả A La Hán, có vị
chứng quả vị Bồ Tát. Sau khi chính ḿnh đă thành tựu, bèn thay đức Phật giáo hóa chúng sanh.
Đức
Phật thị hiện trong thế gian này, nhất định
phải giống như mọi người. Thuở đó,
chưa có công cụ khoa học để
truyền bá, dùng phương pháp ǵ? Học tṛ [của đức Phật] đi
dạy [khắp nơi]. Quư vị
thấy các học tṛ do chính Ngài dạy dỗ, mở kinh điển
ra, trong phần Tựa bèn liệt kê các vị thượng
thủ, một ngàn hai trăm năm mươi lăm vị,
thảy đều là những vị có thành tựu, đều
thường thay đức Phật giáo hóa chúng sanh. V́ thế,
đức Phật có thể phái những học tṛ ấy
đến giáo hóa trong bốn phương tám hướng.
Hằng ngày, sau khi đă học, phải dạy người
khác. Dạy người khác quá nửa thuộc loại cơ
hội giáo dục. Hằng ngày đi khất thực, đó
là cơ hội giáo dục. Từ kinh văn, chúng ta thấy,
khi ra ngoài, hễ [các Ngài] thấy có người bèn dạy
họ. Thấy dăm ba người ngồi nói chuyện gẫu,
liền xen vào đó để dạy họ. Do người,
hoặc do sự [mà nói năng], chẳng có ǵ không phải là
giảng kinh, thuyết pháp, chẳng có ǵ không nhằm giúp
cho mọi người khai ngộ.
Quư
vị có thể thấy đến tầng [ư nghĩa] này, quư
vị mới có thể tưởng tượng Tăng đoàn
của đức Thế Tôn thuở ấy, đối với
xă hội, đối với thế gian, đă dấy lên tác
dụng to tát ngần ấy! Nay chúng ta nói là “chủng tử lăo sư” (種子老師, vị thầy gieo hạt); một ngàn hai trăm năm
mươi lăm vị đệ tử của đức
Phật là “chủng tử lăo
sư”, đi khắp nơi gieo hạt, dạy người,
giúp họ giải quyết vấn đề. Học tập
từ chỗ đức Phật, c̣n đối với bên
ngoài th́ giáo hóa. V́ thế, trong giáo pháp Đại Thừa
đă viết rất rơ ràng: Những vị ấy đều là Đại
A La Hán. Đại A La Hán là Bồ Tát. Chúng ta đă hiểu
rơ, thấu hiểu, quư vị phải làm như thế nào?
Bất luận là chỗ nào, bất luận với người
nào, chỉ cần tiếp xúc, hễ mở miệng, sẽ
là giảng kinh, thuyết pháp, tức là giáo học. Chẳng
nhất định phải có pḥng học, phải có bàn
để giảng, chẳng phải vậy! Hết thảy
lúc, hết thảy chỗ!
Khi
chẳng có ai, người thế gian chúng ta chẳng lănh hội
điều này. Khi không có ai, vẫn chững chạc,
đàng hoàng, làm cho ai thấy? Tự nhiên là có những nhóm [chúng sanh] với số lượng có thể c̣n nhiều hơn
loài người, kinh nói là “chúng
sanh trong chín pháp giới”. Nói “chín
pháp giới” là như thế nào? Mười pháp giới
ngoài nhân pháp giới ra th́ là chín pháp giới. Trong chín pháp giới
có Phật pháp giới, nhưng Phật pháp giới ở đây
là Phật pháp giới trong mười pháp giới, chẳng
vượt thoát mười pháp giới. V́ thế, Thiên Thai
đại sư gọi vị Phật này là Tương Tự
Tức Phật, chẳng phải là chân Phật. Nếu là
chân Phật, sẽ vượt thoát mười pháp giới.
[Tương Tự Tức Phật] chẳng vượt khỏi
mười pháp giới. V́ sao chẳng phải là chân Phật?
Vị ấy cũng tu tâm b́nh đẳng, nhưng chẳng
đoạn trừ khởi tâm động niệm. Trong
mười pháp giới, Ngài có biên độ khởi tâm
động niệm nhỏ nhất. Xác thực là chẳng
có phân biệt, chấp trước, nhưng vẫn c̣n khởi
tâm động niệm, khởi tâm động niệm rất
vi tế. V́ thế, vị ấy chẳng thoát khỏi mười
pháp giới.
Chúng
ta ở một ḿnh, niệm nào cũng suy nghĩ giáo huấn
của đức Phật, niệm nào cũng suy nghĩ nghĩa
lư trong kinh điển, thân thể tận hết sức hành
tŕ. Chúng sanh trong pháp giới trông thấy, họ sẽ học
theo. Chúng ta phải nêu gương tốt để giúp
đỡ họ; đấy là Phật tâm, là Bồ Tát hạnh.
Chúng ta luôn miệng xưng là Bồ Tát, hăy ngẫm xem chúng
ta có đạt tới cảnh giới này hay chưa? Đối
trước kẻ khác liền giúp đỡ người ta;
chẳng có ai, sẽ đối diện chúng sanh trong chín pháp
giới, chẳng thể buông lỏng mảy may! Trong giáo pháp
Đại Thừa đă nói rất hay: “Tự hành là hóa độ người khác, hóa độ
người khác là tự hành, tự hành và hóa độ
người khác là một, không hai”. Đấy là cảnh
giới của Bồ Tát.
V́
sao tự hành là hóa độ người khác? Trong ấy có
thân giáo, chính là như trong kinh điển, đức Phật
thường dạy: “V́ người
khác diễn nói”. Tự hành là biểu diễn, nêu gương
tốt cho kẻ khác thấy. Gương tốt ǵ vậy?
Chẳng có phiền năo, chẳng có tập khí, đầy ắp
trí huệ. Trí huệ biểu hiện thành cung kính, khiêm
hư. Trong những năm gần đây nhất, chúng tôi
đề ra “thành kính, khiêm ḥa”,
[nghĩa là] chân thành, cung kính, khiêm hư, ḥa thuận. Đấy
là đức hạnh chân thật, trí huệ chân thật
được biểu hiện ra. Có người th́ làm cho người
ta thấy, thành kính, khiêm ḥa. Chẳng có ai th́ làm cho quỷ
thần thấy, làm cho chúng sanh trong chín pháp giới nh́n vào.
Hết thảy thời, hết thảy chỗ, quyết
định chẳng có khi nào lơi lỏng. Nói theo phía chúng
ta, sẽ là dũng mănh, tinh tấn. Thiện căn bậc
nhất của Bồ Tát là tinh tấn, chẳng lười
nhác, quư vị nói xem sung sướng cỡ nào! Quư vị chẳng
cảm thấy vui sướng, chẳng cảm thấy hoan
hỷ, tức là công phu của quư vị chẳng đắc
lực. Công phu đắc lực, đúng là pháp hỷ sung
măn, thường sanh tâm hoan hỷ! Đă hết thời
gian rồi, chúng tôi nói bài kệ này tới đây, thảy
đều là nói về chuyện tu nhân.
***
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống, xin xem bài kệ thứ chín tiếp theo. Bài
kệ thứ chín kế đó [như thế này]:
(Kinh)
Nhược kiến quả thật, đương nguyện
chúng sanh, hoạch tối thắng pháp, chứng Bồ Đề
đạo.
(經)若見果實。當願眾生。獲最勝法。證菩提道。
(Kinh: Nếu thấy quả hạt, nguyện cho
chúng sanh, đạt pháp tối thắng, chứng đạo
Bồ Đề).
Đây
là hoa nở trên cây, kết thành quả. Khi đi ra ngoài, sẽ
thường gặp. Bồ Tát đă gặp, tự nhiên dẫn
phát nguyện vọng này. Giống như thí nghiệm với
nước của ông Giang Bổn Thắng. Chúng ta đối
diện b́nh nước này, khởi tâm động niệm
là cảm, nước xác thực có ứng. Thiện niệm,
thiện tâm, nước sẽ phản ứng hết sức
đẹp đẽ. Ác tâm, ác niệm, nước sẽ
phản ứng hết sức xấu xí. Tuy chuyện này là
chuyện nhỏ, từ chuyện nhỏ này, chúng ta hăy chú tâm
lănh ngộ, sẽ thấy là một chuyện to lớn! Nhà
Phật nói “đại sự
nhân duyên”, từ việc nhỏ nhặt bèn có thể thấu
hiểu đại sự nhân duyên. Đại sự nhân
duyên là thế giới, là vũ trụ. Nước là pháp
tướng, Thể là Pháp Tánh. Nếu chẳng có Tánh Thể,
nó sẽ chẳng thể có phản ứng. Nguyên nhân là v́ Thể
của nó là Pháp Tánh, tất cả hết thảy các hiện
tượng trọn khắp pháp giới hư không giới,
chúng ta thường dùng từ ngữ “sâm la hiện tượng” để h́nh dung. Tất
cả những hiện tượng ấy không ǵ chẳng
phải là pháp tướng.
Đă
là pháp tướng, đương nhiên là nó có Pháp Tánh. Đă
có Pháp Tánh, khẳng định là sẽ giống như
nước; động vật, thực vật, và khoáng vật
chẳng có một ngoại lệ nào! Chỉ cần là thiện
niệm, núi, sông, đại địa, sâm la vạn tượng,
chẳng có ǵ bất thiện. Nếu là bất thiện niệm, chẳng
có ǵ không ác. Từ chỗ này, quư vị lại lănh hội
cao hơn một bước, các vị tổ sư đại
đức từ cổ đă nói: “Tịnh Độ là phương này, tức
là nơi đây, nơi đây là Tịnh Độ!” Quư vị có hiểu ư nghĩa của câu này hay chăng?
Nếu quư vị đă hiểu, tâm tịnh, ắt cơi Phật tịnh. Chỉ cần tâm địa
của ta thanh tịnh, những ǵ mà sáu căn của chúng
ta tiếp xúc không ǵ chẳng thanh tịnh. Cái tâm thanh tịnh
của ta là cảm; núi, sông, đại địa, sâm la vạn
tượng sẽ ứng. Giống như trong thí nghiệm
với nước, tâm ta thanh tịnh là cảm, chúng nó sẽ
dùng thanh tịnh để ứng. Sắc, thanh,
hương, vị không ǵ chẳng tịnh. Ta dùng cái tâm ô nhiễm
để cảm, chẳng có ǵ không bị ô nhiễm!
Phải
hiểu rơ ràng, hiểu minh bạch đạo lư này. Nay là nửa
cuối thế kỷ hai mươi, v́ khoa học kỹ
thuật phát triển, đă đem lại sự ô nhiễm
nghiêm trọng và phá hoại sanh thái tự nhiên. Sự ô nhiễm
và phá hoại ấy đă ảnh hưởng nghiêm trọng
đến nhân loại cư trụ trên địa cầu.
Nếu hiện thời chẳng thể
khống chế hữu hiệu sự ô nhiễm và phá hoại
ấy, các nhà khoa học đă đưa ra lời tiên
đoán cảnh cáo: Sự sanh tồn của nhân loại
trên địa cầu chỉ sợ rất khó duy tŕ năm
mươi năm nữa. Có nghĩa là năm mươi
năm sau, nhân loại sẽ tuyệt tích trên địa cầu, cũng có
nghĩa là địa cầu chẳng thích hợp cho chúng
sanh thuộc về nhân loại cư trụ.
Chuyện
động vật trên địa cầu bị tuyệt diệt
rất nhiều, từ xưa tới nay đă có ghi chép. Một
dân tộc trên thế gian bị tuyệt diệt cũng có
ghi chép. Rốt cuộc là do nguyên nhân ǵ, chẳng t́m thấy!
Hiện thời, từ khoa học, chúng ta có thể thấu
hiểu, đă dần dần phát hiện nguyên nhân: Chính là do
hoàn cảnh sanh thái biến đổi khác hẳn, khiến
cho họ chẳng có cách nào sanh tồn nơi đó. Hiện
thời, sanh thái trên địa cầu đă bắt đầu
biến đổi, biến hóa rơ rệt nhất mà mọi người
đều có thể thấu hiểu, chính là biến đổi
khí hậu. Đây chẳng phải là chuyện nhỏ, mà là
đại sự, v́ sao? Động vật và thực vật
đều phải dựa vào khí hậu để sanh tồn.
Động vật miền nhiệt đới chẳng thể
sống sót ở vùng băng giá. Thực vật ở vùng băng
giá chẳng thể sống c̣n tại vùng nhiệt đới,
chúng nó cần có điều kiện để sanh tồn.
Nếu có một ngày, khí mát mẻ từ phương Bắc
biến thành ấm nóng, khí ấm nóng ở phương Nam
biến thành mát mẻ, quư vị hăy nghĩ đến tánh
chất nghiêm trọng
của chuyện này! Sẽ
là tất cả những sinh vật trên địa cầu
đều chẳng thể sanh tồn. Nếu đổi
chỗ chuyển nhà, sẽ chẳng kịp! Tức là toàn
thể thế giới này sẽ bị hủy diệt!
Khoa
học hiện thời đă t́m ṭi, xác thực là cũng đă t́m được chứng cứ. Như Hỏa
Tinh và Kim Tinh cách chúng ta khá gần, xác thực là các tinh cầu
ấy xưa kia có người, có những dấu vết
[chứng tỏ] có sinh vật, nay chẳng có. V́ sao chẳng
có? Nay chúng ta có thể lư giải, nếu một khi điều
kiện để những loại sinh vật giống như
trên địa cầu sanh tồn bị tiêu mất, những
sinh vật ấy sẽ chẳng c̣n nữa. Nếu những
điều kiện ấy trọn đủ, chúng sẽ
đều nên hiện hữu. V́ thế, sự ô nhiễm và
cân bằng sanh thái hiện thời bị phá hoại là do
con người gây ra! Đây chẳng phải là chuyện tốt!
Con người chỉ biết ích kỷ, có vọng niệm
muốn chinh phục tự nhiên, muốn biến đổi
sanh thái tự nhiên, chẳng biết nó sẽ phản ứng.
Chúng ta cũng có thể nói là “trả thù”, khiến cho quư vị
cùng nhau chết sạch! Đấy là sự thật rất
tàn khốc, chớ nên không biết. Chúng ta chớ nên kiêng kỵ
thảo luận nỗi tai hại, chớ nên kiêng dè, tránh né,
đây là sự thật!
Do
vậy, hiện thời chúng ta biết, tai hại chẳng
phải do thiên nhiên. Tai hại thảy đều do con người
gây ra. Từ thí nghiệm với nước, chúng ta đă
thu được chứng cứ khoa học. Cơi ḷng quư vị
bất thiện, niệm nào cũng tương
ứng với Thập Ác, tai hại sẽ xảy tới,
do chính quư vị chuốc vời! Nếu quư vị chuyển
đổi ư niệm, vứt bỏ Thập Ác, niệm nào cũng
đều là Thập Thiện, tai hại sẽ được
hóa giải. Hiện thời nói đến chuyện “bảo vệ môi trường”,
chuyện bảo vệ môi trường cũng được
đề xướng mấy chục năm rồi, tôi cũng
đă nhắc tới nhiều lần. Hiện thời, trên
thế gian có khá nhiều chánh phủ thực hiện chuyện
bảo vệ môi trường, có hiệu quả hay không? Tôi
không tin! Đó là trị đằng ngọn, chẳng trị
đằng gốc, chẳng thể giải quyết
được. Thật sự muốn làm tốt chuyện
bảo vệ môi trường, có thể tiêu trừ thiên tai,
nhân họa, chẳng phải là không làm được, quư vị
phải t́m nguyên nhân thật sự của vấn đề
ở chỗ nào. Cái nhân thật sự ở nơi ư niệm
con người, đấy chính là “tâm tịnh, cơi nước tịnh; tâm an, chúng sanh an,
tâm b́nh ắt thiên hạ b́nh”. Thiên hạ chẳng b́nh lặng,
thiên hạ đại loạn, ḷng người bất an,
hoàn cảnh ô nhiễm bất tịnh, có mối quan hệ
chặt chẽ với khởi tâm động niệm.
Người
học Phật hiểu đạo lư này, tín đồ các tôn
giáo hiểu được, nhưng trong thế gian c̣n có rất
nhiều người chẳng tin tôn giáo, họ không hiểu.
Tín đồ tôn giáo hiểu, nhưng chẳng làm! Nếu tất
cả các tín đồ tôn giáo sau khi đă hiểu, đều
có thể thực hiện, đều có thể biến thành
thực tiễn; thực tiễn là ǵ? Buông xuống ác niệm, buông xuống
hết thảy các hành vi bất thiện, quay lại nhất
tâm hướng thiện, sẽ sanh ra sức mạnh to lớn,
có thể hóa giải tai nạn. Tuy c̣n có rất nhiều ác
niệm, chẳng sao cả, quư vị tập trung sức mạnh,
sức mạnh ấy sẽ vượt trội nó. Đấy
mới là phương pháp bảo vệ môi trường có
hiệu quả nhất.
Mỗi
lần chúng ta gặp các tai nạn, tôi đều khuyên nhủ,
hướng dẫn các đồng học Tịnh Tông các nơi trên toàn cầu: Trong lúc đang bị thiên tai, nhân họa,
chúng ta hăy cùng thời gian, bất luận ở chỗ nào cũng
đều chẳng quan trọng, mọi người đều
tụng kinh, mọi người đều niệm Phật,
hồi hướng công đức ấy cho khu vực bị
tai nạn, sẽ sanh ra hiệu quả. Tiến sĩ Giang Bổn
Thắng đă từng làm một thí nghiệm, tôi đă đọc
bản báo cáo của ông ta. Ông ta đặt một b́nh nước
trên bàn làm việc của chính ḿnh. Tôi đă đến thăm
pḥng làm việc của ông ta ở Đông Kinh trong một căn
lầu nhỏ. Ông ta dùng điện thoại liên lạc các
bạn bè rải rác trên cả thế giới, cùng một
thời gian, [ở đó là] mấy
giờ, mấy phút, ở Đông
Kinh là mấy giờ, mấy
phút, mọi người đều
căn thời gian cho khéo, tính kỹ sự sai lệch múi giờ,
cùng trong một thời gian, dùng ư niệm tốt lành để
nghĩ tới b́nh nước trên chiếc bàn làm việc của ông ta. Thiện niệm của tôi nghĩ tới b́nh nước
ấy, nước bèn kết tinh hết sức đẹp
đẽ. V́ thế, tốc độ của ư niệm hết
sức nhanh chóng vượt qua không gian. Quư vị vừa nghĩ, ư
niệm liền thấu tới, c̣n mau chóng hơn sóng điện.
Nếu dùng ư niệm bất thiện để nghĩ tới
chén nước ấy, chén nước sẽ kết tinh hết
sức xấu xí, đă làm thí nghiệm [như vậy]!
Thí
nghiệm ấy khiến cho chúng tôi suy nghĩ, các đồng
học Tịnh Tông chí đồng đạo hợp trên toàn
cầu trong cùng một thời gian niệm Phật, cùng thời
gian tụng kinh Vô Lượng Thọ, hoặc tụng kinh Địa
Tạng, hồi hướng công đức ấy sẽ chẳng
thể nghĩ bàn. Trong quá khứ, chúng tôi chỉ làm
như thế, chẳng biết là thật sự hữu hiệu
hay không? Rất nhiều người vẫn hoài nghi, nói chung cứ nghĩ là làm th́ vẫn tốt
hơn chẳng làm! Chẳng ngờ thật sự có hiệu
quả. Hiệu quả lại c̣n thù thắng dường ấy,
chẳng ngờ tới chuyện này! V́ thế, tôi rất
coi trọng thí nghiệm của ông ta. Lần đầu tiên
tôi được tiếp xúc là bốn bài báo cáo do các đồng
học hạ tải (download)
từ Internet, tôi rất coi trọng.
Tôi t́m đồng học nghĩ cách liên lạc với ông
ta, mời ông ta đến viếng đạo tràng của
chúng ta để làm thí nghiệm, báo cáo. Khi tôi sang Đông
Kinh họp, đă đến thăm ông ta, mời ông ta đến [chỗ chúng ta] báo cáo. Ông ta đến,
chứng tỏ một câu nói trong kinh Phật: “Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng”.
Thế
giới Cực Lạc, thiên đường, hết thảy
tốt đẹp, sanh từ thiện tâm. Tam đồ,
địa ngục, hết thảy tai nạn, sanh từ cái
tâm bất thiện, chứng minh câu nói ấy của đức
Phật là sự thật, là chân lư! Nếu chúng ta mong thân thể
đẹp đẽ, khỏe mạnh, chẳng cần dùng
những thứ đồ bổ, chẳng cần dùng những
thứ khác để phụ trợ! Dùng những thứ ấy,
sẽ có tác dụng phụ. Dùng thiện niệm, quư vị
dấy lên thiện tâm, thiện niệm, mỗi tế bào,
mỗi khí quan trên toàn thân đều trở thành đẹp
đẽ, tốt lành nhất. Chúng nó phản ứng. Quư vị
hăy ngẫm xem, chúng ta khởi tâm động niệm, cái phản
ứng đầu tiên là thân thể, sửa đổi thân
thể tốt lành hơn. Ba mươi hai tướng, tám
mươi thứ hảo như đă nói trong phần
trước chẳng có ǵ khác, toàn là thiện niệm.
Từ
chỗ này, chúng ta hiểu rơ, quư vị tu hành có công phu hay không,
hăy nh́n vào vẻ mặt, nh́n vào thân thể của quư vị,
sẽ biết ngay! Nếu quư vị thật sự đoạn
ác, tu thiện, tướng mạo nhất định sẽ
ngày càng tốt đẹp hơn. Tướng chuyển theo
tâm, đấy là do những thầy tướng số nói.
Người học Phật chúng ta hiểu: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”. Một
ư niệm bất thiện sẽ làm hư chính ḿnh, tướng
mạo của quư vị sẽ bất thiện, thân thể
sẽ chẳng khỏe mạnh cho mấy. Đạo lư này
hiện thời đă có khoa học làm chứng bên cạnh.
Nếu quư vị vẫn chẳng tin tưởng, sẽ chẳng có một tí
biện pháp nào cả! Đấy là như nhà Phật
thường nói: “Phật độ
hữu duyên nhân” (Phật độ kẻ hữu duyên), “kẻ hữu duyên” là ǵ? Tin
tưởng sẽ là hữu duyên. Quư vị chẳng tin, sẽ
chẳng có duyên. Quư vị vẫn tin vào đường lối
của chính ḿnh, muốn t́m thuốc bổ chi đó, muốn
t́m thứ ǵ đó để phụ trợ quư vị, sai lầm
mất rồi! Phàm là hết thảy những thứ giúp
đỡ từ bên ngoài sẽ chẳng có lợi, chúng chẳng phải
là tự nhiên, chẳng cần ngoại giới xen vào.
Vài
hôm trước, có một đồng học tặng cho tôi
một hộp DVD. Trong ấy có hai bộ đĩa. Bộ thứ nhất
nói “chớ nên ăn thịt chúng sanh”, lẽ nào quư vị có
thể ăn chúng cho được? Bộ thứ hai là Sơn
Tây Tiểu Viện, quư vị ở đây đều đă
xem. Hơn bốn mươi người từng mắc bệnh
nặng, bác sĩ trong bệnh viện tuyên bố chẳng
có cách nào chữa trị họ, tuyên bố chấm dứt
trị liệu. Họ trở về niệm kinh Địa
Tạng, niệm kinh hoặc niệm Phật hiệu, nghiễm
nhiên trong một thời gian ngắn ngủi, hai, ba tháng, thân
thể đều khôi phục b́nh thường, lại đi kiểm
tra, chẳng c̣n bệnh nữa! Đấy là do nguyên nhân nào?
Tôi sợ mọi người không hiểu, ngỡ chuyện này là mê tín! Chẳng mê tín! Tôi nói với quư vị
hơn một giờ, có đạo lư chứ! Đấy chính
là dùng ư niệm của chính ḿnh để trị lành bệnh,
cùng một đạo lư như nước kết tinh. Trong
hai tháng, quư vị ngày đêm đều là thiện niệm,
đều chẳng có ác niệm. Nghĩ tới kinh điển này chính là ư niệm tốt nhất. Nghĩ tưởng Phật,
Bồ Tát là ư niệm tốt nhất. Chẳng phải là Phật,
Bồ Tát có thần lực ǵ để phù hộ quư vị
đâu nhé, chẳng phải vậy! Quư vị nghĩ kiểu
đó th́ chính là mê tín, sai mất rồi, mà là ǵ? Thiện niệm!
Thiện niệm là Tánh Đức, bản tánh vốn lành.
Giáo
dục truyền thống của Trung Hoa nói như thế này:
“Nhân chi sơ, tánh bổn thiện”
(Con người thoạt đầu tánh vốn lành). Kinh
Phật cũng nói kiểu ấy: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và
đức tướng của Như Lai”, “hết thảy chúng sanh đều
có Phật Tánh”, viên măn nhất, chẳng khiếm khuyết
mảy may! Những tôn giáo khác cũng giống như thế,
vấn đề là quư vị có tin hay không, điều này rất
khó! Kinh luận Đại Thừa Phật pháp đă nói rất
hay: “Tín vi đạo nguyên, công
đức mẫu” (Tin là nguồn đạo, mẹ công đức). Vô
lượng vô biên công đức đều sanh từ tín tâm.
Ta chẳng tin điều này, vẫn tin vào thuốc men, vẫn
tin vào bác sĩ của ta, hay là tin vào những thứ thuốc bổ ấy, sai mất rồi, thật sự sai lầm!
Gần
đây nhất, tôi xem một bản báo cáo, dường như
cũng là của một bác sĩ Đài Loan. Năm nay, ông
ta đă sáu mươi chín tuổi, thuở trẻ bị
ung thư, đă trị liệu bằng cách hóa trị
(chemotherapy), chữa trị hết sức đau đớn.
Đến cuối cùng, ông ta dứt khoát: “Ta chẳng tin vào
thuốc men nữa, ta cũng chẳng thèm tin bác sĩ nữa”.
Dùng ư niệm của chính ḿnh thật sự chữa lành
chính ḿnh. Nay ông ta đă ngoài sáu mươi tuổi, có một
bản báo cáo, tôi nghĩ chư vị đều có thể đọc
được. Ư niệm quyết định hết thảy.
Không chỉ là quyết định sự khỏe mạnh nơi
thân tâm của cá nhân, mà c̣n quyết định thế giới
này. Sự an nguy của toàn thể thế giới là do thiện
niệm hay ác niệm quyết định! Mọi người
đều thiện, tôi thường nói, thế giới này
sẽ là thế giới Cực Lạc, là thế giới
Hoa Tạng, chẳng sai tí nào!
Ư
niệm của mọi người chuyển biến núi,
sông, đại địa đều thành bảy báu, tự
nhiên chuyển biến, chẳng cần chúng ta suy tưởng.
Hễ suy tưởng th́ sai mất rồi! Suy tưởng
là ǵ? Quư vị có vọng tưởng, hễ vọng tưởng
dấy lên, sẽ chẳng phải là thứ tốt đẹp
nhất. Tốt đẹp nhất là chẳng có vọng
tưởng, chẳng có phân biệt, chẳng có chấp
trước, sẽ xuất hiện thế giới Hoa Tạng,
Cực Lạc, vô hạn tốt đẹp, nhà Phật nói
là “chẳng thể nghĩ bàn”.
Câu “chẳng thể nghĩ bàn”
này quá ư là sâu! Do cái nhân chẳng thể nghĩ bàn, bèn có
cái quả chẳng thể nghĩ bàn. “Chẳng thể nghĩ bàn” là vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước thảy đều buông xuống,
chẳng có! Cái quả đức sẽ viên măn nhất, chẳng
có mảy may khuyết hăm nào!
Trong
kinh văng sanh, đức Phật bảo thân thể của mỗi
người [sau khi văng sanh Cực Lạc] đều là “tử ma chân kim sắc thân”
(thân có màu như vàng ṛng màu tía được trau giồi sáng
bóng), thường trụ bất hoại, vĩnh viễn
chẳng bệnh tật, vĩnh viễn chẳng già suy. Những nhu
cầu cần thiết cho cuộc
sống tự nhiên đưa đến, chẳng cần
nghĩ tới. Ta muốn ăn cơm, cơm liền hiện
đến, đấy là c̣n nghĩ tưởng. Sai mất
rồi! Chẳng cần nghĩ. Tập khí của quư vị
chẳng đoạn, đến lúc ấy, chúng sẽ hiện
tiền. Do một ư niệm “chẳng cần”, chúng sẽ
chẳng c̣n nữa. Đấy mới thật sự là “hết thảy các pháp đều
sanh từ tâm tưởng”,
“thuận theo ḷng mong, tâm tưởng sự thành”! Đó là khi nào? Khi vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước thảy
đều buông xuống, nó sẽ hiện tiền. Chúng ta đă
học Phật pháp nhiều năm ngần ấy, nhất
là đối với kinh Hoa Nghiêm có thể nói là đă có mức
độ khế nhập kha khá, [thế mà] vẫn chẳng
tin điều này, vẫn chẳng được thọ dụng
từ những phương pháp và hiệu quả này, chẳng
gọi là “uổng công học”
hay sao? V́ sao quư vị chẳng thể sử dụng
những phương pháp này? V́ sao chẳng đạt
được hiệu quả? Nói thật ra là do không tin,
tin quá khó!
Nói
đến đây, tôi nghĩ đến thầy tôi là thầy
Lư. Tôi xuất gia hai năm sau mới thọ giới. Sau khi
đă thọ giới, theo quy củ thông thường, đại
sự đầu tiên là phải đến bái tạ thầy.
Ân giáo huấn, đức vun bồi của thầy chẳng
thể quên được! Do vậy, tôi cũng không ngoại
lệ, ĺa giới đàn, đến Đài Trung bái phỏng
thầy. C̣n chưa vào cửa, thầy ở trong, tôi ở
ngoài cửa, thầy trông thấy. Thấy tôi, thầy chỉ
tôi bảo: “Anh phải tin Phật!
Anh phải tin Phật!” Nói khá nhiều lần, tôi đến
trước mặt thầy. Thầy bảo tôi ngồi xuống,
nói: “Anh có hiểu lời tôi nói hay không?” Tôi thưa: “Con không
hiểu cho lắm! Nếu con không tin Phật, làm sao con học
Phật cho được? Nếu con không tin Phật, cớ
sao con muốn xuất gia? Nếu con không tin Phật, lẽ
nào con đi thọ giới cho được? Thầy
chỉ con kêu lớn, ‘anh phải tin Phật, anh phải tin
Phật’, con không hiểu ạ”.
Thầy
cười x̣a, ngồi xuống, bảo tôi: “Niềm tin của anh chẳng phải
là chân tín. V́ sao chẳng phải là chân tín? Anh chưa làm
được!” Vừa nghĩ, tôi đă cảm nhận
được. Đúng thế! Tôi thọ Tam Quy, Ngũ Giới,
Tam Quy là “giác chứ không mê, chánh
chứ không tà, tịnh chứ chẳng nhiễm”, tuy tôi
rất nỗ lực thực hiện, nhưng trên thực
tế, vẫn là “mê chứ chẳng
giác, tà chứ chẳng chánh, nhiễm chứ chẳng tịnh”,
chẳng làm được. Tuy đă thọ Ngũ Giới,
tôi lại c̣n thọ Bồ Tát Giới. Khi xuất gia thuở ấy,
đă thọ tam đàn đại giới, nhưng chẳng
làm được điều nào! Đấy là không tin Phật.
Nếu quư vị tin, sẽ thảy đều làm được.
V́ thế, thầy dạy tôi: “Anh
hăy suy nghĩ cẩn thận, [sẽ thấy] có những vị
lăo ḥa thượng xuất gia, sống đến tám, chín
mươi tuổi, đến chết vẫn chẳng tin”.
Tôi nghe lời ấy mới hoảng nhiên đại ngộ,
chuyện này chẳng giả!
Đối
với những ǵ đă học, đă tu, rốt cuộc quư
vị liễu giải bao nhiêu? Sự liễu giải của
quư vị có độ sâu như thế nào? Có thực hiện
nó trong cuộc sống hay chăng? Có thực hiện trong công
việc hay không? Có thực hiện trong xử sự, đăi
người, tiếp vật hay không? Quư vị có giống như một
vị Bồ Tát hay không? Nói theo phía người Tiểu Thừa,
quư vị có giống như một vị A La Hán hay không? Thậm
chí chúng ta nói thấp hơn, quư vị có giống một vị
Tu Đà Hoàn hay không? Trong giáo pháp Đại Thừa, quư vị
có giống một vị Bồ Tát thuộc địa vị
Sơ Tín hay chăng? Luận định tin hay không từ
chỗ này, chúng ta sẽ chẳng đáp được một
câu nào! Tín tâm làm chủ tể hết thảy, tin Phật là
ǵ? Tin vào chính ḿnh! Tin vào Tánh Đức của chính ḿnh. Cổ
nhân nói: “Nhân chi sơ, tánh bổn
thiện”, quư vị có tin “tánh
của chính ḿnh vốn lành” hay chăng? V́ sao nay quư vị
bất thiện? Bất thiện tức là chẳng tin! Bản
tánh vốn lành, nhưng ta không tin, ta tin vào tập tánh bất
thiện, vậy th́ có cách nào đây? Chẳng có cách nào hết!
Chúng
ta không tin bổn thiện trong tự tánh, mà tin vào phiền
năo trong A Lại Da Thức, đấy là chẳng tin Phật.
Phiền năo trong A Lại Da là tham, sân, si, mạn nghi, Thân Kiến,
Biên Kiến, Tà Kiến, Kiến Thủ Kiến, và Giới Thủ
Kiến. Quư vị tin tưởng những thứ ấy.
Mă Minh Bồ Tát bảo: “Bổn
Giác vốn có, bất giác vốn không”, tập tánh vốn
không, bản tánh vốn có. Tập tánh vốn không mà ta chẳng
đoạn được. Vốn có mà ta không biết, tin Phật
ở chỗ nào? V́ thế, ta cúng Phật, cúng hoa, cúng trái cây,
có ư nghĩa ǵ vậy? Đó gọi là trang nghiêm đạo
tràng, chẳng nghĩ trang nghiêm tự tánh, nghĩ sai lệch
mất rồi! Đối với hoa và quả, [cứ ngỡ]
hoa là để cho Phật ngắm, quả để Phật
xơi, chẳng có chuyện đó đâu nhé! Hoa và quả
đều là giáo huấn của đức Phật, tức
là hai bài kệ ở đây sẽ khiến cho quư vị trông
thấy hoa bèn nghĩ phải tu cái nhân tốt, trông thấy
quả sẽ nghĩ quư vị mong đạt được
quả Bồ
Đề. V́ thế, đó là giáo học
của đức Phật, thời thời khắc khắc
nhắc nhở chính ḿnh phải tu cái nhân tốt ḥng
đạt được quả lành. Có ư nghĩa như thế
đó. Quư vị tưởng cúng cho Phật ăn, sai mất
rồi!
V́
thế, có người hỏi tôi, đối trước Phật
cúng hoa th́ có thể cúng hoa giả hay không, có thể cúng trái cây giả
hay không? V́ sao? Chẳng cần phải thay! Hoa quả tươi
th́ phải thay đổi mỗi ngày. Họ hỏi tôi có
được hay không? Có thể chứ, biểu thị pháp
mà. Nhất là trong thời đại hiện tại, hoa thật
th́ vài ngày sẽ tàn, tạo thành ô nhiễm, chẳng bằng
dùng hoa giả. Trái cây th́ chính ḿnh có thể ăn, vẫn
được! Quư vị phải hiểu ư nghĩa biểu
thị pháp quan trọng. Trông thấy quả, quư vị bèn
nghĩ tới quả báo thuộc y báo và chánh báo trang nghiêm trong
mười pháp giới. Do nhân lành đạt được
quả lành, tối thiểu là thiện quả nhân thiên. Ác niệm
sẽ có quả báo là ba ác đạo. V́ thế, chúng nhằm
biểu thị pháp, nhắc nhở quư vị, dụng ư ở
chỗ này. Cúng hương, đèn, chẳng có ǵ không phải
là giáo dục.
“Hương, chúc” (香燭, nhang, đuốc) trước kia là nến hoặc đèn
dầu, hương nhằm biểu lộ ḷng thành tín, nên gọi
là “tín hương”. Chúng ta dùng
phương pháp ǵ để truyền đạt tin tức
đến chư Phật, Bồ Tát? Hiện thời thuận
tiện, hiện tại có điện thoại, có máy fax, có
Internet, có TV đều có thể truyền đạt tin tức.
Thời cổ chẳng có những thứ ấy; chẳng
có những thứ ấy th́ dùng ǵ? Dùng khói. Chư vị
đến chơi Trung Hoa, nhất định là sẽ
đến thăm Vạn Lư Trường Thành. Quư vị thấy
ở trường thành, cứ cách một khoảng lại
có một cái Phong Hỏa Đài (烽火台), người ta có thể ở nơi đó
được. Nếu gặp phải t́nh huống khẩn
cấp, có địch nhân xâm phạm, họ ở trên đài
liền đốt “lang yên”
(狼煙) tức
là khói do đốt phân chó
sói, đốt thứ này. V́ sao? Khói
phân chó sói chẳng dễ bị gió thổi tan, chẳng giống
những thứ khác, khi quư vị đốt, gió vừa thổi,
khói liền tan mất, khói phân chó sói vẫn bốc lên cao, chẳng tiêu
tan. V́ thế, đốt khói phân chó sói. Ở chỗ này đốt, phía
dưới trông thấy, liền đốt tiếp, lập
tức truyền từ chỗ này sang chỗ kia, sẽ biết
có chuyện cảnh báo, lan truyền rất nhanh.
V́
thế, Phong Hỏa Đài giống như hiện thời chúng
ta dùng ḷ hương. Nay chúng ta thắp hương là để
truyền đạt tin tức đến chư Phật, Bồ
Tát, và chúng sanh trong chín pháp giới. Thật ra, chuyện này
toàn là h́nh thức! Để thật sự truyền đạt
tin tức, chúng ta vừa động niệm, tin tức liền
truyền đạt. Ư niệm dấy lên thật sự nhanh
chóng hơn tốc độ của sóng điện từ,
c̣n nhanh hơn tốc độ của ánh sáng. Chúng ta dấy
một niệm, sẽ lan truyền khắp pháp giới
hư không giới. Bất luận thiện niệm hay ác niệm,
hễ dấy niệm, sẽ lan truyền trọn khắp
pháp giới hư không giới. Cho tới hiện thời,
chúng ta mới tin sâu chẳng ngờ những điều kinh
văn đă nói, chẳng có nghi hoặc, biết tâm niệm
xác thực là như vậy.
Các
khoa học gia hiện thời nghiên cứu vật lư, dường
như vật lư tiến bộ rất nhanh, nhưng từ
đầu đến cuối, họ chẳng thể đột
phá chướng ngại tâm lư. Họ dùng khái niệm và phương
pháp vật lư để nghiên cứu tâm lư. Ông Thang Ân Tỷ (Arnold
Toynbee) đă nói rất hay, rất có thể là hướng
dẫn phương
hướng và đường lối cho tương lai đă sai lầm, đâm ra gây hại
cho nhân loại. V́ thế, đối với tôn giáo, đặc
biệt là Phật giáo, ông ta thật sự bội phục
đến mức năm vóc sát đất, Phật giáo có thể
nói những chuyện này rơ ràng, minh bạch như thế.
Nhưng rất không may, đại chúng trong xă hội hiện
thời ngỡ tôn giáo là mê tín, dùng nhăn quang khoa học để
phê phán tôn giáo. Trong cách nh́n của ông Thang Ân Tỷ, cội
nguồn của nhân loại là tôn giáo. Nếu vứt bỏ
tôn giáo, ư nghĩa, giá trị và mục tiêu của đời
người đều chẳng có, con người và cầm
thú thật sự chẳng khác nhau! V́ thế, phải nên đọc
sách ấy, nhưng sách của ông ta có bản quyền, chúng
ta chẳng thể in lại, phải nên mua từ tiệm sách.
Tôi trích lục một phần rất nhỏ từ các
bút kư ấy, những câu [được trích lục] đều
rất trọng yếu, có thể dùng cho các đồng học
tham khảo, tôi tin là hữu ích cho việc học Phật của
chúng ta. Bản thân ông ta là tín đồ Cơ Đốc Giáo,
nhưng chẳng bài xích các tôn giáo khác; ngược lại c̣n
tôn kính các tôn giáo khác. Đấy là trí huệ, là người thông hiểu.
V́
thế, trông thấy quả trái, chúng ta nghĩ tới pháp tối
thắng, [tức là] pháp thù thắng nhất. Cũng như
phẩm kinh này khi vừa mở đầu, kinh văn
đă dạy chúng ta: “Nhược
Bồ Tát thiện dụng kỳ tâm” (Nếu Bồ
Tát khéo dùng cái tâm), sẽ có thể đạt được
hết thảy các pháp thù thắng, vi diệu, ở đây
nói là “pháp tối thắng”.
V́ thế, quư vị phải khéo dùng cái tâm. Ai chẳng muốn
khéo dùng cái tâm? Khéo dùng cái tâm chính là như một trăm bốn
mươi mốt thí dụ được nêu ra nơi
đây. Quư vị thấy các Ngài sáu căn tiếp xúc cảnh
giới bên ngoài, có phản ứng
tâm lư; đấy là “khéo dùng cái tâm”. Thành tựu công đức thù thắng
nhiệm mầu! Công đức thù thắng nhiệm mầu
chính là hai câu sau cùng trong mỗi bài kệ. “Khéo dùng cái tâm” là câu nào? Câu thứ hai, tức “đương nguyện chúng sanh”,
đấy là khéo dùng cái tâm. Hai câu tiếp đó chính là công
đức thù thắng, nhiệm mầu.
Nếu chúng ta học tập từ chỗ này, học rồi
sẽ ngay lập tức hữu dụng. Điều lợi
đầu tiên là thân tâm khỏe mạnh, pháp hỷ sung măn.
Chúng ta học Phật, học Phật mà nếu chẳng đạt
được pháp hỷ, chẳng phải là trong cuộc
sống suốt ngày từ sáng đến tối thường
sanh tâm hoan hỷ, quư vị chẳng đạt được,
c̣n nẩy sanh phiền năo, tức quư vị chẳng phải
là đang học Phật. Quư vị thấy có khi nào đức
Phật phiền năo hay chăng? Quán Thế Âm Bồ Tát có
khi nào phiền năo hay không? Địa Tạng Bồ Tát có khi nào phiền
năo hay chưa? Chẳng có! V́ sao chúng ta sanh phiền năo? Chẳng
khéo dùng cái tâm! Chúng ta sử dụng cái tâm luân hồi, dùng
sai mất rồi! Chẳng phải là chúng ta sử dụng
thiện tâm nơi bản tánh, nói theo Phật pháp sẽ là Bồ
Đề tâm. Chân tâm vốn lành, nay chúng ta nói Bồ Đề
tâm rất rơ ràng: “Chân thành, thanh
tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi”. Đó là căn,
tức căn bản! Tổ tiên xa xưa, có lẽ là từ
năm ngàn năm trước, cũng rất lỗi lạc,
đă tổng kết thành một chữ, ái tâm! Chúng ta thấy
điều thứ nhất trong giáo dục luân lư là “phụ tử hữu thân” (cha
con có t́nh thân), thân ái. T́nh thân ái chính là “từ bi” như nhà Phật
đă nói. V́ thế, Phật giáo dùng “từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa”.
Phải biết chỗ nào cũng đều tạo thuận
tiện cho người khác, chớ nên gây khó khăn cho người
ta. Đấy là học Phật. Chư Phật, Bồ Tát chỗ
nào cũng tạo thuận tiện cho người khác!
Người
học Phật chẳng có sanh tử, đă liễu sanh tử,
“liễu” (了) là hiểu rơ, hiểu rơ chân tướng của sanh
tử là chuyện như thế nào, hiểu rơ ràng, minh bạch.
Hết thảy chúng sanh có sanh tử hay không? Chẳng có! Sanh
tử giống như chúng ta hiện thời nói là “thay quần
áo”. Quần áo đă cũ, cởi ra, thay một bộ mới.
Nếu quư vị là thiện tâm, thiện hạnh, tâm địa
thiện, càng thay đổi càng xinh đẹp, chẳng cần
thân người, đổi lấy thân trời. Đổi
thân Dục Giới Thiên thành thân Sắc Giới Thiên, càng
thay đổi càng đẹp đẽ. Tâm hạnh bất
thiện, sẽ đổi lấy thân kém cỏi, đánh mất
thân người, đổi lấy thân súc sanh, đổi lấy
thân ngạ quỷ, càng thay đổi càng tệ. V́ thế,
thân có sanh diệt, linh tánh bất diệt, nhất định
phải biết điều này. Nếu quư vị chẳng
biết “linh tánh” là ǵ, [cứ
thắc mắc] “rốt cuộc tôi có linh tánh hay không?” Tôi hỏi
quư vị, đêm ngủ quư vị có nằm mộng hay chăng?
Có chứ! Có nằm mộng. Mộng chính là linh tánh. Nếu
người đă chết, giống như nằm mộng,
nhưng chẳng tỉnh mộng. Ở trong mộng, kẻ
ấy sẽ t́m một thân thể, đi vào đường
khác. Nếu vào trong nhân đạo, người ấy lại
t́m một thân thể khác, sẽ lại sanh ra. Linh tánh bất
diệt! Trong Phật pháp gọi
là A Lại Da, là “thần thức”,
nó là ǵ vậy? Nó chẳng phải là tự tánh, nhưng nó
cũng chẳng rời ĺa tự tánh. Tự tánh trong trạng
huống mê mất th́ gọi là “thần
thức”. Đă giác ngộ, giác ngộ th́ sẽ chẳng
ở trong lục đạo, nó cũng sẽ chẳng vào
trong mười pháp giới; đấy là giác ngộ. Quư vị
c̣n luân chuyển trong lục đạo th́ là mê; đấy là
thần thức, chẳng gọi là tự tánh. Do có đồng
học hỏi chuyện này, mọi người nhất
định phải hiểu rơ, nhất định phải
thông hiểu. V́ thế, chúng ta đối với hoa và quả,
[phải hiểu] không nhất định là lúc cúng Phật; bất cứ khi nào trông thấy hoa, bèn biết tu nhân tốt, trông
thấy quả bèn biết trong tương lai sẽ đạt
được quả báo tốt đẹp. A! Hôm nay đă
hết thời gian rồi, giảng kinh tới chỗ này vậy!
Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần
36 hết