Đại Phương
Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần
39
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng
Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh
Tiến
Tập
1539
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống.
Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một, tiểu
đoạn thứ hai trong đoạn lớn thứ sáu của
phần kệ tụng, hai bài kệ cuối cùng, tức là bài
thứ mười tám và mười chín. Chúng ta đọc trước
kinh văn một lượt:
(Kinh) Kiến vô ưu lâm, đương
nguyện chúng sanh, vĩnh ly tham ái, bất sanh ưu bố.
(Kinh: Thấy rừng vô ưu,
nguyện cho chúng sanh, măi ĺa tham ái, chẳng sanh lo sợ).
Đối với chữ “vô ưu lâm” (無憂林, rừng cây vô ưu), Thanh Lương đại
sư có chú thích ngắn gọn. Lời chú giải chỉ
có một câu:
(Sớ) Xử chi vong ưu cố.
(疏)處之忘憂故。
(Sớ: Do ở nơi ấy,
sẽ quên nỗi lo âu).
Nói thật ra, “xử chi vong ưu” là chẳng
có ưu sầu. Nói cách khác, chẳng có phiền năo, đấy
là “vô ưu lâm”. Vô ưu lâm ở
chỗ nào? Ấn Độ có loại thực vật tên là
cây Vô Ưu (Saraca Asoca), giống như đức Thế Tôn thị hiện
chứng đạo dưới cội cây Tất Bát La
(Pippala, Ficus Religiosa). Về sau, cây ấy được gọi
là “Bồ Đề thụ”
(菩提樹, cây Bồ Đề, cây giác ngộ). Nói theo ư
nghĩa biểu thị pháp, người tu hành thật sự
có đạo hạnh, người ấy ở chỗ nào tất
nhiên là đều giáo học. Giáo học th́ học tṛ nhất
định đông đảo; trong ấy, sẽ có khá nhiều
người thành tựu. V́ thế, vào thời cổ, đạo
tràng Phật giáo có quy mô lớn th́ được gọi là
“tùng lâm” (叢林), tùng
lâm chính là Vô Ưu Lâm. Chúng ta thấy một cánh rừng rậm
hết sức u tĩnh, sẽ dẫn phát hoằng nguyện
của Bồ Tát, “đương
nguyện chúng sanh, vĩnh ly tham ái, bất sanh ưu bố”
(nguyện cho chúng sanh, vĩnh viễn ĺa khỏi tham ái, chẳng
sanh âu lo, sợ hăi). “Bố”
(怖) là sợ hăi. Do vậy có thể biết, ưu hoạn,
sợ hăi sanh từ chỗ nào? Nói chung, chẳng ĺa khỏi
tham, sân, si. Có thể “vĩnh ly
tham ái”, âu lo sẽ chẳng sanh; đấy là đạo
lư nhất định. Bất luận lúc nào, bất luận
nơi chốn nào, xưa, nay, trong ngoài nước, hết thảy
âu lo, sợ hăi đều sanh từ tham, sân, si, mạn. Do
đó, bài kệ này là nguyện cho hết thảy chúng sanh
đại triệt đại ngộ. V́ nếu một
người chẳng triệt ngộ, sẽ chẳng có
cách nào đoạn trừ tham ái. Đấy là căn bản
của căn bản phiền năo.
Đức Thế Tôn v́ chúng sanh
thuyết pháp, nói đến phiền năo của chúng sanh, sẽ
là vô lượng, vô tận. [Lời nguyện] “phiền năo vô tận thệ nguyện
đoạn” trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện, [chứng
tỏ phiền năo] quá nhiều! Quy nạp lại bèn nói là “tám vạn bốn ngàn”. Tám vạn
bốn ngàn là quy nạp, con số này chẳng phải là nói
hư giả. Thật sự có số lượng tám vạn
bốn ngàn. Trong giáo học, tám vạn bốn ngàn quá nhiều,
chẳng tiện dạy học, lại quy nạp chúng thành
một trăm lẻ tám món, gọi là “một trăm lẻ tám phiền năo”, sẽ dễ
nói hơn! Nay chúng ta thường lần tràng hạt gồm
một trăm lẻ tám viên; v́ sao dùng một trăm lẻ
tám viên? Chính là niệm nào cũng nhằm đối trị
một trăm lẻ tám phiền năo, mang ư nghĩa ấy. Một
trăm lẻ tám [món phiền
năo] triển khai ra, sẽ là vô tận
phiền năo.
Nhưng để dạy
những kẻ sơ học, càng đơn giản càng hay;
v́ thế, kinh điển nhập môn của Tướng
Tông là Bách Pháp Minh Môn Luận, bộ luận này do Thiên Thân Bồ
Tát soạn, đă quy nạp một trăm lẻ tám phiền
năo thành sáu căn bản phiền năo và hai mươi món tùy
phiền năo, [tức là] quy nạp thành hai mươi sáu
điều. Xác thực là cách này thuận tiện rất
nhiều cho kẻ sơ học; nhất
là sáu căn bản phiền năo. Món căn bản phiền
năo thứ nhất là tham. [Tham], sân,
si, mạn, nghi, ác kiến chính là sáu căn bản phiền
năo. Lại quy nạp sáu món thành ba món, gọi là Tam Độc,
tức tham, sân, si. Thưa cùng chư vị, ba món tham, sân, si
lại quy nạp, có thể quy nạp thành một món, đó
là tham. V́ vậy, tham ái là căn cội của vô lượng
vô biên phiền năo, đương nhiên là càng chẳng dễ
đoạn. Giống như một cội cây to; cây này là
cây phiền năo, cành, lá, hoa, quả hết sức sum xuê, cội
sâu rễ chắc! Nếu hiện thời bảo quư vị
nhổ tận rễ, [nếu] chẳng phải là bậc
thật sự giác ngộ, há có thể làm được
ư?
Phật là bậc đại
từ đại bi; Phật cũng từ nhân loại tu
thành. Tu như thế nào? Nhổ trừ từ cội rễ
này. Tu hành đầu tiên th́ phải trị tận gốc, thực hiện từ căn bản; đó là đúng. Thực hiện từ cành, lá, chẳng biết đến năm
nào, tháng nào, quư vị mới có thể đạt được
một chút thành tựu! Thực hiện từ căn bản sẽ nhanh chóng! Quư vị phải
biết những thứ ấy chắc chắn chẳng phải
là thứ tốt đẹp, từ vô thỉ kiếp tới
nay, chúng ta đă đọa lạc trong sanh tử luân hồi
nơi lục đạo, khổ chẳng thể nói nổi!
Do nguyên nhân ǵ tạo thành? Chính là tham ái, chớ nên không biết
điều này. Chúng ta thật sự dụng công, thiện
tri thức chỉ dạy chúng ta bèn quan sát cặn kẽ. [Nếu
như] quư vị tham mến của cải, [thiện tri thức]
nhất định sẽ dạy quư vị trước hết
hăy xả tài. Quư vị tham mến sắc, nhất định
bảo quư vị bỏ sắc trước đă. Để trị tập
khí thói xấu của quư vị, [phải t́m ra] thứ ǵ nghiêm trọng nhất? Tiếng tăm, lợi
dưỡng, tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ
nghê, điều nào nghiêm trọng nhất, hăy ra tay từ
cái nghiêm trọng nhất. Trị lành căn bệnh ấy,
những thứ khác sẽ được chữa lành. Mỗi
cá nhân có tập khí và ô nhiễm khác nhau; v́ thế,
phương thức đối trị đương nhiên
cũng chẳng giống nhau! Bất quá nói thông thường, nghiêm trọng nhất là tài và sắc, những thứ ấy là nghiêm trọng nhất. Nhiễm phải những
thứ ấy, quư vị phải biết: Suốt một
đời này, chắc chắn là quư vị sẽ chẳng vượt
thoát sanh tử luân hồi.
Phải biết cái tâm phiền
năo chính là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Chẳng thể
trừ bỏ sáu món căn bản phiền năo ấy, đấy gọi
là tâm luân hồi. Bất luận làm ǵ, dẫu là tụng
kinh, niệm Phật, lạy Phật, cũng đều là
tạo nghiệp luân hồi. Cái tâm là tâm luân hồi,
đương nhiên là tạo nghiệp luân hồi! Tuy học
Phật, chỉ là gieo một chút thiện căn trong Phật
pháp, chẳng thể thành tựu trong một đời này.
Không chỉ là chẳng thể chứng quả, mà ngay cả
khai ngộ đều chẳng có phần. Tối đa là
quư vị có thể đạt được một chút Thiền
Định, tức Thiền Định thế gian, có
Định mà chẳng có Huệ. Do vậy, vẫn ở
trong lục đạo, đó gọi là “trường kiếp luân hồi” (luân hồi trong
nhiều kiếp lâu dài). Sự luân hồi ấy chẳng
phải là một thời gian ngắn ngủi, mà là một thời
gian dài. Vậy th́ nếu quư vị hỏi, khi nào quư vị mới có thể thoát ly luân hồi? Nói theo Phật pháp, khi
nào quư vị trừ bỏ tham ái, chúc mừng quư vị; hễ
bỏ được tham ái, quư vị sẽ có thể thoát ly luân hồi. Lại thưa cùng chư
vị, niệm Phật th́ mọi người đều
hy vọng có thể văng sanh Tây Phương Tịnh Độ
trong một đời này, nhưng chẳng xả tham ái, có
thể văng sanh hay chăng? Thưa cùng chư vị, chẳng
thể văng sanh! Chớ nên không biết sự thật này! Bất
luận tại gia hay xuất gia, hễ quư vị chẳng
thể buông xuống, sẽ chẳng thể văng sanh.
“Đới
nghiệp”: Pháp môn Tịnh Tông rất đặc thù, thường
nói “đới nghiệp văng
sanh”, [nhưng cần phải hiểu rơ], “đới nghiệp” (帶業) là mang
theo cựu nghiệp (nghiệp cũ), chẳng mang theo tân
nghiệp (nghiệp mới). Tân nghiệp là ǵ? Tạo trong
hiện tại, hiện tại vẫn đang gây tạo,
không được rồi! Cựu nghiệp là nghiệp
đă tạo trong quá khứ, hiện tại chẳng tạo
nữa! Hiện tại buông xuống th́ được.
Trước khi học Phật trót tạo, sau khi học Phật
bèn chẳng tạo nữa, sẽ chẳng có vấn đề.
Sau khi đă học Phật, mỗi người có duyên phận
khác nhau! Thiện Đạo đại sư thường
nói như thế này: “Bốn
cơi, ba bậc, chín phẩm, nói chung là do gặp duyên khác nhau”.
Tuy xuất gia, chẳng gặp gỡ thiện tri thức, chẳng
được nghe chánh pháp, th́ vẫn là cái tâm luân hồi tạo
nghiệp luân hồi! Nghe chánh pháp, gặp gỡ thiện
tri thức, nương theo giáo huấn của thiện tri
thức để tu hành chánh pháp, những nghiệp bất
thiện đă tạo trong quá khứ đều có thể bỏ
sạch, vậy th́ được; đó gọi là “đới nghiệp văng sanh”.
Nay chúng ta nói Xả, chỉ là bỏ cái hiện hành, chứ
chẳng đoạn được căn cội phiền
năo. Nếu đoạn được căn cội phiền
năo, xả hết từ trong nội tâm, quư vị sẽ chứng
quả A La Hán, dẫu không niệm Phật, vẫn thoát ly lục
đạo luân hồi. Nhưng vẫn phải niệm Phật,
niệm Phật có cái hay, sanh về Tây Phương, sẽ
chẳng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, mà là sanh trong
cơi Phương Tiện Hữu Dư. Đó gọi là “gặp duyên khác nhau”.
Học Phật chẳng gặp
thiện tri thức, chẳng được nghe chánh pháp, chẳng
chuyển được ư niệm, nhà Phật thường
nói là “chuyển kinh”. Quư vị
thấy phong tục Tây Tạng, mỗi người xuất
gia hay tại gia cầm một cái ống xoay gọi là “chuyển kinh luân”[1].
Quư vị hăy chú trọng chữ Chuyển, Mật Tông có
[chuyện này], Hiển Giáo cũng chẳng ra ngoài lệ ấy.
Trước kia, giảng kinh, thuyết pháp có thuật ngữ
là Chuyển Pháp Luân, hăy chú trọng chữ Chuyển. Chuyển
(轉) là chuyển biến, chuyển mê thành ngộ, chuyển
ác thành thiện, chuyển tham, sân, si thành Giới, Định,
Huệ, chuyển phàm thành thánh, quư vị biết chuyển
th́ mới được! Nếu quư vị chẳng biết
chuyển, quư vị đă uổng công học kinh giáo mất
rồi, chẳng được thọ dụng! V́ sao? Quư vị
chẳng ĺa khỏi “ưu bố”.
Nói tới ưu bố th́ hiện thời mức độ hết sức rơ ràng. Ưu là ưu hoạn (憂患, lo âu), Bố là khủng bố (恐怖, kinh sợ).
Hiện thời, xă hội này
có rất nhiều tai nạn. Nếu quư vị thường
lưu ư tin tức được lan truyền trên cả thế
giới, sẽ biết hằng ngày có không biết bao nhiêu
tai nạn phát sanh. Những người có trí huệ, có tầm
nh́n xa, đă bảo cho chúng ta biết nguy cơ tiềm ẩn,
đấy là ǵ? Do cộng nghiệp của chúng sanh tích
lũy. V́ sao tôn giáo phương Tây nói đến tận thế,
v́ sao có cách nói ấy? Quan sát cặn kẽ, sẽ thấy
chẳng phải là vô lư. Xă hội từ hai ngàn năm
trước, lẽ ra là hai ngàn năm trăm năm trước,
xă hội tại phương Đông tiếp nhận giáo huấn
của thánh hiền, phong tục của dân chúng thuần
phác, đều biết lễ độ, nhường nhịn
lẫn nhau, chẳng có cạnh tranh; đấy gọi là “thái b́nh thịnh thế” (太平盛世, đời thái b́nh thịnh trị). Thông thường,
người đọc sách tại Trung Hoa thường ca
ngợi “Nghiêu thiên Thuấn nhật”
(ngày tháng Nghiêu Thuấn), tức là vào thời đại
Nghiêu Thuấn, giáo dục thật sự thâu được
hiệu quả. V́ thế, người Hoa từ xưa tới
nay thường nói: “Kiến quốc,
quân dân, giáo học vi tiên” (Xây dựng
đất nước, cai trị nhân dân, giáo dục làm
đầu). Coi giáo dục quan trọng hơn bất cứ
ǵ khác. V́ sao thời cổ có thể tốt
đẹp dường ấy? Chính là v́ đă đặt
giáo dục hàng đầu.
Nhưng vào thời đại
Xuân Thu, nhà Châu suy vi, lễ giáo dần dần biến chất,
những kẻ có phước báo to lớn, thường gọi
là “chư hầu”[2],
sanh khởi tâm tham ái. Luôn mong chiếm tiện nghi của kẻ
khác, nay chúng ta nói là “tổn
người, lợi ḿnh”, mở rộng bản đồ
(lănh thổ) của chính ḿnh, xâm phạm lănh thổ của
kẻ khác. Chuyện ấy đă phát sanh, vẫn chưa
đáng coi là nghiêm trọng, đến thời Chiến Quốc
bèn hết sức nghiêm trọng. Khổng Tử sanh nhằm
thời đại Xuân Thu, Mạnh Tử sanh vào thời
đại Chiến Quốc, cách hiện thời hai ngàn
năm trăm năm. Trong hai ngàn năm trăm năm ấy,
tuy các triều đại đều coi trọng lễ
giáo, coi trọng giáo dục luân lư đạo đức,
hoàn toàn chẳng xếp [lễ giáo] vào địa vị bậc
nhất, nhưng hết sức coi trọng, xă hội c̣n
ǵn giữ được cục diện b́nh trị lâu dài.
Nhưng mỗi khi triều đại thay đổi, toàn
là dùng thủ đoạn chiến tranh, tức là “thành tắc vi vương, bại
tắc vi khấu” (thắng làm vua, thua làm giặc). Mỗi
lần chiến loạn, con số quân dân bị tử
thương đều rất đáng sợ. Tích lũy
đă hai ngàn năm như vậy, [sẽ phải có ngày] thanh toán sổ sách chung cả hai ngàn năm! Chư vị
nhất định phải biết, những kẻ bị
quư vị giết chóc hoặc làm hại có cam
ḷng hay không? Họ có t́nh nguyện hay không? Chẳng cam ḷng,
không t́nh nguyện, khẳng định là oan oan tương
báo chẳng hết, chẳng xong, người và người
kết oán hận với nhau.
Lại nữa điều thứ
hai là con người kết mối oán hận cùng hết thảy
chúng sanh, sẽ càng thê thảm hơn! Ăn
thịt là kết oán hận với chúng sanh. Thường
nói là “kẻ mạnh ăn thịt
kẻ yếu”, chẳng sai! Quư vị mạnh, chúng nó yếu,
quư vị có thể ăn nó; nhưng đến đời
sau, nó mạnh, quư vị yếu, nó sẽ ăn thịt quư
vị. Trong lịch sử Trung Hoa có ghi chép chuyện này, những
điều được ghi chép trong lịch sử quyết
định chẳng phải là giả. Chẳng phải là
sự thật, chắc chắn không thể ghi chép trong sử
sách. [Nếu ghi chép] trong bút kư hoặc tiểu thuyết của
tư nhân th́ được, những chuyện ấy chẳng
đáng tin cậy, chứ chánh sử th́ nhất định
là đáng tin cậy. Trong hai mươi lăm bộ sử
cũng chép rất nhiều chuyện oan oan tương báo.
Sau khi quư vị đă hiểu rơ, mới biết chuyện
này đáng sợ. V́ lẽ ấy, tận thế và đại
tai nạn là ǵ? Oán hận tích lũy, tích lũy hơn hai
ngàn năm, nó sẽ bộc phát! Chúng ta có thể khiến
cho chuyện này chẳng bộc phát trong hiện thời hay
không? Được chứ! Chỉ cần chúng sanh hồi
tâm hướng thiện, chuyện này sẽ có thể tŕ
hoăn, có thể làm chậm lại sự báo thù ấy. Kẻ
báo thù thường nghĩ đến chuyện báo thù,
nhưng trong thế gian này, quư vị là một người
rất thiện lương, [kẻ oán cừu]
sẽ chẳng nỡ ḷng ra tay [sát hại hoặc trả thù]. Triều đại nào cũng đều tôn sùng
luân lư đạo đức, [cho nên tai ương] bị
tŕ hoăn. Cho đến thời đại hiện tại,
đă sổ toẹt luân lư đạo đức, thôi rồi!
Cơ hội báo đền những
mối oan nghiệt đă đến rồi, chuyện là
như thế đó!
Phật môn có một công án hết
sức nổi tiếng, nhà Phật gọi là “công án” (公案), kẻ b́nh phàm gọi là “cố sự” (故事, câu
chuyện), là thật, chẳng giả. [Chúng ta sẽ nói về
công án] quốc sư Ngộ Đạt đời
Đường. Từ truyện kư, chúng ta thấy lăo nhân
gia là cao tăng mười đời, chẳng dễ dàng!
Mỗi đời Ngài đều làm thân người, chẳng
đánh mất thân người; suốt mười đời
chẳng mất thân người, tu hành khá quá! Đă thế,
mỗi đời Ngài đều xuất gia; v́ thế, tu
hành cũng là mấy đời kế tiếp nhau tu thành công,
chẳng phải là một đời một kiếp. Đời
thứ mười, Ngài đạo đức học vấn
khá lắm, hoàng đế tôn trọng Ngài, bái Ngài làm thầy,
tức quốc sư. Hoàng đế cúng dường thầy
một ṭa báu trầm hương, rất nổi tiếng,
quư báu! Quư vị thấy đàn hương hoặc trầm
hương loại tốt nhất ở Hương Cảng,
có thể là tính toán từng lượng một. Hiện thời, chẳng
biết một lượng bán bao nhiêu tiền? Một ṭa
báu [bằng trầm
hương], quư vị có thể tưởng
tượng quư trọng cỡ nào! Quốc sư Ngộ
Đạt tiếp nhận ṭa báu do hoàng thượng biếu
tặng, tâm ngạo mạn sanh khởi, cảm thấy
chính ḿnh rất vinh diệu, vị pháp sư nào trong thiên hạ
cũng chẳng sánh bằng Ngài! Một niệm tâm ngạo
mạn sanh khởi, thần hộ pháp ĺa bỏ! Thần thủ
hộ đi rồi, oán thân trái chủ đời đời
kiếp kiếp đợi sẵn, cơ hội chờ
đợi đă đến rồi! Họ bèn dựa thân,
Sư mọc mụt ghẻ mặt người, xém chút nữa
mất mạng!
Quư vị bèn hiểu, chúng ta
đời đời kiếp kiếp ăn thịt chúng
sanh, kết oán cừu, hoặc là làm mất ḷng kẻ khác,
hoặc giết người, luôn có oan nghiệp. Những
oán thân trái chủ ấy, tức oán thân trái chủ nhiều
đời nhiều kiếp đều chực sẵn bên cạnh,
chờ cơ hội trả đũa. Đời này học
Phật, hiểu rơ lư, học vẫn khá lắm, hằng
ngày đem công đức tu học của chính ḿnh hồi
hướng cho oán thân trái chủ, hy vọng có thể hóa giải
oán kết của chúng ta. Đương nhiên là có rất nhiều trường
hợp có thể hóa giải, nhưng cũng có rất nhiều
[oán gia trái chủ] cố chấp, chẳng tha cho quư vị.
Vậy th́ cứ thong thả, làm nhiều thiện sự, tích lũy công đức
cho nhiều th́ mới có thể hóa giải hết
được. Chúng ta nhất tâm tu hành, [oán thân trái chủ]
chẳng gây chướng ngại nữa, chẳng c̣n gây khó
dễ nữa, khiến cho chúng ta khéo niệm Phật văng
sanh Tịnh Độ. Đấy là chân tướng sự
thật, ai nấy đều có.
Làm như
thế nào để có thể cởi gỡ oán kết, có
thể đạt hiệu quả rất tốt? Nhất
định là đoạn tham, sân, si, mạn, quyết định
chớ nên sát sanh, chớ nên trộm cắp. Trong giới
kinh đă nói rất tỉ mỉ, không chỉ là chớ nên
sát sanh, mà ư niệm hại người khác chẳng thể
có. V́ sao? Có ư niệm hại người, ư niệm hại chúng
sanh, tuy quư vị chẳng giết chúng, nhưng cái tâm giết
chóc vĩnh viễn chẳng ĺa bỏ, quư vị c̣n có ư niệm
ấy. Tuy chẳng trộm cắp, quư vị c̣n có ư niệm
chiếm tiện nghi của người khác; đó là cái tâm
trộm cắp. Quư vị chẳng buông bỏ cái tâm trộm
cắp, sẽ tạo thành chướng ngại cho chính
ḿnh. V́ thế, chẳng thể không ĺa giết, trộm,
dâm, dối. Trong Ngũ Giới, bất luận là xuất
gia hay tại gia, trước hết hăy thực hiện từ
chỗ này: “Chẳng sát
sanh, chẳng trộm cắp, chẳng dâm dục, chẳng
nói dối, chẳng uống rượu”.
Trước hết, quư vị hăy thực hiện từ chỗ
này.
Tuy nói đơn giản như
vậy, có ai làm được? Giết, trộm, dâm, dối,
uống rượu là bên ngoài, nhất định sẽ
tương ứng với các phiền năo tham, sân, si, mạn, nghi; đấy
là tạo nghiệp. Trong có phiền năo, ngoài có ác duyên,
chư vị phải hiểu, ngũ dục lục trần
là ác duyên, chẳng phải là thiện duyên. Chúng ta được làm thân người, lại chẳng
thể bỏ ngũ dục lục trần, quư vị chẳng
thể không cần chúng, nhưng phải biết tiết chế,
chớ nên dấy lên ḷng tham ái. Ăn uống có thể
ăn no là được rồi, chớ nên dấy tâm tham.
Quần áo mặc đủ ấm áp là được rồi.
Ở th́ có căn nhà nhỏ để che gió đụt
mưa là được rồi! Quyết định chớ
nên dấy lên tâm tham. Hễ quư vị dấy lên cái tâm tham, chẳng có ai không đọa lạc!
V́ thế, trong thời cận
đại, Ấn Quang đại sư dạy chúng ta, Ngài
là Tây Phương Đại Thế Chí Bồ Tát tái lai.
Đại Thế Chí Bồ Tát chủ về trí huệ, Quán
Thế Âm Bồ Tát chủ về từ
bi. Ngài dạy chúng ta, tu hành trong thời đại này, phải
lập đạo tràng có quy mô nhỏ, chúng tôi càng nghĩ
càng thấy có lư. Đạo tràng nhỏ, lăo nhân gia kiến
nghị, theo nguyên tắc chẳng vượt quá hai
mươi người. Cộng tu với nhau không hơn
hai mươi người, dễ dàng duy tŕ cuộc sống,
hai ba vị hộ pháp đắc lực sẽ cúng dường
được. Người xuất gia nhu cầu ít ỏi!
Y đơn (衣單), chúng ta nói là “quần áo”, một bộ quần áo
tối thiểu có thể mặc mười năm. Trong
khu vực của chúng ta có bốn mùa, quần áo bốn mùa
Xuân, Hạ, Thu, Đông đủ dùng là được rồi,
chẳng cần nhiều! Ăn uống rất đơn
giản. Nếu là tại nông thôn, ở vùng núi, chính ḿnh có
thể trồng một ít lương thực, có thể trồng
một ít rau dưa, cuộc sống đơn giản, chẳng
cầu cạnh người khác, quư vị mới có thể
một dạ hướng theo đạo. Nếu đạo
tràng quá to, quá đông người, người đông sẽ
tạp. Cổ nhân nói rất hay: “Biết
chuyện ít, ít điều phiền năo; biết nhiều
người, lắm nỗi thị phi”. V́ thế,
người càng ít, thị phi càng ít, biết chuyện càng ít,
phiền năo càng ít.
Đă xuất gia th́ hăy một
dạ tu đạo, chuyện thế gian có thể chẳng
cần biết tới! Có thể chẳng cần xem TV,
radio có thể không cần, những thứ như nhật
báo, tạp chí có thể nhất loạt chẳng cần đến, những sách vở thế
gian đều có thể không cần, hăy nhất tâm chuyên chú
nơi kinh điển. Có như vậy th́ cái
tâm của quư vị mới có thể an, quư vị mới có thể
thanh tịnh. Đối với cuộc sống vật chất
hiện thời, đối với những thứ con
người ưa thích, nếu quư vị chẳng buông bỏ
hết, mà mong thành tựu đạo nghiệp, sẽ là
chuyện chẳng thể, phải luôn hiểu [như vậy]. Nhất tâm tu đạo, quyết định chớ
nên phan duyên! Kinh sám Phật sự, pháp hội, quá nửa là phan
duyên. Chẳng cần phải làm những thứ ấy, hăy
nhất tâm niệm Phật. Đọc kinh, niệm Phật,
nghe kinh, hiện thời pháp sư giảng kinh càng ngày càng
ít, nhưng hiện nay khoa học kỹ thuật phát triển,
có thể thâu lại những lời giảng, có loại
thâu h́nh, có loại thâu âm. Đạo tràng chúng ta có thể
dùng máy chiếu h́nh (projector), hoặc máy chiếu phim qua TV,
chẳng cần ăng-ten (antenna), quư vị sẽ chẳng
nhận [các tiết mục] TV hoặc radio bên ngoài, quư vị
chẳng thu được. Chúng ta dùng loại máy móc này
để chuyên môn chạy đĩa DVD, nghe kinh tại nhà,
như vậy là được, chẳng khó khăn!
Hiện thời, những
đĩa DVD giảng kinh, có rất nhiều đĩa DVD
giảng kinh của các pháp sư, lưu thông trên cả thế
giới, chẳng khó t́m được! Mỗi ngày có thể
nghe kinh từ bốn tiếng đến sáu tiếng đồng
hồ, có thể niệm
Phật từ tám tiếng đến mười tiếng
đồng hồ, đạo
tràng ấy sẽ là đạo tràng đúng pháp, nhất
định sẽ cảm ứng chư Phật hộ niệm,
long thiên thiện thần ủng hộ, đạo tràng nhỏ
mà có đại thành tựu! Đạo tràng quá to, sẽ chẳng
thể thành tựu, [bởi lẽ, đă] biến thành chỗ
du lịch, văn cảnh, người xuất gia hằng ngày [bận
bịu] tiếp đăi, thù tạc, tôi đă thấy rồi,
thân tâm mệt mỏi. Khách khứa đi rồi, [chúng
thường trụ] cần nghỉ ngơi, há có thời
gian để nghe kinh, niệm Phật? Ngày hôm ấy đúng là bị phí uổng, quanh năm suốt tháng lăng phí thời gian như thế,
đấy là sai lầm! Nếu quư vị chú tâm nghiên cứu,
[sẽ hiểu] v́ sao họ làm như thế? Đó là v́ chẳng
bỏ sự tham ái, thường ôm ḷng âu lo, sợ hăi. Nay Bồ
Tát dạy chúng ta nhất định phải quay lại,
vĩnh viễn ĺa tham ái, sẽ chẳng sanh ḷng âu lo, sợ
hăi!
Tổ Ấn Quang dạy
chúng ta phương pháp này, kẻ b́nh phàm vừa nghe [sẽ
than]: “Cách ấy khổ quá!” Thoạt nh́n th́ dường
như là quá khổ; trên thực tế, nếu quư vị thật
sự thực hiện, trong ấy sẽ có niềm vui chân
thật! Nói theo Phật pháp, sẽ là “pháp hỷ sung măn”, nói theo Nho gia sẽ là “học nhi thời tập chi, bất
diệc duyệt hồ?” (học rồi thường
xuyên tập luyện, cũng chẳng vui sao?), “duyệt” (悅) là vui sướng, trong ấy có chân lạc.
Nhưng kẻ b́nh phàm chẳng biết, v́ sao không biết? Họ
chưa học, chưa từng nếm thử. Nếu là sau khi họ đă nếm hương vị, sẽ
là như cổ đại đức đă nói: “Thế vị na hữu pháp vị
nùng” (Pháp thế gian nào có ư vị nồng đượm
như Phật pháp). Câu này cho thấy đă thật sự nếm
được pháp vị. Sự sung sướng trong thế
gian này, tức sự sung sướng do tiếng tăm, lợi
dưỡng, ngũ dục, lục trần, tuyệt đối
chẳng thể hơn được sự sung sướng
do luân lư, đạo đức, và học
Phật, quyết định là chẳng thể b́ được, chẳng thể
sánh bằng! Niềm vui đạt được
nơi Phật pháp chẳng sanh ra âu lo, sợ hăi!
Đức Phật dạy
chúng ta điều ǵ? Chuyển tham, sân, si thành Giới,
Định, Huệ. Quư vị chẳng thể buông xuống
tham, sân, si, sẽ chẳng thể thành tựu Giới,
Định, Huệ. Nếu quư vị muốn tu Giới,
Định, Huệ, nhất định phải buông xuống
tham, sân, si. Nhân Giới đắc Định, nhân Định
khai Huệ. Tôi đă nói với các vị đồng học
rất nhiều lần: “Đệ Tử Quy là giới luật
căn bản”. Quư
vị chẳng vun quén căn cội từ chỗ này, sẽ
chẳng đạt được Thập Thiện. Chẳng
có Thập Thiện, quư vị sẽ chẳng đạt
được Tam Quy, Ngũ Giới. Những ǵ đă thọ
sẽ là h́nh thức, chẳng phải là thực chất. Hiện
thời, chúng ta thấy khá nhiều vị đồng tu xuất
gia và tại gia chẳng làm được Sa Di Luật Nghi
của hàng xuất gia, vậy th́ giới tỳ-kheo và giới
Bồ Tát chẳng cần phải nhắc tới nữa,
quá cao! Chẳng làm được giới Sa Di mà! Mười
giới, hai mươi bốn môn oai nghi, v́ sao chẳng làm
được? Do chẳng làm được Thập Thiện.
V́ sao chẳng làm được Thập Thiện? Do chẳng
từng học Đệ Tử Quy. V́ thế, chúng tôi nói “buông xuống”, buông
xuống cụ thể bằng cách thực hiện
Đệ Tử Quy. Quư vị thật sự làm được
Đệ Tử Quy, sẽ buông xuống. Từ chỗ này,
từng ly từng tí để xa ĺa, ĺa hết
thảy ác, tu hết thảy thiện. Tại gia th́ có thể
thi hành Đệ Tử Quy, Tam Quy, Ngũ Giới, Thập
Thiện Nghiệp Đạo, xuất gia th́ có Đệ Tử
Quy, có Thập Thiện Nghiệp Đạo, có thể thực
hiện Tam Quy Ngũ Giới và Sa Di Luật Nghi. Quư vị
thật sự có thể làm được, sẽ là đệ
tử thật sự của đức Phật, được
chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần ủng
hộ.
Giới luật là khuôn mẫu
cho thân tâm của chính ḿnh. Đạt đến một mức
độ nhất định, tâm thanh tịnh hiện tiền,
đấy là đắc định, tâm địa thanh tịnh,
tâm địa b́nh đẳng. Đấy là đạo lư
ǵ? Xa ĺa hết thảy nhiễm đắm, tâm sẽ thanh
tịnh. Xa ĺa hết thảy phân biệt, tâm sẽ b́nh
đẳng. Thanh tịnh, b́nh
đẳng sanh ra trí huệ, chúng ta thường nói là “khai ngộ”. Do Giới đắc
Định, do Định khai Huệ, đă khai ngộ, lẽ
nào chẳng vui sướng? Thưa cùng chư vị, quư vị
tŕ giới dường như rất khổ, [nguyên nhân là
v́] quư vị chẳng đạt được cái tâm thanh
tịnh, công phu không đủ. Hễ tâm đạt thanh tịnh,
sẽ hoan hỷ. Học rồi thường xuyên tập
luyện, cũng chẳng vui sao? Quư vị nếm được
pháp vị. Trong Đại Thừa Phật giáo, nếu trí
huệ đă sanh th́
sẽ pháp hỷ sung măn. Hiện thời, quư vị học Phật
mà cảm thấy rất khổ, [chính là v́] quư vị
chưa nếm được mảy may pháp vị nào. Sau
khi quư vị đă nếm, có muốn bỏ cũng chẳng
được; từ đấy về sau, thuận buồm
xuôi gió trên đường Bồ Đề. V́ thế,
điều kiện tiên quyết là vĩnh viễn xa ĺa tập
khí phiền năo; đấy là tập khí căn bản phiền năo.
Nhất định phải biết nỗi họa
hại của nó, sau đấy, hạ quyết tâm, đoạn
giao với nó, vĩnh viễn vứt bỏ, đó là
đúng! Nay đă hết thời gian rồi, chúng ta nghỉ
ngơi mấy phút.
***
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống.
Xin xem tiếp bài kệ cuối cùng trong tiểu đoạn
này, tức bài kệ thứ mười chín:
(Kinh) Nhược kiến viên uyển,
đương nguyện chúng sanh, cần tu chư hạnh,
thú Phật Bồ Đề.
(經)若見園苑。當願眾生。勤修諸行。趣佛菩提。
(Kinh: Nếu thấy vườn
tược, nguyện cho chúng sanh, siêng tu các hạnh, đạt
Phật Bồ Đề).
Đây là nói ở trên
đường trông thấy vườn rừng. “Viên uyển” (園苑): Vào thời cổ, thông thường tại chỗ
cư trụ của các gia đ́nh khá giả đều có vườn, chúng ta thường nói là “hoa viên”, hoặc “thái
viên” (菜園, vườn rau). Ở nông thôn, thường trông thấy
thứ này, ở những nơi chẳng cách xa thành thị
cho mấy. Trong thời Kháng Chiến, tôi ở Hành Sơn
đại khái bảy, tám tháng. Tôi c̣n nhớ nơi ấy
được gọi là Trần Gia Hà Biên. Con
sông ấy là Tương giang, cách huyện thành Hành
Dương tám dặm đường, [nhà ấy] là một
gia đ́nh giàu có. Nhà của họ là kiểu tứ hợp
viện, tứ hợp viện dường như có bốn
dăy, là một căn nhà rất lớn. Phía trước có
vườn cây ăn trái, tức là sân trước. Sân sau là
vườn rau, vườn rau rất to. Nhà họ theo kiểu
kiến trúc hai tầng lầu. Khi đó, chúng tôi đến
ở trong nhà họ, nhà họ đă suy bại, nhân số
chẳng có mấy! V́ sân quá sâu, có cảm giác khá âm u v́
người sống tại đấy chẳng đông!
Trông thấy chỗ này, v́ sao
nghĩ đến chuyện tu hành? Thuở đức Thế
Tôn tại thế, xác thực là có những quốc vương,
đại thần có nhà cửa dư ra, họ đem cúng
dường để đức Thế Tôn dùng làm nơi
chốn tu hành, giảng đạo. Như trong kinh Di Đà,
chúng ta thấy Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên, đó
là “viên uyển”. Khu vườn
ấy là tài sản tư nhân của trưởng giả Cấp
Cô Độc (Anāthapindika), tức trưởng giả Tu Đạt Đa (Sudatta). Nguyên lai, khu vườn, tức hoa viên ấy là của
Thái Tử Kỳ Đà (Jeta). Trưởng giả Cấp Cô
Độc tính lễ thỉnh Thích Ca Mâu Ni Phật đến
nước Xá Vệ hoằng pháp, vậy th́ phải t́m một
nơi chốn tốt đẹp để tiếp đăi.
Ông ta nh́n trúng hoa viên của Thái Tử Kỳ Đà, hy vọng
Thái Tử Kỳ Đà có thể bán cho ông ta. Thái Tử
hỏi ông ta: “Ông mua vườn hoa của ta để làm
ǵ?” Trưởng giả thưa: “Tôi tính cung thỉnh Thích Ca
Mâu Ni Phật đến nơi đây giảng kinh”. Thái Tử
bèn nói đùa, bảo: “Được đấy! Ông thật
sự muốn mua chỗ này của ta, nghe nói nhà ông có rất
nhiều vàng, ông có thể đem vàng lót đất, lót bao nhiêu, ta sẽ bán cho ông bấy
nhiêu”. Trưởng giả Cấp Cô Độc thật sự
đem vàng ṛng lót đất.
Thái Tử Kỳ Đà bị
cảm động, nói: “Thích Ca Mâu Ni Phật là hạng
người ǵ mà có thể cảm động ông làm như
vậy?” Ông ta giới thiệu đơn giản với
Thái Tử hành trạng của đức Thế Tôn, Thái Tử
cũng rất vui thích, nói: “Như vậy th́ tốt quá, hai
người chúng ta cùng làm công đức”. Trưởng giả
Tu Đạt Đa không chịu: “Tôi muốn làm một
ḿnh!” Cuối cùng, Thái Tử Kỳ Đà chẳng nghĩ ra
cách nào, bèn nói: “Được lắm! Ta có thể bán cuộc
đất này cho ông, những hoa cỏ, cây cối trên mặt
đất là của ta, ta chặt trụi toàn bộ”. Tu
Đạt Đa chẳng có cách nào, cuối cùng ước
định hai người cùng nhau cúng dường. V́ thế,
gọi là Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên (Jetavane Anāthapindikassa ārāma), ư nói cây cối, hoa cỏ là của
Thái Tử Kỳ Đà, đất đai là của Thái Tử bán cho Tu Đạt Đa, hai
người cùng nhau cúng dường. Thuở đức Thế
Tôn tại thế, những vị quốc vương,
đại thần, cư sĩ, trưởng giả,
tư nhân có vườn rừng rất nhiều, đều
từng nghênh thỉnh đức Thế Tôn đến những
nơi ấy giảng kinh, thuyết pháp.
Do vậy, trông thấy cảnh
quan như thế, bèn dẫn phát hoằng nguyện của
Bồ Tát, “đương nguyện
chúng sanh, cần tu chư hạnh, thú Phật Bồ Đề”
(nguyện cho chúng sanh, siêng tu các hạnh, hướng
đến Bồ Đề của Phật). Chữ “chư hạnh” ở đây
biểu thị vô lượng pháp môn do đức Phật
đă giáo huấn. Căn tánh của chúng sanh chẳng giống
nhau; v́ thế, đức Phật dạy họ các
phương pháp khác nhau. Phân biệt tổng quát th́ có ba loại
căn tánh thượng, trung, hạ bất đồng:
Người thượng căn, người trung căn và
người hạ căn. Trong kinh thường nói đến
chuyện này. Đối với người thượng
căn, trong hàng thượng căn, c̣n có thượng,
trung, hạ, trong hàng trung căn cũng có thượng,
trung, hạ, trong hạ căn cũng có thượng, trung,
hạ. Do vậy, chia thành chín cấp. Đối với mỗi
cấp trong chín cấp, vẫn có thượng, trung, hạ.
Chúng ta phải hiểu đạo lư này!
V́ thế, đức Thế
Tôn trụ thế ứng cơ thuyết pháp (thuyết pháp thích ứng với
căn cơ của mỗi chúng sanh), tuy Tăng đoàn to ngần ấy, nhưng từ
kinh điển chúng ta thấy một ngàn hai trăm năm
mươi lăm vị [đệ tử], đức Phật
đến nơi đâu, những vị đệ tử ấy
là Thường Tùy Chúng, đều theo đức Phật.
Một đoàn thể to ngần ấy, đức Phật
dạy bằng cách nào? Thưa cùng chư vị, đức
Phật dạy chúng sanh vẫn là dạy từng người
riêng biệt! Đại chúng có thể cùng nhau nghe, chúng ta phải
học tập điều này. Mỗi người có pháp môn
chuyên tu riêng th́ mới có thể thành tựu. Nói cách khác,
đức Phật truyền cho mỗi người một
pháp môn bất đồng, đó là khóa tŕnh chủ tu của
người ấy, thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, cho
nên ai nấy đều có thành tựu.
Khoa mục chung là ǵ? Đức Phật dạy ông Giáp, các
ông Ất, Bính, Đinh đều có thể đến nghe.
Đức Phật dạy ông Ất, ông Giáp, Bính, Đinh
cũng đều có thể đến nghe. Quư vị nghe
nhiều nhằm giúp ích cho khóa tŕnh chánh tu của quư vị.
V́ thế là chánh trợ song tu.
Pháp do đức Phật truyền
dạy nhất định có mối quan hệ chặt chẽ
với căn tánh của quư vị. Nói thông thường th́
trong đời quá khứ, quư vị đă từng học tập
pháp môn ấy, đă có thiện căn ấy, sẽ thành tựu
dễ dàng. Trong đời quá khứ chẳng tu học pháp
môn ấy, nay mới bắt đầu học tập, sẽ
cảm thấy rất xa lạ, mà cũng rất khó
khăn. Trong các đồng học hiện thời, quư vị
chú tâm quan sát, sẽ thấy có t́nh h́nh ấy hay không? Rất nhiều!
Có người niệm một bộ kinh, dăm ba tháng bèn
có thể thuộc ḷng. Người ấy cũng chẳng
cố ư niệm, mà thuộc ḷng chẳng sai chữ nào. Có
người, cùng một bộ kinh, [nỗ lực] học
cả ba năm, vẫn chẳng thuộc được,
do nguyên nhân nào? Có thể thuộc th́ khẳng định là
trong đời quá khứ đă từng học; v́ thế,
người ấy học mau chóng. Căn tánh khác nhau đó
mà! Có người tŕ chú, chú ngữ vừa nghe liền biết,
học hiểu rất dễ dàng. Có người rất khó
nhớ chú ngữ, một bài chú ngữ học mấy chục
lần chẳng biết, căn tánh khác nhau! Đức Phật
có thể quán cơ (quan sát căn cơ), thưa cùng chư vị, A La Hán có thể quán
cơ; [v́ thế], gặp những vị thiện tri thức,
Phật, Bồ Tát, quư vị rất may mắn! Các Ngài truyền
cho quư vị pháp môn, chỉ cần quư vị chịu nghiêm
túc nỗ lực, tinh tấn không lười nhác, chẳng
có ai không thành tựu. Đúng là “vạn
người tu, vạn người văng sanh”.
Nhưng đến thời
kỳ Mạt Pháp, thánh hiền ít ỏi. V́ sao thánh hiền
ít ỏi? Nói thật ra là do nghiệp chướng của
chúng sanh quá nặng nề. Nh́n thấy nghiệp chướng từ chỗ
nào? Hết sức đơn giản, chính là chẳng thể
buông xuống. Đối với sự tham ái trong phần
trước, quư vị không buông xuống được!
Đấy là nghiệp chướng nặng nề. Không
buông xuống là ngu si, chẳng có trí huệ! Nếu quư vị
thật sự nghe Phật pháp, nghe giáo huấn của thiện
tri thức, trong kinh Phật thường nói “vạn ban tương bất khứ,
duy hữu nghiệp tùy thân” (muôn thứ chẳng đem
được, chỉ có nghiệp theo thân). Nếu quư vị
thật sự nghĩ thông suốt câu này, tất cả muôn
sự muôn vật trong thế gian [lúc] sanh ra chẳng mang
theo đến, lúc chết chẳng đem theo đi, quư vị
c̣n có thể nắm giữ chúng hay chăng? Quư vị c̣n thể
nắm giữ được hay không?
Trong kinh giáo, đức Phật
đă nói rất nhiều. Dùng tài sản để thí dụ,
tài sản là sở hữu chung của năm nhà, chẳng
giữ được. Vào thời cổ, nếu quư vị
phạm tội, trót phạm tội th́ không chỉ là cá nhân hứng
chịu h́nh phạt, mà c̣n có khi bị tịch thâu tài sản,
quan phủ tịch thâu, sung công đất đai, nhà cửa. Thứ hai là con cái hư hỏng khiến cho gia
đ́nh lụn bại. Thứ ba là trộm cướp. Thứ tư là hỏa tai, thứ năm là thủy
tai. Đấy là “năm nhà cùng sở hữu”. Thứ ǵ là của quư vị? Cái
thật sự có thể mang theo được, chính là nghiệp
theo thân. Quư vị tạo tác ác nghiệp, sẽ có thể
mang theo, thọ báo trong tam đồ. Quư vị tạo tác thiện
nghiệp, sẽ có thể mang theo, thọ báo trong đường
trời người. Quư vị học Phật, niệm A Di
Đà Phật, đó là tịnh nghiệp, quư vị có thể
mang theo [tịnh nghiệp] văng sanh Tịnh Độ. Nếu
quư vị nghĩ thông suốt, thấy thấu suốt những
thứ ấy th́ mới có thể buông xuống vạn duyên,
vĩnh viễn ĺa khỏi tham ái, như vậy là quư vị
thật sự “đắc vô
ưu xứ” (đạt được chỗ không
lo âu). V́ thế, những thứ ấy
là thứ hại người, phải làm ǵ với chúng? Phải
bỏ sạch sành sanh! Làm chuyện tốt cũng phải
bỏ sạch sành sanh!
Trong những năm qua, tôi thấy
có một người đă làm chuyện tốt rất gọn
sạch, tức là pháp sư Đàm Thiền ở Tân Gia Ba.
Tôi cũng đă mấy năm chưa gặp Sư. Ở
Tân Gia Ba, Sư cũng là bậc kỳ nhân. Sư bày một
cái sạp nhỏ tại miếu Thành Hoàng để bán tiền
giấy, hương, đèn. Người ta đến
miếu Thành Hoàng dâng hương, Sư bán tiền giấy,
hương đèn ở đó, chư vị phải biết
rất vất vả. Bản thân Sư suốt đời
uống nước máy, vặn ṿi nước máy th́ Sư uống
nước máy chảy ra. Chúng tôi đến thăm Sư,
là khách; để đăi khách, Sư ra ngoài mua một chén
nước khoáng tuyền (nước suối) để
đăi khách. Quư vị có thể tưởng tượng cuộc
sống của Sư kham khổ cỡ nào. Hằng ngày,
Sư bán hương đèn để dành dụm tiền,
qua nhiều năm tháng cũng [dành dụm] chẳng ít!
Lần đầu tiên tôi biết
Sư là ở Cựu Kim Sơn (San Francisco). Các cư sĩ ở
Cựu Kim Sơn muốn lập một đạo tràng, tức
Đại Giác Liên Xă, tôi cũng đă giảng
kinh rất nhiều lần tại đó.
Cuối cùng, họ thấy một căn nhà, muốn mua
để làm đạo tràng vĩnh cửu. Thuở đầu
là thuê. Khi đó, căn nhà ấy phải đến bảy
mươi vạn Mỹ kim, pháp sư Đàm Thiền bỏ
ra bốn mươi vạn. Sau khi tặng tiền xong, chỉ
dặn ḍ một câu: “Nhân quả
của ai, kẻ đó chịu trách nhiệm”. Sau đấy,
chẳng hỏi đến nữa! Về sau, tôi đến
Tân Gia Ba gặp Sư, nghe nói ở Phước Châu, Sư
có chùa Tây Thiền. Ngôi đạo tràng ấy do Sư đứng
ra xây dựng, nghe nói Sư cầm ba trăm vạn Mỹ
kim, bỏ ra toàn bộ để xây cất ngôi chùa ấy,
rất khó có! Sư cũng chẳng hỏi tiếng nào, “ai có nhân quả nấy, kẻ
đó chịu trách nhiệm”. Sư đă bỏ sạch
sành sanh. Chính ḿnh suốt đời sống cuộc đời
kham khổ nhất, một vị xuất gia như thế,
thường ngày là một câu “A Di
Đà Phật”, cầu
sanh Tịnh Độ. Chúng tôi thấy vị pháp sư ấy,
xác thực là khiến cho kẻ khác tôn kính. Quư vị đừng
thấy Sư tướng mạo xềnh xoàng, Sư là bậc
chân tâm, thiện hạnh, thành ư cảm động người
khác, xác thực là vĩnh viễn ĺa tham ái, chẳng sanh âu
lo, sợ hăi. Chúng tôi thấy một người như vậy
đó.
Trong bài kệ này, chúng ta thấy
có thể coi hoàn cảnh ấy như một đạo tràng.
V́ thế, dẫn phát đại nguyện này, nguyện cho
chúng sanh sẽ khéo học Phật. Một hoàn cảnh tu học
tốt đẹp dường ấy, đúng là nơi chốn để tu đạo,
dưỡng đạo, thành tựu đạo nghiệp.
Chúng ta biết hiện thời xác thực là có rất nhiều
nơi có cơ sở giống như vậy, nhưng
như thế nào? Mọi người quên tuốt Phật
pháp! Hiện thời, do khoa học kỹ thuật, công nghiệp,
thương nghiệp phát triển, kẻ phú quư chẳng
ít, hoa viên, biệt thự rất nhiều, trong ấy có
đạo hay chăng? Chẳng có! Trong ấy là danh lợi,
là chỗ hoan lạc, rất đáng tiếc! Sự hoan lạc do danh lợi chẳng thể lâu dài, thọ mạng của con
người có hạn, quư vị có thể sống trên đời
mấy năm? Hưởng hết phước báo, quư vị
phải biết nghiệp báo sẽ hiện tiền. V́ thế,
đối với chuyện hưởng phước, cổ
thánh tiên hiền đă nói rất hay, khó có nhất chính là
“hưởng thanh
phước” (清福, phước
báo thanh bạch). Ai hưởng thanh phước? Khổng
Tử hưởng thanh phước, Nhan Hồi hưởng
thanh phước, các vị cao tăng đại đức
thuộc các đời đều hưởng thanh phước.
V́ vậy, quư vị đừng
nghĩ tự viện phải có quy mô đồ sộ. Tự
viện thời cổ ở Trung Hoa, quá nửa là do quốc
gia xây dựng, c̣n có khá nhiều ngôi do vương công, đại
thần, trưởng giả, cư sĩ kiến tạo.
Nhưng người xuất gia đối với hoàn cảnh
cư trụ và sinh hoạt, vẫn chớ nên quên hành trạng
của đức Thế Tôn thuở tại thế, Ngài
luôn sống cuộc đời kham khổ. Chúng xuất gia cùng nhau ở trong quảng đơn[3],
tức pḥng ngủ chung, chỉ có chấp sự mới có liêu
pḥng. Chấp sự (執事) là ǵ? Những vị đảm nhiệm nghiệp
vụ hành chánh trong tự viện, như Trụ Tŕ, Giám Viện
(Đương Gia Sư), Duy Na, Duyệt Chúng, Tri Khách
Sư, những vị chấp sự trọng yếu th́ có
liêu pḥng. Liêu pḥng to cỡ nào? Quư vị hăy nghĩ đến
phương trượng, to cỡ nào? Nói theo hiện thời,
một phương trượng (方丈) sẽ
là mười thước vuông[4],
chẳng lớn! Đại khái là kê giường cá nhân, kê
ba cái giường là chật cứng. Các vị đảm
nhiệm chấp sự trong tự viện mới có một
căn pḥng bé như thế, gọi là “liêu pḥng” (寮房). Chẳng
hưởng thụ vật chất; chẳng hưởng
thụ là v́ sợ ǵ? Sợ quư vị sanh khởi tâm tham
luyến. Hễ cái tâm ấy sanh khởi, sẽ chẳng có
đạo. Những vị chấp sự trong tự viện
lănh đạo đại chúng tu hành, nếu chính ḿnh chẳng
có đạo, quư vị làm sao có thể dạy người
khác tu hành chứng quả cho được? Chẳng thể
nào!
Đến đời sau, “đời sau” th́ cũng
đại khái là trong một, hai
trăm năm gần đây nhất, quy củ
trong Phật môn dần dần bị sơ sót, mọi
người chẳng coi trọng tu hành, mà chú trọng
hưởng thụ. Điều này khiến cho Phật pháp
dần dần suy vi! Chúng ta phải biết nguyên nhân gây nên
suy vi. Chúng ta sống trong thời đại này, có mong thành
tựu hay không? Nếu thật sự mong thành tựu, vậy
th́ chính ḿnh ắt cần phải có cái tâm cảnh giác cao
độ, phải nghiêm túc học tập Thích Ca Mâu Ni Phật.
Thuở đức Phật tại thế, Ngài có thể nghỉ
đêm dưới cội cây, giữa trưa ăn một bữa; chúng ta nghiệp chướng
sâu nặng, thể lực kém hơn, ngày ăn ba bữa,
đêm ngủ [trên giường rộng] sáu thước. Dường như là trong
hiện thời những thanh chúng (清眾, đại chúng tu hành thanh tịnh) cũng chẳng có quảng đơn, [ai nấy] đều
có liêu pḥng. Đă thế, trong liêu pḥng c̣n thiết bị vệ
sinh giống như khách sạn, sống rất thoải
mái. Họ có thể sanh tâm tham hay không? Khó ḷng tránh khỏi
được! Trong th́ có phiền năo chẳng đoạn,
ngoài th́ là những cảnh duyên dụ dỗ, mê hoặc; làm
sao họ có thể chẳng dấy lên phiền năo cho
được? Phiền năo chính là ngũ dục, thất
t́nh, tham, sân, si, mạn. Quên sạch sành sanh giáo huấn của cổ đức, “thí chủ nhất lạp mễ,
đại như Tu Di sơn, kim sanh bất liễu đạo,
phi mao đới giác hoàn” (một
hạt gạo thí chủ, to như núi Tu Di, đời này chẳng
liễu đạo, mang lông, đội sừng đền), thậm
chí chẳng tin tưởng nhân quả! Chẳng học kinh
giáo, làm sao họ có thể thành tựu cho được?
Trong đời này, chúng ta
được gặp Phật pháp, chẳng dễ dàng! Như
trong kinh giáo, đức Thế Tôn đă nói: “Thân người khó được, Phật pháp khó
nghe”. Được nghe Phật pháp, chính ḿnh phải biết
trân trọng, phải biết mừng rỡ. Cư sĩ
Bành Tế Thanh đă nói rất hay: “Vô lượng kiếp lai hy hữu, nan phùng” (Hiếm
có, khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay).
Chúng ra đă gặp, gặp mà không hiểu th́ có khác ǵ chẳng
gặp! Sau khi đă liễu
giải mà chẳng tin, cũng
giống như chẳng hiểu! Sau khi đă tin mà chẳng
hành, cũng như chẳng gặp. Tín, giải, hành, chứng,
dẫu chính ḿnh chẳng thể chứng, nhất định
phải hành, có thể biến những lư giải trong kinh
giáo thành cuộc sống, thành hành vi của
chính ḿnh. Trong xă hội này, tối thiểu là một người
thuần thiện, thuần tịnh, chẳng tạo ác nghiệp.
Quư vị ngẫm xem, chẳng tạo ác nghiệp th́ quư vị
có c̣n âu lo, hoảng sợ nữa chăng? Đương
nhiên là chẳng có! Tâm thanh tịnh có thể sanh ra hỷ
lạc, hỷ lạc sanh ra trí huệ, trí huệ có thể
khiến cho quư vị đạt được sự hưởng thụ cao nhất trong đời này. Sự hưởng thụ cao nhất chẳng phải là tiếng
tăm, lợi dưỡng, chẳng phải là vinh hoa, phú
quư. Trong cuộc sống vinh hoa, phú quư, sẽ có tác dụng
phụ. Niềm vui trong cuộc sống thanh bần chẳng
có tác dụng phụ, chúng ta thường nói là “thanh cao”. “Thanh” (清) là thanh bần, Cao (高) là cao
thượng, trong ấy chẳng sanh ra tác dụng phụ.
V́ thế, chẳng có âu lo, chẳng có sợ hăi!
Đạt tới cảnh giới
nhất định, có thể biết quá khứ, vị lai
đôi chút. Nói cách khác, biết sanh từ đâu đến,
chết rồi sẽ đi về đâu! Quư vị có thể
hiểu rơ, thân có sanh tử, chứ linh tánh chẳng có sanh tử,
linh tánh bất diệt. Quư vị biết có lục đạo,
biết có mười pháp giới, biết có các cơi Phật,
những điều ấy có mối quan hệ
hết sức mật thiết với chúng ta. Cớ sao nói “có
mối quan hệ mật thiết với chúng ta?” “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”,
tâm và thức là một, không hai. Lục đạo, [hay nói rộng
hơn sẽ là] mười pháp giới, đều do tâm
tánh của ta biến ra, các cơi nước của mười
phương chư Phật cũng do tâm tánh của ta hiện
ra; lẽ nào chẳng có quan hệ? Đă là có mối quan hệ,
nếu chính ḿnh có thể tự làm chủ, thích đến
đâu bèn đến đó, chẳng sai tí nào! Nay chúng ta muốn
ra đi, v́ sao chẳng ra đi được? Nghiệp lực!
Phải chú ư điều này, làm thế nào để tháo gỡ nghiệp lực? Đức Phật dạy chúng ta
chuyển biến nghiệp lực thành nguyện lực, vấn
đề này sẽ được giải quyết. Quư vị
thấy các vị Bồ Tát ở nơi đây biết chuyển,
niệm nào cũng là “đương
nguyện chúng sanh”; đó
là chuyển. Người thế gian chúng ta chẳng hiểu,
thấy kẻ khác có chuyện thù thắng, chính ḿnh cũng
mong “ta cũng sẽ có”, chẳng
giống như Bồ Tát! Bồ
Tát hễ thấy [người khác có chuyện thù thắng],
bèn nguyện “hết thảy chúng sanh đều có”, quư vị
thấy [các vị Bồ Tát] tâm lượng to cỡ nào! Bồ
Tát niệm nào cũng là giúp đỡ hết thảy chúng
sanh khổ nạn ĺa khổ được vui, dùng phương
pháp ǵ? Dạy học! Chỉ có dạy học th́ mới là
lợi ích chân thật!
Hiện thời, quư vị chẳng
thể nói giáo dục không phát triển, nhà trường chỗ
nào cũng có, trường học san sát. Trung Hoa, ngoại
quốc, từ Mẫu Giáo cho đến đại học,
nghiên cứu sinh chỗ nào cũng thấy. Tôi rất quan
tâm giáo dục, bất luận đến nơi nào, tôi xem
hai nơi trước hết, một là trường học,
hai là viện dưỡng lăo, tôi nhất định sẽ
đến thăm. Xem nhiều bèn hiểu rơ, giáo dục hiện
thời thiếu khuyết một môn công khóa. Tuy giáo dục
phát triển, nhưng do thiếu sót môn công khóa ấy, cho nên
xă hội động loạn, chẳng thể an định
được! Môn công khóa ấy là ǵ? Luân lư, đạo
đức. Chúng ta đă hiểu, hăy nên làm như thế
nào? Cũng mong mở trường, nhưng chúng ta chẳng
lập trường thông thường. Trường thông
thường quá nhiều, chúng ta lập trường học
đặc thù. Đặc thù ở chỗ nào? Chuyên môn học
bổ sung môn công khóa này. V́ thế, tôi gọi chuyện này
là “giáo dục bổ khuyết”.
Nhà trường thiếu môn học này, môn học này là luân
lư, đạo đức; nói đơn giản là khuyết
thiếu đạo đức, chẳng có đức! Chúng
ta phải giáo dục bổ khuyết, môn giáo dục này quan
trọng lắm! Nếu có thể đề cao giáo dục
luân lư đạo đức th́ mới có thể hóa giải
xung đột trên thế giới, xă hội mới có thể
an định, thế giới mới có thể hài ḥa, tất
cả đều đạt được. Đó chính là “thú Phật Bồ Đề”
(hướng đến Bồ Đề của Phật).
Bồ Đề của Phật
chính là sự giáo dục của đức Phật. Giáo dục
giác ngộ, phá mê khai ngộ chính là Bồ Đề của
Phật. Nếu thực hiện sự giáo dục này, vợ
chồng sẽ chẳng xung đột, cha con, anh em chẳng
có xung đột, một nhà ḥa thuận, “gia ḥa, vạn sự hưng!” Trong xă hội, chẳng có các thứ xung đột,
đều có thể tôn trọng lẫn nhau, hợp tác lẫn
nhau. Mọi người đều biết: Người sống
trong thế gian, phải nên v́ xă hội,
v́ đại chúng mà phục vụ, chẳng phải là đến chiếm
hữu. Làm bất cứ nghề nghiệp nào, cũng đều
là phục vụ đại chúng, phục vụ xă hội;
v́ thế, xă hội an định. Nếu tiến
cao hơn, mở rộng ra, sẽ là thế giới ḥa b́nh.
Giữa các dân tộc, các tôn giáo, các quốc gia với nhau,
đều biết tôn trọng lẫn nhau, học tập lẫn
nhau, hỗ trợ hợp tác.
Quư vị nói xem, giáo dục
luân lư đạo đức có quan trọng hay không? Chẳng
có thứ này, khoa học, kỹ thuật, công thương
nghiệp không ngừng tiến cao hơn, cứ tiến cao
hơn đến cuối cùng, kết quả sẽ là ǵ? Ngày tàn của thế giới! V́ sao? Ai nấy ích kỷ, khởi tâm động
niệm đều là “tổn người, lợi
ḿnh”, làm sao có thể hóa giải xung đột cho
được? V́ thế, xung đột, mâu thuẫn không
ngừng tăng lên, nguyên nhân là do chẳng có giáo dục luân
lư đạo đức, kết quả tất nhiên là như
thế. Cạnh tranh đến mức cực lực, sẽ
là đấu tranh; đấu tranh đến mức cực
lực, cuối cùng sẽ là chiến tranh. Chiến tranh sau
này, tức đại chiến thế giới lần thứ
ba, sẽ là đại chiến bằng vũ khí hạch
nhân, bằng [vũ khí] sanh hóa. Mọi người đều biết cuộc
chiến tranh ấy sẽ là chiến tranh hủy diệt
nhân loại, chẳng có thắng hay thua. Nói cách khác, cho đến
khi ấy, con người chẳng chịu đựng nổi, cùng nhau chết sạch! Chuyện này do một ít
người gây ra, nhưng là cộng nghiệp của
đa số. Cộng nghiệp của đa số là ǵ vậy?
Tham lam, tham ái không cùng tận, dẫn đến tất cả
các sinh vật trên địa cầu đều cùng nhau chết
sạch!
Các nhà khoa học cho biết
Hỏa Tinh, trong Thái Dương Hệ có mấy hành tinh, họ
phát hiện [trên Hỏa Tinh] trong quá khứ đă từng có văn minh. Nói cách
khác, đă từng có sanh vật giống như nhân loại
sống ở đó, hiện thời bị hủy diệt
toàn bộ. Tinh cầu trái đất này trong tương lai
có số phận giống như các hành tinh ấy hay không?
[Phải trông cậy] vào giáo dục luân lư đạo đức.
Nếu giáo dục luân lư đạo đức và giáo dục
tôn giáo có thể nghiêm túc hưng khởi, phát huy rạng rỡ,
nhân loại trên địa cầu vẫn c̣n có thể tồn
tại một khoảng thời gian. Khi nào chẳng có luân
lư đạo đức, thế mà tham ái, tức là khi ḷng
tham ái của mỗi cá nhân đạt đến mức
cùng cực, thế giới này sẽ bị hủy diệt.
V́ sao? Người với người chẳng thể bao
dung nhau, đấy là một hiện tượng rất đáng
sợ, nhưng hiện tượng này đă trồi lên
trước mặt chúng ta, chúng ta có thể trông thấy rơ
ràng!
Như tôi được thấy,
giáo dục nhi đồng, giáo dục thanh thiếu niên trong
hiện thời, nếu quư vị chú tâm quan sát sẽ biết,
tức là cái ng̣i nổ của cuộc đại chiến
thế giới lần thứ ba, tức cuộc chiến
tranh bằng vũ khí hạch nhân đă được châm
ng̣i. Nhen nhúm từ chỗ nào? Từ ngay sự giáo dục
trẻ thơ và thanh thiếu niên. Hiện thời, ai dạy
lũ trẻ thơ và thanh thiếu niên? Máy chơi game
điện tử, TV, Internet đă dạy chúng nó. Tôi không hiểu
rơ t́nh trạng tại Trung Hoa cho mấy, nhưng tôi ở
nước Mỹ rất lâu, học tṛ lớp Một Tiểu
Học của Mỹ đă sử dụng computer. Thông tin từ
computer rất nhiều, đó là [các thông tin] xám, vàng, đen,
trẻ nhỏ hễ được tiếp xúc sẽ rất
ưa thích, nội dung trong ấy là bạo lực, t́nh dục,
giết, trộm, dâm, dối. V́ thế, nghe nói hiện thời,
độ tuổi phạm tội đă hạ thấp
đến mức hai tuổi đă giết người! Học
từ đâu vậy? Học từ máy chơi game điện
tử! Chẳng biết giết người là tội lỗi,
chẳng biết sát nhân là chuyện chớ nên làm! V́ thế,
quư vị thấy con cái giết cha mẹ, cha mẹ cũng
có kẻ giết con cái, anh em tàn sát lẫn nhau. V́ nó là trẻ
nhỏ, chưa đến tuổi, chưa trưởng
thành, quan ṭa tra hỏi, nó chẳng biết tội lỗi,
chẳng biết là có tội! Nói cách khác, [nó cứ nghĩ]
giết người chẳng khác chơi máy game điện
tử! Cho đến khi nó trưởng thành, sự giáo dục
từ tṛ chơi điện tử đă dưỡng thành
từ bé, thâm căn cố đế! Trong tương lai,
khi lớn lên, vũ khí hạch nhân rơi vào tay chúng nó, rất
có thể là chúng nó cũng coi như tṛ chơi điện tử
để đem ra chơi đùa, ném lung tung khắp nơi, thế
giới này có thể nào chẳng hủy diệt ư? Các vị
hăy ngẫm xem, có thể hay không? Hết sức có thể!
Để nhân loại chẳng
mắc phải kiếp nạn to lớn này, chỉ có một
cách, thừa dịp bọn thanh thiếu niên c̣n chưa
trưởng thành, chúng ta tiêu hủy các vũ khí hạch
nhân và sanh hóa trước. Dẫu trong tương lai, khi
chúng nó vui chơi, th́ do chẳng có vũ khí có sức sát
thương to lớn, chẳng đến nỗi khiến
cho toàn thể nhân loại trên địa cầu bị hủy diệt,
công đức ấy vô lượng! Chuyện này cần
đến sự giác ngộ của quần chúng, giới
truyền thông giác ngộ, những người lănh đạo
giác ngộ th́ mới có thể hóa giải đại kiếp
nạn này! Vậy th́ mọi người chúng ta, các quốc
gia, các dân tộc, các tôn giáo phải hợp tác với nhau
để cứu địa cầu, cứu văn những
sanh vật trên quả địa cầu này đừng bị
tuyệt diệt. Chuyện này quan trọng hơn bất cứ
điều ǵ khác!
Nay chúng tôi đọc đến
bài kệ này, cảm khái rất sâu! Nếu chúng ta muốn
khuyến cáo kẻ khác, trước hết là chính ḿnh buông
xuống. Chính ḿnh chẳng buông xuống, kẻ khác sẽ
chẳng tin tưởng. Quư vị chẳng buông xuống tham ái, làm sao có thể
khuyên người khác cho được? Buông xuống, chẳng
có tai nạn; [dẫu cho] địa cầu bùng nổ, ta có
chỗ tốt đẹp để đi. Ta không ưu sầu,
chẳng kinh hoàng, chẳng sợ hăi. Vấn đề của
tôi đă được giải quyết, tôi thấy vấn
đề của các vị rất nghiêm trọng! Có như
vậy th́ quư vị nói với người khác, người
ta mới tin tưởng, mới có thể nghe lọt tai.
V́ thế, chúng ta là người đă giác ngộ,
đă hiểu rơ, hăy nên siêng tu Giới, Định, Huệ, dứt diệt
tham, sân, si, hướng đến Phật Bồ Đề,
đó là đúng. Hôm nay, chúng tôi giảng tới chỗ này!
Tập
1540
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống.
Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một, đoạn
thứ ba trong đoạn lớn thứ sáu của phần
kệ tụng, [tức là phần] “sở ngộ nhân vật” (所遇人物, những
nhân vật gặp gỡ). Trong phần này, có tất cả
hai mươi bốn bài kệ, đều nói đến những
nhân vật trông thấy trên đường đi khất
thực. Do vậy có thể biết, chúng ta trong cuộc sống
hằng ngày, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần,
Bồ Tát luôn chẳng để luống qua,
đều có thể dẫn phát bi nguyện trong tự tánh.
Chúng ta xem bài thứ nhất:
(Kinh) Kiến nghiêm sức nhân,
đương nguyện chúng sanh, tam thập nhị tướng,
dĩ vi nghiêm hảo.
(經)見嚴飾人。當願眾生。三十二相。以為嚴好。
(Kinh: Thấy người
nghiêm sức, nguyện cho chúng sanh, ba mươi hai tướng,
trang nghiêm tốt đẹp).
“Nghiêm”
(嚴) là trang nghiêm, nay chúng ta nói là “oai nghi’, hoặc “nghi
biểu” (儀表, dáng vẻ biểu lộ). Trông thấy người
ấy ăn mặc hết sức chỉnh tề. Ở đây, đương nhiên là nhất định nói đến chuyện mặc
lễ phục; đặc biệt
là trong các cuộc lễ lớn, ai nấy
đều mặc lễ phục của chính ḿnh. Trong trạng
huống ấy, Bồ Tát tất nhiên sẽ dẫn phát hoằng nguyện “ba mươi hai tướng trang nghiêm như Phật”. V́ thế,
“đương nguyện chúng
sanh”, có nguyện ấy. “Chúng
sanh” thuộc trọn khắp pháp giới hư không giới, chẳng
phải là nói khu vực này, thành thị này, quốc gia này,
chẳng phải vậy! Cảnh giới trong câu này là lấy
khắp pháp giới hư không giới làm cảnh giới, cảnh
giới rộng lớn vô hạn. Ba mươi hai tướng,
tám mươi vẻ đẹp, chẳng cần nói chi tiết
về tám mươi vẻ đẹp, [chỉ] nêu ra ba mươi
hai tướng.
Tướng hảo là phước
báo cụ thể; người có phước, phước
nh́n từ chỗ nào? Nh́n từ tướng hảo, tướng
hảo trang nghiêm; đấy là phước báo. Người
thế gian, cũng có thể nói là khắp pháp giới hư
không giới, phàm phu trong lục đạo mười pháp
giới, chẳng có ai không mong mỏi thông minh, trí huệ, chẳng
có ai không mong mỏi chính ḿnh trọn đủ của cải.
Điều thứ ba là tướng hảo, “tướng hảo” bao gồm khỏe mạnh, sống lâu. Đấy chính là
điều mà tất cả hết thảy chúng sanh đều
cùng mong cầu, chẳng có ai không cầu! Có thể cầu
được hay không? Phải hiểu đạo lư này, chắc
chắn là chẳng cầu được! V́ sao? Đấy
là phước báo; phước báo là quả báo, quả ắt
có nhân. Do đó, giáo dục vào thời cổ, không chỉ là
Trung Hoa, ngoại quốc cũng chẳng phải là ngoại
lệ, trong giáo dục, chẳng có ai không coi trọng khoa mục
nhân quả. Thiện nhân cảm thiện quả, ác nhân nhất
định chuốc lấy ác báo. Tại Trung Hoa, từ
xưa tới nay, cả ba nhà Nho, Thích, Đạo đều
coi trọng [nhân quả]. Nho kế thừa truyền thống
văn hóa năm ngàn năm của Trung Hoa, xác thực Khổng
Tử là người đă hệ thống, tổng hợp
hoàn chỉnh. Do vậy có thể biết, giáo dục nhân quả
đă có từ năm ngàn năm trước, được
tổ tiên coi trọng! Kinh Dịch đă nói: “Tích thiện chi gia, tất hữu
dư khánh; tích bất thiện chi gia, tất hữu dư
ương” (Nhà tích thiện, chuyện vui mừng có thừa; nhà
tích chứa điều bất thiện, tai ương có thừa).
Đấy chính là giáo dục nhân quả, là tổng
cương lănh của giáo dục nhân quả, chớ nên
không biết, chẳng thể không tích thiện!
Nghĩ đến chỗ này,
gần đây, chúng tôi có được một bộ
đĩa DVD do các đồng tu ở Bắc Kinh cung cấp.
Nó gồm có hai phần, phần trước là Sơn Tây Tiểu
Viện, phần sau là “V́ sao chẳng thể ăn thịt
chúng nó?” Có tất cả mười mấy đĩa,
Sơn Tây Tiểu Viện có tám đĩa, “V́ sao chẳng thể
ăn thịt chúng nó” dường như cũng có bảy, tám
đĩa! Các đồng học Tịnh Tông chúng ta hăy nên
coi [bộ đĩa ấy] như tài liệu giảng dạy
về giáo dục nhân quả để học tập. V́
phim rất dài, cho nên khi đă được gởi đến, tôi vẫn chưa xem xong. Xem được một
nửa, tôi phải đi Hàng Châu tham dự luận đàn
Phật giáo thế giới, hôm kia mới trở về. Nghỉ
ngơi hai ngày, trong hai ngày ấy, tôi vẫn lại tiếp
tục xem phần sau, tối hôm qua đă xem xong. Tôi rất cảm động, thật sự thể nghiệm
nghiệp nhân quả báo chẳng sai suyển mảy may!
Đồng thời, tôi cũng lư giải rất sâu đậm:
Hiện thời, thế giới động loạn bất
an, đầy dẫy khá nhiều nguy cơ, chúng ta thường
nói là tai nạn! Nghiệp nhân của những tai nạn ấy
là ǵ? Mười mấy đĩa DVD ấy chính là câu trả
lời tốt nhất!
Trong Phật môn thường
nói, nếu muốn cho thế giới này chẳng có tai nạn,
chẳng có chiến tranh, đức Phật đă dạy một
câu: “Trừ phi chúng sanh không
ăn thịt”. Lời dạy rất đơn giản,
nghĩa lư hết sức sâu sắc. Nói cách khác, tai nạn và
thiên tai nhân họa trên cả thế giới trong hiện thời,
do đâu mà có? Do chúng sanh cư trụ trên địa cầu đă lâu
năm nhiều kiếp sát hại chúng sanh, ăn thịt
chúng sanh! Nghiệp nhân thật sự của thiên tai nhân họa
là oan oan tương báo, do ác nghiệp chuốc vời.
Người có tướng tốt, nhà đoán mạng (thầy
bói, thầy tướng số) thường nói “tướng chuyển theo tâm”. Câu
nói này rất có lư, đạo lư rất sâu! Trong khi giảng
kinh, tôi cũng thường nhắc nhở các đồng
học, không chỉ là tướng chuyển theo tâm, mà thể
chất cũng chuyển theo tâm.
Sơn Tây Tiểu Viện có
tất cả bảy đĩa DVD, trong lần trước,
khi chúng tôi xem xong đĩa thứ tám, tuy chưa xem xong, tôi đă nói chuyện với mọi
người một tiếng đồng hồ về đề tài “thật sự
học Phật, sẽ thật sự thọ dụng”. Tôi dùng đề mục này để giảng ngay ở
nơi đây, họ cũng đem một giờ giảng
diễn ấy ghép vào đó, rất tốt! Đấy là
chuyên môn giải thích v́ sao sẽ có cảm ứng. Nói thật
ra, trong giáo pháp Đại Thừa có một câu: “Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng”, chuyện này chư vị đều rất
quen thuộc, đức Phật thường nói [điều
ấy]! Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Duy
tâm sở hiện, duy thức sở biến”, hai câu này chẳng
dễ hiểu
cho mấy! “Hết
thảy các pháp sanh từ tâm tưởng” dễ hiểu,
là nguyên văn trong kinh điển. Tưởng ǵ biến
ra nấy. V́ thế, tâm quư vị thiện, tướng sẽ
thiện. Nh́n vào tướng mạo, người này là thiện
nhân, tâm địa rất từ bi, người ấy tướng mạo rất từ
bi, tâm địa rất thanh tịnh,
người này tướng mạo rất
thanh tịnh. Thường tu học Định Huệ, thoạt
nh́n, sẽ thấy người ấy là một người
có tướng thông minh, tướng trí huệ. Tướng
chuyển theo tâm mà!
Do vậy có thể biết,
tướng mạo và thể chất là quả báo, có thể
cầu hay không? Có thể! Trong cửa nhà Phật, có cầu
ắt ứng. Thế nhưng, cầu th́ phải hiểu
lư luận, phải hiểu phương pháp; đúng lư
đúng pháp tu cái nhân, quả báo tự nhiên hiện tiền.
Nếu con người thật sự hiểu đạo lư
này, thiên hạ sẽ thái b́nh, tai nạn được hóa
giải. V́ sao? Chẳng tạo ác nghiệp. V́ sao con người phải tạo ác nghiệp? Vẫn chẳng phải
là tranh danh, tranh lợi, tranh tài sản ư? Chẳng
biết những thứ ấy chẳng tranh được!
Đó là đang tạo tội nghiệp, quả báo ở
trong tam đồ. Nay quư vị tranh giành, tranh giành được,
hiện thời nói là “cạnh
tranh”, cạnh tranh cao hơn là đấu tranh, đấu
tranh tiến cao hơn sẽ là chiến tranh. Chiến tranh
hiện thời là [cuộc chiến sử dụng] vũ
khí hạch nhân hoặc [vũ khí] sanh hóa (biochemistry weapon),
là chiến tranh tận thế, quư vị nói xem có đáng sợ
lắm hay không? Do chiến tranh có thể đạt
được ǵ hay chăng? Chẳng đạt được
chi cả! Trong lịch sử ghi chép hai, ba ngàn
năm trên quả địa cầu này, chưa hề có lần
nào chiến tranh mà có thể giải quyết vấn đề. Chiến
tranh chỉ khiến cho vấn đề biến thành phức
tạp hơn. Con người phải giác ngộ, chớ
nên không giác ngộ. Thật sự giác ngộ, buông xuống
những thủ đoạn, chẳng dùng đến chiến
tranh nữa; đấy là chánh xác.
Đức Phật dạy
chúng ta, quư vị cầu tài như thế nào? Chúng ta mong phát
tài, đức Phật dạy chúng ta, tài chẳng cần
quá nhiều, quá nhiều sẽ rắc rối lắm, đủ
dùng là được rồi. Sống cuộc đời rất
thoải mái, như vậy là tốt đẹp, cần ǵ cứ phải mong cho nhiều? Hễ nhiều,
sẽ biến thành tâm tham, tham lam. Quả báo của tham lam là
ngạ quỷ, sẽ đọa lạc trong tam đồ.
Sai mất rồi! Tài có cái nhân là ǵ? Đức Phật dạy
chúng ta, bố thí! Có tài sản, chớ nên tích lũy. Đức Phật
đă nói rất hay: “Tích tài táng
đạo”, [nghĩa là chất chứa tài sản],
đạo sẽ bị hao tổn! V́ thế, chớ nên
tích lũy tiền tài, hễ có tiền tài bèn thí, đừng
sợ: “Ta thí hết sạch, sẽ lo liệu cho cuộc sống ngày mai của ta như thế nào
đây?” Nghĩ tới ngày mai, nghĩ đến sang
năm, nghĩ đến tương lai, chẳng dám bố
thí, sai mất rồi! Quư vị đă suy nghĩ sai bét mất rồi! Tiền tài ở Trung Hoa được gọi
là “thông hóa” (通貨, hàng hóa hoặc vật dụng có tính cách lưu
thông), quư vị hăy suy nghĩ danh từ ấy,
Thông (通) là lưu thông, có nghĩa là chớ nên tích cóp! Giống như nước,
nước lưu chuyển, phải để cho nó chảy, có đến, có
đi, phải để cho nó lưu thông, vĩnh viễn
là nước chảy, vĩnh viễn là nước sạch
sẽ nhất. Nếu quư vị ngăn chặn nó, khiến
cho nước đọng lại, biến
thành một cái ao nhỏ, nước trong ao ấy chẳng
lưu chuyển; hễ chẳng lưu chuyển, sẽ biến
thành nước tù đọng. Trong nước tù đọng,
sẽ sanh ra các vi sanh vật, sẽ chẳng sạch sẽ. Cổ nhân sánh ví tiền tài như nước, rất
hữu lư! Nhất định phải khiến cho nó lưu
thông, chớ nên tồn trữ nó tại đó, chẳng thể!
Tại Trung Hoa, vào thời cổ,
thần tài là ai? [Chính là] Phạm Lăi trong thời Xuân Thu Chiến
Quốc. V́ sao coi ông ta như thần tài? Ông ta rất
biết kinh doanh. Quư vị thấy người này có trí huệ,
giúp Việt Vương Câu Tiễn đánh bại nước
Ngô, phục hưng nước nhà. Sau khi diệt nước
Ngô, ông ta không làm quan, lén lút trốn đi, Câu Tiễn chẳng
t́m được. Sửa họ đổi tên, đổi
tên thành Đào Châu Công. Đào Châu Công chính là Phạm Lăi, dẫn
theo Tây Thi, Tây Thi là vợ ông ta, hai người kinh doanh nhỏ,
buôn bán nhỏ. Ba năm sau phát tài, phát đạt. Sau khi
đă phát đạt, ông ta đem tiền tài bố thí
người nghèo cùng, thảy đều bỏ sạch. Sau
đấy, lại bắt đầu từ kinh doanh nhỏ,
làm mấy năm lại phát tài; hễ phát tài, lại phân
tán [tài sản].
Chư vị phải biết,
chẳng phải là sau khi phát tài, ông ta liền mở nhiều
chi nhánh, chẳng phải vậy. Quư vị thấy người
hiện thời tích cóp tài sản, tài sản có nhiều th́
sẽ như thế nào? Lập khá nhiều công ty, thậm
chí hiện thời là công ty đa quốc gia. Của cải
tích lũy càng ngày càng nhiều, chẳng phải là chuyện
tốt đẹp. Sau khi chết đi, chẳng mang theo một
đồng nào cả! Đúng là “muôn
thứ chẳng mang được, chỉ có nghiệp theo
thân”. Quư vị đem tiền bạc ấy chia cho những
người nghèo túng, xă hội sẽ chẳng có tai nạn.
Nếu không, xă hội sẽ vĩnh viễn có giàu nghèo chẳng
đều. Giàu nghèo chẳng đều, đương
nhiên là quả báo. Chúng sanh ngu si, chẳng biết chuyện
nhân quả; do vậy, họ thấy người giàu có bèn
oán hận, trong tâm sẽ bất b́nh. Người giàu có mà
có thể tán tài, tâm họ (những kẻ nghèo) sẽ b́nh.
Đă thế, người nghèo cũng cung kính, cũng tán thán, thật sự bội phục người
giàu. Quư vị nói xem, cách thức nào tốt hơn? Trong mạng
quư vị có [tài sản], dẫu phân tán hết sạch, lại
bắt đầu bằng buôn bán nhỏ, mấy năm lại
phát tài. Phạm Lăi ba lần tụ tài, ba lần tán tài; v́ thế,
người Hoa gọi ông ta là Tài Thần, là tấm
gương tốt nhất về kinh doanh tài sản. Chớ
nên tụ tài, nhất định phải biết tán tài!
Tán tài chẳng màng tới hậu
quả. Nếu quư vị quan tâm hậu quả, tức là
quư vị c̣n có phân biệt, c̣n có chấp trước; nói
theo Phật pháp, quư vị tu hữu lậu thiện. Nếu
tâm địa thanh tịnh, chẳng vướng mắc dấu
vết, sẽ là tu vô lậu thiện, quả báo khác nhau! Quả
báo của vô lậu thiện là khai trí huệ, giúp quư vị
đại triệt đại ngộ, nâng cao cảnh giới.
Ở đây, Phật pháp nói ba mươi hai tướng,
ba mươi hai tướng là quả báo của vô lậu
thiện, chẳng phải là hữu lậu thiện. Chư
Phật, Bồ Tát là những vị thật sự thông
minh, các Ngài tu tập [vô lậu thiện]. Vô lậu là bố
thí, chỉ biết hành bố thí; trong bố thí, chắc chắn
chẳng có mảy may phân biệt, chấp trước. Dùng
tâm thanh tịnh để thí, dùng tâm b́nh đẳng để
thí, dùng tâm từ bi để thí, dùng tâm chân thành để
bố thí, quả báo là ba mươi hai tướng, vô
lượng trí huệ, vô lượng thọ mạng, Tịnh
Tông nói là “vô lượng quang,
vô lượng thọ”, do bố thí mà đạt được.
Tu Tài Bố Thí, Pháp Bố Thí và Vô Úy Bố Thí, ai thí người
ấy sẽ cảm báo, đúng là “mỗi người có nhân quả riêng, người ấy
chịu trách nhiệm”, là thật, chẳng giả!
Kinh Phật
đă nói về chuyện này rất nhiều. Kinh luận có
sai khác đôi chút, nhưng chuyện này chẳng tạo thành
trở ngại to lớn. Chúng ta biết đức Thế
Tôn giảng kinh, thuận tay lấy [bất cứ pháp nào],
Ngài cũng chẳng có chuẩn bị. Ví như nói ba mươi
hai tướng, đối với ba mươi hai tướng
ấy, có đến mấy cách nói khác nhau, chuyện này
không quan trọng. Chúng ta chớ nên chấp trước
tướng văn tự, chớ nên chấp trước
tướng ngôn thuyết, hăy biết nghĩa lư thật sự
của nó, [chính là] “nhân lành, quả
lành; nhân ác, báo ác”. Ví như đức Phật dạy
chúng ta tu bố thí. Trong ba mươi hai tướng, tổng
tướng của việc tu bố thí là “thiên bức luân tướng”
(千輻輪相, tướng bánh xe ngàn căm). Ḷng bàn chân, giống
như ḷng bàn tay có đường vân, ḷng bàn chân cũng có
đường vân. Quư vị thấy bàn tay và bàn chân đức
Phật đều có luân tướng, bọn b́nh phàm chúng
ta chẳng có. Tướng ấy tṛn xoe,
có nhiều tia tơe ra, rất dầy đặc. Đó là do
đời đời kiếp kiếp thích bố thí, trong [ḷng
bàn] tay [và bàn chân] sẽ hiện tướng ấy.
Thuyết pháp, bảo vệ
sanh mạng, thuyết pháp là giáo học, giúp đỡ hết
thảy chúng sanh phá mê khai ngộ. “Phá mê khai ngộ” là nhân,
quả là “ĺa khổ, được vui”. V́ thế, chúng ta
phải biết, nỗi khổ của hết thảy chúng
sanh do đâu mà có? Khổ do mê mà có. Đă mê th́ tư tưởng,
kiến giải, ngôn ngữ, và hành vi của quư vị đều
sai lầm. Do tư tưởng và ngôn hạnh sai lầm, sẽ
chuốc vời ác nghiệp, ác quả báo, chẳng phải
là thiện. Nếu quư vị giác ngộ, hiểu rơ, tư
tưởng, kiến giải và ngôn hạnh của quư vị
hoàn toàn chánh xác, chánh xác th́ sẽ cảm thiện quả. V́
thế, “ĺa khổ, được vui” là quả, “phá mê khai
ngộ” là nhân. Sau đấy, quư vị mới biết ân
đức của Phật, Bồ Tát đối với chúng
ta, [các Ngài] giúp chúng ta phá trừ nghi hoặc, giúp chúng ta khai ngộ, công
đức vô lượng vô biên. Ḷng từ bi
của Phật, Bồ Tát chẳng có cách nào h́nh dung
được! Đối với hết thảy chúng sanh,
các Ngài chỉ có thí xả, hiến dâng, chẳng có mảy
may mong cầu. V́ sao? Chính là v́ các Ngài đă thật sự triệt
để thông đạt, hiểu rơ chân tướng của
muôn pháp trong vũ trụ. V́ thế, tư tưởng và
quan niệm của các Ngài chánh xác. Chân tướng là ǵ? Chân
tướng là hết thảy chúng sanh và hết thảy vạn
pháp trong toàn thể vũ trụ là một Thể.
Giáo pháp Đại Thừa thường
nói: “Vô duyên đại từ,
đồng thể đại bi”, tâm từ bi nay
được gọi là “ái tâm”
(tâm yêu thương). V́ sao nói là “từ
bi”? Dùng hai câu ấy (vô duyên đại từ, đồng
thể đại bi) sẽ dễ hiểu. Vô duyên ái là Từ;
nay chúng ta nói “vô duyên” [là chẳng
có điều kiện], ḷng yêu thương chẳng có điều kiện gọi là “[vô duyên] từ”, chính
ḿnh và người khác chẳng hai, chính ḿnh và người
khác là một; đấy là “đồng
Thể”. Bi tâm cũng là ái tâm. Nói cách khác, ḷng yêu
thương trong sự cảm nhận của Phật, Bồ
Tát, hết thảy vạn hữu trong toàn thể vũ trụ
và ta là một Thể. Giống như thân thể của
chúng ta, chúng ta dùng một cái thân để biểu thị vũ trụ, [vậy th́] bản
thân tôi là một tế bào trên cái thân ấy, quư vị và
người khác cũng là mỗi tế bào, đều thuộc
về cùng một cái thân này. Tôi yêu thương, bảo vệ
quư vị, c̣n bàn điều kiện ǵ chăng? Tay trái
hơi ngứa, tay phải giúp nó găi ngứa, c̣n phải bàn
điều kiện, c̣n phải cám ơn nữa hay không?
Đương nhiên là chẳng có!
V́ thế, chư Phật, Bồ
Tát liễu giải chân tướng sự thật, khắp
pháp giới hư không giới với chính ḿnh là một,
đó là ǵ? Pháp Thân! Quư vị thấy giáo pháp Đại Thừa
đă nói rất hay: “Mười
phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân”.
Từ kinh điển, chúng ta đều đọc
thấy điều này, cùng chung một Pháp Thân! “Một tâm, một trí huệ, lực,
vô úy cũng thế”, đă
đọc điều này từ trong kinh. Nay chúng ta phải
hiểu rơ, Ngài nói “mười
phương ba đời Phật”, “mười phương” là không gian, “ba đời” là nói đến
thời gian, quá khứ, hiện tại, vị lai. Quá khứ Phật, trong kinh đức Phật
đă giới thiệu, Phật hiện tại th́ như
Thích Ca Mâu Ni Phật, A Di Đà Phật, Di Lặc Phật,
đức Thế Tôn đă nói danh hiệu của hơn một
vạn hai ngàn vị Phật. Quư vị thấy trong rất
nhiều tự viện, ngày Tết lễ vạn Phật,
lạy Vạn Phật Sám. Đức Phật đă v́ chúng
ta giới thiệu quá khứ, hiện tại, vị lai ba
đời chư Phật. Đặc biệt là vị lai, vị lai
Phật là ai? Tất cả hết thảy chúng sanh trong hiện
tại: “Hết thảy chúng
sanh đều có Phật Tánh”. Câu nói này có ư nghĩa hết
sức gần với câu “nhân
chi sơ, tánh bổn thiện” của cổ thánh tiên hiền, tánh con
người vốn lành!
Đức Phật nói ai nấy
đều có Phật Tánh. Đă có Phật Tánh, đương
nhiên là trong tương lai, nhất định sẽ thành
Phật, khẳng định sẽ làm Phật. Nếu theo
như Hoa Nghiêm và Viên Giác đă dạy: “Hết thảy chúng sanh vốn đă thành Phật”,
quư vị có tin tưởng lời này hay không? Nếu quư vị
hỏi tôi, câu trả lời của tôi là khẳng định!
Tôi tin tưởng hết thảy chúng sanh vốn thành Phật.
Hiện tại có phải là Phật hay không? Vậy th́ phải
xét xem quư vị quan sát từ góc độ nào! Nếu quư vị
ĺa tướng, ĺa hết thảy tướng, nh́n từ
bản tánh của chúng sanh, sẽ đúng là Phật, chẳng
giả tí nào! Tuy [nh́n theo] tướng th́ chẳng phải
[là Phật], nhưng xét theo tánh, sẽ chẳng sai! Tánh
đă là Phật, tướng lại có bao giờ
chẳng phải là Phật? Bèn thông suốt! Sau đấy,
cái tâm yêu thương, vô duyên đại từ, đồng
thể đại bi nẩy sanh tràn trề, tự nhiên sanh
khởi, chẳng có mảy may miễn cưỡng nào. Chuyện
này cần phải cậy vào giáo dục.
V́ thế, Phật giáo là giáo
dục, thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, hằng
ngày Ngài “lên lớp”, giảng
kinh, thuyết pháp chính là “lên lớp”.
Tinh thần và thể lực của lăo nhân gia tốt đẹp,
thời gian dạy học mỗi ngày là tám tiếng đồng
hồ, suốt bốn mươi chín năm chẳng nghỉ
ngơi. Mọi người đều biết chuyện
này, thường nói là “giảng
kinh hơn ba trăm hội, thuyết pháp bốn
mươi chín năm”, rát miệng buốt ḷng dạy dỗ
quư vị. Dạy ǵ vậy? Khiến cho chúng ta giác ngộ, liễu
giải chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, khiến
cho tư tưởng, kiến giải và ngôn hạnh của
chúng ta vĩnh viễn chẳng phạm sai quấy. Có
người hỏi tôi: “Thật sự có Phật ư? Các
vị là những người tin Phật, thật sự có
Phật hay chăng? Thật sự có Bồ Tát hay không? Quư vị
đă từng thấy hay chưa?” Chư vị đồng
học, nếu có người hỏi quư vị những lời
ấy, quư vị trả lời như thế nào? Tôi đáp
rất đơn giản, nếu người ta hỏi
tôi: “Phật ở chỗ nào? Quư vị có thấy hay không?”
Tôi liền chỉ người ấy: “Chính quư vị là Phật”.
Người ấy sẽ sững sờ: “Làm sao tôi là [Phật]
cho được?”
Kinh Hoa Nghiêm đă dạy quá
hay: “Hết thảy chúng sanh
đều có đức tướng và trí huệ của Như
Lai, chỉ v́ vọng tưởng và chấp trước mà
chẳng thể chứng đắc”. Do đó, Hoa Nghiêm
và Viên Giác đều nói: “Hết
thảy chúng sanh vốn thành Phật”, quư vị vốn là
Phật! Hiện thời v́ sao biến thành nông nỗi này?
Chỉ v́ quư vị có vọng tưởng, có phân biệt, có
chấp trước, mới biến thành nông nỗi này. Nói
cách khác, nếu quư vị buông xuống vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, quư vị chẳng phải
là Phật ư? Tôi chẳng nói sai, thật đấy, chẳng
giả! Chẳng buông vọng tưởng xuống
được, nhưng đă buông xuống phân biệt, chấp
trước, quư vị là Bồ Tát. So với Phật th́ thấp
hơn một bậc v́ Phật th́ ngay cả vọng tưởng
cũng buông xuống. Bồ Tát có vọng tưởng, chẳng
có phân biệt, chẳng có chấp trước. Nếu
như vọng tưởng và phân biệt đều chẳng
buông xuống được, nhưng đă buông xuống chấp
trước, cũng khá lắm, đó là A La Hán. Quư vị là
A La Hán, hoặc Bích Chi Phật. Nếu cả ba thứ vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước đều
chẳng buông xuống được, sẽ là phàm phu, tức
là t́nh trạng hiện thời của quư vị. Do đó,
quư vị chỉ cần buông xuống chấp trước,
chẳng c̣n chấp trước hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian, quư vị sẽ thành A La Hán. Lại
buông xuống phân biệt, quư vị là Bồ Tát. Lại buông
xuống vọng tưởng, quư vị sẽ là Phật!
Đức Phật dạy
chúng ta dụng công, dụng công ǵ vậy? Buông xuống là
công phu. Chẳng phải là nói quư vị mỗi ngày niệm
bao nhiêu kinh, niệm bao nhiêu câu Phật hiệu, chẳng phải
là những thứ ấy! Phải buông xuống, phải thấy
thấu suốt. Thấy thấu suốt là trí huệ, buông
xuống là công phu. Quư vị buông xuống càng nhiều, phiền
năo nhẹ nhàng, trí huệ tăng trưởng. Cái
được buông xuống là phiền năo, phiền năo đă
buông xuống, trí huệ bèn hiện tiền, chuyện là
như thế đó. Quư vị nói xem, lời Phật dạy
là thật hay giả? Quư vị c̣n có nghi hoặc hay không?
Phải buông pháp thế gian
xuống, Phật pháp cũng phải buông xuống. Quư vị
thấy kinh Kim Cang nói: “Pháp
thượng ưng xả, hà huống phi pháp” (Pháp c̣n
nên bỏ, huống hồ phi pháp). Cái “pháp” ấy chính là Phật pháp. Phật pháp cũng
chẳng thể tham, cũng chớ nên tích tụ Phật
pháp. Trong những năm qua, chúng tôi đă biếu tặng
Đại Tạng Kinh, có các vị pháp sư tại các
đạo tràng có ḷng tham, chúng tôi gởi kinh điển về Đại
Lục, nhờ họ phân phát giùm. Kết quả là sau khi họ
nhận được kinh điển, đă để toàn bộ trong lầu Tàng Kinh của chùa ḿnh, mấy
chục bộ Đại Tạng Kinh đấy nhé! Chúng tôi
vốn hy vọng họ sẽ chia cho các đạo tràng,
nhưng họ chẳng tặng, tập trung toàn bộ ở
chùa của họ. Tôi thấy vậy, cũng chẳng tiện nói, ai
có nhân quả nấy, mỗi người tự chịu
trách nhiệm! Chẳng phải là tôi tặng cho một chùa
quư vị. Chúng ta hiểu quả báo của việc ấy sẽ
là đời đời kiếp kiếp ngu si.
Như thế nào th́ mới
được thông minh, trí huệ? Phân tán! Đến chỗ
quư vị, sẽ ngay lập tức tản ra. Giống
như lần trước ở Ấn Nê (Indonesia), chúng tôi
tặng sáu chục bộ Long Tạng (Càn Long Đại Tạng
Kinh) cho chùa Nhất Thừa tại Ấn Nê. Phương
trượng ḥa thượng rất tuyệt! Khi tôi đến
thăm, Ngài triệu tập người chịu trách nhiệm
tại các đạo tràng Phật giáo bên Indonesia đến
nhận lănh Đại Tạng Kinh, nghi thức hết sức
long trọng. Tôi nhớ là tặng ngay tại chỗ năm
mươi ba bộ, đối với sáu mươi bộ
Đại Tạng Kinh, tặng ngay tại chỗ năm
mươi ba bộ. Bộ tôn giáo quốc gia cũng cử
ty trưởng đến tham dự nghi thức tặng
Đại Tạng Kinh, hết sức hoan hỷ. Đấy
là đúng pháp, quả báo của vị pháp sư ấy sẽ
là trí huệ. V́ thế, quư vị phải luôn luôn hiểu
rơ, phải hiểu minh bạch: Kẻ tán tài sẽ
được của cải, người lưu thông pháp
bảo sẽ được thông minh, trí huệ. Kẻ bố
thí vô úy sẽ được khỏe mạnh, sống lâu.
Như đối với
Sơn Tây Tiểu Viện và “V́ sao chẳng thể ăn
chúng nó?”, đừng thấy chỉ có mười sáu
đĩa DVD, mười sáu đĩa ấy là ǵ? Vô úy bố
thí, quả báo là khỏe mạnh, sống lâu. Tuy trong ấy
chủ yếu là vô úy bố thí, có cần tiền hay không?
Đương nhiên là cần; có cần thông minh, trí huệ
hay không? Cần chứ! Quay phim, cắt
ráp. V́ thế, trong một loại bố thí, nhất định
sẽ có ba thứ quả báo, có tiền tài, có thông minh, trí huệ,
có khỏe mạnh, sống lâu. Trong tương lai, đối
với ba mươi hai tướng, khi người ấy
thành Phật, ḷng bàn tay và bàn chân sẽ có pháp
luân, đấy là ǵ? Do hoan hỷ tu ba loại bố thí ấy!
Chúng ta c̣n thấy, nơi thân
tướng đức Phật, trước ngực có chữ
Vạn (卍). Chữ Vạn là cát tường. Đấy là tu
ǵ vậy? Xa ĺa hết thảy ác nghiệp, vị ấy thật
sự giác ngộ, thật sự hiểu rơ, từ khởi
tâm động niệm, [cho đến] ngôn ngữ, tạo
tác không ǵ chẳng thiện, tức là
đoạn hết thảy ác. Thị hiện thành Phật,
ngực có chữ Vạn.
Chúng ta thấy tay Phật,
khi tạc tượng là “thùy
thủ quá tất” (垂手過膝, rủ tay quá gối). Tay đức Phật dài, khi
thơng tay, sẽ dài hơn đầu gối, rất ít
người có. Trong lịch sử Trung Hoa, có chép [nhân vật]
Lưu Bị, tay Lưu Bị dài, lịch sử chép tay ông
ta rủ xuống sẽ chấm đến đầu gối. Những kẻ
đại phú, đại quư trong thế gian này, có
được mấy tướng trong ba mươi hai
tướng, chẳng viên măn. Nếu ba mươi tướng
đều viên măn th́ theo kinh Phật dạy, có hai hạng
người: Một là đă thành Phật, trọn đủ
ba mươi hai tướng. Loại kia là Chuyển Luân
Thánh Vương, phước báo to lớn, do nhiều kiếp
tu thành. Vua có ba mươi hai tướng, [thường gọi
là] “ba mươi hai tướng
Luân Vương”. Những người khác chẳng có nhiều như vậy,
như chúng ta thấy kinh nói tôn giả
A Nan có ba mươi tướng. Tay rủ quá gối có nghiệp nhân là ưa thiện, chuộng thí, tức là vị ấy
rất thích giúp đỡ người khác, hễ thấy
người khác gặp khó khăn bèn ch́a tay giúp đỡ, trước nay chưa hề bỏ sót. Do nghiệp nhân ấy, cảm
tướng tay tḥng quá gối. Thường tu Thập Thiện
sẽ được thân tướng thanh tịnh, do v́
nhân quả tương ứng. Nay đă hết thời gian
rồi, chúng tôi chẳng thể giới thiệu hoàn toàn ba mươi
hai tướng, nhưng phải nói những chỗ trọng
yếu. Giờ sau sẽ nói tiếp.
***
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống.
Xin xem tiếp bài kệ này:
(Kinh) Kiến nghiêm sức nhân,
đương nguyện chúng sanh, tam thập nhị tướng,
dĩ vi nghiêm hảo.
(經)見嚴飾人。當願眾生。三十二相。以為嚴好。
(Kinh: Thấy người
nghiêm sức, nguyện cho chúng sanh, ba mươi hai tướng,
trang nghiêm tốt đẹp).
Bài kệ tụng này nói đến
nhân quả, ba mươi hai tướng là thiện quả.
Quả ắt có nhân. Biết tu thiện nhân th́ mới có thể
đắc thiện quả. Chẳng nói toàn bộ ba
mươi hai tướng; nói toàn bộ sẽ mất thời
gian rất dài. Tôi nhớ trong quá khứ, khi giảng kinh Kim
Cang đă nói cặn kẽ rồi! Ví như điều giải (điều đ́nh để hóa
giải) tranh chấp, hiện
thời, thế gian này xung đột hết sức nhiều,
Liên Hiệp Quốc trong nhiều năm ngần ấy, đối
với đại đề mục “làm thế nào để trừ khử xung đột,
xúc tiến an định, ḥa b́nh”, đă làm suốt ba
mươi lăm năm. Bắt đầu làm từ
năm 1970 cho đến nay, vẫn đang tiếp tục
làm. Bản thân tôi tham gia hội nghị Liên Hiệp Quốc
năm lần, đấy là một đại sự
được người trên cả thế giới quan
tâm nhất trong hiện tại. Người phương
Tây nói “tiêu trừ xung đột”,
chẳng tiêu được! Tần số xung đột mỗi
năm tăng vọt, tai hại mỗi lần một nghiêm
trọng hơn. Nguyên nhân ở chỗ nào?
Gần đây, Hồ chủ
tịch (Hồ Cẩm Đào) của Trung Quốc đề
ra “xă hội hài ḥa, thế giới
hài ḥa”. Hai hôm trước, tôi từ Lệ Giang quay về.
Lệ Giang có một đoàn cổ nhạc, nổi tiếng
thế giới, lănh đạo là tiên sinh Tuyên Khoa[5],
năm nay ông ta đă bảy mươi bảy tuổi. Ông
ta giải thích hai chữ Hài Ḥa, tôi nghe xong, rất hoan hỷ.
Ḥa (和) là ǵ? Quư vị thấy chữ này, một bên là chữ
Khẩu (口), bên kia là chữ Ḥa trong Ḥa Miêu (禾苗, lúa mạ). Đấy là hội ư, ai nấy đều
có cơm ăn; đó là Ḥa. Hài (諧) là ǵ? Quư
vị thấy chữ Hài, một bên là Ngôn (言), một bên là Giai (皆), mọi
người đều có thể nói năng; đó là Hài. Nói
cách khác, Hài là ngôn luận tự do; Ḥa là ai nấy đều
được ấm no. Thật vậy, đấy là
đại tiền đề để
thế giới ḥa b́nh. Chữ Ḥa là nói cụ thể, tức
là khoảng cách giàu nghèo rút ngắn, xă hội sẽ có thể
hài ḥa. Khoảng cách giàu nghèo càng to, phiền phức càng nhiều!
Trong luận đàn Phật
giáo Trung Hoa lần này, có nói “thực
hiện từ tâm”. Câu nói này quá hay! Ở đây, chúng ta từng
giảng diễn về chuyên đề này, ắt cần phải thực hiện từ tâm ta, làm bắt
đầu từ ta th́ mới được, chẳng cần
nh́n vào người khác, hăy thực hiện từ nội
tâm của chính ḿnh. V́ thế, người Hoa không nói “tiêu trừ” xung đột, mà
nói “hóa giải”. Có tranh chấp
th́ quư vị phải biết cách hóa giải, quư vị chẳng
thể tiêu diệt nó. Quư vị thấy thuật ngữ của
Trung Y và Tây Y cũng khác nhau. Tây Y nói “tiêu độc”, tức là phải tiêu diệt
vi khuẩn gây bệnh; Trung Y chẳng vậy, Trung Y nói là “giải độc”, tức
hóa giải. Quư vị thấy dụng tâm khác nhau, tâm người
Hoa thiện lương! Chúng ta phải ḥa giải các mối
tranh chấp như thế nào? Hiện thời, thế giới
có quá nhiều xung đột, hóa giải như thế nào?
Giáo học có thể hóa giải. Dùng vũ lực trấn
áp, hoặc giáng trả, sẽ chẳng thể giải quyết vấn
đề, chỉ tăng thêm cừu hận, oan oan
tương báo chẳng hết, chẳng xong! Chư vị
phải hiểu rơ ràng, hiểu rành rẽ, cục diện
hiện thời là do oan oan tương báo tạo thành. Nếu
vẫn tiếp tục oan oan tương báo, thế giới
này nhất định đi theo hướng tận thế,
chẳng cứu nổi! Đường lối hóa giải
là phải cậy vào cổ thánh tiên hiền, cậy nhờ
nhân quả, cậy nhờ luân lư đạo đức, phải
cậy vào giáo dục tôn giáo, sẽ thật sự có thể
giải quyết.
V́ thế, chúng tôi hằng ngày
giảng kinh, hằng ngày cùng mọi người học tập,
chỗ chúng ta chẳng có xung đột, chẳng có mâu thuẫn!
Nhưng có kẻ nói, “đạo tràng này của các vị vẫn
có xung đột, vẫn có mâu thuẫn!” Chẳng sai! Công
phu học tập nông cạn, thời gian [tu tập] chưa
lâu, chứ thật sự tiếp nhận sự hun đúc
lâu dài của Phật pháp, hiểu Lư, thấy rơ Sự, quư vị
khởi tâm động niệm đối với hết thảy
người, sự, vật, chắc chắn là sẽ chẳng
phát sanh xung đột; sau đấy, quư vị mới có thể
điều giải xung đột. Bản thân quư vị chẳng
đạt tới hài ḥa, mà mong giúp người khác hóa giải
xung đột, hướng đến hài ḥa, chẳng dễ
dàng! V́ sao? Quư vị chẳng có trí huệ ấy, chẳng
có sự kiên nhẫn ấy, chẳng có tín tâm ấy, làm sao
có thể hóa giải cho nổi? Chúng ta thường nói “giáo học” là dạy ǵ vậy?
Nội dung giáo học của chúng ta là luân lư, đạo
đức, nhân quả, tôn giáo, sanh ra hiệu quả nhất
định, bản thân chúng ta được hưởng
lợi ích rất sâu. Do vậy, chính ḿnh phải có tín tâm.
Nhưng để làm những
chuyện này, xác thực là đă chậm trễ khóa tŕnh giảng
kinh của chúng tôi không ít, có phải làm hay không? Chẳng thể
không làm! Nếu có người làm, tôi sẽ tuyệt đối
chẳng đa sự! Trong các buổi giảng, chúng tôi
thường nói: Để vũ trụ thật sự chẳng có xung đột, thật sự thực hiện an định, hài ḥa, mỗi cá nhân ắt
cần phải trong cương vị công tác của chính ḿnh,
hăy thực hiện tốt đẹp công tác thuộc bổn
phận của chính ḿnh. Sau đấy mới hỗ trợ
hợp tác với hết thảy đại chúng trong xă hội,
thế giới này sẽ tốt đẹp, thế giới
này sẽ là thiên đường, sẽ là Cực
Lạc. Chẳng cần can dự vào chuyện của
người khác, ai nấy làm tốt công việc của
chính ḿnh. Giống như trong một thân thể, mỗi khí
quan, mắt chỉ bận tâm thấy, chẳng cần quan
tâm đến nghe, tai chỉ bận tâm nghe, chẳng cần
lo cho thấy. Ai nấy phát huy công năng của chính ḿnh
đến chỗ tột cùng; sau đấy mới phối
hợp với nhau, thân thể này bèn khỏe mạnh. Mỗi
cá nhân trên địa cầu đều có thể làm tốt
đẹp công việc của chính ḿnh, chẳng cần can
thiệp [vào chuyện của] người khác, tự nhiên
sẽ phối hợp với người khác, quả địa
cầu này sẽ ổn định, thế giới sẽ
tốt đẹp.
Bổn phận của chúng tôi
là ǵ? Bổn phận của chúng tôi là giảng kinh, dạy
học; đấy là bổn phận của chúng tôi. Đến
họp với Liên Hiệp Quốc chẳng phải là bổn
phận của chúng tôi, phải hiểu điều này! Vậy
th́ nay v́ sao phải đến tham gia? Chẳng có cách nào
khác! Hiệu trưởng trường đại học
nói tôi có rất nhiều cách nghĩ, cách nh́n, xác thực là
có thể giúp Liên Hiệp Quốc hóa giải xung đột,
xúc tiến ḥa b́nh. V́ thế, hết sức hy vọng tôi sẽ
đại diện cho nhà trường, đại diện
cho nước Úc. Do vậy, tôi mới trong t́nh h́nh bất
đắc dĩ ấy, trước sau tham gia năm lần,
về sau, tôi không đi nữa! Tôi cũng nói với nhiều
bạn bè, tổ chức văn hóa khoa học giáo dục
(UNESCO) của Liên Hiệp Quốc tổ chức hội nghị
chẳng dễ dàng, nhưng chẳng đạt được
mục đích, [các phương cách giải quyết xung
đột như] dùng chiến tranh, dùng trấn áp, dùng báo
thù đều chẳng thể đạt được!
Phương pháp ǵ [sẽ hữu dụng]? Giáo học th́ có
thể đạt được!
V́ thế, tháng Sáu năm
ngoái, chúng tôi mở ba buổi giảng về Đệ Tử Quy tại Ba Lê, người nghe
hơn sáu trăm người, hết sức cảm động.
Năm nay, họ c̣n tính làm theo quy mô lớn, tôi cũng tán
thành. Người bên Âu châu nghiên cứu, yêu thích Hán học,
khiến cho tôi cảm động. Có cơ hội để
có thể mở khóa giảng với quy mô lớn, đông
người, thời gian dài hơn một tí, sẽ là chuyện
tốt, khiến cho người phương Tây đối
với văn hóa truyền thống, đối với dân tộc
to lớn trong năm ngàn năm qua đă cư xử ḥa thuận,
đối đăi b́nh đẳng là v́ đă dùng phương
pháp ǵ? Phương pháp ấy nay được thúc đẩy
để thực hiện trên toàn thế giới, xác thực
là sẽ giúp ích cho nền ḥa b́nh trên cả thế giới.
Do vậy, năm nay chúng tôi vẫn phải hy sinh một ít
thời gian lên lớp để sang đó góp sức với
họ. Mục đích chẳng phải là v́ điều ǵ
khác, mà là v́ xă hội an định, v́ thế giới ḥa
b́nh. Làm công tác này nhằm điều đ́nh sự xung
đột, hóa giải tranh chấp, trong ba mươi hai
tướng sẽ đạt được tướng
ǵ? Đức Phật có bốn mươi cái răng,
răng lại c̣n khít khao, ngay ngắn, quư vị thấy đó, có nhân,
có quả!
Khéo giữ ǵn ba nghiệp,
kinh Vô Lượng Thọ đă nói: “Thiện hộ khẩu nghiệp, bất cơ tha quá”
(Khéo giữ ǵn khẩu nghiệp, chẳng chê bai người
khác), chúng ta phải học tập, học tập ǵ vậy?
Chẳng thấy lỗi thế gian! Có những kẻ nói:
“Nếu quư vị làm người mà cư xử như vậy,
chẳng phải là biến thành ngu ngốc ư?” Vậy th́ tôi lại thưa cùng quư vị, chư Phật, Bồ Tát, A La Hán thảy đều ngu ngốc! V́
sao? Các Ngài chẳng thấy lỗi thế gian, nhưng các
Ngài thật sự có trí huệ! Các Ngài có biết những lầm lỗi của người thế gian hay
chăng? Biết chứ, hiểu rành rẽ, rơ ràng. “Chẳng
thấy” là chẳng ghim
trong ḷng, miệng chẳng nhắc tới, chẳng lộ
vẻ ǵ; đấy là tu dưỡng, đấy là đức
hạnh. Hễ có cơ hội sẽ chỉ dạy họ, giúp họ đổi mới, sửa
lỗi, giúp cho họ quay đầu là bờ, quyết
định chẳng có chán ghét, cáu giận, chỉ có ḷng yêu
thương, đại từ đại bi. Trong ba
mươi hai tướng, đạt được tướng
“mỹ hảo tu phát” (râu tóc
tốt đẹp), chúng ta nói là tóc, lông mày, râu ria [đẹp
đẽ], được tướng ấy. Khéo giữ
ǵn khẩu nghiệp, chẳng chê trách lỗi lầm của
người khác!
“Thiện
hộ thân nghiệp, bất thất luật nghi” (Khéo giữ
ǵn thân nghiệp, chẳng đánh mất luật nghi), làm
người đúng quy củ. Người tốt khó làm,
không chỉ là hiện thời, mà từ xưa tới nay, chư
vị nh́n vào những điều được nói trong Liễu
Phàm Tứ Huấn, sẽ hiểu ngay. Thế nhưng, chỉ cần là những điều Phật, Bồ
Tát nói, cổ thánh tiên hiền bèn làm, chúng
ta phải nên nghiêm túc học tập, thực hiện. Chớ
nên quan tâm lo ngại người hiện thời hủy báng,
châm chọc, chẳng cần quan tâm đến họ, đừng
nên bận ḷng! Chúng ta khởi tâm động niệm, ngôn ngữ
và tạo tác tương ứng với Tánh Đức;
đấy là chuyện tốt đẹp! Hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian, tà, chánh, thiện,
ác chẳng có tiêu chuẩn, nếu chúng ta tùy thuận tiêu chuẩn
của người thế gian, làm sao quư vị có thể
thoát ĺa lục đạo luân hồi cho được? V́
vậy, nhất định phải tùy thuận tiêu chuẩn
của Phật, Bồ Tát. Tổng cương lănh và nguyên tắc
tiêu chuẩn của Phật, Bồ Tát là Thập Thiện Nghiệp.
“Thiện
hộ ư nghiệp, thanh tịnh vô nhiễm” (khéo ǵn giữ ư nghiệp, thanh tịnh,
chẳng nhuốm bẩn), kinh Vô Lượng Thọ vừa mở đầu
đă dạy chúng ta, thân quyết định chẳng làm
chuyện sát sanh. Nói cách khác,
quyết định chẳng làm chuyện tổn
thương hết thảy chúng sanh, chớ nên làm! Họ tổn
thương ta, ta trọn chẳng tổn thương họ.
Đối với người là như thế, mà đối
với tiểu động vật cũng là như thế.
Muỗi đốt thân ta, cắn ta, nó tổn hại ta,
ta trọn chẳng tổn hại nó. Nếu chúng ta khẳng
khái rộng răi hơn đôi chút, sẽ để
cho nó ăn! Bố thí cho nó, nó đến khất thực,
chúng ta bố thí, cúng dường nó một bữa ăn,
cũng chẳng bao nhiêu! Nó ăn no sẽ bỏ đi. Chớ
nên đập bốp một phát cho nó chết tươi,
chớ nên! Nếu chúng ta chẳng muốn bố thí, hăy nhẹ
nhàng đuổi nó đi là được rồi, chớ
nên tổn hại nó! Đối với tiểu động
vật c̣n như thế, đối với người,
đương nhiên lại càng là như
thế. Người khác tổn hại ta, hủy báng ta, lăng
nhục ta, thậm chí hăm hại ta, chúng ta cười x̣a,
quyết chẳng ghim trong ḷng, quyết định chẳng
có mảy may ư niệm sân khuể, chẳng có mảy may ư niệm
báo thù!
Người ấy là người
tốt, chuyện ấy là chuyện tốt; v́ sao là người
tốt, chuyện tốt? Giúp ta tăng tấn cảnh giới!
Chẳng có những nghịch cảnh, nghịch duyên ấy,
chúng ta chẳng biết công phu tu hành của chính ḿnh đến
mức độ nào! Đấy đều là khảo thí.
Thuận cảnh, thiện duyên sẽ khảo nghiệm
chúng ta, chẳng khởi tham ái. Nghịch cảnh, ác duyên, khảo
nghiệm chúng ta, chẳng dấy lên sân khuể. Chúng ta
đoạn tham, sân, si từ chỗ nào? Đoạn từ
chỗ này. Nếu thấy thuận cảnh, thiện duyên mà
sanh tâm hoan hỷ, dấy lên tham ái; trông thấy nghịch cảnh,
ác duyên, bèn sanh tâm sân khuể, chúng ta vẫn là phàm phu, hằng
ngày học Phật mà chẳng có một tí tiến triển
nào! Dẫu kinh niệm làu làu cách mấy, nói hay cách mấy,
hoàn toàn chẳng ăn nhập ǵ với cuộc sống
cũng như cách xử sự, đăi người, tiếp
vật của chính ḿnh, học những thứ ấy có tác
dụng ǵ đâu? Thánh học, nhất là Phật học, Phật học
là thánh trong các thánh. Kinh thường nói: “Thân người khó được, Phật pháp khó
nghe”. Chúng ta được làm thân người,
được nghe Phật pháp, mà chẳng thọ dụng
chút nào, như vậy là quá oan uổng, quá đáng tiếc! Tôi
đời này cảm kích thầy, cảm kích hộ pháp, “hộ
pháp” là những người chăm lo đời sống
cho tôi. V́ sao cảm kích như vậy? Tôi được thọ
dụng nơi Phật pháp, biết ơn, báo ơn! V́ thế, hiểu
tầm quan trọng của việc giữ ǵn ba nghiệp,
quả báo là râu tóc, lông mày đẹp đẽ!
Lời nói chân thành sẽ
được “tướng
lưỡi rộng dài”. Trong kinh, đức Phật
đă dạy chúng ta: Người có thể thè lưỡi
liếm đến mũi là do tu cái nhân ǵ? Đức Phật
nói [cái nhân là] ba đời chẳng nói dối, đầu
lưỡi có thể liếm đến mũi! Thuở tại
thế, Thích Ca Mâu Ni Phật từng biểu hiện, lưỡi
của lăo nhân gia thè ra có thể che cả
mặt, cho mọi người biết Ngài đời đời
kiếp kiếp chẳng nói dối. Chẳng phải là một đời này, một đời nọ, mà là đời đời kiếp kiếp chưa
hề nói dối, chúng ta phải học, hăy nên học. V́
sao? Tánh Đức đấy! V́ sao lừa gạt người
khác? Lừa gạt người khác có ích ǵ? Dẫu đạt được một tí lợi ích nhỏ
nhặt, nhưng chính ḿnh phải trả giá quá to! Trả
giá ǵ vậy? Chẳng có tướng lưỡi rộng dài. Ắt
phải biết tướng lưỡi rộng dài là Tánh
Đức, là vốn sẵn có. Ba mươi hai tướng,
tám mươi thứ hảo vốn sẵn có. Chỉ v́
chúng ta nói dối, nói đôi chiều, nói thô ác mà bị tổn
khuyết. Ngạn ngữ thường nói là “giảm phước”, chúng ta
tạo nghiệp bất thiện, phước bị chiết
giảm!
Trong cuộc sống hằng
ngày, có thể thường nói lời mềm mỏng, ngôn
ngữ nhu ḥa, âm thanh sẽ tốt đẹp, [đó gọi là]“tướng
Phạm âm”. Phạm âm là quả
báo, âm thanh thanh tịnh, âm thanh đặc biệt hay. Ngôn ngữ
hết sức mạnh bạo, chúng ta thường nói là
ăn nói rất mất ḷng người khác, âm thanh của
kẻ ấy nhất định chẳng hay!
Mắt Phật đẹp
đẽ, kinh dạy mắt Phật được tu bằng cách nào? Mắt
từ bi nh́n chúng sanh. Nếu chúng ta muốn hai mắt của
chính ḿnh tốt đẹp, thường phải từ bi
nh́n hết thảy chúng sanh. Có cần t́m bác sĩ về mắt
hay không? Chẳng cần thiết!
Vậy th́ người mắt chẳng tốt, nếu quư vị
muốn khôi phục con mắt b́nh thường, hăy tu tâm từ
bi, giống như Phật, Bồ Tát nh́n chúng sanh bằng
con mắt từ bi. Chuyển cảnh giới, tướng
chuyển theo tâm, thật sự có thể chuyển
được!
“Tâm
tánh ḥa thuận”, quả báo cũng ở mắt: “Mục như sơ nguyệt
tướng” (Mắt như h́nh trăng non), vầng trăng non, mắt
xinh đẹp [như thế ấy], chẳng có ǵ khác, đó là do tu Ḥa, tu Thuận. Có thể
đối xử ḥa thuận với chúng sanh, chẳng chấp
trước thành kiến của chính ḿnh, có thể hằng
thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức; chẳng cần
cho rằng ta phải như thế nào, ta nghĩ phải
làm như thế nào, chẳng có kiểu nói ấy! Cảnh
giới tăng tấn đến một mức độ
nhất định, cảnh sẽ chuyển theo tâm, chẳng
có ǵ không tốt. Quư vị chẳng đạt đến cảnh
giới ấy, là v́ quư vị có phân biệt, có chấp
trước. Do vậy, có thiện, có ác, có tà, có chánh, có tốt,
có xấu, sẽ sanh ra những thứ này. Sau khi tăng tấn
tới một cảnh giới nhất định, sẽ
chẳng có [những ư niệm phân biệt ấy]. Đức
ḥa thuận này chính là Tánh Đức, sẽ hiện tiền.
Sau khi hiện tiền, nói theo giáo pháp Đại Thừa, sẽ
là “nhất vị”. Do vậy, chúng ta thấy người thật
sự tu hành, quư vị thấy họ ḥa thuận.
Cận đại, hễ nhắc
đến Ngài, chúng ta vẫn chẳng thấy xa lạ mấy.
Hoằng Nhất đại sư, [tục danh] Lư Thúc Đồng.
Vào lúc tuổi già, Ngài chuyện ǵ cũng xuề x̣a, chuyển
biến một trăm tám mươi độ! Khi c̣n trẻ,
vị này cư xử rất
khó chịu! V́ sao? Chấp trước quá mức!
Khi Ngài học ở Nhật Bản, ước
định bạn bè đến nhà Ngài vào đúng tám giờ, hễ
bạn bè đến trễ hai, ba phút, sẽ không mở cửa,
chửi người ấy chẳng tuân thủ thời gian:
“Chúng ta ước hẹn tám giờ, v́ sao trễ hai phút?” Cự
tuyệt [không tiếp]! Về sau, mọi người biết
Ngài tính t́nh nóng nảy, kết giao với Ngài, ước hẹn
thời gian chẳng thể sai lệch một phút, một
giây nào! Quư vị đến sớm một phút cũng không
được, trễ một phút cũng chẳng
được! Chẳng có ǵ không riết róng, Phật pháp
nói là “chấp trước kiên
cố”.
Sau khi đă học Phật,
Ngài thấu hiểu, hoàn toàn coi nhẹ. Ngài sống ở
Tân Gia Ba một khoảng thời gian, chẳng quá lâu, là bạn
thân thiết của pháp sư Quảng Hiệp. Lúc ấy
hoàn toàn khác hẳn khi trước, rất dễ hầu hạ,
rất dễ chăm sóc, thứ ǵ cũng chẳng đ̣i hỏi,
ăn uống, cư trụ hoàn toàn tùy thuận chúng sanh. Pháp
sư Quảng Hiệp tiếp đăi Ngài, đồ ăn
mặn một chút, pháp sư Quảng Hiệp chê đồ ăn hơi
mặn một chút, Ngài nói
như thế nào? “Mặn có hương vị của mặn”.
Nhạt một chút, “nhạt có hương vị của nhạt”,
hoàn toàn chẳng chú trọng. Quư vị làm ǵ đi nữa, chẳng
có ǵ khiến Ngài không hoan hỷ, chẳng phê b́nh một chữ
nào. Đấy là ǵ? Cảnh giới tăng tấn! Tăng
tấn cảnh giới bằng cách nào? Đó là thật sự
tăng tấn, cảnh chuyển theo tâm! Bọn phàm phu chúng
ta tâm bị cảnh chuyển, khổ rồi! Món này cay,
món kia mặn, món nọ nhạt,
dấy lên phân biệt, dấy lên chấp
trước. Cảnh giới tăng tấn là nhập pháp
môn Bất Nhị, vạn pháp quy về một, tất cả
hết thảy chua, ngọt, đắng, cay, mặn, bày ra trước mặt, [đều cảm thấy
là] một vị. V́ sao là một vị? Chẳng có phân biệt,
chấp trước sẽ là một vị; hễ có phân biệt,
chấp trước th́ mới là nhiều vị!
Vô lượng vô biên hiện
tướng, hễ nhập pháp môn Bất Nhị, sẽ là
một tướng. “Một
tướng” là tướng ǵ vậy? Vô tướng. Vô
tướng chẳng phải là không có tướng! Vô
tướng là hết thảy các tướng; v́ sao hết
thảy các tướng lại nói là vô tướng? Chẳng
có phân biệt tướng, chẳng
chấp trước tướng! Do vậy, sâm la vạn tượng bày ra trước
mặt mà người ấy chẳng
khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt,
đấy gọi là một Thật Tướng. Hễ khởi
tâm động niệm, một Thật Tướng sẽ
biến thành sâm la vạn tượng. Chuyện này chẳng
dễ hiểu cho lắm! Hiện thời, tôi nghĩ
người không xem TV rất ít, ai nấy mỗi ngày đều
xem TV, chúng tôi bèn dùng TV để tỷ dụ. Sâm la vạn
tượng là h́nh ảnh trong TV, Thật Tướng là ǵ?
Thật Tướng là màn h́nh TV. Chư vị hăy ngẫm
xem, h́nh ảnh trong TV biến hóa muôn ngàn dạng, biến
hóa trong từng sát-na, màn h́nh có chuyển động hay
chăng? Bất động; có ô nhiễm hay chăng? Chẳng
ô nhiễm! Nói “một tướng” th́ là
ǵ? Một tướng là cái màn h́nh, như như bất động,
cũng chẳng có mảy may ô nhiễm, lại chẳng
ngăn ngại hết thảy các hiện tướng biến
đổi, điều này hay khéo quá! V́ thế, đức
Phật nói sắc tướng là Diệu Hữu, Diệu Hữu là do ư nghĩa này. Gọi màn h́nh là Chân Không. Chân Không và Diệu
Hữu là một, chẳng hai!
Nếu quư vị hiểu chân
tướng sự thật, mặc cho nó biến hóa cỡ
nào, tâm quư vị vẫn định. Tâm là cái màn h́nh, biến
hóa như thế nào cũng đều biết, điều
hiểu rơ, nhưng chắc chắn là chẳng chấp
trước, quyết định chẳng phân biệt, quyết
định chẳng lưu lại ấn tượng,
đấy là Phật, Bồ Tát. Đó gọi là “vạn pháp quy nhất, nhất tức
vạn pháp”. Cổ nhân có một câu hỏi: “Vạn pháp quy nhất”, sau
đó hỏi một câu nữa? “Nhất
quy vào chỗ nào?” Nhất tức là vạn pháp. “Sắc tức là Không, Không tức
là Sắc, Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc”.
Sắc là vạn pháp, Không là một. Chúng là một, không hai,
gọi là pháp môn Bất Nhị. Nhập cảnh giới này,
sẽ đắc đại tự tại, thứ ǵ
cũng đều chuyển được. V́ thế, nếu
ai đạt tới “cảnh
chuyển theo tâm” sẽ tự tại, sẽ ĺa khổ
được vui. Tâm chúng ta c̣n bị cảnh giới bên
ngoài xoay chuyển, đấy là phàm phu, rất khổ, sống
rất khổ sở. Sáu căn của quư vị tiếp
xúc cảnh giới bên ngoài, quư vị sẽ phân biệt, chấp
trước. Đă là dấy lên phân biệt, dấy lên chấp
trước, sẽ có mừng, giận, buồn, vui, sẽ
nẩy sanh thất t́nh ngũ dục. Hễ nẩy sanh thất
t́nh ngũ dục, sẽ chẳng thể nào không tạo
nghiệp. Hễ tạo nghiệp, sẽ chẳng thể
không hứng chịu quả báo, phiền phức to đùng!
V́ thế, từ chỗ này, quư vị mới hiểu, tâm
tánh ḥa thuận trọng yếu dường ấy, đấy
là thật sự tu hành!
Như thế nào th́ mới
có thể ḥa? Nếu quư vị chẳng tùy thuận, sẽ
chẳng thể ḥa! Điều kiện thứ nhất
để ḥa là phải thuận, hằng thuận chúng sanh,
sau đấy mới có thể cư xử ḥa thuận. Quư
vị chẳng thuận theo họ, sẽ không được!
Họ tạo ác nghiệp, quư vị thuận theo họ, tuy
thuận theo họ mà nếu bản thân quư vị vô tri, vậy là sai mất rồi! Bản thân quư vị có trí huệ,
hiểu rành mạch, rơ ràng, sẽ tùy thuận. V́ sao? Chưa
tới lúc. Quư vị biết rất rơ ràng khi nào thời tiết
nhân duyên chín muồi, sẽ có thể giúp đỡ người
khác, có thể chỉ điểm, cảnh tỉnh họ. Bị
thua thiệt chẳng phải là chuyện xấu, bị
thua thiệt là phước! Chẳng có chuyện nào không có
nhân quả. Ngay cả ông Khải Tây (Edgar Cayce) của Mỹ
đă nói rất rơ ràng, ông ta nói: [Đối với bất
cứ] người nào trên thế giới, những chuyện
gặp gỡ hằng ngày, chẳng có chuyện ǵ đột
nhiên. Có nghĩa là chẳng có chuyện nào không có tiền
nhân, chẳng hề có! Bất luận chuyện lớn hay việc nhỏ, đều có cái nhân trong đời quá khứ, hiện
tiền mắc quả báo, lời này nói hay lắm!
Đúng như cổ nhân đă nói: “Nhất ẩm, nhất trác, mạc phi tiền định”
(Một hớp uống, một miếng ăn, không
ǵ chẳng được định trước).
Làm thế nào
để có thể thật sự hóa giải vấn đề?
Hoàn toàn dựa vào giáo dục. V́ thế, từ xưa đến nay, quư vị
thấy những bậc đại thánh đại hiền
thị hiện trong chín pháp giới, hăy quan sát cẩn thận, [sẽ
biết] các Ngài thị hiện trong
thế gian này để làm ǵ? Nhằm giáo học. Ngoài giáo học ra, vẫn là giáo học, chẳng
có chuyện thứ hai! Bồ Tát giáo học là tự lợi,
lợi người, tăng tấn linh tánh của chính ḿnh,
giúp đỡ chúng sanh thành tựu vô lượng công đức
của chính ḿnh. Quả báo của công đức ấy là vô
lượng tướng hảo. Tự nhiên, chẳng phải
cầu, không cần cầu, chẳng có ư niệm cầu, tự
nhiên hiện tiền! Do vậy, phải hiểu điều
này, hết sức quan trọng
là tâm b́nh khí ḥa, không chỉ là khỏe mạnh, sống lâu, lại
c̣n tăng trưởng trí huệ và đức năng, Quư
vị nói xem, tâm tánh ḥa thuận quan trọng dường ấy!
Tiếp đó, chúng tôi nêu tỷ
dụ này: “Tán tha công đức,
mi gian bạch hào tướng” (Do công
đức ca ngợi người khác, có tướng bạch
hào giữa hai chân mày). Chẳng cần nói tới lỗi lầm
của kẻ khác. Kẻ khác phạm sai quấy, chúng ta hiểu
rơ ràng, rành rẽ, chẳng hồ đồ, nhưng không
nói ra. Đệ Tử Quy đă dạy chúng ta: Nói chung, khởi
tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác đều phải
giúp đỡ người khác, khiến cho người khác
nghe, thấy, họ sẽ phản tỉnh, sẽ cảm
ngộ. Kẻ ấy có sai lầm, người khác chẳng
nói tới. Kẻ ấy có một tí tốt đẹp, người
khác đều tán dương. Lâu ngày chầy tháng, kẻ ấy
sẽ giác ngộ. Người khác chẳng phải không biết
đến sai trái của ta, nhưng rộng dung, chẳng
nói ra; hễ có một tí chuyện tốt bé tẹo bèn tán dương, kẻ ấy sẽ nghiêm túc sửa
lỗi, hướng lành, thảy đều là giáo học.
Ngoài ngôn giáo ra, thân giáo càng quan trọng hơn! Khiến cho kẻ
ấy dần dần lănh ngộ, sẽ có hiệu quả c̣n
to hơn ngôn giáo. V́ thế, chư Phật, Bồ Tát, thiện
tri thức có lúc thấy lầm lỗi của chúng ta mà
không nói; đó là từ bi. V́ sao? Có lúc nói ra cũng vô ích, nẩy
sanh hiệu quả trái ngược. Nói ra, trong tâm chúng ta cảm
thấy khó chịu. Nếu tâm địa c̣n thiện
lương th́ c̣n đỡ, ta dần dần sửa đổi.
Nếu là kẻ b́nh phàm, kẻ ấy sẽ chẳng chịu
nổi. Chẳng chịu nổi th́ sẽ có hai hiện
tượng, một là chẳng nghe lời quư vị,
“ngươi cứ thường xuyên kể
lỗi của ta!” Dần dần trở thành xa cách, không
nghe lời quư vị nữa! Hoặc là bề
ngoài tuân phụng, bên trong ngấm ngầm chống đối,
quư vị giáo dục thất bại! V́ thế, đối
với người có thể nói th́ nói, đối với
kẻ chẳng thể nói th́ đừng nói!
Ở Đài Trung, tôi theo thầy
Lư mười năm, quan sát cẩn thận thầy giáo hóa
các học tṛ, thầy dạy các bạn học của tôi, tôi chú tâm quan sát thầy. Đối với mỗi người,
thầy có phương pháp khác nhau, thật sự là trí huệ,
thật sự là từ bi. Phải là một thời gian rất
dài quư vị mới có thể phát hiện, mới biết
phương pháp dạy học của Ngài cao minh. Có phải
là đều thâu được hiệu quả hay chăng?
Không nhất định! Tuy chẳng nhất định,
chúng tôi ở bên cạnh vận dụng cái tâm sẽ học hiểu, đấy
là ân đức. V́ thế, ca ngợi, quyết định
là có công đức, lễ kính chắc chắn là chẳng
có điều kiện. Ca ngợi là khi kẻ ấy thật
sự có đức hạnh th́ mới khen ngợi; chẳng
có đức hạnh, chớ nên khen ngợi, tương ứng
với mười nguyện của Phổ Hiền Bồ
Tát, “lễ kính chư Phật, xưng
tán Như Lai”. “Quảng tu cúng
dường”: Cúng dường chẳng có điều kiện,
đối với kẻ ác vẫn cúng dường. Kẻ
làm ác, hôm nay chẳng có cơm ăn, sẽ chết đói,
phải cho họ ăn; kẻ ấy rét mướt, phải
tặng quần áo cho kẻ ấy. Chẳng thể nói là
không đoái hoài: “Hắn là kẻ ác, ta không quan tâm”. Chớ
nên! Chẳng có điều kiện! Chỉ có tán thán th́ có
điều kiện, quyết định tán dương
điều thiện, chẳng tán dương điều
ác!
Tiếp đó là “lễ kính hiền thánh tôn trưởng,
nhục kế đảnh tướng” (lễ kính bậc
hiền thánh, tôn trưởng, sẽ có tướng nhục
kế trên đỉnh đầu). Chúng ta thấy đỉnh
đầu đức Phật, trên đỉnh đầu
đức Phật có nhục kế, tướng ấy do
đâu mà có? Do lễ kính hiền thánh, tôn trưởng.
Đấy chẳng phải là những người hiền
lành, mà là bậc hiền thánh, tức bậc thánh trong các vị
thánh nhân. Đối với bậc hiền nhân, đối
với thánh nhân, đối với người bề trên,
đối với bậc trưởng giả đức hạnh,
bất luận chúng ta quen biết hay không, phải có tâm cung
kính, phải lễ độ đối với họ.
Đấy là ǵ? Đều là giáo học. Khiến cho
người khác trông thấy, kẻ b́nh phàm thấy chúng ta tôn
kính vị ấy, người khác cũng tôn kính vị ấy. Chúng ta học tập theo vị ấy,
người khác cũng sẽ học tập vị ấy, đấy là chuyện tốt! V́ thế, khởi
tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, không ǵ chẳng
nhằm giáo hóa chúng sanh, niệm niệm đều có cái tâm
ấy, cho nên mới có tướng hảo tốt đẹp,
quả đức hiện tiền. A! Hôm nay đă hết thời
gian rồi, những điều khác, chúng tôi đều tỉnh
lược. Nếu quư vị muốn biết nhiều
hơn, hăy xem bộ Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa. Trong kinh luận
đă nói về ba mươi hai tướng rất nhiều.
Hôm nay chúng tôi nói đến đây!
Đại Phương Quảng
Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 39 hết
[1] Chuyển
Kinh Luân (轉經輪, prayer
wheel) được người Tây Tạng gọi là
Mani-chos-khor, là một loại ống xoay thường làm bằng
gỗ, sắt, đá, đôi khi bằng da hoặc vải
thô. Thông thường, bài chú Lục Tự
Đại Minh (Om Mani Padme Hum) cùng với các h́nh Bát Cát Tường
(Ashtamangala) sẽ được viết hay khắc bên
ngoài ống. Bên trong ống
là một cuộn giấy to viết nhiều bài thần chú
của Mật Tông. Các ống này có thể xoay tṛn quanh một
trục thẳng đứng. Người Tây Tạng tin là
xoay cuộn ống ấy có tác dụng giống như
đọc các bài thần chú một lượt. Mỗi tu
viện thường có rất nhiều ống Chuyển
Kinh Luân rất lớn sắp dọc hai bên hành lang, khách hành
hương sẽ vừa xoay ống, vừa niệm chú Lục
Tự Đại Minh. Ngoài ra, c̣n có loại nhỏ, có cán cầm,
thường được người Tây Tạng cầm
trên tay để vừa xoay vừa ŕ rầm niệm chú khi
rảnh rỗi, hoặc xoay khi nhiễu Phật, nhiễu
tháp.
[2] Chư Hầu (諸侯) là chế độ phong tước và ban lănh địa
cho các thân thích hoặc công thần của hoàng đế
(thiên tử) trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất
Trung Hoa. Đất phong của mỗi vua chư hầu
thường được gọi là Quốc. Về sau, từ
ngữ Chư Hầu được mở rộng ra để
chỉ những vùng lănh thổ chiếm cứ bởi các
quân phiệt như lănh địa của Viên Thuật,
Trương Lỗ v.v… thời Tam Quốc. Chế độ
Chư Hầu đă có từ đời Thương, nhằm
mục đích cắt cử thân thuộc của hoàng đế
trấn nhậm những vùng đất quan trọng ḥng làm
phên giậu cho triều đ́nh trung ương. Thông thường,
tuy cùng gọi là Chư Hầu, nhưng tước vị
có cao thấp khác nhau, được chia thành năm bậc
là Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Ví dụ như nước Tần
thoạt đầu không phải là chư hầu. Tổ tiên
nước Tần là Doanh Phi Tử làm nghề chăn ngựa
ở Khuyển Khâu, do có tài nuôi ngựa, nên được
Châu Hiếu Vương phong cho làm quan ở đất Tần.
Do vậy, thoạt đầu nước Tần chỉ là
nước phụ dung, măi đến đời Châu B́nh Vương
phong cho Tần Tương Công lên tước Công, Tần mới
chính thức trở thành chư hầu. Con cháu của
chư hầu thường nắm địa vị quan trọng
trong triều đ́nh của mỗi nước chư hầu,
làm khanh, hoặc đại phu. Mỗi người lại
có đất phong riêng gọi là Thực Ấp. Do tham vọng,
các nước chư hầu thường đánh lẫn
nhau, tiêu diệt nhau. Dần dần chính quyền trung ương
suy yếu, chỉ c̣n hư danh, không có thực quyền. Các
vua chư hầu hùng mạnh thường mượn danh
phù tá thiên tử nhà Châu để chinh phạt những
nước chống đối.
[3] Quảng
đơn (廣單) chính là pḥng ngủ chung. Mỗi vị tăng có một
tấm ván hay cái giường nhỏ vừa đủ một
người nằm (cho nên gọi là
“đơn”).
Những tấm đơn ấy được kê trong
một pḥng ngủ tập thể, không có liêu pḥng riêng.
[4] Thước
(Xích, 尺)
ở đây không phải là mét, mà là một đơn vị
đo chiều dài, thường
gọi là “thước Tàu”. Nếu
hiểu theo quy định hiện thời tại
Hương Cảng, một Xích bằng 37 cm. Thời cổ,
Xích c̣n bé hơn nữa, chỉ dao động từ hai
mươi ba cho đến hai mươi chín cm.
[5] Tuyên
Khoa sinh năm 1930, vốn là thuộc sắc dân Naxi (Nakhi, Nạp
Tây). Ông là một nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc. Dân tộc
Naxi sống chủ yếu ở miền Tây Bắc tỉnh
Vân Nam và Tây Nam tỉnh Tứ Xuyên. Họ được coi
là hậu duệ của người Khương, có hệ
thống chữ viết riêng. Lệ Giang là nơi cư trụ
chính của họ tại Vân Nam. Âm nhạc của người
Naxi có nhiều loại, nhưng được biết
đến nhiều nhất là thể loại Động
Kinh. Động Kinh Nhạc bắt nguồn từ nhạc
lễ Đạo giáo pha trộn với ảnh hưởng
từ văn hóa Tây Tạng. Động Kinh
Nhạc chú trọng tán dương Văn
Xương Đế Quân và kinh Đại Động của
Đạo giáo.