Đại Phương Quảng
Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần
38
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng Mười
Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh
Tiến
Tập 1537
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh
thứ mười một, tiểu đoạn thứ hai
trong đoạn lớn thứ sáu của phần kệ tụng,
xem từ bài kệ thứ mười bốn:
(Kinh) Nhược kiến dũng tuyền, đương nguyện
chúng sanh, phương tiện tăng trưởng, thiện
căn vô tận.
(經)若見湧泉。當願眾生。方便增長。善根無盡。
(Kinh: Nếu thấy suối phun, nguyện cho chúng sanh,
tăng trưởng phương tiện, thiện căn
vô tận).
“Dũng tuyền” (湧泉) là suối. Trên đường đi, chúng
ta cũng có thể gặp phải. Nước suối từ
dưới đất phun trào lên trên. Trạng huống suối
phun dường như bất tận. Có những con suối
phun nước chẳng gián đoạn, khi phun lên, độ
cao không quá lớn, có suối phun cao mấy tấc, hoặc
mấy xăng-ti-mét
(centimeter). Quư vị thấy suối phun ngày đêm
đều chẳng gián đoạn, nước suối
phun lên trên. Chúng tôi cũng đă từng thấy suối
phun có tánh chất gián đoạn. Sau khi đă phun vài phút, nó sẽ
không phun nữa; cách một khoảng thời gian sau, nó sẽ
lại phun. Nó phun nước rất cao, nói chung là đến mấy
trượng, nước
suối rất nóng. Trong quá khứ, tôi
đă từng thấy chuyện này tại Mỹ. Nó cũng [phun] suốt năm,
chẳng gián đoạn, đại khái là cứ mỗi nửa giờ, nó sẽ
phun một lần. Đấy là thiên nhiên, chẳng phải
là do sức người [tạo ra]. Những điều ấy
đều thuộc vào nội dung của bài kệ này. Trông
thấy cảnh tượng ấy, sẽ dẫn phát đại
nguyện của Bồ Tát, “phương
tiện tăng trưởng, thiện căn vô tận”.
Các đồng
học đều biết, Phật pháp nói đến cương
lănh chung cực sẽ là “từ
bi làm gốc, phương tiện làm cửa”. Nay “từ bi” được gọi
là “ḷng yêu thương”. Đấy
là Bổn Thiện. Tổ tiên đă
nói “tánh con người vốn
lành”. Trong nền giáo học truyền thống, tối
thiểu là quan niệm này đă có từ năm ngàn năm
trước. V́ thế, người Hoa biết giáo dục,
thật sự nắm được cốt lơi giáo dục.
Trung tâm điểm [của giáo dục] là Ái (愛, yêu thương). Trong giáo dục về Ngũ
Luân th́ “phụ tử hữu
thân” (cha con có t́nh thân), “thân”
(親) là thân
ái. T́nh thân ái ấy là bổn thiện. Tánh con người vốn
lành, trong Phật pháp gọi là “từ
bi”; đấy là căn bản. Đức Phật đă
thành Phật, v́ sao c̣n phải phổ độ chúng sanh vất
vả ngần ấy? Nếu quư vị hỏi v́ sao ư?
Chính v́ ḷng từ bi! Hai chữ Từ Bi xác thực là chẳng
dễ hiểu. V́ sao chẳng dễ hiểu? V́ bọn phàm
phu chúng ta đều có vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước; cho nên rất khó lư giải. Chúng ta lư giải ư
nghĩa của hai chữ Từ Bi chẳng giống như
Phật, Bồ Tát (Pháp Thân Bồ Tát) đă thị hiện,
thua kém rất xa! V́ sao? Phật, Bồ Tát thị hiện
trong chín pháp giới, trong khắp hư không tận pháp giới,
các Ngài không chỉ chẳng có chấp trước, chẳng
có phân biệt, mà cũng chẳng khởi tâm, không động
niệm.
Hôm nay, có đồng tu hỏi tôi: “Thật
Tướng niệm Phật là ǵ?” Bát Nhă nói về Thật
Tướng; Thật Tướng là ǵ? Thật Tướng
là chân tướng. Nếu quư vị thấy chân tướng,
chúc mừng quư vị, quư vị là bậc Pháp Thân đại
sĩ như kinh Hoa Nghiêm đă nói, hoặc nói theo Thiền Tông
sẽ là “minh tâm kiến tánh,
đại triệt đại ngộ”. Vị ấy ngộ
ǵ vậy? Chính là Thật Tướng. Kinh Bát Nhă nói “chư pháp Thật Tướng”,
tức là chân tướng của các pháp. Chân tướng có
tướng giống như thế nào? Rốt cuộc có h́nh
dạng giống như thế nào? Quư vị đều niệm
kinh Kim Cang và Bát Nhă Tâm Kinh thuộc làu làu, đơn giản nhất là Bát Nhă Tâm Kinh. Bát
Nhă Tâm Kinh giảng về Thật Tướng. Quư vị thấy
câu đầu tiên của Tâm Kinh là: “Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm Bát Nhă Ba La Mật
Đa thời, chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không”
(Khi Quán Tự Tại Bồ Tát hành Bát Nhă Ba La Mật Đa
sâu xa, soi thấy năm uẩn đều không). Đấy
là thấy Thật Tướng. Thấy Thật Tướng,
quư vị tu Bát Nhă chẳng phải là Bát Nhă b́nh phàm, mà là Bát
Nhă Ba La Mật Đa rất sâu xa! Ở đây, nêu lên một
trường hợp tiêu biểu, nêu ra Quán Thế Âm Bồ
Tát. Quán Tự Tại chính là Quán Thế Âm Bồ Tát, [nêu ra
pháp được] Ngài tu học. Nay chúng ta có Bát Nhă hay không?
Có chứ! “Hết thảy chúng
sanh đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai”, Bát Nhă là trí huệ, là trí huệ sẵn có
trong tự tánh, ai nấy đều có!
Bát Nhă hiện
tiền, có thể vận dụng trong cuộc sống hằng
ngày, vận dụng vào xử sự, đăi người tiếp
vật. Đấy chính là Pháp Thân Bồ Tát, là chân Phật, chẳng
phải là giả Phật. Kinh đă nói rất rơ ràng tướng
trạng của Ngài, “chiếu
kiến Ngũ Uẩn giai không”. Ngũ Uẩn là ǵ? Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức. Chư vị phải biết là “chiếu kiến” (照見), chẳng phải là “nhăn kiến” (眼見, thấy bằng mắt). Nay chúng ta chẳng
có công phu Chiếu. Nếu có công phu Chiếu, sẽ dễ
thực hiện. Công phu Chiếu chính là đức năng
trong tự tánh của chúng ta, cũng là vốn sẵn có,
nay đều bị mất sạch! “Mất” ở đây chẳng phải là thật sự
mất đi, mà là bị mê mất. Trong giáo pháp Đại
Thừa, đức Phật đă nói rất hay: Mê mất! Mê
như thế nào? Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật
đă nói rất tuyệt: “Chỉ
v́ vọng tưởng, chấp trước, mà chẳng thể chứng đắc”. Chuyện là như thế đó, đức
Phật đă nói rơ ràng lắm, minh bạch lắm. V́ quư vị
có vọng tưởng, có phân biệt, có chấp trước,
ba tầng chướng ngại, khiến cho trí huệ và
đức tướng trong tự tánh của quư vị thảy
đều bị chướng ngại, hiện thời chẳng
thể hiện tiền. V́ thế, đức Phật dạy
chúng ta dùng Tu Đức, [tức là] dùng Tu Đức để
chứng Tánh Đức.
Về tu hành,
đức Phật đă nói quá nhiều. Thuở tại thế,
đức Thế Tôn đă giảng kinh hơn ba trăm hội,
thuyết pháp bốn mươi chín năm, nói khá nhiều phương
pháp. Chúng ta có thể tin tưởng, có thể lư giải, nương
theo các phương pháp ấy để tu học, sẽ dần
dần có thể chứng đắc Tánh Đức, có thể
khôi phục Tánh Đức. Khôi phục Tánh Đức là “chiếu kiến Ngũ Uẩn
giai không”. Chư vị phải biết, nay chúng ta đối
với Ngũ Uẩn, thứ ǵ cũng đều chẳng
phải là Không. Đối với Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức, đối với cái đăy da thối tha này (thân thể) và vật ngoài thân, thứ ǵ cũng đều
xem rất trọng, chẳng thể buông xuống món nào cả!
Tự ḿnh phải biết điều này! [Do chúng sanh] ở
trong cảnh giới như vậy, cho nên, đức Thế
Tôn từ bi đă mở ra vô lượng pháp môn.
Pháp môn Bát Nhă thuộc
về Tánh Tông, thuộc về Thiền Tông. Thiền Tông của
Trung Hoa là Đại Thừa; không chỉ là Đại Thừa,
bậc thượng thượng thừa mới có thể
tu được! Nhân vật đại biểu chính là Lục
Tổ Huệ Năng đại sư trong Thiền Tông. Quư
vị xem Đàn Kinh sẽ hiểu, bậc thượng
thượng căn nhập môn như thế nào? Về h́nh
tượng của bậc thượng thượng căn,
có thể lấy ngài Huệ Năng làm đại biểu.
Nói cách khác, quư vị có giống như ngài Huệ Năng
hay chăng? Có đầy đủ các điều kiện như
ngài Huệ Năng hay không? Nếu là phải, sẽ rất
khó có, quư vị có thể thành tựu! Nếu chẳng phải
vậy, quư vị đi theo con đường này sẽ chẳng
đi nổi! Thuở tôi mới học Phật,
bộ kinh điển tôi xem
đầu tiên là Đàn Kinh, [bản chú giải] là tác phẩm
Tiên Chú của cư sĩ Đinh Phước Bảo. Tôi
xem rất hoan hỷ, càng xem càng có hứng
thú. Ba vị thầy của tôi đều giáo huấn, tôi là
một đứa học tṛ ngoan, biết nghe lời! Vị thứ nhất là tiên sinh Phương
Đông Mỹ, thầy dạy tôi, thầy bảo: “Trong năm ngàn năm lịch sử
của Trung Hoa, trước ngài Huệ Năng, chẳng có
ai được như Huệ Năng; sau ngài Huệ
Năng, cũng chẳng có Huệ Năng thứ hai. Anh hăy
nghĩ xem bản thân ḿnh có sánh bằng Ngài được
chăng? Pháp môn của Ngài được gọi là ‘một
bước lên trời’, đốn ngộ, đốn siêu.
Nếu chẳng lên trời được, ngă xuống, sẽ
tan thân nát xương”! Dùng tỷ dụ này nhằm bảo quư vị
“con đường này chẳng phải dành
cho quư vị hành”. Thầy cũng nói chúng tôi chẳng phải
là căn cơ [tu Thiền]; v́ thế, thầy khuyên tôi hăy
nhập môn từ Giáo Hạ v́ chúng tôi thích đọc sách!
Giáo Hạ là ǵ?
Giống như trèo cầu thang, lên cao từng bước một,
bước từng bước một, bước lên một
nấc, xác thực là chính ḿnh lên cao hơn một tầng.
Thời gian ấy rất dài, giống như đi học, từ
Tiểu Học, Trung Học, Đại Học, [cho đến]
Nghiên Cứu Sinh, nhưng con đường này rất chắc
chắn. Thiền Tông là lớp dành cho kẻ thiên tài, chưa
hề học Tiểu Học, Trung Học lẫn Đại
Học đều chưa từng học, [thế mà] học
ngay vào Nghiên Cứu Sinh, theo chương tŕnh Tiến Sĩ.
Trong thế gian này, có ai như vậy hay chăng? Có chứ,
quá hiếm có! T́m trong lịch sử Trung Hoa lẫn
ngoại quốc, chẳng t́m được mười người! Trong mấy ngàn năm, t́m chẳng ra mười
người! Thật đấy! V́ thế, chính ḿnh phải
hiểu thân phận và căn tánh của chính ḿnh. Con người
quư ở chỗ tự hiểu biết, điều này rất
trọng yếu!
Bất luận
Tông Môn hay Giáo Hạ, chẳng có tông phái nào không coi trọng
từ bi, v́ từ bi là cội rễ. Quư vị thấy ở
đây, [Văn Thù Bồ Tát nói] “phương
tiện tăng trưởng, thiện căn vô tận”.
Trước hết, quư vị phải nắm được
cội rễ, từ bi là Ái. Đối với Ái th́ điều
thứ nhất là phải tự ái (yêu thương chính ḿnh),
chuyện này khó lắm! Quư vị có thể tự yêu thương
chính ḿnh rồi mới có thể yêu thương kẻ khác.
Chính quư vị chẳng biết yêu thương bản thân,
làm sao có thể yêu thương người khác cho được?
V́ thế, đây là chuyện rất khó khăn! Tuy Giáo Hạ
là tuần tự tiệm tiến (tiến dần dần theo thứ tự), vẫn chẳng phải là
chuyện dễ dàng, vẫn phải làm từ căn cội.
Căn cội là ǵ? Nhà Phật nói Tam Học Giới, Định,
Huệ, giống như ba tầng lầu, tầng thứ
nhất là Giới Luật, tầng thứ hai là Định
(Thiền Định), tầng thứ ba là Bát Nhă. Bất luận
Tông Môn hay Giáo Hạ, Hiển Giáo hay Mật Giáo, ngay cả Tịnh
Độ Tông cũng đều được
bao gồm trong ấy. Nếu quư vị ĺa khỏi
nguyên lư và nguyên tắc này, sẽ chẳng gọi là Phật
pháp, sẽ chẳng phải là Phật pháp! Chỉ cần là
Phật pháp; nhất định sẽ tương ứng
với cương lănh và nguyên tắc ấy.
Đối với
giới luật, trong kinh Phật Tạng (kinh Phật Tạng
là một bộ kinh, chẳng phải là Đại Tạng
Kinh, mà là một bộ kinh trong Đại Tạng Kinh),
đức Phật đă nói: “Chẳng
học Tiểu Thừa trước, sau đó học Đại
Thừa, sẽ chẳng phải là đệ tử Phật”.
V́ sao? Quư vị đă vượt cấp! Giống như học
hành vậy, nhất định là quư vị học từ Mẫu
Giáo, Tiểu Học, Sơ Trung, Cao Trung, Đại Học;
học lên cao dần dần như vậy, đó là đệ
tử Phật. Nếu chẳng có những cấp học
trước, [tức là] Mẫu Giáo, Tiểu Học, Trung Học,
Đại Học đều chẳng có, học ngay vào Nghiên
Cứu Sinh, đấy chẳng phải là đệ tử
đức Phật! Đức Phật nói lời này nhằm
nói với những kẻ b́nh phàm, chẳng phải là nói với
ngài Huệ Năng. Hạng người như ngài Huệ Năng
đáng gọi là “nhi đồng
thiên tài”. Ngài thật sự có thể chẳng cần [phải
học từ Tiểu Thừa], trong ức vạn người
khó kiếm được một! Tại Trung Hoa, quư vị
thấy trong lịch sử Trung Hoa, trong năm ngàn năm chỉ
xuất hiện một vị. Điều này quá đặc
thù! Đức Phật không nói về trường hợp
đặc thù, mà nói tới chuyện thông thường. Chúng
tôi đă nói chuyện này rất nhiều, các đồng học
nhất định phải biết. Nếu không, quư vị
học Phật suốt cả đời, vẫn bị luống
uổng! Quư vị học vài chục năm, học đến
khi chết già, chẳng thành tựu một điều ǵ!
Cho đến lúc ấy mới hối hận chẳng kịp,
thật đáng tiếc! Thân người khó
được, Phật pháp khó nghe!
Phật pháp truyền
đến Trung Hoa gần như hai ngàn năm. Từ năm 67 Công Nguyên, [Phật pháp] chánh thức
truyền sang Trung Hoa, nhằm thời Hán Minh Đế. Kinh
điển Tiểu Thừa được phiên dịch khá
hoàn bị; những vị pháp sư phiên dịch kinh
điển đă chẳng phụ ḷng người Hoa trông cậy.
Vào thời đại Tùy - Đường, Phật giáo
Trung Hoa phát triển đến tột đỉnh. Các nhà học
giả thường công nhận thời đại Tùy -
Đường là thời đại hoàng kim của Phật
giáo Trung Hoa. Chẳng sai! Mười tông phái đều
được kiến lập trong thời đại ấy.
Cuối đời Tùy, đầu đời Đường,
có mười tông phái. Trong mười tông phái, có hai tông là
Tiểu Thừa, tức Câu Xá Tông và Thành Thật Tông, hiện
thời chẳng có hai tông này! Trước học Tiểu
Thừa, sau học Đại Thừa! Kinh Tiểu Thừa
chính là phần A Hàm trong Đại Tạng Kinh, tức Trường
A Hàm, Trung A Hàm, Tăng Nhất A Hàm, và Tạp A Hàm, bốn
loại lớn ấy, những kinh ấy thuộc loại
kinh Tiểu Thừa. Phân lượng của [kinh điển
Tiểu Thừa bằng tiếng Hán] của chúng ta và kinh điển
Nam Truyền bằng tiếng Pali hoàn toàn giống nhau, phân
lượng cũng hết sức đáng kể. V́ thế,
tại Trung Hoa, kinh Tiểu Thừa rất hoàn bị.
Nhưng từ
sau giữa đời Đường trở đi, hai tông
ấy sa sút, chẳng có ai học. Vậy th́ đức Phật
dạy “chẳng trước học
Tiểu Thừa, sau học Đại Thừa, chẳng phải
là Phật đệ tử”, cớ
sao Trung Hoa bỏ Tiểu Thừa? Phải biết nguyên nhân
này. Người Hoa chẳng dùng Tiểu Thừa, dùng Nho và Đạo
để thay thế Tiểu Thừa. Hai thứ này chính là
thứ bổn địa của Trung Hoa, xác thực là nội
hàm và cảnh giới của chúng chẳng kém Tiểu Thừa,
dùng những thứ ấy làm cơ sở. Người học
Phật thời cổ, bất luận tại gia hay xuất
gia, chẳng có ai không đọc sách Nho, Khổng Mạnh, Lăo
Trang gần như đều là những thứ ắt phải đọc trong đời người, họ có cơ sở ấy! Tiến nhập
Đại Thừa như vậy,
chẳng có vấn đề ǵ!
Tâm lượng của
Nho và Đạo lại c̣n
xác thực là to hơn Tiểu Thừa.
Đến thế
hệ hiện thời, vấn đề xuất hiện, chẳng
học kinh Tiểu Thừa, Nho cũng chẳng có, Đạo
cũng chẳng có, ngay lập tức tiến nhập Đại
Thừa. Do vậy, thành tựu rất khó khăn. Tuy trong
kinh giáo Đại Thừa có thể viện dẫn chú sớ,
chú giải của cổ nhân, chủng loại rất nhiều,
quư vị có thể tham khảo, [thế nhưng] có thể thành tựu hay không? Vẫn khó khăn
y như cũ, do nguyên nhân ǵ? Chẳng có căn cội! Đạo
lư ở chỗ này: Chẳng có căn cội! Giống như hiện
thời chúng ta thấy khá nhiều công viên làm suối phun,
do sức người tạo ra, phải cậy vào điện
lực. Sau khi nhấn nút [mở điện], suối liền
phun; tắt đi, chẳng c̣n nữa, chẳng có căn cội!
Đó là do sức người tạo ra, chẳng thật,
giả trất, chớ nên không hiểu đạo lư này!
Hiện thời,
nếu chúng ta muốn thành tựu trong Phật pháp, dựa
vào ǵ? Vẫn là phải nghe lời đức Phật. Trong
kinh Đại Tập, đức Phật đă dạy, pháp
vận của đức Thế Tôn có Chánh Pháp, có Tượng
Pháp, có Mạt Pháp, có ba thời kỳ. Lăo nhân gia căn dặn người đời sau, trong
thời kỳ Chánh Pháp, giới luật thành tựu; thời
kỳ Tượng Pháp, Thiền Định thành tựu; thời
kỳ Mạt Pháp, Tịnh Độ thành tựu. Nay chúng ta
thuộc vào giai đoạn pháp vận nào? Chánh Pháp của đức Phật là một
ngàn năm, Tượng Pháp một ngàn năm, Mạt Pháp một
vạn năm. Pháp vận của đức Phật là một
vạn hai ngàn năm. Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ
cho đến hiện thời là ba ngàn năm, quư vị bèn
hiểu rơ, hiện thời chúng ta thuộc vào một ngàn năm
thứ hai trong một vạn năm của thời kỳ
Mạt Pháp. Theo ghi chép của cổ nhân Trung Hoa, năm nay,
Thích Ca Mâu Ni Phật đă diệt độ ba ngàn lẻ ba
mươi bốn năm, không giống cách nói của ngoại
quốc. Người ngoại quốc nói là hai ngàn năm
trăm năm. [Dù là] hai ngàn năm trăm năm [đi nữa], cũng đă tiến nhập
thời Mạt Pháp năm trăm năm rồi!
Nếu chúng ta tin
tưởng lời Phật, đức Phật dạy chúng
ta tu Tịnh Độ, học Tịnh Độ, là những
đứa học tṛ biết nghe lời, thời kỳ Mạt
Pháp chỉ có Tịnh Độ thành tựu. Trong một ngàn
năm đầu tiên của thời Mạt Pháp, tu học
các pháp môn khác vẫn có thành tựu, nhưng trong chín ngàn năm
sau của thời Mạt Pháp, sẽ khó khăn! Quư vị thấy
trong xă hội hiện thời khó khăn lắm! Quư vị
có thể định hay không? Bất luận trong thời kỳ
nào, cũng đều phải tuân thủ thứ tự Tam Học Giới, Định, Huệ;
nay chúng ta sơ sót Giới Học, tức là chúng ta học Phật
mà chẳng có căn cội. Do vậy, v́ sao những năm
qua chúng tôi cực lực đề xướng Đệ
Tử Quy? Đó là v́ chúng tôi chẳng chọn giáo pháp Tiểu
Thừa làm giới luật căn bản, mà chọn Đệ
Tử Quy, chọn Thập Thiện Nghiệp Đạo.
Thập Thiện
Nghiệp Đạo là căn cội của Phật môn, là căn
bản của căn bản. Bất luận quư vị học
pháp môn nào, học tông phái nào, quư vị chẳng thể sơ sót Thập Thiện Nghiệp Đạo. Giống
như xây nhà, bất luận quư vị xây theo h́nh thức như
thế nào, xây cao cỡ nào, Thập Thiện Nghiệp Đạo
là nền tảng, quư vị nhất định phải đắp
nền vững chắc. Nhưng Đệ Tử Quy là cơ
sở của nền tảng, quư vị xây nền móng phải
chọn lựa cuộc đất, phải liễu giải
trạng huống kết cấu dưới mặt đất,
mới biết cách xây nền như thế nào. Liễu giải
trạng huống của nền móng giống như [thấu
hiểu] Đệ Tử Quy, đấy là bước
đầu tiên. Chẳng làm được Đệ Tử
Quy, bất luận tu học pháp môn nào, thảy đều xôi hỏng bỏng không, chớ nên không biết! Trong kinh, đức
Phật đă dạy rất rơ ràng, Thập Thiện Nghiệp
Đạo là pháp nhân thiên, trong lục đạo, quư vị
có thể có được làm thân người, hoặc có
thể được làm thân trời, phải cậy vào Thập
Thiện Nghiệp Đạo. Thanh Văn Bồ Đề,
Duyên Giác Bồ Đề, Vô Thượng Bồ Đề thảy
đều dựa vào nó làm căn bản. V́ thế, quư vị
chẳng có nó, quư vị chẳng thể nào không bị thất bại
hoàn toàn! Chớ nên không biết điều
này!
Nguyên tắc chỉ
đạo tu học cao nhất trong Tịnh Tông là Tịnh
Nghiệp Tam Phước, chúng ta đi theo đường lối ấy. Điều
thứ nhất trong Tịnh Nghiệp Tam Phước (có tất
cả ba điều) là “hiếu
dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng,
từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp”,
ta thực hiện từ chỗ này! Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự
sư trưởng là thực hiện Đệ Tử Quy,
làm được hai câu này. Từ tâm chẳng giết là tu
tâm từ bi. “Từ tâm chẳng
giết, tu Thập Thiện Nghiệp” được thực
hiện bằng Thập Thiện Nghiệp Đạo. Quư vị
học hai thứ ấy, hai thứ ấy thuộc về
giới kinh, chẳng phải là nói lư luận với quư vị.
V́ thế, những thứ ấy chẳng phải để
đọc, chẳng phải là để học thuộc ḷng,
chẳng phải là để nói, mà là yêu cầu quư vị phải
làm được. Trong cuộc sống hằng ngày, trong công việc, đăi người, tiếp vật, đều phải nương
theo tiêu chuẩn này, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ,
tạo tác chớ nên trái nghịch; đấy là căn bản.
Quư vị tu từ chỗ này, sẽ là chân tu!
Bát Nhă giống
như trong một cội cây to, nó là chót cây, hoặc là hoa quả,
rất đẹp đẽ, đẹp khôn ngằn! Thập
Thiện Nghiệp Đạo và Đệ Tử Quy là cội
cây, chẳng trông thấy, vùi sâu dưới đất. Quư
vị phải hiểu, cây sum xuê dường ấy, cành, lá,
hoa, quả đẹp đẽ ngần ấy, thảy
đều do cội rễ sanh ra. Chẳng có cội rễ, thứ ǵ cũng đều chẳng có. Chẳng
có cội rễ, hoa quả sẽ là hoa cắm trong b́nh,
được mấy hôm sẽ chết khô, chẳng sống
sót. Phải hiểu điều này, chớ nên đi lạc
đường! Có Đệ Tử Quy, có Thập Thiện
Nghiệp, đă làm được điều thứ nhất
trong Tịnh Nghiệp Tam Phước, sau đấy quư vị
mới có thể tiến hành điều thứ hai. Điều
thứ hai là “thọ tŕ Tam Quy, đầy
đủ các giới, chẳng phạm oai nghi”, quư vị
làm được điều này. Tam Quy tức là quư vị
nhập Phật môn; [do vậy] quư vị mới hiểu
điều đầu tiên [trong Tịnh Nghiệp Tam Phước]
là chưa nhập Phật môn! Điều đầu tiên là
thiện pháp thế gian. [Phải là] thiện nhân trong thế
gian th́ mới có thể học Phật. Đây chính là điều
kiện tuyển nhận đệ tử của đức
Phật; quư vị phải trọn đủ các điều
lành thế gian th́ mới có thể nhập Phật môn.
Vừa vào Phật
môn, quư vị thấy [chính ḿnh] đă được truyền
trao tổng cương lănh, tổng phương hướng
và mục tiêu của tu hành, chẳng có một tí tâm riêng tư
nào. Nho gia Trung Hoa cũng như vậy. Quư vị thấy
Nho gia dạy trẻ vỡ ḷng, câu đầu tiên của Tam
Tự Kinh cũng nêu bày toàn bộ tông chỉ tu hành của
họ: “Nhân chi sơ, tánh bổn
thiện, tánh tương cận, tập tương viễn”
(Con người thoạt đầu tánh vốn lành, tánh th́
gần giống như nhau, do huân tập khác nhau mà thành khác
biệt). Bốn câu ấy đă phơi bày toàn bộ. Phật
pháp cũng như vậy, vừa nhập môn bèn đem đạo
thành Phật, mục tiêu và phương hướng thành Phật
trao cho quư vị, chỉ cần nương theo đó, quư vị
sẽ chẳng bị lạc đường. Quy y Phật, “quy” (皈) là ǵ? Quay đầu. “Y” (依) là dựa vào. Phật là ǵ? Phật là giác. Do
vậy, quư vị bèn hiểu, chúng ta mê hoặc, điên
đảo, phải từ mê hoặc, điên đảo quay
trở lại, nương cậy tự tánh giác, tức là Bổn Giác trong tự tánh. Điều thứ
hai, quy y Pháp, Pháp là ǵ? Pháp là chánh tri chánh kiến. Chúng ta bèn
hiểu, nay chúng ta phải từ tà tri tà kiến quay trở lại, phải nương vào chánh tri chánh
kiến trong tự tánh. Nó là tự tánh Tam Bảo, chẳng
phải từ bên ngoài. Thứ ba, quy y Tăng, Tăng là ǵ?
Tăng là sáu căn thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy
trần. Quư vị bèn hiểu, chúng ta phải từ hết
thảy ô nhiễm quay lại, nương cậy cái tâm
thanh tịnh.
Lại thưa
cùng quư vị, quư vị thật sự hiểu đạo
lư này, do quư vị chẳng khéo học kinh Phật, cho nên quư
vị phải theo một vị thầy. Có vị thầy
giỏi chỉ dạy quư vị, quư vị có thể học
theo, sẽ chẳng bị chúng nó (các tập khí phiền
năo, sự dụ dỗ, mê hoặc bên ngoài) ô nhiễm. Đức
Phật cũng nói rơ ràng, kinh Kim Cang đă nói rất hay: “Pháp thượng ưng xả,
hà huống phi pháp” (Pháp c̣n nên bỏ, huống hồ
phi pháp). “Pháp” là Phật pháp.
Nếu quư vị dùng vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước để học Phật pháp, quư vị đă
bị Phật pháp nhiễm. Điều này rất đáng sợ,
quư vị bị nó ô nhiễm. Do vậy, trong kinh Kim Cang,
đức Phật đă nói rất hay. Đức Thế
Tôn hoàn toàn phủ định: Trong bốn mươi chín năm,
Ngài chẳng nói một chữ nào, chẳng nói một câu pháp
nào. Nếu có ai nói Ngài thuyết pháp, đó là báng Phật. Các
vị hăy ngẫm xem điều ấy có nghĩa là ǵ? Sợ
quư vị chấp tướng, quư vị chẳng biết học,
học sai lầm!
V́ thế, trong
Khởi Tín Luận, Mă Minh Bồ Tát đă dạy chúng ta một
thái độ tu học: “Ly ngôn
thuyết tướng”, tức là chớ nên chấp
trước ngôn ngữ giảng kinh, thuyết pháp của
đức Phật; “ly danh tự
tướng”, những ǵ như Phật, Bồ Tát, Tam
Quy, Ngũ Giới, Lục Độ, Tứ Nhiếp đều
là danh từ, chớ nên chấp trước! Điều thứ
ba là “ly tâm duyên tướng”,
[ly] tâm duyên nghĩa là quư vị chớ nên dùng ư thức của
chính ḿnh để suy nghĩ, v́ sao? Ư thức là vọng tâm.
Hễ sử dụng vọng tâm, làm sao quư vị có thể
suy nghĩ những thứ chân thật cho được?
Quư vị thấy đó, phải buông xuống ba thứ ấy!
Buông xuống tướng ngôn thuyết, chúng ta xem kinh chẳng chấp tướng văn tự, chẳng chấp
trước tướng danh tự, đừng nên dùng tư
tưởng của chính ḿnh để suy nghĩ. Nghe hiểu được th́ hiểu, nghe chẳng hiểu
th́ chẳng cần bận ḷng, đấy mới là thật
sự nghe kinh. Nghe [như vậy] sẽ khai ngộ. Dùng cái
tâm ǵ để nghe? Cái tâm ĺa
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước;
đấy gọi là Thật Tướng. Lũ b́nh phàm chúng
ta có làm được hay không? Chẳng làm được!
Sáu căn của quư vị đối trước lục
trần có thể chẳng khởi tâm, không động niệm
hay chăng? Người có thể chẳng khởi tâm, không
động niệm th́ là Pháp Thân Bồ Tát, sẽ vượt
thoát mười pháp giới. Người đă vượt
thoát mười pháp giới đến chỗ chúng ta để
làm ǵ?
Hơn hai mươi
năm trước, tôi ở Mỹ, có lần giảng kinh
tại Lạc Sam Cơ (Los Angeles). Giảng kinh xong, có ba người
trẻ tuổi từ dưới đại chúng trong giảng
đường lên t́m tôi, muốn tôi ấn chứng ba người
bọn họ đă khai ngộ. Tôi nói: “Ai bảo quư vị
đă khai ngộ?” Họ nói là một vị Nhân Ba Thiết
(Rinpoche) trong Mật Tông chứng minh ba người bọn
họ đă khai ngộ, cũng mong tôi chứng minh cho họ.
Tôi nói: “Được!” Tôi bảo: “Ba người quư vị
chẳng khai ngộ!” Họ hết sức tức tối,
hỏi: “V́ sao ông nói như vậy?” Tôi bảo họ: “Tôi chưa
khai ngộ. Quư vị đến đây t́m tôi, khẳng định
là quư vị chưa khai ngộ! Nếu quư vị đă khai
ngộ; quư vị c̣n đến t́m tôi để làm ǵ?” Kết
quả là họ không vui tan hàng, bỏ đi, khiến cho thính
chúng cười vang cả giảng đường. Người
hiện thời thích nghe lời lừa dối, chẳng thích
nghe lời thật thà. Tôi chẳng lừa quư vị; nếu
tôi lừa phỉnh quư vị, sẽ chuốc lấy tội
lỗi! Người thật sự khai ngộ há c̣n cáu giận
ư? Nói với họ, họ ngay lập tức bực bội, mặt đỏ phừng phừng, chẳng
giống người đă khai ngộ chi hết! Tôi tin là
những kẻ trẻ tuổi học Phật giống như
vậy không chỉ là ba người bọn họ, toàn là loại
cuồng vọng. Nói theo Phật pháp, sẽ là Tăng
Thượng Mạn, được chút ít đă cho là đủ,
cứ ngỡ chính ḿnh đă thành tựu.
Rất lâu
trước kia, lúc tôi xuất gia chưa được bao
lâu, cũng vừa mới bắt đầu dạy tại Phật Học Viện.
Có một vị đồng tu, vị lăo cư sĩ ấy
lớn tuổi hơn tôi, cũng là người học Phật.
Ông ta rất nghiêm túc bảo tôi, ông đă chứng quả A La
Hán. Tôi nói cách nào, ông ta đều chẳng thể tiếp
nhận, nhưng thái độ vẫn rất tốt đẹp.
Ông ta nói: “Tôi thật sự chứng đắc quả A La
Hán”. Đến cuối cùng, tôi chẳng có cách nào, bèn nghĩ:
“Hễ chứng đắc quả
A La Hán sẽ có sáu món thần thông, tức Thiên Nhăn, Thiên Nhĩ,
Tha Tâm, Túc Mạng, Thần Túc, Lậu Tận”. Chúng tôi ngồi
trong pḥng khách nhà ông ta, tôi liền hỏi: “Nay chúng ta đang
ngồi trong nhà, bên ngoài nhà là đường lộ, trên đường có người đi qua, đi lại”, tôi hỏi: “Ông có thấy hay không?” Ông ta đáp:
“Chẳng có!” Tôi bảo: “Vậy là ông chưa chứng A La
Hán!”
Ông ta hỏi v́
sao? Tôi nói: “Tiểu Thừa Sơ Quả Tu Đà Hoàn sẽ
đắc Thiên Nhăn và Thiên Nhĩ, có thể nh́n xuyên qua vách
tường, người bên ngoài đi tới đi lui vị
ấy đều biết. Tứ Quả La Hán tuyệt diệu
hơn nữa!” Ông ta suy nghĩ như vậy bèn chịu phục,
liền hoài nghi là có vấn đề! Tôi nói: “Đúng vậy
đó! Ông chưa chứng đắc. Chưa chứng đắc
mà cho là đă chứng đắc, ông hoàn toàn chẳng dối
gạt người khác, mà là v́ chẳng liễu giải A
La Hán, [tức là chẳng liễu giải] A La Hán là ǵ? Tự
cho là chính ḿnh đă chứng đắc, ông chẳng biết
A La Hán là ǵ. Không chỉ là ông chẳng chứng đắc A
La Hán, ngay cả Sơ Quả Tu Đà Hoàn ông cũng chưa
chứng đắc! Có thể là ông học Phật đạt được một chút nhẹ nhàng, an lạc, đạt được một
tí thọ dụng, bèn hiểu lầm một tí thọ dụng
ấy là A La Hán. Chuyện là như vậy đó!” Tôi giải
thích minh bạch cho ông ta. Rất tốt, ông ta cũng quay
đầu. Sau khi đă quay đầu, bèn chuyên môn niệm Phật,
cầu sanh Tịnh Độ. Tôi nói: - Đúng rồi, trong thời kỳ Mạt Pháp, căn
tánh của chúng ta là như vậy. Trừ pháp môn ấy ra, chẳng có cách nào cả!
A La Hán thoát ly lục
đạo luân hồi, chẳng có phiền năo. Tuy có tập
khí, chẳng có phiền năo! Nay quư vị c̣n có phiền năo
hay không? Tôi phải hỏi quư vị, quư vị có ḷng ích kỷ
hay không? Quư vị có tham, sân, si, mạn hay không? Hễ c̣n có,
vậy là
không được rồi!
Đấy là lục đạo phàm phu. V́ thế, con người
quư ở chỗ tự hiểu rơ chính ḿnh. Nói chung là phải
hiểu rơ ràng, hiểu minh bạch chuyện này. Hễ chẳng
hiểu rơ ràng, hăy đọc kinh, đọc kinh cho nhiều,
nghe kinh cho nhiều. Tôi là kẻ căn tánh trung hạ, chẳng
phải là bậc thượng căn, tôi đắc lực
nhờ có thầy tốt. Ba vị thầy của tôi đều
hết sức tốt, đúng là những bậc hữu tu, hữu học. [Các Ngài] hữu
chứng hay không? Chẳng phải là cảnh giới của
tôi [mà có thể phán đoán được], xác thực là [các
Ngài] hữu tu, hữu học! [Các Ngài] chỉ dạy cho tôi một con đường
chánh đáng. Chúng tôi là phận học tṛ, tôn sư trọng
đạo, y giáo phụng hành. Học mười năm mới
được thọ dụng, mới cảm thấy
được thọ dụng đôi chút. Hai mươi năm
mới có pháp hỷ, nếm được đôi chút pháp vị,
pháp hỷ sung măn. Đó là vừa mới nếm pháp vị,
vẫn chưa thể sung măn. Khi sung măn là chuyện thuộc
ba, bốn mươi năm sau. Tôi học Phật
đến năm nay đă là năm mươi lăm
năm, hằng ngày đều nghiêm túc thực hiện, chẳng
hề nghỉ ngơi!
Chư vị
phải biết “thiện
căn” được nói đến ở đây chẳng
phải là thiện căn thế gian, mà là thiện căn của
bậc Bồ Tát. Thiện căn thế gian là vô tham, vô sân,
vô si; đấy là thế gian, thuộc trong lục đạo.
Tất cả hết thảy các thiện pháp đều
sanh từ cội rễ này. Quư vị đối với hết
thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, kể cả đối với Phật pháp,
chẳng có tâm tham, chẳng sân khuể, chẳng ngu si; đấy
là điều thiện thuộc về thế gian. Thiện
căn được nhắc đến ở đây là thiện
căn của Bồ Tát, chỉ có một điều, tức là tinh tấn. Tinh tấn là thiện
căn duy nhất của Bồ Tát. “Thiện căn vô tận” là dũng mănh tinh tấn.
Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện Bồ Tát đă nói
“tận vị lai tế, vô hữu
b́ yếm” (cho đến tận cùng đời vị lai, chẳng hề chán, mệt),
chẳng chán ngán, chẳng mỏi mệt, dũng mănh, tinh tấn, giống như suối
phun trào vậy!
Thiện căn
ấy được biểu hiện ở chỗ nào? Ở
phương tiện, “từ bi
làm gốc, phương tiện làm cửa”. Phương
tiện được hiển thị ở chỗ
nào? Hiển thị bằng tùy loại hóa thân trong chín pháp giới,
ứng theo căn
cơ mà ban bố giáo pháp, biểu hiện ở chỗ này. Phẩm
Phổ Môn nói Quán Thế Âm Bồ Tát “ngàn xứ nguyện cầu, ngàn xứ ứng”; chúng
sanh có cảm, Phật, Bồ Tát sẽ ứng. Ở
đây, hiển thị thiện căn vô tận, mà cũng
là hiển thị phương tiện vô tận. “Phương” (方) là phương pháp để độ chúng
sanh, phương pháp giúp chúng sanh phá mê khai ngộ. “Tiện” (便) là tiện nghi. Nếu thay đổi cách nói
cho mọi người dễ hiểu, th́ [phương tiện]
là phương pháp thích hợp nhất, phương pháp thù
thắng nhất, phương pháp tốt đẹp nhất,
phương pháp hay khéo nhất, Phật pháp gọi [phương
pháp ấy] là “phương tiện”.
Tốt nhất, hay khéo nhất, chẳng phải là một phương
pháp nhất định, mà là muôn ngàn biến hóa, sống động, chẳng chết cứng!
Đối với những người khác nhau, sẽ sử
dụng phương pháp khác nhau. Đối với cùng một
người, [cũng dùng phương pháp khác nhau], khi mới học, bèn dạy quư vị một
phương pháp; sau khi đă học một khoảng thời
gian, lại phải thay đổi phương pháp. Giống
như đi học, học Tiểu Học bèn có phương
pháp của Tiểu Học, học Trung Học có phương
pháp của Trung Học, học Đại Học có phương
pháp của Đại Học. Quyết chẳng thể áp dụng
phương pháp Tiểu Học vào Đại Học
được, chẳng dùng được! Học tṛ sẽ
chẳng thể tiếp nhận! V́ thế, “phương tiện có nhiều môn, về nguồn
chẳng hai đường”. Phương hướng và
mục tiêu quyết định là một, nhưng phương
pháp muôn ngàn biến hóa, thời thời khắc khắc biến
hóa!
Căn cội
của phương tiện và sự biến hóa ấy chính
là trí huệ, là Thật Tướng Bát Nhă. Thật Tướng
Bát Nhă vĩnh hằng bất biến, nhưng khi nó khởi
tác dụng, sẽ là Phương Tiện Bát Nhă. Phương
Tiện Bát Nhă là như nhà Phật đă nói “không ǵ chẳng
biết, không ǵ chẳng thể”. Thật Tướng Bát
Nhă không nói chuyện này. Thật Tướng Bát Nhă là một;
v́ thế, nói “Bát Nhă vô tri”, Thật
Tướng Bát Nhă là vô tri.
Nó chẳng có vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, nó là Thể, là căn cội, khởi tác dụng
sẽ là “không ǵ chẳng biết”.
Do vậy, Bát Nhă vô tri, nhưng không ǵ chẳng biết. Vô
tri Bát Nhă là Căn Bản Trí, là Thật Tướng; “không ǵ chẳng biết” là
phương tiện, là ứng dụng. Chúng sanh có cảm,
trí ấy sẽ khởi tác dụng.
Nếu chư
vị nghe xong, vẫn chẳng thể lư giải, chúng tôi
mượn thí nghiệm với nước của tiến
sĩ Giang Bổn Thắng để làm tỷ dụ, quư vị
sẽ hiểu được. Bản thân nước là Thật
Tướng Bát Nhă. Nó tùy thuận cảnh giới bên ngoài cảm
ứng mà hiện tướng, đó là Phương Tiện
Bát Nhă. Nước là một, từ đầu đến
cuối bất biến, nhưng tiến sĩ Giang Bổn
Thắng đă làm thí nghiệm, đă làm mấy chục vạn
lần thí nghiệm trong mười mấy năm qua, ông ta
nói với tôi, chẳng có hai mô thức (pattern) [kết tinh nước] hoàn toàn giống
nhau, chẳng t́m thấy! Đúng là giống như vân tay của
con người vậy. Người trên toàn thế giới có vân tay khác nhau. Ông ta nói
[chuyện này] rất kỳ quái. Thật ra, chúng ta hiểu rơ đạo lư này, trong Phật pháp đă nói quá
rơ ràng: Ư niệm của mỗi người khác nhau! Một
ḿnh ta, sáng sớm ta làm thí nghiệm một lần, giữa
trưa làm thí nghiệm lần nữa, [nước sẽ]
phản ứng khác nhau. V́ sao? Tâm niệm lúc sáng sớm và giữa
trưa khác nhau! Chẳng cần nói chuyện này, một giây
trước và một giây sau đă khác nhau. Vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước chẳng giống nhau, làm
sao nó có thể hiện tướng giống như nhau cho
được? Đạo lư ở chỗ này.
V́ thế, phương
tiện là đức dụng, tác dụng to lớn chẳng
có ngằn mé. Đây là trông thấy con suối, thấy suối
phun bèn phát đại nguyện này, Hậu Đắc Trí của
hết thảy chúng sanh, tinh tấn thiện căn vô tận,
khởi ra đại nguyện này. A! Nay đă hết thời
gian rồi, chúng ta nghỉ ngơi mấy phút!
***
Chư vị
pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem bài kệ thứ mười lăm tiếp theo:
(Kinh)
Nhược kiến kiều đạo, đương
nguyện chúng sanh, quảng độ nhất thiết, do
như kiều lương.
(經)若見橋道。當願眾生。廣度一切。猶如橋梁。
(Kinh: Nếu thấy cây cầu,
nguyện cho chúng sanh, rộng độ hết thảy, ví
như chiếc cầu).
Câu này chủ yếu
nói về “kiều lương”
(橋梁, cầu), “kiều
đạo” (橋道) là “kiều
lương”. Xưa kia, quá nửa là cầu bắc qua
sông ng̣i; hiện thời, trên đất liền cũng có cầu.
Không chỉ là có cầu, mà c̣n có cầu khá nhiều tầng.
Ở Hương Cảng, chúng ta thường thấy có ba
tầng. Hễ ra khỏi cửa, quư vị sẽ thường
trông thấy điều này. Do cầu mà dẫn khởi đại nguyện “quảng độ nhất thiết,
do như kiều lương” (rộng độ hết
thảy, giống như chiếc cầu). Xác thực là cầu
đă giúp cho hết thảy chúng sanh qua lại hai bên bờ đây và kia. Từ điều này, mở rộng ư nghĩa
ra, chúng ta hăy đều nên học tập. Học tập
làm ǵ vậy? Học tập làm chiếc cầu, ư nghĩa này
rộng lắm. Hai người bất ḥa, ta làm chiếc cầu
nối khiến cho hai người bọn họ có thể ḥa giải. Hai kẻ đối
lập, ta làm chiếc cầu nối giúp họ hóa giải
đối lập. Hai người có những điều hiểu
lầm, ta giúp họ hóa giải sự hiểu lầm. Chiếc
cầu giống như người hiện thời
được gọi là “người
ḥa giải”, quư vị nói xem nó có quan trọng lắm hay
không?
Trong hết thảy
thời, hết thảy chúng sanh, đặc biệt là đối
với hết thảy chúng sanh trong xă hội hiện thời, thử hỏi có người
nào mà chẳng có mâu thuẫn, hay chẳng có xung đột?
Trong xă hội hiện đại, đây là một vấn
đề hết sức nghiêm trọng, mà cũng là một
vấn đề to lớn hết sức nghiêm
túc, tức là chẳng có những chiếc cầu, chẳng
có ai làm cầu nối. Phật, Bồ Tát phát nguyện làm
chiếc cầu, xác thực [là như vậy đó]! Hiện
thời, Phật, Bồ Tát chẳng trụ trong thế gian,
chiếc cầu là ǵ vậy? Thưa cùng chư vị, chính
là Đại Tạng Kinh do đức Thế Tôn lưu lại
cho hậu thế. Trong Đại Tạng Kinh có lư luận,
có phương pháp, thậm chí c̣n có biểu diễn, như
năm mươi ba lần tham học trong kinh Hoa Nghiêm nhằm
biểu diễn cho chúng ta thấy “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Chẳng
có điều này, làm sao có thể thực hiện cho
được? Từ chỗ này, chúng ta cũng có thể
thấu hiểu thiết thực: Để rộng độ
chúng sanh, hóa giải hết thảy các đối lập, nghi lự, xung đột, chỉ
có giáo học! Ngoài giáo học ra, chẳng có phương
pháp thứ hai. “Điều giải”
(調解) là giáo học khiến cho đôi bên đều hiểu
rơ lư, đều liễu giải chân tướng sự thật,
đều hiểu minh bạch, giác ngộ, vấn đề
bèn được hóa giải.
Do vậy, trước
hết, thực hiện từ chỗ nào? Thật sự làm
từ tâm, làm từ chính ḿnh, chẳng phải từ người
khác! Đấy là như trong kinh giáo đức Phật thường
nói: “Chưa độ chính ḿnh
mà độ kẻ khác, chẳng có lẽ ấy!” Bản
thân quư vị chẳng đắc độ, quư vị nói “ta
có thể độ kẻ khác”, đức Phật nói chẳng
hề có chuyện ấy đâu nhé! Bởi lẽ, để
độ người khác, ắt phải độ chính
ḿnh trước. Nho gia Trung Hoa cũng nói rất hay: “Hành hữu bất đắc, phản
cầu chư kỷ” (Có
chuyện ǵ chẳng làm được, hăy xét lại chính
ḿnh). “Tu thân làm gốc”, [đó
chính là] tự độ; “giáo học
làm đầu”, là độ kẻ khác. Bản thân quư vị
chẳng tu, làm sao quư vị có thể
dạy kẻ khác cho được? Tôi cũng đă nói điều
này rất nhiều lần. Khổng Tử, Mạnh Tử,
Thích Ca, Gia Tô
(Jesus), Ma Tây (Moses) thuở tại
thế giáo hóa chúng sanh, v́ sao có thành tích và thành tựu tốt
đẹp dường ấy? Chẳng có chi khác, chính họ
đắc độ trước, cũng có nghĩa là họ
đă làm được trước đă, sau đấy mới
dạy kẻ khác, người ta chẳng thể không phục,
chẳng thể không tiếp nhận giáo huấn! Hiện thời,
kẻ làm thầy dạy học tṛ, v́ sao học tṛ chẳng
phục? Chính thầy chẳng làm được! V́ sao cha mẹ
chẳng dạy con cái được? Do cha mẹ chẳng
làm được. Quư vị dạy con cái phải hiếu thuận cha mẹ, chúng nó thấy
quư vị chẳng hiếu thuận với cha mẹ [của
chính quư vị]! Đối với cha mẹ của
chính ḿnh mà chẳng hiếu thuận, làm sao có thể đ̣i
hỏi con cái ḿnh hiếu thuận cho được? Chúng nó
sẽ theo gương
quư vị!
Chúng ta sống
tại đô thị, v́ sao người lănh đạo đô
thị chẳng thể dạy dỗ dân chúng trong thành phố
tốt đẹp? Do bản thân kẻ lănh đạo chẳng
làm được. Nếu chính ḿnh đă làm được,
lẽ nào dân chúng trong thành phố chẳng phục! V́ thế,
chúng ta phải vĩnh viễn ghi nhớ câu chân lư này: “Tu thân làm gốc, giáo học làm
đầu”. Nhưng quư vị muốn tu thân, nhất
định là phải chánh tâm, thực hiện từ cái tâm!
Muốn chánh tâm, trước hết phải thành ư. Muốn
thành ư, nhất định phải trí tri (致知). Muốn trí tri, nhất định phải
cách vật (格物, trừ khử vật dục). Tổ tiên đă
truyền dạy chúng ta chuyện này. Thực hiện từ
chỗ nào? “Vật cách nhi hậu
tri chí, tri chí nhi hậu ư thành, ư thành nhi hậu tâm chánh, tâm
chánh nhi hậu tu thân” (Trừ khử vật dục sau
đấy hiểu biết rốt ráo, đă hiểu biết
tột cùng rồi ư mới chân thành. Ư đă chân thành rồi
cái tâm mới chánh. Cái tâm đă chánh sau đó mới tu thân).
Sau đấy mới dạy người khác, quư vị dạy
người khác từ chỗ nào? Từ gia giáo. “Gia tề, quốc trị, thiên hạ
b́nh”. Hoàn toàn cậy vào tu thân và giáo học. Đấy là
đạo b́nh trị thiên hạ đă truyền lại từ cổ. Nếu quư vị chẳng tuân thủ điều
này, chắc chắn sẽ thất bại. Quư vị có thể
tuân thủ, chắc chắn sẽ thành công. Hiệu quả
của việc
ấy (tuân thủ đạo b́nh trị thiên hạ) là thiên hạ thái b́nh, nhân dân an lạc. Đấy
là chân lư! Quư vị làm được chuyện này th́ mới
có tư cách làm chiếc cầu, hoặc nói thông tục, quư
vị mới có tư cách làm người ḥa giải.
Hiện thời,
do khoa học kỹ thuật phát triển, thông tin thông suốt
chẳng trở ngại, giao thông thuận tiện, địa
cầu biến thành một nhà. Bày ra trước mặt chúng
ta là những chuyện bất ḥa giữa các quốc
gia, bất ḥa giữa các dân tộc, các sắc dân quá phức tạp, quá nhiều, nỗi bất ḥa giữa các tôn giáo với nhau, dẫn đến xă hội động loạn
toàn diện. Mức độ động loạn xác thực
đă khiến cho nhân loại cư trụ trên địa cầu
gần như đến t́nh trạng chẳng thể chịu
đựng nổi. Cổ nhân nói: “Nhân dân sống trong cảnh nước sâu, lửa bỏng”, nếu dùng câu này để h́nh dung xă hội
hiện thời rất thích hợp! V́ thế, nhu cầu bức
thiết trong hiện tại là Ḥa. Hài ḥa chính là chiếc cầu,
làm thế nào để giúp cho hết thảy đều có
thể chung sống ḥa thuận, đối đăi b́nh đẳng?
Chuyện này mà dùng vũ lực [để giải quyết],
sẽ không được. Hiện thời, vũ lực có
thể hủy diệt thế giới, nó làm được
điều này. Muốn đưa thế giới hướng đến chung sống ḥa thuận, đối đăi b́nh
đẳng, chắc chắn là vũ lực chẳng làm
được, chúng ta phải nhận biết rơ ràng.
Mở cuộc
họp, mở hội nghị cũng chẳng thể giải
quyết. Liên Hiệp Quốc đă thí nghiệm, làm suốt
mấy chục năm qua, chẳng có hiệu quả! V́ thế,
vẫn là biện pháp cũ x́ của Trung Hoa là hữu hiệu.
Tổ tiên đă dạy chúng ta, “tu
thân làm gốc, giáo học làm đầu”, cách này có thể
làm được; nhưng điều kiện tiên quyết là bản
thân chúng ta phải tu thân cho tốt. Điều kiện
đầu tiên để tu thân là “cách vật” (格物), “vật” (物) là ǵ? Chính là dục vọng! Nay chúng ta biết
người trên toàn thế giới trong hiện thời, có
kẻ nào chẳng truy cầu dục vọng hưởng
thụ vật chất? Chuyện này phiền phức lắm,
giống như người sống trong thế gian để
làm ǵ? Chính là để truy cầu dục vọng vật chất,
v́ chuyện này mà sống. Như vậy là không được
rồi! Ai nấy đều mong thỏa măn dục vọng
vật chất của chính ḿnh, có thể nào chẳng tranh
chấp cho được? Nói thật ra, ngay từ bé, Mẫu Giáo đă dạy cạnh tranh, phải
mạnh hơn kẻ khác. Kẻ khác cũng cạnh tranh, phải
mạnh hơn quư vị! Được dạy cạnh
tranh, dạy đấu đá từ bé; cạnh tranh tiến
cao hơn sẽ là đấu tranh. Đấu tranh ở mức
độ cao hơn sẽ là chiến tranh. Hiện thời
chiến tranh lại thăng cấp, chư vị đều
biết, chiến tranh vũ khí hạch nhân, chiến tranh
sanh hóa (biochemical
war). Trong tâm mọi người
cũng hiểu rơ chiến tranh kiểu ấy chẳng có thắng
thua, chẳng thể nói ai thắng, ai thua, kết quả là
ǵ? Cùng nhau chết sạch! Do vậy, kinh Phật xếp loại
chiến tranh này vào loại tiểu tam tai.
Đức Phật
nói có đại tam tai và tiểu tam tai. Đại tam tai là tinh hệ
nẩy sanh biến hóa, khoa học hiện đại đă
quan sát thấy, rất rơ ràng! Đại tam tai là nói thế
giới thành, trụ, hoại, không, thấy tinh cầu bùng
nổ, tinh cầu tiêu mất, mà cũng thấy những
tinh cầu mới xuất hiện, đúng như kinh Phật
đă nói “tinh cầu thành, trụ,
hoại, không”. Đối với tiểu tam tai, trong kinh,
đức Phật đă nói là chiến tranh, ôn dịch và đói
kém liên tiếp. Thời gian chiến tranh chẳng dài, bảy
ngày bảy đêm; ôn dịch là bảy tháng bảy ngày; đói
kém là bảy năm bảy tháng bảy ngày. Đức Phật
thường dùng “bảy”, thật
ra “bảy” chẳng phải
là một con số. “Bảy”
biểu thị sự viên măn, biểu thị ư nghĩa này. Nếu
hiểu là con số, chúng ta đă thấy sai mất rồi!
V́ thế, chiến tranh bảy ngày bất luận từ
khi chiến tranh bắt đầu nổ ra, cho tới khi
cuộc chiến kết thúc, bất luận đánh nhau mấy ngày, một ngày cũng thế, hai ngày
cũng thế, một tháng cũng thế, hai tháng cũng
thế, đều gọi là “bảy”,
phải hiểu ư nghĩa này!
Nhưng chúng ta
nh́n vào chiến tranh vũ khí hạch nhân hiện thời, đối
với “bảy” như đức
Thế Tôn đă nói, không chỉ là ư nghĩa biểu pháp, mà
cũng có thể nói là đă ấn định cho chúng ta một
thời gian biểu. Hiện thời, hủy diệt thế
giới chẳng phải là bảy ngày! Nhấn một nút, thế
giới bị hủy diệt trong một sát-na. Hiện thời,
bom nguyên tử (nuclear
bomb), bom khinh khí (H-bomb) có oai lực
gấp mấy ngàn lần hai quả bom của Mỹ ném xuống
Quảng Đảo (Hiroshima) và
Trường Kỳ (Nagasaki) trong quá
khứ, hết sức đáng sợ! Một thành phố lớn
có cả ngàn vạn người cư trụ, một quả
bom khinh khí sẽ hủy diệt toàn bộ. Trong một sát-na,
toàn bộ ngàn trăm vạn người chẳng c̣n nữa, chớ
nên không biết điều này! Trên thế giới hiện
thời, chư vị đều biết, có khá nhiều quốc
gia cất giữ vũ khí hạch nhân. Nghe nói đầu đạn
hạch nhân nếu cộng
lại đă vượt hơn
con số mười vạn cái, có thể hủy diệt địa
cầu mấy trăm lần!
Nay chúng ta đang sống trong hoàn cảnh như thế nào?
Chính là ngồi cạnh bom;
hễ kích ng̣i bom, sẽ thấy bom bùng nổ. Tôn giáo phương
Tây gọi chuyện này là “tận
thế”, nhưng hiện thời ng̣i nổ của bom c̣n
chưa bị thiêu nóng đến mức bùng nổ, đấy
chẳng phải là hai bên cùng
nhau chết sạch hay hai bên cùng tồn tại thịnh vượng?
Tôn giáo có thể
đóng vai tṛ sứ giả ḥa b́nh, hóa chiến tranh thành ḥa
b́nh hay không? Đấy là chiếc cầu! Chiếc cầu
này phải cậy vào sự giác ngộ của đại đa
số mọi người, phải cậy
vào bậc đại thánh nhân, đại Bồ Tát cứu
khổ cứu nạn. Đại thánh nhân, đại Bồ
Tát là ai? Trong quá khứ, tôi thường nói, hai hạng người,
một là người lănh đạo quốc gia, hạng
kia là người chủ tŕ các phương tiện truyền
thông. Hai hạng người ấy có sức ảnh hưởng
quá lớn. Hai hạng người ấy giác ngộ, sẽ
có thể lôi kéo người trên toàn thế giới đều
giác ngộ. Gần đây, lănh đạo Trung Quốc là Hồ
chủ tịch (Hồ Cẩm Đào) đă đề ra “xă hội hài ḥa, thế giới
hài ḥa”. Đấy là chiếc cầu. Thực hiện như
thế nào? Cục tôn giáo quốc gia của Trung Quốc
đề ra cương lănh, “tâm
tịnh cơi nước tịnh;
tâm an, chúng sanh an; tâm b́nh, thiên hạ b́nh”. Được đấy! Nếu thực hiện ba cương lănh ấy,
sẽ bắc thành công chiếc cầu ấy. Thực hiện
bằng cách nào? Chư vị đừng quên những điều
tôi vừa nói, tổ tiên đă dạy chúng ta: “Tu thân làm gốc, giáo học làm
đầu”. Làm từ chỗ nào? Vẫn là từ “cách vật, trí tri, thành ư, chánh
tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ”. Mỗi
giai đoạn đều chẳng rời khỏi cương
lănh cốt lơi, tức là “tâm tịnh,
tâm an, tâm b́nh”.
Muốn đạt
tới mục đích cách vật (格物, trừ khử ham muốn), chúng ta phải buông xuống dục vọng,
đừng nên tranh giành nữa! Có ǵ đáng để tranh
giành? Người sống trong thế gian này, chỉ cần
có thể ăn no, mặc ấm, có gian nhà nhỏ để
che gió, đụt mưa, đủ rồi! An bần lạc
đạo! Mục đích của đời người
chẳng phải là hưởng thụ; mục đích của
đời người là tăng cao linh tánh của chính
ḿnh. Hoặc nói cách khác, tăng cao cảnh giới của chính
ḿnh. Đó là đúng! Nói theo Phật pháp, trong mười pháp
giới, phải không ngừng tiến
cao hơn. Nay chúng ta đang ở trong nhân đạo, mức
độ thấp nhất là phải nâng cao chính ḿnh lên thiên
đạo. Có hai mươi tám tầng trời, tăng cao
hơn từng tầng một, khi lên đến tột đỉnh,
chúng ta sẽ vượt thoát lục đạo, cứ tăng
tấn không ngừng. Ngoài lục đạo ra, sẽ là Thanh Văn đạo, Duyên Giác đạo,
Bồ Tát đạo, Phật đạo; đấy chính là
đời người có ư nghĩa! Trong ấy có niềm
vui chân thật. Thích Ca Mâu Ni Phật đă v́ chúng ta thị
hiện, giữa trưa ăn một bữa, ba y, một bát, sung sướng vô cùng! Vui sướng
thật sự chẳng phải là sự hưởng thụ
vật chất. Vật chất là những thứ rườm
rà, thừa thăi, trong vật chất có tạo nghiệp, điều
này rất đáng sợ! Chúng ta chớ nên không hiểu đạo
lư này! Chớ nên không tuân theo giáo huấn của thánh hiền,
hăy nghiêm túc học tập.
Các đồng
tu học Phật của chúng ta có người đă học
rất nhiều năm, v́ sao công phu không đắc lực?
Chính là do quư vị chẳng buông xuống dục vọng, có
nghĩa là quư vị chẳng làm được “cách vật”. “Cách” là “cách trừ” (格除, trừ bỏ), nói theo kiểu Chương
Gia đại sư dạy tôi, sẽ là “buông xuống”. “Cách” (格) là buông xuống. Trước tiên là buông xuống
dục vọng, trọn chẳng tham cầu hưởng thụ
vật chất. Nếu quư vị vứt bỏ thứ này, tâm quư vị sẽ định,
sẽ thanh tịnh, tâm bèn an, bèn b́nh, thực hiện từ
chỗ này! Lục Tổ đại sư dạy: Quư vị
có thể buông xuống Thập Ác, tâm quư vị sẽ thanh tịnh.
Quư vị có thể buông xuống Bát Tà, tâm quư vị sẽ b́nh
đẳng. Quư vị có thể buông xuống hết thảy
các tập khí bất thiện, tâm quư vị sẽ an, toàn là
công phu “cách vật”. Chúng ta
có trí huệ, v́ sao trí huệ chẳng thấu lộ? Là do bị
những thứ tập khí phiền năo ấy trùm lấp! Chỉ
cần buông xuống ḷng ham hố vật chất, trí huệ
sẽ hiện tiền, đă trừ khử vật dục
rồi sẽ biết thấu suốt.
Lục Tổ Huệ
Năng đại sư đă v́ chúng ta thị hiện. Quư
vị thấy Ngài gặp Ngũ Tổ, bèn thưa với Ngũ
Tổ: “Trong tâm đệ tử
thường sanh trí huệ”. Lúc tôi mới đọc Đàn
Kinh, thấy câu nói ấy bèn hết sức cảm động,
[bội
phục] năm vóc gieo sát đất,
chúng tôi rất hổ thẹn. Nếu tôi gặp Ngũ Tổ,
Ngũ Tổ hỏi tôi: “Ngươi như thế nào?” Tôi nhất
định thưa là “trong tâm đệ tử thường
sanh phiền năo, trong tâm đệ tử thường sanh nghi
hoặc”, làm sao có thể sánh bằng người ta cho
được! V́ sao? Người ta đă buông xuống; hễ
buông xuống tập khí phiền năo, sẽ sanh trí huệ. Trí huệ hiện tiền,
chân tâm bèn hiện tiền, Bồ Đề tâm hiện tiền.
Nhà Phật nói là Bồ Đề tâm, Nho gia nói là “thành ư, chánh
tâm”. Các vị hăy ngẫm xem, thành
ư chánh tâm có phải là Bồ Đề tâm hay chăng? Tôi nói
Bồ Đề tâm thành mười chữ, “thành ư” là chân thành, “chánh tâm” là ǵ? Tâm thanh tịnh,
tâm b́nh đẳng, tâm chánh giác, tâm từ bi; đó gọi là
“chánh tâm”. Nho gia nói một,
nhà Phật giảng thành bốn món, nói rơ ràng! Một và bốn
chẳng có nhiều hay ít. Một chính là bốn, bốn tức
một; một đằng là tổng thuyết (nói tổng quát), một đằng là tế thuyết (nói
chi tiết).
Sanh khởi cái
tâm ấy! Sau khi cái tâm ấy đă sanh khởi, thân bèn tu. Quư
vị khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo
tác đều phát sanh từ chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng,
chánh giác, há có lẽ nào thân chẳng tu? Tâm chánh th́ thân chánh, tâm
chánh th́ ngôn chánh. V́ thế, thân được tu. Có tu thân th́
mới có thể tề gia, đấy chính là giáo hóa chúng
sanh. Giáo hóa chúng sanh được thực hiện từ nơi đâu? Dạy từ
ngay trong nhà! Quư vị dạy người nhà, lẽ nào người
nhà chẳng phục? Người nhà thấy quư vị có tư
thái như vậy, chẳng có ai không kính ngưỡng, bội
phục, chẳng có ai không tôn trọng. Do chẳng có ai không kính ngưỡng, bội phục,
họ sẽ tự nhiên học theo quư vị. Dùng thân giáo, dùng
ngôn giáo, dạy một nhà tốt đẹp. Một nhà đă
được dạy tốt đẹp, sẽ có thể ảnh
hưởng cả nước. Thời cổ, nước
chẳng lớn, [nước thời cổ] giống như
một hương trấn, hay một huyện thị trong
hiện tại. Đại quốc tương đương
một huyện, tiểu quốc tương
đương một hương trấn, đều bị
cảm hóa. Một huyện thị, một hương trấn
thảy đều có thể làm được, sẽ biến
thành gương mẫu cho cả thế giới. Làm mẫu,
làm khuôn phép cho khắp thế giới, ai nấy đều
học theo quư vị. Đấy là chiếc cầu thật sự, thật sự là “quảng
độ chúng sanh”, quư vị thấy có phải là độ chính ḿnh trước hay chăng?
Muốn độ
chính ḿnh trước th́ phải buông xuống ham muốn vật
chất. Chúng tôi thường khuyên lơn các đồng học
về chuyện này: Phải buông xuống ḷng ích kỷ, phải
buông xuống tiếng tăm, lợi dưỡng, phải buông
xuống sự hưởng thụ ngũ dục, lục
trần, phải buông xuống tham, sân, si, mạn, nghi. Chẳng
buông xuống những thứ ấy, những thứ sau ấy
sẽ đều chẳng có! Tôi bảo quư vị hăy buông xuống
mười sáu chữ ấy, đấy chính
là “cách vật”, tu thân và giáo
học được thực hiện từ chỗ này. Thánh
hiền thế gian và xuất thế gian, xưa nay, trong ngoài
nước, chẳng có vị nào không làm từ chỗ này.
V́ thế, quư vị nhất định phải nhận thức
rơ ràng: Ích kỷ, ham muốn vật chất hại người,
chẳng phải là thứ tốt đẹp, làm hại
chúng ta đời đời kiếp kiếp phải luân hồi
trong lục đạo. Đối với lục đạo,
nay đang ở trong nhân đạo, quư vị đă nếm
trải nỗi khổ trong nhân đạo, chứ nỗi
khổ trong tam đồ quư vị chẳng biết. Phật,
Bồ Tát rất từ bi, khiến cho chúng ta từ khá nhiều
linh môi (spiritual medium) biết được đôi chút trạng
huống trong tam đồ. Những năm qua, hết lần này đến
lần khác xảy ra, đối
với chuyện này, bản thân tôi rất tin tưởng,
chẳng ngờ vực, nhưng chúng tôi chẳng nói ra!
Măi cho đến
gần đây nhất, tại Úc, chúng tôi tổ chức một
hoạt động có quy mô lớn, hơn một ngàn người
tham gia. Để kỷ niệm Chương Gia đại
sư văng sanh bốn mươi chín năm, lễ châu niên chín
năm văng sanh của quán trưởng Hàn Anh, chúng tôi làm một
lễ kỷ niệm, hơn một ngàn người tham gia
đến từ các nước trên thế giới. Ngay
trong cuộc lễ ấy, từ huyện Khánh Vân tỉnh Sơn
Đông gọi điện thoại viễn liên cho tôi, cho biết kẻ đồng cốt có linh quỷ dựa
thân bên ấy, đă hé lộ trạng huống khổ nạn
trong địa ngục đạo và ngạ quỷ đạo.
V́ người ấy nói quá nhiều, tôi cũng chẳng
nghe rơ ràng lắm, tôi để bọn họ viết thành bài,
fax cho tôi. Có các đồng học đă xem phần văn tự
ấy; đấy là tài liệu để chúng tôi tham khảo
nội bộ, chẳng lưu thông bên ngoài. Mấy hôm sau, bên
Đài Loan cũng có chuyện ấy phát sanh, chúng tôi cũng
yêu cầu họ viết ra. Hôm nay, các đồng học từ
Cát Lâm đưa tin, bên ấy cũng phát sanh chuyện này. Từ
các nơi khác nhau, chẳng phải là dựa thân một người,
nhưng những
điều họ nói đều
là trạng huống khổ sở trong cơi u minh, đúng là từ
bốn phương tám hướng truyền đến.
Chúng ta dùng thái độ
ǵ để nh́n chuyện này? Tôi thường bảo các
đồng học: “Chẳng
thể không tin, nhưng chớ nên tin hoàn toàn”.
Đấy là một thái độ nghiêm túc, cẩn trọng.
Quư vị phải xét coi tin tức do họ truyền đạt, [nếu là] đúng lư tức là nói theo lư th́ thông suốt, nói theo t́nh người th́
cũng hợp lẽ, [như vậy th́] có thể tin tưởng.
Nếu xét theo lư chẳng thông, nói
theo phía t́nh người và kiến thức thông
thường chẳng suông, như vậy th́ chẳng thể tin được. Ví như
họ yêu cầu chúng ta làm những ǵ? Yêu cầu
chúng ta truyền quy y, siêu độ cho họ, đó là như
pháp, họ t́m đến chúng ta là đúng. Chúng ta có thể
tiếp nhận, có thể
giúp đỡ họ. Nếu
họ yêu cầu chúng ta làm chuyện khác, sai mất rồi,
[chẳng hạn như] phải tín phụng họ, họ
sẽ cho quư vị lợi ích chi đó, điều ấy
chắc chắn chẳng đáng tin tưởng! Phu tử dạy chúng ta: “Kính quỷ thần nhi viễn chi” (Tôn kính nhưng tránh xa quỷ thần), đấy
là chánh xác! Quỷ thần cũng là chúng sanh, chúng ta phải
nên tôn trọng họ, lễ kính chư Phật mà! “Viễn” là ǵ? Trọn chớ
nên nghe họ nói nhăng,
nói cuội; [nếu nghe theo], quư vị sai mất rồi! Quư vị có nghi vấn
chi đó bèn hỏi
họ, cầu họ giải quyết
giùm, chỉ điểm quư vị, điều này chẳng đáng
tin cậy nhất! Bản thân họ đă kể lể nỗi
khổ ngần ấy, yêu cầu loài người giúp đỡ họ, làm sao họ có thể giúp quư vị cho
được? Nếu họ có năng lực giúp đỡ
quư vị, chính họ sẽ chẳng cần phải cầu
cạnh con người! V́ thế, chúng ta phải dựa
theo t́nh, lư, và pháp để phán đoán.
Hết thảy
chúng sanh có khổ nạn, chúng ta học Phật, phải học theo đức Phật “từ bi làm gốc, phương
tiện làm cửa”, phải nên thành tâm thành ư giúp đỡ
họ; đấy là đúng. V́ thế, những quỷ thần
tiếp xúc tôi, tôi đều có thể tin tưởng, v́
sao? Họ đến xin tôi, chẳng cầu xin chi khác! Họ
xin tôi truyền quy y, tôi bèn truyền Tam Quy. Họ xin siêu độ,
chúng ta dùng niệm Phật hồi hướng. Họ xin
nghe kinh, có thể đến đạo tràng. Trong đạo
tràng, tôi lập bài vị cho họ, hoan nghênh họ đến
nghe kinh. Trong Niệm Phật Đường có thờ bài vị
của họ, hoan nghênh họ đến niệm Phật,
hy vọng họ sẽ theo chúng ta cùng sanh Tịnh Độ.
Đấy là hợp t́nh, hợp lư, hợp pháp, chúng ta có thể
tiếp nhận! Đạo tràng của chúng ta chẳng làm
kinh sám Phật sự, chẳng có những chuyện siêu độ
ấy, nhưng chúng ta có Tam Thời Hệ Niệm. Tam Thời
Hệ Niệm nhằm báo ân tổ tiên. V́ Tam Thời Hệ
Niệm là pháp môn Tịnh Tông, đúng là lợi ích người
âm lẫn cơi dương, tôi đề xướng chuyện này. Mỗi tuần chúng ta lấy chuyện tế
tổ làm chánh, chẳng phải là siêu độ chi khác, chúng
ta siêu độ tổ tiên.
Như tôi ở
Úc, mỗi tuần làm một lần. Ở những nơi
khác, tôi cổ vũ mọi người vào dịp Thanh Minh,
Đông Chí, mỗi năm tối thiểu là hai lần, hăy tế tổ vào dịp Thanh Minh và Đông Chí.
V́ sao Tịnh Tông Học Viện cử hành mỗi tuần?
Học nghi thức! Chúng tôi coi nó như một môn công khóa
để học tập. Tôi hy vọng tất cả đại
chúng đều hiểu những nghi thức, đều biết
thực hiện Phật sự như thế nào, nhằm mục
đích này, đó là giáo học. Nói thật ra, do giáo học,
chúng sanh trong cơi u minh đều có thể được lợi
ích. V́ thế, trong giảng đường dạy học,
cũng có thể thờ bài vị. Bất quá, đối với khóa tŕnh ấy,
trong sự dạy học,
chúng tôi luôn cử hành trong Vạn Tánh Tiên Tổ Kỷ Niệm
Đường, rất thù thắng! Đại khái tin tức
này đă truyền đến cơi u minh, cho nên chúng sanh trong cơi u minh đến t́m tôi càng
nhiều. Các đồng học Tịnh Tông phải biết
chuyện này: Ít lui tới với quỷ thần! Trong sự giao tiếp giữa con người
với nhau, bị kẻ khác gạt gẫm, c̣n có thể
dung thứ được. Nếu qua lại với quỷ
thần, bị quỷ thần lừa dối, quư vị sai
lầm to lớn!
Chúng ta niệm
Phật, học tập kinh giáo. Tôi khuyên các đồng học
Tịnh Tông, mỗi ngày tối thiểu đọc kinh hoặc
nghe pháp bốn tiếng đồng hồ, mỗi ngày dành ra bốn
tiếng đồng hồ.
V́ sao? Chẳng hiểu rơ lư, tín tâm của quư vị sẽ
chẳng kiên cố, nguyện tâm chẳng khẩn thiết.
Hễ gặp thử thách, sẽ hoài nghi, ngă ḷng, làm sao có thể
thành tựu cho được? V́ thế, nay chúng ta dùng đọc
tụng, nghe pháp, niệm Phật để làm chiếc cầu
văng sanh Tịnh Độ. Chiếc cầu ấy chẳng
thể dao động, đấy chính là mục tiêu bậc
nhất, phương hướng bậc nhất của chúng
ta trong một đời này, vĩnh viễn chẳng thể
thay đổi! Chúng ta thành tựu, tự nhiên sẽ có năng
lực giúp đỡ người khác. Chính ḿnh chẳng có thành
tựu, người khác sẽ chẳng
t́m đến. V́ sao? “Bản thân ngươi độ chính
ḿnh c̣n chưa xong, làm sao có thể giúp ta cho được?” Chúng ta gặp khó khăn, t́m người giúp
đỡ, nhất định là [t́m] người có năng
lực, có thể chiếu cố, giúp đỡ ta, chúng ta mới t́m người ấy. Nếu
kẻ ấy chẳng có năng lực
này, quư vị t́m kẻ ấy
vô dụng! V́ thế, nhất định phải thành tựu
chính ḿnh trước đă!
Ngàn muôn phần
quư vị phải ghi nhớ: Cội rễ của Nho chính là
căn bản của căn bản, quư vị nhất định
phải ghi nhớ. Cách vật, trí tri, thành ư, chánh tâm, tu thân,
cũng có nghĩa là nếu quư vị thực hiện Đệ
Tử Quy và Thập Thiện Nghiệp Đạo một trăm
phần trăm, căn cội của quư vị được
vun quén ổn thỏa. Sau đấy, lại tiến
thêm bước nữa là thi hành Tam Quy, Ngũ Giới để
làm cơ sở học Phật. Ắt cần phải biết đời người khổ
sở, ngắn ngủi, ngày tháng c̣n lại chẳng dài! Một
tấc quang âm, một tấc vàng! Đừng nên phí uổng
thời gian, hăy nắm chắc thời gian để nghiêm
túc nỗ lực tu hành. Trong kinh Đại Tập, đức
Phật đă khai thị, chúng ta phải hiểu rơ: Một
dạ quy y Tịnh Độ, buông xuống muôn duyên, hy vọng
chúng ta thật sự thành tựu ngay trong một đời
này! Bất luận ưa thích pháp môn ǵ, sau khi đă đến
thế giới Cực Lạc, sẽ lại học. V́ sao?
Đến thế giới Cực Lạc, ai nấy đều
là vô lượng thọ, có thời gian. Ở trên địa
cầu này, thời gian chẳng dài, một trăm năm bất
quá cũng là một cái khảy ngón tay!
Ông Thang Ân Tỷ
(Arnold Toynbee) lúc tuổi già hết sức cảm
khái, ông ta tự nói. Khi ấy, ông đă tám mươi
lăm tuổi, [lúc ấy] là năm 1973. Ông ta cảm thấy
chính ḿnh trong một đời này, cảm nhận thời
gian dài hay ngắn khác biệt. Từ lúc sanh ra cho đến
khi bảy tuổi, đấy là một giai đoạn. Thời
gian từ bảy tuổi cho đến tám mươi
lăm tuổi dài như khi ông ta bảy tuổi. Nói cách khác,
đời người là bao nhiêu năm? Mười bốn
năm! Cảm thấy bảy mươi mấy năm sau đó
dài bằng bảy năm trước! Chúng ta có cảm giác
này hay không? Hăy khéo suy nghĩ, [sẽ thấy] chẳng khác
chi hết! Tôi năm nay tám mươi tuổi, ngẫm lại
th́ thấy đúng quá! Mười tuổi rời khỏi
quê nhà, thời gian ở quê hương mười năm dài
ngần ấy, từ đấy bảy mươi năm về
sau, đúng là giống như mười năm, một sát-na.
Huống hồ mạng người vô thường, phải
quư trọng, phải lợi dụng thời gian ngắn ngủi
này, nhất định phải hoàn thành đạo nghiệp
của chính ḿnh. Thật vậy, chẳng giả! Thứ này
mang theo được! Tất cả hết thảy tiếng
tăm, lợi dưỡng trong thế gian, kể cả thân
t́nh, quyến thuộc, chẳng thứ nào mang theo được!
Tổ sư đại đức thường dạy chúng
ta, đối với cái mang theo được th́ phải nghiêm
túc thực hiện, những cái không mang theo được
thảy đều buông xuống. Đấy là đúng! Hôm
nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi nói tới đây!
Tập 1538
Chư vị
pháp sư, chư vị đồng tu, xin hăy ngồi xuống.
Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một, tiểu
đoạn thứ hai trong đoạn lớn thứ sáu của
phần kệ tụng, xem từ bài kệ thứ mười
sáu.
(Kinh)
Nhược kiến lưu thủy, đương nguyện
chúng sanh, đắc thiện ư dục, tẩy trừ Hoặc
cấu.
(經)若見流水。當願眾生。得善意欲。洗除惑垢。
(Kinh:
Nếu thấy nước chảy, nguyện cho chúng sanh,
được ư dục lành, gột rửa phiền năo).
Ra ngoài, “lưu thủy” (流水, nước chảy) là thứ thường
trông thấy, [chẳng
hạn như] ḍng suối
nhỏ, sông nhỏ, Bồ Tát trông thấy cảnh giới ấy,
dẫn phát bi nguyện trong tự tánh, “đương nguyện chúng sanh”. Chúng ta thấy
một trăm bốn mươi mốt bài kệ này, câu thứ
hai trong mỗi bài kệ, trong bốn chữ ấy (“đương nguyện chúng sanh”) đă bao hàm hết thảy chúng sanh trong khắp pháp
giới hư không giới. Chẳng phải chỉ là khu vực
hiện tiền, cơi nước, hoặc địa cầu,
[nếu chỉ hiểu là thuộc trong phạm vi ấy] sẽ là quá nhỏ, chẳng
phải là tâm nguyện của Bồ Tát, chẳng phải là
tâm lượng Bồ Tát. Tâm lượng của Bồ Tát không
ǵ chẳng phải là “tâm bao
thái hư, lượng châu sa giới”, hằng sa thế giới. Thế giới ấy
được gọi là đại thế giới, chẳng
phải là tiểu thế giới, là khu vực giáo hóa của
đức Phật, trong kinh luận gọi là “đại thiên thế giới”.
Đại thiên thế giới vô lượng, vô biên, vô tận,
vô số. Thuở đức Phật tại thế, thời
gian Ngài hoằng hóa trên lưu vực sông Hằng rất dài,
cát sông Hằng rất mịn. V́ thế, hễ nói đến
một con số lớn, Ngài dùng cát sông Hằng để tỷ
dụ, gọi là “hằng sa thế
giới”, hằng hà sa số các cơi Phật như vậy!
Từ kinh Hoa
Nghiêm, chúng ta đọc thấy, thành Phật, tuy nói “Phật Phật đạo đồng”,
điều này đúng là chẳng c̣n bàn căi chi nữa. Nói “đồng” nghĩa là trí huệ
giống nhau, nguyện lực cũng giống nhau, nhưng
c̣n có chỗ bất đồng, bất đồng là ǵ? Duyên
phận bất đồng, chư vị phải biết điều
này. Do vậy, có những vị Phật, như ở cơi này,
Sa Bà thế giới Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, khu vực
giáo hóa của lăo nhân gia là một tam thiên đại thiên thế
giới. Đấy là chuyện thường thấy trong Phật
pháp, chiếm đại đa số. Nhưng c̣n có những
vị Phật phước báo to lớn, khu vực giáo hóa của
Ngài là hai đại thiên thế giới, ba đại thiên thế
giới, có vị là mười mấy đại thiên thế
giới, có vị hơn một trăm đại thiên thế
giới, phước báo to lớn! Đấy là chỗ khác
nhau! Phước báo lớn nhất là A Di Đà Phật, khu
vực giáo hóa của A Di Đà Phật trọn khắp pháp
giới hư không giới. Nói cách khác, thế giới Sa Bà của
chúng ta cũng bao gồm trong ấy, cũng chẳng phải
là ngoại lệ.
Khi tôi giảng
kinh Vô Lượng Thọ, đă có thưa tŕnh cùng chư vị:
Tây Phương Cực Lạc thế giới giống như
một ngôi trường, chư Phật Như Lai trong mười
phương cơi nước giống như là chiêu sinh giùm ngôi
trường ấy. Những học sinh đă được tuyển mộ đều đưa đến
ngôi trường ấy. Nếu quư vị hiểu tỷ dụ
này, sẽ hiểu rơ mười phương hết thảy
chư Phật, Bồ Tát và A Di Đà Phật có mối quan
hệ ǵ, quư vị sẽ hiểu: “Không ǵ chẳng quy vào Tây Phương Tịnh
Độ!” Từ hội Hoa Nghiêm, chúng ta thấy
trợ thủ đắc lực của Tỳ Lô Giá Na Phật
là Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát. Cuối
kinh Hoa Nghiêm, hai vị Bồ Tát ấy đều phát nguyện
cầu sanh thế giới Cực Lạc. Đấy là thị
hiện cho chúng ta thấy, thế giới Cực Lạc viên
măn rốt ráo. Viên măn ǵ vậy? Toàn thể Tánh Đức của
chúng ta đều khai phát, chẳng có mảy may chướng
ngại nào, đấy là thế giới Cực Lạc! Chỗ
thù thắng của nó là “thích hợp
khắp ba căn, gồm thâu lợi căn lẫn độn
căn”. V́ thế, pháp môn này rộng lớn chẳng thể
sánh tầy! Đức Thế Tôn đă bảo chúng ta, trong pháp
giới hư không giới, có khá nhiều vị Bồ Tát mong
cầu t́m kiếm pháp môn này mà chẳng thể được.
“Chẳng thể được”
là do không có duyên phận. Nay chúng ta gặp gỡ, quư vị nói
xem, may mắn lắm thay!
V́ sao chúng ta có
thể gặp gỡ? Chẳng phải là chuyện ngẫu
nhiên đâu nhé! Đời đời kiếp kiếp trong
đời quá khứ đă kết duyên với A Di Đà Phật
và Tây Phương Tịnh Độ. Chẳng có cái duyên này,
pháp môn ở ngay trước mặt mà quư vị cũng chẳng thể nẩy sanh tín tâm. Quư vị thấy
cư dân Hương Cảng có bốn, năm trăm vạn,
người đông như vậy, có mấy ai tin tưởng
pháp môn này? Thầy Lư đă từng bảo: “[Chỉ xét trong số những] người
niệm Phật, kẻ chẳng niệm Phật không tính, một
vạn người niệm Phật, thật sự có thể
văng sanh chỉ có một, hai người!” Ở Hương Cảng, chỉ sợ c̣n
chưa đạt đến tỷ lệ ấy. Nếu
trong một vạn người có hai người văng sanh,
trong một trăm vạn sẽ có hai trăm người văng
sanh, trong năm trăm vạn sẽ có một ngàn người
văng sanh. Ở Hương Cảng này, chỉ sợ chẳng
có một ngàn người văng sanh. V́ sao? Thiện căn, phước đức, nhân duyên chẳng đủ!
Chẳng thể nói là không có thiện căn, [mà là] thiện
căn quá ít ỏi, chẳng đủ, không đạt mức!
Có các đồng tu thiện căn, phước
đức, nhân duyên trọn đủ, tuy trọn đủ mà vẫn chẳng
thể văng sanh, nguyên nhân ở chỗ nào? Không buông xuống
ngũ dục, lục trần, tiếng tăm, lợi
dưỡng được! Sức dụ dỗ, mê hoặc
này quá mạnh, quư vị chẳng chịu buông xuống.
Do đó, quư vị vẫn chẳng thể văng sanh được.
Thiện căn, phước đức, nhân duyên thảy
đều trọn đủ, ắt phải buông xuống
những thứ chướng ngại ấy, trong một
đời này, công đức của chúng ta sẽ viên măn.
V́ vậy, thấy
“lưu thủy”, quư vị hăy
lẳng lặng quan sát; hiện thời, khó thấy nhất là “thanh lưu” (清流), tức ḍng nước chảy thanh tịnh,
chẳng bị ô nhiễm. Hiện nay, rất khó thể thấy
v́ cả đại địa đă bị ô nhiễm phổ
biến. Ḍng nước chẳng bị ô nhiễm, đại
khái chỉ có ở vùng núi, những ḍng suối nhỏ trong
thôn làng quê hoặc khe ng̣i trên núi vẫn chưa bị ô nhiễm,
quư vị trông thấy sẽ rất hoan hỷ. Chúng ta ắt
dùng loại nước thanh khiết ấy th́ mới có thể
dưỡng thân. Chúng ta đều biết: Nước trên
mặt đất sẽ chảy vào biển cả, biển
cả là chỗ tụ hội của tất cả sông ng̣i.
Trong thế kỷ này, đặc biệt là từ niên đại
bảy mươi trở đi, tức là từ sau năm
1970 trở đi, sự ô nhiễm hoàn cảnh trên địa
cầu đă trở thành tồi tệ rất rơ rệt. Sự
tồi tệ ấy khiến cho khá nhiều nhà khoa học
cảm thấy kinh ngạc, bất an. Do nguyên nhân ǵ vậy? Trong nửa thế kỷ này, công nghiệp
khoa học kỹ thuật đột nhiên tăng trưởng
mạnh mẽ, lũ b́nh phàm chúng ta chẳng liễu giải
chân tướng sự thật, cứ ngỡ đấy là
chuyện tốt đẹp, khoa học kỹ thuật đem
lại rất nhiều thuận tiện. Quư vị có biết
[để hưởng thụ] những thuận tiện ấy,
quư vị đă phải đánh đổi bằng cái giá to
cỡ nào hay không? Chẳng
có ai biết, thưa cùng quư vị, đánh đổi bằng
cái giá to cỡ nào? Chính
là dùng sanh mạng của toàn thể địa cầu
để đánh đổi. Quư vị nói xem, có nghiêm trọng như vậy hay không? Đúng như thế đó!
Các nhà khoa học
đă đưa ra lời cảnh cáo, đại khái là lời
cảnh cáo ấy đă được nêu ra từ hai mươi
mấy năm trước, từ hai mươi mấy năm
trước đấy nhé! Nếu nhân loại vẫn
chẳng thể chấm dứt, sửa đổi sự ô
nhiễm, phá hoại, tức là sự phá hoại và ô nhiễm
hoàn cảnh sanh thái tự nhiên, nhân loại trên địa cầu
sau năm mươi năm nữa sẽ chẳng có cách nào
sống sót. [Dự đoán]
năm mươi năm mà đă
hai mươi năm trôi qua rồi, hiện thời c̣n
lại ba mươi năm. Ba mươi năm sau, nhân loại
trên cả địa cầu sẽ bị hủy diệt, tiêu
diệt, quư vị nói xem cái giá phải trả có to hay không?
Chúng ta c̣n muốn những thứ ấy hay không? Ai nấy
vẫn đang mù quáng liều mạng truy cầu. Các nhà khoa
học nói lời ấy có phải là dối trá bịa
đặt hay chăng? Tuyệt đối chẳng phải
vậy, họ có những chứng cứ khoa học.
V́ thế, chúng
ta thấy nước chảy, sẽ nghĩ làm thế nào
để gột rửa cái tâm của chính ḿnh thanh tịnh,
hạnh của chính ḿnh thanh tịnh; điều này trọng yếu! Trong những năm gần đây nhất,
chúng ta thật sự học được không ít thứ từ
kinh Hoa Nghiêm. “Tâm tịnh ắt
cơi Phật tịnh”, chúng ta thường nghe [câu ấy]
suốt mấy chục năm, nhưng như thế nào? Chẳng
khắc sâu cảm nhận. Nhưng sự cảm nhận ấy,
có thể nói là đă qua nhiều năm ngần ấy,
mỗi năm đều tăng cao hơn; đấy là
chuyện tốt! Hiện thời, chúng ta thật sự tiến
nhập cảnh giới này, liễu giải “tâm tịnh, cơi nước tịnh;
tâm tịnh, vũ trụ tịnh”! Tâm thanh tịnh, tâm b́nh
đẳng, tâm chánh giác có thể độ chính ḿnh. Tâm chân
thành, tâm từ bi có thể độ chúng sanh, nhưng trước hết phải độ
chính ḿnh! Chính ḿnh chẳng thể đắc độ,
sẽ chẳng có cách nào độ người khác; chớ
nên không biết điều này! Đặc biệt là sống
trong hoàn cảnh cận đại, tâm địa phải
thiện lương, làm nhiều chuyện tốt đẹp.
Chuyện tốt
đẹp nhất là ǵ? Giúp người khác giác ngộ. Hạng
mục từ thiện cứu tế quá nhiều; trong ấy,
quan trọng nhất là giúp đỡ chúng sanh phá mê khai ngộ,
ĺa khổ được vui. Đấy là giải quyết
vấn đề từ căn bản. V́ thế, Thích Ca Mâu
Ni Phật suốt một đời thực hiện sự
nghiệp cứu tế từ thiện, Ngài làm ǵ? Giáo học.
Hằng ngày dạy bảo, khuyên dạy mọi người;
suốt bốn mươi chín năm chẳng nghỉ ngơi
ngày nào! Từ khi có lịch sử cho tới nay, trên quả
địa cầu này, chưa từng có nhà đại từ thiện nào vượt trỗi Ngài.
Chẳng phải là nói “quư vị không có áo mặc,
bèn cho mấy bộ quần áo, quư vị chẳng có cơm ăn,
bèn tặng quư vị lương thực”. Đó là tiểu thiện, chẳng phải
là căn bản, đó là cành nhánh! Căn bản th́ phải
giúp đỡ quư vị, tức là giúp quư vị khai trí huệ.
Nhưng muốn khai trí huệ, nhất định là trước
hết cái tâm phải thanh tịnh, phải đạt tới
tâm địa thanh tịnh, nhất định phải tuân
thủ nghiêm ngặt giới luật. Do vậy, từ chỗ
này, chúng ta bèn thấu hiểu!
“Đắc thiện ư dục”
(được thỏa ḷng mong mỏi tốt lành), câu này nói
về quả báo. Câu kế tiếp là
“tẩy trừ Hoặc
cấu”, hai chữ “Hoặc cấu” chính là tham, sân, si, Hoặc (惑) là si, Cấu (垢) là tham, sân, đấy là căn bản của
phiền năo. Quư vị chẳng mê hoặc, làm sao có thể dấy
lên tham sân cho được? V́ thế, tham và sân dễ đoạn,
mê hoặc khó đoạn! Dùng Giới và Định có thể
khống chế tham, sân; nhưng đối với mê hoặc
th́ không được! Giới và Định không thể dùng
[để khống chế] mê hoặc được. Phải
khai Huệ, Huệ th́ mới có thể đoạn trừ
mê hoặc. Chúng ta đối trị bằng cách nào? Chuyện
này cũng rất rơ rệt!
“Siêng tu Giới, Định, Huệ, dứt diệt tham,
sân, si”, Cấu là tham sân, Hoặc là si, sau đấy quư vị
mới có thể “đắc thiện
ư dục” (đạt
được sự mong muốn tốt đẹp). Chúng ta thường nói “ư dục” (意欲) là “tâm tưởng,
sự thành, có cầu ắt ứng”; nhưng chữ trước đó quan trọng
lắm, tức là Thiện, chẳng phải là ác. V́ sao là
thiện, chẳng phải là ác? V́ quư vị gột rửa,
diệt trừ tham, sân, si; cho nên những ǵ quư vị mong mỏi
chẳng có điều ǵ bất thiện.
Nếu chúng ta
nh́n lại xă hội hiện tiền, [sẽ thấy] xă hội
hiện tiền là “đắc
ác ư dục, tăng trưởng Hoặc cấu”, chẳng
phải là gột trừ, mà là hằng ngày tăng trưởng.
Chúng ta học Phật, đă học nhiều năm ngần
ấy, nghe kinh hằng ngày, niệm Phật hằng ngày, chẳng cần nói là chúng ta đă gột
trừ tham, sân, si, [chỉ nói đơn giản là] có giảm thiểu hay không? Hăy nh́n từ chỗ
này. Gột trừ chẳng phải là chuyện đơn
giản! Nếu năm nay ít [tham, sân, si] hơn năm trước, tức là có tiến bộ.
Tham, sân, si giảm một phần, khẳng định là Giới,
Định, Huệ tăng trưởng một phần;
đấy là hai mặt
của một Thể. Trước hết, quư vị phải nhận
biết, điều này quan trọng hơn bất cứ điều
ǵ khác, phải khẳng định tham, sân, si có hại cho chính
ḿnh, Giới, Định, Huệ có lợi ích cho chính ḿnh. Phải
có sự nhận thức này!
Đức Phật
gọi tham, sân, si là Tam Độc! Tất cả hết thảy
các ác niệm thế gian và xuất thế gian, hết thảy
bất thiện, hết thảy ác hạnh đều sanh từ
chúng nó. V́ thế, chúng nó được gọi là Căn Bản
Phiền Năo, là cội nguồn của muôn điều ác. Quư
vị vẫn tham luyến nó, vẫn chẳng chịu vứt
bỏ, mà vẫn mong văng sanh thế giới Cực Lạc;
đấy là tự ḿnh mâu thuẫn với chính ḿnh, làm sao có
thể văng sanh thế giới Cực Lạc cho nổi? Thế
giới Cực Lạc là “thiện
ư dục”. Chúng ta nói “phước báo trời người”
th́ cũng là thiện ư dục. Hiện tại, [bản thân
ta] có phước báo trời người hay chăng? Chẳng
có! Trong nhân gian, có mấy ai hiểu phước báo, hưởng
thụ phước báo trời người? Nói rơ cùng quư vị,
vẫn là buông xuống tham, sân, si th́ quư vị mới có thể
hưởng thụ phước báo trong
nhân gian. Nếu quư vị chẳng chịu buông xuống,
sẽ chẳng hưởng được phước báo
trời người!
Chúng ta đọc
lịch sử, nh́n vào [cuộc đời của] những
bậc đế vương các triều đại, nhất là nh́n những vị đế vương
khai sáng triều đại. Những vị đế vương
khai sáng triều đại nhất định sanh nhằm
thời loạn, đáng gọi là bậc anh hùng hào kiệt.
Khởi nghĩa dấy binh dẹp yên chiến loạn, giành
được chánh quyền, làm hoàng đế, dường
như có vẻ là hưởng thụ phước báo. Nếu
quư vị suy nghĩ cặn kẽ, [sẽ thấy để
giành được chánh quyền] phải giết bao nhiêu người, khiến cho bao
nhiêu bậc cha mẹ mất con, khiến cho bao nhiêu phụ
nữ mất chồng, khiến cho bao nhiêu người dân
bị mất đi sanh mạng, tài sản! V́ thế, cổ
thánh tiên hiền có nói: “Giết
oan uổng một người, người ấy [cảm
thấy] hoàn toàn chẳng có tội lỗi, giết một
người, quư vị có thể làm hoàng đế”. Đấy có phải là chuyện tốt đẹp
hay chăng? Người có lương tâm sẽ chẳng làm được! Thà chẳng làm hoàng
đế, cũng chẳng chịu giết một ai.
Người như vậy th́ mới đạt được
thiện ư dục trong một đời này!
Chúng ta đọc
lịch sử bèn thấy cục diện bi thảm. Kể
từ sau thời Chiến Quốc, xă hội Trung Hoa loạn
lạc. V́ thế, Khổng Tử hết sức cảm
thán, thường hoài niệm thời đại Nghiêu, Thuấn,
Vũ, Thang, thuở đó,
đúng là thiên hạ ḥa hài, nhân dân thuần phác. Từ thời
Chiến Quốc cho đến hiện tại, đại
khái là tối thiểu hai ngàn ba trăm năm. Nh́n lại toàn
thể thế giới, nh́n vào lịch sử thế giới,
[sẽ thấy] số người tử vong trong những
cuộc chiến tranh lớn nhỏ hết sức đáng
sợ! V́ thế đă có người hỏi tôi, người
phương Tây nói đến “tận
thế”, v́ sao có tận thế? Đương nhiên là có
rất nhiều nhân tố, mọi người đều nh́n
từ những chứng cứ khoa học, Phật pháp c̣n
nh́n từ một góc độ khác, [tức là] nh́n từ nhân quả. Nhiều người bị
chết oan uổng ngần ấy, họ có thể cam ḷng
hay chăng? Nếu họ chẳng cam ḷng, như vậy th́
quư vị sẽ hiểu, oan oan tương báo, đời
đời kiếp kiếp chẳng xong, chẳng hết!
Hai ngàn năm, đại khái là sẽ tính
sổ tất cả trong lúc này. Tính sổ tất cả sẽ
là tận thế. Đấy là nh́n theo góc độ nhân quả,
quư vị hăy ngẫm xem có lư hay chăng? V́ thế, trong thời
cận đại, số lần thiên tai nhân họa mỗi
năm một tăng, tai hại mỗi lần càng nghiêm trọng
hơn.
Nếu quư vị
hỏi c̣n có cách cứu văn hay không ư? Câu trả lời là
khẳng định. V́ sao? Cảnh chuyển theo tâm. Trong
kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đă nói rất hay: “Nếu có thể chuyển vật,
sẽ giống Như Lai”. Chuyển như thế nào?
Chuyển từ nơi tâm. Quư vị chẳng chuyển từ
cái tâm, sai mất rồi! Chuyển từ nơi tâm, chuyển
ác thành thiện, chuyển nhiễm thành tịnh, chuyển tham,
sân, si thành Giới, Định, Huệ, quư vị chuyển
từ cái tâm. Chuyển bằng cách nào? Rất nhiều năm
trước, đă có người hỏi tôi chuyện này, tôi
dạy người ấy, tôi luôn dựa theo giáo huấn
trong kinh để nói. Trong kinh Bát Đại Nhân Giác, đức
Phật đă dạy: “Bất
niệm cựu ác, bất tắng ác nhân” (Chẳng nghĩ tới điều ác cũ,
chẳng ghét kẻ ác), quư vị hăy bắt đầu chuyển
từ chỗ này. Bản thân quư vị hăy ngẫm xem, trong
cuộc đời, kẻ nào đáng chán ghét nhất? Kẻ nào đáng căm hận nhất? Quư vị hăy chuyển từ
chỗ này. Đáng chán ghét nhất, đáng căm hận nhất là kẻ ấy thường
muốn hủy báng, tổn thương quư vị, quư vị
hăy lập một tấm trường sanh lộc vị [ghi tên người ấy], thờ bên cạnh tượng Phật trong
Phật đường tại nhà. Hằng ngày quư vị lễ
Phật, công khóa sớm tối đều hướng về
người ấy lễ bái, hóa giải oan gia đối
đầu, quư vị phải làm từ chỗ này.
Tôi dạy người
ta, có kẻ thật sự làm, làm ba năm, người ấy
đến nói với tôi: “Thưa pháp sư! Nay trong ḷng con đă
b́nh lặng nhiều
rồi, nhưng trông thấy kẻ
ấy, nghe người khác nhắc đến kẻ ấy,
tâm vẫn bất b́nh, làm như thế nào đây?” Tôi bảo
người đó: “Công phu của quư vị vẫn chưa đủ,
hăy tiếp tục nỗ lực lạy ba năm nữa”. Ắt
cần
phải như thế nào?
Ắt phải là trông thấy người sẽ chẳng dấy ḷng oán hận, công phu của
quư vị sẽ thành tựu. Kẻ đó tạo rất nhiều
ác nghiệp, chớ nên phê b́nh kẻ đó, chớ nên quở
trách hắn. Kẻ đáng
bị quở trách là chính
ḿnh. Ta dấy động ư niệm muốn chửi gă đó,
muốn giáo huấn hắn, quư vị hăy nghĩ lại đi,
ư niệm ấy sai lầm mất rồi! Sai lầm ở
chỗ nào? Sai lầm v́ ta chẳng thể chuyển cảnh
giới, ta bị cảnh giới chuyển! V́ sao khi trông thấy
kẻ khác làm ác bèn căm phẫn, bất b́nh? Thấy người
làm chuyện tốt, ta bèn vui sướng tràn trề? Quư vị
vẫn bị cảnh giới xoay chuyển, điều này
có nghĩa là phải quay lại quở trách chính ḿnh.
V́ sao Phật,
Bồ Tát có thể như như bất động? Phật,
Bồ Tát ở thiên đường chẳng sanh tâm hoan hỷ,
trong địa ngục chẳng sanh tâm chán ghét. Tâm các Ngài b́nh
đẳng. Đấy mới là thật sự gột sạch
tập khí phiền năo, hưởng thụ trong cảnh giới,
thật sự là “thiện ư dục”.
Ngàn xứ nguyện cầu, ngàn xứ ứng; đáng nên dùng
thân ǵ để độ được bèn hiện thân ấy;
đáng nên thuyết pháp ǵ, bèn thuyết pháp ấy. Chẳng
có h́nh trạng nhất định, chẳng có sắc
tướng nhất định, chẳng có pháp nhất
định để có thể nói, thiện ư dục mà! V́
thế, chúng ta học th́ trước hết là học điều
này! Hễ vừa trông thấy [bèn cảm thấy] đáng
ghét, bực bội, quư vị hăy thường nh́n, sẽ thấy
ǵ? Thấy
chẳng chán ghét nữa! Thấy điều ǵ? Chẳng động tâm nữa! Nếu quư vị
chẳng thường thấy, sẽ chẳng đoạn
nổi tập khí này! Đó là cảnh giới tốt đẹp,
họ giúp đỡ ta đào thải, gột trừ sạch
sành sanh tập khí phiền năo! Quần áo dơ bẩn chẳng giặt, sẽ
vĩnh viễn dơ bẩn. Quư vị phải thường
xuyên giặt giũ, quư vị hiểu đạo
lư này chứ? Cái tâm thanh tịnh của quư vị bị nhuốm
tham, sân, si, mạn; quư vị chẳng gột sạch
tham, sân, si, mạn, làm sao có thể khôi phục cái tâm thanh tịnh
cho được? Gột rửa tham, sân, si, mạn ở
chỗ nào? Phải từ cảnh giới, đặc biệt
là trong hoàn cảnh nhân sự. Trong thuận cảnh, thiện
duyên, quư vị phải biết đoạn tham dục, chớ
sanh tham luyến. Trong nghịch cảnh, ác duyên, quư vị phải
rèn luyện chẳng sanh sân khuể.
Nhất định
phải hiểu rơ “tánh con
người vốn lành, hết thảy chúng sanh đều
có Phật Tánh”, quư vị phải khẳng định giáo
huấn của Phật, thánh. Quư vị thật sự hiểu
rơ, sẽ cảm thấy chỗ đáng yêu, đáng kính của
hết thảy chúng sanh. Cái đáng yêu, đáng kính chính là bản
tánh của họ vốn lành, họ có Phật Tánh. Kính ái
tuyệt diệu lắm, nó chẳng phải là phiền năo.
Điều này khá khó hiểu! V́ sao khó hiểu? Trong ấy có
đạo lư. Do quư vị chẳng đoạn tham, sân, si; v́
thế, quư vị không hiểu. Nếu đoạn trừ
tham, sân, si, quư vị sẽ hoảng nhiên đại ngộ:
Nguyên lai ḷng kính ái đối với hết thảy chúng
sanh của chư Phật, Bồ Tát chẳng có t́nh, tức
là chẳng có cảm t́nh, chẳng có ô nhiễm. Sự kính ái
ấy là ǵ? Chính là Pháp Tánh, là Tánh Đức, tức là Tánh
Đức trong tự tánh. Tánh Đức thuần tịnh
thuần thiện tự nhiên lưu
lộ, chuyện là như thế đó.
Chúng ta có Tánh
Đức hay không? Có chứ, hết thảy chúng sanh đều
có. Hiện thời, nó đă đi đâu mất rồi? Đức
Phật nói nó vẫn c̣n đó, nhưng bị mê hoặc. Sau
khi đă mê, nó sẽ biến h́nh. Biến thành ǵ? Đèo thêm
cảm t́nh, đèo thêm cái tâm ưa ghét, tham, sân, si, mạn, biến thành những thứ đó! Trên thực tế, cái tâm yêu ghét
của chúng ta chính là thuần tịnh thuần thiện
trong tự tánh. Nh́n như vậy, [sẽ biết] chẳng
gột trừ tham, sân, si, mạn, sẽ chẳng được!
Nếu chẳng gột trừ, hiện thời do quư vị
đă biến chất, cái tâm thuần tịnh thuần thiện
bị đèo thêm tham, sân, si, mạn, nó sẽ có thể làm lành,
mà cũng có thể làm ác. Làm lành, sẽ thọ sanh trong ba
thiện đạo. Tạo ác, sẽ thọ báo trong ba ác
đạo. Đấy là ǵ? Luân hồi! Lục đạo
là một cái ṿ nhuộm, vĩnh viễn chẳng thoát được,
càng nhiễm càng nghiêm trọng!
Nếu quư vị
chú tâm quan sát t́nh h́nh này, quan sát từ chính bản thân ḿnh, quư
vị hăy ngẫm xem, khi quư vị mười tuổi là t́nh
trạng ra sao? Lúc hai mươi tuổi là t́nh trạng như
thế nào? Lúc ba mươi tuổi lại là dáng vẻ nào?
Quư vị cứ phản tỉnh cặn kẽ từng mười
năm một, sẽ biết! Lúc mười tuổi, ô nhiễm
rất nhẹ. Khi hai mươi tuổi, ô nhiễm khá nghiêm
trọng, ba mươi tuổi càng nghiêm trọng hơn, bốn
mươi tuổi bèn mê hoặc, điên đảo. Lứa
tuổi tôi, thưa cùng chư vị, khi tôi mười tuổi
chẳng có ô nhiễm, sanh trưởng trong làng quê, tại nông thôn, xă hội tám mươi năm
trước chẳng có ô nhiễm. Đến lúc hai
mươi tuổi th́ có ô nhiễm, rất nhẹ, chẳng
nghiêm trọng. Lúc hai mươi sáu tuổi tiếp nhận
giáo huấn của thánh hiền, tiếp xúc Phật pháp; v́
thế, có thể giữ ǵn từ đấy cho đến
năm mươi năm sau. Nếu mỗi ngày chẳng
đều gột trừ tham, sân, si, quư vị có thể
không bị ô nhiễm hay sao?
Tôi học Phật,
tôi cảm kích Chương Gia đại sư là vị thầy
vỡ ḷng của tôi. Ngạn ngữ thường nói “tiên nhập vi chủ” (điều
ǵ được tiếp xúc đầu tiên sẽ là chánh yếu).
V́ thế, giáo huấn của vị thầy đầu tiên
có ấn tượng đặc biệt sâu đậm,
thường tạo ảnh hưởng suốt đời.
Ngài dạy phương hướng và mục tiêu, Ngài dạy
tôi thấy thấu suốt và buông xuống. Tôi dùng một câu
nói đơn giản nhất để giới thiệu ba
vị thầy của tôi. Vị thầy thứ nhất là
tiên sinh Phương Đông Mỹ, giới thiệu Phật
pháp cho tôi. Thầy bảo tôi, v́ thuở đó tôi học Triết
Học: “Phật pháp là đỉnh
cao nhất trong Triết Học, học Phật là sự
hưởng thụ cao nhất trong đời người”.
Chính thầy lúc tuổi già, dạy học ở nhà trường
hoàn toàn là dạy Phật học. Chương Gia đại
sư là vị xuất gia đầu tiên tôi được
tiếp xúc, Ngài dạy tôi “thấy
thấu suốt, buông xuống”. Tôi theo thầy Lư mười
năm, thầy dạy tôi “chí
thành cảm thông”, điều này hết sức trọng
yếu.
Bản thân chúng
ta học tập, mục tiêu học tập là ǵ? Thông đạt
Thật Tướng của các pháp, chuyện này chẳng dễ dàng đâu nhé! Khi ấy, thầy
bảo tôi: “Anh xem học thuật
thế gian, chẳng bàn đến [học thuật của]
ngoại quốc, cũng chẳng bàn tới hiện tại,
chỉ nói Trung Hoa thời cổ có một bộ tùng thư
là Tứ Khố Toàn Thư, trong một đời anh có thể
đọc hết nổi hay không?” Xưa kia, Thương
Vụ Ấn Thư Quán tại Đài Loan đă ấn hành Tứ
Khố Toàn Thư, in ba trăm bộ, người mua ít lắm.
Khi tôi đến tiệm sách để mua, chỉ c̣n một bộ. V́ thế, tôi mua nhằm bộ cuối cùng.
Tôi cũng phỏng đoán có lẽ in ba trăm bộ, quả
nhiên chẳng sai, vị Tổng Kinh Lư (General Manager) [của Thư Quán] cho tôi biết, xác thực
là chỉ in ba trăm bộ. Ông ta nói: Bộ sách này, kể
như một người vừa sanh ra đă có thể đọc sách, hằng ngày đọc tám tiếng đồng
hồ, đọc đến một trăm tuổi, vẫn
xem không hết bộ sách ấy. Quư vị hăy nghĩ xem, chẳng
dễ dàng chi! Thầy Lư lại bảo tôi: “Phật pháp th́ Tam Tạng mười hai bộ loại,
một bộ Đại Tạng Kinh, chẳng cần bàn tới
thứ khác, hai thứ ấy, anh có thể đọc hết
trong một đời này hay không? Nếu chẳng đọc,
làm sao anh có thể thông suốt cho được? Nếu
anh muốn chính ḿnh thành tựu, phải thông suốt Phật
pháp. Nếu muốn hoằng pháp lợi sanh, phải thông suốt
pháp thế gian. Pháp thế gian chẳng thông, sẽ chẳng
thể hoằng pháp lợi sanh”.
Hiện thời,
thông thạo bằng cách nào? Cuối cùng, thầy dạy tôi,
chỉ có cách dựa vào cảm ứng. “Thông” (通) là cảm thông, có nghĩa là mong cầu Tam Bảo
gia tŕ. Tam Bảo gia tŕ như thế nào? Chúng ta cầu trí
huệ của Phật gia tŕ, cầu bổn nguyện của
Phật gia tŕ, cầu oai thần
của Phật gia tŕ. Có mấy ai cầu được?
Chớ nên mê tín! Gia tŕ là ǵ? Giáo huấn của Phật là gia
tŕ. Quư vị thật sự nghe hiểu, thật sự tin
tưởng, làm theo những giáo
huấn ấy, đấy là gia
tŕ! Quư vị mong tiến nhập Phật
môn, Tam Quy là “giác chứ không mê,
chánh chứ không tà, tịnh chứ chẳng nhiễm”, quư
vị có thể niệm nào cũng đều nương
theo “giác, chánh, tịnh”, buông
xuống “mê, tà, nhiễm” (“mê,
tà, nhiễm” là tham, sân, si), đấy là gia tŕ. Cụ thể
là giới luật, quư vị có thể tŕ giới, giới
do đức Phật chế định. [Tŕ giới] chính
là được Phật gia tŕ. V́ thế, tối thiểu
là Thập Thiện, Ngũ Giới, Thập Giới (Thập
Giới là giới Sa Di), quư vị phải thật sự làm
được; sau đấy cái tâm của quư vị sẽ
thanh tịnh. V́ sao? Chẳng tham, cũng chẳng si, mà cũng
chẳng có sân hận, cái tâm bèn thanh tịnh. Tâm thanh tịnh
sẽ sanh trí huệ, do trí huệ bèn thông suốt, đạo lư là như thế đó. Đấy
gọi là oai thần của Tam Bảo gia tŕ. Oai thần của
Tam Bảo chính là giáo huấn!
Quư vị chớ
nên nghe rồi hiểu sai ư nghĩa những lời này; [hễ
hiểu sai] sẽ biến thành mê tín, mù quáng đến nỗi
hằng ngày lạy lục Phật, Bồ Tát, cúng dường
Phật, Bồ Tát, mong Phật, Bồ Tát sẽ phù hộ,
gia tŕ quư vị. Đấy là mê tín! Hoàn toàn đă sai lầm
mất rồi! V́ thế, Phật thật sự gia tŕ chính
là khiến cho chúng ta dùng phương pháp giới luật
để đạt được cái tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh mới sanh ra
giác, chánh, tịnh. Sau đấy, sáu căn của quư vị
tiếp xúc cảnh giới bên ngoài mới có thể thông! “Thông” là thông đạt, hiểu rơ, dùng phương pháp này th́
được. Thầy nói phải dùng ḷng chí thành, dùng ǵ
để cảm? Tâm chân thành để cảm. Chí thành là
chân thành tới mức tột bậc, như vậy th́ mới
có thể cảm thông. Do vậy có thể biết, hiện thời người học Phật chúng
ta thường là chẳng có ḷng chân thành; v́ thế, cầu
ǵ cũng chẳng cầu được! Nay đă hết
thời gian rồi, chúng ta nghỉ ngơi mấy phút.
***
Chư vị
pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem tiếp bài kệ thứ mười bảy:
(Kinh) Kiến tu viên phố, đương
nguyện chúng sanh, ngũ dục phố trung, vân trừ ái
thảo.
(經)見修園圃。當願眾生。五欲圃中。耘除愛草。
(Kinh: Thấy dọn vườn
tược, nguyện cho chúng sanh, cuốc bỏ cỏ ái
trong vườn ngũ dục).
Trong phần
trước là “kiến lưu
thủy” (thấy nước chảy) bèn nghĩ, đầu
tiên là nghĩ phải gột rửa, trừ sạch ô nhiễm
của chính ḿnh. Ở đây là thấy vườn rau, “viên phố” (園圃) là vườn rau. Vườn rau th́ đương
nhiên cứ cách một khoảng thời gian, nhất định
phải dẫy cỏ, “vân thảo” (耘草) là trừ cỏ (dẫy cỏ). Ở Úc,
chúng tôi có hai vườn rau; ở ngay dưới chân núi chúng
tôi có ba vườn rau, quy mô cũng khá
to. Có một vườn rau lớn, chúng tôi trồng các thứ
rau dưa, đủ cung cấp cho ba trăm người,
quy mô khá to. Công tác dẫy cỏ phải thường xuyên làm; nếu
không, cỏ dại sẽ mọc tràn lan. Trông thấy dẫy cỏ, phải nghĩ các thứ cỏ tạp
trong cái tâm chúng ta cũng phải dẫy bỏ, “vân trừ ái thảo” (cuốc
bỏ cỏ ái). Ái là một trong thất t́nh, thất t́nh
là mừng, giận, buồn, vui, yêu… V́ thế, Ái thuộc về
thất t́nh; sau Ái là Ố (惡, ghét) và Dục (欲, ham muốn). Dùng chữ này (chữ Ái) để
biểu thị thất t́nh ngũ dục. Câu trước đó
là “ngũ dục phố trung”
(trong vườn ngũ dục). Nhất định phải
diệt trừ thất t́nh. Diệt trừ thất t́nh, tâm
quư vị sẽ thanh tịnh, tâm bèn an.
Bất luận
chúng ta học Phật hay học Nho, công phu chẳng đắc
lực, nguyên nhân thật sự là ở chỗ nào? Đại
Thế Chí Bồ Tát dạy chúng ta: “Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương
kế” (Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm
tiếp nối), Ngài dạy chúng ta phương pháp niệm
Phật. Sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư.
“Nhiếp” (攝) là ǵ? Thâu hồi lại! Kẻ b́nh phàm sáu căn
nhất định đều hướng theo lục trần
bên ngoài để khởi tác dụng, giống như nước
chảy tuôn ra ngoài. Mắt duyên sắc, nay chúng ta nói thô thiển
hơn một chút là “bị bên
ngoài dẫn dụ”. Mắt bị sắc trần bên ngoài
dẫn dụ, tai bị thanh trần dẫn dụ, mũi bị
hương trần dẫn dụ, lưỡi bị vị
trần dẫn dụ, cho đến thân bị xúc trần,
ư bị pháp trần [dẫn dụ]. “Pháp” ở đây là pháp bất thiện, tất cả
hết thảy các pháp bất thiện, tức pháp thế
gian. Lục căn bị lục trần dẫn dụ, mê
hoặc, làm sao công phu của quư vị đắc lực
cho nổi? Nếu mong công phu đắc lực, chẳng khó,
quư vị phải từ trong lục trần thâu hồi lục
căn, chẳng phan duyên những thứ ấy, chẳng bị
chúng dụ dỗ, mê hoặc, chẳng bị chúng nó quấy
nhiễu, công phu mới có thể đắc lực!
Đức Phật
dạy như thế, mà Nho cũng là như thế. Quư vị
thấy Mạnh phu tử nói rất hay: “Học vấn chi đạo vô tha, cầu kỳ
phóng tâm nhi dĩ” (Đạo học vấn chẳng có chi
khác, cốt sao t́m lại cái tâm đă buông lung mà thôi), có cùng
một ư nghĩa với “đô
nhiếp lục căn” (nhiếp trọn sáu căn) của
Đại Thế Chí Bồ Tát. “Học
vấn” là ǵ? Quư vị có thể thâu hồi cái tâm từ
cảnh giới bên ngoài, có nghĩa là chẳng bị bên ngoài
quấy nhiễu, chẳng bị bên ngoài dụ dỗ, mê hoặc,
đó gọi là “học vấn”.
Những lời dạy của thánh nhân thế gian và xuất
thế gian là chân tướng sự thật, là lời bàn định
về kinh nghiệm từ công phu của chính các Ngài.
Nếu chúng ta chẳng đi theo con đường ấy
mà muốn thành tựu, sẽ quá
khó khăn!
Trong thất t́nh
ngũ dục, nghiêm trọng nhất là tham ái; [v́ thế] lấy
nó làm đại biểu. Do đó, nhất định phải
biết: Người thế gian thấy t́nh ái rất nặng.
“Nếu một người chẳng có t́nh, chẳng có ái, có
c̣n coi là người hay chăng?” Kẻ b́nh phàm đều nói theo kiểu
ấy. Cách nói ấy dường
như đúng nhưng sai bét; cớ sao nói là “dường như
đúng, nhưng sai bét”? Tâm quư vị là vọng tâm, nghĩa
là tâm của quư vị là ǵ? Vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, chẳng phải là chân tâm. V́ thế, ái
và t́nh của quư vị là giả trất, chẳng thật,
sẽ biến đổi. Hôm nay yêu quư vị, ngày mai chẳng
c̣n yêu nữa, biến đổi muôn ngàn cách! Các vị hăy
ngẫm xem, vấn đề nghiêm trọng nhất trong gia
đ́nh là ly hôn. Khi hai vợ chồng kết hôn, chẳng phải là yêu mến
rất mặn nồng
hay chăng? V́ sao kết hôn chẳng bao lâu bèn ly hôn? Điều
này cho thấy ái là giả, t́nh là giả.
Do vậy, quư vị
nhất định phải biết: Hễ dùng vọng tâm,
chẳng dùng chân tâm, toàn là hư t́nh giả ư. Kẻ đó nói
hắn yêu quư vị, thích quư vị, bèn gật đầu
cười, đừng nên nghĩ là thật. Nghĩ là thật,
quư vị bị lừa mất rồi. Kẻ khác nói “ta hận
ngươi, ta chẳng ưa ngươi”, cũng đừng
coi là thật, cũng là giả luôn! V́ sao? Vài ngày sau, kẻ ấy
lại trở thành ưa thích, biến huyễn khó lường, ngay chính kẻ đó cũng chẳng biết.
Quư vị phải biết đó là nguyên nhân ǵ? Nguyên nhân là vọng
tâm, chẳng phải là chân tâm. Nếu là chân tâm, chân tâm sẽ
vĩnh hằng bất biến. Ai dùng chân tâm? Phật, Bồ
Tát dùng chân tâm. Phật, Bồ Tát đối với hết
thảy chúng sanh có t́nh, có nghĩa, có ân, có ái, vĩnh viễn
bất biến. Bất luận quư vị dùng thái độ
ǵ đối với Phật, Bồ Tát, chắc chắn là Phật,
Bồ Tát chẳng thay đổi. V́ sao? Các Ngài là thật.
Do đó, tâm là
chúa tể, khởi đầu từ tâm, chẳng sai! Xă hội
hài ḥa khởi đầu từ tâm. Tâm có chân tâm và vọng tâm,
sai biệt quá lớn. Nếu dùng vọng tâm, hài ḥa sẽ chẳng
giữ lâu dài được, trong sát-na lại bất ḥa. Nếu
dùng chân tâm, sẽ vĩnh cửu hài ḥa; nhưng vấn
đề là chân tâm nhất định phải ở trong Phật
pháp. V́ thế, sau khi tôi xem cuộc thảo luận của
giáo sư Thang Ân Tỷ (Toynbee) và ông Tŕ Điền (Daisaku Ikeda)[1],
cuối cùng đă rút ra một kết luận: Nếu muốn
cho thế giới thật sự đạt tới ḥa b́nh,
quyết định chẳng thể ĺa khỏi tôn giáo. Hễ
vứt bỏ
tôn giáo, nay chúng ta nói là giáo
dục tôn giáo, giáo dục tôn giáo biến thành lư tưởng,
quyết định chẳng phải là sự thật. Phải
biến lư tưởng thành sự thật, giáo dục tôn giáo
quá trọng yếu. Nếu quư vị hỏi v́ sao cần giáo
dục tôn giáo ư? Giáo dục tôn giáo giảng rơ ràng, giảng
minh bạch chân tướng của vạn pháp trong vũ trụ,
giúp cho quư vị giác ngộ! Sau khi giác ngộ sẽ như thế
nào? Quư vị dùng chân tâm, chẳng dùng vọng tâm.
V́ thế, tôi dạy các đồng học, tôi dùng lời
lẽ đơn giản nhất để nói với mọi
người, Phật là ǵ? Nếu kẻ khác hỏi: “Quư vị
tin Phật th́ Phật ở chỗ nào? Phật là ǵ?” Quư vị
có thể chỉ vào họ: “Quư vị
là Phật! Quư vị chỉ cần buông xuống vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, quư vị là
Phật!” Thích Ca Mâu Ni Phật đă buông xuống, Ngài là Phật.
Quư vị buông xuống, quư vị cũng là Phật. Tôi buông
xuống, tôi cũng là Phật. Quư vị có buông xuống
được hay không? Chẳng buông vọng tưởng
xuống, nhưng buông phân biệt, chấp trước xuống,
quư vị là Bồ Tát. Trong ba món, quư vị buông xuống hai
món. Khó buông xuống nhất chính là khởi tâm động
niệm. Tức là quư vị chẳng buông xuống vọng
tưởng, nhưng quư vị chẳng phân biệt, chẳng
chấp trước, quư vị là Bồ Tát. Phân biệt
cũng không buông xuống được, nhưng có thể
buông xuống chấp trước, quư vị là A La Hán. Ta buông
xuống chấp trước, ta là A La Hán. Ta lại buông xuống
phân biệt, ta là Bồ Tát. Ta lại buông xuống vọng
tưởng, ta chính là Phật. V́ thế, đức Phật
nói “hết thảy chúng sanh vốn
là Phật”, có nghĩa là nói quư vị vốn chẳng có vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước. Câu ấy có
nghĩa là như thế đó!
Nhưng hiện
thời nẩy sanh vấn đề, tức là vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước của quư vị
dấy lên, lại c̣n ngày càng nghiêm trọng hơn. Quư vị từ Phật biến thành phàm
phu, thuận theo tập khí vọng tưởng mà tạo
tác hết thảy các nghiệp thiện hay ác. Do thiện
nghiệp cảm ba thiện đạo, do ác nghiệp cảm
ba ác đạo. Quư vị hăy khéo suy ngẫm: Trong một
đời này, mỗi ngày từ sáng đến tối, quư
vị là thiện niệm nhiều hay ác niệm nhiều? Phân
định thiện và ác bằng cách nào? Thiện, ác rất
đơn giản, lợi ích chúng sanh là thiện, lợi
ích chính ḿnh là ác; cũng chính là quư vị khởi tâm động
niệm v́ chính ḿnh là nhiều hay v́ người khác là nhiều?
Quư vị thấy trong một năm, từ ngày mồng Một
Tết cho đến Ba Mươi tháng Chạp, trong một
năm ba trăm sáu mươi ngày, quư vị nghĩ cho người
khác là nhiều, hay nghĩ cho chính ḿnh là nhiều? Làm v́ người
khác là nhiều, hay làm v́ chính ḿnh là nhiều? Cứ so sánh từng
cặp một, quư vị sẽ biết trong tương
lai đi về đâu!
Nếu v́ chính ḿnh nhiều, v́ kẻ khác ít,
trong tương lai sẽ có phần trong tam đồ.
Đấy là chỗ quy túc, là kết quả của quư vị.
Nếu v́ chính ḿnh th́ ít, nghĩ đến người khác
th́ nhiều, làm được nhiều, vậy th́ quư vị
đời sau sẽ hưởng phước báo nhân thiên.
Đấy là ǵ? Vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước thảy đều đầy đủ. Nếu
như chẳng có chấp trước, khẳng định
quư vị khởi tâm động niệm, những ǵ đă làm đều là lợi ích chúng sanh, quyết chẳng
phải nhằm lợi ích chính ḿnh, sẽ là A La Hán. Từ A
La Hán trở lên, chẳng có vị nào v́ chính ḿnh. Hễ v́ chính
ḿnh, chắc chắn là phàm phu trong lục đạo. Càng lên
cao hơn, lại càng chẳng cần phải nói nữa, toàn
là v́ hết thảy chúng sanh, tuyệt đối chẳng
có một ư niệm v́ chính ḿnh. Nếu các vị thật sự
hiểu rơ, mới hiểu: Do giáo dục tôn giáo th́ mới có
thể thật sự dẫn đến ḥa b́nh thế
giới. Các học giả và chuyên gia, những vị thật
sự có học vấn trong thế gian, như ông Thang Ân Tỷ (A. Toynbee) là một giáo đồ Cơ Đốc giáo kiền
thành. Vị này có học vấn, chẳng bài xích Phật
giáo, lại c̣n đặc biệt tán dương Phật giáo,
cho rằng Phật giáo có thể giải quyết vấn
đề. Bản thân ông ta cũng chẳng bỏ Cơ Đốc
giáo để đổi sang tin Phật giáo, chẳng có! Vẫn
là tín đồ Cơ Đốc giáo kiền thành y như cũ.
V́ thế, càng đạt đến mức độ cao hơn,
giữa các tôn giáo sẽ chẳng có mâu thuẫn, có thể hợp
tác.
V́ thế, chúng
ta chớ nên không biết tập khí phiền năo của chính
ḿnh. Các đồng học học Phật đương
nhiên cũng đều biết, nhưng biết như thế
nào? Nhận thức chẳng thấu triệt! V́ sao biết
quư vị nhận thức chẳng
thấu triệt? V́ hiện thời quư vị vẫn chẳng
chịu buông xuống. Thật sự hiểu rơ, thật sự
thấu hiểu, lẽ đâu không buông xuống cho được!
V́ thế, tŕnh độ nhận thức của quư vị
được nh́n từ chỗ nào? Từ chỗ quư vị
buông xuống bao nhiêu! Quư vị biết được bao
nhiêu, nhất định sẽ buông xuống bấy nhiêu.
Đấy là chuẩn xác nhất. [Cứ biện bác] “ta biết, nhưng ta chẳng làm được”, trên thực tế, quư vị chẳng biết!
Chuyện này tôi
đă từng thỉnh giáo Chương Gia đại sư.
Nói tới vấn đề tri và hành, thầy dạy Phật
giáo là “biết khó, hành dễ”.
Thông thường, chúng ta có cảm giác Phật giáo biết
dễ, làm rất khó. Ngài nói chẳng phải vậy, biết
khó, hành dễ! Về sau, sau khi chúng tôi đă thâm nhập
kinh tạng, [mới biết] lời thầy dạy đúng
như Phật dạy, “chúng sanh
thành Phật ngay trong một niệm”, có khó khăn chi đâu!
Một niệm giác, chúng sanh thành Phật. Một niệm mê,
biến thành chúng sanh. V́ thế, phàm hay thánh là trong khoảng
mê hay ngộ! Nhưng giác khá khó khăn, chúng tôi dùng Tông Môn
để tỷ dụ, sẽ rất rơ rệt, minh bạch.
Tham Thiền nhằm mục đích là ǵ? Khai ngộ! Quanh năm
suốt tháng tham cứu, nhưng tham chẳng thông, đến
khắp nơi thưa hỏi bậc minh sư, thiện tri
thức, xin chỉ dạy, xin người khác hướng
dẫn, giúp chính ḿnh trừ khử nghi hoặc. Tông Môn có một
công án về ḥa thượng Triệu Châu. “Triệu Châu bát thập do hành cước” (ngài Triệu
Châu đă tám mươi tuổi vẫn phải đi
tham phỏng), một ông cụ tám mươi tuổi [vẫn
phải đi khắp nơi tham phỏng], v́ sao? Chẳng
khai ngộ! Đến khắp nơi t́m thầy hỏi bạn.
Lại c̣n nói “đạp phá thiết
hài vô mịch xứ” (đi nát giày sắt chẳng t́m
được chỗ), chẳng phá được cái ải
mê. Một mai khai ngộ, “đắc
lai toàn bất phí công phu” (đạt được hoàn
toàn chẳng phí công phu).
Ngộ là ǵ? Trong
khi giảng kinh, tôi đă nói toạc ra toàn bộ. Trong Tông Môn
th́ tuyệt đối chẳng được nói toạc
ra, nhất định phải để cho chính quư vị khế
nhập cảnh giới. Giáo Hạ, nhất là trong các khóa
giảng của chúng tôi, đă bộc lộ quá nhiều, “đắc lai toàn bất phí công
phu”. Chính là trong cuộc sống hằng ngày, là khởi
tâm động niệm. Khởi tâm động niệm là mê;
chẳng động tâm, không động niệm là giác.
Đấy là đă bộc lộ căn bản. Tôi dạy quư
vị ba thứ ấy, quư vị nói người ta chứng
quả khó khăn lắm, Tiểu Thừa chứng A La Hán
khó khăn lắm. Chứng như thế nào? Tôi nói rất đơn
giản: Đối với hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian, bất luận là thuận cảnh,
thiện duyên, hay nghịch cảnh, ác duyên, thảy đều
không chấp trước, Phật pháp cũng chẳng chấp
trước, bèn chứng quả A La Hán. Hết thảy đều
chẳng phân biệt, sẽ là Bồ Tát. Tôi nói đơn giản
vậy đó, quư vị dễ hiểu! Trong hết thảy
các pháp, chẳng động tâm, không động niệm, quư
vị đă phá vô minh, quư vị bèn chứng Pháp Thân, thành Phật.
V́ thế, quư vị
phải thường nghĩ v́ sao ta c̣n chấp trước?
Trước hết, quư vị khởi sự thực hiện từ phiền năo thô thiển nhất. Thô
nhất là chấp trước, phân biệt vi tế hơn
một chút, khởi tâm động niệm cực kỳ vi tế. Chúng ta phải thực
hiện từ chỗ thô trước hết, v́ sao phải
chấp trước? Nếu quư vị có thể trong cuộc
sống hằng ngày, trong cuộc sống, công việc, đăi
người, tiếp vật, lúc nào cũng có thể khởi
lên câu này: “V́ sao ta phải chấp trước? V́ sao chẳng
buông xuống?” Tôi tin là công phu của quư vị sẽ có tiến
bộ rất lớn, sẽ có tiến bộ khá xa. Quư vị
có thể buông xuống, phiền năo ít đi, trí huệ tăng
thêm. Kinh Phật nói là “phiền
năo nhẹ, trí huệ tăng trưởng”. Quư vị phải
khẳng định mười sáu chữ mà tôi thường
nói “tự tư, tự lợi, danh văn, lợi dưỡng,
ngũ dục, lục trần,
tham, sân, si, mạn”
chắc chắn là thứ xấu xa. V́ sao? Chướng ngại
Tánh Đức của chúng ta. Trong tự tánh của chúng ta
có trí huệ, có đức năng, có phước báo, hiện
thời thảy đều chẳng thể hiện tiền
là do bị những thứ ấy (tự tư tự lợi, danh
văn v.v…) chướng ngại. Chẳng
phải là kẻ nào khác chướng ngại chúng ta, chẳng
liên quan đến bất cứ
ai! V́ thế, chẳng thể
oán trời, hờn người. Người khác chẳng
chướng ngại ta, nhưng những thứ ấy chướng
ngại ta. Buông xuống những thứ ấy, sẽ chẳng
có chướng ngại. Trí huệ và đức năng vốn
sẵn có trong bản tánh sẽ đều hiện ra toàn bộ.
Tam Tự Kinh nói:
“Nhân chi sơ, tánh bổn thiện”,
bản tánh vốn lành. Trong bổn thiện bao gồm trí huệ
và đức năng. Nay chúng ta nói đức năng là tài
nghệ; tướng hảo th́ là như nay ta nói là phước
báo, thảy đều trọn đủ, chẳng hướng
ra ngoài để cầu. Lại c̣n trọn đủ viên măn.
Ở chỗ nào? Ngay trong hiện tiền. Chỉ cần quư
vị dùng chân tâm, đào thải vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước, quư vị đối diện
núi, sông, đại địa, đối diện với chúng
sanh đông đảo, chúng sẽ biến đổi h́nh dáng,
thật sự biến đổi, chẳng phải là biến
đổi giả tạo. Đến khi ấy, quư vị mới
thật sự tin tưởng lời đức Phật dạy:
“Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng”, “duy tâm sở
hiện, duy thức sở biến”, “cảnh chuyển theo tâm”, sẽ hiểu rơ mấy
câu ấy. Hiện thời, mấy câu ấy quư vị chỉ
nghe nói, chẳng thấy sự thật. Nếu quư vị chẳng
chịu buông xuống, sẽ vĩnh viễn chẳng thấy
sự thật. Vĩnh viễn chẳng thấy sự thật,
sau khi đă tu vài chục năm, có thể là quư vị sẽ
buông bỏ Phật giáo, v́ sao? [Quư vị sẽ tưởng]
“lời Phật dạy là lời lẽ giả trất, chẳng
thật. Tôi đă hành nhiều năm ngần ấy, quư vị
thấy đó, trọn chẳng thể biến thành sự
thật!” Đó là từ Phật đạo mà biến thành ma
đạo. Phật và ma chẳng khác. Chánh th́ là Phật, tà
th́ là ma. Giác th́ là Phật, mê th́ là phàm phu, thảy đều
phải trừ khử chướng ngại.
Trong phần
trước đă nói “Hoặc
cấu”, ở đây nói đến “ái thảo” (cỏ ái). Trong phần trước nói tham, sân, si, mạn,
ở đây nói về thất t́nh,
ngũ dục. Quư vị không buông xuống th́ sao được?
Buông xuống, quư vị mới biết đại lợi ích.
Thầy Phương đă bảo tôi “sự hưởng thụ cao nhất trong đời
người”, sự hưởng thụ cao nhất trong
đời người là ǵ vậy? Thảy đều buông
xuống, đấy mới là sự hưởng thụ cao nhất. Quư vị chẳng
chịu buông xuống, sẽ vĩnh viễn chẳng biết
sự hưởng thụ cao nhất là ǵ! Trong Luận
Ngữ, Khổng phu tử đă nói: “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt
hồ?” (Học rồi thường xuyên tập luyện,
cũng chẳng vui sao?) Quư vị biết đọc,
mà cũng biết giảng giải mấy câu ấy, nhưng
vĩnh viễn chẳng thể hưởng thụ là do nguyên
nhân ǵ? Cũng là v́ chẳng buông xuống ngũ dục, lục
trần! Sau khi quư vị đă buông xuống, mới biết
đấy là niềm vui thú.
Niềm vui thú ấy
được biểu hiện rơ ràng nhất ở chỗ
nào? Biểu hiện trong sách vở của thánh nhân. Quư vị
đọc sách Phật vui sướng
khôn sánh, bất cứ niềm vui sướng thế gian nào
cũng đều chẳng thể sánh bằng chuyện này.
Không chỉ là trong thế gian này, mà trong cơi trời, kinh Phật
đă dạy, sự hưởng thụ của Đại
Phạm Thiên Vương, Ma Hê Thủ La Thiên Vương tuyệt
đối chẳng sánh bằng sự hưởng thụ
niềm vui sướng do đọc kinh. Hiện thời, quư
vị đọc kinh có sung sướng hay chăng? Chẳng
cảm nhận niềm vui sướng dường ấy,
v́ sao? Tâm chẳng thanh tịnh, quư vị có tạp nhiễm.
Ở đây nói “ái thảo”,
nói đến “Hoặc cấu”,
quư vị chẳng diệt trừ chúng, chẳng gột sạch
tham, sân, si, mạn, nghi, chẳng trừ sạch thất
t́nh ngũ dục. V́ thế, đối diện kinh giáo, quư
vị chẳng sanh hỷ lạc, nguyên nhân ở chỗ này!
Quư vị phải rất nghiêm túc buông xuống!
Tôi có thể khế
nhập Phật môn, cảm kích Chương Gia đại
sư, ngày đầu tiên gặp mặt, Ngài đă truyền
dạy bí quyết này cho tôi. Đời này, tôi đắc lực là do từ bé, cha mẹ dạy
tôi tôn sư trọng đạo, được dạy điều
này từ bé. V́ thế, tôn trọng thầy, có thể y
giáo phụng hành lời thầy giáo huấn, rất nghiêm
túc thực hiện, thật sự đạt được
lợi ích. Khi ấy, thầy dạy tôi buông xuống; để
buông xuống, tôi thỉnh giáo thầy phải thực hiện
từ chỗ nào? Thầy bảo tôi, bố thí! Bố thí là
thật sự buông xuống, thật sự xả. Thầy
bảo tôi làm sáu năm, tôi bèn nghiêm túc làm sáu năm. Quả
nhiên chẳng sai, đến năm thứ sáu, tất cả
vật ngoài thân đều bỏ toàn bộ, chỉ c̣n lại
hai bộ quần áo để thay giặt, c̣n sót lại một
tấm trải, cái mền mỏng tanh, mền nặng ba cân,
[những thứ khác] thảy đều xả. Khi ấy đă
nghĩ, chính ḿnh có công việc, mỗi ngày c̣n phải đi
làm tám tiếng; v́ thế, chẳng đủ thời gian
để học Phật, mỗi ngày tối đa chỉ
có thể sử dụng bốn giờ đồng hồ nơi
Phật pháp. Tôi nghĩ “như vậy là không xong rồi, tôi chẳng thể đuổi kịp các đồng
học”. Thầy Lư đă dạy tại đó mười
năm, rất nhiều người trong các học tṛ đă
theo thầy mười năm, tôi mới đến chỗ
thầy, làm sao đuổi kịp người ta cho
được? Liền dấy lên vọng tưởng, nghĩ
tốt nhất là xuất gia, chẳng cần làm công việc
này nữa, mỗi ngày sẽ dùng mười hai tiếng
đồng hồ nơi Phật pháp. Tôi phỏng đoán
trong hai năm tôi sẽ đuổi kịp họ.
Sau khi thảy
đều buông xuống, đúng là “tâm tưởng sự thành”. Xuất gia là do Chương
Gia đại sư thay tôi chọn lựa, tôi có nguyện vọng
ấy, trong tâm có dự cảm, có lẽ là cái duyên này sẽ
chín muồi. Tôi kể với các đồng học, các
đồng học hỏi tôi, đại khái là phải mất
bao lâu? Tôi nói “chẳng đầy
nửa năm”, tôi có dự cảm không đầy nửa
năm. Kết quả là chưa đến hai tháng, pháp
sư Tâm Ngộ sai người đến mời tôi xuất
gia; trong hơn một tháng, Ngài sai người đến mời
chín lần. Tôi thấy tâm Ngài rất chân thành, chân thật, chẳng giả, tôi mới đi xuất
gia. V́ thế, tôi xuất gia chẳng phải là tôi t́m sư
phụ, mà là sư phụ t́m tôi, lại c̣n t́m chín lần. Tôi
đưa ra điều kiện, tôi xuất gia sẽ học
kinh giáo, chẳng làm kinh sám Phật sự, mà cũng chẳng
làm pháp hội, tôi muốn học kinh giáo. Tôi có thể giảng
kinh, có thể dạy tại Phật Học Viện, những thứ khác
tôi đều chẳng có hứng thú, sư phụ cùng đạo
tràng đều chấp nhận, đều đồng ư. Xuất
gia tại Đài Bắc, tôi lại c̣n đưa ra [điều
kiện], mỗi tháng tôi nhất định phải đến
Đài Trung ở một tuần để thân cận thầy [Lư Bỉnh Nam], thường trụ phải cấp chi phí đi
lại cho tôi, tôi chẳng có một đồng nào, [những đ̣i hỏi ấy]
thảy đều được
đáp ứng, khi ấy mới xuất gia. Quư vị chẳng
buông xuống th́ làm sao được? Phải hiểu rơ những
thứ này, ngũ dục lục trần giống như rắn
độc, giống như thú dữ, thất t́nh ngũ dục
đều chớ nên tiêm nhiễm!
Giáo huấn của
thầy tôi nghe hiểu, tôi có thể tiếp nhận, có thể
y giáo phụng hành. V́ thế, bản thân tôi cũng cảm
thấy rất an ủi, suốt đời này chẳng ĺa
khỏi sách vở. Đọc sách Phật, đọc sách thánh
hiền, những thứ khác của thế gian tôi đều
buông hết, v́ sao? Chẳng có thời gian. Đă thế, sách
Phật là chủ yếu, toàn bộ thời gian và tinh lực
của tôi dùng vào đấy c̣n sợ chẳng xuể, há có thời gian để coi những thứ
khác! V́ thế, tôi không xem báo chí đă hơn bốn
mươi năm. Báo chí, TV, radio, tạp chí, thảy đều
buông xuống; các sách vở thông thường trong thế
gian cũng đều buông xuống, chẳng có thời gian
để xem. Như vậy th́ mới ǵn giữ cái tâm thanh
tịnh, phiền năo nhẹ nhàng, trí huệ tăng trưởng; đấy là kinh nghiệm của chính
bản thân tôi. Trước kia, xem kinh sách không hiểu, nay có
thể đọc hiểu. V́ thế, những thứ này chẳng
phải để nghiên cứu. Hễ nghiên cứu, sẽ
chẳng thông suốt!
Nghiên cứu là quư vị dùng vọng tâm, dùng cái tâm phân biệt,
dùng tâm chấp trước, lăng phí thời gian, lăng phí tinh lực.
Quư vị một
mực dùng tâm chân thành, chí thành cảm thông, đấy là bí
quyết do thầy Lư dạy tôi. [Vận dụng] tâm chân thành để
đọc, chớ nên phân biệt, chớ nên chấp
trước. Đọc một lần không được,
bèn hai lần, thật thà đọc từng lần một.
Trong khi bất ngờ, bỗng nhiên thấu hiểu ư nghĩa,
cảm thấy rất an ủi, đă lănh hội được.
Sự lănh ngộ, thấu hiểu như vậy càng ngày càng
nhiều lần, càng ngày càng dày đặc, pháp hỷ sung
măn! V́ thế, quư vị đọc kinh sách, [sẽ cảm
nhận] mỗi lượt mỗi khác, ư vị vô cùng. Ư vị vô cùng chính là vui sướng vô cùng. Quư vị chẳng nếm
được pháp vị là v́ cái tâm chẳng thanh tịnh. Cổ
đại đức nói “thế
pháp na hữu pháp vị nùng” (pháp thế gian há có ư vị
nồng đượm như Phật pháp). Sự vui sướng
trong thế gian, tức “thế
vị”, luôn chẳng thể nồng đượm bằng
pháp vị. Niềm vui pháp vị vượt trỗi thế
gian quá nhiều. Niềm vui thế gian có những hậu quả
xấu, có nghĩa là có sự độc hại trong ấy,
pháp vị thuần thiện, chẳng ác.
Niệm Phật
cũng giống như thế, chúng ta niệm Phật công
phu không đắc lực là v́ chẳng đúng pháp. “Đúng pháp” là ǵ? Giác Minh Diệu
Hạnh Bồ Tát đă nói rất hay. Ngài dạy ba bí quyết
niệm Phật, thứ nhất là chẳng hoài nghi, thứ
hai là không xen tạp, thứ ba là chẳng gián đoạn. Nói
thật ra, Ngài nói chín chữ chính là như Đại Thế
Chí Bồ Tát đă nói bốn chữ, “tịnh niệm tương kế” (tịnh niệm
nối tiếp). “Chẳng hoài
nghi, không xen tạp” mới là “tịnh
niệm”, “chẳng gián
đoạn” là “tương
kế”. Đấy là bí quyết, đọc kinh hay học
giáo cũng là bí quyết này. Vấn đề hiện thời
của chúng ta là ở chỗ nào? Vấn đề ở chỗ
hoài nghi, xen tạp; do vậy, quư vị chẳng nếm
được pháp vị, không thọ dụng được.
Do vậy, quư vị giải đăi. Do giải đăi sẽ
gián đoạn; do vậy, mới chẳng thể thành tựu.
V́ lẽ
đó, có thể biết, thật
sự muốn khế nhập, quư vị phải hiểu lời
giáo huấn của Chương Gia đại sư, buông xuống,
thứ ǵ cũng đều phải buông xuống. Phải
bỏ, có thể bỏ thứ khó bỏ, quư vị sẽ có
cửa để tiến nhập. Buông xuống là đường
nẻo; chẳng buông xuống, cửa ở ngay trước
mặt mà quư vị chẳng vào được,
chẳng t́m thấy đường nẻo!
Hai bài kệ này,
bài trước dạy chúng ta buông xuống phiền năo, bài
này dạy chúng ta buông xuống thất t́nh ngũ dục. Tất
cả hết thảy vạn sự vạn vật, đối
với người biết học, thảy đều nhắc
nhở ta, thảy đều là biểu thị pháp. Kinh Hoa
Nghiêm nói “biểu thị pháp”,
người b́nh phàm nói là “nhắc nhở”. Quư vị thấy
đó, trông thấy nước chảy, nhắc nhở chúng
ta phải gột sạch tham, sân, si, mạn, gột trừ
Tam Độc. Thấy vườn rau bèn nghĩ đến
dẫy cỏ, thất t́nh ngũ dục là cỏ tạp, quư
vị có thể nhổ trừ chúng,
chướng ngại sẽ chẳng có, tâm thanh tịnh hiện
tiền. Tuy hiện chẳng nhiều lắm, nhưng hữu
dụng, có công dụng ǵ vậy? Đắc pháp hỷ, nếm pháp vị;
nay quư vị chẳng nếm
pháp vị, chướng ngại ở chỗ này. Nghe kinh chẳng
có pháp hỷ cũng là do nguyên nhân này. Quư vị có thể nếm
bao nhiêu, có thể hưởng thụ bao nhiêu, tỷ lệ thuận với quư vị buông
xuống bao nhiêu? Nếu quư vị hiểu rơ đạo lư này, quư vị phải thật
sự hành! Ai làm mất ḷng quư vị, quư vị phải
nên buông xuống, chớ nên ghim trong ḷng. Người ấy
trong quá khứ đối xử với ta chẳng tốt,
cứ kiếm chuyện làm khó dễ ta, hoặc là hủy
báng, tổn hại ta, quư vị cứ ghim những điều
đó trong ḷng, trong cái tâm thanh tịnh sẽ nẩy sanh cỏ
dại, trong Bồ Đề tâm của quư vị có Tam
Độc.
V́ thế, bệnh
có thuộc về bên ngoài hay không? Chẳng phải vậy, ở
nơi chính ḿnh. Đấy chính là như cổ đức đă
dạy chúng ta: “Hành hữu bất
đắc, phản cầu chư kỷ” (Có chuyện ǵ chẳng làm được, hăy
xét lại chính ḿnh), người ấy thật sự biết
học. Đối với bên ngoài, Ngẫu Ích đại
sư đă nói hay quá: “Cảnh
duyên không tốt xấu”. “Cảnh” là hoàn cảnh vật
chất, “duyên” là hoàn cảnh
nhân sự. Tổ sư dạy chúng ta, hoàn cảnh bên ngoài,
nhân sự cũng thế, mà vật chất cũng thế,
chẳng có ǵ tốt hay xấu. Lại thưa cùng quư vị,
chẳng có đúng sai, chẳng có tà chánh, chẳng có thiện
ác, chẳng có chân vọng. Chân vọng, tà chánh, đúng sai, thiện
ác toàn là sanh từ trong nội tâm của chính ḿnh. Quư vị
nói kẻ này đáng ghét, quư vị chẳng ưa nổi kẻ
đó. V́ sao người khác ưa thích hắn, chẳng chán
ghét hắn? V́ sao ta chán ghét hắn, chẳng ưa nổi hắn?
Quư vị có thể quay lại phản tỉnh, kiểm điểm
như vậy, t́m ra vấn đề của chính ḿnh. Nguyên
nhân là ǵ vậy? Do tập khí phiền năo quấy phá, chẳng
liên quan đến ngoại cảnh, mà là do tập khí phiền
năo của chính ḿnh. Chính ḿnh mê hoặc, điên đảo, chẳng
thể làm chủ, cảnh giới bên ngoài vừa hiện
tiền, chúng ta nói “dụ dỗ, mê hoặc”; thật ra, cảnh
giới có dụ dỗ, mê hoặc quư vị hay chăng? Chẳng
có dụ dỗ, mê hoặc. Nếu quư vị nói là dụ dỗ,
mê hoặc, v́ sao từ A La Hán trở lên chẳng bị dụ
dỗ, mê hoặc? Chẳng khởi một tí tác dụng nào
đối với các Ngài? Vẫn là do chính ḿnh không nắm vững! Hễ
tiếp xúc, tập khí phiền năo bên trong chính ḿnh thảy
đều hiện hành, vẫn là phải tự trách chính
ḿnh, làm sao có thể trách móc bên ngoài cho được?
Người thật
sự biết tu, đối với người ấy, cảnh
giới bên ngoài có lợi ích quá lớn. Người ấy
muốn đoạn tham, sân, si, tham ái th́ đoạn như
thế nào? Đoạn tham ái trong thuận cảnh. Nếu quư
vị tiếp xúc thuận cảnh, thuận cảnh khiến
cho quư vị dấy lên tham ái, trong khi ấy, quư vị dấy
lên công phu Giới, Định, Huệ. Giới có thể miễn
cưỡng khống chế chính ḿnh chẳng tiếp xúc, công
phu Định sâu hơn một tầng, sẽ có thể chế
phục. Sau khi đă khai Huệ, sẽ hóa giải, chẳng
c̣n nữa! Tu học Phật pháp, mục
đích chung cực là khai trí huệ, tất cả hết
thảy đều hóa giải. Giới và Định đều
là phương tiện, đều là quá tŕnh, chẳng phải
là mục đích. Quư vị chẳng thật sự làm th́ c̣n
sao được nữa? Thật sự làm, bậc lợi
căn th́ mấy tháng, hai, ba năm sẽ thành công; kẻ căn
tánh chậm lụt hơn, sẽ chẳng nhất định,
có người mười năm, tám năm, có người
hai mươi năm, ba mươi năm. Chỉ cần quư
vị thật sự [tu tập], sẽ như Thiện Đạo
đại sư đă dạy, “gặp
duyên thù thắng”, trong đời này chẳng có ai không thành
tựu! Xác thực là gặp duyên, mối quan hệ ấy
quá lớn! Trong các
duyên, duyên quan trọng nhất là
thiện tri thức, vị thầy thật sự giỏi
dạy dỗ quư vị, bản thân quư vị phải có duyên
với thầy, duyên ǵ vậy? Thật sự tin tưởng,
chẳng hoài nghi, thật sự y giáo phụng hành, như vậy
th́ mới có thể thành tựu.
Ngẫm lại
ba vị thầy của tôi, học tṛ đông đảo, người
thành tựu chẳng nhiều cho lắm. Đấy là do nguyên
nhân nào? Chính là do mức độ tôn sư trọng đạo
khác nhau. Trong Văn Sao, tổ Ấn Quang đă nói rất
hay, Ngài nói rất nhiều lần: “Một phần thành kính được một phần
lợi ích, hai phần thành kính được hai phần lợi
ích, mười phần thành kính được mười
phần lợi ích”. Đồng học đông đảo ngần ấy thảy đều theo học
cùng một vị thầy, mỗi người có ḷng thành kính đối
với thầy khác nhau, sở đắc cũng khác nhau! Thầy
dạy cùng một lớp, mỗi đồng học có sở
đắc khác nhau. Nếu quư vị hỏi nguyên nhân là ǵ ư?
Tâm quư vị được mấy phần thành kính, quan hệ
ở chỗ này! Chớ nên không biết điều này. Những
điều này quư vị đều có thể thấy, đều
là bề ngoài, Phật pháp nói đó là duyên. Đương
nhiên c̣n có thứ sâu hơn, thứ sâu hơn chính là nhân. Nhân
thuộc đời trước, những điều đă
học trong đời quá khứ là căn cội cho đời
này, tức là nhân. Trong đời quá khứ chẳng nghiêm túc
tu tập, dẫu đời này gặp duyên, chẳng được! Căn cội chẳng đủ sâu! Trong
đời quá khứ có nhân, đời này gặp thiện
duyên, sẽ thành công. Đời quá khứ có thiện
căn, đời này chẳng gặp thiện duyên, cũng
chẳng có cách nào. Nhân duyên tụ hợp, quả đức
hiện tiền. Phật pháp giải thích hết thảy
các pháp thấu triệt, rơ ràng, minh bạch, chẳng hàm hồ
tí nào!
Quư vị nói học
vấn tốt đẹp dường ấy, hiện thời
nghiễm nhiên chẳng có ai học, rất đáng tiếc!
Khi đó, Chương Gia đại sư chọn lựa
cho tôi hạnh nghiệp này, tôi cũng rất hoan hỷ, v́
sao? Tôi có cảm giác sứ mạng, hiện thời có lắm
người hiểu lầm ngần ấy, thứ tốt đẹp
dường ấy, chính ḿnh ắt phải đích thân nỗ
lực thực hiện, nói rơ ràng, nói minh bạch cùng đại
chúng. Nói rơ ràng, nói minh bạch, nhất định là chính
ḿnh phải làm được. Chẳng làm được,
quư vị nói ra, người ta sẽ chẳng tin tưởng.
Chính ḿnh làm được trước đă, khi quư vị nói,
người ta mới tin tưởng. Giống như
trước kia, tôi đối với bè bạn, đồng
nghiệp, bạn học của tôi, khi đó, tôi mới học
Phật chưa được bao lâu, giới thiệu Phật
pháp cho họ, họ chẳng tin tưởng, hoặc nửa
tin nửa ngờ! Hiện thời gặp mặt tôi, thái độ
hoàn toàn khác hẳn. “Thầy nói đúng rồi”. Đứng
chung một chỗ, tôi lớn tuổi hơn họ, thoạt
nh́n họ c̣n già nua hơn tôi, suy yếu hơn rất nhiều,
thể lực lẫn tinh thần đều chẳng bằng.
V́ sao? Suốt đời họ chẳng ĺa khỏi phiền
năo. Đời này chúng tôi chẳng ĺa khỏi Giới, Định,
Huệ, do cuộc sống un đúc, quả báo
đương nhiên chẳng giống nhau. A! Hôm nay chúng tôi nói
tới chỗ này!
Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 38 hết
[1] Daisaku Ikeda (池田大作, Tŕ Điền Đại Tác) là chủ tịch
đời thứ ba của SGI (Soka Gakkai International, Quốc Tế Sáng Giá Học Hội),
tức một hiệp hội truyền bá giáo nghĩa Nhật
Liên Tông của Nhật Bản. Cuộc thảo
luận giữa ông Ikeda và giáo sư Toynbee đă kéo dài suốt
mười ngày tại Luân Đôn vào tháng Năm năm 1973.
Chủ đề thảo luận bao gồm nhiều vấn
đề triết học, ḥa b́nh v.v… Nội dung cuộc thảo
luận được tập hợp thành sách với tựa
đề “Choose Life: A Dialogue
with Arnold J. Toynbee”.