Đại Phương Quảng
Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một,
Tịnh
Hạnh Phẩm
Phần 4
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng:
Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa
điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục
Hiệp Hội
Khởi giảng
từ ngày mồng Bảy tháng Mười Một năm
2005
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt:
Đức Phong, Huệ Trang và Minh Tiến
Tập
1469
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống.
Xin xem phẩm thứ mười một, Tịnh Hạnh.
Chúng ta xem tiếp phần Thích Phẩm (釋品, giải thích
nội dung của phẩm này) trong bộ Hợp Luận của
Lư Trưởng Giả. Chúng ta xem tiếp phần Luận
ngày hôm qua, từ câu: “Hựu
tùy vị tu đạo thượng phiền năo” (Lại
c̣n do phiền năo trong mỗi địa vị tu đạo),
đọc đoạn văn bắt đầu từ câu ấy.
Xin xem lời Luận:
(Luận) Tùy vị tu đạo
thượng phiền năo, lục vị trung, nhất vị
hữu nhị thập, lục vị cộng hữu nhất
bách nhị thập, căn bản thập vô minh, giai nhân
Thân Kiến, Biên Kiến, nhị kiến hữu nhị thập,
cộng tùy vị tấn tu, nhiễm tịnh phiền năo, tổng
hữu nhất bách tứ thập.
(論)隨位修道上煩惱,六位中,一位有二十,六位共有一百二十,根本十無明,皆因身見邊見,二見有二十,共隨位進修,染淨煩惱,總有一百四十。
(Luận:
Lại c̣n do phiền năo trong mỗi địa vị tu
đạo. Trong sáu địa vị, mỗi địa vị
có hai mươi [món phiền năo], sáu địa vị gộp
thành một trăm hai mươi [món phiền năo]. Mười
món vô minh căn bản đều do hai kiến là Thân Kiến
và Biên Kiến mà thành hai mươi [món phiền năo nữa].
Cộng chung sự tấn tu
trong từng địa vị và phiền năo nhiễm tịnh,
có tất cả một trăm bốn mươi món).
Ngày hôm qua, chúng ta đă học
tới chỗ này. Nay nói tiếp:
(Luận) Vị pḥng thử chướng,
khởi nhất bách tứ thập nguyện, linh tấn tu
giả, tùng Sơ Tín tâm, Lư Sự viên dung, đạt kỳ
nguyện thể, vô khuy tự tâm căn bản tịnh trí,
diệu trạch chi huệ, động tịch câu chân, bất
thiên tu cố.
(論)為防此障,起一百四十願,令進修者,從初信心,理事圓融,達其願體,無虧自心根本淨智。妙擇之慧,動寂俱真,不偏修故。
(Luận: Nhằm ngăn ngừa những chướng ngại
ấy, nên dấy lên một trăm bốn mươi nguyện,
khiến cho người tấn tu từ cái tâm Sơ Tín, Lư
Sự viên dung, thấu đạt bản thể của
Nguyện, trí căn bản nơi tự tâm thanh tịnh chẳng
thiếu sót, huệ chọn lựa hay khéo, động và tịch
đều chân thật, chẳng tu lệch lạc vậy).
Chúng ta xem đến chỗ
này. Phàm và thánh vốn chẳng hai, Lư và Sự như một.
Trong các kinh Đại Thừa, đức
Phật đă vô số lần nói đến chuyện này.
Chúng ta ắt cần phải nhận biết từ chỗ
này! Mọi người, hết thảy chúng sanh vốn là Phật,
v́ sao hiện thời biến thành nông nỗi này? Chúng ta thấy
t́nh huống trong lục đạo, tam đồ, địa
ngục chẳng dễ coi cho lắm, v́ sao biến
thành nông nỗi ấy? Chính là v́ bị nhiễm phải chất
độc gây nghiện! Giống như hút thuốc phiện,
[thuốc phiện] có chất gây nghiện. Chất độc
ấy chính là ǵ vậy? Tham, sân, si, mạn, nghi. Trong kinh
thường nói Tam Độc, tôi nói với quư vị
Ngũ Độc! Tam Độc là tham, sân, si, nhất định
phải thêm vào mạn và nghi. “Nghi”
(疑) là ngờ vực thánh giáo, ngờ vực
nhân quả, đáng sợ lắm! Trong quá khứ, tiên sinh Châu
An Sĩ đă nói hai câu rất hay: “Nhân nhân tín nhân quả, thiên hạ đại trị
chi đạo dă. Nhân nhân bất tín nhân quả, thiên hạ đại loạn chi đạo dă” (Ai nấy đều tin nhân quả, đó
là đạo khiến cho thiên hạ b́nh trị tột bậc.
Ai nấy chẳng tin nhân quả, đó là đường lối
dẫn đến thiên hạ đại loạn). Cụ
nói hai câu ấy rất hay, đă nói toạc sự b́nh
trị hay loạn lạc trong thế gian.
Thế gian hiện thời
đại loạn, nguyên nhân gây loạn là ǵ? Chẳng tin tưởng
nhân quả, chẳng tin tưởng giáo huấn của
thánh nhân, chẳng biết chân tướng của vũ trụ
và nhân sinh, hoàn toàn bị phiền năo quấy phá. Phiền
năo nắm quyền làm chủ, tham, sân, si, mạn, nghi nắm
quyền làm chủ, phiền phức khá lớn! Trong phẩm
kinh này, có nói sáu địa vị; sáu địa vị ấy
bao gồm Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác,
sáu địa vị ấy. Trong mỗi địa vị, có
hai mươi món phiền năo[1]. Thưa
cùng chư vị, hai mươi món ấy chính là con số
nói quy nạp! Nếu nói chi tiết, sẽ là vô lượng
vô biên, chính là “phiền năo vô tận
thệ nguyện đoạn”. Thật vậy! Vô tận
phiền năo quy nạp thành hai mươi loại. Từ Sơ
Tín cho đến Đẳng Giác, có tất cả năm
mươi mốt tầng cấp, Phật pháp nói đến
địa vị, trong mỗi địa vị, đều
là vô lượng vô biên phiền năo. Tuy nhiên, tiến cao
hơn, phiền năo sẽ dần dần nhẹ đi. Tuy
nhẹ, số lượng vẫn nhiều ngần ấy!
Chuyện này khó nói, nói ra khó
khăn quá, đương nhiên là nghe sẽ chẳng dễ
hiểu! V́ sao khó khăn? Chư vị phải biết: Trong
phạm vi của mười pháp giới th́ sẽ dễ
nói. [Chuyện này] thường được gọi là “h́nh nhi hạ” (形而下), tức là những
chuyện mà kiến thức thông thường của chúng
ta dễ dàng tiếp nhận, do chúng tương ứng với
thường thức nên dễ hiểu. Vượt ra ngoài
mười pháp giới, tức Nhất Chân pháp giới, sẽ
khó thể nói! Khó nói như thế nào? Ngôn ngữ dứt bặt,
tâm hạnh xứ diệt! Quư vị nói bằng cách nào?
Nhưng xét theo lẽ hướng thượng, cũng chẳng
phải là đơn giản như vậy, rất phức
tạp, xét theo lẽ hướng thượng mà! Năm
mươi mốt địa vị Bồ Tát trong Hoa Nghiêm,
chỉ có các địa vị thuộc Thập Tín là ở
trong mười pháp giới, từ Sơ Trụ trở lên,
thuộc vào Nhất Chân pháp giới. Chư vị đọc
[các tác phẩm chú sớ của các vị] Thiên Thai và Hiền
Thủ, như Thiên Thai Tứ Giáo Nghi, Hiền Thủ
Ngũ Giáo Nghi, sẽ hiểu rơ. Trong mười pháp giới,
có Nội Phàm và Ngoại Phàm[2],
đều là phàm phu, [bởi lẽ], chưa minh tâm kiến
tánh, chẳng thể gọi là thánh nhân! Minh tâm kiến tánh mới
là thánh nhân thật sự. Chưa minh tâm kiến tánh th́ gọi
là ǵ? Cũng gọi là thánh nhân, [nhưng là] “thánh nhân trong mười
pháp giới”. Phải hiểu điều này!
A La Hán là tiểu thánh; Bích Chi
Phật là trung thánh; Bồ Tát là đại thánh, đều
chẳng vượt khỏi mười pháp giới. A La
Hán đă đoạn Kiến Tư phiền năo, vượt
thoát lục đạo luân hồi v́ đă đoạn Kiến
Tư phiền năo. Nói theo Hoa Nghiêm, sẽ là “đă đoạn ư niệm chấp trước
đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian”. Chấp trước chính là Kiến Tư
phiền năo. Nếu chẳng c̣n chấp trước, sẽ
chứng quả A La Hán. Sở chứng của A La Hán là
đoạn Kiến Tư phiền năo, chẳng c̣n chấp
trước hết thảy các pháp, đoạn trừ ư niệm
chấp trước. Sự đoạn chứng của địa
vị Thất Tín Bồ Tát trong kinh Hoa Nghiêm bằng với
bậc A La Hán, nhưng trí huệ vượt trỗi A La
Hán quá nhiều, A La Hán chẳng đuổi kịp hít bụi
được, căn tánh viên đốn mà! Bích Chi Phật
cũng đoạn tập khí Kiến Tư, [xét theo] địa
vị trong Thập Tín, sẽ bằng với địa vị
Bát Tín Bồ Tát.
Địa vị Thất Tín
là A La Hán, địa vị Bát Tín là Bích Chi Phật, địa
vị Cửu Tín là Bồ Tát, viên măn Thập Tín sẽ là Phật,
[đó là] Phật trong mười pháp giới, đạt tới
bờ mé phá vô minh. Chỉ cần phá một phẩm vô minh,
vị ấy sẽ vượt thoát mười pháp giới,
[trở thành] Sơ Trụ Bồ Tát. Sơ Trụ là chân Phật,
chẳng phải là giả Phật. Phá một phẩm vô
minh, chứng một phần Pháp Thân, chúng ta thường gọi
vị ấy là Pháp Thân đại sĩ, hoặc Pháp Thân Bồ
Tát, cũng là Phật, là chân Phật, chẳng phải là giả
Phật. Địa vị này, không chỉ là chẳng có chấp
trước, mà phân biệt cũng chẳng có. Không chỉ
là phân biệt cũng chẳng có, mà khởi tâm động
niệm đều chẳng có. Sáu căn tiếp xúc cảnh
giới sáu trần, chẳng khởi tâm, không động niệm.
Chư vị hăy ngẫm xem: C̣n có pháp ǵ để có thể
nói? Ngôn ngữ dứt bặt, tâm hạnh xứ diệt! Chẳng
có pháp để có thể nói, khế nhập thanh tịnh tịch
diệt. Thanh tịnh tịch diệt là Đại Thừa
Đại Niết Bàn; nhập cảnh giới ấy, gọi
là Nhất Chân pháp giới.
Nhưng từ Sơ Trụ lại
tiến cao hơn, tức Nhị Trụ, Tam Trụ, Tứ
Trụ, cho đến Thập Trụ. Từ Thập Trụ
lại tiến cao hơn th́ có Thập Hạnh, từ Thập
Hạnh lại tiến cao hơn th́ có Thập Hồi
Hướng, từ Thập Hồi Hướng lại tiến
cao hơn th́ có Thập Địa, từ Thập Địa
lại tiến cao hơn bèn có Đẳng Giác, từ Đẳng
Giác lại tiến cao hơn là Diệu Giác, mới là viên
măn. V́ sao c̣n có nhiều giai cấp như thế? Đối
với các giai cấp nhiều ngần ấy, chẳng thể
nói là có, mà cũng chẳng thể nói là không có! Cớ sao chẳng
thể nói là có? Chẳng có dấu vết! T́m chẳng ra dấu
vết, v́ các Ngài thảy đều ĺa vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước. Trong phẩm [Như Lai]
Xuất Hiện, đức Phật đă nói rất hay: “Hết thảy chúng sanh đều
có trí huệ và đức tướng của Như Lai. Chỉ
v́ vọng tưởng, chấp trước, nên chẳng thể
chứng đắc”. “Vọng
tưởng” là khởi tâm động niệm, “chấp trước” bao gồm
phân biệt và chấp trước. Chấp trước là Kiến
Tư phiền năo, phân biệt là Trần Sa phiền năo, khởi
tâm động niệm là Vô Minh phiền năo, đều đă
đoạn, chẳng khởi tâm, không động niệm.
Cảnh giới ấy được gọi là “bất tư nghị giải
thoát cảnh giới”.
Câu “bất tư nghị” này nói hay lắm! Có tư
nghị (có suy nghĩ, bàn luận), quư vị sẽ chẳng
thể giải thoát, chẳng thể thoát ly mười pháp
giới, [v́] quư vị c̣n có tư (思, suy nghĩ),
c̣n có nghị (議, bàn luận) mà!
V́ vậy, người thoát ly mười pháp giới chẳng
có Tư, tức là chẳng có ư niệm. Đối với Nghị,
tức là chẳng có ngôn ngữ! V́ sao? Người ấy
chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước, chẳng
khởi tâm, chẳng động niệm. Đấy là nói
[nguyên nhân] v́ sao bốn mươi mốt tầng cấp ấy
đều chẳng có dấu vết; nhưng rốt cuộc
có bốn mươi mốt tầng cấp hay không? Có chứ!
V́ sao nói là có? Do tập khí phiền năo của mỗi người!
Đấy chính là như ở đây, Lư
Trưởng Giả đă nói: Thập Trụ, Thập Hạnh,
Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Thập Nhất
Địa (địa vị thứ mười một[3], tức
Đẳng Giác) c̣n có tập khí phiền năo. Phiền năo ấy
chính là tập khí phiền năo từ vô thỉ vô minh,
đều chẳng dễ đoạn. Cần phải mất
thời gian bao lâu mới có thể đoạn hết các tập
khí phiền năo ấy? Trong kinh, đức Thế Tôn thường
nói là “ba đại A-tăng-kỳ
kiếp”, sẽ chẳng c̣n tập khí phiền năo. Tu
hành trong cảnh giới ấy chẳng giống sự tu
hành của chúng ta. Chúng ta tu hành th́ phải dũng mănh, tinh tấn,
các Ngài sử dụng cách tu hành ấy sẽ chẳng đắc
lực! Tu như thế nào? Hoàn toàn tùy thuận tự nhiên,
chẳng thể có một ư niệm. Nếu dấy lên một
ư niệm, quư vị lại đọa lạc trong mười
pháp giới, do quư vị c̣n có ư niệm! Đúng như trong
Đàn Kinh, Lục Tổ Huệ Năng đại sư đă
nói: “Vốn chẳng có một
vật, chỗ nào nhuốm bụi bặm”, cảnh giới
như thế đó! Không chỉ là chẳng thể thốt
lên lời, dẫu nghĩ, cũng chẳng nghĩ nổi!
Chẳng có cách nào nghĩ được! Hễ suy tưởng
bèn rơi vào phân biệt. Nếu chẳng cẩn thận, lại
biến thành chấp trước, khó lắm! Chúng ta đọc
những kinh giáo Đại Thừa này, nhất là kinh luận
Nhất Thừa, chớ nên không biết những kiến thức
thông thường này! Không biết, sẽ sanh nghi hoặc. Hễ
nghi hoặc, sẽ trở thành chướng ngại, tham,
sân, si, mạn, nghi!
Trong giai đoạn hiện
tiền này, chúng ta không chỉ chẳng thoát khỏi mười
pháp giới, mà c̣n chẳng vượt thoát lục đạo.
Nói cách khác, chúng ta khởi tâm động niệm, phân biệt,
chấp trước, thảy đều trọn đủ,
phiền năo hiện hành, tập khí thảy đều trọn
đủ. Không chỉ là chúng ta chẳng có cách nào để
sánh bằng Pháp Thân Bồ Tát, mà ngay như Tiểu Thừa,
chẳng cần nói tới Tứ Quả La Hán, ngay cả
Sơ Quả, chúng ta cũng chẳng có cách nào sánh bằng!
Công phu đoạn chứng của Tiểu Thừa Sơ Quả
bằng địa vị Sơ Tín trong kinh Hoa Nghiêm. Đối
với Kiến Tư phiền năo, địa vị Sơ
Tín Bồ Tát trong Thập Tín đă đoạn Kiến phiền
năo, đă buông xuống, chẳng c̣n chấp trước,
nhưng chưa đoạn Tư phiền năo, chỉ đoạn
tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc thuộc tam giới.
Phật, Bồ Tát v́ đại
chúng giảng kinh, thuyết pháp, đă quy nạp những
phiền năo ấy thành năm loại lớn cho dễ nói. Đặc
biệt là đối với kẻ sơ học, loại
thứ nhất trong năm loại lớn ấy là Thân Kiến.
Chư vị hăy ngẫm xem: Cái ải này khó phá lắm!
Đối với thân, có kẻ nào chẳng chấp trước
thân là ta? Sai mất rồi! Do vậy, trong kinh Kim Cang, đức
Phật đă nói “nhược
Bồ Tát” (nếu Bồ Tát), giả sử có một vị
Bồ Tát như vậy, vị ấy c̣n có ngă tướng,
c̣n có nhân tướng, c̣n có chúng sanh tướng, c̣n có thọ
giả tướng, đức Phật nói vị ấy “tức phi Bồ Tát”, [nghĩa
là] chẳng phải là Bồ Tát! Rốt cuộc, câu ấy
nói về địa vị Bồ Tát nào? Thưa cùng chư
vị, chẳng phải là địa vị Sơ Tín Bồ
Tát trong kinh Hoa Nghiêm! V́ địa vị Sơ Tín Bồ Tát
đă phá tứ tướng, vô ngă tướng, vô nhân tướng,
vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng. Địa
vị Sơ Tín Bồ Tát đă phá tứ tướng, thật
sự nhập môn Đại Thừa, giống như lớp
Một của Đại Thừa. Năm mươi mốt
lớp chính là năm mươi mốt tầng cấp. Quư
vị vừa mới học lớp Một, là Phật tử
thật sự, chẳng giả!
Thứ nhất là phá Thân Kiến,
biết điều ǵ? Thân chẳng phải là ta; vậy
thân là ǵ? Thân là cái sở hữu của ta, giống như y
phục. Ta mặc y phục trên thân, nó là cái của ta, y phục
chẳng phải là ta! Thân chẳng phải là ta. Thân sẽ
hư hoại, có sanh, có diệt, Ngă bất sanh, bất diệt.
Y phục đă dơ bẩn, chúng ta thay ra để giặt
giũ, thay một bộ quần áo sạch
sẽ khác. Giống như thân thể này, thân thể đă hư
hoại, chẳng cần nữa, ta lại thay đổi
thân thể khác! Thay đổi thân thể trong lục đạo
luân hồi, luân hồi trong mười pháp giới cũng
là thay đổi thân thể! Thay đổi thân thể có
hai thứ sức mạnh [chi phối]: Một loại là nghiệp
lực, đúng là chính ḿnh chẳng thể làm chủ
được! Trong kinh đă nói rất thấu triệt, thiện
nghiệp dẫn dắt quư vị sanh trong ba thiện đạo,
ác nghiệp dắt quư vị sanh vào ba ác đạo, [chúng
được] gọi là “dẫn
nghiệp” (引業), [hàm
nghĩa] dẫn dắt quư vị sanh vào đường
nào! V́ thế, luân hồi đầu thai trong lục đạo
chẳng phải do Diêm Vương làm chủ tể,
cũng chẳng phải là những quỷ tốt (鬼卒, quỷ sứ làm lính hầu của
Diêm Vương) có năng lực thay đổi quư vị,
chẳng hề có! [Mà là] do chính quư vị tạo nghiệp,
nghiệp lực dẫn dắt quư vị đi về
nơi đâu. Quư vị thấy chuyện này có quan trọng
hay là không? Chuyện này chính là định luật nhân quả!
Nếu quư vị thật sự
thông đạt, hiểu rơ, sẽ biết: Con người sống
trong cơi đời, chuyện ǵ lớn nhất? Chuyện ǵ
quan trọng nhất? Một câu thôi: Nâng cao linh tánh của
chính ḿnh là điều trọng yếu. Nâng cao trí huệ và
linh tánh của chính ḿnh, trong tương lai, quư vị luân hồi
trong mười pháp giới, sẽ từng bậc tiến
cao hơn, sẽ chẳng đọa lạc xuống dưới!
Giống như chúng ta thay đổi y phục, mỗi bộ
là một bộ đồ mới, mỗi bộ đều
đẹp hơn, mỗi bộ đều trang nghiêm
hơn! Hoan hỷ lắm! Do v́ cái thân chẳng phải là ta,
trong Phật môn có một câu ngạn ngữ: “Tá giả tu
chân” (Nhờ vào cái giả để
tu cái thật). “Giả” là
ǵ? Thân là giả. Quư vị phải nhờ vào công cụ
hư giả ấy để tu chân tánh, đoạn ác, tu
thiện, quyết định chẳng c̣n luân lạc trong tam
đồ lục đạo nữa, chẳng muốn tiếp
tục nữa! Chán ghét tam đồ, chẳng mảy may
lưu luyến hai mươi tám tầng trời. V́ sao? Những
cơi ấy ngắn ngủi, tạm bợ. Phước cơi trời
tuy tốt đẹp, nhưng chẳng lâu dài! Huống hồ
sanh lên trời cũng chẳng phải chuyện dễ
dàng, đại phước báo mà! Phước báo tu hành
trong bao nhiêu kiếp đem đổi lấy phước
trong cơi trời, chẳng đáng! Người thật sự
giác ngộ, sẽ đem những công đức ấy hồi
hướng cầu sanh Tịnh Độ, đúng rồi!
Đấy là sự chọn lựa thông minh bậc nhất!
Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, chỉ có pháp môn này thành tựu
trong một đời, thành tựu ổn thỏa, thích
đáng, thành tựu rất nhanh chóng. Chớ nên không hiểu
điều này!
Trong kinh Đại Tập,
đức Thế Tôn đă dạy: “Thời kỳ Chánh Pháp, Giới Luật thành tựu.
Thời kỳ Tượng Pháp, Thiền Định thành tựu.
Thời kỳ Mạt Pháp, Tịnh Độ thành tựu”.
Chúng ta sanh nhằm thời Mạt Pháp, Mạt Pháp th́ chọn
lựa Tịnh Độ chính là tuân theo giáo huấn của
Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng chống trái, đức Phật
khuyên chúng ta tu Tịnh Độ mà! Nói đến đây, nhất
định phải biết: Tập khí phiền năo khó
đoạn! Chúng ta rất nghiêm túc nỗ lực đổ
công dốc sức, đoạn phiền năo chính là rèn luyện
công phu. Đặc biệt là rèn giũa trong hoàn cảnh nhân
sự, đối với thuận cảnh thiện duyên, chẳng
sanh tham luyến. [Trong thuận cảnh, thiện duyên], tâm
niệm, ư niệm tham luyến rất dễ tăng trưởng.
Quư vị phải biết, giống như kinh Kim Cang đă
dạy: “Phàm những ǵ có h́nh tướng
đều là hư vọng”, “hết
thảy các pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt,
bóng”, tâm quư vị chẳng bị thiện duyên thuận
cảnh lay động, đó gọi là “tu hành”, là “tu Định”,
là Thiền Định thật sự. Ta c̣n động tâm
th́ làm như thế nào? Người niệm Phật chúng ta
dùng một câu Phật hiệu. Hễ dấy lên tâm tham,
lưu luyến nó, ngay lập tức niệm một câu “Nam-mô A Di Đà Phật” để
đập tan ư niệm ấy, chẳng để cho ư niệm
ấy tiếp nối! Ư niệm ấy chính là tập khí. Tập
khí phiền năo gặp duyên, sẽ dấy lên hiện hành; chúng
ta dùng một câu Phật hiệu để chèn ép, khống
chế, ḥng chuyển biến nó. Đấy cũng là tu Thiền
Định!
Trong kinh, đức Phật
đă dạy, tức là như kinh Đại Tập đă
chép: “Niệm Phật là vô
thượng thâm diệu Thiền”. Tám vạn bốn ngàn
pháp môn, có pháp môn nào ĺa khỏi Thiền? Chẳng có! Trong phần
trước, tôi đă có nói về ư nghĩa của Thiền,
phải luôn ghi nhớ: “Ngoài chẳng
chấp tướng là Thiền, trong chẳng động
tâm là Định”. Chẳng phải là ĺa khỏi cảnh
giới, mà là ở ngay trong cảnh giới, học ǵ? Học
chẳng phân biệt, không chấp trước; trước
tiên, đổ công dốc sức ở chỗ này! C̣n
như chẳng khởi tâm, không động niệm, quá ư
là khó, chúng ta chẳng làm được, phải biết
điều này! Chẳng làm được, không cần miễn
cưỡng! Cứ thong thả, đến khi có thể ở
trong hết thảy các cảnh giới mà chẳng phân biệt,
chẳng chấp trước, sau đấy, quư vị mới
lại tu “không khởi tâm, không động niệm”. Hiện
thời, quan trọng nhất là chúng ta không chấp trước,
chẳng phân biệt. Hăy đổ công dốc sức ở
chỗ này, đó gọi là “thật sự tu, thật sự
hành”!
Nghịch cảnh, ác duyên, oán
thân trái chủ t́m đến, họ muốn t́m quư vị
gây khó dễ, ác ư hủy báng, lăng nhục quư vị, t́m các
phương cách hăm hại quư vị, trong hoàn cảnh ấy,
quư vị tu bằng cách nào? Chẳng sanh sân khuể. Ở
chỗ này, dễ sanh tâm sân khuể nhất! Chẳng sanh
sân khuể, chẳng báo thù, lại c̣n sanh tâm cảm ơn! Cảm ơn ǵ vậy? Cảm kích họ
đă đến rèn giũa ta, cảm tạ họ đến
trắc nghiệm công phu của ta, xem thử ta đạt
tiêu chuẩn hay thất bại! Ở trong cảnh giới ấy,
thật sự chẳng sanh một niệm sân khuể, Nhẫn
Nhục Ba La Mật thành tựu, có tiến bộ! Chẳng
có cảnh giới ấy hiện tiền, làm sao quư vị
biết [chính ḿnh] đă đoạn sân khuể, đoạn
ngu si hay chưa? Làm sao biết chúng mỏng nhẹ hơn?
V́ thế, cảnh giới hiện tiền, chính ḿnh biết
ngay: “Có c̣n khởi tham, sân, si hay không?” Cảnh giới hiện
tiền, chẳng khởi tham, sân, si. Chỉ cần không khởi
tham, sân, si, khẳng định sẽ là
khởi Giới, Định, Huệ, đó là chuyện
nhất định! Quư vị thấy Lục Tổ Huệ
Năng gặp ḥa thượng Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn,
ngài Huệ Năng đă thưa: “Trong
tâm đệ tử thường sanh trí huệ”. Trong tâm
Ngài sanh khởi Giới, Định, Huệ. V́ sao sanh Giới,
Định, Huệ? Ngài chẳng sanh tham, sân, si. Đấy
gọi là tu hành thật sự, công phu thật sự.
Do vậy, tu hành chẳng phải
là mỗi ngày niệm Phật bao nhiêu, lạy Phật bao nhiêu,
chẳng phải vậy! Nhưng đối với người
sơ học, nhất định phải rèn luyện từ
những phương pháp ấy. Chẳng có những
phương pháp ấy, nói thật thà, hễ cảnh giới
hiện tiền, tập khí phiền năo của quư vị chắc
chắn sẽ phát tác, quư vị chẳng thể khống chế
được, chẳng có năng lực ấy! Do vậy,
năng lực ấy vẫn phải từ tuân thủ quy củ,
rèn luyện dần dần mà thành! Chính tôi là người
đă từng trải, có kinh nghiệm: Tôi luyện ba
mươi năm, công phu mới đắc lực. “Đắc lực” là ǵ? Thuận
cảnh thiện duyên hiện tiền, có sanh tham ái hay không?
Sanh chớ! Nhưng ư niệm tham luyến vừa dấy
lên, chính ḿnh lập tức biết ngay. Niệm thứ hai,
niệm thứ ba liền dẹp yên. Một câu Phật hiệu
bèn dẹp yên; đấy là công phu đắc lực, phiền
năo chẳng dấy lên hiện hành, [phiền năo] vừa trồi
lên bèn giằn ép xuống. Gặp phải nghịch cảnh
ác duyên, có sanh phiền năo hay không? Sanh chớ! Nhưng ư niệm
sân khuể vừa dấy lên, biết ngay. Ư niệm sân khuể
vừa trồi lên, hễ nó trồi lên, ngay lập tức
dùng A Di Đà Phật để giằn nén, nó liền lặng
dứt. Rất nhanh! Mấy giây liền dẹp yên, tâm b́nh, khí
ḥa. Công phu như vậy, thưa cùng quư vị, [để
đạt được] phải mất ba mươi
năm!
Do vậy, tôi thường bảo
mọi người: - Tôi chẳng phải là hạng thượng
căn lợi trí, tôi là kẻ căn tánh trung hạ. Hằng
ngày đọc kinh, hằng ngày giảng kinh. Giảng suốt
hai, ba mươi năm, mới có thể chắc chắn dẹp
yên [các vọng niệm] trong ṿng một giây, thân người
khôi phục b́nh thường, tâm b́nh khí ḥa. Sau mười
năm bèn [trở thành] tự nhiên, hễ cảnh giới
hiện tiền, có dấy ư niệm hay không? Không! Tốn bốn
mươi năm công phu đấy nhé! Tôi học Phật
đến nay là năm mươi bốn năm! Hằng
ngày hành, nghiêm túc hành, nỗ lực hành, mới đạt
hiệu quả ấy! Nếu bản thân quư vị chẳng
nghiêm túc, không nỗ lực, quư vị c̣n có những mong cầu
viễn vông, c̣n có những chuyện mong mỏi, khó lắm!
Suốt một đời này, quư vị chẳng thể khống
chế tập khí phiền năo của ḿnh. Do vậy, phải
thật sự hành. Điều kiện cơ sở là
được thầy dạy dỗ, thấy thấu suốt,
buông xuống. Buông xuống tự tư tự lợi, buông
xuống tiếng tăm, lợi dưỡng, buông xuống
sự hưởng thụ ngũ dục lục trần, buông
xuống tham, sân, si, mạn. Đấy là điều kiện
cơ bản, tôi thường nói mười sáu chữ ấy.
Mười sáu chữ ấy chính là cửa ải đầu
tiên. Chẳng thể đột phá cửa ải ấy, sẽ
vĩnh viễn đứng ở bên ngoài, chẳng vào
được cửa Phật! Đối với mười
sáu chữ ấy, quư vị thảy đều buông xuống,
chúc mừng quư vị, đă nhập Phật môn.
Nhập Phật môn, cảnh
giới hiện tiền, thật sự chẳng có phân biệt,
chẳng có chấp trước. Để được
là người như vậy, tôi phải mất ba
mươi năm. Đương nhiên là có người thiện
căn sâu dầy hơn tôi, họ có thể tốn thời
gian ngắn hơn. Lục Tổ Huệ Năng đúng là chúng
ta đuổi theo hít bụi chẳng kịp, Ngài hai
mươi bốn tuổi bèn thật sự chẳng khởi
tâm, không động niệm. Nay tôi phải tốn đến
năm mươi bốn năm, vẫn chưa được!
Nay tôi chỉ có thể buông xuống phân biệt, chấp
trước, chứ đối với vọng tưởng,
chẳng có một tí biện pháp nào hết! Có nghĩa là: Hễ
sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, sẽ khởi
tâm động niệm. Do vậy, tôi đọc mấy câu
kinh văn này, cảm khái rất sâu, biết tập khí phiền
năo chẳng dễ đoạn, nhưng không thể nào chẳng
đoạn! Nếu quư vị chẳng đoạn, sẽ
chẳng nắm chắc văng sanh, [bởi lẽ] tâm hạnh
của quư vị chẳng tương ứng với giáo huấn
trong kinh! Thân, tâm, thế giới, ắt cần phải
đều buông xuống!
Tuy hiện thời có những
vị trưởng giả, cư sĩ hết sức nhiệt
tâm muốn làm các thiện sự, tôi giúp họ làm, chẳng
thể không đeo một danh xưng nào! Chuyện này có trở
ngại cho sự tu hành của tôi hay không? Thưa cùng
chư vị, chẳng gây trở ngại. Đối với
Sự th́ tôi làm, nhưng trong tâm chẳng có dấu vết! “Làm mà không làm, không làm mà làm” chẳng
phải là chuyện dễ dàng, như vậy th́ quư vị mới
chẳng có chướng ngại. Kinh Hoa Nghiêm nói:“Lư Sự vô ngại, Sự Sự
vô ngại”. Chỉ cần quư vị c̣n có cái tôi, có ư niệm
ích kỷ, quư vị sẽ chẳng tự tại, sẽ sanh
phiền năo. Tham, sân, si, mạn, nghi thảy đều hiện
tiền, c̣n làm sao được nữa? Đấy là sự
thật, rất nhiều người thảy đều
có, làm như thế nào? Tôi nói cho quư vị biết một
phương pháp: Hằng ngày nghe kinh, hằng ngày niệm Phật.
Nghe kinh, đọc kinh, niệm Phật, chính là một tấm
lưới bảo hộ hết sức tốt. Quư vị
một ngày chẳng nghe kinh, một ngày không đọc kinh,
không niệm Phật, sẽ chẳng có tấm lưới
bảo hộ ấy, hễ tiếp xúc cảnh giới bên
ngoài, làm sao có thể chẳng sanh phiền năo? Chẳng thể
nào! Phải biết: Sanh phiền năo là ngày càng đọa lạc.
Quư vị nói xem: Chuyện này có đáng sợ lắm hay
không? Cổ nhân đă bảo: “Tam
nhật bất độc thánh hiền thư, diện mục
khả tắng” (Ba ngày chẳng đọc sách thánh hiền,
mặt mũi đáng ghét). Người hiện tại không
được! [Chỉ cần] một ngày chẳng đọc
sách thánh hiền, diện mạo hoàn toàn sai trái!
Nghe kinh, không nhất định
phải ở hiện trường. Hiện thời, chúng
ta dùng những công cụ khoa học kỹ thuật cao cấp,
bất luận ở nơi đâu, chúng tôi có trang nhà trên Internet,
có vệ tinh. Vệ tinh và mạng Internet nối kết, từ
các trang nhà của Intertmet có thể xem [các chương tŕnh
truyền h́nh] vệ tinh, thuận tiện lắm! Hy vọng
mọi người phải khéo tận dụng! Một
người nghe tốt lắm, người một nhà cùng
nghe, càng tốt hơn! Khi mới học, có thể lấy
việc nghe kinh làm công khóa sáng tối. Công khóa sáng tối hết
sức quan trọng: Sáng sớm nhằm nhắc nhở
chính ḿnh một lần, buổi tối là một lần phản
tỉnh. Nhưng thường là công khóa sáng tối chỉ
c̣n có h́nh thức; v́ là h́nh thức, [cho nên] “miệng có, tâm không”, có đạt được
lợi ích chân thật hay không? Rất khó!
Quan sát lợi ích chân thật
từ chỗ nào? Cổ nhân nói hai câu: “Phiền năo nhẹ, trí huệ tăng trưởng”.
Đấy là lợi ích chân thật. Quư vị hăy ngẫm
xem: So sánh giữa ngày hôm qua và ngày hôm nay, có phải là hôm nay phiền
năo nhẹ hơn hôm qua hay không? Có phải là hôm nay trí huệ
tăng trưởng hơn hôm qua hay không? Hăy từ chỗ
này để khảo sát công phu và hiệu quả tu hành của
quư vị, quư vị mới có thể thấy được!
Quyết chẳng phải là cầu phước báo trong thế
gian; thăng quan, phát tài, chẳng liên can chi hết. Những
điều đó [có sẵn] trong mạng của quư vị.
Trong vận mạng của quư vị, khi nào đáng nên
thăng quan, lúc đó sẽ thăng quan. Khi nào đáng nên
phát tài, khi ấy sẽ phát tài. Trong ấy, hằng ngày có sự
cộng, trừ, nhân, chia, [là v́] có liên quan đến chuyện
đoạn ác tu thiện của chính ḿnh. Đó là chuyện
thế gian; chẳng phải là Phật pháp. Phật pháp thật
sự dạy quư vị đoạn phiền năo, khai trí huệ.
Sau khi đă khai trí huệ, quư vị sẽ chẳng làm chuyện
sai lầm, chẳng tạo ác nghiệp. Kẻ chẳng có
trí huệ, rất dễ tạo ác nghiệp! V́ thế, thứ
quư báu là ǵ? Trí huệ là của báu. Đức Phật nói
tam đức bí tạng, thứ nhất là trí huệ Bát Nhă
vốn có sẵn trong tự tánh, phải biết điều
này!
Phiền năo có số lượng
nhiều ngần ấy, quư vị hăy xem Bồ Tát dùng
phương pháp ǵ để đối trị? Dấy lên
một trăm bốn mươi nguyện, tức là một
trăm bốn mươi mốt bài kệ tụng
được nói trong phẩm này. Những bài kệ tụng
ấy thuộc loại “tứ
ngôn tụng”, [tức là] mỗi câu gồm có bốn chữ.
Mỗi bài kệ gồm có mười sáu chữ. Có khi một
bài kệ nói một chuyện, có lúc trong một bài kệ nói
tới hai chuyện, cũng có khi hai hoặc ba bài kệ nói
về cùng một chuyện, không nhất định. Những
chuyện ấy đều là các điều thường
thức trong kinh Phật, tu Phổ Hiền Hạnh. Phải
ghi nhớ, thông thuộc một trăm bốn mươi mốt
bài kệ ấy, giống như hiện thời chúng ta học
Đệ Tử Quy. Đệ Tử Quy có tất cả ba
trăm sáu mươi câu, các câu dài hay ngắn khác nhau, chúng
ta quy nạp lại, sẽ là bảy điều
cương lănh. Mỗi cương lănh nhiều th́ là hai
mươi bốn điều mục, ít th́ là bốn điều,
nhiều hay ít khác nhau. Đấy chính là những điều
ắt cần phải tuân thủ để mọi người
học thành một người tốt. Một trăm bốn
mươi mốt nguyện ấy chính là những điều
phải thi hành để làm Bồ Tát. Nếu chẳng thi
hành, sẽ chẳng phải là Bồ Tát. Nay đă hết thời
gian rồi, chúng ta nghỉ ngơi mấy phút.
**
Chư vị pháp sư, chư
vị đồng học, xin mời ngồi xuống! Xin
xem phần kinh văn tiếp theo:
(Luận) Vị pḥng thử
chướng, khởi nhất bách tứ thập nguyện,
linh tấn tu giả, tùng sơ tín tâm, Lư Sự viên dung,
đạt kỳ nguyện thể.
(論)為防此障,起一百四十願,令進修者,從初信心,理事圓融,達其願體。
(Luận:
Nhằm ngăn ngừa những chướng này, dấy
lên một trăm bốn mươi nguyện, khiến cho
người tấn tu từ sơ tín tâm, Lư Sự viên dung, thấu
đạt cái Thể của các nguyện ấy).
Mấy câu này hết sức quan
trọng. Chúng ta phải đặc biệt chú ư, từ
Sơ Tín Tâm, cũng có nghĩa là khi nào bắt đầu học
Phổ Hiền Hạnh? Xác thực là Sơ Tín trong Thập
Tín Bồ Tát, chẳng giống Tu Đà Hoàn. Tu Đà Hoàn
đoạn tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong
tam giới. Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến,
Giới Thủ Kiến, và Tà Kiến là năm loại lớn,
tổng cộng gồm tám mươi tám phẩm, đều
đoạn hết sạch. Năm loại lớn ấy,
nói theo kiểu bây giờ, chính là kiến giải sai lầm,
vị ấy đă đoạn. Cũng có nghĩa là kiến
giải của bậc Tu Đà Hoàn là chánh xác, chẳng có vấn
đề! Nhưng trong tư tưởng của bậc Tu
Đà Hoàn c̣n có sai lầm, chưa đoạn Tư Hoặc.
Tư Hoặc trong tam giới gồm tám mươi mốt
phẩm. Sau khi đă đoạn Tư Hoặc, vị ấy
liền chứng quả A La Hán, sẽ từ địa vị
Sơ Tín đạt đến địa vị Thất
Tín. Thất Tín tương đương với A La Hán,
công phu đoạn chứng tương đương với
A La Hán. V́ thế, địa vị Sơ Tín Bồ Tát trong
kinh Hoa Nghiêm phải tu một trăm bốn mươi mốt
nguyện.
Chúng ta học đến chỗ
này, tự nhiên sẽ dấy ḷng cảm khái, sẽ sanh khởi
cái tâm hổ thẹn: Chúng ta chẳng làm được!
Nguyên nhân không làm được, tôi đă nói rất nhiều
lượt, chúng ta chẳng thể thực hiện tốt
đẹp Thập Thiện! Thập Thiện là Đại
Thừa Phật pháp. Thanh Văn Phật pháp, Duyên Giác Phật
pháp, cho đến căn bản là thiện pháp nhân thiên, nếu
chẳng có Thập Thiện, sẽ chẳng phải là một
thiện nhân. Nguyên tắc chỉ đạo tu hành cao nhất
trong Tịnh Tông chính là Tịnh Nghiệp Tam Phước.
Điều thứ nhất trong Tịnh Nghiệp Tam Phước
gồm bốn câu: “Hiếu
dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng,
từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp”.
Điều đầu tiên là tu Thập Thiện. V́ sao hiện
thời hàng tại gia, xuất gia ngay cả Thập Thiện
cũng làm chẳng được? Do nguyên nhân ǵ? Do chúng ta đă
đánh mất gia giáo. Phải biết căn bản trong nền
giáo dục của cổ thánh tiên hiền chính là gia giáo.
Đối với gia giáo, cha
mẹ trong nhà, người lớn đối với trẻ
nhỏ, trẻ c̣n thơ bé, chưa phải là rất lớn.
Quư vị thấy cổ nhân bảo: “Giáo nhi anh hài” (Dạy con từ thuở c̣n
thơ), chúng ta nói đến “trẻ thơ”, “giáo phụ sơ lai” (dạy
vợ từ thuở ban sơ mới về). Dạy con từ
thuở c̣n thơ, bắt đầu dạy từ ngày nào?
Từ lúc trẻ thơ được sanh ra ba bốn ngày đă
bắt đầu [dạy dỗ]. Nó vừa mở mắt
ra bèn có thể nh́n, tai dựng cao lên, có thể nghe
được rồi. Tuy nó vẫn chưa biết nói,
chưa phát triển hoàn toàn, nhưng nó có thể thấy, có
thể nghe. Phật pháp nói là [những ǵ trẻ thấy
nghe khi ấy] sẽ tạo thành chủng tử trong A Lại
Da Thức, đúng như cổ nhân đă nói: “Thiếu nhược thành thiên
tánh, tập quán thành tự nhiên” (Vun bồi từ bé sẽ
giống như là bẩm sinh, do thói quen mà thành tự nhiên).
V́ thế, kể từ lúc được sanh ra hai ba ngày cho
đến ba tuổi, trong ba năm ấy, trẻ
được vun bồi căn cội ổn thỏa. Trẻ
nhỏ ba tuổi cũng rất hiểu chuyện, c̣n có
năng lực phân biệt thị phi, thiện ác, nó có năng
lực ấy. Trong nhà, cha mẹ, người lớn dạy
nó những ǵ? Luân thường, đạo đức, chẳng
phải là nói cho nó nghe. [Nó nghe sẽ] chẳng hiểu, mà là
làm cho nó thấy, thân giáo mà! Đấy là [lư do v́ sao] hiện
thời chúng tôi đề xướng Đệ Tử Quy.
Đệ Tử Quy chẳng phải
là sách giáo khoa để dạy nhi đồng, chẳng phải
vậy, mà là kẻ làm cha mẹ nêu gương tốt, [thật
sự] làm cho trẻ thơ trông thấy. Để cho nó
trông thấy suốt ba, bốn năm, nó sẽ hiểu rơ,
tự nhiên ngôn, hạnh, cử chỉ sẽ làm theo Đệ
Tử Quy. Xem hiểu, nghe hiểu, c̣n chưa biết chữ,
nhưng khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo
tác, chẳng có ǵ không hợp quy củ. Chúng ta chẳng tiếp
nhận sự giáo dục ấy, do chúng ta sanh nhằm thời
đại động loạn, xă hội chẳng an định,
truyền thống gia giáo bị bỏ sót. V́ thế, tạo
thành t́nh cảnh khốn đốn trong hiện thời.
Chúng ta học Phật, Tam Quy
chẳng làm được, Ngũ Giới chẳng làm
được, Thập Thiện chẳng làm được,
[tức là] học Phật chẳng chân thật! Chư vị
phải hiểu: Chẳng có giới luật, sẽ chẳng
có Phật pháp. Chẳng có lễ nghi, sẽ chẳng có giáo
dục truyền thống, sẽ chẳng có Nho. Quư vị
nói xem: Quan trọng như thế đó! Học tập kinh
giáo, đàm huyền thuyết diệu (bàn luận những
chuyện cao siêu, huyền diệu) chẳng có ích chi cả!
Khởi tâm động niệm vẫn là tạo nghiệp,
vẫn tạo tội, có tác dụng ǵ đâu? Càng nghĩ,
càng thấy vấn đề này nghiêm trọng; do đó, chẳng
thể không quay lại học từ đầu. Bản
thân chúng ta nhất định phải đ̣i hỏi chính
ḿnh thực hiện Đệ Tử Quy, thực hành Thập
Thiện Nghiệp Đạo, thực hiện Sa Di Luật
Nghi; sau đấy, [thực hiện] một trăm bốn
mươi mốt nguyện sẽ chẳng khó! Nếu
không, chúng ta chỉ đọc một trăm bốn
mươi mốt nguyện, chứ vẫn chẳng làm
được, dẫu một điều cũng làm chẳng
được! Tâm hạnh của chúng ta làm sao có thể
tương ứng Phổ Hiền Bồ Tát cho được?
Trong Nhất Thừa giáo, vị thầy lănh đạo chúng
ta là hai ngài Văn Thù và Phổ Hiền. Văn Thù là Thập
Ba La Mật; Phổ Hiền là mười đại nguyện
vương. Thập Ba La Mật và mười đại
nguyện vương được thực hiện ở
chỗ này, tức là một trăm bốn mươi mốt
nguyện.
“Lư
Sự viên dung, đạt kỳ nguyện thể” (Lư Sự
viên dung, thấu đạt cái Thể của các nguyện ấy):
Nguyện thể (願體, bản thể
của các nguyện) là tự tánh, là Tánh Đức.
(Luận) Vô khuy tự tâm căn bản
tịnh trí.
(論)無虧自心根本淨智。
(Luận:
Trí căn bản nơi tự tâm thanh tịnh chẳng thiếu
sót).
“Căn bản tịnh trí” là Căn Bản
Trí, là trí huệ Bát Nhă vốn sẵn có trong tự tánh, chẳng
có mảy may ô nhiễm. Chư vị phải biết: Chấp
trước là ô nhiễm, phân biệt là ô nhiễm, khởi
tâm động niệm vẫn là ô nhiễm, chỉ là [nếu
so sánh] th́ thứ này nhẹ hơn thứ kia. Trong kinh Thập
Thiện Nghiệp Đạo, đức Phật đă dạy:
“Bất dung hào phân bất thiện
giáp tạp” (Chẳng để cho mảy may bất thiện
xen tạp). Khi tôi giảng kinh, bèn nói theo nghĩa rộng bằng
câu: “Bất dung hào phân bất tịnh
giáp tạp” (Chẳng để cho mảy may bất tịnh
xen tạp). Tâm quư vị là thanh tịnh, tâm quư vị là thuần
thiện. Cổ nhân Trung Hoa nói: “Nhân
chi sơ, tánh bổn thiện” (Con người thoạt
đầu tánh vốn lành). “Bổn
thiện” là Tánh Đức, chẳng để cho mảy
may bất thiện xen tạp. Căn Bản Trí là tịnh
trí, chẳng để cho mảy may bất tịnh xen tạp.
Như vậy th́ mới thật sự là “vô khuy tự tâm căn bản tịnh trí”.
(Luận) Diệu trạch chi huệ.
(論)妙擇之慧。
(Luận: Huệ chọn lựa
hay khéo).
Được
biểu thị bởi Văn Thù Bồ Tát. Quan trọng là
chữ Diệu. “Trạch” (擇) là “trạch pháp” (擇法, chọn lựa pháp), chính là
căn bản tịnh trí khởi tác dụng. “Diệu” (妙) là thiện xảo,
tức phương tiện thiện xảo! Trong hoàn cảnh
khác nhau, trong thời tiết nhân duyên khác nhau, [đối với]
đối tượng chúng sanh bất đồng, đều
có thể vận dụng linh hoạt hết sức thỏa
đáng, đó là “diệu trạch
chi huệ”. “Thiện xảo
phương tiện” là thuật
ngữ trong Phật môn, [hàm nghĩa] có thể làm cho chúng
sanh giác ngộ trong hiện tiền, đạt được
lợi ích trong hiện tiền.
(Luận) Động tịch câu chân,
bất thiên tu cố.
(論)動寂俱真,不偏修故。
(Luận:
V́ động và tịch đều thật, chẳng tu hành
lệch lạc).
Bất luận động
hay tĩnh, đều là chân thật, quyết định
chẳng có hư vọng. “Chân
thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi”. Hiện
thời, quốc gia đề xướng xă hội hài ḥa,
chúng tôi sửa đổi hai chữ trong hai mươi chữ
ấy cho phù hợp. Mười chữ trong vế trên của
câu đối chính là tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm b́nh
đẳng, tâm chánh giác, tâm từ bi, [tức là] “động tịnh câu chân” (động
và tịnh đều thật). Vế dưới là “khán phá, phóng hạ, tự tại,
tùy duyên” (nh́n thấu, buông xuống, tự tại, tùy
duyên), sửa hai chữ cuối cùng (“niệm Phật”) thành “ḥa
hài” (和諧), gọi là “xă hội hài ḥa”, đấy
chính là điều thông dụng đối với đại
chúng. Trong Tịnh Độ Tông của Phật môn, niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ. “Động tịch câu chân, bất thiên tu cố”
(V́ động và tịnh đều thật, nên chẳng tu
hành lệch lạc): Trong Phật pháp có pháp thế gian,
đổi niệm Phật thành “ḥa
hài”, tức là pháp thế gian. Pháp thế gian và xuất
thế gian chẳng hai, đấy là “diệu trạch chi huệ” (huệ chọn lựa
hay khéo)!
(Luận) Thị cố Hoa Tạng
thế giới, hữu như Tu Di sơn vi trần số
phong luân sở tŕ, kỳ thượng nhất thiết
trang nghiêm, nhân đại nguyện phong luân, năng tŕ vạn
hạnh, dĩ hạnh chiêu quả cố. Nhân dĩ nguyện
lực kiên tŕ, báo đắc phong luân tŕ sát cố.
(論)是故華藏世界,有如須彌山微塵數風輪所持。其上一切莊嚴,因大願風輪,能持萬行,以行招果故。因以願力堅持,報得風輪持剎故。
(Luận: Do vậy, thế giới
Hoa Tạng có phong luân số nhiều như số vi trần
trong núi Tu Di duy tŕ. Hết thảy các sự trang nghiêm trên ấy
do đại nguyện phong luân có thể ǵn giữ muôn hạnh,
v́ dùng hạnh để chiêu vời quả. Do dùng nguyện
lực để giữ vững, nên cảm quả báo là
phong luân duy tŕ cơi nước).
Đoạn này nói rất hay.
Đấy chính là vật lư vũ trụ đang được
nói trong hiện thời, thuộc ngành khoa học tiên phong hiện
thời. Thế giới Hoa Tạng có thể tồn tại
liên tục không gián đoạn, dựa vào đâu? Do
được phong luân duy tŕ. “Phong”
là động, “luân” (輪) là h́nh tṛn.
Chư vị hăy ngẫm xem, hiện thời mọi người
đều biết: Địa cầu vận hành trong vũ
trụ, tự xoay quanh nó một ṿng hết hai mươi bốn
tiếng đồng hồ, xoay quanh mặt trời một
ṿng mất một năm ba trăm sáu mươi lăm
ngày. Quư vị thấy những tinh cầu ấy có phải
là đều đang chuyển động hay không? “Phong” là động, chúng ta nói
là “vận động”. Quỹ đạo của nó là tṛn,
chẳng vuông, [nên gọi là] “luân”,
[thế giới Hoa Tạng] do phong luân duy tŕ.
“Hữu
như Tu Di sơn vi trần số phong luân sở tŕ” (Được
duy tŕ bởi các phong luân số nhiều như số vi trần
trong núi Tu Di). Hiện thời, nói chuyện này dễ lắm.
V́ thế, chúng ta chẳng thể nào không bội phục các
vị đại đức thời cổ, rất nhiều
thứ mà các nhà khoa học c̣n chưa phát hiện, làm thế
nào các Ngài có thể nói viên dung như vậy? Chẳng thể
không khiến cho kẻ khác bội phục! Nay chúng ta có không
ít thường thức về phương diện thiên
văn vũ trụ, cho nên đọc kinh Hoa Nghiêm sẽ thấy
dễ dàng, [bởi lẽ, những điều kinh dạy]
chẳng khác [những ǵ đă được] các nhà khoa học
đă phát hiện. Thế giới được hợp
thành như thế nào? Nay mọi người đều biết:
Tùy tiện lấy bất cứ vật chất nào trên
địa cầu, nh́n dưới kính hiển vi có độ
phóng đại cực mạnh của các nhà khoa học, sẽ
thấy [vật chất do] các phân tử [hợp thành]. Phân
tử lại tách ra thành nguyên tử. Nguyên tử lại
tách ra thành điện tử, thành các hạt (lạp tử).
Nếu lại chia nhỏ hơn, sẽ thành cái hiện thời
gọi là khoa-khắc (quark, hạt vi lượng), tức là
hạt cơ bản. Đó là vật chất. Nhục nhăn của
chúng ta không trông thấy vật chất cơ bản. Các nhà
khoa học biết có thứ ấy, nhưng cũng chẳng
thấy. Công cụ khoa học [trong hiện thời] vẫn
chưa được, chưa đủ tinh tế!
Ví như mấy năm
trước, trong một bài luận văn phát biểu của
tổng cục không gian Hoa Kỳ có nói: Vật chất là “vô trung sanh hữu” (từ
trong không sanh ra có). Vũ trụ có nguyên điểm (原點, điểm
xuất phát, điểm khởi đầu), đó là vật
chất nhỏ nhất. Nguyên điểm của vũ trụ
to cỡ nào? Bản báo cáo ấy viết rất rơ ràng, tôi
chẳng nhớ được con số, chỉ nhớ
được một tỷ dụ trong ấy. Dùng tóc của
chúng ta, tóc của loài người, một sợi tóc. Cắt
ngang sợi tóc ấy, nơi chỗ bị cắt, sẽ
có một b́nh diện (平面, mặt cắt
ngang sợi tóc). Do sợi tóc có h́nh trụ, [mặt cắt
sẽ] là h́nh tṛn, sẽ có đường kính. Đối
với đường kính ấy, nơi chỗ nhỏ
nhoi ngần ấy của sợi tóc, trên đường
kính đó, có thể sắp bao nhiêu nguyên điểm của
vũ trụ? Sau con số một trăm vạn là ba chữ
Ức, tức là một trăm vạn ức ức ức
nguyên điểm! Đấy là vật chất, vật chất
nhỏ nhất đấy nhé! Vật chất là động,
chẳng phải là tĩnh! Trong vũ trụ, chỉ cần
là vật chất, sẽ chẳng tĩnh lặng, mà thảy
đều đang chuyển động.
Do vậy, nhà Phật nói tới
Tứ Đại. Tứ Đại chính là các tánh chất của
vật chất. Vật chất dẫu nhỏ đến mấy,
hiện thời nói tới Lượng Tử Lực Học
(Quantum Mechanics) là nói đến [vật chất] nhỏ nhất.
Vật chất dẫu nhỏ đến mấy, đều
có bốn hiện tượng. Hiện tượng thứ
nhất là nó có thể tích, dẫu nhỏ nhoi cách nào đi nữa,
xác thực là có một thứ ǵ đó tồn tại. Thứ
ấy tích điện, tích điện Âm, hoặc điện
Dương. Phật pháp gọi vật chất là Địa
Đại, “Địa” là vật
chất, dùng chữ này để biểu thị vật chất.
Nó chứa điện Dương th́ nhà Phật gọi là Hỏa
Đại, chứa điện Dương. Nó chứa
điện Âm, Phật môn gọi nó là Thủy Đại. “Thủy” là điện Âm, nó
tích điện. Sau đấy, nó chuyển động, chẳng
phải là tĩnh lặng, động th́ gọi là Phong
Đại. V́ thế, Địa, Thủy, Hỏa, Phong nhằm
h́nh dung bốn loại hiện tượng của vật
chất rất nhỏ (vật chất cơ bản).
Hiện thời, “Tứ Đại giai không” (Tứ
Đại đều là không) đă được chứng
minh. Vật chất là “từ trong không, sanh ra có”, Tuy là từ
trong không sanh ra có, sanh ra những vật chất ấy,
nhưng trong thời gian rất ngắn, nó lại bị
tiêu diệt. Tiêu diệt rồi, nó lại xuất hiện.
V́ thế, hết thảy các hiện tượng mà chúng ta
trông thấy trong vũ trụ là “tướng
tương tục” (tướng nối tiếp liên tục).
Chân tướng là ǵ? Chân tướng là nó sanh diệt trong
từng sát-na. Giảng kinh Hoa Nghiêm, trong các phần trước,
chúng tôi đă nói [chuyện này] mấy lần, nói rất cặn
kẽ. Tôi nhớ đă có lần, chúng tôi dùng đến bảy
tám tiếng đồng hồ để nói về vấn
đề này. Do vậy, trong kinh Hoa Nghiêm có khoa học tiên phong. Câu nói này hoàn toàn giống như
điều đă được phát hiện bởi khoa học
trong hiện thời. Quư vị thấy kinh Phật nói
đơn giản như thế đó, một câu thôi nhé: “Hữu như Tu Di sơn vi trần
số phong luân sở tŕ”. Báo cáo khoa học hiện thời
dài đến mấy vạn chữ, báo cáo chi tiết; trong
kinh Phật [chỉ gói gọn] trong một câu nói. Sau khi quư
vị đă xem bản báo cáo mấy vạn chữ, đối
với câu này trong kinh Phật bèn hiểu ngay, hoàn toàn hiểu
rơ!
Hiện thời, địa
cầu tồn tại như thế nào? Thái Dương Hệ
tồn tại như thế nào? Hệ Ngân Hà tồn tại
như thế nào? Hệ Ngân Hà cũng là động, nhất
định sẽ xoay ṿng quanh một tinh
hệ to hơn nữa! Hiện thời, chúng ta chưa phát
hiện. Trong phẩm Hoa Tạng Thế Giới và Thế
Giới Thành Tựu của kinh Hoa Nghiêm thuộc phần
trước, đă nói về chuyện này, nói về
chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. Vũ trụ
do đâu mà có? Do nguyên nhân nào mà có? Sanh mạng do đâu mà có?
Chỉ có Phật pháp trả lời thấu triệt những
vấn đề ấy, nói minh bạch, cao minh hơn các
nhà khoa học hiện thời. V́ thế, chúng tôi hết sức
cảm thán: Các nhà khoa học chẳng có cơ duyên tiếp
xúc kinh điển Phật giáo. Nếu họ được
tiếp xúc, thật sự tiếp xúc, tôi tin rằng, họ
sẽ t́m thấy rất nhiều khải thị, sẽ có
nhiều phát hiện hơn, sẽ có các giải thích càng hay
hơn!
Lại xem câu trọng yếu
kế tiếp đó! “Kỳ
thượng nhất thiết trang nghiêm, nhân đại nguyện
phong luân, năng tŕ vạn hạnh, dĩ hạnh chiêu quả
cố” (Hết thảy các sự trang nghiêm trên đó, do
đại nguyện phong luân có thể tŕ vạn hạnh,
dùng hạnh để chiêu cảm quả). Câu nói này khá quan
trọng! Thế giới, tinh cầu là thế giới, vô
lượng vô biên. Trong mỗi tinh cầu đều có
chúng sanh, tuyệt đối chẳng phải là nói chúng ta
dùng phi thuyền đáp xuống mặt trăng, hoặc
đổ bộ Hỏa Tinh, phát hiện nơi đó chẳng
có sinh vật, chẳng có ai hết! Chuyện này nói theo Phật
pháp sẽ chẳng thông. Nhất định là trước
hết phải có người, sau đấy mới có thế
giới. Thế giới và con người đồng thời
phát sanh, có trước sau, nhưng tốc độ quá
nhanh, chúng ta chẳng có cách nào tưởng tượng thứ
tự trước sau ấy, quá nhanh chóng! Chẳng phải
là không có trước sau! Có trước sau, nhưng tốc
độ quá nhanh. Đối với kinh điển của
Pháp Tướng Duy Thức, kinh Hoa Nghiêm là một trong sáu
kinh [căn bản của tông Duy Thức]. Tông ấy có sáu
kinh và mười một luận [để làm cơ sở
lư luận cho các giáo thuyết của tông]. Kinh Hoa Nghiêm là một
bộ trong ấy, nói về vũ trụ, nói về sanh mạng,
nói về những chân tướng sự thật ấy. Mỗi
tinh cầu có chiều không gian chẳng giống như [thế
giới của] chúng ta. Do vậy, trong ấy có những
chúng sanh, chúng ta chẳng thấy họ, mà họ cũng chẳng
thấy chúng ta, giống như ǵ? Giống như chúng ta xem
các băng tần (channel) truyền h́nh vậy. Có rất nhiều
băng tần khác nhau. Chúng ta chọn băng tần này,
h́nh ảnh thuộc băng tần này hiện ra, chẳng
có h́nh ảnh của các băng tần khác, chúng ẩn mất.
Chúng ta lại chọn một băng tần khác, h́nh ảnh
thuộc băng tần khác sẽ hiện ra, các h́nh ảnh
thuộc băng tần này lại chẳng c̣n thấy nữa.
Những thứ ấy thật sự có, chẳng phải
là không có. Trên địa cầu của chúng ta cũng đă
từng phát sanh chuyện ấy.
Tuần trước, có một
đồng tu đă hạ tải (download) từ Internet một
câu chuyện được giới khoa học phát hiện.
Chuyện ấy chẳng xảy ra trong hiện thời, mà
là chuyện phát sanh không lâu sau Đệ Nhị Thế Chiến.
Chuyện kể rằng: Có một chiếc máy bay chở
hơn năm mươi hành khách, bỗng dưng bay tới
một chiều không gian khác! Rất may mắn, nó lại trở
về. Sau khi trở về, đáp xuống một phi
trường. Sau khi hạ cánh, mọi người cảm
thấy rất ngỡ ngàng: “Chúng ta chẳng đến chỗ
này, v́ sao lại đáp xuống nơi đây?” Lại hỏi
về thời gian của chuyến bay, tra mă số chuyến
bay, đúng vậy, chẳng sai, ba mươi lăm năm
trước có một chiếc phi cơ chở khách như
thế bị mất tích. Bỗng nhiên nó đáp xuống, họ
chẳng có cảm giác lâu lắc chi cả, từ chỗ
kia bay tới chỗ này, chỉ là bay sai phương hướng.
Sau khi đáp xuống, mới biết trong thế gian này
đă hơn ba mươi năm trôi qua! Do mọi người
đều cho rằng chiếc máy bay ấy đă gặp nạn,
tiền bảo hiểm đă đều đền bù cả
rồi. Họ đều quay về gặp người nhà
của chính ḿnh, chính họ chẳng già nua, giống như
mới lên máy bay ngày hôm qua, hôm nay quay về, người nhà
đều già khọm cả rồi! Đấy là chuyện
phát sanh trên địa cầu, là thật, chẳng giả!
Chiều không gian khác nhau, thời gian sai biệt lớn ngần
ấy, khoa học chẳng có cách nào giải thích!
Do vậy, chúng tôi tin tưởng:
Mỗi tinh cầu, bất luận là đại tinh cầu
hay tiểu tinh cầu, thảy đều có chúng sanh đang
sống trong ấy. V́ “y báo chuyển
theo chánh báo”, “hết thảy
các pháp sanh từ tâm tưởng”. V́ vậy, thế giới
Hoa Tạng là đạo tràng của Tỳ Lô Giá Na Phật,
sự trang nghiêm trong ấy chẳng khác thế giới Cực
Lạc cho mấy. Sự trang nghiêm ấy do đâu mà có? Đại
nguyện phong luân. “Đại
nguyện phong luân” ấy chính là động lực “tự hành, hóa độ người
khác” như chúng ta thường nói. Đại nguyện
của chư Phật Như Lai đă viên măn, các vị
đại Bồ Tát c̣n đang thực hiện đại
nguyện của các Ngài. Đại nguyện tuy nhiều,
quy nạp lại sẽ chẳng ngoài bốn loại lớn,
tức Tứ Hoằng Thệ Nguyện, “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền
năo vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng
thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng
thệ nguyện thành”. Những vị Bồ Tát ấy,
nh́n theo kinh Hoa Nghiêm, địa vị Thập Tín là khoa dự
bị, là lớp dự bị, chưa chánh thức nhập
học, giống như nhà trẻ (ấu trĩ viên, mẫu
giáo) trong nhà trường, vẫn chưa phải là lớp
Một Tiểu Học. Cho đến Thập Trụ, Sơ
Trụ mới là lớp Một Tiểu Học, Thập Trụ
giống như Tiểu Học. Thập Hạnh là Trung Học,
Thập Hồi Hướng là Đại Học, Thập
Địa là nghiên cứu sinh, Đẳng Giác là lớp Tiến
Sĩ. Địa vị Thập Tín là vườn trẻ.
Nhưng tiến hành một trăm bốn mươi mốt
nguyện, [chính là c̣n đang học] mẫu giáo đă bắt
đầu học tập lớp Một. V́ vậy, đến
khi nhập học, học lớp Một, người ấy
đă là “thói quen trở thành tự
nhiên”, thực hiện viên măn Tứ Hoằng Thệ Nguyện,
thực hiện viên măn mười đại nguyện
vương của Phổ Hiền, thực hiện Thập
Ba La Mật của Văn Thù Bồ Tát, đều đă thực
hiện! Thế giới ấy trang nghiêm, thế giới ấy
tốt đẹp.
Thật ra, nói lời thật
cùng quư vị, thế giới Hoa Tạng và thế giới
Cực Lạc có khác địa cầu chúng ta đang sống
hay chăng? Chẳng khác biệt, hoàn toàn giống nhau. Y báo
và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới là một,
không hai. V́ sao? Toàn là do Pháp Tánh biến hiện thành pháp
tướng, há có lẽ nào chẳng giống nhau? Chỗ
khác nhau là ǵ? Cư dân ở những nơi ấy tạo
nghiệp khác nhau. Tạo thiện nghiệp, nơi đây
biến thành thiên đường. Tạo ác nghiệp,
nơi đây biến thành địa ngục. Hoàn cảnh
bên ngoài thuận theo khởi tâm động niệm, ngôn ngữ,
và tạo tác của chúng ta mà chuyển biến, chẳng phải
là đă h́nh thành th́ sẽ không biến đổi! Sóng
tư tưởng của chúng ta thay đổi cấu trúc
của nó (hoàn cảnh bên ngoài) trong từng sát-na. Trong kinh,
đức Phật đă nói lời này rất nhiều! Hết
sức khó có là gần đây, một nhà khoa học Nhật
Bản là tiến sĩ Giang Bổn Thắng (Masaru Emoto) đă
dùng nước làm thí nghiệm, nghiễm nhiên thí nghiệm
hiện tượng này!
Nước là khoáng vật, chẳng
phải là động vật, chẳng phải là thực vật.
Nó là khoáng vật! Ông ta thí nghiệm suốt mười
năm, xác thực là đă chứng minh nước có thể
thấy, có thể nghe, có thể hiểu ư nghĩ của
con người. Quư vị cho nó thấy những h́nh ảnh
đẹp đẽ, nó sẽ phản ứng hết sức
xinh đẹp. Quư vị cho nó thấy những h́nh ảnh
xấu hèn, nó cũng phản ứng rất khó coi! Chúng ta khởi
tâm động niệm cũng là như thế, dùng thiện
ư ái tâm đối với nó, nó sẽ phản ứng hết
sức tốt đẹp. Nếu chúng ta bảo: “Chán ghét
mày, tao căm hận mày, tao chẳng thích mày!” Nó sẽ phản
ứng hết sức xấu hèn. Suốt mười
năm làm mấy trăm vạn cuộc thí nghiệm, đă
chứng minh [những điều ấy]. Hiện thời,
các nhà khoa học tại Liên Hiệp Quốc đều khẳng
định. Tôi cũng biến thành bằng hữu của
ông ta. Trước hết, ông ta thuần túy theo khoa học,
chẳng dính dáng đến tôn giáo, bảo “tôn giáo là mê tín”, chẳng
mong qua lại với tôn giáo. Tôi tiếp xúc ông ta, bảo:
“Những thí nghiệm của ông trong kinh Phật đă có
nói”. Ông ta nghe xong, sững sờ! Tôi nói: “Những điều
đă nói trong kinh Phật đă được ông chứng
minh, rất khó có, nhưng ông chứng minh một phần, vẫn
chưa hoàn toàn”. Ông ta nghe vậy, rất kinh ngạc: “C̣n có
ǵ nữa?” Tôi nói: “Ông đă chứng minh thấy, nghe, hay, biết.
Đối với sắc, thanh, hương, vị, ông chỉ
chứng minh sắc, chứ hương, vị, âm thanh, ông
vẫn chưa thể thí nghiệm được! V́ thế,
thành tựu của ông là cục bộ, chưa phải là
viên măn. Ông phải càng thêm nỗ lực, chắc chắn là
sẽ phát hiện nó có âm thanh rất vi diệu, nó có mùi
thơm, nó có mùi vị”.
Trong Phật pháp có nói: Đối
với tất cả hết thảy vật chất, những
đức tướng cơ bản của chúng chẳng
phải là từ chỗ nào khác mà có, bản thân nó vốn sẵn
có. Thấy, nghe, hay, biết, sắc, thanh, hương, vị,
vật chất dẫu nhỏ đến mấy đều
trọn đủ. V́ thế, vũ trụ là một thể
hữu cơ, sống động, chẳng chết cứng.
Ngay cả ngói, đá, bùn, cát đều sống động,
đều chẳng chết cứng. Do con người thiện
tâm, thuần tịnh, thuần thiện, những thứ ấy
đều biến thành vàng, bạc, bảy báu. Tâm con
người bất thiện, bảy báu
đều biến thành cát, đá, ngói, sạn, chúng biến
đổi theo ḷng người. Bởi lẽ, Phật, Bồ
Tát trong thế giới Hoa Tạng, Phật, Bồ Tát trong
thế giới Cực Lạc tâm địa thuần tịnh,
thuần thiện, kinh thường nói: “Tâm tịnh, ắt cơi tịnh”. Nếu người
trên địa cầu, ai nấy đều có thể quay
đầu, đều có thể đoạn ác, tu thiện,
đều có thể chẳng xen tạp mảy may bất
thiện nào, chẳng xen tạp mảy may bất tịnh
nào, thế giới của chúng ta, Hoa Tạng, và Cực Lạc
quyết định chẳng khác nhau. Từ thí nghiệm kết
tinh nước, có thể chứng minh [điều này].
Có Phong Thủy hay không? Có chứ!
Phong Thủy chuyển theo ḷng người, chẳng phải
là con người chuyển biến theo cảnh giới bên
ngoài. Con người chuyển biến theo cảnh giới
bên ngoài, mê mất rồi! Chuyển. Các nhà Phong Thủy
đă nói rất hay: “Phước
nhân cư phước địa, phước địa
phước nhân cư” (Người có phước sống
ở chỗ tốt lành, nơi tốt lành, người có
phước sống). Núi sông xinh đẹp là nơi người
có phước báo sống. Người chẳng có phước
báo đến sống ở đó mấy tháng, Phong Thủy
xấu đi! V́ sao? Ư niệm của quư vị đă phá hoại
nó! Chỗ nào Phong Thủy chẳng tốt, người thuần
tịnh, thuần thiện đến ở nơi ấy nửa
năm hoặc mấy tháng, Phong Thủy biến thành tốt
đẹp. Tâm chuyển cảnh giới, chứ không phải
là cảnh giới chuyển tâm. Do vậy, chư vị mong
hết thảy đều tốt đẹp, trước
hết, phải tu cái tâm cho tốt. Tâm thiện, chẳng có
điều ǵ bất thiện; tâm tịnh, chẳng có
điều ǵ bất tịnh; tâm hảo, chẳng có điều
ǵ bất hảo. “Đại
nguyện phong luân có thể tŕ vạn hạnh, dùng hạnh
để chiêu cảm quả”: Thiện hạnh, tịnh
hạnh của chúng ta, phẩm này là phẩm Tịnh Hạnh,
tịnh thiện chiêu cảm cái quả là thế giới
Hoa Tạng. Chúng ta phải hiểu đạo lư này!
Thế giới hiện thời
đă loạn, tai nạn liên tiếp, hóa giải bằng
cách nào? Quư vị đọc Hoa Nghiêm bèn hiểu rơ: “Hóa giải
như thế nào?” Hóa giải từ nội tâm của chính
ḿnh! Hăy nghiêm túc học theo Phật, Bồ Tát. Phật, Bồ
Tát chẳng có một niệm bất thiện, Phật, Bồ
Tát chẳng có hạnh nào bất tịnh, thuần tịnh,
thuần thiện! Đừng nghĩ chúng sanh đều
đang tạo ác nghiệp, một ḿnh ta thuần tịnh
thuần thiện, há có năng lực ǵ? Một người
thuần tịnh thuần thiện có thể chống lại
trăm vạn người, ngàn vạn người. Nếu
ở chỗ này, chúng ta có ba người, năm người,
mười người, tám người thuần tịnh
thuần thiện, tôi tin tưởng nửa quả địa
cầu sẽ không có tai nạn, có thể sanh ra hiệu quả
to lớn ngần ấy! Do vậy, tôi rất tán thán tiến
sĩ Giang Bổn Thắng đă làm thí nghiệm ấy, v́
sao? Chúng tôi b́nh thường giảng kinh, [người ngoài
thường nghĩ chúng tôi] nói những lời ấy là
chuyện thần thoại, ai tin tưởng? Điều
khó có là ông ta đă dùng phương pháp khoa học để
nêu ra chứng cứ, chứng minh [những điều ấy]
là thật, chẳng giả!
Tiến sĩ Giang Bổn Thắng
nhỏ tuổi hơn tôi. Năm nay, ông ta mới sáu
mươi mấy tuổi, đứng cùng một chỗ với
tôi, ông ta trông già nua hơn, cho nên rất hâm mộ tôi, nói:
“Pháp sư! Thầy tu như thế nào vậy? Thầy dùng
phương pháp ǵ để bảo dưỡng?” Tôi bảo
ông ta: “Tôi dùng đúng phương pháp như ông đă làm thí
nghiệm”. Ông ta làm thí nghiệm mười năm, điều
ǵ [khiến nước] kết tinh đẹp nhất? Yêu
thương, cảm tạ. Do yêu thương và cảm tạ,
nước sẽ kết tinh theo mô thức đẹp
đẽ nhất, chẳng có ǵ có thể sánh bằng! Do vậy,
ông ta bảo tôi: “Yêu
thương và cảm tạ là cốt lơi của vũ trụ”.
Tôi nói: - Chẳng sai! Nhà Phật gọi yêu thương là “từ bi”, gọi cảm
ơn là “tri ân, báo ân”. Thường
cảm niệm ân của hết thảy chúng sanh, nói theo Phật
pháp chính là câu “thượng báo
tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ”
trong kệ Hồi Hướng. Tứ Trọng Ân là ân cha mẹ,
ân thầy (đức Phật là thầy, nhớ ơn thầy),
ân quốc gia, ân chúng sanh. Quư vị phải biết ân, phải
biết báo ân. Con người hiện thời vong ân phụ
nghĩa, v́ sao? Chẳng biết ân đức. Hễ biết,
cái tâm báo ân sẽ nẩy sanh tràn trề. Do vậy, yêu
thương và báo ân sẽ [khiến cho nước kết
tinh] theo mô thức đẹp đẽ nhất!
Nhà Phật nói: “Từ bi biến pháp giới, thiện
ư măn Sa Bà” (Từ bi khắp pháp giới, thiện ư trọn
Sa Bà). Nghe lời này, đại chúng b́nh phàm chẳng hiểu,
cho nên tôi sửa một câu: “Ái
tâm biến hoàn vũ” (Tâm yêu thương trọn khắp
hoàn cầu) sẽ dễ hiểu hơn, “thiện ư măn nhân gian”. Đấy là thu nhỏ cái
tâm yêu thương! Khởi tâm động niệm phải yêu
thương địa cầu, khởi tâm động niệm
yêu thương tất cả mọi người và tất
cả các sinh vật trên địa cầu. Tới cuối
cùng, sẽ là tất cả hết thảy các hiện
tượng thiên nhiên. Do cái tâm yêu thương b́nh đẳng,
chân thành, thế giới này biến thành Hoa Tạng, biến
thành Cực Lạc. Cực Lạc và Hoa Tạng chẳng phải
là tự nhiên mà có. Đại nguyện phong luân có thể
tŕ vạn hạnh, dùng hạnh để chiêu cảm quả;
do vậy mà có! Chúng ta hiểu rơ, sẽ biết tu, sẽ biết
chính ḿnh phải nên làm như thế nào! Hôm nay đă hết
thời gian rồi, chúng tôi giảng tới chỗ này!
Tập
1470
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống.
Xin xem phẩm thứ mười một, Tịnh Hạnh,
chúng ta vẫn tiếp tục xem lời luận của Lư Trưởng
Giả. Lời luận khá dài, giảng giải hết sức
hay khéo. Chúng ta tiếp tục phần hôm qua. Hôm qua, chúng ta
đọc đến câu “thị
cố Hoa Tạng thế giới hữu như Tu Di Sơn
vi trần số phong luân sở tŕ, kỳ thượng nhất
thiết trang nghiêm, nhân đại nguyện phong luân,
năng tŕ vạn hạnh, dĩ hạnh chiêu quả cố”
(v́ vậy, thế giới Hoa Tạng có các phong luân số
nhiều như số vi trần trong núi Tu Di duy tŕ, hết
thảy các thứ trang nghiêm trên ấy do đại nguyện
phong luân có thể tŕ vạn hạnh, dùng hạnh để
chiêu vời quả vậy). Ngày hôm qua, chúng ta học tập
đến chỗ này! Hôm nay, xem tiếp đoạn kế đó:
(Luận) Nhân dĩ nguyện lực
kiên tŕ, báo đắc phong luân tŕ sát cố.
(論)因以願力堅持,報得風輪持剎故。
(Luận:
Do dùng nguyện lực để giữ vững, cảm
báo phong luân duy tŕ cơi nước).
Nguyện lực ở
đây và đại nguyện được nói trong phần
trước hết sức trọng yếu. Một đằng
là đại nguyện của chư Phật Như Lai, một
đằng là đại nguyện của các vị Bồ
Tát phát tâm tu hành. Nếu chẳng có hai thứ nguyện lực
ấy, thế giới này đă sớm không tồn tại.
Trong kinh Đại Thừa,
đức Phật thường nói: “Tâm, Phật, chúng sanh, cả ba chẳng sai biệt”.
“Tâm” là nói đến Pháp Tánh.
Pháp Tánh có thể hiện (năng hiện), Pháp Tướng
là cái được hiện (sở hiện). Tánh thức
là cái có thể biến (năng biến), y báo và chánh báo trang
nghiêm trong mười pháp giới là cái được biến
ra (sở biến). Đối với năng hiện, sở
hiện, năng biến, sở biến, chúng ta thảy
đều phải hiểu rơ! Như trong kinh Địa Tạng
đă nói: Chúng sanh “khởi tâm
động niệm, không ǵ chẳng phải là nghiệp,
không ǵ chẳng phải là tội”. Nghiệp có thiện
và ác, thiện nghiệp chiêu cảm ba thiện đạo
trong lục đạo, ác nghiệp chiêu cảm ba ác đạo,
do như vậy mà có lục đạo sai biệt! V́ lẽ
đó, Phật lực và nghiệp lực của chúng sanh gần
như tương đương, nhưng Phật lực
có thể tương ứng Pháp Tánh, chúng ta thường
nói là “được Pháp Tánh
gia tŕ”. Do vậy, Phật lực phải to hơn nghiệp
lực của chúng sanh, cho nên mới có thể duy tŕ cơi
nước!
Nay chúng ta gọi “Sát” (剎, sát-độ, cơi
nước)
là “tinh cầu” hoặc “tinh hệ”. Như Thái Dương Hệ,
Ngân Hà Hệ, trong kinh Phật thường dùng chữ “sát” để biểu thị,
[chẳng hạn như] “chư
Phật sát-độ”. Nói thông thường, khu vực
giáo hóa của một vị Phật là một tam thiên đại
thiên thế giới. Xưa kia, nhiều người
nghĩ một hệ Ngân Hà chính là một tam thiên đại
thiên thế giới, đó là một cơi Phật. Khi xưa,
tôi cũng có cách nh́n như thế ấy. Khi gặp lăo
cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, lăo nhân gia bảo tôi: “Không
chỉ là như vậy!” Cụ nói: - Trên thực tế, một
hệ Ngân Hà chính là một đơn vị thế giới
được nói trong kinh Phật. Mặt trời, mặt
trăng xoay quanh sườn núi Tu Di. Hiện thời, trung
tâm của hệ Ngân Hà, theo như bản đồ thiên
văn đă cho thấy, hệ Ngân Hà có h́nh dạng giống
như một cái đĩa, chính giữa dầy, càng hướng
ra ngoài ŕa càng mỏng dần. Hệ Thái Dương của
chúng ta xác thực là xoay tṛn quanh trung tâm của nó (hệ
Ngân Hà). Cụ Hoàng nói rất có lư!
Một hệ Ngân Hà là một
đơn vị thế giới, một ngàn hệ Ngân Hà là
một tiểu thiên thế giới. Một ngàn tiểu
thiên thế giới là một trung thiên thế giới, một
ngàn trung thiên thế giới mới là một đại
thiên thế giới, tức là một Phật độ (một
cơi Phật). Một Phật độ là một đại
thiên thế giới, có bao nhiêu hệ Ngân Hà? Mười ức!
Mười ức hệ Ngân Hà là khu vực giáo hóa của một
đức Phật. Chúng ta đă đọc phẩm Hoa Tạng
Thế Giới và phẩm Thế Giới Thành Tựu, sự
chứng ngộ của chư Phật Như Lai chẳng
khác nhau. Vô Thượng Bồ Đề, Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác chẳng có vấn đề, hoàn
toàn giống nhau, Phật Phật đạo đồng.
Nhưng hết thảy chư Phật phước báo khác
nhau, là do nguyên nhân nào? Phước báo là do khi quư vị hành Bồ
Tát đạo đă tu trong đời đời kiếp kiếp.
Quư vị chẳng kết duyên với người khác, kẻ
có duyên với quư vị sẽ không nhiều. Trong
tương lai, quư vị thành Phật, khu vực giáo hóa của
quư vị là một tam thiên đại thiên thế giới.
Nếu quư vị thích kết duyên với người khác,
pháp duyên của quư vị sẽ rất thù thắng. Có những
vị Phật có khu vực giáo hóa là hai tam thiên đại
thiên thế giới, cho đến năm hoặc mười
tam thiên đại thiên thế giới, hai mươi, một
trăm đại thiên thế giới, chẳng giống
nhau!
Thưa cùng chư vị,
trong chư Phật Như Lai, vị có khu vực giáo hóa lớn
nhất chính là A Di Đà Phật. Thế giới Cực Lạc
của A Di Đà Phật có ngằn mé tới vô lượng
vô biên, do nguyên nhân nào? Ngài kết duyên quá sâu, quá rộng cùng
hết thảy chúng sanh trong khắp pháp giới hư không
giới. V́ thế, chẳng có vị Phật Như Lai nào
chẳng tán thán A Di Đà Phật. Lời tán thán của
đức Thế Tôn trong kinh Vô Lượng Thọ đă
biểu thị lời hết thảy chư Phật tán
thán A Di Đà Phật: “Quang
trung cực tôn, Phật trung chi vương” (Quang minh tôn
quư tột bậc, là vua trong chư Phật). Do vậy, chúng
ta học Phật, nói thật ra, đối với chuyện
này hoàn toàn chẳng liễu giải cho lắm! Nhưng thầy
của chúng tôi từ bi, thầy đă giảng chuyện
này rất thấu triệt. V́ thế, khi chúng tôi làm học
tṛ, đă biết kết duyên trọng yếu. Rộng kết
duyên lành, pháp duyên của chúng ta sẽ thù thắng, hết sức
thù thắng!
Suốt một đời,
chúng tôi tuy không hóa duyên, chẳng xin tiền ai, nhưng tứ
chúng đồng học cúng dường chẳng thể
không tiếp nhận! Họ đến cúng dường là
v́ lẽ nào? Nghĩ quư vị là phước điền, đến
cúng dường quư vị để gieo phước. Chúng
ta hăy ngẫm xem: Chúng ta có thật sự là phước
điền hay không? Chúng ta nhận sự cúng dường ấy
có thể tiêu hóa hay không? Lỡ như chẳng tiêu hóa
được, sẽ phiền phức to lớn! Cổ
đức bảo: “Thí chủ
nhất lạp mễ, đại như Tu Di sơn, kim sanh
bất liễu đạo, phi mao đới giác hoàn” (Một
hạt gạo thí chủ, to như núi Tu Di, đời này chẳng
liễu đạo, mang lông, đội sừng đền).
Lời ấy muôn ngàn phần xác đáng, chẳng phải
là nói tùy tiện, mà là chân tướng sự thật. Chúng ta
chẳng có đức to lớn ấy, lại có người
đến cúng dường, làm như thế nào? Thầy bảo
tôi phải tiếp nhận. Sau khi đă nhận, bèn “triển chuyển bố thí cúng
dường”, tức là thay người ấy tu phước,
chúng ta phải hiểu rơ điều này!
Thật sự tu phước,
chúng ta hăy chú tâm quan sát cổ đại đức,
đương nhiên Thích Ca Mâu Ni Phật là tấm
gương tốt nhất cho chúng ta. Nhưng trong thời
đại của đức Thế Tôn, tuy có không ít quốc
vương, đại thần, trưởng giả, cư
sĩ cúng dường Phật Đà rất nhiều, Phật
Đà đều bố thí sạch, chẳng giữ lại,
thứ ǵ cũng chẳng giữ lại. Chúng ta lại nh́n
vào [hành trạng của] lịch đại tổ sư, gần
đây nhất là Ấn Quang đại sư, vị này là tổ
sư của chúng ta. Chúng tôi học Tịnh Độ Tông
do tổ Ấn Quang trực tiếp truyền lại. Thầy
tôi là học tṛ của tổ Ấn Quang. Cụ đắc
pháp nơi tổ Ấn Quang, truyền cho tôi, cùng một mạch
truyền thừa. Chúng tôi suy nghĩ, suốt một đời,
pháp sư Ấn Quang tiếp nhận cúng dường, Ngài
chỉ dùng để làm một chuyện, đă ban cho chúng
ta một khải thị rất lớn. Một chuyện
ǵ vậy? In kinh để bố thí. Mười phương
cúng dường, Ngài một phân tiền cũng chẳng
dùng cho chính ḿnh, hoàn toàn dùng để làm một sự nghiệp
là Hoằng Hóa Xă. Chúng ta thường gọi Hoằng Hóa Xă
là Phật Kinh Lưu Thông Xứ. Chính Ngài có xưởng ấn
loát, thuở ấy, in theo lối sắp chữ ch́. Trong thời
ấy, đấy là xưởng ấn loát tiên tiến nhất,
đương nhiên là hiện thời càng tiến bộ
hơn thuở trước. [Tiền cúng dường] thảy
đều dùng để in kinh, Pháp Bố Thí! Ngài làm chuyện
này viên măn!
Quư vị thấy: Trong giáo
pháp Đại Thừa, đức Phật đă nói [công
đức của pháp bố thí] đến cỡ nào? Dẫu
quư vị dùng bảy báu chứa trọn khắp đại
thiên thế giới để bố thí cúng dường, vẫn
chẳng bằng v́ người khác nói bốn câu kệ.
Đức Phật đă nói tỷ dụ ấy rất nhiều.
Cúng dường bằng cách v́ người khác nói bốn
câu kệ, sẽ vượt trỗi cúng dường bảy
báu trong khắp đại thiên thế giới. Phần “quảng tu cúng dường”
trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện đă nói rất
rơ ràng, rất minh bạch. Tổ Ấn Quang đă làm mẫu
cho chúng ta thấy, cho nên tôi cũng học theo. Mười
phương cúng dường tôi, tôi dùng để làm ǵ? In kinh.
In kinh trong mấy chục năm qua, bản thân tôi cũng
chẳng biết số lượng, quá ư là nhiều! Chỉ
riêng có việc in tặng Đại Tạng Kinh, đấy
là một bộ sách lớn, có con số [cụ thể]. Ngay
như trong quá khứ, tôi đă thỉnh Đại Tạng
Kinh gởi cho Trung Hoa Đại Lục (chẳng phải
do chính ḿnh tự in, mà là mua từ người khác). Tôi
ước tính tổng cộng là hơn năm ngàn năm
trăm bộ. Đó là [chỉ tính riêng về] Đại Tạng
Kinh, những kinh sách khác, đúng là vô số!
Hai mươi năm gần
đây nhất, đi theo con đường khoa học kỹ
thuật, cho nên chúng tôi tặng băng thâu âm, băng thâu
h́nh, nay là đĩa CD, DVD. Giá thành ngày càng thấp, phẩm
chất ngày càng tốt, lưu thông trên khắp thế giới.
Tám năm gần đây, chúng tôi sử dụng mạng
Internet, giảng kinh trong pḥng thâu h́nh, cả thế giới
đều có thể xem từ mạng Internet. Bắt đầu
từ Nguyên Đán năm 2003, chúng tôi có đài truyền h́nh
vệ tinh. Năm 2003 có ba vệ tinh. Năm 2004 có thêm một
vệ tinh nữa thành bốn vệ tinh. Nguyên Đán năm
2005 lại có thêm một vệ tinh nữa, thành năm vệ
tinh. Hiện thời đă bao trùm toàn thể thế giới.
Chỉ cần có máy tiếp sóng, trong suốt hai mươi
bốn tiếng đồng hồ, đều có thể xem
băng thâu h́nh giảng kinh của chúng tôi, không ngừng
phát tín hiệu để các đồng
tu hữu duyên trên toàn thế giới cùng nhau học tập.
Chúng tôi dùng tiền vào chỗ này!
V́ thế, suốt đời
tôi chẳng dựng chùa. Tám mươi tuổi, tôi chẳng
có một chỗ ở. Chỗ tôi ở đều là nhà của
cư sĩ, họ có nhà dư bèn cho tôi mượn ở!
Được lắm! Xác thực là học giống tổ
sư đôi chút, học giống như đức Phật
đôi chút. Ngoài cái thân ra, chẳng trưởng dưỡng
vật ǵ, chẳng có ưu lự, chẳng có vướng
mắc. Giảng kinh trong pḥng thâu h́nh, chỉ có ḿnh tôi đối
diện với máy thâu h́nh. V́ thế, hiện trường
giảng kinh chẳng có thính chúng. Hiện trường dạy
học chẳng có học tṛ nào, học tṛ đều ở
trước màn h́nh, thế mà chúng ta có thể đối diện.
Hễ có câu hỏi, có thể fax đến đây, hoặc
có thể dùng hộp thư điện tử (email) để
nêu câu hỏi. Thứ Năm mỗi tuần, chúng tôi sẽ
giải đáp một lần, đối diện các đồng
tu trên toàn thế giới. Đấy là hiện đại
hóa đạo tràng, chẳng có h́nh thức đạo tràng,
nhưng có thực chất. Do vậy, in kinh vẫn y như
cũ là pháp bố thí trọng yếu nhất của chúng
tôi!
Những chuyện này đều
phải cậy vào nguyện lực, tức nguyện lực
của Phật, nguyện lực của Bồ Tát, và nguyện
lực của chính chúng ta. Công khóa sáng tối mỗi ngày, chẳng
phải là miệng niệm Tứ Hoằng Thệ Nguyện
là xong. [Niệm suông] sẽ chẳng có tác dụng, phải
thật sự làm được! “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Nói theo
cách hiện thời, Độ (度) có nghĩa là
giúp đỡ, hiệp trợ kẻ khác. Giúp đỡ người
khác phá mê khai ngộ, giúp đỡ người ta đoạn
ác tu thiện, giúp đỡ họ ĺa khổ được
vui, giúp đỡ họ chuyển phàm thành thánh. Thấy
căn cơ của chúng sanh như thế nào, chúng ta phải
dùng phương pháp ǵ để giúp đỡ họ. Trừ
điều ấy ra, mọi người đều biết:
Thế giới này hiện thời tai nạn liên tiếp xảy
ra, tần suất tai nạn mỗi năm một tăng
lên, tai hại mỗi ngày một nghiêm trọng hơn, do
nguyên nhân ǵ tạo thành? Trong kinh văn, có một câu chư
vị phải ghi nhớ: “Nhân
đại nguyện phong luân, năng tŕ vạn hạnh,
dĩ hạnh chiêu quả cố” (Do đại nguyện
phong luân có thể tŕ muôn hạnh, do dùng hạnh để
chiêu cảm quả). Câu ấy chính là đáp án. Đại
nguyện của chúng sanh trong hiện thời là ǵ? Tham tài,
tham sắc, tham tiếng tăm, lợi dưỡng, tham quyền
thế địa vị. Hễ chẳng tham được,
bèn sân hận. V́ thế, đại nguyện của chúng
sanh trong hiện thời là tham, sân, si, mạn, nghi. Dùng tham,
sân, si, mạn, nghi làm đại nguyện phong luân, cho nên họ
cảm quả báo là thiên tai nhân họa. Chúng ta phải hiểu
đạo lư này, chẳng phải là mê tín đâu nhé!
Ngày hôm qua, tôi có đề cập
cùng chư vị: Tiến sĩ Giang Bổn Thắng của
Nhật Bản, từ thí nghiệm với nước,
đă dùng phương pháp khoa học để chứng
minh, bọn phàm phu chúng ta là những kẻ sống trên
địa cầu, khởi tâm động niệm sẽ ảnh
hưởng tới quả địa cầu mà chúng ta
đang cư ngụ. Trên địa cầu v́ sao có thủy
tai? V́ sao có phong tai? V́ sao có hỏa tai? V́ sao có động
đất? Thảy đều có nguyên nhân. Tâm tham cảm vời
thủy tai, sóng thần là thủy tai. Sân khuể khiến cho
núi lửa bùng nổ là hỏa tai. Ngu si là phong tai. Trước
đây chẳng lâu, ba tiểu bang thuộc miền Nam nước
Mỹ bị băo lốc, rất đáng sợ! Do ngu si cảm
vời, kiêu căng, ngă mạn, gây nên động đất.
Tham, sân, si, mạn, nghi chiêu cảm quả báo như thế
đó! Kẻ chẳng thâm nhập kinh tạng, chẳng hiểu
đạo lư này, chẳng biết chúng ta khởi tâm động
niệm có ảnh hưởng to như thế. Sau khi đă
biết, đức Phật dạy bảo chúng ta, chúng ta khởi
tâm động niệm đều là thiện niệm, chẳng
có ác niệm, ngôn ngữ, tạo tác đều là thiện hạnh,
chẳng có ác hạnh. Thực hiện từ chính cái tâm của
chính ḿnh, đó gọi là “tự
độ”.
Chính chúng ta đă tự độ.
Ư niệm của chúng ta là dao động. Hiện thời,
dao động được gọi là “sóng điện từ”
hoặc “sóng ánh sáng”, nhưng sự dao động của ư
niệm mạnh hơn, nhanh chóng hơn bất cứ dao
động nào khác. Đúng là trong một sát-na, đă trọn
khắp hư không pháp giới. Hiện thời, mọi
người trên thế gian đều có ư niệm bất
thiện. Nếu niệm nào của chúng ta cũng đều
là thuần tịnh, thuần thiện, thiện niệm ấy
phát ra, giao xen với ư niệm bất thiện của kẻ
khác, thiện niệm của chúng ta bị ảnh hưởng,
bị dao động, nhưng ác niệm của kẻ ấy
cũng sẽ giảm nhẹ! Ác niệm của kẻ ấy
giống như sóng to, chúng ta là nước rất b́nh lặng,
hai thứ nước kết hợp, chúng ta cũng sẽ
có sóng nhỏ, nhưng sóng lớn của kẻ ấy sẽ
giảm thấp. Đó là hóa giải tai nạn.
Trong khá nhiều tôn giáo có nói
ngày tàn của thế giới, chẳng giả! Nhưng
đó là một định số, trong định số sẽ
có biến số. Nay bản thân chúng ta nỗ lực tu tập,
sẽ giống như kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo
đă dạy: “Chẳng để
mảy may bất thiện xen tạp”. Khi tôi giảng
kinh, cũng đặc biệt nói mở rộng ư nghĩa
bằng câu: “Chẳng để
mảy may bất tịnh xen tạp”. Chúng ta nhất
định phải tu ư niệm thuần tịnh, thuần
thiện, cái tâm thuần tịnh, thuần thiện, hành vi
thuần thiện, thuần tịnh. Làm như vậy, sẽ
có thể hóa giải tai nạn. Dẫu chẳng thể hóa
giải toàn bộ, tối thiểu là cũng có thể giảm
nhẹ tai nạn, rút ngắn thời gian tai nạn, khẳng
định có thể làm được chuyện này. Tiến
sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật Bản hết sức
tin tưởng điều này! Tôi hai lần đi họp ở
Nhật Bản, chúng tôi đă gặp nhau, biến thành bạn
bè thân thiết. Báo cáo thí nghiệm của ông ta nay đă
được lưu hành khắp nơi trên thế giới.
Do vậy, chúng ta có ư niệm “độ chính ḿnh”, có ư niệm
“giúp đỡ người khác, giúp đỡ hết thảy
chúng sanh khổ nạn, giúp đỡ thế giới khổ
nạn này”, bèn gọi là Bồ Tát, là giác ngộ, là người
hiểu rơ. Ngàn muôn phần đừng nên tự tư tự
lợi nữa! Ngàn muôn phần đừng cầu tiếng
tăm, lợi dưỡng! Những thứ đó là giả,
chẳng thật, sẽ gặp phải quả báo bất thiện!
Lại xem phần luận kế
tiếp:
(Luận) Hựu vân, như thị
Hoa Tạng trang nghiêm, giai tùng Phổ Hiền nguyện lực
khởi, vi vô nguyện cố, hạnh năi bất thành, tức
trang nghiêm bất hiện, bất cảm vô tận y quả
báo cố.
(論)又云,如是華藏莊嚴,皆從普賢願力起。為無願故,行乃不成,即莊嚴不現,不感無盡依果報故。
(Luận:
Lại nói, Hoa Tạng trang nghiêm như thế đều khởi
từ nguyện lực của Phổ Hiền. Bởi lẽ,
chẳng có nguyện, hạnh sẽ chẳng thành, tức
là trang nghiêm chẳng hiện, chẳng cảm chánh báo và y báo
vô tận).
Chúng ta xem đến chỗ này. Trong
đoạn này, câu đầu tiên [nêu câu hỏi]: Y báo và
chánh báo trang nghiêm trong thế giới Hoa Tạng do đâu mà
có? Đều khởi từ nguyện lực của Phổ
Hiền. Nguyện lực của Phổ Hiền là ǵ? Chính
là phẩm kinh này, tức phẩm Tịnh Hạnh. Mười
đại nguyện vương của Phổ Hiền
được thực hiện bằng một trăm bốn
mươi mốt nguyện này! Do vậy, có thể biết:
Nếu người trên địa cầu, ai nấy đều
tu phẩm Tịnh Hạnh, trên thế giới này, tai nạn
ǵ cũng đều chẳng có, ô nhiễm kiểu nào
cũng đều chẳng có. Địa cầu này và thế
giới Hoa Tạng chẳng hai, chẳng khác. V́ sao thế
giới Hoa Tạng tốt đẹp? Cư dân trong thế
giới Hoa Tạng ai nấy đều tu tịnh hạnh,
tâm thanh tịnh, thân thanh tịnh, hạnh thanh tịnh. V́ thế,
cảm được y báo và chánh báo trang nghiêm trong Hoa Tạng.
Do như vậy mà có!
Trong sử sách cổ đại
có ghi chép: Tam Hoàng, Ngũ Đế, Nghiêu, Thuấn, Vũ,
Thang. Đấy là thời đại thái b́nh mà Khổng Tử
và Mạnh Tử hâm mộ nhất. V́ sao? Nghiêu, Thuấn,
Vũ, Thang giáo hóa nhân dân tốt đẹp! Dân chúng trong quốc
thổ của họ, nay nói là “nhân dân”, ai nấy đều
hiểu Ngũ Luân, Bát Đức, ai nấy đều là hảo
nhân. V́ thế, chiêu cảm quả báo là gió ḥa, mưa thuận,
ngũ cốc được mùa, nhân dân an lạc. Thế
giới hiện thời động loạn, quư vị cứ
so sánh từng cặp một, sẽ lập tức thấy
được nguyên nhân! Là ǵ vậy? Chẳng có giáo dục
luân lư đạo đức, con người sống trong thế
gian này chẳng biết v́ sao mà sống! Chúng tôi thường
nói đến ư nghĩa của sanh mạng, giá trị của
sanh mạng là ǵ? Rất ít người có thể đáp
được! V́ thế, tỷ lệ tự sát quá cao! Tôi
nghe nói: Hiện thời, độ tuổi tự sát đă
hạ thấp. Trẻ nhỏ năm sáu tuổi đă tự
sát, đáng sợ quá! Thiếu niên, trung niên, lăo niên tự
sát quá nhiều, do nguyên nhân ǵ? Chẳng biết chính ḿnh sống
v́ điều ǵ!
Tự sát có thể giải
quyết vấn đề hay không? Thưa cùng chư vị,
chẳng thể giải quyết vấn đề! Tự
sát sẽ càng thêm thống khổ, chẳng liễu giải
chân tướng sự thật! Liễu giải chân tướng
sự thật, ta sẽ biết những ǵ phải hứng
chịu trong đời này chính là nghiệp báo. Trong đời
quá khứ, đoạn ác, tu thiện, tích lũy công đức,
đời này quư vị sẽ hưởng phước, quư
vị sẽ sống rất tốt đẹp. Nếu
đời quá khứ tạo tác tội nghiệp, chẳng biết
tích đức, chẳng biết tu thiện, đời này
chúng ta sẽ sống rất khổ, quả báo đó mà!
Đức Phật đă nói rất tuyệt: Con người
sanh vào thế gian này để làm ǵ? Đời người
để đền trả nghiệp! Quư vị đến
hứng chịu quả báo! Quả báo khổ hay vui chẳng
sao cả, hăy đừng bận tâm. Điều quan trọng
nhất là ǵ? Tiếp nhận sự giáo dục. Sau khi
đă hiểu đạo lư này, ta có thể sửa đổi
vận mạng của chính ḿnh!
Liễu Phàm Tứ Huấn là một
điển h́nh về sự sửa đổi vận mạng.
Trên thực tế, người sửa đổi vận mạng
có hiệu quả hơn ông ta (Viên Liễu Phàm) cũng rất
nhiều, nhưng họ chẳng viết ra. Chúng ta xem một
bài văn ngắn có tựa đề là Du Tịnh Ư Ngộ
Táo Thần Kư (ghi chép về chuyện Du
Tịnh Ư gặp ông Táo), văn chương chẳng dài.
Tiên sinh Du Tịnh Ư và Viên Liễu Phàm sống cùng thời
đại, đại khái là ông Du lớn hơn ông Viên
mười mấy tuổi, tiên sinh Liễu Phàm nhỏ
hơn ông Du mười mấy tuổi. Ông Du đạt
được hiệu quả vượt trỗi ông Viên
Liễu Phàm, quả báo cũng vượt trội tiên sinh
Liễu Phàm. Đời này, tôi chịu ảnh hưởng
rất lớn từ họ, tôi cũng tự ḿnh thay đổi
vận mạng của chính ḿnh trong một đời này.
Đời trước, tôi chẳng tu Tài Bố Thí; do vậy,
đời này nghèo túng, kém hèn, “nghèo
túng” là chẳng có của cải, “kém hèn” là chẳng có địa vị. Mạng khổ
sở, thọ mạng lại ngắn củn, bốn
mươi lăm tuổi mà thôi. Năm tôi hai mươi sáu
tuổi, tiếp xúc Phật pháp, đọc Liễu Phàm Tứ
Huấn. Sau khi xem xong, dường như là trong ṿng hai
tháng, tôi đọc [tác phẩm ấy] ba mươi lần,
hết sức cảm động. Từ đấy trở
đi, sửa lỗi đổi mới. V́ thế, thông
minh, trí huệ, khỏe mạnh, sống lâu, chẳng thiếu
tiền bạc để chi dụng, đều là do tu tập
trong một đời này, chẳng phải do kiếp
trước, kiếp trước chẳng có [những cái
nhân ấy]. Tôi tu học cũng chẳng mong cầu của
cải, cũng chẳng cầu thông minh, cũng chẳng cầu
khỏe mạnh, sống lâu, hết thảy đều thuận
theo tự nhiên. Đức Phật dạy chúng ta tùy duyên,
đừng phan duyên. Dẫu sống một ngày, bèn học
một ngày, sự học tập của tôi từ đầu
đến cuối chẳng bị gián đoạn. Hằng
ngày đều học, mỗi ngày đều giảng, dạy
và học tăng trưởng lẫn nhau! Giảng cho
người khác nghe chính là giảng cho chính ḿnh nghe. Rốt
cuộc người khác nghe bao nhiêu, tôi chẳng biết,
nhưng chính ḿnh được lợi ích một trăm phần
trăm.
Do vậy, có rất nhiều
người hỏi tôi: “Học Phật th́ phải nên học
theo cách nào?” Lên giảng đài là cách tốt nhất! Lên giảng
đài, [t́nh thế] ép quư vị chẳng thể nào không giảng,
ép quư vị chẳng thể nào không dụng công. Đó là
phương pháp rất tốt khiến cho chính ḿnh không dám giải
đăi, khiến cho chính ḿnh chẳng thoái chuyển. Nhất
định là phải giữ sao cho thường hằng,
phải buông xuống vạn duyên, phải buông xuống tự
tư tự lợi, tiếng tăm, lợi dưỡng, phải
buông xuống ngũ dục lục trần, phải buông xuống
tham, sân, si, mạn. Nếu chẳng buông những thứ ấy
xuống, quư vị rất khó tiến bộ, rất khó nhập
cảnh giới của Phật, chẳng dễ ǵ tiến
nhập cảnh giới của thánh nhân. Thảy đều
buông xuống, chướng ngại sẽ chẳng có. V́ thế,
biết các thứ trang nghiêm trong Hoa Tạng và Cực Lạc
đều là do nguyện lực của Phổ Hiền.
Kinh Hoa Nghiêm giảng thấu triệt, từng câu, từng
chữ trong cả bộ kinh Hoa Nghiêm đều là nguyện
lực của Phổ Hiền.
Tiếp đó, Luận viết:
“Vi vô nguyện cố, hạnh
năi bất thành” (V́ nếu không có nguyện, hạnh sẽ
chẳng thành). Đây là nói về thế giới chúng ta, tức
thế giới trong hiện thời, có mấy ai tu nguyện
lực Phổ Hiền? Niệm mười đại nguyện
vương của Phổ Hiền hằng ngày, niệm miết,
vô dụng! Một là lễ kính chư Phật, hai là xưng
tán Như Lai, ba là rộng tu cúng dường, niệm những
câu ấy vô dụng! Lễ kính chư Phật: Quư vị có
thật sự lễ kính hay không? Chẳng có! “Chư Phật” là nói đến
ai? Quá khứ Phật, hiện tại Phật, vị lai Phật,
chư Phật trong ba đời. Vị lai Phật là hết
thảy chúng sanh, chúng ta có tôn kính hết thảy chúng sanh hay
không? Nếu chẳng tôn kính hết thảy chúng sanh, quư vị
chẳng làm được điều này! Không chỉ là phải
tôn kính hết thảy mọi người, mà muỗi, kiến,
ruồi có phải là chúng sanh hay không? Chúng có Phật Tánh hay
không? Có chứ! Chúng có phải là vị lai Phật hay không? Phải!
Hễ có Phật Tánh, sẽ đều coi như Phật!
Huống chi kinh Hoa Nghiêm đă nói rất viên măn, “t́nh và vô t́nh, cùng viên măn Chủng
Trí”. Điều này có nghĩa là: Không chỉ là hữu
t́nh chúng sanh (tức động vật) có Phật Tánh, mà thực
vật và khoáng vật cũng đều chẳng phải
là ngoại lệ. Thực vật và khoáng vật có Pháp Tánh,
Pháp Tánh và Phật Tánh là một tánh. Chúng ta có tôn trọng các
thực vật hay không? Chúng ta có cung kính khoáng vật, bùn,
cát, viên gạch, miếng ngói hay không? Chẳng có! Do chẳng
có nguyện, hạnh chẳng thành!
Khá nhiều sám nghi (懺儀, nghi thức
sám hối), câu đầu tiên là: “Nhất
thiết cung kính” (hết thảy cung kính), “nhất tâm đảnh lễ”.
Mọi người thấy những câu ấy đă quá nhiều
rồi, chỉ là loang loáng niệm qua, chẳng hiểu cảnh
giới ở trong ấy! Chẳng biết bắt đầu
tu như thế nào! Mười nguyện của Phổ Hiền
Bồ Tát là cương lănh, được thực hiện
bằng một trăm bốn mươi mốt nguyện
trong phẩm Tịnh Hạnh. Có thể y giáo phụng hành, người
ấy được gọi là Phổ Hiền Bồ Tát, là
bậc thù thắng khôn sánh trong các vị Bồ Tát! Đại
nguyện đại hạnh Phổ Hiền Bồ Tát: Chẳng
có nguyện, hạnh sẽ chẳng thành, sự trang nghiêm
chẳng hiện. V́ sao chẳng hiện? Địa cầu
này trang nghiêm giống hệt như Hoa Tạng và Cực Lạc,
nhưng sự trang nghiêm chẳng hiện. V́ sao chẳng hiện?
Người sống trên địa cầu chẳng có nguyện
hạnh Phổ Hiền. V́ thế, sự trang nghiêm chẳng
hiện!
“Bất
cảm vô tận y quả báo cố” (V́ chẳng cảm y
báo và chánh báo vô tận): “Cảm”
(感) là cảm vời. V́ quư vị chẳng
có nguyện, chẳng có hạnh, cho nên chẳng có cách nào cảm
vời “vô tận y quả báo”, “y” (依) là y báo, “quả” (果) là chánh báo. Y
báo và chánh báo trang nghiêm trong thế giới Cực Lạc và
thế giới Hoa Tạng chẳng thể hiện tiền!
Nói cách khác, nếu chúng ta thật sự hành, chúng ta hiểu
rơ, quay đầu, xác thực là khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ, tạo tác, đều có thể tương ứng
với mười nguyện Phổ Hiền. Trong hết thảy
mọi lúc, hết thảy chỗ, hết thảy cảnh
duyên, “cảnh” (境) là hoàn cảnh
vật chất, “duyên” (緣) là hoàn cảnh nhân sự, không
ǵ chẳng kính trọng. Đây là điều đầu
tiên. Chẳng có ǵ ta không tôn trọng, chẳng có ǵ ta không lễ
kính. Đấy chính là quư vị học tập nguyện thứ
nhất trong mười nguyện Phổ Hiền, lễ
kính chư Phật, không ǵ chẳng kính. Câu đầu tiên trong
thiên Khúc Lễ sách Lễ Kư của Nho gia là: “Khúc Lễ viết: Vô bất kính” (Khúc Lễ nói:
“Không ǵ chẳng kính”). Thánh nhân thế gian và xuất thế
gian dạy người khác th́ đầu tiên là dạy quư vị
phải biết tôn kính người khác, tôn kính vạn vật.
Đối với người, đối với sự,
đối với vật, đều chớ nên có tâm khinh mạn.
Nay chúng ta hăy chú tâm quan sát: Cái
tâm khinh mạn của hết thảy chúng sanh do đâu mà
có? Có thể nói: Đấy là tập khí vô thỉ vô minh. Tuy
con người bản tánh vốn lành, nhưng đáng tiếc
là sau khi sanh ra, chẳng được ai dạy bảo.
Sau khi sanh ra, dần dần bị ô nhiễm. Đắm nhiễm
mười năm, hai mươi năm, Tánh Đức hoàn
toàn bị mê, chẳng thấu lộ mảy may quang minh nào!
Dẫu có cơ hội gặp gỡ Phật pháp, nghe kinh,
nghe pháp, giống như một tia chớp, bỗng dưng
giác ngộ, nhưng một hai phút sau lại mê hoặc. Đối
với hiện tượng này, tôi tin là có rất nhiều
người trong các đồng học chúng ta đều có
kinh nghiệm này: Sau khi nghe giảng kinh, dường như
đă giác ngộ, chớp mắt lại mê, do mê, nên vẫn
tạo nghiệp. Sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu
trần, dấy lên thất t́nh, ngũ dục, sanh ra
phiền năo, chẳng sanh trí huệ, đạo lư ở
ngay chỗ này! Nay thời gian đă hết rồi, chúng tôi
giảng tới chỗ này!
**
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống.
Chúng ta tiếp tục xem lời luận định của
Lư Trưởng Giả;
(Luận) Do thị nghĩa cố,
tín tâm chi thượng, Pháp Tánh bi trí diệu huệ vạn
hạnh, tổng y Phật hữu, nhi vị tấn tu, bất
đắc biệt hữu.
(論)由是義故,信心之上,法性悲智妙慧萬行,總依佛有,而為進修,不得別有。
(Luận:
Do nghĩa này, trên cơ sở tín tâm, bi trí, diệu huệ,
vạn hạnh trong Pháp Tánh đều nương vào Phật
mà có, để v́ đó mà tấn tu, chứ chẳng có ǵ
khác).
Mấy câu này hết sức
trọng yếu. Kẻ học Phật b́nh phàm như chúng
ta thường phạm sai lầm ở chỗ này, nẩy
sanh sự hiểu lầm nghiêm trọng ở chỗ này! Cứ
tưởng cách nghĩ, những điều chính ḿnh đă
lănh ngộ đều chánh xác, chẳng biết sai lầm ở
chỗ nào. Hễ sai lầm, bèn sai đến cùng, vĩnh
viễn chẳng thể quay đầu!
“Do
thị nghĩa” [có nghĩa là] từ những đạo
lư đă nói trên đây. “Tín tâm
chi thượng”: Chúng ta có tín tâm đối với vấn
đề này hay không? Tôi tin mỗi vị đồng tu
đều nói “tôi có tín tâm”, [nhưng tiếc rằng] tín tâm
ấy là giả trất, chẳng thật! Nếu quư vị
có tín tâm, quư vị đă thuộc vào địa vị Thập
Tín Bồ Tát. “Tín tâm chi thượng”,
tín tâm ở đây chính là Sơ Phát Tâm, tức là hàng Bồ
Tát thuộc địa vị Sơ Tín. Chúng ta có cái tín tâm ấy
hay không? Nói thật thà, chẳng có! Nếu có cái tín tâm ấy,
chúng ta đă tiến nhập địa vị Sơ Tín. Số
lượng phiền năo đă đoạn trong địa vị
Sơ Tín chính là tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc
đă đoạn, tri kiến chánh xác, Phật tri, Phật
kiến; đấy là tín tâm. “Tín
tâm dĩ thượng” (từ tín tâm trở lên) tức
là từ Sơ Tín trở lên, từ Nhị Tín, Tam Tín, Tứ
Tín, cho đến Thập Tín. Thập Tín nếu lên cao hơn,
sẽ là Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, trong phần
trước, [Lư Trưởng Giả đă gọi chung các
địa vị ấy] là “lục
vị”, đấy là từ tín tâm trở lên! “Pháp Tánh bi trí” vốn sẵn trọn
đủ trong tự tánh của quư vị. “Diệu huệ vạn hạnh” đều vốn
trọn đủ trong tự tánh của chính ḿnh. Vốn trọn
đủ, hiện thời bị mê mất. Thật sự
đột phá được cái ải phiền năo đầu
tiên, đạt được tín tâm, chẳng dễ dàng! Nói
thật ra, trong thời đại hiện tại, đă là
một ngàn năm thứ hai trong thời Mạt Pháp của
Thích Ca Mâu Ni Phật, nương theo những pháp môn ấy
để tu học, quư vị chẳng có cách nào chứng
đắc địa vị Sơ Tín! Quư vị hăy nghĩ
thử xem, quư vị đă đoạn hết tám
mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới hay
chưa?
Tám mươi tám phẩm Kiến
Hoặc được quy nạp thành năm loại lớn:
1) Thứ nhất là Thân Kiến.
Quư vị xác thực đă phá trừ Thân Kiến, chẳng
c̣n coi thân này là ta. Thật sự phá trừ Thân Kiến, quư
vị tuyệt đối sẽ chẳng lợi dụng
thân thể này để tạo tội nghiệp. Thân này chẳng
phải là ta; v́ thế, quư vị chẳng dùng cái thân này
để tạo tội nghiệp.
2) Thứ hai là Biên Kiến. Nay
chúng ta gọi Biên Kiến là “tương
đối”. Phàm là kiến giải tương đối,
sẽ đều là Biên Kiến. Chân và vọng là tương
đối. Tà và chánh là tương đối. Thiện và
ác là tương đối. Khổ và lạc là tương
đối. Quư vị đọc Đàn Kinh, [sẽ thấy]
pháp sư Ấn Tông thỉnh giáo Lục Tổ: “Ngài từ
Hoàng Mai đến, đối với Thiền Định
và giải thoát, Ngũ Tổ lăo nhân gia nói theo cách nào?” Lục
Tổ đáp lời: “Thiền
Định và giải thoát là hai pháp, hai pháp chẳng phải
là Phật pháp, Phật pháp là pháp bất nhị”. Ấn
Tông nghe xong, kính phục. Đấy gọi là “chánh thuyết”! Phàm phu có ai chẳng
rơi vào hai bên (tức là Biên Kiến)? Các khoa học gia hiện
thời gọi [kiến giải ấy] là Tương Đối
Luận, tương đối là Biên Kiến.
3) Giới Thủ Kiến: Chẳng
phải là nhân mà chấp trước là nhân.
4) Kiến Thủ Kiến: Chẳng
phải quả mà chấp trước là quả, đều
là nẩy sanh kiến giải sai lầm đối với
nhân quả.
5) Loại cuối cùng không
thuộc vào bốn loại lớn trước, Tà Kiến
là tri kiến sai lầm.
Thảy đều đoạn
trừ [những kiến chấp ấy], mới là tín tâm hiện
tiền. Tín tâm ấy có tiêu chuẩn, chẳng phải là nói:
Chúng ta học Phật, thọ giới, xuất gia [sẽ
có tín tâm], chưa chắc! Trước kia, thầy Lư đă
bảo tôi, khi ấy, tôi vừa mới thọ giới. Sau
khi thọ giới, đến Đài Trung bái yết thầy.
Tôi c̣n chưa vào cửa, c̣n đang ở ngoài cửa, thầy
ở bên trong trông thấy, chỉ tôi nói: “Anh phải tin Phật, anh phải tin Phật”. Nói
“anh phải tin Phật”
đến mấy câu! Tôi đến trước mặt thầy,
tôi cũng ngơ ngác. Tôi đă xuất gia hai năm rồi
mới thọ giới. Sau khi thọ giới, quay về gặp
thầy, sao thầy bảo tôi phải tin Phật? Thầy
bảo tôi ngồi xuống, nói: “Tin
Phật chẳng dễ dàng! Có rất nhiều vị lăo ḥa
thượng học suốt một đời, đến
chết vẫn chẳng tin Phật”. Tôi mới hoảng
nhiên đại ngộ. “Tín vi đạo
nguyên, công đức mẫu” (Tín là nguồn đạo,
mẹ công đức). Đức Phật bảo quư vị
đừng sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng
ngữ, cớ sao quư vị chẳng làm được? Do
chẳng tin! Nếu quư vị tin tưởng, thảy đều
làm được! Do quư vị chẳng tin, cho nên mới chẳng
làm được. Từ chỗ này, hăy xét tín tâm của quư
vị. Thọ Tam Quy, quư vị chẳng làm được.
Quy y Phật là giác chứ không mê, quư vị vẫn mê mà chẳng
giác. Quy y Pháp là chánh chứ không tà, quư vị vẫn là tà chứ
chẳng chánh. Quy y Tăng là tịnh chứ không nhiễm,
sáu căn thanh tịnh chẳng nhiễm mảy trần, quư
vị vẫn là ô nhiễm. Tán thán quư vị mấy câu, bèn
cao hứng, đắc ư, vênh váo! Hủy báng quư vị
dăm câu, rầu rĩ mấy ngày, lấy đâu ra tịnh?
Lấy đâu ra tín? Quư vị mới biết tín tâm khó lắm!
Nay chúng ta cậy vào đâu? Cậy
vào kinh giáo. Chẳng nương tựa kinh giáo, quư vị lấy
đâu ra chánh tín? “Tín” của quư vị là mê tín, chẳng phải
là chánh tín. “Mê” là tôi tin, nhưng Phật là ǵ, chẳng biết!
Giáo là ǵ, không biết! Dẫu sao, tôi tin là được rồi!
Kẻ ấy mê tín! Có hữu dụng hay không? Vô dụng! Chẳng
thể giải quyết vấn đề. Nương theo
giáo huấn trong kinh luận, ḷng tin ấy được gọi
là “chánh tín”. V́ sao? Kinh luận
là chánh pháp. Nương theo giáo huấn trong chánh pháp,
đương nhiên niềm tin ấy là chánh tín, chẳng phải
là chân tín. Chánh tín và chân tín khác nhau. Chân tín là ǵ? Sau khi chứng
đắc, sẽ là chân tín. Tuy ta y giáo tu hành, ta vẫn
chưa chứng quả!
Chư vị phải hiểu:
Sơ Tín là chứng quả. Người thuộc địa
vị Sơ Tín là thánh nhân, chẳng phải là phàm phu. Chứng
đắc Sơ Quả, tuy quư vị vẫn chẳng ĺa
thoát lục đạo luân hồi, chắc chắn chẳng
đọa vào tam đồ, chính ḿnh thật sự nắm
chắc chuyện này, chẳng mê hoặc tí nào, quyết
định chẳng đọa tam đồ. V́ sao chẳng
đọa tam đồ? Người ấy chẳng tạo
nghiệp tam đồ! Tuy trong A Lại Da c̣n có chủng tử
tam đồ, nhưng chẳng có duyên. Chẳng tạo nghiệp
tam đồ, duyên đoạn mất; có nhân mà chẳng có
duyên, quả báo sẽ chẳng thể hiện tiền. Khởi
tâm động niệm c̣n có tham, sân, si, c̣n có thị phi, nhân
ngă, tự tư tự lợi, không được rồi!
Giả trất, chẳng thật!
Học Phật và Phật học
là hai chuyện, nhất định là phải phân biệt
rơ ràng. Học Phật là ǵ? Học tập kinh giáo mà chẳng
thực hành, đó là Phật học. C̣n “học Phật” là thật sự thực hiện.
Đức Phật dạy chúng ta như thế nào, bèn làm
đúng như thế ấy. Làm
đến một mức độ nhất định,
đến một khoảng thời gian nhất định,
sẽ hoảng nhiên đại ngộ, sẽ khế nhập.
Khế nhập th́ gọi là “chứng”,
chứng tiểu quả, chẳng phải là đại quả.
V́ thế, tiểu ngộ bao nhiêu lượt, đại ngộ
bao nhiêu lượt rồi mới có thể triệt ngộ.
Đại Thừa Bồ Tát thuộc địa vị
Sơ Tín trong Viên Giáo và Tu Đà Hoàn của Tiểu Thừa
đoạn phiền năo số lượng như nhau,
nhưng trí huệ khác hẳn! Xét theo trí huệ, A La Hán vẫn
chẳng sánh bằng [Sơ Tín Bồ Tát]. V́ sao? Trong đoạn
trước, Lư Trưởng Giả đă nói rất hay: “Tùng sơ tín tâm, Lư Sự viên
dung, đạt kỳ nguyện thể” (Từ sơ tín
tâm, Lư Sự viên dung, thấu đạt cái Thể của các
nguyện ấy), Ngài chỉ rơ: Bồ Tát thuộc địa
vị Sơ Tín có trí huệ cao. Tiểu Thừa tuy đă đoạn
phiền năo, trí huệ chẳng khai, đó là chỗ khác
nhau! Đại Thừa trí huệ đă khai, [Đại Thừa
Bồ Tát] là đại đạo tâm chúng sanh, là đại
tâm phàm phu, là một loại trong mười loại
đương cơ của kinh Hoa Nghiêm. Đại tâm phàm
phu có năng lực tiếp nhận Hoa Nghiêm, được
thọ dụng nơi Hoa Nghiêm.
Chúng ta phải hiểu tự
tánh vốn trọn đủ từ bi, trí huệ, vạn hạnh,
nhất định phải vâng theo giáo huấn của
đức Phật để tấn tu, chẳng có chi khác! Nếu
quư vị chẳng nương theo giáo huấn của Phật
Đà, quá nửa là sẽ đi theo tà huệ, sai mất rồi!
Người học Phật thật sự chẳng thể
không lưu ư, chẳng thể không biết điều này!
Thành tựu trong học Phật quư ở chỗ thật
thà, [tức là] thật thà theo thầy, y giáo phụng hành!
Làm được giáo huấn của thầy một
trăm phần trăm, quư vị chính là học tṛ ngoan, mới
có thể đạt thành tựu. Không thầy mà tự thông
suốt, Đàn Kinh đă nói, trước thời Oai Âm
Vương Phật th́ được; sau Oai Âm Vương
Phật mà “không thầy tự thông suốt”, đều là thiên
ma ngoại đạo! Tổ sư nói [như vậy], chẳng
phải là tôi nói. Nay chúng ta học Phật chẳng ĺa thầy.
Thầy mất, giáo huấn vẫn c̣n, vĩnh viễn ghi
nhớ trong ḷng, niệm niệm y chỉ, y giáo phụng
hành, chúng ta mới không đến nỗi lạc đường!
Tu Tịnh Độ, thầy
tôi đă bảo tôi: Quyết định phải y chỉ Ấn
Quang đại sư. Ấn Quang đại sư ở
nơi đâu? Toàn tập của Ấn Quang đại
sư vẫn c̣n. Hiện thời, toàn tập được
đóng b́a cứng thành một bộ dầy như thế,
gồm bảy quyển, hằng ngày có chẳng thể ĺa
khỏi. Đấy là y chỉ Ấn Quang đại sư.
Đọc hằng ngày, học hằng ngày, [những giáo huấn
trong ấy] sẽ trở thành nguyên tắc chỉ đạo
cho khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác suốt
ngày hôm ấy, suốt năm ấy, suốt cả một
đời, chớ nên trái phạm. Đó gọi là “y chỉ
thầy”. V́ sao chẳng y chỉ kinh Phật? Đức Phật
cách chúng ta quá xa, tổ sư gần chúng ta hơn. Tổ
sư học Phật rất giống, học thật sự
thành tựu, chúng ta lấy Ngài làm gương. Khi nào chúng ta
học theo Ngài đă thành, đă giống như Ngài; sau
đấy, vượt cao lên một cấp, lấy Phật
làm thầy. Hiện thời, lấy Phật làm thầy
chính là nói cho dễ nghe, chứ đâu có làm được!
Phật quá cao, chắc chắn là quư vị tu chẳng được.
Giống như đi học, lớp Một, lớp Hai, lớp
Ba chậm răi mà tiến. Nếu nói đến chuyện học
nhảy, Tiểu Học lẫn Trung Học đều chẳng
học, ngay lập tức học chương tŕnh Cao Học.
Đó là gạt người! Phải biết điều
này, phải cẩn thận, phải chú ư, chớ nên cuồng
vọng! V́ thế, hai câu khai thị này trọng yếu
hơn bất cứ điều nào khác!
Tiếp đó, Luận viết:
(Luận) Nhược ly Phật,
biệt hữu tự pháp giả, bất thành tín tâm, bất
thành thập chủng thắng giải, bất thành tu hành.
(論)若離佛別有自法者,不成信心,不成十種勝解,不成修行。
(Luận:
Nếu ĺa Phật mà tự có pháp nào khác, sẽ chẳng
thành tựu tín tâm, chẳng thành mười thứ thắng
giải, chẳng thành tu hành).
Đoạn này nói theo hướng
phản diện. Quư vị chẳng nương theo Phật
mà nương cậy chính ḿnh, [tự nghĩ] chính ḿnh rất
thông minh, chính ḿnh có cách thức riêng, thậm chí nói [cách thức
ấy] c̣n cao hơn Phật pháp. Đối với họ, Thích
Ca Mâu Ni Phật, A Di Đà Phật, chư Phật Như Lai
đều chẳng đáng để vào mắt! Hiện thời,
trên thế gian có kẻ như vậy hay không? Có, rất nhiều!
Tôi đă từng thấy, từng nghe nói, tôi chẳng dám
dính dáng đến họ. V́ sao? Họ cao quá! Trong tâm chúng tôi,
kinh điển rơ ràng là tiêu chuẩn, bày ra ngay trước
mặt chúng ta. V́ thế, hạng người như vậy,
tín tâm chẳng thành! Kinh Hoa Nghiêm nói mười tín tâm, kẻ
ấy chẳng có. Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại
sư đă nói sáu thứ tín tâm, kẻ ấy chẳng có!
[Người trọn đủ mười tín tâm, hoặc
sáu thứ tín tâm như tổ Ngẫu Ích đại sư đă
nói] chính là người chuyên tu Tịnh Độ, cầu
sanh thế giới Cực Lạc, thân cận A Di Đà Phật.
Trong sáu thứ tín tâm, đầu
tiên là “tín tự”. Chính ḿnh phải
có tín tâm, tin tưởng trong một đời này, chính ḿnh
nhất định có thể được sanh về Tịnh
Độ, có thể vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi.
Đó là điều kiện thứ nhất. Điều kiện
thứ hai là tín Tha, Tha là ai? A Di Đà Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nhất định phải có tín tâm đối với các
Ngài, phải nghe theo giáo huấn của các Ngài. Hai phẩm
Tam Bối Văng Sanh và Văng Sanh Chánh Nhân trong kinh Vô Lượng
Thọ rất quan trọng. Đức Phật đă dạy
chúng ta, chúng ta có làm được hay không? Chánh tu lẫn trợ
tu đều [được kinh Vô Lượng Thọ] nói
rất tỉ mỉ. Quư vị chẳng thể y giáo phụng
hành, chính ḿnh muốn tạo một kiểu cọ riêng, chắc
chắn là sai lầm, chắc chắn sẽ thất bại!
V́ thế, nhất định phải luôn ghi nhớ: “Tổng y Phật hữu, nhi vi tấn
tu” (Luôn nương vào Phật mà có, để rồi tấn
tu).
V́ thế, có thể biết:
Học Phật th́ học khởi đầu từ nơi
đâu? Tín, giải, hạnh, chứng. Học khởi đầu
từ đấy. Tín, giải, hạnh, chứng, các vị
tổ sư từ xưa đă sắp sẵn thứ tự
cho chúng ta. Thứ nhất là tin tưởng. Tin tưởng
th́ quư vị mới có thể nhập môn, mới có thể
cầu giải. Sau khi đă giải, ḷng tin ấy sẽ là
chánh tín. Sau khi đă hành, ḷng tin ấy mới là chân tín. V́
sao? Thông qua thực nghiệm, chứng minh đó là thật,
chẳng giả! Tín tâm vị, cái tâm thuộc địa vị
Sơ Tín là chánh tín, chân tín. V́ sao? Ngài đă chứng đắc,
đă đoạn trừ tám mươi tám phẩm Kiến
Hoặc, đă chứng đắc! Phải hiểu đạo
lư này! Nói dễ dàng lắm, trên thực tế, hết sức
khó khăn! V́ thế, trong thời kỳ Mạt Pháp, ngoại
trừ niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, chẳng
có con đường thứ hai nào để quư vị có thể
thành tựu tín tâm.
Nương theo giáo huấn của
đức Phật, cũng cần mất một thời
gian rất dài. Lâu năm chầy tháng, dùi mài chẳng bỏ!
Tôi nói với các quư vị đồng học: Từ khi thầy
giới thiệu Phật pháp cho tôi, trong năm mươi bốn
năm, tôi hằng ngày đều làm, chẳng có bữa nào
không đọc kinh, chẳng có ngày nào không giảng kinh. Ngồi
ở đây là giảng kinh, cùng tất cả các khách khứa
hoặc bạn bè nhà Phật tới lui tṛ chuyện, toàn nói
về kinh, chẳng dễ dàng! Mấy chục năm đều
như một ngày th́ mới có thể khế nhập cảnh
giới này. Tôi biết gian nan lắm! Con đường ấy
tôi đă từng đi, chướng ngại trên đường
rất nhiều, dụ dỗ mê hoặc trên đường
quá ư là nhiều! Quư vị có thể chịu nổi khảo
nghiệm hay không? Quư vị có thể ải nào cũng thuận
lợi vượt qua hay không? Bao nhiêu kẻ bị đào
thải, các đồng học của tôi cũng có! Thoạt
đầu, đều là phát tâm như nhau, phát tâm dũng
mănh khiến kẻ khác tán thán. Sau một vài năm, bị
đào thải. Nói chung là v́ chẳng ĺa khỏi tiếng
tăm, lợi dưỡng, trong là chẳng thể diệt
dứt tham, sân, si, mạn, bên ngoài là chẳng có cách nào cự
tuyệt sự dụ dỗ, mê hoặc của danh lợi.
Đấy chính là nguyên nhân gây đọa lạc.
“Bất
thành thập chủng thắng giải” (Chẳng thành
mười thứ thắng giải): Mười thứ thắng
giải chúng ta đă học trong phẩm Quang Minh Giác ở
phần trước. Các phẩm kinh trước (Quang Minh
Giác, Bồ Tát Vấn Minh) giảng về Giải, phẩm
kinh này nói về Hạnh, tức là: Sau khi đă giải, bèn
khởi tu. Mười thứ rất sâu ấy, chúng ta
đă học, nhưng mấy ai có thể thấu hiểu?
Mấy ai có thể khế nhập? Chẳng cần nói khế
nhập rất sâu, [khế nhập] một phần, hai phần
[mà thôi]! Chúng ta chia sự khế nhập ấy thành một
trăm phần. Quư vị có thể khế nhập một,
hai phần, suốt một đời này thọ dụng chẳng
hết, thật sự đạt được lợi
ích. Giống như khi thầy Phương giới thiệu
[Phật pháp] cho tôi, đă nói: “Học
Phật là sự hưởng thụ cao nhất trong đời
người”. Chư vị phải nghe lời ấy cho
rơ ràng, học Phật, chứ không phải là Phật học!
Phật học sẽ chẳng có cách nào đạt
được sự hưởng thụ cao nhất trong
đời người, học Phật mới được.
Học Phật là thật sự hành! Phật học là coi
kinh giáo như một môn học thuật để nghiên cứu,
không được rồi, đă biến thành học thuật
thế gian! V́ thế, học Nho phải học theo Khổng
Tử, học giống Khổng Tử như đúc! Học
Phật th́ phải học theo Phật Thích Ca, giống Thích
Ca Mâu Ni Phật như đúc, sẽ thành công! Bất luận
là thánh nhân thế gian hay xuất thế gian, đều có
cùng một phép tắc như nhau, đều phải là buông
xuống tự tư tự lợi, buông xuống tiếng
tăm, lợi dưỡng, buông xuống sự hưởng
thụ ngũ dục lục trần, buông xuống phiền
năo tham, sân, si, mạn. Đức Thế Tôn là như thế,
Khổng Tử cũng như thế. Nếu chúng ta chẳng
thấy thấu suốt, buông xuống những thứ ấy,
học cách nào cũng đều học chẳng giống! Nếu
quư vị muốn thật sự học cho giống, phải
triệt để buông xuống!
Chẳng đạt
được “thắng giải”,
tín tâm chẳng thành. Thắng giải chẳng thành,
đương nhiên là tu hành chẳng thành! Chúng ta phải nhận
thức rơ ràng hai chữ “tu
hành”. “Hành” là hành vi, hành vi quá nhiều! Đức Thế
Tôn quy nạp chúng thành ba loại lớn, động tác
nơi thân là thân nghiệp, ngôn ngữ là khẩu nghiệp,
khởi tâm động niệm là ư nghiệp. Hành vi dẫu
nhiều cách mấy, chẳng ra ngoài ba loại lớn ấy.
Ba loại hành vi lớn ấy phát sanh sai lầm, phải sửa
đổi, uốn nắn chúng, đó gọi là “tu hành”. V́ vậy, tu hành là sửa
đổi hành vi sai lầm thành chánh đáng. Chúng ta đă thấy
sai, nghĩ lầm đối với hết thảy người,
sự, vật, phải uốn nắn lại. Nói sai, kể
sai th́ phải sửa đổi cho đúng, làm sai th́ càng phải
sửa đổi cho đúng, uốn nắn cho đúng hành
vi sai lầm!
Phàm phu có hành vi sai lầm quá ư
là nhiều! Dựa vào đâu [để uốn nắn]? Dựa
theo kinh luận của đức Phật. Kinh luận là
căn cứ để chúng ta uốn nắn tư tưởng,
kiến giải sai lầm; giới luật nhằm uốn
nắn ngôn ngữ và tạo tác của chúng ta. Thân thể tạo
tác hết thảy các hành vi sai lầm, giới luật là
tiêu chuẩn. Tam Tạng Kinh Luật Luận giúp chúng ta tu
hành. Ĺa khỏi Kinh, Luật, Luận, quư vị chẳng có
tiêu chuẩn, tự nhiên chẳng thành tu hành! Chẳng có
Kinh, Luật, Luận [để hướng dẫn], sẽ
là phiền năo, là tập khí. Tùy thuận tập khí phiền
năo chính là tạo nghiệp. Khởi tâm động niệm
là tạo nghiệp, ngôn ngữ là tạo
nghiệp, các động tác nơi thân thể đều là
tạo nghiệp, tạo tác đủ mọi thứ bất
thiện. V́ thế, chiêu cảm khá nhiều thứ tai nạn
trong thế gian này, nguyên nhân là như thế đó.
Đoạn kế
tiếp nói rất hay:
(Luận) Thiết khổ hạnh
tinh cần, thị tà tinh tấn.
(論)設苦行精勤,是邪精進。
(Luận:
Dẫu khổ hạnh, tinh chuyên, siêng năng, vẫn là tà
tinh tấn).
Giả sử người tu
hành ấy tu khổ hạnh, tinh chuyên, siêng năng dụng
công, lũ b́nh phàm chúng ta trông thấy đều bị
người ấy làm cho cảm động, đều hết
sức tôn trọng, kính ngưỡng người ấy, chẳng
biết người ấy chẳng phải là chánh tinh tấn,
mà là tà tinh tấn! Sự khổ hạnh, tinh chuyên, siêng
năng ấy về sau chẳng đạt được
kết quả, chẳng thể khai ngộ, chẳng thể
chứng quả, sai mất rồi! Sai lầm ở chỗ
nào? Kẻ ấy chẳng nương vào kinh giáo, chẳng nương
theo giáo huấn của đức Phật. Sai lầm ở
chỗ này!
(Luận) Cần khổ lũy kiếp,
sanh nhân thiên trung, nhất niệm tham sân, nhất thời phần
tận.
(論)勤苦累劫,生人天中,一念貪瞋,一時焚盡。
(Luận: Siêng khổ bao kiếp, sanh trong đường trời,
người, do một niệm tham sân, đốt sạch
trong thoáng chốc).
Câu này chính là nói: Người
ấy đến cuối cùng chẳng có kết quả!
Người khác có thành tựu hay không, chẳng liên quan
đến ta. Điều quan trọng nhất là trông thấy
t́nh h́nh ấy, hăy hồi quang phản chiếu, xét xem chính
ḿnh có [vướng phải lỗi lầm ấy] hay không?
Đoạn sạch Kiến Tư phiền năo mới là tinh
tấn thật sự. Chẳng đoạn Kiến Tư
phiền năo, bất luận khổ hạnh, tinh tấn
như thế nào đi nữa, đều thuộc loại
tà tinh tấn. V́ thế, trong hàng trời người,
người ấy có phước báo. Do người ấy
tu hành nên có phước, không ngờ trong một niệm nào
đó, do một tâm niệm tham, bèn bị đọa lạc.
Một niệm sân khuể, địa ngục liền hiện
tiền, giống như lửa vậy. Phật pháp sánh ví
sân khuể như lửa. “Nhất
niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai” (Một
niệm sân tâm khởi, trăm vạn cửa chướng
ngại mở ra), hoàn toàn bị tiêu hủy!
Trong chánh pháp nhân thiên, chư
vị phải biết: Trong hai giới thuộc phía trên (Sắc
Giới và Vô Sắc Giới), chẳng có sân khuể. Chẳng
phải là họ đă đoạn, mà là do công phu định
lực chế phục. Chư thiên trong Sắc Giới chẳng
có sân khuể, chư thiên trong Vô Sắc Giới chẳng có
sân khuể. Đến khi nào th́ do một niệm tham sân, sẽ
đốt sạch trong thoáng chốc? Đến khi thọ
mạng của người ấy chấm dứt. Trong
kinh, đức Phật đă dạy: Chư thiên thuộc
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên có công phu tu hành cao nhất
trong tam giới lục đạo, nhưng họ chẳng
thoát khỏi lục đạo luân hồi. Thọ mạng
của họ lâu dài, tám vạn đại kiếp! Trong tám
vạn đại kiếp, họ chẳng dấy lên phiền
năo, v́ công phu định lực chế ngự. Khi đă hết
tám vạn đại kiếp, công phu định lực bị
mất đi, phiền năo dấy lên. Khi ấy, do một niệm
tham sân, đốt sạch trong thoáng chốc, trèo cao ngă
đau! Người trong Phi Tưởng Phi Phi Tưởng
Thiên sau khi mạng chung, đều đọa địa ngục,
do nguyên nhân nào? Chính họ tưởng ḿnh đă chứng
đắc quả vị rốt ráo thuộc cảnh giới
Đại Niết Bàn của Như Lai. Người trong Phi
Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên ngỡ đó là Niết
Bàn, rất hoan hỷ: Chứng đắc cảnh giới
cao như thế, sẽ bất sanh, bất diệt. Khi thọ
mạng đă hết, cớ sao c̣n có sanh tử? Vậy th́
những lời chư Phật Như Lai đă nói đều
là giả trất, chẳng thật. Ta đă chứng đắc,
v́ sao c̣n có sanh tử? Khi ấy, ư niệm báng Phật, báng Pháp,
báng Tăng dấy lên, quả báo là địa ngục A Tỳ,
chúng ta chớ nên không biết!
Trong quá tŕnh tu hành của
chính chúng ta, thời thời khắc khắc phải tự
ḿnh răn dè. Trong thuận cảnh, chẳng dấy tâm tham,
có tham niệm hay không? Hễ có tham niệm, sẽ là quỷ
đạo, súc sanh đạo. Trong nghịch cảnh, có oán
hận hay không? Có oán trời hờn người hay không? Nếu
có ư niệm ấy, sẽ là địa ngục đạo.
Công phu tu hành của chính chúng ta là trong cuộc sống hằng
ngày, đặc biệt là trong hoàn cảnh nhân sự. Chúng
ta cư xử với người khác, thấy người
này bèn ưa thích, thấy kẻ kia đáng ghét, [tức là]
chẳng có công phu, vẫn là phàm phu y như cũ! Có thể
văng sanh hay không? Chẳng thể! V́ sao? Phàm những ai sanh
vào Tây Phương Cực Lạc thế giới, đều
là bậc thượng thiện nhân. C̣n ưa thích kẻ
này, căm ghét kẻ kia, người ấy chẳng phải
là thượng thiện, chẳng thể văng sanh!
Do vậy, kinh nói về sự
văng sanh rất hay: “Tâm tịnh,
ắt cơi nước tịnh”. Quư vị phải thật
sự tu thành công cái tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm b́nh
đẳng, tâm từ bi, th́ mới có thể văng sanh. Lời
này do đức Phật nói, chẳng phải do tôi nói. Trong phẩm
Tam Bối Văng Sanh của kinh Vô Lượng Thọ, quư vị
thấy bậc thượng, bậc trung và bậc hạ, và
một đoạn sau đó là nhất tâm tam bối, có hai
câu trọng yếu nhất: “Phát
Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”,
phải ghi nhớ tám chữ ấy. Hiện thời, có rất
nhiều người như thế nào? Họ chỉ nắm
lấy “nhất hướng
chuyên niệm”, quên bẵng “phát
Bồ Đề tâm”. Kinh đă nói rơ ràng tám chữ, mà quư vị chỉ muốn học một
nửa. V́ thế, quư vị suốt một đời tinh
tấn, nỗ lực, vẫn chẳng thể văng sanh, [nguyên
nhân là v́] chẳng có Bồ Đề tâm!
Bồ Đề tâm là ǵ? Tôi
đă viết rơ ràng: “Chân thành
tâm, thanh tịnh tâm, b́nh đẳng tâm, chánh giác tâm, từ
bi tâm”. Đấy là Bồ Đề tâm. Trong cuộc sống
hằng ngày, chúng ta xử sự, đăi người tiếp
vật, quyết định chẳng trái nghịch mười
chữ ấy (chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh
giác, từ bi), phải học! Học ngay trong cuộc sống,
học ngay trong xử sự, đăi người, tiếp vật,
học dùng ḷng chân thành, chẳng hư ngụy. Người
khác dùng cái tâm hư ngụy đối với ta, ta tiếp
nhận. Ta chớ nên dùng [cái tâm hư ngụy] đối với
người khác. Cứ như vậy, có rất nhiều
người bảo: “Thưa pháp sư! Vậy th́ chẳng
phải là con chịu thua thiệt ư?” Chẳng sao cả!
Chịu một tí thua thiệt trong thế gian này, tương
lai đến thế giới Cực Lạc, sẽ chiếm
đại tiện nghi. Hiện tại, chẳng thể chịu
thua thiệt nhỏ nhoi, sẽ chẳng có phần trong thế
giới Cực Lạc. Hăy khéo tính toán chuyện này!
Người khác đối xử
với ta bằng cái tâm ô nhiễm, ta đối xử với
họ bằng cái tâm thanh tịnh. Người khác đối
xử với ta bằng sự kiêu căng, ngă mạn, ta
dùng tâm b́nh đẳng đối đăi họ. Người
khác đối với ta bằng ḷng tự tư tự lợi,
ta đối xử với người ta bằng ḷng đại
từ đại bi. Đấy gọi là “tu hành”. Tập khí phiền năo từ vô thỉ kiếp
tới nay đều phải mài giũa. Mài giũa trong cuộc
sống, trong công việc, trong xử sự, đăi người,
tiếp vật. Tất cả những góc cạnh đều
giũa sạch, mài cho tṛn quay, chúng ta niệm Phật luôn
luôn chuyên niệm th́ mới quyết định được
văng sanh! Nếu chỉ có “luôn luôn chuyên niệm”, chẳng có
Bồ Đề tâm, vẫn chẳng thể văng sanh! Quan trọng
lắm! Quan trọng hơn bất cứ điều nào
khác! Phát Bồ Đề tâm, luôn luôn chuyên niệm. Đặc
biệt là các đồng học trong Niệm Phật
Đường, chớ nên không biết, chớ nên không
đề cao cảnh giác.
Chúng ta lại xem phần Luận
kế tiếp:
(Luận) Thị cố thử phẩm
hạ văn vân: Trụ khứ lai kim chư Phật chi
đạo.
(論)是故此品下文云,住去來今諸佛之道。
(Luận:
V́ thế, trong phần kinh văn ở phía sau của phẩm
này có nói: “Trụ trong đạo của quá khứ, vị
lai, hiện tại chư Phật”).
“Trụ
khứ lai kim”: Khứ (去) là quá khứ,
lai (來)
là vị lai, kim (今) là hiện tại, tức
tam thế chư Phật. Chúng ta phải trụ trong đạo
của tam thế chư Phật, câu nói này có ư nghĩa ấy.
(Luận) Tùy chúng sanh trụ, hằng
bất xả ly.
(論)隨眾生住,恆不捨離。
(Luận:
Thuận theo chúng sanh để trụ, thường chẳng
ĺa bỏ).
Trụ cùng với chúng sanh,
quư vị mới có cơ hội để tu hành. Chúng sanh
dùng tâm bất thiện đối xử với ta, ta dùng
thiện tâm đối đăi họ. Chúng sanh dùng cái tâm
hư ngụy đối xử với ta, ta dùng cái tâm chân
thành đối xử với họ. Chúng sanh dùng ư niệm
ô nhiễm đối xử với ta, ta dùng tâm thanh tịnh
để đối đăi họ. Ĺa khỏi chúng sanh th́
đến đâu để tu? Chẳng có chỗ nào để
tu. V́ thế, “tùy chúng sanh trụ,
hằng bất xả ly”! Ở ngay trong chúng sanh để
mài giũa chính ḿnh nhẵn bóng, trụi lủi, tất cả
hết thảy các góc cạnh đều bị mài bằng!
Chư vị phải biết, ĺa khỏi chúng sanh, chẳng
có chỗ nào để tu hành! Người thật sự tu
hành chẳng ĺa chúng sanh.
(Luận) Như chư pháp tướng,
tất năng thông đạt.
(論)如諸法相,悉能通達。
(Luận:
Như các pháp tướng, thảy đều có thể
thông đạt).
Đây là Giải môn, cũng có
nghĩa là quư vị hiểu rơ, thông đạt chân tướng
của vũ trụ và nhân sinh. Đây chính là mười thứ
[thắng giải] rất sâu được nói trong phẩm
Quang Minh Giác thuộc phần trước. Hiểu rơ ràng chân
tướng sự thật, chúng tôi thường nói (nói tỉnh
lược) thành sáu chữ “Tánh,
Tướng, Lư, Sự, nhân, quả” của các pháp, sáu chữ
ấy! Hiểu rành mạch, rơ ràng Tánh, Tướng, Lư, Sự,
nhân, quả, chính là Giải môn. Sau khi đă thật sự giải,
chắc chắn sẽ…
(Luận) Đoạn nhất thiết
ác, cụ túc chúng thiện.
(論)斷一切惡,具足眾善。
(Luận: Đoạn hết thảy ác, đầy
đủ các điều thiện).
Chuyện này là chắc chắn!
Quư vị làm sao tạo ác cho được? Không chỉ là
chẳng có ác ngôn, chẳng có ác hạnh, mà ngay cả một
ác niệm cũng đều chẳng có. Con người thoải
mái, thật sự sung sướng! Đoạn hết thảy
ác, trọn đủ các điều lành th́…
(Luận) Đương như Phổ
Hiền sắc tượng đệ nhất, nhất thiết
hạnh nguyện giai đắc cụ túc. Dĩ thượng,
minh Tông Thú cánh.
(論)當如普賢色像第一,一切行願皆得具足,已上明宗趣竟。
(Luận:
Sẽ giống như Phổ Hiền, sắc tướng
bậc nhất, hết thảy hạnh nguyện thảy
đều trọn đủ. Trên đây đă giảng xong
phần Tông Thú).
Nếu chúng ta đă hiểu
rơ, đă minh bạch Tông Thú của phẩm này, quư vị nói
xem: Có cần phải học phẩm kinh này không? Chúng ta có cần
thật sự thực hiện hay không? Quư vị thật sự
thực hiện, trong tương lai sẽ được quả
báo giống như ngài Phổ Hiền, sắc tướng
bậc nhất, hết thảy các nguyện đều
được trọn đủ, chính là như nay ta nói “tâm tưởng sự thành”.
(Luận) Ư minh hồi phàm tiểu
sở chấp tâm cảnh sai biệt nghiệp, giai thành nguyện
hải, cụ Phổ Hiền môn.
(論)意明迴凡小所執心境差別業,皆成願海,具普賢門。
(Luận:
Nhằm dụng ư nêu rơ: Hăy xoay chuyển cái nghiệp sai biệt
được tạo thành bởi sự chấp trước
của phàm phu, Tiểu Thừa đối với tâm cảnh,
[khiến cho tâm địa ai nấy] đều trở
thành biển nguyện, đầy đủ Phổ Hiền
môn).
Chúng tôi giảng đoạn
văn này tới đây, vừa đúng lúc hiện thời đă
hết thời gian rồi!
Đại
Phương Quảng Phật
Hoa
Nghiêm Kinh
Phẩm
thứ mười một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần
4 hết
[1] Hai
mươi món phiền năo ở đây chính là Tùy Phiền
Năo (Upakleśa), bao gồm
Phẫn (giận dữ), Hận, (căm ghét), Phú (giấu
diếm tội lỗi), Năo (buồn bực lo rầu), Tật
(ghen ghét), Xan (keo kiệt), Cuống (dối trá), Siểm (nịnh
bợ), Kiêu (kiêu ngạo), Hại (có ư niệm làm hại kẻ
khác), Vô Tàm (chẳng biết tự hổ thẹn), Vô Quư (chẳng
hổ thẹn khi người khác biết ḿnh làm chuyện
xấu), Hôn Trầm, Điệu Cử (lao chao, nhấp nhổm,
tâm lăng xăng chẳng định), Bất Tín, Giải
Đăi, Phóng Dật (buông lung), Thất Niệm (không giữ
được chánh niệm), Tán Loạn và Oai Tri (hiểu
biết cong vạy). Do các thứ phiền năo này từ sáu
căn bản phiền năo tham, sân, si, mạn, nghi, và bất
chánh kiến phát sanh, nên gọi là Tùy Phiền Năo hoặc Chi
Mạt Hoặc.
[2] Nội Phàm là
những người chưa thật sự chứng đắc,
thuộc địa vị Tự Giải (dường
như ngộ nhập, nhưng chưa thật sự ngộ
nhập). Ngoại phàm là chưa đạt đến địa
vị Tự Giải.
Nếu
xét theo Tiểu Thừa, các địa vị đă chứng
đắc Ngũ Đ́nh Tâm Quán, Biệt Tướng Niệm
Xứ và Tương Tục Niệm Xứ vẫn thuộc
về Ngoại Phàm, những vị đă chứng Noăn,
Đảnh, Nhẫn, Thế Đệ Nhất Pháp th́ gọi
là Nội Phàm.
Nếu
xét theo Đại Thừa, địa vị Thập Tín thuộc
Ngoại Phàm, từ Thập Trụ trở lên cho đến
Thập Hồi Hướng thuộc Nội Phàm. Như vậy
là trong năm mươi mốt địa vị Bồ Tát
của Viên Giáo, chỉ có những địa vị Bồ
Tát thuộc Thập Địa là thánh nhân thật sự,
c̣n địa vị Tam Hiền (Thập Trụ, Thập Hạnh,
Thập Hồi Hướng) và Thập Tín đều bị
coi là phàm phu, hoặc gọi là “tương tự thánh nhân”.
[3] Đẳng
Giác được gọi là địa vị thứ
mười một v́ là địa vị kế tiếp của
Thập Địa.