Đại Phương Quảng
Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần
37
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng
Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt:
Đức Phong, Huệ Trang và Minh Tiến
Tập 1535
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống.
Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một,
xem từ bài kệ thứ mười trong tiểu đoạn
thứ hai của đoạn lớn thứ sáu phần kệ
tụng:
(Kinh) Nhược kiến đại hà, đương nguyện chúng sanh,
đắc dự pháp lưu, nhập Phật trí hải.
(經)若見大河。當願眾生。得預法流。入佛智海。
(Kinh: Nếu thấy sông to, nguyện cho chúng sanh, được
dự ḍng pháp, nhập biển Phật trí).
Đây
cũng là chuyện có thể gặp gỡ khi đi đường,
sông to, suối nhỏ, chỗ nào cũng đều có thể
trông thấy. Nước suối đổ vào sông ng̣i, sông ng̣i
chảy vào biển cả. Do vị trí địa lư của
Trung Hoa, phía Tây Bắc đều là núi cao, Đông Nam là ven
biển; v́ thế, nước đều chảy theo
hướng Đông, đều đổ vào biển cả.
Chúng ta trông thấy sông ng̣i cũng dẫn phát hoằng nguyện
của Bồ Tát. Chúng ta nói “dẫn
phát” (引發), nói thật ra, từ ngữ này cũng chẳng thỏa
đáng cho lắm, nhưng chẳng t́m thấy từ vựng
thỏa đáng hơn để nói. V́ thế, chúng ta phải
hiểu ư nghĩa: Bồ Tát là tự nhiên, Ngài chẳng có phân
biệt, chấp trước, mà cũng chẳng có khởi
tâm động niệm.
Do
vậy có thể biết, hoằng nguyện của Bồ
Tát là tự phát. Chỉ cần vừa tiếp xúc đôi chút là đă
có thể phát khởi [hoằng nguyện]. Nếu quư vị
hỏi cái nhân, Ngài chỉ có thể nói cái nhân là giống
như chúng ta trong thời đại hiện tại, trong giai
đoạn này, vừa mới học Phật phát tâm, phát
nguyện. Hiện thời, đối với chúng ta, Tứ
Hoằng Thệ Nguyện rất xa lạ, [chúng ta] cũng
biết niệm, niệm hằng ngày, v́ sao nói là “xa lạ”?
Thường xuyên quên khuấy; do vậy, rất xa lạ! Chẳng
như tham, sân, si, mạn; quư vị chẳng nghĩ tới tham,
sân, si, mạn, chúng nó vẫn có thể sanh khởi. Thật
đấy! Sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần
bèn dấy lên tham, sân, si, mạn. Do vậy, tham,
sân, si, mạn rất quen thuộc; Phật
pháp rất xa lạ, trong hết thảy các cảnh giới,
[Phật pháp] chẳng thể dấy khởi được. Đó
là thứ xa lạ! Công phu ấy, cổ đại đức
thường dạy chúng ta: “Chỗ chín chuyển thành chỗ sống, chỗ sống
chuyển thành chỗ chín”. Cũng có
nghĩa là giống như chúng ta niệm Phật, chuyển
biến tham, sân, si thành A Di Đà Phật, phải thân thuộc
A Di Đà Phật như chúng ta quen thuộc với tham, sân,
si trong hiện tại. Hễ thân thuộc, sẽ khởi tác
dụng.
Thân
thuộc tham, sân, si th́
sẽ là tam đồ, quả báo là
ngạ quỷ, địa ngục, súc sanh. Nếu thân thuộc
A Di Đà Phật, quả báo sẽ là thế giới Cực
Lạc, phải biết điều này! V́ thế, phải
có thể chuyển biến. “Chuyển” th́ cũng chẳng phải là nói tùy tiện
th́ sẽ có thể chuyển được đâu nhé! Chuyện
này cần phải có công phu. V́ sao phải có công phu? Tập
khí! Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta lưu
chuyển sanh tử trong lục đạo; v́ thế, vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước đă [trở thành] thân thuộc. Ba thứ ấy toàn là chướng
đạo. Không chỉ là chướng đạo, [mà c̣n] chướng
ngại ngộ môn của chúng ta. V́ sao học Phật
đă nhiều năm ngần ấy mà chẳng khai ngộ?
Chẳng chuyển được! Đúng như tổ
sư đại đức giáo huấn: “Thâm nhập một môn, huân tu lâu dài”. Tám chữ ấy
trọng yếu lắm!
Năm
xưa, tôi dạy học tṛ tại Tân Gia Ba, thường
nhắc tới tám chữ ấy. Có một lần, lăo ḥa
thượng Mính Sơn qua thăm Tân Gia Ba, chúng tôi gặp gỡ, Ngài thấy tám chữ ấy, gật đầu nhiều
lượt, một mực tán thán: “Đấy mới là chánh xác”. Thật sự có
thành tựu, thành tựu rất nhanh chóng trong một đời này, nắm
chắc thành tựu, chính là một môn, một bộ kinh, một
pháp môn, chẳng thể học hai bộ kinh! Trước kia,
thầy của chúng tôi là lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam đă
dạy bảo chúng tôi: “Học kinh giáo
chỉ được phép học một môn”. Hai môn Ngài
sẽ chẳng dạy! Lúc mới học, chẳng hiểu,
cứ nghĩ là v́ tŕnh độ của chúng tôi quá nông cạn,
phải học dần dần từng bộ một. Về
sau, khi đă khế nhập, mới biết chỗ áo diệu
trong ấy, mới thật sự hiểu rơ v́ sao đức
Phật mở ra pháp môn nhiều ngần ấy! Chính là để
tiếp dẫn các chúng sanh căn tánh bất đồng; đó
gọi là “tựu lộ hoàn
gia” (theo đường về nhà), chẳng chuốc lấy
phiền phức. V́ thế, có tám vạn bốn ngàn pháp môn,
nói theo lư luận, sẽ là vô lượng pháp môn.
Nếu
quư vị làm một vị đạo sư, “đại đạo sư”
là Như Lai, là Phật; đại khái, đạo sư
cũng là Bồ Tát, tổ sư đại đức, quư
vị cũng phải phổ độ chúng sanh giống
như Phật. Để phổ độ chúng sanh th́ môn
nào cũng đều thông mới được! Quư vị
tiếp xúc chúng sanh có căn tánh khác nhau, nhưng quư vị chỉ
thông một môn, sẽ chỉ có thể tiếp dẫn một
loại chúng sanh, [như thế] th́ cũng khá lắm,
cũng là hết sức khó có! Từ xưa tới nay, xác
thực là tổ sư đại đức đă v́ chúng
ta biểu diễn rất nhiều: Suốt đời là một
bộ kinh, một pháp môn, trọn chẳng biến đổi.
Các Ngài đại triệt đại ngộ, thường
nói là “một kinh thông, hết
thảy các kinh đều thông”, các Ngài vẫn hoằng
dương một bộ kinh! V́ sao? Nêu khuôn phép, nêu gương tốt cho kẻ đời sau, chẳng phải là để cho kẻ khác nh́n vào, [sẽ
nghĩ] “quư vị thấy đó, chẳng phải
là Ngài có thể giảng rất nhiều kinh, chẳng phải
là Ngài học rất nhiều kinh ư? Chúng ta cũng nên học theo Ngài”. Sai mất rồi! Ngài giảng rất nhiều kinh,
chẳng sai! Nhưng chẳng phải là Ngài học rất nhiều
kinh, Ngài chỉ học một bộ kinh. Một bộ kinh
đă thông, hết thảy các kinh đều thông! Nếu
trong một đời, quư vị mong học mấy chục
bộ kinh, đến cuối cùng, sẽ là thứ ǵ
cũng đều chẳng thông!
Nay
chúng ta xem bài kệ này, “nhược
kiến đại hà” (nếu thấy sông lớn). “Đại hà” là như Trường
Giang, Hoàng Hà của Trung Hoa, đó là “đại hà”. Chư vị ngẫm xem, Hoàng Hà, Trường
Giang có bao nhiêu chi lưu? Mỗi chi lưu lại c̣n có bao
nhiêu nhánh sông? Cho đến những khe suối nhỏ trên
núi, quư vị thấy nước từ khe suối nhỏ
chảy đến chỗ nào? Chảy tới nơi đâu?
Chảy vào sông nhỏ, sông nhỏ đổ vào sông lớn,
sông lớn đổ vào sông cái, sông cái tuôn ra biển cả. Nó chảy
theo một lối. Nếu nó không chảy theo lối ấy,
nước từ khe suối nhỏ vừa muốn chảy
về Đông, vừa muốn chảy về Tây, lại
toan chảy xuống Nam, nó có thể chảy ra biển
được chăng? Chẳng thể được!
Luôn chảy theo một phương hướng, luôn chảy
theo một lối, chắc chắn nó sẽ trở về
biển cả. Chúng ta phải hiểu rơ ràng, hiểu minh bạch
đạo lư này!
Người
khác học pháp môn khác, chúng ta tán thán, lễ kính, giống
như cuối kinh Hoa Nghiêm, năm mươi ba lần tham
học của Thiện Tài đồng tử đă làm mẫu
cho chúng ta. Năm mươi ba vị thiện tri thức đại
diện cho vô lượng vô biên pháp môn, mỗi vị tu học
một pháp môn khác nhau. Thiện Tài đồng tử đến
tham phỏng, quư vị thấy Ngài lễ kính, tán thán. “Tham phỏng” (參訪) là pháp môn ǵ cũng đều hiểu rơ, bản
thân Ngài tu pháp môn nào? Từ năm mươi ba lần tham học,
có nh́n ra hay không? Năm xưa, khi tôi giảng Hoa Nghiêm lần
đầu, bỗng nhiên nghĩ đến vấn đề
này: “Thiện Tài học pháp môn ǵ?” Đọc tụng cẩn
thận kinh Hoa Nghiêm, bèn hiểu Ngài tu pháp môn Tịnh Độ.
V́ sao biết Ngài tu pháp môn Tịnh Độ? Thầy của
Thiện Tài là Văn Thù Bồ Tát. Cuối phẩm Nhập
Pháp Giới, Văn Thù và Phổ Hiền đều phát nguyện
cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Bồ
Tát dẫn đầu, Thiện Tài là môn sinh đắc ư, là
đệ tử nhập thất của ngài Văn Thù, quư vị
nghĩ xem, Văn Thù Bồ Tát truyền dạy [Thiện Tài] pháp
môn ǵ? Đương nhiên là pháp môn Tịnh Độ!
Lại
xem cặn kẽ cuộc tham phỏng của Ngài. Vị
được tham phỏng đầu tiên là tỳ-kheo
Đức Vân. Tứ Thập Hoa Nghiêm gọi vị này là tỳ-kheo
Cát Tường Vân. Nguyên văn [của danh hiệu vị này] trong Phạn bổn giống nhau, đây là do các pháp
sư phiên dịch khác nhau. Đức Vân và Cát Tường Vân
có ư nghĩa như nhau. Tỳ-kheo Đức Vân dạy Thiện
Tài pháp ǵ? Pháp môn Niệm Phật, phải hiểu ư nghĩa
này! Vị thầy thứ nhất biểu thị điều
ǵ? “Tiên nhập vi chủ” (Điều ǵ được tiếp xúc đầu
tiên sẽ trở thành chủ yếu), biểu thị
điều này. Nh́n từ chỗ này, chúng ta hoàn toàn hiểu
rơ: Thiện Tài đồng tử tu Tịnh Độ. Sau
đấy, quư vị lại xem lần tham học cuối cùng trong năm mươi ba lần
tham học, tức lần thứ năm mươi ba. Mở
đầu, tỳ-kheo Đức Vân truyền trao pháp môn Niệm Phật; đến cuối
cùng, mười đại nguyện vương của Phổ
Hiền Bồ Tát dẫn về Cực
Lạc. Quư vị thấy từ đầu tới cuối,
sự tu học của chính Ngài (Thiện Tài) có thay đổi
hay không? Chẳng có! Thật sự là “thâm nhập một môn, huân tu lâu dài”! Năm
mươi mốt lần tham phỏng [ngoại trừ lần
đầu và lần cuối cùng], chính là xử sự,
đăi người, tiếp vật trong cuộc sống hằng
ngày, mặt nào cũng đều tiếp xúc, pháp môn ǵ cũng
đều tiếp xúc, pháp môn ǵ Ngài cũng đều thông
đạt, đều hiểu rơ. Ngài có tu hay chăng? Chẳng
tu. V́ sao biết là chẳng tu? “Luyến
đức lễ từ”, ư nghĩa này rất sâu! “Luyến đức” (戀德) là cảm ơn, cảm ơn ǵ vậy? Ngài đă thông
đạt pháp môn này, đă hiểu rơ, chẳng mê hoặc mảy
may! “Lễ từ”: “Lễ”
(禮) là lễ bái, “từ”
(辭) là không tu pháp môn này, vẫn tu pháp môn Niệm Phật,
biểu thị ư nghĩa này. Tôi do nh́n ra đường lối
từ chỗ này, mới khăng khăng một mực quy
y Tịnh Độ.
V́
thế, đối với tôi, ai đă dẫn tôi về pháp
môn Tịnh Độ? Chẳng phải là thầy tôi. Thầy
rát miệng buốt ḷng khuyên dạy tôi, giới thiệu
pháp môn này cho tôi. Tôi chẳng phản đối pháp môn này, nhưng
chẳng có hứng thú tu pháp môn này! Tôi đặt hứng
thú nơi Giáo, lại c̣n học rộng nghe nhiều, con
đường ấy sai mất rồi! Nhưng thầy
đă uốn nắn tôi, kể ra tôi vẫn coi như là một
đứa học tṛ biết nghe lời, chẳng chống
trái lời thầy chỉ dạy, thâm nhập một môn. Từ
Lăng Nghiêm, từ Hoa Nghiêm, tôi thấy được sự
thù thắng của Tịnh Độ. Từ kinh Lăng
Nghiêm, tôi xem phần Nhị Thập Ngũ Viên Thông
Chương, phát hiện Đại Thế Chí Bồ Tát Viên
Thông Chương là pháp môn chẳng thể nghĩ bàn! Điều
này chẳng dễ dàng cho lắm, v́ rất nhiều vị
giảng kinh Lăng Nghiêm mà chẳng giảng minh bạch, chẳng
nói rơ ràng ư nghĩa này!
Mọi
người đều biết đối với Nhị
Thập Ngũ Viên Thông Chương, Văn Thù Bồ Tát chọn
lựa phép Nhĩ Căn Viên Thông của Quán Thế Âm Bồ
Tát Nhĩ Căn: “Thử
phương chân giáo thể, thanh tịnh tại âm văn”
(Chân giáo thể phương này, thanh tịnh nơi nghe
tiếng). Đại Thế Chí Bồ Tát Viên Thông Chương
có được [Văn Thù Bồ
Tát] chọn lựa hay không? Có chứ! Chọn lựa
hiển nhiên là chọn [phép Viên Thông của] Quán Thế Âm Bồ
Tát, được âm thầm chọn lựa [là pháp Viên
Thông của] Đại Thế Chí Bồ Tát. V́ sao biết? Thứ
tự xếp đặt khác nhau! Nếu xếp thứ tự
theo lối thông thường, đối với hai
mươi lăm vị ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát phải
xếp vào vị trí thứ hai. Đấy là thứ tự
thông thường. Tức là sáu căn, sáu trần, sáu thức,
bảy đại; hai mươi lăm [món Viên Thông]
được sắp xếp như thế đó. Quán Thế
Âm Bồ Tát là Nhĩ Căn, trong sáu căn, Nhăn Căn [rồi
đến] Nhĩ Căn, chẳng phải là xếp thứ
hai ư? Ngài chẳng được xếp thứ hai mà được
xếp vào cuối cùng, tức là pháp môn đặc biệt!
Đại
Thế Chí Bồ Tát thuộc vào bảy đại. Thứ
tự của bảy đại là Địa, Thủy, Hỏa,
Phong, Không, Kiến, Thức. Đại Thế Chí Bồ Tát
là Kiến Đại, đáng lẽ phải xếp trước
Thức, Thức Đại do Di Lặc Bồ Tát làm đại
biểu. Di Lặc Bồ Tát nghiên cứu Duy Thức,
nhưng vị trí xếp hạng của hai Ngài bị thay
đổi. Đại Thế Chí Bồ Tát xếp vào vị
trí hai mươi bốn, Quán Thế Âm Bồ Tát xếp vào
vị trí hai mươi lăm. Hai pháp môn đặc biệt,
chẳng phải là một! Nhưng Quán Thế Âm Bồ
Tát từ thứ hai đưa sang vị trí cuối cùng quá rơ rệt, c̣n Đại Thế Chí Bồ Tát là vị trí hai
mươi ba và hai mươi bốn đổi chỗ cho
nhau, không rơ rệt cho lắm, chẳng dễ nh́n ra! Nếu
quư vị chẳng chú tâm, sẽ không có cách nào phát hiện điều bí mật ở trong ấy! Dường như là tôi
giảng Lăng Nghiêm bảy lần, đến lần cuối
cùng mới phát hiện. Những lần giảng trước
đó cũng là hàm hồ, mông lung, chẳng chú ư chuyện này. Về
sau mới chú ư: Hai pháp môn đặc biệt! Giải thích
hai pháp môn đặc biệt như thế nào? Đại
Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương có
đối tượng hóa độ là khắp pháp giới
hư không giới, chẳng sót một ai! Đối tượng
của Quán Thế Âm Bồ Tát Nhĩ Căn Viên Thông Chương
chỉ giới hạn trong thế giới Sa Bà, chẳng phải
là khắp pháp giới hư không giới, chỉ là [nhằm thích ứng] căn tánh của chúng sanh trong thế giới Sa Bà, Nhĩ
Căn nhạy bén nhất. Quán Thế Âm và Đại Thế
Chí là hai vị trợ thủ đắc lực của Tây
Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật,
các Ngài dẫn quư vị đến đâu? Đương
nhiên là dẫn quư vị đến thế giới Cực Lạc.
Từ
những chỗ này, tôi thấy rơ ràng, nh́n ra manh mối, mới
khăng khăng một mực quy y Tịnh Độ, chẳng
có mảy may hoài nghi nào! Được đại kinh tiếp
dẫn đấy! Năm xưa, thầy giới thiệu pháp
môn này với tôi, khuyên bảo tôi, tôi cũng rất hoan hỷ,
nhưng chẳng hoàn toàn tiếp nhận! Thầy nh́n ra, biết
rơ, tôi cũng rất cảm tạ thầy. Đến cuối
cùng, rốt cuộc là Hoa Nghiêm và Lăng Nghiêm dẫn tôi về
Tịnh Tông. Đây cũng là căn tánh của mỗi
người khác biệt, duyên phận khác nhau, nhưng tôi c̣n có duyên phận,
có thể tiếp xúc hai bộ đại kinh ấy.
Lăng Nghiêm là bộ kinh tôi học tập chủ yếu
trong hội của thầy Lư. V́ thế, “một
kinh đă thông, hết thảy các kinh đều thông đạt”. Không chỉ là thông đạt hết thảy các kinh
trong Phật môn, mà đối với kinh điển của
tất cả các tôn giáo trong thế gian này, quư vị
cũng có thể thông đạt. V́ sao? Căn bản là một.
Căn
bản là ǵ? Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Duy
tâm sở hiện, duy thức sở biến”, sâm la vạn
tượng khắp pháp giới hư không giới có cùng một
nguồn cội. V́ thế, quư vị chỉ cần thâm nhập
một môn, phải nhập đến mức độ nào?
Phải nhập đến mức minh tâm kiến tánh, sẽ
thông suốt toàn bộ. Giống như khe suối nhỏ
trên núi, chỉ cần chảy thuận theo, chớ nên có ư
nghĩ của riêng ḿnh, cứ thuận ḍng chảy ra sông,
chảy ra sông nhỏ, sông nhỏ sẽ đổ vào sông lớn,
sông lớn sẽ đổ vào sông cái, sẽ chảy vào biển
cả. Đấy mới là “đắc
dự pháp lưu, nhập Phật trí hải” (được
dự vào ḍng pháp, nhập biển Phật trí). Chỉ cần
quư vị kiến tánh, quư vị sẽ giống như
chư Phật Như Lai. Chư Phật Như Lai là nước
biển. Chẳng kiến tánh, chẳng chảy vào biển
cả, quư vị là nước sông cái, nước sông to,
nước suối. Chỉ cần là nước, đều
là có Phật Tánh, v́ sao? Đều có cơ hội chảy
vào biển cả. V́ thế, mang ư nghĩa này: Hết thảy
chúng sanh đều có Phật Tánh. Chỉ cần thuận
theo Phật Tánh, chớ nên trái nghịch Phật Tánh, thành Phật
sẽ chẳng khó!
Đă
có người từng hỏi tôi: “Thưa pháp sư! Có
người nói Bồ Tát tu hành thành Phật, phải trải
qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp, thời gian ấy
quá dài, chúng ta có làm được không?” Hỏi vấn
đề này hay lắm! Nói thật ra, rất nhiều
người thắc mắc chuyện này! Nếu quư vị đọc
kinh Hoa Nghiêm, sẽ hiểu rơ hơn “ba đại A-tăng-kỳ kiếp”. Ba đại
A-tăng-kỳ kiếp là nói với ai? Nói với hàng Pháp
Thân Bồ Tát. Bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo muốn chứng
đắc quả vị rốt ráo, phải trải qua bốn
mươi hai tầng cấp, [tức là] Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng
Giác, và Diệu Giác. Đức Phật dạy, [để tu tập viên măn] bốn mươi hai tầng cấp ấy, cần
phải mất thời gian bao lâu? Ba đại A-tăng-kỳ
kiếp. Trước đó, nói cách khác, thời gian quư vị
tu hành trong mười pháp giới đều chẳng tính gộp
vào đó! Nếu tính gộp vào, đúng là vô lượng A-tăng-kỳ
kiếp.
Quư
vị nghe như vậy liền hoảng hồn, vô lượng
A-tăng-kỳ kiếp! Làm sao chúng ta có thể thành tựu
cho nổi? Nếu quư vị có thể thâm nhập kinh tạng,
[sẽ biết] lời Phật dạy chẳng phải là
lời giả, nhưng lời Phật đôi khi là nói
phương tiện, có lúc nói lời chân thật. “Nói
phương tiện” là
thuận theo kiến thức thông thường của chúng
sanh, kể cả theo khoa học hiện đại, chúng
sanh sẽ tin tưởng. Phật pháp siêu việt khoa học,
kinh Hoa Nghiêm nói “niệm kiếp
viên dung”, hiểu câu này như thế nào? Vô lượng
kiếp có thể rút gọn thành một niệm, một niệm
triển khai thành vô lượng kiếp. Vô lượng kiếp
và một niệm chẳng hai, hoàn toàn giống như tỷ
dụ “hạt cải dung nạp
núi Tu Di, núi Tu Di dung nạp hạt cải”, chuyện này là sự
thật.
Khoa
học cận đại, mấy năm gần đây nhất,
có lẽ là năm, sáu năm trước, rất gần. Tổng
cục Không Gian Hoa Kỳ đă đưa ra một báo cáo,
[cho biết] phát hiện mới
nhất là thời gian và không gian chẳng thật.
Dưới một điều kiện nào đó, chúng sẽ
bằng zero. Thời gian bằng zero, sẽ chẳng c̣n thời
gian nữa. Không gian bằng zero, chẳng có không gian! Chẳng có
không gian th́ thưa cùng chư vị, chẳng có khoảng
cách, chẳng có xa hay gần. Thời gian bằng zero, sẽ
chẳng có trước hay sau. Các khoa học gia gần
đây mới phát hiện, nhưng họ chẳng biết
điều kiện là ǵ, [thế mà] từ ba ngàn
năm trước, trong Phật pháp, đức Phật
đă nói: “Niệm kiếp viên
dung”.
Phàm
phu thành Phật trong một niệm, một niệm ấy
chính là chuyển mê thành ngộ. V́ thế, hễ khai ngộ,
phàm phu sẽ thành Phật. Hễ mê hoặc,
quư vị sẽ biến thành phàm phu. Đức Phật nói
lời này là h́nh dung, ư nghĩa thật sự nhằm h́nh dung giác ngộ khó lắm! Khó ở chỗ nào? Khó
ở chỗ bản thân quư vị tập khí quá nặng, [tức
là] tập khí nghiệp chướng quá nặng. Giống
như chúng ta nghe kinh hoặc niệm Phật ở nơi
đây, khi công phu đắc lực, sẽ giống như
tự ḿnh đă giác ngộ, nhưng mấy phút sau lại mê hoặc! Tôi tin là cảnh
giới này khá nhiều đồng học đều đích thân có kinh nghiệm. Thời gian giác ngộ rất
ngắn, thời gian mê hoặc rất dài! Nói về phía
người tu hành, hiện tượng ấy là chuyện
tốt! Quư vị thấy quư vị chẳng tiếp xúc Phật
pháp, giống như chúng tôi trong một đời này,
trước khi học Phật, mười mấy năm,
hai mươi mấy năm, ba mươi mấy năm, chưa
từng có một niệm giác ngộ, chẳng hề có. Sau
khi đă học Phật, đọc kinh, niệm Phật,
hoặc là tĩnh tọa, hoặc là nghe kinh, dường
như giác ngộ trong một sát-na. Sự giác ngộ ấy
giống như tia chớp, một luồng chớp sáng lóe
qua, là chuyện tốt! V́ sao? Quư vị bắt đầu
có hiện tượng này, hy vọng về sau, số lần
có hiện tượng này sẽ càng ngày càng nhiều!
Nếu
giữ được sự giác ngộ ấy chẳng
để mất đi, quư vị sẽ chứng quả.
V́ thế, nay chúng ta nói đến công phu, ngộ kiểu ấy càng nhiều lượt càng hay, thời gian
càng dài càng tốt. Thông thường, khi chúng ta mới học,
một niệm giác, thời gian là một sát-na, hết sức
ngắn ngủi. Từ một sát-na ấy, dần dần
đến một phút, hai phút. Một hai phút cũng là khá lắm,
dần dần nhiều lần hơn, thời gian dần dần
dài hơn. Đấy là quá tŕnh trải nghiệm mà mỗi
học nhân ắt cần phải trải qua; v́
thế, đây là chuyện tốt. V́ sao có người giác
ngộ mau chóng, có kẻ giác ngộ rất chậm? Trong ấy,
có hai nhân tố:
1) Nhân tố thứ
nhất là thiện căn trong đời trước.
Người này trong đời quá khứ đă tu tập một
thời gian lâu dài, đời đời kiếp kiếp
đều tu. Kẻ kia trong đời quá khứ tu ít ỏi.
Đây là nói thiện căn trong đời trước khác
nhau.
2) Một nguyên
nhân khác là trong đời này, công phu buông xuống của
chúng ta khác nhau. Thứ ǵ cũng đều có thể buông xuống,
sẽ dễ dàng, ít chướng ngại. [Kẻ khác] thứ
ǵ cũng đều chấp trước, thứ ǵ cũng
đều phân biệt, thứ ǵ cũng đều riết
róng, so đo, người ấy muốn giác ngộ sẽ
khó khăn. V́ sao? Chướng ngại ngộ môn!
Do
vậy, chúng ta thật sự mong cầu giác ngộ, chẳng
thể không buông xuống. Chương Gia đại sư
dạy tôi “buông xuống, thấy
thấu suốt”. Thấy thấu suốt là trí huệ, thực
hiện từ chỗ nào? Thực hiện từ buông xuống.
Quư vị chẳng buông xuống, trí huệ sẽ chẳng hiện
tiền. Phải buông xuống, ngay trong cuộc sống hằng
ngày. Cuộc sống trước kia thứ ǵ cũng đều so đo,
luôn quan trọng hóa. Trong quá khứ, tánh cách của tôi
cũng là như vậy. Đại khái là sau khi đă học
Phật năm, sáu năm, mới đối với cuộc
sống không c̣n quá quan trọng hóa, thứ ǵ cũng đều
được. Bất luận là chính ḿnh đích thân nấu
nướng, chẳng c̣n bắt buộc phải có những
thứ này nọ, hết thảy đều là tùy tiện sử
dụng. Đến tuổi già, tôi chẳng c̣n tự ḿnh
dùng đến nhà bếp nữa! Bất luận là ai nấu,
bất luận là nấu món ăn ǵ, tôi đều có thể
tiếp nhận, chắc chắn chẳng có mảy may kén
cá chọn canh nào! Cái tâm dần dần b́nh lặng, chướng
ngại chẳng c̣n. V́ thế, đối với cơm,
áo, ăn, ở, nếu quư vị chẳng buông xuống,
sẽ chướng ngại ngộ môn, mà cũng chướng
ngại quư vị văng sanh. Ngay cả giảng kinh, thuyết
pháp, hoằng pháp lợi sanh, cũng đều phải buông
xuống, chúng cũng là chướng ngại!
V́
sao hiện thời vẫn giảng ở nơi đây?
Duyên! Tùy duyên! Có duyên bèn đến. Chẳng có duyên, trọn
chẳng phan duyên. Quyết định chẳng phải là
tôi muốn tới chỗ quư vị, chẳng có ư nghĩ ấy!
Chúng tôi đến đây là năm Hương Cảng được trao trả
[cho Trung Quốc], tôi đến
thăm chỗ ày. Do trong quá khứ thường đến
Hương Cảng, bằng hữu bên này rất đông.
Khi Hương Cảng
được trao trả, [chúng tôi] đến xem náo nhiệt, ở đây, chúng tôi có mấy
vị đồng tu, mấy vị đồng tu đă lâu.
Sau khi gặp gỡ, họ hy vọng tôi sẽ quay
lại giảng kinh. Họ rất thành khẩn, tôi nhận
lời, tùy duyên mà! Ba vị lăo đồng tu ấy đều ở
trong đạo tràng của chúng ta, quư vị thường
thấy họ, tức là Hà Thái Quyên, Hà Lệ Tương,
và Trương Mỹ Phụng, ba bà ấy. Không ai đến
t́m tôi, tôi sẽ chẳng chủ động đi t́m
người ta.
Kể
ra, tôi có duyên phận với vùng đất này. Xác
thực là đến Hương Cảng, pháp duyên rất
thù thắng. Tôi đến lần đầu vào năm 1977,
thuở ấy, pháp sư Thánh Hoài quen biết tôi khi Sư
c̣n ở Đài Loan, mời tôi sang đây. C̣n có một vị
là cư sĩ Tạ Đạo Liên, hai người [mời
tôi]. Buổi tối đầu tiên tôi đến
Hương Cảng, pháp sư Sướng Hoài[1]
tiếp đăi, kể cho tôi biết những trạng huống trong
Phật giáo ở nơi đây. Sư bảo tôi, phong khí
nghe kinh của người Hương Cảng chẳng hào
hứng cho lắm. Sư bảo có rất nhiều bậc
cao tăng đại đức nổi danh đến Hương
Cảng giảng kinh, hoằng pháp, thính chúng cũng chẳng
đông. Ngày đầu tiên, người rất đông, ngày
viên măn cuối cùng cũng rất đông, tức là hai ngày ấy
mọi người đều đến ủng hộ. Những
ngày giữa đó sẽ thưa thớt, lèo tèo. Do vậy,
Sư bảo tôi: “Pháp sư Tịnh Không à! Thầy không nổi
tiếng, chẳng ai biết đến thầy, trong tâm thầy
phải xác định: Có thể là khi giảng kinh, v́ chúng
ta ước định thời hạn là bốn tháng, lâu
ngần ấy, có thể là sẽ có vài hôm chẳng có người
nào đến cả!” Tôi thưa với Sư: “Không sao hết!
Chẳng sao cả! Chúng ta có bàn ghế, không có ai nghe, tôi giảng
cho bàn ghế vậy!” Sư đáp: “Vậy là được
rồi, thầy có tâm thái ấy, sẽ chẳng có vấn
đề ǵ!”
Do
vậy, tôi nói: Tôi không cần thính chúng bao nhiêu, một hai
người [đến nghe], tôi cũng rất hăng hái.
Chẳng có ai, tôi đối trước bàn ghế cũng
giảng rất hăng hái. Nào ngờ đến ngày khai giảng,
xác thực là người nghe ngồi kín chỗ. Đạo
tràng của Sư rất nhỏ, chẳng to như nơi
này. Đại khái là một trăm năm mươi
người bèn chật cứng. Suốt bốn tháng, hằng
ngày đều là như vậy. Pháp sư Sướng Hoài
nói: “Chẳng ngờ pháp duyên của thầy thù thắng
dường ấy”. Vẫn là hữu duyên với nơi
đây!
V́
thế, Phật pháp nói “hết thảy là nhân duyên sanh”. Chúng ta phải kết thiện duyên với chúng sanh, quyết
định chớ nên kết ác duyên. Phật, Bồ Tát, cổ
thánh tiên hiền thường dạy chúng ta: “Oan gia nghi giải, bất nghi kết”
(Oan gia nên cởi gỡ, đừng nên trói buộc).
Đời đời kiếp kiếp trong quá khứ,
cơ hội gặp gỡ Phật pháp ít ỏi, cơ hội
chẳng gặp Phật pháp nhiều lắm, trạng huống
của chúng sanh trong lục đạo đại khái đều
chẳng sai khác cho mấy. Chẳng gặp gỡ Phật
pháp, hoàn toàn tùy thuận tập khí phiền năo của chính
ḿnh; do vậy, tập khí phiền năo mới nặng nề
ngần ấy. Hiện tại chính ḿnh đă biết, khi chẳng
học Phật, chẳng có công phu giác chiếu; nay đă có một tí công phu giác chiếu, biết tập khí phiền
năo của chính ḿnh nặng nề! Sau khi đă phát tác, sau
đấy sẽ hối hận, nhưng khi cảnh giới
hiện tiền, chính ḿnh chẳng thể làm chủ, bất
tri bất giác lại phát tác, chẳng biết phải bao
nhiêu lần rồi mới có thể quay lại được.
Bản thân tôi có kinh nghiệm, tôi là người từng trải,
tôi học Phật năm mươi lăm năm, biết
chuyển đổi cảnh giới khá khó khăn, tốn
thời gian khá dài!
Tôi
có thể chuyển đổi là nhờ vào ǵ? Tôi có một bí
quyết, tôi biết tập khí hết sức khó chuyển,
dùng phương pháp ǵ? Tôi dùng giảng kinh. Quư vị thấy
những năm đầu tiên, gần như là hai
mươi, ba mươi năm trước, tôi thường
nói, các vị trước kia nghe tôi giảng kinh, thuở ấy,
chẳng có băng thâu h́nh, chỉ có băng thâu âm, tôi
thường nói: “Tôi không biết
giảng, tôi phải luyện tập trên giảng đài”.
V́ thế, có những người phê b́nh tôi, bảo tôi thích
giảng kinh. Tôi nói:
“Chẳng phải là tôi yêu thích, mà là
dùng giảng kinh để trị liệu tập khí phiền
năo của tôi. V́ giảng kinh sẽ ép quư vị phải chuẩn
bị hằng ngày, hằng ngày quư vị phải đọc
kinh, tinh thần phải dốc trọn vào kinh điển.
Tôi dùng phương pháp này để sửa đổi tập
khí phiền năo, rất hữu hiệu!”
Tôi
nói: “Tôi [giảng kinh] nhằm
đối trị chính ḿnh. Ngày nào đó, tôi thật sự
biết giảng, chẳng có tập khí phiền năo, tôi sẽ
không giảng”. Đừng nghĩ là tôi ưa thích, tôi
khoái giảng, chẳng phải vậy! Tập khí phiền
năo của mỗi cá nhân khác nhau; nói chung, quư vị phải
t́m một phương pháp hữu hiệu để trị
liệu. Tôi dùng phương pháp này để trị bệnh,
có người biết, nhưng chẳng nhiều.
Phương pháp để chữa trị khuyết điểm
của mỗi người cũng khác nhau, có người dùng
tham Thiền, có người dùng niệm Phật, có người
dùng tŕ chú. Tôi đều thử qua, không đắc lực,
[đối với
tôi] kinh giáo rất đắc lực. Đương
nhiên là chuyện này chắc chắn liên quan đến tập
khí đọc sách. Tôi ưa thích đọc sách, khi đọc sách bèn chuyên chú, chẳng
bị phân tâm. V́ vậy, đọc sách cũng là Thiền
Định. Tôi cũng đă nói chuyện này rất nhiều.
Chúng ta tụng kinh, học Giáo, cũng là Tam Học Giới,
Định, Huệ được hoàn thành một lượt.
Do vậy, quư vị phải hiểu phương pháp. Khi quư
vị chẳng hiểu phương pháp, vẫn cứ dùng
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước th́
sai mất rồi, sẽ chẳng thâu được hiệu
quả!
Do
đó, đọc kinh, nghiên cứu giáo, đều chớ
nên dùng phân biệt, cũng chớ nên dùng chấp trước,
hăy tâm b́nh khí ḥa. Đối với chỗ không hiểu,
đừng nên nghiên cứu; hễ nghiên cứu, chắc chắn
là sai lầm. Làm như thế nào đây? Không hiểu th́ coi
như xong, cứ đọc qua. Đọc nhiều lượt, công lực
sâu hơn, sẽ tự nhiên hiểu rơ! V́ thế, cổ
nhân nói: “Đọc sách ngàn lần,
tự thấy ư nghĩa”. Lời này nói rất hợp lư,
là thật, chẳng giả! Niệm cho đến khi cái tâm
thanh tịnh hiện tiền, trí huệ sanh khởi. Trí huệ
sanh như thế nào? Chỗ [trước kia] không hiểu
[nay] bèn xem hiểu. [Trước kia] liễu giải chẳng
đủ độ sâu, nay đă liễu giải ở mức
độ sâu. Đấy đều là hiện tượng
trí huệ hiện tiền. Chuyên học một bộ kinh, hễ
mở xem những bộ kinh điển khác đều có
thể đọc hiểu, đều có thể hiểu rơ
ư nghĩa, thấu suốt những kinh khác. Phật, Bồ Tát, các vị
tổ sư đại đức chẳng gạt người.
Các Ngài thật sự yêu thương, bảo vệ người
đời sau, há có lẽ nào gạt người? Câu nào cũng đều là lời thật, điều quan trọng
nhất là quư vị phải tin tưởng. Nếu quư vị
chẳng tin, sẽ không có cách nào cả! Vậy th́ quư vị
sẽ thật sự chẳng nhập môn được!
Bồ
Tát thấy sông ng̣i, có thể nguyện cho chúng sanh “đắc dự pháp lưu”
(được dự vào ḍng pháp). Niệm nào cũng đều
chẳng quên giúp đỡ hết thảy chúng sanh phá mê khai
ngộ. Nay chúng ta đắp tượng Phật, tạo
tháp Phật, có lợi ích ǵ cho chúng sanh hay không? Chẳng
thể nói là không có, nhưng chỉ có một loại lợi
ích: Khiến cho họ trông thấy, đó gọi là “hễ lướt qua mắt,
vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo”,
kết thiện duyên với Phật pháp. Đấy là đă
đạt được mục đích. Muốn cho trong một đời này, người ấy giác ngộ, tu hành,
khai ngộ, chứng quả, chuyện ấy sẽ chẳng thực hiện
được! Chẳng dựng
tháp, mà cũng chẳng tạo tượng Phật được th́ phải nên làm như thế nào? Phải đọc
kinh, phải nghiên cứu giáo, lợi ích sẽ to lớn!
V́
thế, thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, Ngài chẳng
dùng một bức tượng Phật nào để giáo hóa
chúng sanh, quư vị phải biết [điều này]. Dạy
như thế nào? Lên lớp, giáo học, giảng kinh hơn
ba trăm hội, thuyết pháp bốn mươi chín
năm, chư vị đều biết chuyện này! Hằng
ngày lên lớp cùng mọi người, chưa hề nghỉ
ngơi! V́ sao lên lớp chưa hề nghỉ ngơi? Hễ
gặp người khác, nam, nữ, già, trẻ, các nghề
nghiệp, chỉ cần đức Thế Tôn gặp gỡ,
nhất định sẽ tṛ chuyện với họ. Tṛ
chuyện là giảng kinh, tṛ chuyện nhằm giúp cho người
ấy giác ngộ, giúp người ấy giải quyết nghi
nan tạp chứng. Quư vị nói xem, đấy có phải
là giảng kinh hay chăng? Há có gián đoạn hay chăng?
Chẳng phải là tụ tập đại chúng để
lên lớp trong giảng đường th́ mới gọi là giảng kinh. Đối trước một
người cũng là giảng kinh, đối với hai
người, cũng là giảng kinh!
Thích
Ca Mâu Ni Phật giao tiếp với người khác, chỉ
cần mở miệng, không có một chữ nào thừa
thăi, vô ích. Đức Phật dạy chúng ta chẳng hư luận,
chính Ngài làm sao có thể hư luận cho được? Hư luận
là những lời lẽ chẳng có ư nghĩa, lời lẽ
đùa bỡn, suốt đời
đức Phật chẳng hư luận. Tiếp xúc đại chúng bèn ứng cơ thí giáo (應機施教, thuận
theo căn cơ, mà ban cho giáo pháp). Người ấy có
căn tánh như thế nào, dùng phương pháp ǵ, dùng ngôn
ngữ kiểu nào để giúp cho người ấy giác
ngộ, quay đầu. Bản lănh này từ bậc A La Hán trở lên mới có. Do có thần thông, A La Hán biết
năm trăm đời quá khứ của kẻ khác, Ngài
có năng lực ấy. [Năng lực ấy được
gọi là] Túc Mạng Thông; cho nên Ngài thuyết pháp rất khế
cơ. Năng lực của Bồ Tát càng to hơn nữa.
Lũ phàm phu chúng ta th́ không được, chẳng có
năng lực quan sát căn cơ, chẳng biết đời
quá khứ quư vị làm ǵ, học ǵ, đều chẳng biết.
Do đó, năng lực quan sát căn cơ chẳng như Phật,
Bồ Tát, hiệu quả của việc thuyết pháp
đương nhiên cũng
chẳng sánh bằng A La Hán, chẳng
cần nói tới Phật, Bồ Tát, chẳng sánh bằng
được! Nhất định phải hiểu điều
này, nhưng chính ḿnh phải nghiêm túc nỗ lực, chính ḿnh hăy
khéo học, tùy thời, tùy chỗ dùng sở học của
chính ḿnh để giúp đỡ người khác. Chúng
ta được dự vào ḍng pháp, mà cũng giúp cho người
khác nhập ḍng pháp.
Hiện
thời, để nhập biển Phật trí, chỉ có một
con đường,
[chính là] “Tín Nguyện Tŕ Danh, cầu
sanh Tịnh Độ”, như
thế th́ chắc chắn sẽ nhập biển Phật
trí. Nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi giảng tới
chỗ này, [hăy] nghỉ ngơi vài phút!
***
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Xin xem tiếp bài kệ kế tiếp là
bài kệ thứ mười một.
(Kinh)
Nhược kiến pha trạch, đương nguyện
chúng sanh, tật ngộ chư Phật, nhất vị chi
pháp.
(經)若見陂澤。當願眾生。疾悟諸佛。一味之法。
(Kinh: Nếu thấy ao tù, nguyện cho chúng sanh, mau ngộ
pháp một vị của chư Phật).
Đối
với chữ “pha trạch”,
Thanh Lương đại sư có chú giải:
(Sớ)
Pha trạch giả, súc thủy viết Pha, bất tập
chư lưu, cố nguyện nhất vị.
(疏) 陂澤者,畜水曰陂,不集諸流,故願一味。
(Sớ:
“Pha trạch”: Chứa nước th́ gọi là Pha, do chẳng
gom nhóm các ḍng chảy, nên nguyện “một vị”).
Nay
chúng ta gọi “pha trạch” (陂澤) là ao chứa nước. Nước trong cái ao ấy
tĩnh lặng, chẳng lưu động. Bài kệ kế
tiếp nói tới “tŕ chiểu” (池沼, ao chuôm). “Tŕ chiểu” gần giống như “pha
trạch”, chỗ khác biệt là một đằng th́
nước lưu động, chúng ta gọi là “hoạt thủy” (活水,nước lưu chuyển, sống
động). Một đằng là nước chẳng lưu
động, ta gọi là “nước chết” (nước
tù đọng), nó chẳng lưu động, giống như
ao chứa nước vậy. Thứ này cũng thường
thấy, v́ tại nông thôn, những cái ao để chứa
nước giống như vậy cũng rất nhiều.
Chủ yếu là dùng để tưới tắm, hoặc
nuôi cá, thả vịt, sẽ đều làm một cái ao chứa.
Tùy thuộc trạng huống của mỗi nơi, ao sẽ
lớn hay nhỏ khác nhau, có ao rất lớn. Gặp t́nh h́nh này,
Bồ Tát tự nhiên sanh
khởi nguyện “đương nguyện chúng sanh, tật ngộ
chư Phật, nhất vị chi pháp” (nguyện cho chúng
sanh, mau ngộ pháp một vị của chư Phật). “Tật” (疾) là nhanh chóng!
Phật pháp
tuy xác thực nói là vô lượng pháp môn, nhưng đến
cuối cùng, đúng là một vị. Một vị ấy rốt
cuộc là ǵ? Kinh Bát Nhă đă nói hay nhất: “Chư pháp Thật Tướng” (Thật Tướng
của các pháp). Như đối với Tâm Kinh, các đồng
học học Phật trong khóa tụng sáng tối đều
niệm Tâm Kinh, trong Tam Thời Hệ Niệm Pháp Sự cũng
niệm Tâm Kinh. Tâm Kinh dạy chúng ta “pháp nhất vị”. “Nhất vị” là chẳng
hai, hai th́ chẳng phải là nhất vị. Nhất vị
được gọi là pháp vị. Đắc pháp nhất
vị, quư vị nhất định sẽ hưởng thụ pháp hỷ sung măn. Phải biết trong vũ trụ
vốn là nhất vị, v́ sao bị biến thành ngũ vị?
Ngũ vị điều ḥa, sẽ biến thành vô lượng
vị; từ một pháp biến thành mười pháp,
mười pháp biến thành vô lượng pháp. V́ sao vậy?
“Duy tâm sở hiện” là nhất
vị, “duy thức sở biến”
sẽ biến thành vô lượng vô biên, thức biến mà!
Vô lượng, vô biên, từ nhất vị lưu xuất mười
pháp giới, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới
lưu xuất từ nhất vị. Nay chúng ta học Phật,
cầu ǵ vậy? Cầu trở về nguồn, chúng ta từ
mười pháp giới trở về một pháp giới, đó
là thành tựu viên măn!
V́
sao có thể biến? Biến thành phức tạp ngần ấy?
Xă hội hiện thời hết sức phức tạp. Tôi
trích lục mấy câu nói của tiến sĩ Thang Ân Tỷ
(A. Toynbee), tôi thấy những lời ấy, có cảm xúc rất sâu! Tôi đọc
mấy câu ấy cho mọi người nghe nhé, ông ta nói: “Thế giới hiện thời
rối loạn đến nỗi khiến cho con
người khó thể chịu đựng nổi. Phong khí
càng ngày càng khiến cho quần chúng hồ đồ, hăm vào
[thái độ] chẳng nhận lănh trách nhiệm, hoặc [rơi
vào] hầm bẫy hưởng lạc chủ nghĩa. Trừ
chuyện giáo dục quần chúng và nâng cao tŕnh độ
luân lư đạo đức cho quần chúng ra, chẳng có
cách nào khác nữa!” Nói rất
hay! Chúng sanh trong hiện thời chẳng bằng cổ
nhân, tôi nói họ thua kém điều ǵ? Cuộc sống tinh
thần! Tuy hiện thời cuộc sống vật chất
rất phong phú, nhưng đúng như ông Thang Ân Tỷ đă
nói, khoa học kỹ thuật mang lại sự thuận tiện
và văn minh vật chất trong hiện thời, chúng ta
đă phải trả cái giá to cỡ nào? Sau khi quư vị
đă hiểu rơ, mới biết “cái
được chẳng bù nổi cái mất!”
Lúc
tôi c̣n thuộc tuổi thiếu niên, thậm chí cho đến
khi hai mươi, ba mươi tuổi, thời niên thiếu
tôi sống ở nông thôn. Ở trong thôn trang ấy, dơi mắt
nh́n bốn phía, chỗ kia là nhà nào, chỗ nọ là nhà nào.
Thôn trang cách nhau chẳng xa, đại khái là một hai dặm
đường. Hai dặm bằng một cây số hiện
thời. Lũ nhóc chúng tôi thường chạy ra ngoài chơi,
t́m bạn chơi đùa. Sống tại nông thôn, thân thiết
với thiên nhiên, t́m mấy đứa nhỏ, đều ở
thôn khác, cùng vầy đoàn trèo núi, đều quen biết nhau,
đều hết sức thân thiết, đều giống
như người một nhà. T́nh người nồng hậu lắm, đấy mới là cuộc sống của con người.
Về sau, tuy sống tại đô thị, con người cũng
khá mật thiết, xóm giềng cùng phường khóm đều
nhận biết nhau, gặp mặt há có lẽ nào chẳng chào hỏi nhau? Tết đến bèn đi
chúc Tết lẫn nhau; những dịp thù tạc mọi người
đều cùng đến, náo nhiệt! Quư vị thấy hiện
thời phát triển, như tại khu vực Hương Cảng này,
chúng ta sống cùng một tầng lầu, tầng lầu này
có bốn nhà, đúng là cho đến già chết chẳng
qua lại với nhau. Chẳng biết người cách vách
của ta có họ là ǵ, đôi bên gặp mặt nhau chẳng chào hỏi,
xă hội hiện đại [là như vậy đấy]. Quư
vị nghĩ xem cuộc sống tinh thần, luân lư, đạo
đức của chúng ta đă hoàn toàn tuyệt diệt.
Đấy là hiện tượng xă hội trong hiện thời,
v́ sao biến thành nông nỗi này? Chúng ta phải phản tỉnh
rất sâu!
Toàn
thể vũ trụ vốn là một Thể, ai chứng
minh? Phật đă chứng minh, Bồ Tát đă chứng
minh! Pháp Thân Bồ Tát đă chứng đắc. Trong kinh Hoa
Nghiêm, đức Phật đă dạy chúng ta, v́ sao chúng ta mê
mất? Nguyên nhân gây nên mê mất chính là do vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước. Kinh luận Pháp Tướng
Tông có nói: “Do một niệm bất
giác mà có vô minh”. “Một niệm” chính là tâm động,
tâm động như thế nào? Nay chúng ta nói là “khởi tâm động niệm”.
Khởi tâm động niệm là vô minh, đă mê, mê mất
tự tánh. Phật và Pháp Thân Bồ Tát cao minh ở chỗ
nào? Cao minh ở chỗ sáu căn tiếp xúc cảnh giới
sẽ vĩnh viễn chẳng khởi tâm, không động
niệm, đấy là Phật! Vĩnh viễn chẳng khởi
tâm động niệm, đấy là Pháp Tánh nguyên bản. Pháp
Tánh vốn là như thế, hết thảy chúng sanh thảy
đều có. Quư vị có thể chứng đắc, nói thông
thường là quư vị thành Phật th́ mới đắc
nhất vị!
Mới
động một niệm, nhất vị bị mất đi,
quư vị dấy lên biến hóa, biến thành ǵ? Biến thành
Bồ Tát. Vẫn coi như c̣n khá, v́ quư vị mới động,
“sóng” c̣n chưa lớn, nhưng
đă chẳng phải là nguyên bản. Nguyên bản th́ về
căn bản là chẳng có sóng, chẳng có dao động.
Khởi tâm động niệm bèn có dao động, đó
là cảnh giới ǵ? Phật pháp giới trong mười
pháp giới. Chư vị phải biết, vị ấy chẳng
thuộc về Nhất Chân pháp giới, mà là Phật pháp giới
trong mười pháp giới. Vị ấy có khởi tâm
động niệm, chẳng có phân biệt, chẳng có chấp
trước. Sau khi đă khởi tâm động niệm, dấy
lên phân biệt, phân biệt hết sức nhỏ yếu th́
là Bồ Tát pháp giới. Nếu phân biệt nghiêm trọng hơn,
[tức là] nghiêm trọng hơn hàng Bồ Tát, sẽ là Duyên Giác
pháp giới. Nghiêm trọng hơn sẽ là Thanh Văn pháp giới.
Nếu từ trong ấy, lại dấy lên một niệm chấp
trước, sẽ vào lục đạo, tức là thiên
pháp giới, nhân pháp giới, cho đến địa ngục.
Chấp trước trong lục đạo, càng đi xuống,
chấp trước càng nặng hơn; càng hướng lên
trên, chấp trước càng nhẹ hơn. Kinh Phật nói
hay lắm, nói đơn giản, nói minh bạch.
Chúng
ta tu ǵ? Nay chúng ta mong trở về, quay trở về Nhất
Chân pháp giới, chẳng có chi khác, chớ nên chấp
trước. Chấp trước chẳng phải là Sự,
[có nghĩa là] phân biệt và chấp trước chẳng
phải là [xét theo mặt] Sự, Sự không khẩn yếu!
Kinh Hoa Nghiêm nói “Lư Sự vô ngại,
Sự Sự vô ngại”. Vấn đề ở chỗ
nào? Chính là ư niệm chấp trước, chớ nên có ư niệm
này! Nếu quư vị trừ khử chấp trước,
phiền năo sẽ bị giảm bớt một nửa. Hoàn
toàn đoạn Kiến Tư phiền năo, tự nhiên là quư
vị chẳng ở trong lục đạo, chúng ta thường
nói là “liễu sanh tử, thoát
tam giới”. Hạn độ thấp nhất là quư vị chứng quả
A La Hán, vượt thoát lục đạo luân hồi. Do vậy,
A La Hán quyết định chẳng có chấp trước,
đương nhiên là Bồ Tát càng chẳng có, nhưng như
thế nào? Có phân biệt. A La Hán có phân biệt, Bích Chi Phật
có phân biệt, Bồ Tát cũng có phân biệt, nhưng nhẹ
hơn A La Hán. Đến khi đoạn sạch phân biệt,
sẽ là Phật trong mười pháp giới, vị ấy
vẫn c̣n khởi tâm động niệm. Khi nào khởi tâm
động niệm cũng buông xuống, vị ấy bèn
vượt thoát mười pháp giới, trở về Nhất
Chân pháp giới. Nhất Chân pháp giới chính là thế giới
Hoa Tạng như kinh Hoa Nghiêm đă nói, c̣n kinh văng sanh gọi
là thế giới Cực Lạc. Đấy là nhất vị!
Nay
tôi tin tưởng, mỗi vị đồng học học
Phật đều mong mỏi chính ḿnh có thể ngay lập
tức chứng đắc. Tôi đă nói với quư vị rất
nhiều lần, lúc tôi mới học Phật, lần đầu
tiên gặp mặt Chương Gia đại sư đă hỏi
Ngài vấn đề này. Tôi thưa: “Con biết Phật pháp
tốt đẹp, Phật pháp thù thắng, có phương
pháp nào khiến cho con có thể ngộ nhập rất nhanh
chóng hay không?” Có cùng một ư nghĩa [với từ ngữ “nhất vị” ở đây], tôi tin là rất nhiều người
đều thắc mắc như tôi. Thầy dạy tôi: “Hăy thấy thấu suốt và
buông xuống, anh sẽ có thể ngộ nhập”. Học
“thấy thấu suốt, buông
xuống” từ chỗ nào? Phải làm từ buông xuống!
V́ quư vị chẳng buông xuống, sẽ chẳng có cách nào
thấy thấu suốt. Thấy thấu suốt là Giải
Môn, buông xuống là Hạnh Môn. Quư vị buông xuống càng nhiều,
sẽ lư giải càng nhiều, càng rộng, càng sâu! Điều
này cho thấy: Chấp trước, phân biệt, vọng tưởng
chướng ngại ngộ môn của chúng ta, quư vị chẳng
khai ngộ. V́ sao hằng ngày nghe kinh, nghe kinh vài chục năm,
chẳng có một chút ngộ xứ nào cả? Chính ḿnh cũng thường cảm thấy
bản thân chẳng có ngộ tánh, luôn tự trách chính ḿnh nghiệp chướng rất nặng. Điều ấy
chẳng sai, chính là nghiệp chướng rất nặng.
Nói thật ra, quư vị chẳng biết buông xuống, dẫu sám hối như thế nào đi nữa, vẫn
chẳng thể khai ngộ! V́ sao? Chẳng buông xuống
được! Cứ nhất định phải chấp
trước! Thứ này đúng là đ̣i mạng, khi nào quư vị
thật sự giác ngộ, hiểu rơ, sẽ buông xuống!
Buông
xuống thực hiện từ chỗ nào? Nhất định
phải hiểu, trong hết thảy các pháp, pháp nào chấp
trước nặng nhất, không buông xuống được
nhất, quư vị hăy buông nó xuống trước; sau đấy,
những thứ khác sẽ dễ dàng! Ví như quư vị rất
coi trọng tiền tài, hăy thực hiện từ chỗ này.
Coi danh lợi rất nặng, hăy thực hiện từ
danh lợi. Coi vinh dự rất trọng, đó gọi là “mặt mũi”, chẳng buông
xuống thứ này, sẽ không được. Hăy thực
hiện từ chỗ này! Quư vị phải tự nghĩ,
mỗi cá nhân khác nhau, tiếng tăm, lợi dưỡng,
ngũ dục, lục trần, chúng ta đă thấy, có kẻ
coi tiền tài rất nhẹ, nhưng coi danh rất nặng.
Chúng ta nói thông tục là “thích đội mũ cao” (ưa chuộng
lời tâng bốc), thích được người khác ca tụng! Nếu
người nào nói một câu không tốt về kẻ ấy, kẻ ấy sẽ rất
khó chịu đựng nổi, ôm ḷng căm tức mất vài ngày! Đấy là ǵ? Chẳng buông mặt
mũi xuống được! Căn bệnh nào nặng
nhất, hăy thực hiện trước từ nơi đó,
sẽ rất hữu hiệu! Phương pháp này là do Chương
Gia đại sư dạy tôi.
Tôi
thuở trẻ cũng chẳng có tiền của, nhưng
thích sách vở nhất. Tôi rất yêu tiếc sách vở, ưa
đọc sách, yêu thích nhất! Người khác mượn
sách, tôi sẽ không cho mượn, rất keo kiệt! V́ sao?
Sau khi cho mượn, họ trả lại cho tôi, nhất
định chẳng phải là dáng vẻ vốn có! Họ
làm bẩn sách của tôi, tôi cũng rất khó chịu. Họ
viết chữ lên sách của tôi, hễ có vết khoanh, chấm,
tôi chịu không nổi. V́ thế, tôi chẳng cho kẻ khác
mượn sách. Đấy là tật xấu! Chương Gia đại
sư bảo: “Anh hăy buông xuống từ chỗ này!” Được
rồi! Hăy buông xuống trước. Buông xuống như
thế nào? Sách tôi đă đọc, đọc rất nhiều
lần, không sao, có thể cho người khác mượn,
nhưng sách mới th́ không thể. Sau khi làm mấy năm mới
dần dần có tiến bộ, sách mới mà tôi tự ḿnh
c̣n chưa xem, người khác cần tôi cũng có thể
cho họ mượn. Đấy là có tiến bộ. Thậm
chí khi người khác cần, tôi cũng có thể đứt ruột
tặng cho người ấy, dần dần dưỡng
thành thói quen này. Đạt đến mục tiêu chung cực
là phải buông xuống ư niệm chấp trước, buông
xuống ư niệm phân biệt. Khởi tâm động niệm
rất khó, chúng tôi chẳng nói, chỉ nói hai thứ này. Hai
thứ này cũng chẳng dễ dàng, nhưng quư vị phải
thật sự làm!
Quư
vị thật sự làm, sẽ đạt được
lợi ích chân thật. Lợi ích chân thật là ǵ? Trong Phật
pháp thường nói là “phiền
năo nhẹ nhàng, trí huệ tăng trưởng”. Sáu căn
tiếp xúc hết thảy cảnh giới bên ngoài, giống
như trong Đàn Kinh đă nói: “Chỉ
sanh trí huệ, chẳng sanh phiền năo”. Quư vị gặp
vấn đề, c̣n có chuyện ǵ chẳng thể giải
quyết? Phàm là những chuyện chẳng thể giải
quyết, tức là quư vị sanh phiền năo, chẳng sanh trí
huệ, quư vị làm cho vấn đề càng phức tạp
hơn. Nếu sanh trí huệ, chẳng sanh phiền
năo, dẫu vấn đề rắc rối, phức tạp
đến mấy đi nữa, hễ đến trước
quư vị, sẽ trở thành đơn giản, quư vị có
thể xử lư tốt đẹp. Đấy mới là thật
sự đạt được thọ dụng trong Phật
pháp, nhất là như chúng ta đang nói ở đây, đó gọi
là “nhập cảnh giới của
Phật”. Vậy th́ quư vị phải thật sự hiểu,
giáo học thời cổ coi trọng sư thừa, một
vị thầy, một pháp môn, một bộ kinh điển.
Cổ nhân học tập có kỳ hạn, thông thường ấn định
kỳ hạn là năm năm.
Sau năm năm, quư vị có ngộ xứ, thật đấy!
Năm năm là nhất tâm bất loạn.
Niệm
Phật cũng thế, đọc kinh cũng thế, nghiên
cứu giáo lư cũng thế. Nói chung, đều là Tam Học
Giới, Định, Huệ. Tam Học đồng thời
cùng tiến. Quư vị nương theo những quy củ đă
định của Phật, Tổ để y giáo phụng
hành, tức là tŕ giới. Nhất tâm chuyên chú là tu Định.
Định đến một mức độ nhất
định, sẽ khai trí huệ. V́ thế nói: Năm năm,
người khai trí huệ rất nhiều. “Khai trí huệ” ở đây chẳng phải là đại
triệt đại ngộ, chẳng phải là minh tâm kiến
tánh, chúng ta nói là “tích tiểu ngộ
thành đại ngộ”. Xác thực quư vị mỗi năm
một thông minh hơn, mỗi năm có trí huệ hơn.
Đấy chính là chân tướng sự thật của sự
tu hành mà bản thân chúng tôi đă từng trải nghiệm.
Đương nhiên là trong quá tŕnh ấy, chẳng có ngoại
lệ, tất nhiên là chướng ngại tầng tầng,
chẳng phải là thuận buồm xuôi gió. Chướng ngại
tầng tầng mà quư vị có Tam Học Giới, Định,
Huệ th́ sẽ rất dễ dàng đột phá. Nếu quư vị chẳng
có Giới, Định, Huệ, sẽ rất dễ bị
chướng ngại. Chướng ngại như thế nào?
Ngă ḷng, quư vị thật sự bị thất bại, thoái
chuyển, hoặc là đi lầm vào ngơ rẽ! Vào lầm
ngơ rẽ, đấy là v́ chẳng nghe theo giáo huấn của
thầy. Đă theo một vị thầy, lại đổi
sang một vị khác, hoặc theo đồng thời mấy
vị thầy, chuyện này rất phiền toái, rất dễ
vào lầm ngơ rẽ. Do vậy, sư thừa là một thầy.
Một vị thầy dẫn dắt quư vị đạt
đến khai ngộ thật sự.
Khai
ngộ có h́nh trạng như thế nào? Có năng lực phân
biệt chân vọng, tà chánh, thị phi, thiện ác, lợi
hại. Quư vị vừa tiếp xúc, bèn có thể phân biệt
rành rẽ, rơ ràng. [Tṛ đă] có năng lực ấy, thầy
bèn buông tay. “Buông tay” là ǵ? Nhất định sẽ bảo quư vị
đi tham học. “Tham học”
là thứ ǵ quư vị cũng đều có thể tiếp
xúc. Chẳng hạn
như đối với kinh điển, kinh ǵ
cũng đều có thể xem. Quư vị có năng lực ấy,
xem nhiều sẽ có lợi ích đối
với quư vị, thành tựu Hậu
Đắc Trí, sẽ chẳng học theo thói xấu. Bất cứ hạng
người như thế nào trong xă hội, quư vị cũng
đều có thể tiếp xúc. Điều này giống như
năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài
đồng tử, quư vị đă có năng
lực ấy, thầy chẳng c̣n can thiệp [vào chuyện
tu học của] quư vị nữa! Chẳng có năng lực
ấy, thầy sẽ quản rất nghiêm, tức là bất
cứ ai giảng kinh, thuyết pháp [quư vị] đều
chẳng thể nghe. Bất cứ sách vở, văn chương
nào chưa được thầy đồng ư, sẽ chẳng
thể xem. Quản nghiêm ngặt, [là v́] sợ quư vị đi
lầm vào ngơ rẽ! Đấy là thầy thật sự
yêu thương, thật sự chăm sóc học tṛ. Nhất
định phải bồi dưỡng quư vị có năng
lực cơ bản này, sau đấy mới để cho
quư vị ra ngoài, ḥng thành tựu viên măn Hậu Đắc
Trí cho quư vị. Đó gọi là “không
ǵ chẳng biết, không ǵ chẳng thể”. Đó là tham
học, là học rộng nghe nhiều, là chuyện thuộc
về bước thứ hai.
Bước
đầu tiên là Căn Bản Trí. Căn Bản Trí là ǵ? “Bát Nhă vô tri”; v́ thế, Căn
Bản Trí là vô tri. Căn Bản Trí là cái tâm thanh tịnh. Căn
Bản Trí là Pháp Tánh. Khi nó chẳng khởi tác dụng, ở
trong trạng huống tĩnh, sẽ gọi là Căn Bản
Trí. Khi nó dấy lên tác dụng, không ǵ chẳng biết. Khi
chẳng khởi tác dụng, tâm như như bất động.
Kinh Kim Cang nói: “Chẳng chấp
lấy tướng, như như bất động”, vị
ấy đạt đến tŕnh độ này. “Khởi tác dụng” là ǵ? Khi có
người hướng về vị ấy thỉnh giáo, bất
luận nêu ra vấn đề ǵ, vị ấy đều
có thể giải đáp viên măn, tuyệt đối chẳng
phải thông qua suy nghĩ: “Ta nghĩ xem phải trả lời câu hỏi
này như thế nào?” Chẳng có! Bất luận vị đó
đă học qua vấn đề ấy hay chưa, hoàn toàn
đều có thể giải đáp rất thỏa đáng,
rất viên măn cho quư vị. Đấy là biểu hiện của
sự khai trí huệ! Do vậy, người khéo học, thật
sự biết học, sẽ tôn sư trọng đạo,
lại thêm chính ḿnh hiếu học, há có lẽ nào chẳng
thành công?
Học
tập hết sức nhọc nhằn, phải có thể chịu đựng nỗi khổ này. Sau khi đă thật
sự chịu được, sẽ có niềm vui thú trong ấy,
đúng như sách Luận Ngữ đă nói: “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt
hồ?” (Học rồi thường xuyên tập
luyện, cũng chẳng vui ư?) Thật sự đắc
pháp hỷ, thật sự được vui sướng. Sự
vui sướng ấy chẳng có cách nào diễn tả
được, chẳng có cách nào h́nh dung, chính ḿnh có đạt
được th́ mới biết. Giống như cổ nhân
đă bảo: “Như nhân ẩm
thủy, lănh noăn tự tri” (Như người uống nước,
lạnh nóng tự biết), nói chẳng được! Nội tâm hỷ duyệt, pháp hỷ sung măn. Nói theo
phía thân thể của chúng ta, nay chúng ta nói là sinh lư, sự hỷ
duyệt ấy chính là chất bổ dưỡng thù thắng
nhất. Nó có thể khiến cho tinh thần của quư vị
no đủ, chẳng chán ngán, uể oải. Chẳng biết mệt mỏi, chẳng biết
chán ngán, đó là quư vị đă thật sự khế
nhập!
Đọc
sách, học tập, học đạo, “phế tẩm vong san” (廢寢忘餐), nghĩa là quên ăn uống, ngủ nghỉ cũng
quên luôn, [thế nhưng] tinh thần no đủ, thời
gian ngủ mỗi ngày rất ít, hai ba tiếng đồng
hồ là đủ rồi. Đang trong lúc mệt mỏi, đánh
một giấc ngắn ngay trên bàn đọc sách là
được rồi. Nghỉ ngơi chốc lát, tinh thần
lại hồi phục, phấn chấn tinh thần. Nếu
quư vị bảo người ấy buông việc học tập
xuống, hăy buông sách xuống để làm chuyện khác, thưa
cùng chư vị, sẽ rất dễ mệt mỏi. V́ sao?
Chẳng có hứng thú. Đấy là v́ trong những thứ
thuộc về thế gian, chẳng có sự vui thú. Cổ đại
đức thường nói, “thế
vị” (世味, hương vị của thế gian) chẳng nồng
đượm như pháp vị. Hiện thời, chẳng
được nếm pháp vị. Nếu đă được
nếm, có muốn bỏ, sẽ chẳng thể! Thứ ǵ
vui sướng nhất trong thế gian? Chuyện này vui
sướng nhất, không có ǵ vui hơn điều này! Chuyện
này ai nấy vốn có, ai nấy đều có phần. Trong
hiện tại, quư vị bị chướng ngại hiện
tiền, chẳng thể đột phá chướng ngại
ấy, quư vị sẽ chẳng được nếm pháp
vị. Khi đă đột phá chướng ngại, quư vị
sẽ nếm được! Chuyện này cần phải có
nghị lực, phải có cái tâm thường hằng, phải
có mục tiêu và phương hướng nhất định,
suốt đời chớ nên biến đổi!
Nếu
muốn tăng tấn cao hơn, điều kiện đầu
tiên là phải đạt đến Vô Ngă. Lời
dạy trong kinh Kim Cang là thật, chẳng giả: “Vô ngă tướng, vô nhân tướng,
vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng”.
Ai đă làm được? A La Hán làm được. Từ
Tu Đà Hoàn cho đến A La Hán là một phương
hướng, một mục tiêu. Tu Đà Hoàn là Sơ Quả,
chẳng c̣n chấp trước cái thân này là ta, đầu tiên là phá Ngă Chấp.
C̣n có Ngă Chấp hay không? Có chứ, phá rất cạn, chẳng
c̣n chấp trước cái thân là ta. Nay chúng ta chấp trước
nghiêm trọng “thân là ta”. Chuyện này rất khổ năo, là căn
cội của tất cả hết thảy phiền năo, quư
vị chẳng phá trừ mảy may! V́ thế, quư vị có
bệnh, nói chung là chẳng trị lành bệnh, nói chung là
thường luôn phạm, chẳng thể đoạn trừ
từ căn cội.
Gần
đây, tôi có đọc một bản báo cáo do một bác sĩ
đích thân viết. Thuở trẻ, ông ta theo học tại
Gia Nă Đại, năm cuối cùng đi kiểm tra thân thể,
[phát hiện] mắc bệnh ung thư. Trải qua trị
liệu nhiều năm, đến cuối cùng, phải dùng
cách trị liệu hóa học (Chemotherapy) hết sức
đau khổ, chẳng có cách nào đoạn trừ căn cội. Cuối cùng, ông
ta nghĩ lại, thật sự phát tâm: “Coi
như xong, không trị nữa, không đi khám bác sĩ, chẳng
cần trị liệu. Trị liệu đau khổ quá”.
Sau khi đă buông xuống chuyện này, ông ta hoàn toàn dùng ư chí, niệm
nào cũng đều là thiện niệm, chuộng thiện,
ưa thí, niệm niệm vẫn giúp đỡ kẻ khác.
Thân thể mỗi ngày một khá hơn. Tới cuối cùng,
đi kiểm tra, chẳng c̣n ung thư nữa, [đó là v́] chẳng c̣n coi trọng tấm thân này!
Người
thế gian có thân thể này, v́ sao bị bệnh tật mà chẳng thể trị lành? Do coi trọng thân thể
này quá lố! Càng mong bảo dưỡng nó, bệnh tật
càng xuất hiện. Sau khi thảy đều buông xuống,
toàn thể tinh thần được thả lỏng, đâm
ra có thể tập trung ư chí. Nói thật ra, phương pháp
này có thể chứng minh rất khéo bởi thí nghiệm với
nước của ông Giang Bổn Thắng. Một niệm
thiện tâm, phản ứng nơi các tế bào trên toàn bộ
thân thể đều biến thành thiện, quư vị sẽ
khôi phục b́nh thường. Chuyện này chẳng phải
là mê tín! Đầu tiên, quư vị phải khẳng định
“sâm la vạn tượng”
như Phật pháp đă nói đều do Pháp Tánh biến hiện.
Thể là Pháp Tánh, Pháp Tánh chẳng có h́nh tướng. Chẳng
có h́nh tướng mà có thể hiện ra h́nh tướng. Tất
cả hết thảy các hiện tướng đều do
Pháp Tánh hiện. Pháp Tánh vốn trọn đủ “thấy, nghe, hay, biết”, vốn
đầy đủ sắc, thanh, hương, vị. Chỉ
cần quư vị đưa chúng trở về cái vốn có,
sẽ là tốt lành nhất, hoàn mỹ nhất. Quư vị bỏ
thêm vọng niệm vào đó, nó sẽ nẩy sanh biến hóa.
Tôi vừa mới nói, quư vị thấy một vọng niệm
sanh khởi, nó sẽ biến chất, nhưng mức độ
biến đổi rất nhỏ, bèn rơi vào Phật pháp
giới trong mười pháp giới. Nếu nghiêm trọng
hơn, sẽ biến thành Bồ Tát. Lại nghiêm trọng
hơn, sẽ biến thành Duyên Giác hoặc Thanh Văn. Lại
nghiêm trọng hơn, sẽ vào trong lục đạo. Chuyện
là như thế đó!
Nay
chúng ta làm theo cách nào? Chính là buông xuống. Thật sự buông xuống,
sẽ khôi phục. Vị bác sĩ ấy chẳng có công phu
lỗi lạc ǵ khác, [chỉ
là] buông xuống thân tâm thế giới,
trở về tự tánh, hiệu quả bèn rơ rệt như
vậy đó! Các vị xem Sơn Tây Tiểu Viện, [sẽ
thấy] hơn bốn mươi người dùng phương
pháp đọc kinh, niệm Phật, niệm đến mức
đều trị lành bệnh. Nguyên nhân ǵ vậy? Chính là do nguyên
nhân này, chứng minh một câu đức Phật thường
nói trong các bộ đại kinh: “Hết
thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”. Cổ đại
đức nói, mà tôi cũng thường nói: Thế giới
này và thế giới Cực Lạc với thế giới Hoa
Tạng có ǵ sai biệt? Chẳng có mảy may sai biệt! V́ sao hiện
tướng bất đồng? Do tâm bất đồng.
Thiện tâm, sẽ chẳng có ǵ bất thiện. Tâm bất
thiện, chẳng có thứ
ǵ là thiện! Nếu chúng ta muốn
sống tự tại, sống mỹ măn, quư vị chớ
nên nghĩ tới điều ác, hăy nghĩ tới điều
lành!
Trong
thế gian, chẳng có người nào không phải là thiện
nhân! V́ sao? Bổn tánh vốn lành! Tam Tự Kinh được
mở đầu bằng câu: “Nhân
chi sơ, tánh bổn thiện”, hết thảy chúng sanh
đều có Phật Tánh. Bồ Tát Giới Kinh đă nói rất
hay: “Hết thảy chúng sanh
đều là cha mẹ của ta trong quá khứ, là vị
lai chư Phật”. Há có lẽ nào chẳng tôn trọng ư?
Lẽ nào có thể đắc tội cho được? Ai
nấy tôn trọng lẫn nhau, ai nấy kính yêu, quan tâm lẫn
nhau, hỗ trợ hợp tác, thế giới này chính là thế
giới Cực Lạc. Ḷng người biến thành lành, hành
vi biến thành lành, núi, sông, đại địa chẳng
có ǵ bất thiện!
Gần
đây nhất, có các vị đồng tu tặng cho tôi một ít
rau xanh, rau xanh ấy ăn hết sức ngon. Vun trồng
như thế nào? Họ kể với tôi, vun trồng bằng
cách cho nó nghe Phật hiệu, đúng là khác hẳn. Ở Úc,
trong vườn rau của chúng tôi, tất cả hết thảy
các thứ rau đều được nghe Phật hiệu.
Có khi c̣n nghe giảng kinh; v́ thế, rau dưa tăng trưởng
tốt đẹp hơn ngoài chợ nhiều. Người
trong các chợ rau trông thấy, [sẽ thắc mắc]: “Rau này từ đâu
ra vậy? V́ sao phát triển tươi tốt dường ấy?” Thiện niệm,
chẳng có ǵ khác! Cây cối, hoa cỏ đều được
tưới tắm bằng kinh, bằng Phật hiệu. Chúng
tôi đă làm vài năm, mọi người đều thấy
hiệu quả, nhưng chính bản thân chúng ta vẫn chẳng
chuyển nổi cảnh giới, là do nguyên nhân nào? Tập
khí quá nặng! Thường là vừa tiếp xúc bèn quên sạch bách;
xong chuyện, lại suy nghĩ, lại hối hận, ăn
năn! Đấy là chỗ sống chẳng thể chuyển
thành chín, công phu chẳng đủ, vẫn phải đổ
công phu sâu hơn!
Càng
quan trọng hơn là thời thời khắc khắc biết
buông xuống. Chúng ta thấy kẻ khác làm chuyện không tốt,
trong tâm dấy lên ư niệm muốn giáo huấn kẻ đó.
Hễ ư niệm ấy vừa mới dấy lên, hăy buông xuống.
Rèn luyện từ chỗ này; đấy thật sự gọi
là học Phật, thật sự rèn luyện công phu. Ta đối
xử tốt với kẻ khác! Tốt cũng buông xuống.
Chẳng lẽ người ấy phạm lỗi mà ta chẳng
nói cho người ấy biết? Sau vài ngày rồi mới
nói với người ấy. Nay quư vị nói với họ,
quư vị đang bực bội, ứa gan, lời lẽ chẳng
dễ nghe! Vài ngày sau, sẽ dịu đi, quư vị có thể
nói dịu dàng, mềm mỏng với kẻ đó, sẽ khác
hẳn! V́ thế, nhất định phải [đợi
cho] đến khi chính ḿnh tâm b́nh khí ḥa rồi mới nói với
kẻ ấy, giúp đỡ người ấy, họ sẽ
tiếp nhận rất dễ dàng, sẽ cảm kích quư vị!
Nay tuy quư vị nói với người ta, nhưng khi ngôn ngữ
và thái độ rất thô tháp, kẻ ấy sẽ phản kháng,
chẳng thể cảm kích quư vị. Thậm chí về căn bản,
chẳng thể tiếp nhận, sẽ dấy lên tranh căi.
Vậy là chẳng có ư nghĩa chi hết! V́ thế, buông xuống
là có lư, chẳng phải là vô lư. Quư vị phải có trí huệ,
phải thật sự luyện tập công phu ở chỗ
này, bất luận gặp chuyện ǵ, đều phải
thường nhớ buông xuống.
Chỉ
có buông xuống th́ mới có thể thấy thấu suốt.
Thấy thấu suốt là hiểu rơ, đối với chân
tướng sự thật bèn hiểu rơ, quư vị sẽ xử
sự chẳng phạm sai lầm, tùy tâm ứng phó, khiến
cho kẻ khác tâm phục, khẩu phục. Tâm thái của chính
quư vị chánh xác, dùng tâm b́nh khí ḥa để xử trí mọi
chuyện. Chúng ta thường xử trí mọi chuyện
sai sót, [là do] tâm chẳng b́nh, khí chẳng ḥa, quư vị hăy ngẫm
xem, có hợp lư hay chăng? V́ sao dùng lời lẽ tốt
lành để
khuyên người ta, người ta
lại phản bác, vẫn không tiếp nhận? Nhất định
phải quay lại suy xét tâm thái, ngôn ngữ, và thái độ
của chính ḿnh ngay trong lúc đó, quư vị sẽ hiểu.
V́ thế, Phật, Bồ Tát dạy chúng ta buông xuống là
có lư. Như vậy th́ mới có thể rất nhanh chóng khế
nhập cảnh giới của Phật, đạt
được sự thọ dụng chân thật trong Phật
pháp. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi nói tới
chỗ này.
Tập
1536
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười
một, xem từ bài kệ thứ mười hai trong tiểu
đoạn thứ hai của đoạn thứ sáu trong phần
kệ tụng.
(Kinh)
Nhược kiến tŕ chiểu, đương nguyện
chúng sanh, ngữ nghiệp măn túc, xảo năng diễn thuyết.
(經)若見池沼。當願眾生。語業滿足。巧能演說。
(Kinh: Nếu thấy ao chuôm, nguyện cho chúng sanh,
ngữ nghiệp trọn vẹn, diễn nói khéo léo).
Bài
kệ trong phần trước nói về chuyện thấy
“pha trạch”, bài kệ này nói
đến “tŕ chiểu”. Nh́n
từ h́nh tướng th́ chẳng sai khác cho mấy. “Pha trạch” cũng là ao, nhưng
là ao để chứa nước, cũng có nghĩa là
nước chẳng lưu chuyển. V́ thế, trong lời
phát nguyện mới nói “nhất
vị chi pháp” (pháp một vị). “Tŕ chiểu” (池沼) là cái ao có nước lưu chuyển, cũng
có nghĩa là nó có chỗ để nước chảy vào,
và cũng có chỗ để tháo nước ra. Chúng ta
thường nói là nước lưu động. Ở đây
chẳng phải là nước tù đọng. Do vậy,
trong phần phát nguyện bèn nói: “Xảo
năng diễn thuyết” (Có thể khéo diễn nói), v́ nước
của nó lưu động, từ một phía chảy vào,
chảy ra từ phía khác, nước là lưu động.
Sai khác ở chỗ này! Nước chảy vào, ví như chúng
ta tu học Phật pháp, tiếp nhận giáo huấn của
Như Lai. “Chảy ra” th́ giống như chúng ta cũng có thể
hoằng pháp lợi sanh. Như trong kinh giáo, đức Phật
thường dạy chúng ta hai câu rất quan trọng. Kinh Kim
Cang chỉ có năm ngàn chữ, văn tự không nhiều
lắm, câu này được nhắc đến mười
mấy lần, người đọc kinh Kim Cang nhất
định đều rất quen thuộc: “Thọ tŕ đọc tụng, v́ người khác diễn
nói”. Hai câu này quá trọng yếu. Khi nước chảy
vào bèn thọ tŕ, đọc tụng; khi chảy ra, sẽ v́
kẻ khác diễn nói. V́ thế, quư vị thấy nguyện
ở đây tương ứng với điều này, phát
nguyện tương ứng với chuyện này khi trông thấy
ao.
“Đương nguyện chúng sanh”,
nguyện là tự nhiên. Mỗi lần chúng tôi đều phải
đề cập [điều này], v́ thính chúng trong đạo
tràng chẳng cố định, gần như mỗi ngày
đều có những khuôn mặt mới, có các đồng
tu mới đến. Nhất là từ Trung Quốc Đại
Lục, từ các nơi ở hải ngoại đến nơi
đây thăm viếng. Nguyện của các vị Bồ
Tát ở đây chẳng phải là Bồ Tát b́nh phàm, mà là các
vị Pháp Thân Bồ Tát trong hội Hoa Nghiêm, chúng ta thường
gọi các Ngài là Pháp Thân đại sĩ. Trong Lục Tức
Phật của Thiên Thai đại sư, những vị [Bồ
Tát] này là Phần Chứng Tức Phật. V́ thế, các Ngài
là chân Phật, chẳng phải là giả Phật. Phật trong
mười pháp giới, cao nhất trong mười pháp giới
là Phật pháp giới, vị Phật ấy là Tương
Tự Tức Phật, so với Pháp Thân đại sĩ
trong hội Hoa Tạng, vẫn thấp hơn một bậc.
V́ sao? Vị ấy chưa phá vô minh, chưa chứng đắc
Pháp Thân. V́ thế, là Tương Tự Tức, phải biết
điều này! Trong bốn loại Tịnh Độ, Tương
Tự Tức chính là cơi Phương Tiện Hữu Dư.
Bọn
phàm phu chúng ta hoàn toàn chẳng đoạn phiền năo, luân hồi
trong lục đạo. Tu hành trong lục đạo mà công
phu đắc lực th́ gọi là Quán Hạnh Tức, vẫn
chưa đạt đến mức Tương Tự. Quán
Hạnh là công phu đắc lực. Quán Hạnh Tức mà
tu các pháp môn khác th́ vẫn chẳng thể thành tựu, v́ quư
vị chẳng thoát khỏi lục đạo, nhưng
trong Tịnh Độ th́ hữu dụng. Tịnh Độ
th́ như thế nào? Có thể văng sanh, sanh vào cơi Phàm Thánh
Đồng Cư. Nếu là địa vị Tương Tự
Tức, sẽ sanh vào cơi Phương Tiện Hữu Dư.
Nếu phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp
Thân, văng sanh thế giới Cực Lạc sẽ là cơi Thật
Báo Trang Nghiêm, hoặc Thường Tịch Quang Tịnh
Độ, khác hẳn! V́ thế, chỗ thù thắng của
Tịnh Độ chẳng thuộc vào hai cơi trên (Thật Báo Trang Nghiêm và Thường
Tịch Quang Tịnh Độ), mà là trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư; đây là điều
đáng tán thán nhất. Bởi lẽ, bất cứ pháp môn nào,
quư vị tu đến Quán Hạnh Tức, khi công phu đắc
lực, chẳng thoát khỏi lục đạo, chỉ riêng
pháp môn Tịnh Tông là có thể vượt thoát lục đạo! V́ thế,
đây là chỗ thù thắng khôn sánh so với Tịnh Độ
của tất cả chư Phật, chúng ta phải hiểu
đạo lư này!
Trong
một đời này, chúng ta hăy tự suy nghĩ, địa
vị Tương Tự và địa vị Phần Chứng
chắc chắn là chúng ta chẳng làm được! Đây
là nói thật thà! Nhưng Quán Hạnh Tức, chúng ta gọi
là “niệm Phật công phu thành
phiến”, Thiện Đạo đại sư đă nói
hay lắm: “Vạn tu, vạn
nhân khứ” (Vạn người
tu, vạn người văng sanh). Cũng có nghĩa là ai nấy
đều có thể làm được. Trong một đời
này, quư vị có thể thành tựu hay không? Thành tựu địa
vị cao cỡ nào? Thiện Đạo đại sư nói
hay lắm! Rất nhiều người biết Thiện
Đạo đại sư là A Di Đà Phật hóa thân tái
lai; các pháp sư Nhật Bản và Đại Hàn đều
biết, tôi hỏi họ, [họ đều biết] Ngài có
nói câu ấy. Lời Thiện Đạo đại sư đă nói chính là
A Di Đà Phật đích thân nói: “Bốn
cơi, ba bậc, chín phẩm, nói chung là do gặp duyên khác nhau”.
Thật vậy, chẳng sai tí nào! Chúng ta liễu giải đạo
lư này, liễu giải chân tướng sự thật, chính
ḿnh hăy nên có phương hướng và mục tiêu để
nỗ lực. Gặp gỡ pháp môn này, khẳng định
văng sanh cơi Phàm Thánh Đồng Cư, cũng chẳng sót một ai! Quư vị chẳng thể văng
sanh là do ngay cả công phu thành phiến quư vị vẫn chưa
đạt tới. Công phu thành phiến là Quán Hạnh Tức.
Đă đạt tới công phu thành phiến, phải tăng
tấn hơn!
Nói
thật ra, hiện thời, chúng ta gặp duyên thù thắng khôn sánh. Thật vậy!
Nếu quư vị thật sự chịu hành, trong đời
này có thể văng sanh cơi Thường Tịch Quang hay chăng?
Có thể sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm hay không? Câu trả
lời là khẳng định, có thể! Kinh Hoa Nghiêm đă
nói rất hay: “Hết thảy chúng
sanh đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai, chỉ v́ vọng tưởng, chấp trước
mà chẳng thể chứng đắc”. Lời này đă
nói rất rơ ràng, rất minh bạch, rất đơn giản.
“Hết thảy chúng sanh” bao
gồm quư vị và tôi trong đó, vốn thành Phật! Kinh Hoa
Nghiêm đă nói [như thế], mà kinh Viên Giác cũng nói [như vậy]. V́ sao nay biến
thành nông nỗi này? V́ có vọng tưởng, có phân biệt,
có chấp trước. Do vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước nghiêm trọng, cho nên thành ra nông nỗi
này! Do vậy mới có tam đồ, mới có lục đạo.
Tam đồ lục đạo quyết chẳng phải là
chân thật, đấy là huyễn tướng, sau khi đă
mê mới có, sau khi đă giác sẽ chẳng có. Trong Chứng
Đạo Ca, quư vị thấy Vĩnh Gia đại sư
đă nói rất hay: “Mộng lư
minh minh hữu lục thú, giác hậu không không vô đại
thiên” (Trong mộng rành rành phô sáu nẻo, giác rồi ba cơi rỗng
toang hoang). “Vô đại thiên”
là ngay cả mười pháp giới đều chẳng có,
phải biết điều này!
Chúng
ta tăng tấn như thế nào? Trong các buổi giảng,
tôi đă nói rất nhiều lần. Đức Phật dạy
chúng ta, căn bệnh của chúng ta là chấp trước,
là phân biệt, là vọng tưởng, quư vị chỉ cần
trừ khử những thứ ấy. Nếu chúng ta có thể đối
với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế
gian, đối với hết thảy người, sự,
vật, từ nay trở đi chẳng c̣n chấp trước
nữa, kể cả thân ta và cái ta sở hữu, tức ngă
sở, đều chẳng chấp trước, hăy buông xuống,
niệm Phật văng sanh sẽ chẳng phải là [sanh vào] cơi
Phàm Thánh Đồng Cư, mà là ǵ? Cơi Phương Tiện Hữu
Dư. Chẳng phải là tăng tấn ư? Lại có thể
tiến thêm một bước nữa là phân biệt cũng
đoạn trừ. Không chỉ là ta chẳng có chấp
trước, mà đối với sâm la vạn tượng
thuộc vào pháp thế gian và xuất thế gian, đều
chẳng phân biệt. “Chẳng
phân biệt” không phải là chẳng biết, mà là chiếu
kiến. Trong cách nh́n của lũ phàm phu chúng ta có phân biệt;
trong cái thấy của vị ấy chỉ có Chiếu, chẳng
có phân biệt. Ví như mắt chúng ta thấy sắc, thấy
rơ ràng, rành rẽ, chẳng chấp trước, chẳng phân
biệt, đấy là ǵ? Đấy là Bồ Tát! Bồ Tát văng
sanh vẫn là sanh trong cơi Phương Tiện Hữu
Dư, nhưng thuộc địa vị cao. Trong cơi Phương
Tiện Hữu Dư cũng có ba bậc, chín phẩm, [thuộc về] Thượng Phẩm Thượng Sanh.
Nếu
phá một phẩm vô minh, vô minh là vọng tưởng, vọng
tưởng ǵ vậy? Khởi tâm động niệm. Trong
hết thảy các cảnh duyên, chúng ta không khởi tâm, chẳng
động niệm, quư vị niệm Phật sanh về Tây
Phương Tịnh Độ sẽ chẳng phải là cơi
Phương Tiện Hữu Dư, mà là cơi Thật Báo Trang
Nghiêm, chẳng sai khác thế giới Hoa Tạng tí nào, chính là
Nhất Chân pháp giới, là bậc Pháp Thân đại sĩ.
Chúng ta có thể chứng đắc Pháp Thân đại
sĩ hay không? Chỉ cần quư vị làm được ba chuyện
này, hăy buông xuống, triệt để buông xuống, chẳng
chấp trước, chẳng phân biệt, chẳng khởi
tâm, không động niệm. Chư vị phải ghi nhớ:
Không chấp trước, quư vị sẽ chứng
quả A La Hán; chẳng phân biệt, quư vị sẽ chứng
quả Bồ Tát. Chẳng khởi tâm, không động niệm,
quư vị sẽ thành Phật. “Thành
Phật” chính là Pháp Thân đại sĩ như đang được
nói trong kinh này. Quư vị chẳng phải là chứng đắc
viên măn, mà là phần chứng. Xác thực là thật, chẳng
giả, v́ sao? Quư vị dùng chân tâm, chư Phật Như Lai
đều dùng chân tâm, chẳng dùng vọng tâm. Nhưng khởi
tâm động niệm, cái tâm sẽ là vọng tâm, chân tâm biến
thành vọng tâm, điều này hết sức vi diệu. Hễ
khởi tâm động niệm [chân tâm] sẽ biến [thành vọng tâm]. Vọng tâm là ǵ? Thuật ngữ Phật pháp gọi nó
là A Lại Da Thức. Chân Như bản tánh chỉ cần
khởi tâm, động niệm liền biến thành A Lại
Da Thức. Phật pháp nói “do một
niệm bất giác mà có vô minh” nhằm nói về chuyện
này.
Nếu chúng ta luyện công phu sáu căn tiếp xúc cảnh giới
sáu trần chẳng khởi tâm, không động niệm. Chư vị
phải biết: Nếu trong tâm quư vị c̣n có “ta chớ nên
khởi tâm, đừng nên động niệm”, quư vị
đă khởi tâm động niệm mất rồi! Đấy chính là như Lăo Tử đă nói: “Đạo khả đạo,
phi thường đạo; danh khả danh, phi thường
danh” (Cái đạo mà có thể diễn tả, chẳng phải
là đạo thường hằng. Cái danh có thể gọi
tên được th́ chẳng phải là danh thường hằng),
nhà Phật nói: “Ngôn ngữ dứt
bặt, tâm hạnh xứ diệt”, chính là cảnh giới
này. Thật sự chẳng khởi tâm, không động niệm.
Khi ấy, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần
đều là “chiếu kiến”.
“Chiếu kiến” là thấy
chân tướng sự thật. Chân tướng sự thật
là ǵ? Không và Hữu bất nhị, tức là như Tâm Kinh đă
nói, quư vị hoàn toàn minh bạch: “Sắc chính là Không, Không chính là Sắc. Sắc chẳng
khác Không, Không chẳng khác Sắc. Thọ, Tưởng,
Hành, Thức cũng giống như thế”. Quư vị thấy
được toàn bộ. Gần đây nhất, khoa học hiện thời mới phát hiện, Sắc là vật
chất, vật chất từ đâu mà có? Từ trong Vô
sanh ra Hữu, từ Hữu trở về Vô. Đại khái
là khoa học đă suy diễn từ Toán Học, nhưng không
biết làm thế nào để hiển thị rơ
ràng cảnh giới ấy! Thật ra, cảnh giới ấy
ở ngay trước mắt, hết sức rơ rệt, quư
vị chẳng nh́n thấy đó thôi! V́ sao chẳng nh́n thấy?
Do quư vị khởi tâm động niệm. Chỉ cần chẳng
khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt,
không chấp trước, sẽ giống như kinh Pháp Hoa
nói là “Phật tri, Phật
kiến”, [tri kiến của] quư vị
chính là Phật tri Phật kiến, quư vị vốn sẵn
là Như Như Phật.
Thiện
Đạo đại sư nói: “Nói
chung là do gặp duyên khác nhau”, quư vị có tin tưởng hay chăng? Chẳng sai tí nào! Gặp kinh Hoa Nghiêm chính
là nhân duyên vô thượng. Bài kệ khai kinh chính v́ kinh này mà
viết: “Vô thượng thậm
thâm vi diệu pháp, bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, ngă
kim kiến văn đắc thọ tŕ”. Ba chữ này trọng
yếu. “Đắc thọ tŕ”
là như ḍng nước chảy vào cái ao của quư vị,
được thọ tŕ. “Nguyện
giải Như Lai chân thật nghĩa”, quư vị đạt
được thọ dụng, hoàn toàn hấp thụ. Sau
đấy mới có thể đại từ đại
bi, “ngàn xứ nguyện cầu,
ngàn xứ ứng”, v́ hết thảy chúng sanh mà biểu
diễn. Biểu diễn
cho chúng sanh trông thấy, v́ người
khác diễn nói. “Diễn” (演) là làm ra, làm ra ǵ vậy? Thể hiện ta đă buông xuống,
thể hiện ta chẳng chấp trước. Ta chẳng có chấp trước, ta chẳng có phân biệt, ta chẳng có khởi tâm động
niệm, làm ra [cho người khác thấy]. Thích Ca Mâu Ni Phật
nêu gương cho chúng ta nh́n vào, chúng ta học Phật th́ học
theo ai? Học theo Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật ở
nơi đâu? Đại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm Kinh chính là sự biểu hiện của Thích Ca Mâu Ni
Phật. Hằng ngày, Thích Ca Mâu Ni Phật đi ra ngoài, đoạn
này toàn nói về những nhân vật và cảnh
quan mà ta trông thấy trên đường đi khất thực
hằng ngày, trông thấy những thứ ấy. Sau khi quư vị
thấy xong, trong tự tánh tự nhiên có phản ứng, hoàn
toàn chẳng phải là “ta nguyện hết thảy chúng
sanh”, [nếu thấy chính ḿnh có phát nguyện, tức là] quư
vị vẫn có vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước! Do vậy, trong “đương
nguyện chúng sanh” ở đây, chẳng có vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, chính là cảnh
giới chẳng thể nghĩ bàn, là phản ứng tự
nhiên!
Tôi
thường dùng thí nghiệm với nước của ông
Giang Bổn Thắng để chứng tỏ cùng quư vị.
Ông ta làm thí nghiệm mười một năm, nước
là khoáng vật, biết nước có thấy, nghe, hay, biết.
Tôi c̣n bảo ông ta: “Thấy, nghe, hay, biết đă
được ông trắc nghiệm t́m ra, nó c̣n có sắc, thanh, hương, vị.
Đối với sắc, thanh, hương, vị, nay ông
chỉ thấy sắc tướng, chứ âm thanh, mùi, vị,
ông chưa thí nghiệm được”. Tôi nói: - Ông vẫn
phải nỗ lực, chắc chắn là có sắc, thanh, hương,
vị. V́ sao? Tất cả hết thảy các hiện
tướng là pháp tướng, pháp tướng do đâu mà
có? Pháp tướng do Pháp Tánh biến ra. Pháp Tánh có thấy,
nghe, hay, biết, có sắc, thanh, hương, vị, chúng vốn
sẵn có. Trung Quán Luận nói “bát
bất” là để h́nh dung những thứ này. Những
thứ này được gọi là “linh tánh”. Chúng ta gọi chúng là “linh tánh”. Sắc, thanh, hương, vị, thấy,
nghe, hay, biết chính là linh tánh, là bản tánh. “Bất sanh, bất
diệt, bất lai, bất khứ, bất thường,
bất đoạn, bất nhất, bất dị” (chẳng sanh, chẳng diệt,
chẳng đến, chẳng đi, chẳng thường,
chẳng đoạn, chẳng một, chẳng khác) trong giáo pháp Đại Thừa đă nói rất rơ ràng,
rất minh bạch, chúng ta thảy đều có. Nếu quư
vị thảy đều buông xuống; vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước thảy đều buông xuống,
Tánh Đức sẽ hiện tiền
viên măn, chẳng có một tí chướng
ngại nào! Sắc thân của chúng ta là Pháp Tướng, mỗi
tế bào đều có thấy, nghe, hay, biết, mỗi sợi
lông, mảy tóc cũng có thấy, nghe, hay, biết, mà cũng
có sắc, thanh, hương, vị. Tâm địa thanh tịnh,
nó hoàn toàn b́nh thường, b́nh thường là ǵ? B́nh thường
là sẽ chẳng lăo, chẳng có sanh, lăo, bệnh, tử, đó
là b́nh thường. Hễ có sanh, lăo, bệnh, tử
th́ là bất b́nh thường.
Do
vậy có thể biết, công phu tu hành của chúng ta vẫn
chưa đủ. Nếu là đầy đủ, lúc tôi hai
mươi sáu tuổi đă học Phật, năm nay quư vị
nh́n vào dáng vẻ của tôi, chắn chắn vẫn giống hệt như lúc hai mươi sáu tuổi. [Có h́nh dáng già theo
năm tháng như hiện thời] tức là công phu tu tập
của tôi chẳng đủ. Nếu tôi thật sự thực
hiện công phu đầy đủ, hai mươi sáu tuổi
bèn đạt tới cảnh giới này, [h́nh dáng sẽ] vĩnh viễn là hai mươi sáu tuổi. Nó biến
như thế nào? Biến từ chỗ nào? Biến từ
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước; hễ quư
vị có những thứ ấy, cái tâm sẽ biến, đấy là
ǵ? Đấy là thức. V́ thế, nói: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”.
Quư vị chỉ có tâm hiện, chẳng có thức biến,
đấy là điều b́nh thường nhất. Nay chúng ta đối với tầng
cao nhất này, tức là đối với vọng tưởng
chẳng đoạn được, thật sự khó khăn!
Đoạn vọng tưởng, quư vị sẽ chứng đắc
địa vị Pháp Thân Bồ Tát, tối thiểu cũng
là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, chẳng có chuyện
ǵ nữa, thật sự là bất sanh, bất diệt! Chẳng
đạt được điều này, đối với
hai tầng dưới, chúng ta nỗ lực th́ sẽ có thể
làm được, tức là chúng ta chẳng phân biệt, chẳng
chấp trước!
Cái
tâm phân biệt, tâm chấp trước của tôi ít hơn,
nhẹ hơn người b́nh phàm. V́ thế, người khác
thường hỏi tôi: “Thưa pháp sư! Thầy dùng ǵ
để bảo dưỡng thân thể?” Tôi chẳng dùng
chi hết. Nếu nói là có, nói theo kiểu hiện thời,
sẽ là dùng ư niệm để bảo dưỡng thân thể.
Ư niệm là ǵ? Tâm thanh tịnh. Trong những năm qua, tôi đă
đề xuất “thuần tịnh,
thuần thiện”. Tâm địa phải thanh tịnh, phải
thiện lương, đấy là sự bảo dưỡng
tốt nhất. Tâm địa thanh tịnh, thiện
lương, chẳng bị bên ngoài quấy nhiễu, chẳng
bị bên ngoài nhiễm ô. Tâm địa từ bi, từ bi
có thể giải độc. Do vậy, bảo dưỡng
phải dùng chính ḿnh, chẳng cậy vào bên ngoài. Bất cứ
thứ ǵ bên ngoài, thưa cùng quư vị, đều có tác dụng
phụ! Khá nhiều người chẳng hiểu đạo
lư này. Do đó, có rất nhiều đồng tu từ Trung
Quốc mang những món đồ bổ đến biếu
tôi, tôi bảo họ: “Những món thuốc bổ này tôi
đều dùng làm quà tặng để biếu người khác, bản thân tôi chẳng cần mảy
may!” Thứ ǵ cũng đều không cần, chẳng có mảy
may tác dụng phụ nào!
H́nh
tướng nhằm biểu diễn. Ngạn ngữ có câu
nói: “Bồ Tát, Bồ Tát, niên
niên thập bát” (菩薩菩薩,年年十八, Bồ
Tát năm nào cũng là mười tám tuổi), thật vậy,
chẳng giả! Trong quá khứ, khi tôi giảng kinh, đă có
nói: “Tôi hai mươi sáu tuổi học Phật, tâm thái vĩnh
viễn giữ ở lứa tuổi hai mươi sáu. Nếu
quư vị mười bảy, mười tám tuổi học
Phật, vĩnh viễn giữ ở tuổi mười bảy,
mười tám. Sự thật này đă nghiễm nhiên
được các nhà khoa học dùng phương pháp khoa học
để chứng minh, khó có thay! Quư vị trông thấy
điều này mà chẳng tin tưởng, vậy là chẳng có cách nào cả! Bởi lẽ, ưu tư có
thể làm cho con người già khọm, con người chớ
nên có ưu lự, chớ nên có tham dục. Quư vị nói “ích kỷ, tiếng tăm, lợi
dưỡng, ngũ dục, lục trần, tham, sân, si, mạn”,
tôi thường nói: “Mười sáu chữ ấy đều
chớ nên có, hăy triệt để buông xuống, quư vị
sẽ đắc đại tự tại”. Tựa đề
kinh Vô Lượng Thọ đă nêu ra cương lănh tu học
mà quư vị sẽ đạt được, “thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác”. Quư vị nh́n vào tựa đề kinh, tựa đề
kinh là Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng
Thọ Trang Nghiêm, đó là nói về quả. Cái nhân là Thanh Tịnh
B́nh Đẳng Giác. Trong tựa đề kinh có nhân và có quả.
Chúng ta phải như thế nào
để đạt được tâm thanh tịnh? Buông xuống hết thảy chấp trước, tâm
sẽ thanh tịnh. Buông xuống hết thảy phân biệt,
tâm sẽ b́nh đẳng. Buông xuống khởi tâm động
niệm, sẽ giác, Tông Môn nói là “đại
triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh”. Đấy
chính là ư nghĩa được bao hàm trong bài kệ về
ao chuôm này. Quư vị thấy nước từ bên này đổ
vào, từ bên kia tuôn ra. “Đổ
vào” là tin, nhận, phụng hành. “Chảy ra ngoài” là v́ người khác diễn nói, nêu lên thí dụ này.
Do vậy, trong phần phát nguyện, đă nói đặc biệt
rơ ràng: “Ngữ nghiệp măn túc,
xảo năng diễn thuyết” (Ngữ
nghiệp trọn đủ, có thể khéo diễn nói). Chúng
ta có cần phải đọc rất nhiều sách hay không?
Có phải t́m rất nhiều tài liệu tham khảo hay không?
Chẳng cần thiết! T́m những thứ phiền phức
ấy để làm ǵ? Chúng ta hăy ngẫm xem, Thích Ca Mâu Ni Phật
đọc bao nhiêu sách? Ngài nói ra kinh giáo nhiều ngần ấy,
lưu truyền cho đến hiện tại, Ngài học từ
chỗ nào?
Lại
nh́n vào Lục Tổ Huệ Năng đại sư của
Thiền Tông Trung Hoa. Thuở tại thế, Ngài giảng
kinh, thuyết pháp hơn ba mươi năm. Ngài chẳng
biết chữ, nhưng bất luận hết thảy các
pháp thế gian và xuất thế gian, quư vị hỏi Ngài,
Ngài đều biết rơ. Trước nay, Ngài chưa từng
xem kinh giáo nhà Phật. Thiền sư Pháp Đạt niệm kinh Pháp
Hoa mười năm, chẳng khai ngộ! Cứ tưởng chính ḿnh ghê gớm lắm, đọc kinh
Pháp Hoa suốt mười năm cơ mà! Chúng ta ngẫm xem,
mười năm th́ đại khái sẽ là hơn ba ngàn bộ.
Mỗi ngày niệm một bộ, chẳng thiếu một
ngày nào. Mười năm là ba ngàn sáu trăm bộ. V́ thế,
khi gặp Lục Tổ, Sư đảnh lễ mà đầu
chẳng sát đất, Lục Tổ trông thấy, bèn bảo
Sư đứng dậy: “Nhất định là ông có điều
ǵ đáng để kiêu ngạo, ông hăy nói cho ta nghe!” Sư
liền nói ra: “Tôi đă niệm ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa”, nhưng
như thế nào? Sư chẳng hiểu ư nghĩa, hướng
về Lục Tổ thỉnh giáo. Lục Tổ bảo: “Ta
chưa được nghe bộ kinh ấy, ông hăy đọc
cho ta nghe”. Sư quá thuộc, đúng là thuộc kinh làu làu. Đọc
đến phẩm thứ hai, tức phẩm Phương
Tiện, Lục Tổ bảo: “Chẳng cần niệm nữa,
ta biết cả rồi!” Tổ giảng đại ư kinh
Pháp Hoa cho Sư nghe. Nghe xong, Sư khai ngộ, lại đảnh
lễ, dập đầu sát đất.
Từ
đâu mà Lục Tổ có năng lực ấy? Quư vị có
thể đáp được hay không? Trong kinh có nói: “Hết thảy chúng sanh đều
có trí huệ và đức tướng của Như Lai”,
từ đấy mà có. Quư vị vốn sẵn có, chẳng
phải là học từ bên ngoài. Cho đến khoa học kỹ
thuật trong hiện thời cũng vốn sẵn có trong
tự tánh, chẳng có ǵ là vật ở ngoài tâm. Chỉ cần
quư vị minh tâm kiến tánh, hễ người khác vừa
hỏi, câu giải đáp sẽ tự nhiên xuất hiện! Giống như trong thí nghiệm với nước,
chúng ta viết một chữ dán lên b́nh nước, nó lập
tức dấy lên phản ứng. Quan sát kết tinh của
nước dưới kính hiển vi, [sẽ thấy] thiện
niệm [khiến cho nước kết tinh] hết sức
tốt đẹp; do ác niệm bèn hết sức xấu xí,
lập tức phản ứng. Đấy là Tánh Đức
lưu lộ. Có người thường nói nước Đại
Bi rất linh nghiệm. Sáng sớm hôm nay, tôi bảo các
đồng tu, quư vị thấy cái b́nh nước này hiện
thời chúng ta dán chữ “A Di
Đà Phật”. Tôi nghĩ chúng ta in một trang chú Đại
Bi, dán Đại Bi Chú lên b́nh nước; nước ấy
sẽ là nước Đại Bi.
Tiến
sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật Bản đă làm
thí nghiệm. Ông ta dùng kinh Pháp Hoa, dùng Tâm Kinh để làm thí nghiệm. Quư vị
dùng nước Đại Bi, nếu quư vị phát tâm đại
từ đại bi, nước ấy sẽ linh nghiệm
khôn cùng! Hiệp Hội của chúng ta xướng suất
thực hiện, mọi nhà đều được b́nh
an. Quư vị mời người khác niệm chú Đại
Bi, trong ấy vẫn xen tạp vọng tưởng, hiệu
quả sẽ bị chiết khấu. Dán Đại Bi Chú vào
chén nước, chẳng có tí ti vọng tưởng nào, quư
vị hăy ngẫm xem, phân biệt, chấp trước, vọng
tưởng thảy đều chẳng có, công lực chẳng
biết là to hơn chúng ta bao nhiêu lần! Quư vị hăy chú tâm
suy tưởng, lời tôi nói có đúng hay không? Khi chúng ta dùng
nước Đại Bi, cùng là một chén nước như
nhau, hai người dùng sẽ đạt được hiệu
quả khác nhau. Sai biệt ở chỗ nào? Tâm đại
bi khác nhau! Nếu ta có mười phần tâm đại bi,
ta sẽ có mười phần cảm ứng. Quư vị chỉ
có năm phần tâm đại bi, sẽ cảm ứng chỉ
có năm phần. V́ thế, khi dùng nước ấy, phải
khởi tâm đại bi th́ mới hữu dụng!
Trước
kia, Chương Gia đại sư đă dạy tôi điều
này: Dùng tâm đại từ bi niệm chú Đại Bi sẽ
có cảm ứng. Nếu chẳng có tâm đại từ
bi, niệm chú Đại Bi sẽ có lợi, tốt hơn nói
lời nhăng nhít, nhưng hiệu quả và lợi ích chân
thật chẳng lớn! Nhất định phải là tâm
và miệng tương ứng th́ mới có thể sanh ra sự
cảm ứng đạo giao. Chúng tôi nghe thầy giáo huấn,
lúc đó, cảm nhận chẳng sâu đậm như thế.
Từ mấy lần sang thăm Nhật Bản, đến
thăm viếng pḥng thí nghiệm của tiến sĩ Giang
Bổn Thắng, mới hoảng nhiên đại ngộ: Đạo
lư này quá sâu! Do vậy, chúng ta là thiện tâm, các tế bào và
khí quan trên toàn thân sẽ đều thiện. V́ thế, đối
với chuyện tu hành, tôi thường nói, lại c̣n đă
nói bao nhiêu năm: Tu hành có công đức ǵ hay không? Cứ
nh́n vào khuôn mặt, nh́n vào thể chất của quư vị,
sẽ biết ngay. Điều này giống như ǵ? Tùy thuộc
tâm địa của quư vị là thiện hay bất thiện,
nh́n vào kết tinh của nước dưới kính hiển
vi sẽ thấy ngay. Thiện tâm th́ [nước kết
tinh] hết sức đẹp đẽ. Tâm bất thiện,
nó sẽ rất xấu xí. Cùng một đạo lư giống
hệt, thiện tâm th́ diện mạo của quư vị tốt
lành; thiện tâm th́ thân thể của quư vị tốt lành,
khỏe mạnh, già mà chẳng suy, vẫn hoạt bát y hệt.
Đạo lư ở chỗ này!
Hiện
thời, để tuyên truyền Phật giáo, nhất định
phải thực hiện từ tâm, bản thân chúng ta phải
thật sự làm, tướng mạo của chúng ta sẽ
biến đổi, thể chất biến đổi. Thân
thể vốn chẳng khỏe, nay biến thành rất khỏe.
Tướng mạo vốn xấu xí, nay tướng mạo
biến thành rất đẹp. Tướng chuyển theo tâm,
thể chất cũng chuyển theo tâm. Phật pháp nói: “Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng”. V́ thế, phải biểu diễn cho người
khác thấy, đặc biệt là trong thời đại hiện
tại này, quư vị nói suông, người ta chẳng tin
tưởng. Quư vị biểu diễn cho họ thấy,
chẳng cần nói, sau khi họ tiếp xúc quư vị, họ thấy
quư vị xác thực là khác hẳn, sẽ hướng về
quư vị thỉnh giáo. Sau đấy, quư vị lại nói rơ
cùng họ, họ sẽ có thể nghe lọt tai, chẳng cần
phải nói trước với họ. Trước tiên là bày
ra h́nh tướng cho họ thấy. Đấy là chúng ta thực
hiện từ cái tâm, thực hiện từ cá nhân ta, sau đấy mới
mở rộng, thực hiện từ gia đ́nh của chính
ḿnh!
Lợi
ích ấy quá to, nếu quư vị hiểu đạo lư này,
tiền thuốc thang trong một đời quư vị sẽ
giảm bớt. V́ sao? Chẳng ngă bệnh! Tiền thuốc
thang giảm bớt, chớ nên hưởng dùng, phải quyên
tặng cho bệnh viện, phải tặng cho rất nhiều
người mắc bệnh khổ nạn. Tôi nói: - Kẻ
chẳng hiểu đạo lư này, hằng ngày dấy vọng
tưởng, hằng ngày làm chuyện tham, sân, si, mạn, cho
nên họ bị bệnh tật, chẳng có cách nào chữa
trị! Chúng ta đă hiểu, hoàn toàn dùng Phật pháp, Phật
pháp là sử dụng tự tánh. Chúng ta dùng phương pháp
này, cho nên có thể tiết giảm món tiền ấy. Nhà của
quư vị b́nh an, người một nhà hạnh phúc, thật
sự khỏe mạnh, sống lâu. Từ một nhà quư vị,
sẽ ảnh hưởng đến dân tộc. Quư vị c̣n có thân thích, bạn bè, c̣n có láng giềng,
cḥm xóm, quư vị phải giúp đỡ họ. Mở rộng
như vậy, sẽ khiến cho cả nước
được lợi ích, toàn thể thế giới đều
được lợi ích. Điều này quan trọng hơn
bất cứ điều chi khác. V́ thế, quư vị nhất
định phải biết
biểu diễn, diễn chẳng v́
chính ḿnh, mà là diễn cho người khác xem. Họ đến
thỉnh giáo, quư vị sẽ giải thích cặn kẽ. Nếu
họ tin tưởng, có thể lư giải, có thể tin theo,
mà cũng có thể y giáo phụng hành, họ sẽ
được lợi ích.
Sáu
đĩa DVD Sơn Tây Tiểu Viện, lại c̣n có đĩa
V́ Sao Chẳng Thể Ăn Thịt Chúng Nó, tức là không ăn
thịt chúng sanh, dường như cũng gồm bốn đĩa,
tổng cộng là mười đĩa DVD, tôi nghe nói gần
đây trong nước làm rất nhiều. Bộ đĩa
Sơn Tây Tiểu Viện tường tŕnh có tới bốn
mươi người mắc bệnh chẳng trị
được, bệnh viện đă chấm dứt chữa
trị. Họ trở về, đọc tụng kinh Địa
Tạng, niệm Phật, nghiễm nhiên là chỉ trong mấy
tháng, lại đi kiểm tra, bệnh ung thư chẳng
c̣n nữa! Thân thể khôi phục rất b́nh thường,
làm công việc ǵ cũng đều được! Nhóm người ấy đông tới bốn mươi người. V́ thế, tôi nghe
nói bộ đĩa DVD ấy được lưu thông với
số lượng hết sức to lớn, rất nhiều
người mong cầu! Đấy là ǵ? Chẳng có ǵ khác, chính
là đạo lư như tôi vừa mới nói với quư vị:
“Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng”. V́ sao quư vị không nghĩ thiện, cứ
nghĩ ác?
V́
thế, tưởng Phật, tưởng Bồ Tát, đọc
kinh, niệm Phật chính là tưởng thù thắng nhất,
có thể chuyển biến các tế bào trên toàn thân quư vị
thành tốt đẹp nhất, thù thắng nhất, đẹp
đẽ nhất. Tế bào đă tốt đẹp, khí
quan bèn tốt đẹp, tức là b́nh thường, sẽ
chẳng có bệnh tật. Bệnh là ǵ? Bệnh là do vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước biến ra; nay
đối với vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, quư vị thảy đều buông xuống,
tưởng Phật, tưởng Bồ Tát, sẽ khác hẳn!
V́ thế, phải nên biết: Thân thể vật chất chẳng
có thiện hay ác, giống như nước chẳng có thiện
hay ác. Quư vị dùng thiện niệm đối với nó, hăy xem nó hiện bày sự kết
tinh. Dùng ác niệm đối với nó,
quư vị lại xem kết tinh do nó hiển lộ, khác hẳn! Quư
vị hiểu đạo lư này, nói thông thường, thân thể
con người có bảy mươi lăm phần trăm là
nước. Tôi nói không chỉ là nước, tất cả
các hiện tướng, tất cả vật chất, quư
vị phải hiểu Pháp Tánh và pháp tướng như
trong kinh Phật đă nói. Pháp Tánh ở chỗ nào? Pháp Tánh là
pháp tướng, pháp tướng là Pháp Tánh. Pháp Tánh giống
như vàng, pháp tướng giống như các món đồ,
vàng là đồ vật, đồ vật là vàng. Vàng ở
trong đồ vật, đồ vật ở trong vàng, chẳng
thể tách rời. Pháp Tánh chẳng có thiện hay ác, pháp
tướng cũng chẳng có thiện hay ác. Niệm của
quư vị là thiện, nó sẽ biến thành thiện. Niệm
của quư vị là ác, nó sẽ biến thành ác.
“Tối thiện” là thiện lẫn
ác đều chẳng có, đó là cảnh giới của Phật.
Có thiện, có ác chính là Đệ Nhị Nghĩa, là cảnh
giới từ hàng Bồ Tát trở xuống. Thứ nhất trong mười
pháp giới là Phật pháp giới; trong Phật pháp giới
chẳng có thiện hay ác, v́ sao? Họ chẳng có khởi
tâm động niệm. Khởi tâm động niệm là Bồ
Tát, chẳng phải là Phật. Khi c̣n chưa có chấp
trước, phân biệt, sẽ rất gần với Phật,
tức là Phật pháp giới trong mười pháp giới.
Có phân biệt, nhưng c̣n
chưa có chấp trước,
sẽ là Bồ Tát pháp giới, Duyên Giác pháp giới, và Thanh
Văn pháp giới. Tới khi có chấp trước, hễ
có chấp trước, sẽ biến thành thiên
pháp giới, Tu La pháp giới, nhân pháp giới trở xuống
đều có chấp trước. Chấp trước càng
nghiêm trọng, càng đọa xuống dưới, đạo
lư là như thế đó! Nếu quư vị tham cứu thấu triệt đạo lư này, sẽ thay đổi
dáng vẻ của chính ḿnh, thật sự biến đổi
chính ḿnh. Chúng ta thay đổi chính ḿnh, một nhà thay đổi,
xóm giềng làng nước thảy đều thay đổi.
Người trong thế gian hiện thời bận tâm nhất
là làm thế nào để hóa giải xung đột, xúc tiến
an định, ḥa b́nh, toàn bộ đều đạt được.
Chẳng phải là không làm được, thật sự có
thể làm được!
Do
vậy, xác thực là Phật pháp có thể giải quyết
vấn đề hiện thực của chúng ta, có thể
giải quyết vấn đề trong cuộc sống, đó
là “trong cửa nhà Phật, có cầu
ắt ứng”. Người thế gian trong hiện thời
cầu phát tài, cầu thăng quan, cầu tiếng tăm, lợi
dưỡng, chẳng có ǵ không cầu được! Chỉ
cần quư vị hiểu đạo lư này, hiểu
phương pháp, đúng lư, đúng pháp, chẳng có thứ ǵ không cầu được. Đúng là “trong cửa nhà Phật, có cầu
ắt ứng”. Những điều này đều do Chương
Gia đại sư truyền dạy khi tôi mới học Phật.
Tôi có thể tin tưởng thầy, y giáo phụng hành, những
thứ trong mạng [vốn]
chẳng có [vậy mà] đều
cầu được toàn bộ. Trong mạng chẳng có tài,
tuy đời này tôi chẳng có tiền bạc ǵ, nhưng cuộc sống hết sức tự tại,
ăn, mặc, ở, đi lại không có ǵ bị thiếu
khuyết. Đến tuổi già, nhất là mười mấy
năm gần đây, đúng là “có
cầu ắt ứng”. Nhưng tôi chưa hề cầu
v́ chính ḿnh, [toàn là] v́ chúng sanh khổ nạn mà cầu. Tuy
chướng duyên rất nhiều, nhưng chẳng có ǵ là
trở ngại to tát. Những sự thật này chính quư vị
đều đích thân trông thấy. [Đă là] chính
mắt trông thấy mà vẫn chẳng tin tưởng th́ chẳng có cách ǵ hết. Đích thân trông thấy
chính là Tác Chứng Chuyển trong Tam Chuyển Pháp Luân đấy
nhé!
V́
lẽ đó, các đồng tu trong đạo tràng của chúng
ta nhất định phải khéo tu học. Quư vị hiểu
rơ phương pháp và lư luận của kinh Hoa Nghiêm, trong
đời này sẽ sống hết sức hạnh phúc, hết
sức viên măn. Vấn đề ở chỗ quư vị có thật
sự nghe hiểu đạo lư này hay chăng? Những điều
đă giảng trước kia đều được lưu
trữ trong đĩa DVD, nay chúng tôi đă giảng hơn một
ngàn năm trăm tập, mỗi tập là hai tiếng
đồng hồ, đă giảng hơn ba ngàn giờ rồi!
Nay chúng ta đang trong hội thứ hai. Tôi giảng cặn kẽ hội
thứ nhất và hội thứ hai. Hội thứ ba là Thập
Trụ Bồ Tát, từ hội thứ ba trở đi, tôi
sẽ chẳng giảng cặn kẽ. Hiện thời, quư
vị thấy một giờ tôi giảng một bài kệ;
từ nay về sau, một giờ tôi sẽ giảng hai mươi
bài kệ. V́ sao? Nếu với tốc độ này, tôi dự
đoán bộ kinh này phải mất ba vạn giờ th́ mới
có thể giảng xong, thời gian quá dài! Nay tôi có ư nghĩ
rút gọn thành giảng bảy ngàn giờ sẽ viên măn. V́
thế, trong phần sau, tôi sẽ giảng rất mau.
Phần
trước phải giảng tỉ mỉ, v́ phần trước
là cơ sở, giống như xây nhà. Trước đó, phải
đắp nền. Nền nhất định phải kiên cố;
từ đó, sẽ xây dựng hết sức dễ dàng. Nếu
chẳng xây nền tảng đàng hoàng, quư vị có làm cả
đời vẫn chẳng thể thành công! V́ sao? Tín tâm chẳng
đủ! Tín tâm trọng yếu nhất. Kinh Kim Cang Bát Nhă
dạy: “Tín tâm thanh tịnh, tắc
sanh Thật Tướng” (Ḷng tin thanh tịnh sẽ sanh
ra Thật Tướng). Bán tín bán nghi, làm sao quư vị có thể
thành tựu cho nổi? Đối với hai hội trước,
chúng ta dựa vào đấy để kiến lập tín tâm,
kiến lập nguyện tâm, kiến lập năng lực
lư giải. Từ đấy trở đi, thuận buồm
xuôi gió, chẳng cần phải nói tỉ mỉ như thế nữa! V́ thế, nếu chư vị chẳng nghe phần
trước, chúng tôi có đĩa DVD, quư vị có thể
mượn từ Hiệp Hội để xem. Chớ nên
coi TV, chớ nên đọc báo chí! Nếu quư vị đọc
báo chí, xem tạp chí, chẳng bằng xem kinh Hoa Nghiêm. Nếu
quư vị coi TV, sẽ chẳng bằng nghe giảng kinh Hoa
Nghiêm. Nếu mỗi ngày quư vị có thể nghe từ bốn
tiếng đến sáu tiếng đồng hồ, một
năm sau sẽ thay đổi. Hai năm, ba năm, quư vị
sẽ nhập cảnh giới; đó gọi là “gặp duyên bất đồng”.
Hiện thời, cái duyên ấy ở chỗ này, chỉ cần
quư vị chịu làm, đó chính là đạo tràng chánh pháp,
hiếm có, khó gặp. Ở chỗ này, nếu các đồng
học hời hợt, sơ ư, ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ,
quư vị nói xem có đáng tiếc lắm hay chăng?
Chỉ
có khế nhập cảnh giới, trí huệ hiện tiền,
quư vị mới có thể giải đáp hết thảy các nghi nan tạp
chứng, mới biết làm người như thế nào,
làm việc như thế nào, tiếp xúc với người
khác như thế nào, qua lại với người khác như
thế nào đều
có thể đạt đến rốt
ráo viên măn! Bộ kinh này thù thắng khôn sánh, là pháp luân viên măn,
là căn bản pháp luân trong Đại Thừa Phật giáo.
Hết thảy các kinh đều là quyến thuộc của
Hoa Nghiêm. Nay chúng ta hạ thủ công phu nơi bộ kinh này,
học từ căn bản, thật sự nắm
được căn bản. Hy vọng các đồng học
hiểu rơ, chớ nên ngay trước mặt mà bỏ lỡ
đại cơ duyên này! Cơ duyên này chính là “một ngày hiếm có khó gặp
từ vô lượng kiếp đến nay”. A! Chúng tôi nói
bài kệ này đến đây. Nay đă hết thời gian
rồi, chúng ta nghỉ ngơi mấy phút.
***
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Xin xem bài kệ tụng thứ mười
ba:
(Kinh)
Nhược kiến cấp tỉnh, đương nguyện
chúng sanh, cụ túc biện tài, diễn nhất thiết
pháp.
(經)若見汲井。當願眾生。具足辯才。演一切法。
(Kinh:
Nếu thấy giếng nước, nguyện cho chúng sanh,
trọn đủ biện tài, diễn hết thảy pháp).
Vào
thời cổ, nước dùng trong cuộc sống hằng ngày của dân chúng, rất nhiều [trường hợp]
toàn là dùng nước giếng. Thời niên thiếu, tôi sống tại hương thôn, trong hương thôn hay trong thành thị
đều dùng nước giếng. Đại khái là một
con phố, một phường, hoặc một thôn trang, người
sống trong thôn trang đông hơn đôi chút, đều có
giếng nước. Thông thường là dùng nước từ
khe suối, hoặc nước sông. Rất gần chỗ
chúng tôi sống, khoảng chừng một dặm đường,
có một cái hồ nhỏ, trên thực tế, hồ
cũng rất lớn. V́ thế, nói đến nước
hồ, chúng tôi đều dùng nước ấy để uống.
Gánh một gánh nước khi tôi c̣n bé là chuyện thường
làm. Người bé sức cũng bé, dùng thùng nhỏ, cũng
có thể gánh hai thùng mỗi gánh. Khoảng cách là một dặm
đường, một dặm đường ước
chừng chưa đầy một cây số, [bởi lẽ], dặm của người Hoa chưa đến một
cây số. Trẻ nhỏ làm chuyện này.
Đối
với nước giếng, đương nhiên là có thùng,
thả vào trong giếng, có một sợi dây rất dài.
Đối với chữ “cấp
tỉnh”, Thanh Lương đại sư có chú giải
chữ Cấp:
(Sớ)
Cấp giả, thủ dă, biện tài diễn pháp, do cảnh
cấp thủy.
(疏)汲者,取也,辯才演法,猶綆汲水。
(Sớ: “Cấp” là kéo nước,
biện tài diễn pháp ví như dùng dây để kéo gàu lấy
nước).
“Cảnh” (綆) là sợi dây, tức là sợi dây thừng xỏ vào thùng đựng nước. Dùng sợi thừng ấy
thả thùng vào trong giếng để lấy nước,
có ư nghĩa này. V́ thế, dẫn phát đại nguyện tương
đồng, tức là biện tài vô ngại, “cụ túc” (具足) là vô ngại. “Cụ túc
biện tài”: Chư vị nhất định phải biết,
“biện tài” là đức dụng
của trí huệ. Có thể “diễn
nhất thiết pháp” (diễn hết thảy các pháp). Ở
đây, “diễn” (演) là biểu
diễn, thiên trọng diễn thuyết, thiên trọng vấn đáp. Hết thảy
chúng sanh gặp những vấn đề nghi nan đến
thỉnh giáo, quư vị đều có thể giải nói cho họ. Lại c̣n chắc chắn là quư vị có năng lực quan sát căn
cơ, v́ sao? Những vị được nói đến ở
đây toàn là Bồ Tát, từ Thất Tín trở lên. Công phu đoạn
chứng của địa vị Thất Tín giống như
A La Hán của Tiểu Thừa, nhưng trí huệ và đức
năng vượt trỗi A La Hán quá nhiều. A La Hán làm thế nào cũng chẳng thể sánh bằng được! Nói theo phương diện đoạn phiền năo th́ [Thất Tín Bồ Tát] giống
như A La Hán, đều là đoạn Kiến Tư phiền
năo.
Kinh
Hoa Nghiêm gọi Kiến Tư phiền năo là chấp trước.
V́ thế, đối với điều này, chúng tôi chẳng
ngại phiền mà nhắc nhở các đồng học, quyết
định chớ nên chấp trước. Quư vị thấy
trong thế gian này, tất cả các tranh chấp, tất cả
các rắc rối, phiền năo, hết thảy các hiểu lầm,
đối lập, xung đột, toàn bộ đều
sanh từ chấp trước. Chỉ cần buông xuống
chấp trước, những thứ ấy sẽ hoàn toàn
chẳng c̣n nữa! Buông xuống chấp trước, phiền
năo bị trừ khử quá nửa; cái c̣n sót
lại, nói theo Phật pháp, sẽ là vi tế phiền năo, chứ
những phiền năo thô nặng chẳng c̣n nữa, tức
là hai mươi sáu món phiền năo được nói trong Bách
Pháp Minh Môn Luận của Pháp Tướng Tông hoàn toàn chẳng
c̣n nữa! Căn Bản Phiền Năo gồm có sáu món là tham,
sân, si, mạn, nghi, và ác kiến. Tùy phiền năo[2]
có ba loại là Đại Tùy, Trung Tùy và Tiểu Tùy. Đại
Tùy gồm tám món, Trung Tùy gồm hai món (Vô Tàm, Vô Quư), Tiểu
Tùy gồm mười món. Hai mươi sáu món phiền
năo là Căn Bản Phiền Năo, toàn là do từ chấp
trước mà có. Chỉ cần buông xuống chấp
trước, sẽ chẳng có phiền năo!
Hai
mươi sáu món phiền năo ấy chính là cội nguồn
của lục đạo luân hồi. Chẳng có những
thứ ấy, sẽ chẳng có lục đạo! Chúng ta
chớ nên không biết [điều này]. Chẳng buông xuống
những thứ ấy, sẽ có lục đạo luân hồi.
Hễ buông xuống, lục đạo luân hồi chẳng
c̣n nữa, quư vị bèn vượt thoát lục đạo.
Trong pháp Đại Thừa, quư vị có quả vị là Bồ
Tát thuộc địa vị Thất Tín theo kinh Hoa Nghiêm, tức A La Hán. Bát Tín là Bích
Chi Phật. Cửu Tín là Bồ Tát. Thập Tín chính là Phật
trong mười pháp giới, là Tương Tự Tức Phật.
Chúng ta có thể làm được hay không? Nỗ lực một
chút th́ sẽ có thể, chẳng phải là không thể. Thành
Phật phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp,
cũng có người cần đến vô lượng kiếp,
đó là ǵ? Đó là h́nh dung buông xuống rất khó, kẻ b́nh
phàm chẳng buông xuống! Quư vị có thể buông xuống,
sẽ là anh hùng hào kiệt. V́ thế, chỗ chúng ta thờ
phụng Thích Ca Mâu Ni Phật được gọi là Đại
Hùng Bảo Điện. Các vị đến chùa miếu
đều thấy Đại Hùng Bảo Điện, trong
Đại Hùng Bảo Điện nhất định là thờ
Thích Ca Mâu Ni Phật, Đại Hùng là đại anh hùng.
Đại anh hùng khác người thường ở chỗ
nào? Người thường làm không được, người
ấy có thể làm được, bèn gọi là đại
anh hùng. Người thường chẳng làm được
chuyện ǵ? Chẳng thể buông xuống tập khí phiền
năo! Thích Ca Mâu Ni Phật làm được, như tôi vừa
mới nói, những chuyện này đều được
dạy trong kinh Hoa Nghiêm. Buông xuống chấp trước,
buông xuống phân biệt, buông xuống khởi tâm động
niệm, sẽ là đại anh hùng!
Thời
cổ có câu ngạn ngữ như sau: “Xuất gia phi tướng tướng chi sở
năng vi dă” (出家非將相之所能為也, xuất gia chẳng phải là chuyện
mà bậc tướng quân, tể tướng có thể làm
được). Tướng (將) là ǵ? Nguyên
soái. Tướng là (相) ǵ? Chính là Tổng Lư (總理, Thủ Tướng) của quốc gia trong hiện
thời. Làm Thủ Tướng c̣n dễ dàng, chứ buông
xuống chấp trước, phân biệt, vọng tưởng,
chẳng dễ dàng đâu nhé! Người xuất gia làm
chuyện ǵ? Buông những thứ ấy xuống! V́ thế,
tướng quân và tể tướng chẳng thể buông
xuống được, người xuất gia có thể buông
xuống, đó là chuyện tướng quân và tể tướng
chẳng thể làm, có ư nghĩa này. Nếu người xuất
gia mà ngay cả chuyện này chẳng buông xuống được, có ǵ khác
biệt hạng phàm phu tục tử thông thường đâu
nhỉ? Có khác ǵ đâu? Nói chung, chư vị phải hiểu
đạo lư này. Trong Phật môn có câu nói: “Thí chủ nhất lạp mễ, đại như
Tu Di sơn, kim sanh bất liễu đạo, phi mao đới
giác hoàn” (Một hạt gạo thí chủ, to như núi Tu Di,
đời này chẳng liễu đạo, mang lông, đội
sừng đền). Quư vị cứ tưởng là cơm trong chùa dễ
nuốt lắm ư! Trong các
buổi giảng, tôi cũng nói đến chuyện này rất
nhiều!
Người
xuất gia đi khất thực từng nhà xin được
bát cơm này, chẳng giống như kẻ ăn mày xin một
chén cơm bên ngoài! Khác nhau ở chỗ nào? Kẻ ăn mày
xin một chén cơm, người ta cho hắn là v́ thương
xót, tuyệt đối chẳng có bất cứ ḷng mong cầu
được báo đền. V́ thế, quư vị có thể
tiếp nhận, không sao hết? Người xuất gia tiếp
nhận cúng dường khác hẳn, người ta đối
với quư vị bằng cái tâm cung kính, chẳng phải là
thương xót, chẳng phải là thấy quư vị đáng
thương, chẳng phải là đồng t́nh với quư
vị. Họ có ḷng cung kính, có niềm mong mỏi được
báo đáp. Họ cúng dường quư vị là hy vọng quư
vị thành tựu đạo nghiệp, sẽ độ họ!
Họ có ḷng kỳ vọng to lớn đối với quư
vị như thế. Nếu quư vị chẳng thể thành
tựu đạo nghiệp, hưởng suông sự cúng
dường của họ, sẽ như thế nào? Trong tương
lai phải trả nợ. Việc này tuyệt đối chẳng
phải là các tổ sư đại đức nói ra để
dọa nạt chúng ta, chẳng phải vậy! Tổ
sư đại đức là đệ tử đức Phật,
đức Phật dạy đệ tử chẳng nói dối,
không nói đôi chiều, không nói thêu dệt, không ác khẩu,
lẽ nào tổ sư đại đức lại vọng ngữ cho được? Lẽ nào có thể
lừa dối chúng ta? Trong kinh Kim Cang, đức Phật
đă nói rất hay: “Như Lai
là bậc chân ngữ, thật ngữ, như ngữ”. “Chân”
là chẳng giả, “thật”
là chẳng hư dối, “như
ngữ” nghĩa là “hoàn toàn là chân tướng sự thật, chẳng thêm,
chẳng bớt”. Chớ nên coi thường, để sau này quả báo
hiện tiền, quư vị hối hận cũng chẳng kịp!
Trong
tám vạn bốn ngàn pháp môn, duyên của chúng ta thù thắng
khôn sánh, gặp gỡ ǵ vậy? Gặp đạo dễ hành!
Tịnh Độ Tông là đạo dễ hành. Đối với
các pháp môn khác, quư vị mong thành tựu trong một đời,
đúng là chẳng dễ dàng, v́ sao? Phải đoạn phiền
năo. Quư vị thấy kinh giáo đă nói, đoạn hết tám
mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới th́ mới
chứng quả Tu Đà Hoàn. Trong Đại Thừa, kinh Hoa
Nghiêm nói địa vị Sơ Tín Bồ Tát. Địa vị
Sơ Tín Bồ Tát đoạn tám mươi tám phẩm Kiến
Hoặc. Chúng ta có đoạn hay không? Nếu chúng ta đoạn
tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc, quư vị mới
là Bồ Tát thuộc địa vị Sơ Tín. Tuy là Sơ
Tín, cũng rất lỗi lạc. V́ sao? Quư vị dự vào
ḍng thánh nhân. Trong bài kệ thứ mười thuộc phần
trước, đă nói “đắc
dự pháp lưu”, tức là từ địa vị
Sơ Tín trở lên. Trong ba món Bất Thoái, quư vị chứng
đắc Vị Bất Thoái. Chỉ cần quư vị tiến
nhập, vĩnh viễn sẽ chẳng thoái chuyển. V́ thế,
vị ấy (người
đă đoạn Kiến Hoặc) là thánh nhân. Tuy chưa ra khỏi tam giới, sau khi đă
nhập (đă dự vào
ḍng thánh), sẽ được bảo đảm:
Khi đức Phật chưa xuất thế, sẽ bảy
lần qua lại cơi trời và nhân gian, chứng quả A La
Hán. Khi chẳng có Phật xuất thế, sẽ chứng Độc
Giác. Chẳng cần tới lần thứ tám, ở trong cơi
trời hay nhân gian, quyết định chẳng đọa
ba ác đạo.
Vậy
th́ nếu quư vị hỏi, vị ấy có cái nhân của
ba ác đạo hay chăng? Có chứ! V́ sao chẳng đọa?
Vị ấy vĩnh viễn chẳng làm chuyện tham, sân,
si, mạn. [V́ thế], chẳng có duyên! Tuy có nghiệp nhân của
ba ác đạo, chẳng có duyên; nhân mà chẳng có duyên, chẳng
thể dấy lên hiện hành, chẳng thể kết quả,
đạo lư ở chỗ này! Nói cách khác, từ Sơ Quả
trở lên, tâm địa thiện lương, “thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác” chưa trọn hết, vị ấy được
chút phần. Nếu nh́n theo kinh Hoa Nghiêm, có tất cả năm
mươi mốt giai vị Bồ Tát, cộng thêm địa
vị cuối cùng là địa vị Diệu Giác, thành năm
mươi hai địa vị. Chúng ta nói là “thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác” cạn hay sâu cũng chia thành năm mươi hai
đẳng cấp. Sơ Tín Bồ Tát chứng đắc đẳng
cấp thứ nhất, Ngài có “thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác”, chẳng phải là không có, [tuy có,
nhưng] rất cạn. Tuy rất cạn, hữu dụng!
Hữu dụng ở chỗ nào? Trọn chẳng đọa
vào ba ác đạo, hữu dụng ở chỗ này!
Nếu
chẳng có điểm này, quư vị khởi tâm động
niệm vẫn là tham, sân, si, mạn, đều là ích kỷ,
đều là thị phi, nhân ngă, vậy là chẳng có cách nào
hết! Đấy chính là tam ác đạo hiện hành, nhất
định sẽ dẫn khởi những chủng tử
tập khí của ba ác đạo đă tạo từ thuở
trước trong A Lại Da Thức. Trong tương lai, quả
báo sẽ là ba ác đạo, cảnh giới hiện tiền!
V́ thế, chuyện này chẳng phải do Diêm Vương quyết
định, mà cũng chẳng do Thượng Đế
quyết định, lại càng chẳng phải là ư nghĩ
của Phật, Bồ Tát. Tự làm tự chịu! Do thiện
cảm bèn thiện ứng, ác cảm bèn ác ứng. Nói chung là
do khởi tâm động niệm, ngôn ngữ và tạo tác của
mỗi cá nhân. Trong ấy, chắc chắn chẳng có mảy
may mê tín, tuyệt đối chẳng phải là nói: “Hễ tin
th́ có, chẳng tin bèn không. Chuyện này nói chung là những lời
hư giả do Thích Ca Mâu Ni Phật, và Phật, Bồ Tát khuyên [chúng sanh] làm lành [mà thốt ra]”. [Nếu nghĩ như vậy],
quư vị đă lầm lẫn đặc biệt to tát. Quư
vị đă để vuột mất cơ hội tốt
đẹp ngần ấy ở ngay trước mặt!
Đấy là cơ hội ǵ? Vĩnh viễn thoát khỏi luân
hồi trong một đời này. Trong luân hồi quá khổ
sở, từ vô lượng kiếp đến nay sanh tử
lưu chuyển, khổ sở chẳng thể nói nổi!
Chẳng thoát ra được, đời này gặp gỡ
Phật pháp, nên mới có cơ hội này.
Do
vậy, tôi thường nói giáo dục Phật pháp là nền
giáo dục thù thắng nhất trong bốn loại giáo dục
của thế gian này! Tiên sinh Phương Đông Mỹ đă
bảo tôi lời ấy. Cụ đă nói
với tôi một câu: “Học Phật là sự hưởng
thụ cao nhất trong đời người”. Các đồng
học chúng ta đông đảo như thế ở cùng một chỗ, nay quư vị
đều học Phật, quư vị có thật sự hưởng
được sự hưởng thụ cao nhất trong
đời người hay chăng? Nếu quư vị hỏi
tôi, tôi sẽ trả lời, tôi hưởng thụ
được, v́ thế, tôi cảm tạ thầy. Trong hết
thảy mọi chốn, hết thảy mọi lúc, tôi niệm
niệm chẳng ĺa thầy, cảm tạ; niệm niệm
chẳng ĺa khỏi hộ pháp, cảm tạ! Đời này,
tôi sống trong thế giới cảm ơn, sống trong cảnh
giới giáo huấn của Phật, Bồ Tát, chẳng có
ngày nào không đọc kinh, chẳng có ngày nào không giảng
kinh. Từ lúc xuất gia cho đến hiện tại là bốn
mươi tám năm, sang năm sẽ giống như Thích
Ca Mâu Ni Phật, bốn mươi chín năm, pháp hỷ
sung măn, thường sanh tâm hoan hỷ.
Trong
thế giới này có bị thử thách hay không? Có chứ!
So với quư vị, tôi bị thử thách rất nhiều,
và cũng rất nghiêm trọng. Tôi có thể hứng chịu,
quư vị chẳng thể hứng chịu. Quư vị bị
thử thách nho nhỏ đôi chút bèn nguội lạnh tấm
ḷng, liền ngă ḷng. Đấy là ǵ? Quư vị chưa hề
nếm pháp vị của Phật pháp. Nếu quư vị
đă nếm được, dẫu thử thách to cách mấy,
vẫn chẳng ngă ḷng. Mọi người đều đă
từng niệm kinh Kim Cang. Trong kinh Kim Cang có một câu chuyện,
tức là chuyện vua Ca Lợi cắt chặt thân thể.
Kinh Kim Cang chỉ nhắc tới câu chuyện này đôi chút,
nhưng trong rất nhiều bản chú giải, đă chú giải
rất cặn kẽ. Câu chuyện cặn kẽ xuất phát
từ nơi đâu? Trong kinh Đại Niết Bàn đă nói
rất tỉ mỉ, đó là Nhẫn Nhục Ba La Mật đă
đạt tới cảnh giới viên măn rốt ráo.
Bồ
Tát, Nhẫn Nhục tiên nhân là Bồ Tát, tu Nhẫn Nhục
Ba La Mật, là một người tốt, thật sự là
thuần tịnh, thuần thiện, đối với hết
thảy chúng sanh, đối với hết thảy mọi người,
chắc chắn chẳng có mảy may ác ư, bị vua Ca Lợi
hiểu lầm. Vua Ca Lợi đem Ngài xử tử lăng
tŕ. “Lăng tŕ” (凌遲) có nghĩa là ǵ? Dùng dao lóc từng miếng thịt
trên người, khiến cho Ngài chết như vậy. Chịu
tội ấy, chịu sự vũ nhục to lớn ngần
ấy. Nhưng Nhẫn Nhục tiên nhân chẳng có một tí
sân khuể nào, đương nhiên càng chẳng báo thù, lại
c̣n phát nguyện: “Trong
tương lai, ta thành Phật, sẽ độ
ngươi đầu tiên!” Nhẫn Nhục tiên nhân là tiền
thân của Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật,
xác thực người được Ngài độ đầu
tiên là vua Ca Lợi. Vua Ca Lợi chính là tôn giả Kiều Trần
Như trong đời Thích Ca Mâu Ni Phật. Bồ Tát nói bèn
giữ lời!
Đó
thật sự gọi là “khó nhẫn
mà có thể nhẫn”, chúng ta thấm vào đâu? Nay chúng ta
gặp phải bất cứ sự vũ nhục, thương
tổn nào, vẫn chẳng đến mức như thời
Nhẫn Nhục tiên nhân, thua Ngài xa lắc! Chẳng thể
nhẫn th́ quư vị tu ǵ vậy? Khóa tŕnh tu học chủ
yếu trong giáo pháp Đại Thừa là Bố Thí, Tŕ Giới,
Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Bát Nhă, đó
là “tu hành”. Đại chúng ở
chung với nhau, cần phải tuân thủ quy củ là Lục
Ḥa Kính. Chúng ta có làm được Lục Độ và Lục
Ḥa Kính hay không? Mỗi ngày phải ghim điều này trong tâm.
Nếu ghim Lục Ḥa, Lục Độ trong tâm, quư vị sẽ
là tâm Bồ Tát. Niệm nào cũng mong thực hành Lục Ḥa
và Lục Độ, quư vị đang tu Bồ Tát hạnh. [Vận dụng] Bồ Tát tâm và Bồ Tát hạnh để niệm Phật,
quư vị nói xem có thể văng sanh hay không? Nắm chắc văng
sanh, chắc chắn là nắm chắc!
Nay
chúng ta thấy bài kệ này, hiện thời, chẳng dễ
thấy giếng nước cho lắm. Hiện nay, mọi
người dùng nước máy, nhưng tại nông thôn vẫn
có. Chúng tôi cũng dự pḥng nước máy bị cúp, tức cúp
điện, cắt nước, làm như thế nào? V́ thế,
đạo tràng của chúng tôi tại Úc có đào giếng sâu,
trong đạo tràng có một cái giếng sâu. Tôi sống ở
vùng quê, sân ở nhà quê rất rộng, nếu tính theo Mẫu
(畝) của
Trung Hoa, sẽ là sân rộng một trăm bảy
mươi mẫu. Hương Cảng tính theo Xích (呎)[3],
nói theo Xích th́ đại khái là chúng tôi có hơn một trăm
vạn Xích. Một mẫu Anh (Acre) là bốn vạn Xích. Chúng
tôi có hai mươi tám mẫu Anh, tức là hai mươi tám
lần bốn vạn Xích. V́ thế, rất lớn, chúng tôi
đào hai cái giếng sâu. Rất nhiều đồng tu biết,
châu Úc thiếu nước; trong mùa khan hiếm nước, hoa, cỏ, cây cối trong sân của chúng
tôi rất nhiều, nếu dùng nước máy để
tưới sẽ là phạm pháp. Khi thiếu nước th́
nước máy chỉ có thể dùng để uống, chẳng thể dùng
để tưới hoa, tưới cây, chẳng thể được!
Chúng tôi dùng nước giếng sẽ chẳng có vấn
đề ǵ, chẳng dùng nước máy!
Nhưng
hiện thời giếng nước là giếng sâu, chúng tôi
kéo nước đương nhiên là chẳng thể dùng dây
thừng, bèn dùng chong chóng, thứ này cũng hết sức tốt.
Chúng tôi chẳng dùng ao chứa nước, mà dùng thùng chứa
nước rất lớn. Loại thùng chứa nước
một vạn gia-luân (gallons). H́nh như hiện thời chúng
tôi đă làm tất cả mười cái. Nói cách khác, thông
thường chúng tôi chứa mười vạn gia-luân
nước, cung cấp quanh năm cho ba trăm người
chắc chắn chẳng có vấn đề. Nguồn
nước rất đầy đủ; đấy là dùng nước giếng.
Những cái giếng cổ xưa trước kia, ở vùng
nông thôn Trung Hoa hăy c̣n. Năm ngoái tôi có dịp đến thăm
miền Nam tỉnh An Huy, đến thăm khu văn hóa Huy
Châu, họ c̣n giữ lại mười mấy thôn trang cũ
đă có từ ba trăm năm trước. Quư vị đến
đó sẽ thấy trong những thôn trang ấy đều
có giếng. Quư vị có thể thấy được cảnh
quan ấy.
Pháp
ấy phối ứng với giáo pháp Đại Thừa sẽ
là “cụ túc biện tài, diễn
nhất thiết pháp” (trọn đủ biện tài, diễn
hết thảy các pháp). “Biện tài” như tôi
vừa nói chính là trí huệ Bát Nhă vốn sẵn có trong tự
tánh. Giáo pháp Đại Thừa nói Căn Bản Trí và Hậu
Đắc Trí. Căn Bản Trí c̣n gọi là Thật Trí, chân
thật. Hậu Đắc Trí c̣n gọi là Quyền Trí, phương
tiện quyền xảo. Biện tài là phương tiện
quyền xảo. Chẳng có Căn Bản Trí, há có Hậu
Đắc Trí? Giống như một cội cây to, chẳng
có cội rễ, lấy đâu ra cành, lá, hoa, quả? Cành, lá,
hoa, quả là Hậu Đắc Trí; v́ thế, nó có căn cội.
Căn Bản Trí là như thế nào? Kinh Bát Nhă nói rất khá,
“Bát Nhă vô tri, không ǵ chẳng biết”.
Vô tri là Căn Bản Trí, là Thật Trí; “không ǵ chẳng biết” là Hậu Đắc Trí,
là Quyền Trí. “Cụ túc biện
tài” ở chỗ này là Hậu Đắc Trí.
Ở
chỗ này, quư vị phải hiểu, trí huệ chân thật
sanh từ cái tâm thanh tịnh, chẳng phải học từ
bên ngoài. Chúng ta đọc Đàn Kinh, Đàn Kinh có rất
nhiều khải thị. Quư vị thấy Huệ Năng đại
sư gặp Ngũ Tổ vào thuở ấy, chư vị
phải biết, Ngài hai mươi bốn tuổi. Gặp
Ngũ Tổ, lần đầu tiên gặp mặt, Sư bèn
thưa tŕnh với Ngũ Tổ, Ngài nói: “Trong tâm đệ tử thường sanh trí huệ”.
Đó là ǵ? Căn Bản Trí. V́ sao biết thường sanh
trí huệ? Trong cuộc sống hằng ngày, trong công việc,
trong xử sự, đăi người, tiếp vật, chính
ḿnh sẽ biết, chẳng có sai lầm. Hễ có sai lầm,
tức là không có trí huệ. Chẳng có sai lầm th́ phải
là trí huệ. Kinh Kim Cang nói: “Tín
tâm thanh tịnh, ắt sanh Thật Tướng”. Thật
Tướng là Căn Bản Trí. Căn Bản Trí là ǵ? Căn
Bản Trí là tâm thanh tịnh. Do vậy, nguyên tắc chỉ
đạo tu hành cao nhất trong kinh Vô Lượng Thọ
chính là năm chữ “thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác”. Thanh tịnh là Căn Bản Trí; b́nh
đẳng và giác là Hậu Đắc Trí, là thiện xảo
phương tiện.
Tuy
giáo pháp Đại Thừa gồm tám vạn bốn ngàn pháp
môn, đến cuối cùng, thật sự nhập môn là ba môn.
Ba môn ấy chính là thanh tịnh, b́nh đẳng, giác. Ở Trung
Hoa, tám tông phái Đại Thừa [đều gộp trong] giác,
chánh, tịnh, Tam Quy Y nhằm nói đến chuyện này. Tánh
Tông, Thiền Tông, đến cuối cùng nhập môn là Giác môn,
đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh,
cũng có nghĩa là sáu căn đối trước cảnh
giới sáu trần, chẳng khởi tâm, không động niệm.
Chư vị phải biết: Chẳng khởi tâm, không động
niệm là đại triệt đại ngộ, là minh tâm
kiến tánh. Giáo Hạ đạt đến cảnh giới
này, sẽ chẳng gọi là Giác, mà gọi là chánh tri chánh kiến,
đại khai viên giải. Do chánh tri chánh kiến, cho nên
Giáo Hạ đi vào từ cửa Chánh. Quư vị thấy Chánh
môn và Giác môn có ǵ phân biệt? Chẳng có phân biệt! Tịnh
Độ Tông và Mật Tông, hai tông phái này từ Tịnh môn
mà vào, là tâm thanh tịnh, đúng là khá thuận tiện, kể
cả Mật Tông. Từ Giác môn th́ xác thực phải là bậc
thượng thượng căn. Đối tượng
được tiếp dẫn bởi Lục Tổ là bậc
thượng thượng căn. Do vậy, quư vị thấy
trong một đời Ngài, hơn ba mươi năm truyền
pháp, độ sanh, có bốn mươi ba người thật
sự minh tâm kiến tánh. Những người ấy Đàn
Kinh đều có chép tên, bốn mươi ba vị đấy
nhé! Chẳng dễ dàng, bậc thượng thượng căn
đấy!
Quư
vị chẳng phải là bậc thượng thượng
căn, chẳng có cách nào hết, chẳng thể tiếp
nhận. Cũng có nghĩa là chẳng có cách nào đoạn
hết khởi tâm động niệm! Quư vị
có thể đoạn chấp trước, có thể đoạn
phân biệt, tức là quư vị có thể đoạn Kiến
Tư, có thể đoạn Trần Sa phiền năo, chẳng
đoạn Vô Minh. Vô minh là khởi tâm động niệm, quá khó khăn, chẳng
phải là kẻ b́nh phàm mà ḥng làm được. Giáo Hạ
th́ kẻ căn tánh trung thượng đều được,
chẳng có vấn đề! Họ tiến dần dần,
từ cạn đến sâu, chẳng phải là đốn
ngộ, giống như đi học, từ lớp Một,
dần dần tiến lên lớp Hai. Thiền Tông chẳng
phải vậy, Thiền Tông muốn một bước lên
trời, chẳng có tầng cấp. Tiến cao hơn từng
bước cũng rất khó, phải tốn thời gian rất
dài; v́ thế, cũng là chuyện khó khăn. Tịnh Tông chẳng
phải là thượng thượng căn, mà cũng chẳng
phải là trung thượng căn, hạ hạ căn vẫn
có thể tu, chẳng cần đọc rất nhiều
kinh điển. Thậm chí nói “chỉ cần
một câu Phật hiệu, quư vị cứ thật thà niệm,
niệm cho đến khi cái tâm thanh tịnh th́ sẽ thành
công”.
Chư
vị phải biết bí quyết này. Chúng ta niệm Phật
nhằm mục đích nào? Mục đích là mong niệm sao
cho đạt được cái tâm thanh tịnh. Nói cách khác,
bất luận phiền năo ǵ hay chuyện ǵ, quư vị hễ gặp
phải bèn “Nam-mô A Di Đà Phật”,
đổi ư niệm ấy thành A Di Đà Phật, đó gọi
là niệm Phật. Vừa niệm Phật, lại c̣n vừa dấy vọng tưởng, không được
rồi! Đấy chẳng phải là niệm Phật, giả
trất, chẳng thật, sẽ như cổ đại
đức bảo: “Miệng
niệm Di Đà tâm tán loạn, gào toác cổ họng vẫn
uổng công”. Thật sự biết
niệm Phật, ví như gặp chuyện vừa ư, trong tâm
rất vui sướng, bèn “nam-mô
A Di Đà Phật” để giằn sự vui sướng
xuống. V́ sao? Mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, ham muốn đều là phiền năo, được gọi là thất
t́nh, ngũ dục. Sau khi những thứ ấy sanh khởi,
sẽ đều là chướng ngại, hăy dùng “A Di Đà Phật” để
giằn xuống. Chuyện chẳng vừa ḷng, chẳng như ư, tâm sân hận dấy lên, hăy “A Di Đà Phật” ḥng giằn xuống cái tâm sân khuể của ta. Đó gọi là chế phục
phiền năo. Dùng một câu A Di Đà Phật này, thảy đều quy về
A Di Đà Phật, thất t́nh, ngũ dục, tham, sân, si, mạn,
thị phi, nhân ngă, toàn bộ quy vào A Di Đà Phật, sẽ
dẹp yên. Tịnh Tông dùng phương pháp này. Nếu quư vị
niệm Phật như vậy th́ sẽ có hiệu quả.
Người
khác hủy báng ta, người khác chửi ta, ta nghe thấy,
rất tức giận. “Nam-mô A
Di Đà Phật”, sự cáu kỉnh tiêu mất, lại giằn ép
xuống. Đó gọi là niệm Phật. Cảnh giới
hiện tiền, chuyển theo cảnh giới, chẳng thể
khống chế tí nào, quư vị hoàn toàn chẳng có công phu niệm
Phật. Công phu thành phiến là ǵ? Công phu thành phiến là
công phu đắc lực, công phu có thể dẹp yên vọng
tưởng và tập khí của quư vị. Chẳng đoạn
vọng tưởng, tập khí, nhưng câu Phật hiệu
hữu dụng, bất luận ư niệm nào dấy lên, thiện
niệm hay ác niệm, một câu Phật hiệu thảy
đều dẹp yên. Đó gọi là niệm Phật. Niệm
lâu dài, trong tâm có Phật. Trong tâm đă có Phật, khi cảnh
giới hiện tiền, tự nhiên sẽ có thể khống
chế. Tuy có lúc trong tâm rất bực bội, trong tâm dấy
lên một trận như thế đó, nhưng thời gian rất ngắn,
gần như mấy giây là yên, chẳng có nữa, sẽ tự
nhiên hóa giải. Đó gọi là công phu đắc lực. Nếu
quư vị vẫn thuận theo phiền năo dấy lên hiện
hành, khởi tác dụng, công phu của quư vị chẳng đắc
lực. Chư vị phải ghi nhớ, không đắc lực
sẽ chẳng thể văng sanh, quan hệ quá lớn! Đắc
lực th́ mới có thể văng sanh.
Phải
như thế nào th́ mới có thể đắc lực? Chẳng
cần so đo cùng kẻ khác, chuyện ǵ cũng xem nhạt
nhẽo đôi chút. Nếu thật sự chẳng có cách nào,
hăy dùng kinh Kim Cang để giúp quư vị, hăy nghĩ kinh Kim
Cang đă dạy: “Phàm những
ǵ có h́nh tướng đều
là hư vọng. Hết thảy pháp hữu vi, như mộng,
huyễn, bọt, bóng”. Quư vị c̣n có ǵ so đo nữa?
V́ thế, người khác tán thán quư vị, cũng gật
đầu, nói chung là phải cám ơn người ta. Có tâm
hoan hỷ hay chăng? Chẳng có! Kẻ hủy báng ta, cũng
gật đầu, giữ sự lễ độ đối
với người ta, có sân khuể hay không? Chẳng có. Đấy
là phiền năo nghiêm trọng nhất, một là tâm hoan hỷ,
hai là tâm sân khuể. Chẳng thuận theo ư ḿnh, tâm sân khuể
liền dấy lên. Khi hợp ư ḿnh, tâm tham ái bèn dấy lên. Phải
biết tham ái và sân khuể đều là phiền năo, tham ái
là ngạ quỷ đạo, sân khuể là địa ngục
đạo. Quư vị tùy thuận cảnh giới ấy mà phát tác,
như vậy là quư vị đi vào địa ngục đạo,
hoặc đi vào ngạ quỷ đạo. Trong tương
lai, sau khi quư vị đă chết, khẳng định sẽ
biến thành quỷ, hoặc
biến thành [thân trong] địa ngục,
sai lầm quá to!
Hiện
thời, A Di Đà Phật cứu chúng ta, cảnh giới ấy
hiện tiền, thảy đều quy vào A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật, ba thiện đạo chẳng có, mà ba ác
đạo cũng chẳng có, A Di Đà Phật ở Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Do đó, quư vị
cảm ứng chắc chắn là trong thế giới Cực
Lạc. Công phu niệm Phật như vậy mới đắc
lực, niệm Phật như vậy mới là thật sự
niệm Phật. Quyết chẳng phải là suốt ngày từ sáng đến tối lần tràng hạt, “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”, [thế mà]
chuyện chẳng như ư bé tí tẹo bèn nổi cáu, đấy
chẳng phải là người niệm Phật. Ca tụng
quư vị mấy câu, quư vị rất khoái chí, đấy chẳng
phải là người niệm Phật, mà là hạng
người nào vậy? Kết duyên với A Di Đà Phật,
đă gieo chủng tử A Di Đà Phật trong A Lại Da
Thức, đời này chẳng khởi tác dụng. Nói cách
khác, đáng luân hồi như thế nào, quư vị vẫn
phải luân hồi như thế ấy! Quư vị có cái tâm luân
hồi, niệm Phật vẫn là chuyện luân hồi. V́
thế, hết thảy các pháp phải khởi sự làm từ
tâm. Câu nói ấy là đúng!
Quư
vị dùng cái tâm Bồ Đề, bất luận làm chuyện
ǵ cũng đều là Bồ Tát nghiệp, tuyệt đối
chẳng phải là sự nghiệp tam đồ lục
đạo, mà là sự nghiệp Bồ
Tát. Quư vị dùng cái tâm Tứ Đế, Thập Nhị Nhân
Duyên, cuộc sống, công việc, xử sự đăi
người, tiếp vật, nghiệp ấy sẽ là nghiệp
Tiểu Thừa, là sự nghiệp tu tập của hàng Tiểu
Thừa. V́ thế, cái tâm như thế nào, sẽ cảm quả
báo như thế ấy. Đó là Dẫn Nghiệp. Ngôn ngữ
và tạo tác, đó là chuyện đă làm xong; cái cảm được từ
chuyện ấy chính là Măn Nghiệp.
Hai thứ nghiệp lực rành rành. Ta dùng Bồ Đề
tâm, tôi đă nói rất rơ ràng Bồ Đề tâm cùng chư vị, [nó chính là] tâm
chân thành, tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm chánh giác, tâm
từ bi, niệm nào cũng đều chẳng bỏ
mười chữ ấy. Niệm nào cũng tương ứng
với mười chữ ấy, quư vị là Bồ Đề
tâm. Bồ Đề tâm là Phật tâm. Như vậy những
chuyện quư vị đă làm, thích bố thí, thích tŕ giới,
thích tŕ giới là thích làm người tốt. Tŕ giới là
tiêu chuẩn của người tốt. Do vậy, quư vị
ưa thích Đệ Tử Quy, ưa thích Thập Thiện
Nghiệp Đạo, ưa thích Tam Quy, Ngũ Giới, người
xuất gia ưa thích Sa Di Luật Nghi. Nếu quư vị sanh
tâm hoan hỷ, sẽ học thấy thú vị, mới có thể
vui thú, càng học càng hoan hỷ, pháp hỷ sung măn. Đó gọi
là “học nhi thời tập
chi, bất diệc duyệt hồ?” (Học rồi thường xuyên tập luyện, cũng
chẳng vui sao?)
Nếu
chẳng đạt được pháp hỷ từ nơi
đây, có ai muốn học? Càng học càng hoan hỷ, chắc
chắn sẽ chẳng muốn bỏ, quư vị sẽ nhập
cảnh giới. Đấy là cảnh giới ǵ? Mới nhập
Phật môn bèn hoan hỷ dường ấy, sau đấy
mới từng bước tiến cao hơn. Giống như
chúng ta kéo nước từ giếng lên, nước giếng
từ từ được đưa ra ngoài, từng
bước nâng cao dần. Chính ḿnh đă tu thành công, có
thể giúp đỡ người khác, giúp người khác
cũng chẳng cần tác ư, tức là hễ có ư nghĩ “ta
giúp đỡ người khác”, tức là quư vị c̣n chấp trước,
c̣n phân biệt, [sự giúp đỡ ấy là] tự nhiên!
Đức Phật dạy chúng ta điều này, Phổ Hiền
Bồ Tát nói “hằng thuận
chúng sanh, tùy hỷ công đức”. Tùy hỷ là tùy duyên, chẳng
phan duyên. “Phan duyên” (攀緣) là như nay chúng ta nói, có kế hoạch, có mục
đích, có các bước tiến hành, gọi chung là phan
duyên. Phan duyên sẽ rớt vào phân biệt, chấp trước;
tùy duyên th́ chẳng có [phân biệt, chấp trước]. Tùy
duyên mới vui sướng. Tùy duyên mới tự tại,
chẳng bị bó buộc. Khi có duyên, chắc chắn chẳng thể
bỏ qua, phải rất nghiêm túc nỗ lực thực hiện.
Khi chẳng có duyên, sẽ chẳng miễn cưỡng mảy
may!
Chúng
ta tùy duyên như thế nào? Điều tùy duyên thứ nhất là chính bản
thân chúng ta làm được giáo huấn của đức
Phật, biến giáo huấn của đức Phật thành
cuộc sống thông thường của chúng ta. Thân thể
ta tùy duyên, thân tâm ta tùy duyên, chẳng cần bận tâm đến
người khác [có hành theo giáo huấn của đức Phật hay
không], ta phải y giáo phụng hành. Quư vị làm được
rất tốt, chắc chắn sẽ cảm động người
trong nhà, người nhà quư vị đều tôn kính, đều
tán thán quư vị. Đương nhiên là họ sẽ làm theo
quư vị, bất tri bất giác, hữu ư hay vô t́nh họ bị
cuốn hút. Quư vị thuyết pháp cho người nhà, chỉ
cần mở miệng sẽ đều là giảng kinh, thuyết pháp, ái ngữ,
lợi hành, Tứ Nhiếp Pháp đấy nhé! Bố
thí là Pháp Bố Thí, pháp ǵ thế? Chính ḿnh làm được,
sự biểu diễn ấy là bố thí, tôi nêu gương
cho quư vị thấy;
đó là bố thí. Các vị chẳng
liễu giải, tôi giảng giải cho quư vị, đấy
là bố thí; dùng thân thể để làm ra, đó là nội
tài bố thí. Quư vị thấy Tứ Nhiếp Pháp áp dụng
vào gia đ́nh, bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng
sự, gia đ́nh của quư vị rất tốt đẹp!
Gia đ́nh của quư vị được chư Phật
tán thán, long thiên thiện thần gia hộ. Lợi ích chỉ
có chư Phật có thể hiểu rơ, Bồ Tát tán thán chẳng
trọn hết. Thật đấy, v́ sao chẳng làm? A! Hôm
nay thời gian đă hết rồi! Chúng tôi giảng bài kệ
này tới đây!
Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 37 hết
[1] Pháp sư Thánh Hoài và Sướng Hoài là hai vị khác
nhau.
[2] Tùy phiền
năo (Upakleśa):
1. Tiểu Tùy:
Phẫn (phẫn nộ), hận (căm hận), năo (bứt
rứt, lo lắng), phú (giấu diếm), cuống (dối
trá), siểm (bợ đỡ, nịnh hót), kiêu (kiêu
căng), hại (bức hại), tật (ghen ghét), xan (keo kiệt).
2. Trung Tùy: Vô
Tàm (không thẹn), Vô Quư (không xấu hổ).
3. Đại
Tùy: Bất tín, giải đăi, hôn trầm, phóng dật, thất
niệm, tán loạn và oai tri (hiểu biết sai lệch).
[3] Xích
chính là chữ người Hoa dùng để dịch chữ
Foot trong tiếng Anh. Khi ḥa thượng nói một mẫu
Anh là bốn vạn xích, Ngài có ư nói một phương xích
(square foot).