Đại Phương Quảng
Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần
40
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh
Không
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy
tháng Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ
tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ
Trang và Minh Tiến
Tập 1541
Chư vị
pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi
xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười
một, tiểu đoạn thứ ba trong đoạn lớn
thứ sáu của phần kệ tụng, tức là phần “sở ngộ nhân vật” (所遇人物,
những nhân vật được gặp gỡ). Xin xem
bài kệ tụng thứ hai:
(Kinh) Kiến vô nghiêm sức, đương nguyện
chúng sanh, xả chư sức hảo, cụ Đầu
Đà hạnh.
(經)見無嚴飾。當願眾生。捨諸飾好。具頭陀行。
(Kinh: Thấy chẳng nghiêm sức,
nguyện cho chúng sanh, bỏ các trang sức, đủ hạnh
Đầu Đà).
Hai
bài kệ này khiến cho chúng ta thấu hiểu rất rơ
ràng: Trong thế gian này cho đến lục đạo, tam
đồ, mười pháp giới, xác thực là “ai nấy là người tốt,
chuyện nào cũng đều là chuyện tốt”. Quư vị
thấy bài kệ thứ nhất trong phần trước
là “kiến nghiêm sức nhân” (thấy
người trang nghiêm), nay chúng ta thường nói là trang phục
trịnh trọng và lễ nghi đoan trang. Bài kệ thứ
hai hoàn toàn tương phản, [nói về những người]
ăn mặc và oai nghi rất tùy tiện, chẳng chưng
diện bất cứ thứ ǵ, chẳng có bất cứ
trang sức ǵ. Đấy là những người được
gọi là “dân đen trên
đường phố”. Bồ Tát trông thấy người như vậy, hạng
người này đông lắm! Rốt cuộc những
người có địa vị cao, chúng ta gọi họ là
“quan to, trưởng giả giàu sụ”,
thuộc tầng lớp ăn trên ngồi chốc trong xă hội
rốt cuộc là thiểu số, dân chúng b́nh phàm rốt cuộc
là đại đa số. Bồ Tát tiếp xúc với họ,
sẽ dẫn phát đại nguyện xứng tánh, “đương nguyện chúng
sanh, xả chư sức hảo, cụ Đầu Đà hạnh”
(nguyện cho chúng sanh, bỏ các trang sức đẹp
đẽ, đầy đủ hạnh Đầu Đà).
Hạnh Đầu Đà thường được gọi
là Khổ Hạnh Tăng.
Đức
Phật dạy các đệ tử phải buông xuống hết
thảy; tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần thảy đều phải
buông xuống. V́ sao phải buông xuống? V́ những thứ
ấy chướng ngại tự tánh của chính ḿnh, quư vị
sẽ chẳng khai ngộ. Trong kinh, đức Phật
đă dạy rất hay: “Hết
thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng
của Như Lai”. Như Lai (Tathāgata, 如來) nghĩa là ǵ? Như Lai là “vốn sẵn có”,
tự tánh vốn sẵn có, tự nhiên. Quư vị thấy
kinh Kim Cang giải thích ư nghĩa của [danh hiệu]
Như Lai: “Như Lai giả, chư
pháp như nghĩa” (Như Lai là nghĩa Như của
các pháp). “Chư pháp” là nói về
pháp tướng, hoặc hiện tướng. “Như” (如) là ǵ? Đúng như tánh của chúng. Các pháp
[đều là] tướng như tánh của nó, trong tánh trọn đủ vô lượng trí huệ, trọn
đủ vô lượng đức năng, trọn đủ
vô lượng tướng hảo, chẳng có thứ ǵ quư
vị cần phải cầu từ bên ngoài! Hễ hướng
ra ngoài để cầu, sẽ chẳng cầu được.
Đức Phật dạy chúng ta hướng vào trong để
cầu, đừng hướng ra ngoài để cầu, bên
trong vốn sẵn trọn đủ, chỉ cần trừ
khử chướng ngại. Chướng ngại là ǵ? Vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước! Xác thực
là như kinh luận thường nói: “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng”
(Trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng).
Nói khẳng định như thế, chẳng có mảy
may nghi hoặc, do nguyên nhân nào? Quư vị vốn sẵn có. Nói
thật thà, chẳng phải là quư vị cầu được,
mà là quư vị hiện tại vốn sẵn có, trí huệ
vốn có hiện tiền!
Trong
thời đại đức Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật
thường tán thán [người hành hạnh] Đầu
Đà bậc nhất là ai? Tôn giả Ca Diếp, [tức
ngài] Ma Ha Ca Diếp (Mahākāśyapa). Ngài Ma Ha Ca Diếp xuất sanh từ tầng
lớp quư tộc, Ngài đă hiểu rơ, đă giác ngộ,
bèn theo Thích Ca Mâu Ni Phật học tập. Đối với
mười sáu chữ như chúng tôi thường nói, “tự tư tự lợi (ích kỷ),
tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục
trần, tham, sân, si, mạn”, Ngài đă bỏ sạch
sành sanh, hành theo Thích Ca Mâu Ni Phật, giống như Thích
Ca Mâu Ni Phật, giữa trưa ăn một bữa, nghỉ
đêm dưới cội cây, hằng ngày khất thực, khất thực từng nhà. Đă thế, tôn
giả Ca Diếp chuyên môn đến khất thực ở nhà người nghèo khổ. V́ sao? Ngài nói những
người ấy rất đáng thương, đời trước họ không biết tu bố thí cúng
dường. V́ thế, bị quả báo nghèo túng, hèn kém. Ngài
Ca Diếp đă chứng đắc quả A La Hán, là bậc
thánh nhân, đến nhà kẻ nghèo khổ, người
ta cúng dường Ngài chút ít thức ăn, họ sẽ
được phước báo, Ngài từ bi quá! Nói cách khác,
khiến cho hết thảy khổ nạn chúng sanh nương
cậy ngài Ca Diếp làm phước điền. Quư vị
cúng dường, bố thí cho Ngài [đời này], đời
sau sẽ được phước, Ngài là phước
điền chân chánh. Đức Thế Tôn tán thán Ngài là vị
Đầu Đà bậc nhất trong các vị đệ tử.
Quư
vị có thể buông xuống, tâm sẽ thanh tịnh, tâm sẽ
b́nh đẳng, tâm sẽ định. Định sanh ra Huệ,
trí huệ hiện tiền. Không chỉ là trí huệ hiện
tiền, mà phước báo cũng hiện tiền. Nói đến
trí huệ, đại khái là đại chúng chúng ta chẳng
hoài nghi, đức Phật và các đại đệ tử
xác thực có trí huệ, nhưng nói đến phước
báo, người ta sẽ hoài nghi. Thuở đức Thế
Tôn tại thế, hằng ngày đi khất thực,
người Hoa gọi là “khất
cái” (乞丐, ăn mày), đi khất thực từng
nhà, vậy mà coi là phước báo ư? Sống kiểu
đó mà gọi là “phước
báo”, vậy th́ “không có phước báo” là ǵ? V́
thế, chẳng khỏi khiến cho người ta sanh khởi
nghi hoặc. Nhưng nếu quư vị thật sự hiểu
rơ đạo lư trong ấy, quư vị mới có thể hoảng
nhiên đại ngộ, phước báo của Ngài thật
sự to hơn chúng ta. Nay chúng ta cần phải có nhà cửa
để che gió đụt mưa, người ta nghỉ
đêm dưới cội cây, bất luận gió giật,
mưa tuôn, Ngài thấy chẳng sao cả, chẳng ngă bệnh; đấy có phải là phước
báo hay không? Nếu chúng ta ngồi ngoài trời suốt một
đêm, ngày hôm sau chỉ sợ sẽ phải đi bệnh
viện, quư vị hăy ngẫm xem có đúng như vậy hay
chăng? Khất thực để có cái ăn, một bát
cơm xin từ khá nhiều nhà, quư vị nói ăn uống
kiểu đó có được vừa ư hay không? Ăn uống
kiểu đó có vệ sinh hay không? Người hiện thời
nhất định sẽ nghĩ như vậy. Trong ấy
có một đạo lư to lớn: Những bậc thánh giả
ấy đều có bản lănh, cảnh chuyển theo tâm, bất
luận thức ăn như thế nào, chua, ngọt, đắng,
cay, mặn đều ở trong một bát, các Ngài xác thực
đă vận dụng ư niệm của chính ḿnh, biến nó thành
thượng
vị ngon lành nhất, chúng ta tin
tưởng [chuyện này].
Phàm
phu tăng trong thế gian chẳng đạt đến
địa vị thánh hiền; nhưng hiểu đạo
lư này th́ sẽ đều có thể dùng ư niệm của
chính ḿnh để chuyển biến cảnh giới, huống
hồ thánh nhân, huống hồ bậc đại thánh, chẳng
phải là tiểu thánh! Trong kinh, Thích Ca Mâu Ni Phật đă bảo chúng ta, tôn giả Ca Diếp đă sớm thành Phật,
Ngài là bậc cổ Phật thừa nguyện tái lai
(nương theo nguyện để trở lại thế gian ḥng hóa độ
chúng sanh). Đó gọi là “một
vị Phật ra đời, ngàn vị Phật ủng hộ”.
Ca Diếp, A Nan đều chẳng phải là phàm nhân; Xá Lợi
Phất, Mục Kiền Liên có vị nào chẳng phải là
cổ Phật tái lai? Bất luận thứ ǵ đưa đến
trước mặt các Ngài, các Ngài đều có thể dùng
ư niệm chuyển nó thành thứ thù thắng nhất. Chính
thân thể các Ngài cũng là như vậy; v́ thế, thân các
Ngài được gọi là “kim
cang bất hoại thân”, chẳng bị hoàn cảnh bên
ngoài quấy nhiễu, cũng không bị trúng nắng, mà
cũng chẳng bị cảm lạnh. Quư vị nói xem,
đấy có phải là phước báo hay không? Đấy
có phải là tự tại hay không?
Lại
thưa cùng chư vị rơ ràng hơn đôi chút, quư vị rất
khó tin tưởng
chuyện này. Chúng ta ở
trong uế độ, các Ngài trụ trong Tịnh Độ.
Đôi khi đức Thế Tôn cũng thị hiện
đôi chút. Có các vị đệ tử đă hướng
về lăo nhân gia thỉnh giáo: “Bạch đức Thế
Tôn, Tịnh Độ của Ngài ở nơi đâu? Có thể
cho chúng con thấy hay chăng?” Đức Phật chẳng
keo tiếc, Ngài đang ngồi xếp bằng, bèn duỗi
chân ra, nhấn ngón chân xuống mặt đất, toàn thể
đại địa biến thành thế giới Cực Lạc: Đất do các thứ báu hợp thành, chẳng
phải là bùn, cát! Thấy cơi Thật Báo Trang Nghiêm của Thích
Ca Mâu Ni Phật chẳng khác thế giới Cực Lạc
và thế giới Hoa Tạng. Đức Phật cười
x̣a, cảnh giới ấy ngay lập tức chẳng c̣n nữa.
Đó là đức Phật hiện bày cho quư vị thấy
Ngài thật sự trụ trong Tịnh Độ. Ngài ở
trong ngạ quỷ đạo, ở súc sanh đạo, hoặc
trong địa ngục đạo, vẫn là trụ trong Tịnh
Độ; tịnh và uế chẳng hai!
Do
đâu mà có Tịnh Độ và uế độ? Tâm thanh tịnh,
ắt cơi nước tịnh. Đức Thế Tôn thị
hiện ḥa quang đồng trần với chúng ta trong thế
gian này; trên thực tế, Ngài trụ trong Tịnh Độ.
Chúng ta mắt thịt thấy Ngài giống như chúng ta,
đó là hiện tướng do ư niệm của chúng ta biến
ra, chứ trong cái tâm thanh tịnh của Ngài sẽ khác hẳn.
Ngài thấy thế gian tuyệt đối chẳng giống
như chúng ta đang thấy thế gian này! Chuyện này khiến
cho chúng ta chú tâm suy nghĩ thí nghiệm với nước của
tiến sĩ Giang Bổn Thắng; từ chỗ này, quư vị
có thể t́m được đôi chút tin tức. Tâm của
mỗi người chúng ta khác nhau, ư niệm khác nhau; mỗi
người làm thí nghiệm, nước sẽ kết tinh
chẳng giống nhau. Ông ta kể với tôi, suốt mười
năm làm thí nghiệm mấy chục vạn lần,
chưa từng có hai mô thức kết tinh hoàn toàn giống
nhau. Cùng một người, do niệm trước chẳng
giống niệm sau, làm sao nó (kết tinh của nước)
giống nhau cho được?
Tốc
độ khởi tâm động niệm của phàm phu quá
nhanh chóng. Hiện thời, các nhà khoa học phát hiện,
cũng khẳng định: Tất
cả hết thảy vật chất là hiện tướng,
chẳng phải là thật. Trong kinh Bát Nhă, đức Phật
đă nói rất rơ ràng: “Phàm những
ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”. Những
hiện tượng ấy do đâu mà có? Từ Pháp Tánh biến
hiện. Pháp Tánh có thể hiện, hiện tướng (cái tướng được
hiện ra) chính là pháp
tướng, là cái được hiện (sở hiện).
Thời gian hiện ra rất ngắn, chúng ta thấy dường
như hiện tướng là có thật, tồn tại. Thật ra, nó là tướng tương tục
(liên tục tiếp nối), chẳng thật. Chúng ta nói nó
sanh diệt trong từng sát-na, sanh diệt là biến hóa. [Dẫu
nói] “sanh diệt trong từng sát-na”,
[nói kiểu đó] là nói thời gian đă khá dài. Hiện
tướng sanh ra bèn diệt mất, gần như là sanh
diệt đồng thời. Tôi thường nói, trong phần
trước, tôi đă nói vài lần, hiện tướng tồn
tại xác thực là trong một phần ức vạn giây,
thời gian quá ngắn, ngắn đến nỗi quư vị
chẳng có cách nào tưởng tượng, nhưng do tướng
tương tục liên tiếp của nó chúng ta mới trông
thấy, chứ sự sanh diệt của hiện tướng
chúng ta chẳng có cách nào nh́n thấy! Kinh Hoa Nghiêm nói người
nào mới có thể trông thấy? Từ Bát
Địa, tức Bát Địa Bồ Tát trở lên! Hoa
Nghiêm là Viên Giáo Đại Thừa, Bát Địa Bồ Tát
mới trông thấy tướng sanh diệt ấy. Do vậy,
mỗi tướng đều chẳng hoàn toàn giống
nhau, chúng là tương tự, chẳng giống nhau.
Vật
lư nói theo các nhà khoa học trong hiện thời, bất
luận là vĩ mô hay vi mô, đều chẳng thể nói vượt
hơn kinh Hoa Nghiêm được,
chẳng có cách nào vượt khỏi phạm vi của kinh
được. Đấy là chân
tướng sự thật, chân
tướng là như thế; do vậy, vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước của quư vị chắc
chắn là sai lầm. Quư vị thật sự thông đạt,
hiểu rơ, vọng tưởng sẽ đoạn trừ.
V́ sao? Quư vị chẳng c̣n lo âu ngày mai ta sẽ lo liệu cuộc sống như thế nào? Trong tự tánh của
quư vị vốn sẵn có, viên măn trọn đủ, có c̣n
cần phải kinh doanh, lo liệu mong cầu nữa hay không? Cần chứ! V́ sao? Quư vị chẳng kiến
tánh. Chỉ cần quư vị kiến tánh, sẽ chẳng cần [phải lo toan]! Kiến tánh là ǵ? Chỉ cần quư vị buông
xuống, triệt để buông xuống, sẽ chẳng cần [phải lo toan], nó tự nhiên hiện tiền, mầu nhiệm
chẳng thể diễn tả được! Khi công phu của
chúng ta c̣n chưa đủ, ta buông xuống, buông xuống
chẳng đủ triệt để, đă buông xuống
nơi Sự, nhưng Lư một mực lộn xộn, hoàn
toàn chẳng rơ ràng, không sao cả! Quư vị thật sự
đi theo con đường này, phải tin tưởng những
điều kinh đă dạy. Trong kinh Kim Cang, đức Phật
đă phó chúc hàng đại Bồ Tát nhất định phải
thường chiếu cố tiểu Bồ Tát, [bởi lẽ], tiểu Bồ Tát chưa kiến tánh.
Định nghĩa [để phân định] đại Bồ
Tát và tiểu Bồ Tát là “kiến
tánh”. Kiến tánh th́ mới gọi là Ma Ha Tát, tức đại
Bồ Tát; chẳng kiến tánh th́ gọi là Bồ Tát. V́ thế,
Bồ Tát triệt để buông xuống, có khi phước
báo chẳng thể hiện tiền, đi khất thực
ôm bát rỗng, chẳng có ai cúng dường, Ngài có sanh phiền
năo hay không? Chẳng sanh phiền năo, đói một ngày cũng
chẳng sao cả! Đói hai ngày cũng chẳng sao, luôn
luôn rất vui sướng, rất tự tại. Đại
Bồ Tát sẽ chiếu cố, chúng ta phải tin tưởng
điều này!
Chúng
ta xem Hư Vân Lăo Ḥa Thượng Niên Phổ, vị này là
người thời cận đại, chẳng cách chúng ta
quá xa. Lăo ḥa thượng từng đến Hương Cảng;
tôi nghe nói Ngài ở Hương Cảng hơn một tháng.
Quư vị thấy Ngài triều bái Ngũ Đài sơn, ba
bước một lạy. Lạy suốt hai, ba năm mới
lạy đến Ngũ Đài sơn. Trên đường,
đi qua chỗ núi hoang, đồng vắng, là những chỗ không có người,
Ngài ngă bệnh. Quư vị nói xem có đáng thương lắm
hay không! Ngài bị bệnh ngă lăn ra đất, không có ai
chăm sóc. Trong lúc nguy nan ấy, gặp một người
khất cái (ăn mày), người ăn mày ấy chăm
sóc, giúp đỡ Ngài dưỡng bệnh. Dưỡng cho
đến khi thân thể gần như khôi phục, Ngài lại
vừa đi vừa lạy tiếp, người ăn mày
cũng rời đi. Sư hỏi người ăn mày:
“Ông tên là ǵ?” Người ăn mày bảo: “Tôi tên là Văn Cát,
Văn (文) trong văn chương, Cát (吉) trong cát tường”. Hỏi người ấy
ở chỗ nào? [Đáp]: “Tôi ở Ngũ Đài Sơn”.
Sư rất hoan hỷ, nguyên lai ông ta từ Ngũ Đài
đến! Đường quá dài, thời gian cũng quá
dài, lần thứ hai ngă bệnh, lại gặp người
ấy, lại được người ấy chăm
sóc. Sau khi đă tới Ngũ Đài sơn, chuyện đầu tiên là Sư liền hỏi ḍ có ai biết Văn
Cát hay không? Pháp sư ở Ngũ Đài sơn bảo
sư: “Văn Cát là Văn Thù Bồ
Tát”. Sư mới hoảng
nhiên đại ngộ, trên đường gặp gỡ
khổ nạn, Bồ Tát đến chăm sóc Ngài. [Chuyện
này] chứng minh lời đức Thế Tôn phó chúc hàng Bồ
Tát trong kinh Kim Cang là thật, chẳng giả, tức là đại
Bồ Tát phải chăm sóc tiểu Bồ Tát! Phật, Bồ
Tát dùng thân h́nh ǵ không nhất định. Nói chung, hễ quư
vị gặp khổ nạn, nhất định là sẽ
có người chiếu cố!
Đến
khi quư vị minh tâm kiến tánh sẽ khác hẳn; v́ sao?
Chúng tôi nói, quư vị có “công năng đặc dị”, mọi chuyện đều biết trước,
ngày hôm nay ra khỏi cửa sẽ gặp những ai, gặp
chuyện ǵ, chính ḿnh đều biết. Cũng có một tấm
gương hết sức tốt đẹp, [tức là] Thiền
Tông Lục Tổ Huệ Năng đại sư! Đó là
ǵ? Đó là bậc minh tâm kiến tánh. Thuở ấy, Sư
tuổi tác chẳng cao, hai mươi bốn tuổi. Ngũ
Tổ truyền y bát cho Ngài, biết kẻ mong tranh đoạt
y bát rất nhiều: “Pháp có thể truyền cho
ngươi, nay ngươi chẳng thể ra mặt! Hễ
ra mặt, sẽ có người hại ngươi”. Do vậy,
Tổ dạy Sư xuôi Nam lánh nạn. Tuy thầy chỉ
điểm một phương hướng, Ngài hiểu rất
rơ ràng. Ở thôn Tào Hầu, Ngài gặp tỳ-kheo-ni Vô Tận
Tạng. Đây cũng là một vị thật sự tu hành, suốt đời thọ tŕ kinh Niết
Bàn. Kinh Niết Bàn phân lượng cũng rất dài. [Tỳ-kheo-ni]
thường xuyên đọc tụng, tâm địa thanh tịnh,
nhưng chẳng hiểu nghĩa lư trong kinh! Gặp Huệ
Năng đại sư, Huệ Năng đại sư không biết chữ, tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng hướng về Ngài thỉnh giáo nghĩa lư trong kinh. Ngài Huệ Năng bảo
tỳ-kheo-ni: “Bà hăy niệm cho ta nghe”. Bà ta đọc kinh Niết
Bàn từ đầu đến cuối một lượt,
Huệ Năng đại sư giảng giải, bà ta liền
khai ngộ. V́ thế, trong một đời Huệ
Năng đại sư, trong bốn mươi ba người
học tṛ đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh của Ngài, tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng là vị
đầu tiên. Thuở ấy, Huệ Năng đại
sư hai mươi bốn tuổi, c̣n chưa hiện
tướng tỳ-kheo, c̣n đang lánh nạn. Điều
này cho thấy điều ǵ? Chứng tỏ đă thọ dụng
trí huệ và đức tướng của chính ḿnh trong hiện tiền, chính ḿnh hiểu rành mạch, hiểu
rơ ràng, Ngài có “công năng đặc
dị” như chúng ta đang nói trong hiện thời, chẳng
phải là không có!
Huệ
Minh muốn đoạt y bát. Vị này vốn là tứ phẩm
tướng quân xuất thân, thật sự t́m được
Sư. Huệ Năng đại sư thấy ông ta đuổi
đến, chẳng có cách nào, để y bát trên một tảng
đá to, chính ḿnh núp trong rừng. Huệ Minh thấy y bát, toan
nhắc lên, nhưng chẳng lay động được.
Ông ta bèn biết là thứ ấy có thần hộ pháp; v́ thế,
vội vă sám hối, thỉnh cầu Sư: “Tôi chẳng phải
v́ y bát, do cầu pháp mà đến”. Huệ Minh là người
thứ hai đắc độ. Ngài bèn bước ra, thuyết
pháp cho ông ta. Vừa thuyết pháp, ông ta thấu hiểu,
khai ngộ. Quư vị chú tâm quan sát sẽ hiểu: “Hết thảy chúng sanh đều
có trí huệ và đức tướng của Như Lai, chỉ
v́ vọng tưởng và chấp trước mà chẳng thể
chứng đắc”, v́ sao quư vị không chịu buông xuống?
Do đó, tôi nói mười sáu chữ, đó là chướng
ngại cơ bản. “Tự
tư tự lợi, tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ
dục, lục trần,
tham, sân, si, mạn”
là mười sáu chữ. Nếu chẳng chịu buông xuống
mười sáu chữ ấy, sẽ chẳng tiến vào cửa
Đại Thừa được. Không chỉ là chẳng vào được cửa Đại Thừa, mà Tiểu Thừa
cũng chẳng tiến vào được luôn! Quư vị
vĩnh viễn ở ngoài Phật môn, chẳng nhập môn.
V́
thế, Phật pháp khẳng định “chúng sanh b́nh đẳng, muôn pháp b́nh đẳng”.
Phật pháp khẳng định “vũ
trụ hài ḥa, chúng sanh hài ḥa”, hễ trái nghịch Tánh Đức, nhất định sẽ sanh ra rối loạn.
Khi nào sẽ trái nghịch Tánh Đức? Khoa học kỹ
thuật đạt tới một độ cao nhất
định, sẽ nẩy sanh hiện tượng này. Các
nhà khoa học ngoại quốc cho biết, sinh vật trên quả
địa cầu này đă bị hủy diệt rồi lại
xuất hiện mấy lần. Chẳng phải là một
lần, tối thiểu là ba, bốn lần, nhưng nói theo Phật pháp, sẽ là vô số lần,
các khoa học gia đă chứng minh ba, bốn lần. Trong
một lần trước, cách hiện thời khoảng
năm vạn năm trước kia, khoa học kỹ thuật
trên địa cầu phát triển tột bậc, [thời kỳ đó] được gọi là nền văn minh Á
Đặc Lan Đề Tư (Atlantis). Thuở ấy, nguồn
năng lực lấy từ vũ trụ, tàu thủy và xe
cộ chẳng gây tiếng ồn, chẳng ô nhiễm, khoa
học c̣n tiến bộ hơn hiện tại, nhưng con
người như thế nào? Chôn vùi đạo đức,
tin tưởng khoa học, chẳng tin thần, chẳng
tin luân lư, đạo đức, cũng chẳng tin tưởng
nhân quả, thuận theo tập khí phiền năo của chính
ḿnh mà giết, trộm, dâm, dối, tạo vô lượng
vô biên tội nghiệp, chiêu cảm toàn thể thế giới
bị hủy diệt! Sau khi thế giới bị hủy
diệt, lại khởi sự từ đầu, đấy
là lần trước!
Hiện
thời, khoa học kỹ thuật trong thế gian này phát
triển cũng chẳng sai kém [thuở ấy] cho mấy,
cũng đă đạt tới điểm băo ḥa! Quư vị
chú tâm quan sát, sẽ có thể nh́n ra
điềm báo trước. Quư vị lại có cơ sở
Phật pháp, dùng cơ sở ấy để quan sát thế
giới này, [sẽ thấy] vũ trụ vốn là hài ḥa,
địa cầu vốn là hài ḥa, giữa loài người
với nhau cũng vốn là hài ḥa, hiện thời th́ sao? Bất
ḥa! Do bất ḥa, sẽ nẩy sanh vấn đề. Quư vị
lại nh́n từ nhân quả, sẽ thấy rơ ràng hơn: Mặc
t́nh giết hại chúng sanh, mặc sức phá hoại hoàn cảnh sanh thái tự nhiên,
quư vị nhất định sẽ bị chúng nó giáng trả;
đó gọi là “báo ứng”.
Quư vị chẳng thể cư xử ḥa thuận với
chúng nó, chẳng thể đối đăi b́nh đẳng, cứ
ngỡ chính ḿnh rất ưu việt, có thể làm chúa tể
của thiên nhiên, có thể cải tạo thiên nhiên. Thiên
nhiên sẽ trả thù quư vị bằng trời long đất
lở! Chúng ta gọi sự nghiêm trọng này là “vỏ địa cầu biến
hóa”, lục địa biến
thành biển khơi, từ biển khơi lại trồi
lên lục địa mới, đấy là ǵ? Nó phản
kháng. Cách nói theo kiểu ấy rất nhiều, cách nói ấy
lại c̣n tồn tại từ rất nhiều năm
trước. Nhà tiên tri Nặc Tra Đan Mă Tư (Nostradamus)[1]
của Pháp từ bốn trăm năm trước đă
nói rất rơ ràng, người châu Âu tin tưởng!
Do
vậy, hiện thời, xác thực là chúng ta phải lớn
tiếng kêu gào, hy vọng cư dân đang sống trên địa
cầu sẽ giác ngộ, sẽ “quay
đầu là bờ”, quyết định chớ nên phá
hoại hoàn cảnh tự nhiên, chớ nên phá hoại sự
cân bằng sanh thái, chớ nên ăn thịt chúng sanh, chớ
nên giết hại chúng sanh nữa! Trong kinh, đức Phật
đă rát miệng buốt ḷng khuyên bảo chúng ta làm thế
nào để thế giới này vĩnh viễn chẳng có
chiến tranh. Chúng ta mong mỏi điều này,
đức Phật bảo có một phương pháp: Chỉ
cần chúng sanh không ăn thịt, thế gian sẽ chẳng
có chiến tranh. Đạo lư này rất ư là sâu, [nếu
hiểu đạo lư này], quư vị sẽ có thể hiểu
lục đạo luân hồi.
Ấn
Độ giáo thừa nhận lục đạo luân hồi,
Phật giáo khẳng định lục đạo luân hồi.
Ấn Độ giáo [xuất hiện] sớm hơn Phật
giáo. Hiện thời, thế giới thường thừa
nhận Ấn Độ giáo có lịch sử tám ngàn năm
trăm năm, Phật giáo mới hai ngàn năm trăm
năm. Tôn giáo sớm nhất trong các tôn giáo là Ấn Độ giáo. Ấn Độ giáo
tu Thiền Định; do Thiền Định, họ có thể
đột phá các chiều không gian, cũng có nghĩa là đột
phá giới hạn lục đạo, họ thảy đều
trông thấy. Họ có năng lực thấy Phi Tưởng
Phi Phi Tưởng Xứ Thiên, phía dưới th́ có thể
thấy địa ngục A Tỳ, họ có năng lực
ấy. Thích Ca Mâu Ni Phật xuất thế, đối với
đạo lư v́ sao [có lục đạo], lục đạo
h́nh thành như thế nào, diễn biến như thế
nào, làm thế nào để thoát ĺa, Phật giáo đă giảng
giải rất rành mạch. Đấy chính là giáo dục
nhân quả. Sau khi đă hiểu rơ, chúng ta mới hoảng
nhiên đại ngộ, suốt đời mỗi người
trong thế gian này có thể chiếm một tí tiện nghi
của người khác hay chăng? Chẳng thể nào!
Chúng ta có bị thua thiệt tí nào hay không? Cũng chẳng
thể nào! Chúng ta chiếm đôi chút tiện nghi của
người khác, đời sau sẽ phải đền trả
họ. Chúng ta thua thiệt, đời sau kẻ đó sẽ
phải đền lại cho ta! V́ thế, đức Phật
đă nói rất rơ ràng mối quan hệ giữa hết thảy
các chúng sanh, chính là báo ân, báo oán, đ̣i nợ, trả nợ.
Do đó, chúng ta bị thua thiệt, bị kẻ khác lừa
gạt, bị người khác hăm hại, phải thường
nghĩ như thế nào? Nghĩ là trả nợ, đại
khái là trong đời quá khứ ta đă lường gạt
họ, hăm hại họ, nay đền trả bằng cùng một phương thức,
[nghĩ như vậy], trong tâm sẽ rất thoải mái, chẳng
có chút phiền năo nào, tâm b́nh khí ḥa. Món nợ ấy
đă giải quyết xong, đă xóa rồi! Nếu chẳng
phải vậy th́ sao? Chẳng phải th́ cũng không sao cả,
đời sau kẻ ấy sẽ trả lại cho ta. V́ thế,
trong chân tướng sự thật, chẳng có thua thiệt,
mà cũng chẳng có chiếm tiện nghi!
Quư
vị giết nó, sẽ phải đền mạng. Chúng ta
xem bộ đĩa DVD do Bắc kinh biếu tặng,
tức bộ đĩa “V́ sao
chẳng thể ăn thịt chúng nó?” Quư vị xem xong, sẽ hiểu rơ, tự
nhiên chẳng nỡ ḷng ăn thịt chúng. Thủ đoạn
bắt giết động vật quá tàn khốc, những
động vật ấy đâu có cam tâm t́nh nguyện, oan oan
tương báo, chúng nó sẽ trả thù quư vị. Trong ấy c̣n
có một chuyện hết sức cảm động ḷng
người, là thật, chẳng giả! Một kẻ
đánh rắn, ăn thịt rắn, cuối cùng biến
thành người rắn, khổ sở chẳng
thể nói nổi. Cầu sống không được, mong chết
chẳng
thể! Trong lúc mất c̣n nguy ngập,
có mấy vị đồng học học Phật nghe chuyện,
đến thăm kẻ ấy, bọn họ có hai, ba chục người, đến nhà kẻ ấy
niệm kinh Địa Tạng, niệm Phật ḥng tiêu nghiệp
chướng cho kẻ ấy, v́ kẻ ấy đă sát sanh
quá nhiều!
Người
nhà của kẻ ấy cũng chẳng thể hoàn toàn tin
tưởng, v́ bệnh chẳng có cách nào trị, nên để
cho những người ấy (người đến trợ
niệm) làm. Làm một lần xong, chẳng có hiệu quả
chi hết! Cách một tuần, họ lại đến
thăm kẻ ấy, thấy kẻ ấy chẳng khá
hơn, thế là làm một buổi nữa. Sau khi tụng
niệm buổi đó, kẻ ấy chẳng đau đớn
v́ căn bệnh nữa, có hiệu quả. V́ thế, một
tuần sau, họ lại đến thăm kẻ ấy,
đến tụng niệm lần thứ ba cho người
ấy. Người [tham dự] cũng đông, thấy ngay
hiệu quả, t́nh trạng bệnh tật của kẻ ấy
khá hẳn lên rất nhiều. Sau khi làm xong lần thứ
ba, gần như bệnh tật của kẻ ấy đă
lành chín mươi phần trăm. Hơn một tuần
sau, lại làm một buổi nữa, khi đó đă cảm
động cả nhà tin tưởng, hàng xóm cũng tin, cùng
nhau đến tụng kinh, niệm Phật. Kẻ ấy
hoàn toàn lành bệnh, chẳng thể nghĩ bàn! Đấy
là ǵ? Những con rắn bị quư vị giết, ăn thịt,
trải qua bốn lần làm pháp hội siêu độ, chúng
nó được lợi ích, món nợ nần ấy đă
thanh toán xong, chẳng c̣n gây phiền nữa. Các oán thân trái
chủ rời khỏi, [cho nên] lành bệnh, khiến cho
người khác rất cảm động. V́ thế, mấy
đĩa DVD ấy, tôi khuyên các đồng học, đặc
biệt là các đồng học Tịnh Tông, hăy coi nó
như giáo dục nhân quả để học tập. Xem
xong, quư vị sẽ tuyệt đối chẳng c̣n ăn
thịt chúng sanh, sẽ tuyệt đối biết hóa giải
oán thân trái chủ của chính ḿnh trong quá khứ và hiện
tiền như thế nào!
Do
vậy, chúng ta đọc bài kệ tụng này, phải
nghĩ tới lời giáo huấn của đức Thế
Tôn, khổ hạnh tốt lắm, có thể sống qua ngày
là được rồi! Thầy của tôi là lăo cư
sĩ Lư Bỉnh Nam, tôi theo thầy mười năm, có thể
nói là thầy suốt đời sống theo cuộc sống
của một vị Tăng khổ hạnh. Vào thời
đó, thâu nhập của thầy cũng khá dồi dào, thầy
dùng toàn bộ [thâu nhập] để làm việc thiện.
Quư vị thấy thầy mỗi ngày ăn một bữa,
ăn một bữa trưa. Chi phí mỗi bữa thuở ấy
là hai đồng Đài Loan. Vào thời đó, tỷ lệ
hoán đổi là một đồng Mỹ Kim bằng bốn
mươi đồng Đài Loan. Do vậy, tiền tiêu
dùng hằng tháng của thầy nếu tính theo tiền Mỹ
chỉ hơn một đồng rưỡi tiền Mỹ.
Một đồng rưỡi (tức sáu mươi đồng
Đài Loan là tiền tiêu dùng cả tháng), toàn bộ những
khoản tiền dư ra đều dùng làm việc thiện,
Ngài chẳng giữ lại. Quần áo hết sức tiết
kiệm, rách th́ vá. Thầy mặc quần áo vá [bên trong], bên
ngoài là một bộ quần áo kiểu Trung Sơn mặc
suốt vài chục năm, sạch sẽ. Áo lót bên trong vá
víu, vớ cũng vá chằng vá đụp! Khi ấy, chúng
tôi cũng chẳng biết, v́ quần áo bên trong chúng tôi
đâu có thấy! Sau khi lăo nhân gia văng sanh, nh́n những thứ
thầy lưu lại, mới thấu hiểu, mới hoảng
nhiên đại ngộ, thầy tự vá, “cụ Đầu Đà hạnh” (đầy đủ
hạnh Đầu Đà). Cuộc sống hết sức
đơn giản, chín mươi lăm tuổi vẫn chẳng
cần ai chăm sóc, tự ḿnh chăm sóc ḿnh. Nay chúng ta ngẫm
lại, chính ḿnh phước báo to hơn thầy quá ư là nhiều! Thầy đă thị hiện nêu
gương cho chúng ta thấy!
Học
Phật là ǵ? Thích Ca Mâu Ni Phật đă nêu một tấm
gương tốt nhất, đó là điển h́nh, là
gương sáng cho chúng ta. Chúng ta phải nghiêm túc nỗ lực
học tập Ngài. Buông xuống muôn duyên, trí huệ, đức
năng, và tướng hảo vốn sẵn có trong tự
tánh của chính ḿnh sẽ tự nhiên hiện tiền; khi ấy,
được đại tự tại. Đấy chính là
hạnh phúc thật sự. Sau đấy, quư vị nh́n lại
đông đảo chúng sanh trong xă hội hiện thời,
quư vị mới thật sự thông đạt, hiểu rơ
Thật Tướng của các pháp. Dẫu thế gian có tai
nạn to tát cách mấy, người thật sự minh tâm
kiến tánh sẽ chẳng hứng chịu. V́ sao không hứng
chịu? Cảnh giới đă chuyển, cảnh chuyển
theo tâm; [v́ thế], người ấy chẳng hứng chịu.
Người ấy có thể giúp đỡ kẻ khác, thật
sự có thể hóa giải tai nạn. Chỉ cần chúng
sanh chịu nghe lời, chịu tiếp nhận giáo huấn
của đức Phật và y giáo phụng hành. Hôm nay thời
gian đă hết rồi, chúng ta nghỉ ngơi mấy phút!
***
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Chúng ta xem tiếp bài kệ tụng thứ
ba:
(Kinh)
Kiến nhạo trước nhân, đương nguyện
chúng sanh, dĩ pháp tự ngu, hoan ái bất xả.
(經)見樂著人。當願眾生。以法自娛。歡愛不捨。
(Kinh:
Thấy kẻ thích chấp, nguyện cho chúng sanh, dùng pháp tự
vui, vui thích chẳng bỏ).
Chữ
Nhạo (樂) đọc giọng khứ thanh, hăy nên hiểu
là động từ. “Trước”
(著) là chấp trước. Đây là thấy những
kẻ đặc biệt thích chấp trước, quư vị
thấy Bồ Tát dẫn phát đại nguyện như thế
nào? Nói chung, chẳng trái nghịch nguyên tắc cao nhất
trong tu học do Phổ Hiền Bồ Tát đă dạy, tức
là “hằng thuận chúng sanh, tùy
hỷ công đức”. Như vậy th́ mới có thể
thật sự giúp họ giác ngộ, giúp họ quay đầu.
V́ thế, ở chỗ này, phát nguyện “dĩ pháp tự ngu, hoan ái bất xả” (dùng pháp
để tự vui sướng, vui thích chẳng bỏ). “Hoan ái bất xả” là chấp
trước, đối với hoan hỷ, chúng ta thường
nói là “pháp hỷ sung măn, thường
sanh tâm hoan hỷ”, đối với ǵ vậy? Đối
với pháp, cũng có nghĩa là chấp trước. Người
ấy đă chẳng buông xuống chấp trước, hăy
giúp đỡ người ấy. Đó là phương tiện
tối sơ, [đối trị sự chấp trước
bằng cách] thay đổi đối tượng! Chấp
trước pháp thế gian, tiếng tăm, lợi dưỡng,
ngũ dục, lục trần, tâm luân hồi tạo nghiệp
luân hồi, vĩnh viễn chẳng thể xuất ly, hăy
biến đổi chấp trước của người
ấy đôi chút, hoàn toàn chẳng bảo người ấy
vứt bỏ chấp trước. Bỏ sạch
chấp trước rất khó, đấy thật sự
là trí huệ mở mang, chẳng c̣n dùng cái tâm luân hồi nữa. Đó là thiểu số rất ít, quyết
chẳng phải là đa số mọi người! Phải
nên hằng thuận đa số, khiến cho họ do học
đạo mà đạt được niềm hoan hỷ,
[niềm
hoan hỷ ấy] vượt
trỗi sự chấp trước danh lợi quá nhiều.
Điều này có nghĩa là phải giúp đỡ họ,
khuyên dụ, hướng dẫn họ hiếu học!
Người
sống trong thế gian, quan trọng nhất là sống vui
sướng, sống hạnh phúc, chuyện này mọi
người đều chẳng bàn căi. Người nào vui
sướng nhất? Người nào hạnh phúc nhất? Người
thấu hiểu! Nói cách khác, phải khuyên lơn, hướng
dẫn họ trong đời này làm một người thông
hiểu, đừng nên làm kẻ hồ đồ. Kẻ hồ
đồ sẽ khổ sở, quư vị nhất định
sẽ bị cảnh giới xoay chuyển. Hằng ngày, chính
quư vị hăy suy ngẫm, sáu căn tiếp xúc cảnh giới
sáu trần, phản ứng là mừng, giận, buồn, vui.
Đối với nỗi khổ ấy, trong kinh Địa
Tạng, đức Phật đă bảo: “Diêm Phù Đề chúng sanh, khởi tâm động niệm
vô bất thị tội” (Chúng
sanh Diêm Phù Đề khởi tâm động niệm không ǵ
chẳng phải là tội). Kẻ chẳng học Phật,
kẻ chẳng thật sự đạt được thọ
dụng nơi Phật pháp, gần như đều là t́nh
h́nh ấy. Nếu mong vượt thoát, Khổng Tử
đă nói rất hay. Câu đầu tiên trong Luận Ngữ
là “học nhi thời tập
chi, bất diệc duyệt hồ?
Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc
lạc hồ?” (Học rồi thường xuyên tập luyện,
cũng chẳng vui sao? Có bạn bè từ phuơng xa đến,
cũng chẳng vui sao?). Đấy là “dĩ
pháp tự ngu, hoan ái bất xả” (dùng pháp để tự
sướng vui, ưa thích chẳng bỏ). Đại chúng
b́nh phàm đều có thể tiếp nhận điều này!
“Pháp” là ǵ? “Pháp” là luân lư, pháp là đạo đức, pháp là nhân
quả, pháp là tôn giáo. Nếu chúng ta có thể đặt vững
phương hướng và mục tiêu cả đời
nơi học tập luân lư, đạo đức, nhân quả,
và tôn giáo; trong ấy có niềm vui thú, trong ấy có niềm
vui thật sự. Cổ nhân nói: “Thư
trung tự hữu hoàng kim ốc, thư trung tự hữu nhan
như ngọc” (Trong sách vốn có nhà vàng,
trong sách vốn có người mặt như ngọc). Người
thế gian tham tài, tham sắc, tưởng tài sắc là thứ
sung sướng nhất. Thánh nhân dùng chuyện đọc
sách để tỷ dụ. Trong sách, đối với giáo
huấn của thánh hiền có niềm vui thú vượt trỗi
vàng ṛng, vượt trỗi sắc đẹp, vui sướng
hơn những thứ đó. Tỷ dụ này có ư nghĩa
như thế đó.
Thời
cổ, người đọc sách thường nói “Khổng Nhan chi lạc”, Khổng
là Khổng Tử, Nhan là Nhan Hồi. Niềm vui của Khổng
Tử và Nhan Hồi chính là “dĩ
pháp tự ngu” (dùng pháp để tự vui sướng)
đang nói ở nơi đây, niềm vui Khổng Nhan [là
như thế đó]! Phu tử suốt đời sống
thanh bần, chẳng phú quư, chẳng giàu có. Nhan Hồi sống
cuộc đời càng nghèo khổ hơn nữa, có thể
nói là cuộc sống túng quẫn, nhưng hết sức
vui sướng. Phu tử cũng tán thán Nhan Hồi “cư lậu hạng, nhất
đan thực, nhất biều ẩm” (sống trong ngơ
nghèo hèn, một giỏ cơm, một bầu nước).
Người khác sống cuộc đời như vậy,
nói chung sẽ cảm thấy quá khổ sở, nhưng Nhan Hồi “bất cải kỳ lạc” (chẳng thay đổi
niềm vui ấy). Bất luận khi nào, bất luận
nơi chốn nào, quư vị thấy Nhan Hồi đều
rạng rỡ tươi cười, hết sức sung
sướng. Niềm vui của Ngài do đâu mà có? Niềm
vui do học hành mà ra! Học ǵ vậy? Chẳng ngoài bốn
khoa mục, luân lư, đạo đức, nhân quả, tôn
giáo; trong ấy có chân lạc, trong ấy có đại lạc!
Các đồng học học Phật trong hiện thời
có đạt được những điều này hay
không? Chẳng đạt được, mà cũng chẳng
thể nói “hoàn toàn chẳng có ai đạt được”.
Có người chứ, [nhưng là] thiểu số, chẳng
phải là đa số. V́ sao thiểu số ấy đạt
được? Chúng ta phỏng theo một câu nói của lăo cư sĩ Hạ Liên Cư, “chân học”, [nghĩa là]
người thật sự học th́ sẽ đạt
được. Nói cách khác, quư vị chẳng đạt
được th́ không phải là kinh giáo có vấn đề,
mà là do quư vị chẳng nghiêm túc học tập; v́ thế,
quư vị chẳng đạt được. Càng nghiêm túc, sẽ
đạt được càng nhiều! Chẳng nói ǵ khác,
đối với kinh Hoa Nghiêm, nếu chúng ta nghiêm túc học
tập, quư vị nói xem, trong ấy có nhiều niềm vui
sướng lắm! Pháp thế gian c̣n có ǵ vui sướng
hơn điều này ư? Chẳng có!
V́
thế, cổ nhân đă nói một câu chẳng sai: “Thế vị
na hữu pháp vị nùng” (Pháp thế gian há có ư vị nồng
đượm như Phật pháp). Niềm vui thú nơi
pháp thế gian chắc chắn chẳng sánh bằng pháp vị,
vấn đề là quư vị có nếm được hay
không? Đă nếm rồi, chắc chắn là có
muốn bỏ cũng chẳng thể được,
quư vị chắc chắn chẳng thể bỏ đi v́
quư vị đă thật sự nếm trải. Nay quư vị
chưa từng nếm; trước kia, thầy chúng tôi
đă tỷ dụ, thường bảo chúng tôi. Ngài nói cũng rất hài
hước: “Các anh học Phật [theo kiểu] nuốt trộng
quả táo”. Hễ ăn là nuốt xuống liền, cắn
một miếng bèn nuốt chửng, chẳng nếm
được hương vị! Đúng vậy đấy!
Phải như thế nào th́ mới nếm được hương
vị? Vậy th́ trước hết quư vị phải nghĩ
v́ sao chúng ta chẳng thể nếm pháp vị? Trong ấy
có chướng ngại, chướng ngại chính là mười
sáu chữ như tôi thường nói. Mười sáu chữ
ấy là chướng ngại. Hễ có những thứ ấy,
sẽ chẳng nếm được pháp vị. Nói cách
khác, ắt cần
phải buông xuống mười
sáu chữ ấy, pháp vị sẽ hiện tiền. Mười
sáu chữ chính là “tự tư
tự lợi, tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ
dục, lục trần, tham, sân, si, mạn”, có ai là chẳng
có? Hết thảy chúng sanh thảy đều có. Quư vị
phải biết những
thứ ấy là
chướng ngại; không chỉ là chướng ngại Phật
pháp, mà c̣n chướng ngại thánh học thế gian! Chỉ
cần quư vị có mười sáu chữ ấy, quư vị
học Nho, cũng chẳng đạt được niềm
vui của Khổng Tử và Nhan Hồi. [Niềm vui của]
Khổng Tử và Nhan Hồi là pháp thế gian, quư vị chẳng
đạt được niềm vui nơi pháp thế gian,
làm sao quư vị có thể đạt được niềm
vui trong pháp xuất thế gian cho được?
Do
vậy, học Phật th́ đầu tiên là phải lập
chí. Đời người khổ sở, ngắn ngủi,
thời gian chẳng dài, một trăm năm đúng là khảy ngón tay một cái đă qua! Lần
này, tôi được cục Tôn Giáo Quốc Gia mời mọc, tham dự luận đàn Phật
giáo thế giới tại Hàng Châu. Sau khi hội nghị kết
thúc, tôi đến Nam Kinh ở một tối, để
làm ǵ? Mời các bạn học cũ cùng lớp chúng tôi họp
mặt, c̣n lại mười người, cùng lớp,
dường như là các bạn học cùng lớp năm thứ
ba bậc Sơ Trung[2],
đều từ bảy mươi mấy tuổi trở
lên cả rồi! V́ thế, gặp nhau, trước kia toàn
là trẻ con, nay đă sáu mươi năm chẳng gặp
mặt, già khọm cả rồi, hết sức hoan hỷ.
Mười người chúng tôi tụ tập một chỗ,
tôi chẳng ngờ c̣n đến mười người.
Ngoài ra, c̣n có mấy người ở ngoại quốc, do
thời gian quá gấp rút nên chẳng đến được.
Các bạn học cùng lớp hiện thời chẳng
hơn hai mươi người, c̣n có mười mấy
người, hoàn toàn là kể lể chuyện cũ.
Từ
Nam Kinh, tôi trở về quê nhà là Lư Giang để xem cô
Dương dạy học, cô ta dạy rất có thành tựu.
Chúng tôi thấy vậy, hết sức hoan hỷ. Từ An
Huy đến Bắc Kinh, ở Bắc Kinh cũng là gặp
một số bạn bè xưa. Sau đấy mới có các vị
bạn cũ đề nghị đến viếng Lệ
Giang ở Vân Nam. Trước kia đă nghe nói về chỗ
ấy, chưa từng đến, thừa dịp này đến
thăm nơi đó, được khải phát rất nhiều.
Đến đó, thấy cổ thành, cổ thành đă
hơn một ngàn năm hiện thời vẫn ǵn giữ
nguyên vẹn dáng dấp cũ, tôi rất cảm động.
Nhân dân nơi ấy thuần phác, nay đă biến thành
đô thị quốc tế! Biến thành đô thị quốc
tế, đương nhiên sẽ đem lại ô nhiễm.
Hiện thời ô nhiễm vẫn chưa coi là nghiêm trọng,
nếu cứ tiếp tục như vậy, chẳng biết
ngăn ngừa th́ rất đáng tiếc!
Người
giới thiệu vùng đất này
với ngoại quốc là một người Mỹ, ông Lạc
Khắc (Joseph F. C. Rock)[3].
Ông ta sống hai mươi bảy năm tại đó,
không ngừng báo cáo, tuyên truyền nơi này. Đối với
tinh thần của ông Lạc Khắc, ông ta đúng là đă suốt đời thâm nhập
một môn! Tôi đă đến thăm căn nhà ông ta ở,
người ấy rất tuyệt diệu, cũng là một
người thật sự tu đạo, suốt đời
chẳng kết hôn, phát hiện văn hóa cổ Trung Hoa
được bảo tồn ở nơi ấy, những
thứ đă thất truyền từ đời Đường,
Tống đều c̣n được bảo tồn ở nơi ấy, hết sức khó có! Cổ nhạc từ hai ngàn năm
trước là Phạm âm, từ Ấn Độ truyền
sang Trung Hoa, đại khái là hiện thời ở ngoại
quốc chẳng có, nội địa Trung Hoa cũng
chưa nghe được! Họ diễn tấu một
khúc Thâu Kinh Kệ, Phạm âm đấy! Chúng tôi cũng có
mua mấy đĩa DVD đem về. Ngày mai sẽ mở ở
đây cho đại chúng nghe, Phạm âm Ấn Độ từ
hai ngàn năm trước! Điều khó có là người
ngoại quốc ấy nhận biết nền văn minh cổ
đại. Không chỉ là nhận biết, mà c̣n yêu mến
nồng nhiệt, trông thấy nhiều người đông đảo ngần
ấy có thể bảo tồn
[nền
văn hóa cổ]; v́
thế, ông ta ở nơi ấy suốt hai mươi bảy
năm, khảo sát, sưu tập các tài liệu, viết
thành một bản báo cáo. Tôi cũng đem về một bản.
Bản báo cáo ấy nguyên văn bằng tiếng Anh, dùng tiếng
Anh để viết, bản tôi mang về chính là bản dịch
tiếng Hán.
Chúng
tôi rất cảm động trước tinh thần của
ông ta. Đấy là một người ngoại quốc, bản
thân chúng ta nếu chẳng biết khéo bảo tồn
văn hóa truyền thống của chính ḿnh, sẽ chẳng
thể sánh bằng ông ta! Nếu tổ tiên c̣n sống, sẽ
đối đăi với vị này như thế nào? Ông ta là ân nhân truyền thừa văn hóa của
chúng ta! Ông ta nhắc nhở: Con cháu Viêm Hoàng đă sơ sót
những thứ của chính ḿnh. Không chỉ là chẳng thể
truyền thừa, ngay cả năng lực nhận biết
cũng chẳng có, chẳng bằng một người ngoại
quốc. Chúng tôi thấy vậy hết sức cảm động.
Ở đấy, đất rộng người thưa, mặt
bên kia của núi Ngọc Long[4]
là Tây Tạng, là chỗ đọc sách và tu hành hết sức
lư tưởng, hết sức khó có! V́ thế, do tham gia hội
nghị lần này, chúng tôi thuận tiện đến
thăm vùng đất
đó, đă bị cảm động
sâu xa!
V́
sao ông ta có thể ở nơi đó nhiều năm như
vậy? Hai mươi bảy năm chẳng phải là một
thời gian ngắn ngủi! Chẳng có ǵ khác, “dĩ pháp tự ngu, hoan ái bất
xả” (dùng pháp để tự vui thỏa, vui thích chẳng
bỏ). Ông ta thật sự nhận biết văn hóa truyền
thống của Trung Hoa từ xưa tới nay, thật sự
nhận biết, thật sự yêu chuộng. Ở nơi ấy,
[ông ta] cổ vũ, khích lệ người địa
phương, tôn kính người địa phương, họ
bảo tồn tốt đẹp dường ấy, tuyên dương khắp cả
thế giới. Nơi ấy được gọi là
Hương Cách Lư Lạp (Shangri-la)[5].
Phát hiện trên thế giới nghiễm nhiên c̣n có một
nơi tốt đẹp dường ấy, giới thiệu
người từ khá nhiều quốc gia đến Lệ
Giang du ngoạn, viếng cảnh, khảo sát, nh́n xem nền
văn minh cổ Trung Hoa, xem phong tục, tập quán và cuộc
sống hằng ngày của cư dân địa
phương thuần phác, hài ḥa như vậy. Xă hội hài
ḥa, thế giới hài ḥa được thực hiện tại
nơi đó. V́ thế, tôi cũng giới thiệu chuyện
này với các đồng tu, trong tương lai, nếu có
thời gian, hăy nên đến thăm nơi đó.
Đấy
chính là đối với kẻ sơ học b́nh phàm, phải
giúp họ chuyển đổi cảnh
giới. Chư vị phải biết buông xuống chấp
trước; thật sự không chấp trước, sẽ
vượt thoát lục đạo. Vậy th́ quư vị phải
hiểu, hễ c̣n có ư niệm chấp trước, đó gọi
là tâm luân hồi. Cái tâm là tâm luân hồi, tư tưởng,
kiến giải, ngôn ngữ và tạo tác của quư vị sẽ là nghiệp luân hồi, làm sao quư vị có thể
thoát khỏi luân hồi cho được? Trong nghiệp
luân hồi có thiện và ác. Thiện nghiệp cảm ba thiện
đạo, ác nghiệp cảm ba ác đạo. Nói chung, chẳng
thoát khỏi lục đạo luân hồi, các đồng
tu học Phật chúng ta chớ nên không biết. Nhất
định phải buông xuống chấp trước,
nhưng tập khí chấp trước không đơn giản
như thế đâu nhé. Đă chẳng chấp trước rồi, [nhưng
đôi khi] cái bất tri bất giác
trồi ra chính là tập khí, chẳng dễ dàng!
Trong
Phật môn, trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật
từ bi, từ bi đến cùng cực, Ngài đă v́ chúng
ta truyền trao pháp môn đới nghiệp văng sanh. Đới
nghiệp văng sanh là nói tới chấp trước. Quư vị
đừng nên chấp trước những thứ ấy,
mà hăy chấp trước A Di Đà Phật, chấp trước
kinh Vô Lượng Thọ. Nếu quư vị chấp trước
những pháp môn kinh giáo khác, sẽ không được, chẳng
thể văng sanh! Nhưng quư vị chấp trước A Di
Đà Phật, chấp trước kinh Vô Lượng Thọ,
sẽ có thể sanh vào thế giới Cực Lạc, điều
này chẳng thể nghĩ bàn. Sanh về thế giới Cực
Lạc, sẽ vượt thoát lục đạo luân hồi.
Không chỉ là vượt thoát lục đạo luân hồi,
mà c̣n vượt thoát mười pháp giới, vượt
thoát thế giới Sa Bà, văng sanh thế giới Cực Lạc.
Sanh về thế giới Cực Lạc, phẩm vị chẳng
cao, [sanh trong] cơi Phàm Thánh Đồng Cư, v́ sao? V́ quư vị
chẳng buông xuống chấp trước. Đối với
chấp trước, ngay cả tập khí chấp trước
cũng buông xuống, sẽ sanh vào cơi Phương Tiện
Hữu Dư, chẳng phải là cơi Phàm Thánh Đồng
Cư. [Người sanh vào] cơi Phàm Thánh Đồng Cư chẳng
buông xuống chấp trước. Chư vị phải hiểu,
thế giới Cực Lạc thù thắng khôn sánh là do cơi Phàm
Thánh Đồng Cư, phải biết điều này! Cơi
Phàm Thánh Đồng Cư có thể tiếp dẫn chúng sanh
chấp trước trong hết thảy các cơi Phật khắp
pháp giới hư không giới, tuyệt diệu thay! Nay
chúng ta dựa vào điều ǵ để văng sanh? Chính là dựa
vào điều ấy. Chấp trước kiên cố, dựa
chắc một câu A Di Đà Phật, một bộ kinh Vô
Lượng Thọ, hoặc một bộ kinh A Di Đà,
đều được!
Gần
đây, rất nhiều đồng học hỏi tôi, v́ họ
xem Sơn Tây Tiểu Viện, [thấy trong ấy] hơn bốn
mươi người thảy đều niệm kinh
Địa Tạng, niệm “Nam-mô
Địa Tạng Vương Bồ Tát” mà lành bệnh!
Do vậy, các vị đồng học hỏi tôi: “Đấy
có phải là phá hoại pháp môn Tịnh Độ hay không? Họ
không niệm kinh Vô Lượng Thọ mà niệm kinh Địa
Tạng, chẳng niệm A Di Đà Phật mà niệm Địa
Tạng Vương Bồ Tát, làm như thế nào?” Kinh Vô
Lượng Thọ đă nói rất rơ ràng, họ có thể
văng sanh hay không? Họ hồi hướng Tây Phương Cực
Lạc thế giới cầu sanh Tịnh Độ, chắc
chắn được văng sanh. Pháp môn Tịnh Độ
quá to! Quư vị thấy trong phần Tam Bối Văng Sanh [của
kinh Vô Lượng Thọ], phẩm kinh văn này có tất
cả bốn đoạn, ba đoạn trước nói về
thượng phẩm văng sanh, trung phẩm văng sanh, [hạ
phẩm văng sanh], tức thượng bối, trung bối, và
hạ bối. Đấy là ba đoạn trước,
đoạn cuối cùng được pháp sư Từ Châu
phán định là Nhất Tâm Tam Bối. Kinh văn đă nói
rất rơ ràng, rất minh bạch. “Tu học Đại Thừa giả” (Người tu học Đại Thừa).
Nói cách khác, chỉ cần là người học Đại
Thừa, chỉ cần là học kinh Đại Thừa, niệm
Phật, Bồ Tát trong giáo pháp Đại Thừa, sẽ
đều được, sẽ đều có thể văng
sanh. Đấy là chỗ thù thắng khôn sánh của pháp môn Tịnh Tông.
Bất
luận niệm pháp môn nào, tu Thiền cũng thế, học
Giáo cũng thế, học Mật cũng thế, đó là
ǵ? Công phu của quư vị, chỉ cần có công phu chân thật,
ta hồi hướng, đem sự tu học của ta hồi
hướng Tây Phương Cực Lạc thế giới,
đến khi lâm chung, A Di Đà Phật thảy đều
đến tiếp dẫn, phải nhớ điều này!
Khi ta văng sanh, đến tiếp dẫn chúng ta chẳng phải
là A Di Đà Phật, mà là Địa Tạng Vương Bồ
Tát, ta có đi hay không? Không đi! Nhất định là phải
thấy A Di Đà Phật ta mới đi; đấy là
đúng, then chốt ở chỗ này. Địa Tạng Vương
Bồ Tát tiếp dẫn, giới thiệu ta, đến cuối
cùng, vị tới tiếp dẫn ta văng sanh là A Di Đà Phật,
là Tây Phương Tam Thánh. Điểm này chẳng sai tí nào,
bộ kinh ấy đă dạy rành rẽ, minh bạch.
V́
thế, bất luận chúng ta tu học pháp môn nào, chẳng
có pháp môn nào không hay, nương theo bất cứ kinh điển nào cũng đều như
nhau! Kinh Kim Cang dạy rất hay: “Pháp môn b́nh đẳng, chẳng có cao thấp”. V́
thế, chớ nên do dự, chớ nên hoài nghi! Nay chúng ta
nghiệp chướng quá nặng. Kinh Vô Lượng Thọ
dạy chúng ta, chúng ta gặp tai nạn, gặp khó khăn, quư
vị thấy kinh chẳng dạy chúng ta niệm A Di Đà
Phật, mà dạy chúng ta niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, cảm
ứng chẳng thể nghĩ bàn! Hiện thời, nghiệp
chướng của chúng ta hết sức nặng nề,
nương cậy Địa Tạng Vương Bồ
Tát để tiêu nghiệp chướng. Sau khi nghiệp
chướng đă tiêu, công phu mới có thể đắc
lực. V́ sao? Thân thể khỏe mạnh, ngạn ngữ
cũng thường nói: “Thân an
tắc đạo long” (Thân
an ổn, đạo sẽ hưng thịnh). Thân thể bất
an chắc chắn sẽ sanh chướng ngại đối
với việc học đạo. Lại có câu nói: “Pháp luân vị chuyển, thực
luân tiên” (Pháp luân chưa chuyển, đă phải lo cái
ăn trước). Từ những chỗ này, quư vị chú
tâm lănh hội, từ vô thỉ kiếp đến nay và
đời này đă tạo tội nghiệp nặng lắm!
V́
thế, năm xưa, khi tôi mới giảng kinh, đă nói rất
rơ với mọi người, học Phật th́ học từ
chỗ nào? Trước hết là từ Địa Tạng.
Một đạo tràng mới th́ nhất định là giảng
kinh Địa Tạng trước, đấy là bộ
kinh được giảng đầu tiên, [tức là] lập
một đạo tràng mới th́ bộ kinh đầu tiên
[được giảng] nhất định là kinh Địa
Tạng. V́ sao? Quư vị có nền tảng để có thể
kiến lập Phật pháp. “Địa”
(地) là tâm địa, tâm là Bồ Đề tâm,
Đại Thừa. Bồ Đề tâm là ǵ? Chân thành, thanh
tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi. Như thế
nào th́ Bồ Đề tâm sẽ thật sự phát xuất?
Ắt cần phải nương vào Tịnh Nghiệp Tam
Phước, phải nương vào Thập Thiện Nghiệp
Đạo, phải nương vào Đệ Tử Quy. Chẳng
có Đệ Tử Quy, sẽ chẳng có Thập Thiện
Nghiệp Đạo, sẽ chẳng có Tam Quy, Ngũ Giới,
sẽ chẳng có Sa Di Luật Nghi (đây là nói người
xuất gia chẳng có Sa Di Luật Nghi), sẽ chẳng vào
được cửa! Kinh Địa Tạng có trọn
đủ những nội dung ấy. V́ thế, từ bộ
kinh ấy, dùng cái tâm chân thành để tu, sẽ có thể
tiêu nghiệp chướng. Sau khi tiêu trừ nghiệp
chướng, nhất định phải nắm chắc mấy
môn công khóa ấy. Sau đấy, bất luận tu học
pháp môn nào, hồi hướng công đức sanh về thế
giới Cực Lạc, chẳng có lẽ nào không văng sanh! Có
lẽ cũng sẽ có người hỏi: “Từng thấy
có những người chẳng tu học các pháp môn này, vẫn
nghiễm nhiên thật sự văng sanh, có thụy tướng
rất tốt, đấy là nguyên nhân ǵ?” Đời trước,
kiếp trước, trong đời quá khứ đă tích
lũy thiện căn. Tuy đời này tạo tác rất
nhiều tội nghiệp, gặp thiện duyên, thiện
căn túc thế hiện tiền, vậy th́ được,
quyết chẳng phải là ngẫu nhiên. Chúng ta hiểu đạo
lư này, biết nghiệp nhân quả báo; nếu không, sẽ
nói chẳng suông được! V́ thế, chỉ cần
có tín tâm kiên định, có nguyện vọng khẩn thiết.
V́
thế, ngoài sáu đĩa DVD Sơn Tây Tiểu Viện, c̣n
có đĩa V́ Sao Chẳng Thể Ăn Chúng Nó, phải
lưu thông với một số lượng lớn, ḥng
đánh thức đại chúng mau chóng giác ngộ. Bản
thân chúng ta thường xem [bộ đĩa DVD ấy] ḥng cảnh giác chính ḿnh, dẫn đầu,
khiến cho kẻ mới học sanh khởi tín tâm. Chúng ta rất
nghiêm túc học tập, làm ảnh hưởng chúng cho kẻ
mới học, công đức ấy vô lượng, tự
lợi, lợi người! V́ thế, phải coi nó như
một môn công khóa để học tập, lại c̣n là
công khóa ắt phải tu, công khóa chủ yếu. Liễu
Phàm Tứ Huấn, giáo dục nhân quả thuộc cùng một
loại với những thứ này, đặc biệt quan
trọng! Ấn Quang đại sư suốt đời
đề xướng, vào thời đại của Ngài, sáu
mươi năm trước, Liễu Phàm Tứ Huấn, Cảm
Ứng Thiên Vựng Biên, và An
Sĩ Toàn Thư, hay lắm! Tôi thấy mười mấy
đĩa DVD ấy c̣n hay hơn ba bộ sách do tổ Ấn Quang đề xướng, hết
sức khế hợp căn cơ của người hiện
thời, hiệu quả chắc chắn vượt xa ba
quyển sách do tổ Ấn Quang đề xướng, quyết định
vượt trỗi!
Dùng phương thức truyền bá bằng phương tiện
truyền thông truyền h́nh để hoằng truyền,
xác thực là có công đức chẳng thể nghĩ bàn! Nếu
lại có thể ghép vào sáu loại văn tự do Liên Hiệp
Quốc đề xướng để đánh phụ
đề (caption) phía dưới ḥng lưu thông trên khắp
thế giới, cứu văn kiếp vận. Trừ
phương pháp này ra, c̣n có phương pháp ǵ khác? Thật
sự là chúng ta nghĩ chẳng ra!
Giáo
học Đại Thừa chẳng dễ dàng như vậy.
Giáo học Nho, Thích, Đạo và giáo học của các tôn
giáo khác, nói theo phía người hiện thời, sẽ là chẳng
phù hợp! V́ thế, tổ sư đă vạch ra một
phương hướng, “nhân
quả”. Trong lúc tai nạn bức thiết nghiêm trọng
sắp xảy đến, giáo dục nhân quả sẽ hữu
hiệu. V́ thế, nay chúng ta phải coi thứ này như trọng
điểm. Người ấy
có cảm ứng, muốn quay đầu, sẽ dạy kẻ
đó luân lư, đạo đức, tôn giáo, v́ sao? Người
ấy có thể tiếp nhận. Chẳng tin tưởng
nhân quả, quư vị nói luân lư, đạo đức với
kẻ đó, kẻ ấy cũng chẳng tin tưởng,
chẳng thể tiếp nhận. Do vậy, chúng ta phải
coi thứ này như công khóa bậc nhất, công khóa bắt
buộc phải tu, hăy nghiêm túc khéo học tập. Hăy xem người
hiện thời đối với những động vật,
bất luận là những con thú được nuôi nấng
trong nhà, hoặc dă thú săn
bắn được, thủ đoạn
quá tàn khốc, xem nhiều lần [bộ
đĩa ấy], sẽ khiến cho lương tâm của
quư vị dẫn phát, sẽ thấy chẳng nhẫn tâm [giết
hại như vậy]! Sau đấy tôn giáo mới nói với
quư vị, oan oan tương báo, chẳng hết, chẳng
xong! Trên cả
thế giới, [những
con vật] chạy trên đất, bay trên không, bơi trong
nước, hết thảy những loài chúng sanh ấy hằng
ngày bị bắt giết, nếu quư vị thấy hiện
tượng này, sẽ cảm thấy quá tàn nhẫn, quá đáng
sợ. Quư vị tin tưởng nhân quả, tin tưởng
những chúng sanh ấy đều có thần thức, tuyệt
đối chúng nó chẳng phải là cam tâm t́nh nguyện cúng
dường quư vị. Nói cách khác, mối cừu hận ấy
có trả được hay không? Oán khí ghê gớm lắm; nếu quư vị quan sát cẩn thật, sẽ
có thể nh́n ra!
Hiện
thời, chúng ta thường đi xa, ngồi máy bay ở
trên mây, từ trên nh́n xuống toàn là khói sương, đấy
là ǵ vậy? Oán khí! Rất ít khi từ phía trên mà có thể
thấy rơ ràng phía dưới, cảnh giới ấy quá ít.
Chỉ cần bay lên không trung của lục địa, sẽ
thấy khói sương. Nay chúng ta nói là “không khí ô nhiễm”,
ô nhiễm nghiêm trọng. Tôi thường nói sự ô nhiễm
ấy chính là oán khí của hết thảy chúng sanh tử nạn,
chẳng phải là chuyện tốt đẹp. Chúng ta có
cái tâm cảnh giác cao độ, làm thế nào để có
thể giúp đỡ các oán thân trái chủ hóa giải oán kết,
mà phương pháp hóa giải hữu hiệu nhất chính
là giảng kinh, tụng kinh, niệm Phật, hồi hướng.
Có phải là thật sự có hiệu quả hay không? Có hiệu
quả, chắc chắn là có hiệu quả.
Trong quá khứ, qua các buổi giảng, tôi cũng
đưa ra rất nhiều trường hợp
cụ thể. Nghiệp lực
của chúng sanh giống như gió to, sóng lớn. Chúng ta thật
sự y giáo phụng hành, tâm chúng ta sẽ b́nh lặng. Sóng
trong sự b́nh lặng ấy đụng chạm vào sóng bất b́nh, đương nhiên là chúng ta vẫn theo gió đuổi
sóng, nhưng cơn sóng ấy, [tuy là] sóng to, [so với sóng
khi bất b́nh], nó sẽ nhỏ hơn, ôn ḥa hơn! Lư giống
nhau, nhưng v́ mong mỏi nhiều người sẽ thật
sự giác ngộ, nhiều người tâm địa sẽ
thật sự thanh tịnh, b́nh đẳng, từ bi mà
chúng ta dùng cái tâm chân thành, nguyện tâm chân thành để
mong cầu hóa giải xung đột, mong cầu thế giới
ḥa b́nh. Ư niệm ấy chính là hồi hướng, ư niệm
ấy chớ nên gián đoạn giữa chừng, chớ
nên tạm bỏ, phải là niệm nào cũng đều
chẳng gián đoạn, nó sẽ sanh ra hiệu quả.
Chúng ta chẳng mong được người khác ca ngợi,
v́ sao? Chúng ta đă từ bỏ tiếng tăm, lợi dưỡng, làm việc
chúng ta đáng nên làm. Chuyện đáng nên làm là cứu khổ
cứu nạn, đại từ đại bi cứu khổ
cứu nạn. V́ thế, niệm kinh Địa Tạng,
Địa Tạng Bồ Tát là ai? Là chính ḿnh. Quán Thế Âm Bồ
Tát là ai? Là chính ḿnh. Dùng ḷng hiếu kính của Địa Tạng,
dùng tâm từ bi của Quán Âm, niệm nào cũng đều
chẳng bỏ chúng sanh, niệm nào cũng đều cầu
nguyện an định, ḥa b́nh, niệm nào cũng đều
mong cầu hóa giải xung đột. Hóa giải xung đột
nhất định phải thực hiện từ bản
thân chính ḿnh, ta chẳng c̣n xung đột với bất cứ
ai, với bất cứ chuyện ǵ, với bất cứ
chúng sanh nào, làm từ chỗ này th́ sẽ có hiệu quả. Nếu chẳng
làm từ chính ḿnh, chỉ là “miệng
có, tâm không”, sẽ chẳng có hiệu quả. Tâm và miệng
tương ứng, sẽ sanh ra hiệu quả. A, hôm nay
đă hết thời gian rồi, chúng tôi nói tới chỗ
này.
Tập
1542
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ
mười một, tiểu đoạn thứ ba trong
đoạn lớn thứ sáu của phần kệ tụng,
tức phần Sở Ngộ Nhân Vật (所遇人物, những nhân vật sẽ gặp gỡ), xem từ bài kệ thứ tư.
(Kinh)
Kiến vô nhạo trước, đương nguyện
chúng sanh, hữu vi sự trung, tâm vô sở nhạo.
(經)見無樂著。當願眾生。有為事中。心無所樂。
(Kinh: Thấy chẳng ưa chấp,
nguyện cho chúng sanh, trong chuyện hữu vi, tâm chẳng
ưa chuộng).
Bài
kệ này nói về chuyện trên đường thấy
người chẳng chấp trước, hoàn toàn
tương phản với bài kệ thứ ba trong phần
trước. Bài kệ trước là người có chấp
trước, ôm ḷng chấp trước. Gặp người
chẳng chấp trước, sẽ dẫn phát đại
nguyện của Bồ Tát, “hữu
vi sự trung, tâm vô sở nhạo” (trong chuyện hữu
vi, tâm chẳng ưa chuộng). “Nhạo”
(樂) là yêu thích. Chuyện hữu vi quá ư là nhiều,
chúng ta thường nói là “thế
gian sự” (sự việc trong thế gian). Thế gian sự
là hữu vi, tương phản với vô vi được
nói trong Phật pháp. Hữu vi là có tạo tác, có khởi
đầu và kết thúc, có sanh diệt. Chư vị hăy ngẫm
xem, chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối gặp
gỡ hết thảy các sự, cho đến công việc mà
bản thân chúng ta đang làm, chẳng có ǵ không phải là hữu
vi. Hữu vi bao gồm cuộc sống và các nghề nghiệp
của chúng ta, có thể tránh khỏi những chuyện này
hay không? Chẳng thể tránh được! Nói cách khác, người
sanh vào thế giới này là hữu vi. Nếu là vô vi, người
ấy sẽ chẳng sanh vào thế gian này, sẽ chẳng
sanh vào lục đạo; lục đạo là hữu vi. Lại
thưa cùng chư vị, mười pháp giới cũng là hữu
vi. Trong lục đạo có sự hữu vi, chúng sanh có ḷng
chấp trước, mà bốn thánh pháp giới cũng là “trong sự hữu vi, tâm chẳng
ưa chuộng”, cao minh hơn bọn phàm phu chúng ta quá
nhiều. Chư Phật, Bồ Tát ứng hóa trên thế
gian tương ứng với bài kệ này, chúng ta phải hiểu rơ, phải học tập
điều này!
Nói
cách khác, đối với chuyện hữu vi, quư vị
đă ở trong lục đạo, trong mười pháp giới,
trong ấy có hai hạng người, một loại chính
là bọn chúng ta [tức
là những kẻ] chẳng
đoạn tập khí phiền năo. Chúng ta đến thế gian này để làm ǵ? Chỉ
có đức Phật nói rất hay, đông đảo chúng
sanh sanh vào thế gian này để làm ǵ? Đức Phật
chỉ dùng một câu để giải đáp: “Chúng sanh thù nghiệp” (Chúng sanh đền trả nghiệp). Nghiệp
nhân đă tạo trong đời quá khứ gặp duyên, nhân
duyên tụ hội, quả báo hiện tiền. Những ǵ
quư vị đă làm trong quá khứ là cái nhân lành, gặp gỡ
thiện duyên, quư vị sẽ đến hưởng vui, chúng
ta nói thông tục là quư vị đến “hưởng phước”. Nếu trong đời
quá khứ tạo tác bất thiện, nay lại gặp
duyên bất thiện, chúng ta sẽ hứng chịu khổ
nạn, quư vị đến chịu khổ. Nói chung, chẳng
ngoài hai loại lớn ấy, một đằng là hưởng
phước, đằng kia là chịu khổ, chịu tội.
Hết thảy chúng sanh, đặc biệt rơ ràng là hữu
t́nh chúng sanh, nay chúng ta nói là động vật, hết sức
rơ rệt. Loại người kia là Phật, Bồ Tát, các
Ngài vào trong mười pháp giới, do ứng hóa mà đến,
chẳng do nghiệp lực, chúng sanh có cảm, “cảm” là “có cầu”, các Ngài bèn ứng đến. Các Ngài
đến thế gian này để làm ǵ? Đến giúp
đỡ chúng sanh ĺa khổ được vui, đến
làm chuyện này. Đó gọi là “đến để cứu
khổ cứu nạn, [đến giúp cho chúng sanh] ĺa khổ
được vui”. Chẳng phải là hai hạng người
ấy, sẽ chẳng thể ở trong mười pháp giới!
Phật,
Bồ Tát ứng hóa trên thế gian có phải là có làm, có tạo hay không? Có chứ. Quư vị thấy Thích Ca
Mâu Ni Phật đă thị hiện tốt nhất. Ngài thị
hiện tám tướng thành đạo, cũng thị hiện
đến đầu thai, nói theo h́nh tướng, sẽ chẳng
khác ǵ lũ b́nh phàm chúng ta theo nghiệp báo đến thọ
sanh, cũng là từ bé dần dần trưởng thành. Chỗ
bất đồng, phàm là kẻ do nghiệp báo đến
đầu thai sẽ mê hoặc, điên đảo, mê chứ chẳng
giác, chuyện trong đời quá khứ chẳng biết
chút ǵ! Phật, Bồ Tát, A La Hán ứng hóa trong thế gian, các Ngài biết rành
mạch, rơ ràng, chẳng mê hoặc tí nào. Không chỉ là hiểu
rơ chuyện trong quá khứ, mà đời đời kiếp
kiếp trong đời quá khứ, cho đến đời
đời kiếp kiếp trong thời vị lai, các Ngài thảy
đều biết rơ ràng, chẳng có ǵ không hiểu rành rẽ. Các Ngài ở chung với chúng ta, chúng ta sẽ
cảm thấy các Ngài chẳng khác ǵ chúng ta! Đó là sắm
vai hồ đồ, hiện thời chúng ta thường
nói là “công năng đặc dị”.
Công năng đặc dị của các Ngài cao siêu tột bậc,
nhưng chẳng biểu hiện, v́ sao? Sau khi đă biểu
hiện, sẽ chẳng thể dạy chúng sanh! Chúng sanh sẽ
nói: “Quư vị là thần, là siêu nhân, chúng tôi làm sao có thể sánh bằng quư vị cho
được?” V́ thế, các Ngài nhất định thị
hiện hoàn toàn giống như chúng ta; sau đấy, chúng
ta sẽ sanh trưởng tín tâm: “Các Ngài có thể làm
được, ta cũng có thể làm được”. Ở
đây, tôi đặc biệt thêm vào hai chữ “hiện tiền”, chúng ta đối
diện với hiện tiền, chẳng phải là đối
diện với quá khứ, mà cũng chẳng phải là
đối diện vị lai! Đối diện với
chúng sanh trong hiện tiền. Nói cách khác, làm thế nào để
giúp cho chúng sanh trong hiện tiền giác ngộ, đấy
là Phật pháp; chúng ta chớ nên không biết điều
này!
Trong
các buổi giảng, chúng tôi cũng đă nói rất nhiều
lần, đặc biệt cảm thấy thế gian trong
hiện thời chẳng phải là một vùng, mà là toàn thể
thế giới, toàn thể nhân loại, hiện tại xác
thực là đă gặp phải một vấn đề rất
khó khăn, chẳng thể đột phá. Khó khăn ǵ vậy?
Xung đột đối lập. Con người đối
lập với nhau, cha con đối lập, vợ chồng
đối lập, do đối lập mà phát sanh xung đột.
Do vậy, quư vị thấy trong xă hội hiện tiền, tỷ lệ ly hôn cao ngần ấy. Vợ
chồng bất ḥa, cha con bất ḥa, anh em bất ḥa, nẩy
sanh thành gia đ́nh và xă hội chẳng hài ḥa, nghiêm trọng
đến mức độ nào? Nghiêm trọng đến mức
gần như mỗi cá nhân sống trong thế gian này đều
chẳng có cảm giác an toàn, quư vị nói chuyện này có
đáng thương, đáng buồn lắm hay không? Ai nấy
niệm nào cũng đều bảo vệ chính ḿnh như
thế; “bảo vệ chính
ḿnh”, nói cách khác là sẽ chẳng thể không xâm phạm
người khác; cổ nhân gọi chuyện này là “tổn người, lợi
ḿnh”. Ai nấy đều có ư niệm “tổn người, lợi ḿnh”, thế giới này c̣n có thể an toàn nữa
hay chăng?
Bồ
Tát, nói cách khác là bậc giác ngộ. Chư vị phải biết,
Bồ Tát có nghĩa là người giác ngộ. Đức
Phật là bậc giác ngộ viên măn rốt ráo. Bậc giác
ngộ sống cùng với đại chúng, đối diện
hiện tiền, phải nên làm như thế nào? Phải
nêu khuôn mẫu, nêu gương tốt cho chúng sanh điên
đảo, mê hoặc, nhất định phải khiến
cho chúng sanh cảm động, tự ḿnh đă giác ngộ,
quay lại, người ấy được gọi là “đắc độ”. Xưa
kia, bậc giác ngộ ở trong thế gian giáo hóa chúng sanh
dễ dàng. V́ sao? Hết thảy chúng sanh mê c̣n cạn, chẳng
quá sâu, giác ngộ dễ dàng. Hiện thời, chúng sanh trong
xă hội này mê quá sâu, mê quá lâu, rất khó giác ngộ! Chúng ta biểu hiện, chẳng
hạn như họ tham tài, chúng ta không tham tài, ở chung với
họ, họ cảm nhận chúng ta là hạng người
nào? Họ coi chúng ta là kẻ ngốc nghếch, v́ sao chẳng cần tiền? Họ chẳng
thể lư giải, vĩnh viễn hoài nghi: “Chắc chắn
là ngươi có ư đồ, có mục đích, thiên hạ
há có kẻ chẳng tham tài?” Kinh Địa Tạng nói hạng người ấy
là “cang cường nan hóa” (ương ngạnh khó thể giáo hóa), vậy
th́ làm như thế nào? Sau một thời gian dài, họ sẽ
được cảm hóa.
Chúng
ta biết, cổ thư Trung Hoa đă ghi chép chuyện này,
Đại Thuấn có thể cảm hóa người nhà, cảm
hóa láng giềng, cḥm xóm, dùng thời gian ba năm khiến
cho mọi người giác ngộ, hiểu rơ: “Ông ta thật sự là một người tốt”, khiến cho một nhà tốt đẹp theo, một thôn tốt đẹp theo, ba năm đấy nhé! Vua Thuấn cách hiện thời bốn ngàn
năm trăm năm, bốn ngàn năm trăm năm
trước đấy nhé! Trong bốn ngàn năm trăm năm ấy, ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng, nhất là
đến thế kỷ hiện thời, cho đến cuối
thế kỷ hai mươi, ô nhiễm tột bậc nghiêm
trọng, nghiêm trọng đến mức gần như
không có cách nào chịu đựng nổi. Hiện thời,
quư vị muốn cảm hóa cho kẻ khác quay đầu,
quyết chẳng phải là ba năm mà có thể làm
được, ba mươi năm mà
có thể khiến cho họ quay đầu th́ kể
như rất lỗi lạc! V́ thế, quư vị chẳng
có ḷng nhẫn nại, chẳng có cái tâm thường hằng,
chẳng có phương tiện thiện xảo, vậy th́
chỉ có một con đường để đi, chính
ḿnh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, đừng
quản người khác. Cách này có được hay không?
Được chứ, lúc cuối cùng bất đắc
dĩ th́ đi theo con đường này! Nếu có
phương tiện mà quư vị đi theo con đường
này, sẽ đánh mất ḷng từ bi, chẳng thể thấy
xă hội này động loạn mà chẳng đoái hoài! Nếu
chẳng có duyên phận ấy th́ có thể, [bởi lẽ],
ta muốn làm, nhưng chẳng có trợ duyên, sẽ chẳng làm được; [phải xét xem chính ḿnh] có duyên
phận này hay không? Hễ có duyên phận ấy th́ phải
làm.
Phật
pháp dạy chúng ta một nguyên tắc cao nhất, “từ bi làm gốc, phương
tiện làm cửa”. “Phương”
(方) là phương pháp, “môn” (門) là đường lối, đường
nẻo. Hăy chú trọng chữ Tiện (便), Tiện là ǵ? Phương pháp thích đáng nhất,
phương pháp thích hợp nhất. Trong thế kỷ
trước, lăo pháp sư Ấn Quang đề xướng
Liễu Phàm Tứ Huấn, An Sĩ Toàn Thư, và Thái Thượng
Cảm Ứng Thiên, ba thứ ấy là giáo dục nhân quả.
Trong thời đại ấy, đối tượng [giáo hóa] của Ngài là phần tử tri thức; thuở
ấy, phần tử tri thức có sức ảnh hưởng
khá lớn đối với xă hội. V́ thế, tứ
chúng đệ tử cúng dường lăo nhân gia, Ngài dùng toàn
bộ [tiền cúng dường] để lưu thông ba thứ
ấy. Ba thứ ấy chẳng phải là kinh Phật, v́
sao? Thiện xảo phương tiện, là đại sự
nghiệp để cứu văn kiếp nạn của thế
giới. Ba mươi năm trước, tôi biết chuyện
này, lần đầu tiên tôi đến Hương Cảng
giảng kinh đă phát hiện, tôi đối với cách
nh́n và việc làm của tổ sư bội phục năm
vóc sát đất. Do vậy, hiện thời, nhân duyên này
chín muồi, ba loại sách ấy có thể sanh ra nhiều
hiệu quả to cỡ
nào? Rất khó khăn, v́ ba loại
sách ấy đều viết bằng loại văn chương Văn Ngôn, hiện thời, dẫu in với
số lượng lớn để lưu thông, [đại chúng] có xem cũng không hiểu!
Hiện tại th́ có phương tiện của hiện
đại, v́ sao? Người hiện thời chẳng ĺa
khỏi TV; do vậy, chúng tôi biên soạn ba loại sách ấy thành phim truyền h́nh nhiều
tập để hoằng dương. Đấy là [Phật]
pháp chẳng có pháp nhất định, như thế th́ sẽ
có thể nẩy sanh hiệu quả đối với
người hiện thời!
Nhưng
gần đây nhất, chúng tôi lại phát hiện một loại
tài liệu, so với ba thứ do tổ Ấn Quang đă dạy,
ba thứ ấy là đối với thế kỷ trước,
cũng là đối với người thuộc sáu bảy
chục năm trước th́ có hiệu quả, sanh ra hiệu
quả rất lớn. Từ sau năm 1970 trở đi,
chúng ta có thể coi như là thời hiện đại. Người hiện thời đối với Hán học,
hoặc chúng ta nói là Quốc văn,
tức là sự tu dưỡng Quốc văn đă bị suy thoái trên một mức
độ lớn! Các sinh viên tốt nghiệp đại học
môn Trung văn, tŕnh độ tiếng Hán c̣n thua học tṛ
tiểu học thời đầu Dân Quốc, chẳng sánh
bằng! Quư vị biết tŕnh độ thua kém lớn dường ấy, cho nên hiện thời ắt phải dùng TV. Hiện đại th́
có tài liệu của người hiện thời, đă có
người nghiêm túc nỗ lực thực hiện. Trần
cư sĩ biên tập Sơn Tây Tiểu Viện, tiến
sĩ Chung Mậu Sâm giảng giải cho mọi người
những chuyện nhân quả luân hồi theo khoa học phương Tây. Đấy là hiện đại.
Nói theo phía người hiện thời để luận
định giá trị của những tác phẩm ấy,
[sẽ
thấy] chúng có hiệu quả bằng
với Cảm Ứng Thiên, An Sĩ Toàn Thư và Liễu
Phàm Tứ Huấn, chúng ta phải có sự nhận biết
này. Để độ người hiện thời, chư
vị nhất định phải hiểu điều này!
Nếu không, chúng ta câu nệ quá khứ, vĩnh viễn chẳng
biết tiến về trước một bước, quư
vị sẽ chẳng thể độ người hiện
thời!
Làm
thế nào để khiến cho người hiện thời
giác ngộ? Ắt cần phải thật sự nêu ra [những
bằng chứng] trọn đủ tinh thần khoa học,
có đủ sức thuyết phục người hiện
thời, tác phẩm như vậy th́ mới được.
Đấy gọi là Phật pháp, là sự nghiệp của
Bồ Tát. Nếu người ta có thể hồi tâm,
thưa cùng chư vị, th́ mới có thể tiếp nhận
giáo huấn của Phật, Bồ Tát, thánh hiền, họ
sẽ quay đầu. Khi họ chẳng quay đầu,
căn bản là chẳng thể tiếp nhận, quư vị
đưa ra Phật pháp kiểu ǵ đi nữa, họ phủ
định quư vị bằng hai chữ, đó là “mê tín”! Một
trăm phần trăm bài xích, chẳng tiếp cận quư vị.
V́ thế, nguyên tắc chỉ đạo của tổ Ấn
Quang cao minh tột bậc, để giáo học người
trên toàn thế giới trong hiện thời, loại giáo dục
nào hữu hiệu nhất? Giáo dục nhân quả. Để
giáo dục nhân quả, nhất định phải dùng tài
liệu hiện đại. Bốn mươi người
trong Sơn Tây Tiểu Viện là bốn mươi thí dụ
chấn động vô số đại chúng; chỉ cần
được tiếp xúc, họ sẽ thật sự động
tâm, thật sự mong học theo. Đó là chuyện tốt
đẹp. Chúng ta dùng khá nhiều kinh giáo, dùng Liễu Phàm Tứ
Huấn đều chẳng độ được. Quư vị
thấy những câu chuyện ấy, [sẽ bài bác] đó là
chuyện trước kia; c̣n đây là hiện tại, những
người ấy đều đang sống sờ sờ,
đều c̣n hiện diện, bốn mươi người
ấy đều c̣n sống nhăn, có sức thuyết phục
thật to!
Toàn
thể những điều này đều là chuyện hữu
vi, người giác ngộ sẽ như thế nào? Giác ngộ
th́ chuyện hữu vi phải nghiêm túc thực hiện, phải
làm tốt đẹp. Phàm là chuyện ǵ, quư vị cũng
đều phải nghĩ tới nghiệp nhân quả báo, chẳng
phải là chuyện ngẫu nhiên. Quan niệm cơ bản cũng là người giác ngộ có thể bỏ
ḿnh v́ người để làm những chuyện tốt
lành này, sức mạnh nào duy tŕ người ấy? Sức
mạnh ấy chính là giác, người ấy giác ngộ ǵ vậy? Người ấy thật sự giác ngộ
“tánh con người vốn lành”,
nói theo Phật pháp sẽ là “hết
thảy chúng sanh đều có Phật Tánh”, người ấy
giác ngộ điều này. V́ sao con người bị biến
thành xấu xa? Chẳng được giáo dục, chẳng
có giáo dục của cổ thánh tiên hiền, chẳng có
cơ duyên tiếp xúc. Giáo dục của cổ thánh tiên hiền
là ǵ? Là luân lư, là đạo đức, là nhân quả, là tôn
giáo. Tôn giáo là ǵ? Đối với người hiện thời, hễ ai đưa ra tôn giáo,
sẽ đều bị chê
là mê tín. Tôn giáo nói điều ǵ? Tôn giáo nói về chân tướng
của vũ trụ và nhân sinh. Quư vị không biết, quư vị
chẳng tiếp xúc, hễ nghe nhắc tới, những kẻ b́nh phàm bèn xằng bậy phán
là mê tín! Chỉ cần quư vị tiếp xúc bèn hiểu rơ,
trong kinh điển của tất cả hết thảy các
tôn giáo là ǵ? Trong ấy nói rơ luân lư, đạo đức,
nhân quả và chân tướng của vũ trụ và nhân
sinh.
V́
thế, người giác ngộ xác thực đă thật sự
biểu hiện, kẻ b́nh phàm thường nói là “bỏ ḿnh v́ người”, hy
sinh, dâng hiến, thật sự có thể làm được.
Kẻ chẳng giác ngộ sẽ không thể làm! Kẻ chẳng
giác ngộ [sẽ so đo]: “V́ sao ta làm chuyện xuẩn ngốc
này?” Đối với bậc giác ngộ, đấy chẳng
phải là chuyện xuẩn ngốc, mà là chuyện chánh
đáng. Chúng ta đến thế gian này để làm chuyện
này; nhưng chúng sanh ương ngạnh, khó giáo
hóa, quư vị chẳng thuận theo họ sẽ không
được. Họ c̣n có rất nhiều tập khí bất
hảo, khi chúng ta mới tiếp xúc, nhất định sẽ phải
thuận theo họ. Quư vị chẳng thuận theo, họ
sẽ chẳng thể tiếp nhận, hăy điều phục
họ dần dần. Đấy là phương tiện thiện
xảo. “Phương tiện
có nhiều môn, về nguồn chẳng hai đường”.
“Về nguồn” là ǵ? Đến
cuối cùng, chắc chắn sẽ giúp họ giác ngộ, giúp
đỡ họ quay đầu; ứng hóa trên thế gian
nhằm mục tiêu thực hiện [ư nguyện ấy].
Phàm
những ai theo đuổi công tác này, trong sự nhận biết
cơ bản, điều thứ nhất là “ai nấy là người tốt, chuyện ǵ cũng
là chuyện tốt”. V́ sao? Quư vị có thể dùng nó
như giáo dục, dùng nó làm tài liệu dạy học.
Người này hủy báng tôi, nhà Phật nói là “lời đồn đăi vô
căn cứ”, kẻ ấy hoàn toàn bịa chuyện sanh
sự hoàn toàn chẳng có căn cứ sự thật để hủy báng quư vị.
Kẻ b́nh phàm gặp phải chuyện ấy, chắc chắn
sẽ phản kháng, phản bác, thậm chí thưa ra ṭa về
tội vu cáo, chắc chắn là sẽ làm theo kiểu ấy,
căm hận thấu xương. Người giác ngộ
thật sự dùng ngay chuyện ấy để làm tài liệu
dạy học, hoàn toàn tiếp nhận, coi như chẳng
có chuyện ǵ hết! Quư vị hủy báng tôi, tôi tuyệt
đối chẳng hủy báng quư vị. Quư vị lăng
nhục tôi, tôi quyết định sẽ tôn trọng quư vị. Phương pháp trái
ngược, sau một thời gian lâu dài, quư vị phải
hiểu đối phương là kẻ vốn có Phật
Tánh, có bổn thiện, có lương tâm, chỉ là nhất
thời mê hoặc, thời gian lâu sau, lương tâm kẻ
đó sẽ phát hiện.
Trong
phần trước, tôi đă nói vua Thuấn mất ba
năm để cảm hóa người khác, chúng ta phải
có một thời gian biểu, ba mươi năm! Ba
mươi năm bất biến, sau ba mươi năm,
người ấy sẽ quay đầu! Giáp chửi Ất
suốt ba mươi năm, Ất khen ngợi Giáp suốt
ba mươi năm. Ba mươi năm sau, Giáp sẽ cúi
đầu, mới cảm nhận “tôi có lỗi với bạn,
bạn là người tốt, tôi đă trách lầm bạn”.
Hiện thời, người như vậy trong xă hội rất
nhiều, nếu quư vị chẳng có cái tâm chân thành, chẳng
có tâm đại giác (đại giác ngộ), chẳng có ḷng
nhẫn nại, chẳng có nghị lực, làm sao quư vị
có thể khiến cho kẻ khác quay đầu? Ngôn
giáo sẽ chẳng có ai tin tưởng, quư vị đem giáo
dục của cổ thánh tiên hiền nói cho kẻ khác nghe.
Người ta nghe xong, bảo: “Đó là cổ nhân, chẳng
phải là người hiện thời. Người hiện
thời làm sao có thể trở lại thuở xưa được? Há có đạo lư ấy?
Thời đại vĩnh viễn tiến về trước,
chẳng tụt lùi”. Người ta nói rất hùng hồn!
V́ thế, chúng ta phải dùng hành vi, cũng tức là phải
dùng thân giáo, hiện thân thuyết pháp, xác thực là làm đến
mức “tâm chẳng ưa thích
ǵ, chẳng nhiễm mảy trần, chuyên làm chuyện tốt đẹp”. Chuyện ấy
vượt ra ngoài dự liệu của họ, cũng khiến
cho họ trong một đời được mở rộng
tầm mắt, nghiễm nhiên thật sự thấy có hạng
người như vậy, sau đấy mới nghĩ: “Người
ta có thể làm được, v́ sao ta chẳng làm
được?” Do vậy, người quay đầu sẽ
dần dần nhiều hơn, người bắt chước
cũng sẽ dần dần đông hơn! Hễ quay đầu, sau đấy
mới có thể bàn chuyện thánh học với họ
được. Có người sẽ hỏi, kẻ căn tánh lanh lợi sẽ hỏi: “V́ sao quư vị phải làm như vậy?” Sẽ hỏi quư vị câu ấy. Sau đó,
quư vị có thể bảo họ, Khổng Tử dạy tôi
làm theo cách này, Phật Thích Ca dạy tôi làm theo cách này, tổ
tiên năm ngàn năm dạy tôi làm theo cách này, quư vị nói xem, làm như vậy có tốt hay không? Họ biết rơ, chẳng phải
là không biết.
Người
chẳng có ḷng riêng tư, chẳng ích kỷ, chẳng v́ tiếng
tăm, lợi dưỡng, chẳng tham ái hưởng thụ
ngũ dục, lục trần, chẳng có tham,
sân, si, mạn, sẽ vui sướng
khôn sánh. Quư vị có thể học theo, làm theo điều này,
quả báo do quư vị đạt được, sẽ chẳng
phải là quả báo thế gian, mà là đạt được
quả báo ǵ? Do Tánh Đức tự nhiên lưu lộ. Trong
giáo pháp Đại Thừa, đức Phật đă nói rất
nhiều. Điều thứ nhất là trí huệ Bát Nhă vốn
sẵn có trong tự tánh, thứ hai là tài nghệ, năng lực
của quư vị, thứ ba là tướng hảo, càng đến
lúc tuổi già, càng thù thắng. Người ta chẳng thể
không già, quư vị thấy người hiện thời
nghĩ trọn mọi phương pháp để mong cầu
sống lâu. Sống lâu th́ ắt phải khỏe mạnh, có khỏe mạnh th́ mới
vui sướng. Sống lâu mà chẳng khỏe mạnh th́
chẳng vui thú chi hết! Quả báo, qua thực nghiệm
rơ rệt nhất, già mà chẳng suy, bất luận là dung mạo,
tinh thần, hay thể lực, đều chẳng thua kém
người trẻ tuổi, lại thông minh, trí huệ, có
kinh nghiệm từng trải trong cuộc sống,
đương nhiên là những kẻ trẻ tuổi chẳng
thể sánh bằng quư vị! Quả báo ấy chính là “hữu vi sự
trung, tâm vô sở nhạo” (trong sự hữu vi, tâm chẳng
ưa chuộng) tự nhiên hiển thị, chẳng phải
cầu!
Cuộc
sống tột bậc đơn giản, chẳng tạo tội
nghiệp. Chẳng tạo tội nghiệp th́ điều
đầu tiên là phải thị hiện cho người thế
gian thấy: Chẳng ăn thịt chúng sanh. V́ sao? Chúng ta hiểu
rất rơ ràng, rất minh bạch, những tai nạn trên thế
giới này, thiên tai, nhân họa do đâu mà có? V́ sao có nhiều
tai nạn ngần ấy? Nguyên nhân thật sự gây ra tai nạn,
thưa cùng chư vị, là do ăn thịt mà ra! Chuyện
này phải hiểu nhân quả ở một cấp sâu
hơn th́ quư vị mới có thể hiểu rơ. Nhân quả ở
một cấp sâu hơn chính là nhân quả ba đời.
Trong nhân quả ba đời, hễ nói
đến chuyện oan oan tương báo sẽ chẳng hết, chẳng xong! Quư vị thấy
trong thế gian hiện thời, do thông tin phát triển, qua
những tin tức từ phương tiện truyền
thông, quư vị lưu ư đôi chút, hằng ngày trên thế giới
này, người ta bắt giết bao nhiêu động vật,
ăn bao nhiêu động vật, hằng ngày đều
ăn. Những động vật này đều có linh tánh
giống như con người, chúng nó đầu thai, do đời
quá khứ tạo ác nghiệp, đầu thai bèn luân lạc
trong súc sanh đạo, quư vị ăn thịt chúng nó, chúng nó
có oán hận hay không? Chúng nó có ư niệm báo thù hay không? Nếu
chúng nó oán hận, sẽ báo thù, chuyện này cũng rất
phiền phức, trong hai mươi lăm bộ sử của Trung Hoa đă ghi chép chẳng ít. Chúng nó sẽ
báo thù như thế nào? Chúng nó đầu thai vào nhà quư vị
làm con cháu, làm cháu yêu cháu quư, đợi đến khi nó
trưởng thành, chúng nó sẽ chỉnh cho quư vị nhà tan, người chết,
chúng ta gọi đứa
con ấy là “bại gia tử”.
V́ sao nó phải làm một đứa bại gia tử? Nó
đến báo cừu! Trong quá khứ, quư vị đă hại
nó, nó chẳng tha quư vị, có cách nào nữa đây!
Quư
vị phải hiểu đạo lư này, trên thế giới
hiện thời có những kẻ được gọi là
“phần tử khủng bố”, giải quyết vấn
đề ấy như thế nào? Biện pháp duy nhất là
hóa giải, ḥa giải, đừng nên xung đột nữa!
Dùng vũ lực, dùng trả đũa vô dụng, cừu hận
càng ngày càng sâu. Đấy chẳng phải là phương
pháp để giải quyết vấn đề, quyết
định là phải ḥa giải, phải ngồi xuống
bàn luận kỹ càng với nhau, hăy khéo phản tỉnh. Nếu
bất ḥa, đôi bên đều bị hại, lại c̣n
nhiễu loạn khiến cho xă hội bất an. Quá khứ
đă sai lầm, dẫu lầm lỗi, chẳng cần nhắc
lại, từ nay về sau, chúng ta ḥa hảo như thuở
ban đầu, tôn trọng lẫn nhau, bao dung lẫn nhau, đôi
bên hỗ trợ hợp tác, đấy mới là thật sự giải quyết vấn đề.
V́ thế, chiến tranh chẳng thể giải quyết vấn
đề, ư niệm “tổn người, lợi ḿnh”
chẳng thể giải quyết vấn đề, chỉ
có tạo tác vấn đề, cậy thế hiếp người lại kết thành oán cừu. Ta nay mạnh hơn ngươi, ta nay giàu
hơn ngươi, ngươi chẳng có năng lực
kháng cự ta, như vậy th́ dân tộc hoặc quốc
gia của quư vị có thể vĩnh viễn duy tŕ sự
giàu mạnh hay chăng? Nh́n vào lịch sử, đó là một
mặt gương, [sẽ thấy] chẳng có cách nào duy
tŕ vĩnh viễn [sự giàu mạnh]. Đến khi quư vị
suy yếu, họ mạnh mẽ, họ sẽ lấn hiếp
quư vị. V́ thế, ăn miếng trả miếng, đấy
là mê hoặc, điên đảo, chẳng liễu giải chân
tướng sự thật, chẳng được hưởng
giáo dục nhân quả!
Năm
xưa, tại Đài Loan, cư sĩ Giang Dật Tử vẽ
Địa Ngục Biến Tướng Đồ, chúng ta
cũng làm thành đĩa CD lưu thông với một số
lượng lớn. Ông ta giữ bản quyền, nhưng
cho tôi bản quyền làm thành một trăm vạn đĩa,
tôi hiện thời vẫn chưa làm đến con số ấy.
Giúp cho chúng sanh xem nhiều hơn, cũng phải coi nó
như một môn công khóa để học tập, xem hằng
ngày. Đó là [những cảnh tượng nơi] Diêm
Vương Điện trong miếu Thành Hoàng trước
kia, là thật, chẳng giả, nói rơ “thiện
có thiện quả, ác có ác báo”, chẳng phải là không báo, mà là chưa tới
lúc!
Một
trăm bốn mươi mốt bài kệ này, trong phần
trước tôi đă giới thiệu với các đồng
học, là do đức Phật nói với hàng Pháp Thân Bồ
Tát. Một trăm bốn mươi mốt chuyện này là
pháp tu của Pháp Thân Bồ Tát, cảnh giới rất cao. Nay
chúng ta là phàm phu, chẳng đoạn một phẩm phiền
năo nào, chúng ta thực hiện từ chỗ nào? Chúng ta phải
làm từ Đệ Tử Quy, đó là khóa tŕnh trước
hết. Khóa tŕnh cơ sở là Đệ Tử Quy, sau
đấy lại học Thập Thiện Nghiệp, rồi lại
học Sa Di Luật Nghi, rồi lại học Bồ Tát giới,
Bồ Tát giới kinh, sau đấy sẽ có thể học một trăm bốn
mươi mốt nguyện này. Nói cách khác, tầng cấp [tu học] giống như [các tầng] trong một ṭa cao ốc, đây là tầng thứ
tư hoặc tầng thứ năm. Tu học chẳng thể
nhảy cấp được! Chúng
ta có thể biết những tầng trên, nhưng biết
chính ḿnh hiện thời chẳng làm được, chính
ḿnh hăy thật thà nương theo tŕnh độ hiện tiền
để nghiêm túc học tập, đó là đúng. Chúng ta hiểu
rơ tinh thần này, trong chuyện hữu vi, tốt
nhất là làm mà chớ nên chấp trước, đấy
gọi là Bồ Tát “tác nhi vô
tác” (làm mà không làm). Quư vị thấy “hữu vi sự trung” là làm, “tâm vô sở nhạo” (tâm chẳng ưa chuộng)
là không làm. Làm mà không làm, không làm mà làm, tâm địa vĩnh
viễn thanh tịnh, vĩnh viễn b́nh đẳng,
vĩnh viễn là giác ngộ, vĩnh viễn là đại
từ bi, phải hiểu lư này, hăy học dần dần.
Trong phần trước, chúng ta đă nhắc đến Đệ Tử Quy, Thập Thiện
Nghiệp Đạo, Sa Di Luật Nghi, toàn bộ đều
là chuyện thuộc về hữu vi. Hội Hoa Nghiêm nhắc nhở chúng ta, làm mà chẳng
làm, trong tâm chẳng có chấp trước, chẳng có phân
biệt, đấy chính là sự nghiệp của
bậc đại Bồ Tát. Nay đă hết thời gian rồi,
chúng tôi nói tới chỗ này!
***
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Xin xem bài kệ thứ năm tiếp
theo:
(Kinh)
Kiến hoan lạc nhân, đương nguyện chúng sanh, thường
đắc an lạc, nhạo cúng dường Phật.
(經)見歡樂人。當願眾生。常得安樂。樂供養佛。
(Kinh:
Thấy người vui sướng, nguyện cho chúng sanh,
thường được yên vui, thích cúng dường Phật).
Bài
kệ này nói về người đắc pháp hỷ, xác thực
là chẳng dễ dàng. Trong giáo pháp Đại Thừa
thường nói “pháp hỷ sung
măn, thường sanh tâm hoan hỷ”; đấy chính là học
Phật thật sự được thọ dụng. Nếu
chúng ta hỏi, như thế nào th́ mới có thể
được thọ dụng? Từ xưa tới nay, trong
quá khứ, người thật sự được thọ
dụng rất nhiều, thường trông thấy,
nhưng trong thời đại hiện tiền, xác thực
là dần dần suy thoái. Trong các buổi giảng, chúng tôi
cũng thường nhắc tới nguyên nhân. Nói theo ngoại
duyên, chẳng thể nói là phong khí [xă hội] không có ảnh
hưởng. Nói theo phía bản thân chính ḿnh, th́ là tập tánh.
Thật sự được thọ dụng thường
là v́ phong khí xă hội tốt đẹp, bản thân ta khéo học,
quư vị mới thật sự có thể đạt
được pháp vị, chớ nên không biết điều
này!
Cổ
nhân thường nói đến niềm vui do đọc
sách, đọc sách vui sướng vô cùng. Những lời ấy
đều là thật, chẳng giả! Người có thể
thốt ra lời ấy, chắc chắn đă đạt
được [niềm vui ấy]. V́ thế, đối với
người đă từng trải, nếu bản thân người ấy chẳng đạt
được, chắc chắn sẽ không nói. Hiện thời,
người đọc sách có vui sướng hay chăng? Chẳng
vui, đọc sách khổ quá, khổ không thể nói nổi!
Thời cổ, chẳng nghe nói học tṛ tự sát, trong lịch
sử chẳng có ghi chép. Nếu có, chắc chắn sẽ
được ghi chép, v́ đấy chẳng phải là chuyện
nhỏ, mà là đại sự! Nhưng hiện thời trên
thế giới này, bất luận tại Trung Hoa hay ngoại
quốc, học tṛ tự sát vào lứa tuổi nào? Học
tṛ Tiểu Học! Tiểu Học, Trung Học, Đại
Học, học đến chương tŕnh Thạc Sĩ
hoặc Tiến Sĩ, tự sát đều rất nhiều;
chuyện này đă chẳng c̣n là tin tức sốt dẻo nữa!
C̣n chưa bước vào xă hội, c̣n đang độ tuổi
học hành trong nhà trường, v́ sao họ có thể làm
chuyện này? Do vậy có thể biết, hiện thời
đọc sách chẳng vui. Do nguyên nhân ǵ? Những sách để đọc
[trong hiện thời] khác hẳn, có nghĩa là những thứ để học
tập trong hiện thời đă tăng trưởng phiền
năo, đem lại sức ép cho quư vị, chẳng giống
như giáo dục thánh hiền trong thời cổ. Giáo dục
thánh hiền xác thực là tương ứng với tâm
tánh, tương ứng với pháp tắc thiên nhiên. V́ thế,
càng học càng vui sướng, xác thực là niềm vui do
đọc sách là vui sướng vô cùng, nhất là [đọc]
sách Phật!
Bất
luận là sách vở của thánh nhân thế gian hay kinh luận
tôn giáo, điều quan trọng nhất là phải khai ngộ,
Phật pháp nói đến “ngộ
tánh”. Học hành xưa kia, thầy cũng hết sức
chú trọng ngộ tánh của học tṛ. Lứa tuổi
tôi, khi học Tiểu Học, đôi khi nghe các thầy chuyện
tṛ, tôi có ấn tượng rất sâu
đậm. Khi dạy xong, các thầy ở trong pḥng nghỉ,
nói chuyện phiếm, uống trà, bàn tán tṛ nào có ngộ
tánh. Chúng tôi ngẫu nhiên đi qua cửa sổ nghe thấy.
Có thể thấy là thời đó, thầy coi trọng ngộ
tánh của học tṛ, [chú trọng] khơi mở ngộ
tánh của tṛ, chẳng coi trọng trí nhớ. Cố nhiên
là trí nhớ rất quan trọng, nhưng không xếp vào
hàng đầu, địa vị hàng đầu là ngộ
tánh. Có ngộ tánh, người ấy sẽ có niềm vui sướng. Ngộ tánh có thể vun bồi, ai nấy đều có.
V́
thế, điều kiện quan trọng nhất trong học
tập là phải
có thể định tâm.
Hễ bộp chộp, xáo động, sẽ chẳng
có ngộ tánh (tức
là ngộ tánh chẳng thấu lộ ra ngoài), [nói cách khác], ngộ tánh vốn sẵn có của quư vị sẽ bị nẩy sanh chướng
ngại. Do
đó, tâm nhất định phải
thanh tịnh. Hoàn cảnh hiện thời xác thực là có vấn
đề, cổ nhân học tập chắc chắn là một
môn, sẽ chẳng bảo quư vị học đồng thời
hai môn. V́ sao? Đồng thời học hai môn, cái tâm của
quư vị sẽ chẳng thể định nổi. Quư vị
sẽ nghĩ đến môn này, lại nghĩ đến
môn kia. Đây là một điều kỵ húy nghiêm trọng
trong giáo học, nhưng phương Tây dạy học theo
kiểu ấy. Hiện
thời, quư vị học hành trong
nhà trường, một ngày học vài môn, có ngữ văn,
có toán, có vật lư, có hóa học, quư vị học đến
mấy môn. Mỗi ngày tối thiểu phải học khoảng
ba môn. Học tṛ Tiểu Học có thể phải học
đến bốn môn, tâm chúng nó làm sao có thể định
cho được? Lấy đâu ra niềm vui thú? Cổ
nhân dạy học chỉ là một quyển sách. Chẳng học xong
quyển sách này, sẽ chẳng thể học quyển thứ hai. V́ thế, họ tư
duy chỉ có một chuyện. Đấy là phương
pháp dạy học của phương Đông từ xưa
đến nay, “thâm nhập một môn, huân
tu lâu dài”, trong ấy trọn đủ tinh thần
Giới, Định, Huệ. Phương pháp là Giới, “thâm nhập một môn, huân tu lâu
dài” là Định. Do Định có thể khai Huệ. Huệ là ǵ? Chính là sự lư giải, lănh ngộ
của quư vị đối với những ǵ đă học.
Cùng một quyển sách, ư vị vô cùng, v́ sao? Hằng ngày có
ngộ xứ, đấy là quư vị có lạc thú, niềm
vui ấy vô cùng. Mỗi ngày đều phát hiện thứ mới
mẻ, trí huệ tăng trưởng.
V́
thế, kinh điển của thánh nhân, những sách vở
do tổ tông truyền lại, như những sách đại
biểu của Nho là Tứ Thư,
Ngũ Kinh, Thập Tam Kinh, hoặc bộ Tứ Khố Toàn Thư
được biên tập vào đời Thanh trước
kia, nghĩa lư chẳng có cùng tận. Chúng ta thấy trải
qua các thời đại, chú giải và chú sớ của những
vị học giả có quá nhiều chủng loại, mỗi
người có mỗi cách giải thích riêng. Quư vị nói cách nào
đúng, cách nào chẳng đúng? Thưa cùng chư vị,
đều là đúng, mà cũng đều là chẳng đúng! Cớ sao nói “đều là chẳng đúng”? Phàm là những thứ do
thánh nhân đă nói chẳng có ư nghĩa, mà quư vị có [cách giải
thích theo một] ư nghĩa [nào đó] th́ là đều chẳng
đúng. V́ sao nói “đều đúng”? Quư vị giải thích
đều chẳng sai! V́ sao? Cái chẳng có ư nghĩa
được lưu lộ ra chính là từ tự tánh
lưu xuất, giống như kinh Bát Nhă đă nói: “Bát Nhă vô tri, không ǵ chẳng biết”.
Tôi cũng thường nói “kinh
sách chẳng có ư nghĩa”, quư vị chỉ cần thành
khẩn niệm, tuyệt đối đừng suy nghĩ
ư nghĩa của nó, v́ sao? Ư nghĩa của nó là vô lượng
nghĩa, vô lượng nghĩa th́ lời giải thích của
mỗi người đều đúng. Điều này là thật,
chẳng giả, là vô lượng nghĩa; do vậy,
người ấy (người đọc kinh sách) có niềm
vui thú. Trí huệ nhỏ, quư vị lư giải nghĩa thú
nông cạn, chẳng sâu. Trí huệ to, quư vị đọc đến, sẽ thấy
ư nghĩa vừa sâu lại vừa rộng, đúng là vô
lượng nghĩa.
Các
vị đồng học đă lâu, các vị thường nghe
tôi giảng kinh, tôi giảng kinh đă bốn mươi tám năm. Thuở đầu
giảng kinh Hoa Nghiêm, tôi nhớ lần đầu tiên giảng
kinh Hoa Nghiêm là năm Dân Quốc 60 (1971), hiện nay là năm Dân Quốc bao nhiêu tôi không biết,
nghe nói dường như là năm chín mươi mấy! Hơn ba mươi năm trước, tôi giảng
kinh Hoa Nghiêm lần đầu ở thành phố Đài Bắc.
Tiếc là thuở đó chẳng có băng thâu âm, chẳng
có băng thâu h́nh, chẳng giống như giảng trong hiện
thời, khác biệt rất lớn; nhưng thính chúng thuở
ấy cũng là nghe pháp
[cảm thấy] tràn trề
pháp vị, muốn bỏ mà chẳng thể được,
đă cổ vũ, khích lệ tôi rất lớn. Nếu các
vị lưu tâm, lưu ư, [sẽ thấy] cùng một bộ
kinh, nghĩa thú được giảng giải mỗi
năm mỗi khác, chẳng giống nhau; đấy là nguyên
nhân ǵ? Mỗi năm đều có tiến bộ, mỗi
năm có sự lănh hội mới. V́ thế, kinh là sống
động, chẳng chết cứng! Từng câu, từng
chữ trong kinh xác thực giống như đề mục
để soạn văn chương vậy. Vẫn là
đề mục ấy, thời Tiểu Học làm văn theo đề mục ấy, dùng đề mục
ấy để viết một bài văn, thuở Trung Học
vẫn dùng đề mục ấy để viết một
bài văn, đến khi lên Đại Học vẫn
như cũ dùng đề mục này để viết một
bài văn, nhưng nội dung khác nhau, tŕnh độ của
quư vị không ngừng tăng cao hơn, tuy vẫn là cùng một
đề mục cũ x́!
Từng
chữ, từng câu trong bộ kinh Hoa Nghiêm này thật sự
là đề mục. V́ sao biết nó là đề mục? Trong
phần Huyền Nghĩa, Thanh Lương đại sư
đă giới thiệu cặn kẽ. Thuở ấy, Long Thọ
Bồ Tát đến long cung, tức đạo tràng của
Đại Long Bồ Tát, thấy kinh Hoa Nghiêm do đức Thế Tôn đă nói, được gọi là Đại Bổn,
phân lượng to cỡ nào? Mười tam thiên đại
thiên thế giới vi trần bài kệ, một tứ thiên
hạ vi trần phẩm. Bộ kinh này to cỡ nào? Toàn bộ
sách vở trên thế giới, chỉ cần là sách vở, thảy đều gom lại, đem so với
kinh này vẫn chẳng sánh bằng! Đó là ǵ? Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Long Thọ Bồ
Tát thuở ấy rất ngạo mạn. Ngài thông minh, đối
với hết thảy các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă
nói trong bốn mươi chín năm, Ngài dùng ba tháng để
đọc xong toàn bộ. Vị này là Sơ Địa Bồ
Tát thị hiện. Ngài tự cho rằng những thứ
thuộc về tất cả các tôn giáo tại Ấn Độ
đă đọc trọn hết, cảm thấy chính ḿnh là
bậc nhất trong thế gian, chẳng ai có thể hơn
được, dấy ḷng kiêu căng, ngă mạn. Đại
Long Bồ Tát là bậc đại Bồ Tát chiếu cố
tiểu Bồ Tát, dẫn ngài Long Thọ vào long cung để xem
thư viện trong cung rồng. Vừa trông thấy Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, cái tâm ngạo mạn
lập tức chẳng c̣n, biết những ǵ chính ḿnh
đă học tập là một sợi lông của chín con
trâu, chẳng thấm vào đâu! Do vậy mới bội phục
đức Phật năm vóc sát đất!
V́
thế, Ngài nói chúng sanh Diêm Phù Đề chẳng thể thọ
tŕ bộ kinh này. Nói cách khác, chính Ngài cũng chẳng thể
thọ tŕ, huống hồ chúng sanh trong thế giới này!
Vậy mà kinh c̣n có trung bổn, phân lượng của trung
bổn vẫn quá to! Lại xem đến hạ bổn. Hạ
bổn là ǵ? Hạ bổn cũng như “mục lục đề yếu” (phần mục lục lược thuật những điểm trọng
yếu). Giống như trong Tứ Khố Toàn
Thư, trung bổn là ǵ? Chính là bộ [Tứ Khố Toàn
Thư] Hội Yếu, Hội Yếu là một phần ba của
đại bổn. Lại c̣n có hạ bổn (tiểu bổn),
tiểu bổn là mục lục
đề yếu. Mục lục đề yếu
cũng có mấy chục
quyển, hiện thời, chúng ta dùng lối in sách b́a cứng,
rút nhỏ lại. Đại khái là đối với mỗi
tập sách [trong Tứ Khố Toàn Thư] dầy cộp như vậy, mục lục đề yếu chiếm mất năm tập, chất đống lại cao ngất như thế. Mục lục đề yếu
đấy nhé. Do vậy,
kinh Hoa Nghiêm do Ngài truyền từ long cung về thế giới
này chính là phần mục lục đề yếu, há chẳng
phải là mỗi câu, mỗi chữ đều là mỗi đề mục ư? Dựa theo đề
mục ấy để viết văn th́ hay quá!
Kinh
Hoa Nghiêm hiện thời là mục lục đề yếu của Đại Bổn Hoa Nghiêm Kinh,
được phiên dịch sang tiếng Hán lại chẳng
hoàn chỉnh. Mục lục
đề yếu là
bao nhiêu? Mười vạn bài kệ! Thói quen [tính phân lượng]
trong kinh Phật khác với [thói quen của] người Hoa. Người Hoa tính kích
thước của sách theo số chữ, quyển sách này
có bao nhiêu chữ. Chúng ta thường nói “Lăo Tử ngũ thiên ngôn”, [tức là Đạo
Đức Kinh của Lăo
Tử có] năm ngàn chữ. Kinh
Kim Cang cũng hơn năm ngàn chữ, người Hoa tính
theo số chữ. Người Ấn Độ chẳng
như vậy, họ tính theo câu. Câu dài hay ngắn không câu nệ,
cứ bốn câu là một kệ, tính [bốn câu] là một đơn vị. Bốn câu là một
đơn vị, mười vạn kệ tức là bốn
mươi vạn câu. Kinh Hoa Nghiêm do Long Thọ Bồ Tát
truyền đến thế gian gồm
bốn mươi vạn câu, mười vạn bài kệ,
phân lượng ấy quá to!
Pháp
sư Ấn Độ, pháp sư Trung Hoa sang Ấn Độ
thỉnh kinh, đều chẳng thể
đem một bộ kinh Hoa Nghiêm đầy đủ đến
Trung Hoa, cho nên những bản đem tới đều tàn
khuyết, chẳng trọn vẹn. Truyền tới lần
đầu vào thời đại Đông Tấn là ba vạn sáu ngàn bài kệ.
Các vị hăy ngẫm xem, toàn thể bộ sách là mười
vạn bài kệ, truyền
đến Trung Hoa chỉ
có ba vạn sáu ngàn bài kệ, hơn một phần ba một
tí. Đến đời Đường, truyền sang lần
thứ hai là bốn vạn năm ngàn bài kệ, nhiều
hơn bản đời Tấn chín ngàn bài kệ, dịch
ra thành bản Bát Thập Hoa Nghiêm hiện thời. Do vậy,
toàn văn Bát Thập Hoa Nghiêm vẫn chưa đầy một
nửa toàn văn do Long Thọ Bồ Tát truyền, [nguyên
văn là] mười vạn bài kệ, Bát Thập Hoa Nghiêm
chỉ có bốn vạn năm ngàn bài kệ, vẫn kém hơn một nửa. Cuối
cùng, trong niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường,
phẩm cuối cùng là Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện
Phẩm, phẩm kinh này được truyền đầy
đủ đến Trung Hoa. Phẩm cuối cùng dịch
sang tiếng Hán thành bốn mươi quyển, phẩm này
hoàn chỉnh. Tính gộp chung lại là một nửa nguyên
văn, được nửa bộ, có thể nói là kinh
điển bằng tiếng Phạn hiện thời đă
thất truyền. Kinh Hoa Nghiêm hiện thời được
bảo tồn nhiều nhất là bản tiếng Hán.
Suốt
đời, Hoằng Nhất đại sư yêu thích kinh Hoa
Nghiêm. Khóa tụng của lăo nhân gia, tức khóa tụng sáng
tối, chỉ dùng Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện
Phẩm, Ngài niệm phẩm kinh ấy như khóa tụng
sáng tối của chính ḿnh. Niệm rất thuộc, có thể
đọc thuộc ḷng. Ngài dạy chúng ta học kinh Hoa
Nghiêm phải biết cách học như thế nào? Ngài dạy
chúng ta học Bát Thập Hoa Nghiêm đến phẩm Ly Thế
Gian, sau đấy đọc phẩm Phổ Hiền Hạnh
Nguyện bản bốn mươi quyển, như vậy
tổng cộng là chín mươi chín quyển. V́ hai
mươi mốt quyển cuối cùng trong Bát Thập Hoa
Nghiêm là Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, [tức
là] chỉ có một nửa của bốn mươi quyển.
Do vậy, Ngài nhắc đi nhắc lại, chúng ta chẳng
đọc phẩm Nhập Pháp Giới trong bản tám
mươi quyển, mà đọc Phổ Hiền Hạnh
Nguyện phẩm bản bốn mươi quyển. Tính gộp
lại như vậy, sẽ là chín mươi chín quyển.
Đấy là bản được bảo tồn hoàn chỉnh
nhất trong tiếng Hán. Do vậy, chúng ta phải hiểu từng
chữ, từng câu trong kinh Hoa Nghiêm đều là đề
mục. Quư vị lănh ngộ bao nhiêu, mỗi người
khác nhau! Thật giống như đề mục, chúng ta học
hành tại nhà trường, thầy ra đề mục bảo
các học tṛ viết văn. Đề mục giống
nhau, mỗi người viết khác nhau, nhưng chẳng
ĺa đề mục ấy th́ đều là văn
chương hay, đều chẳng có sai lầm. Quư vị
hiểu ư nghĩa này, mới chẳng đến nỗi hiểu
sai phương hướng và mục tiêu học tập. V́
thế, từng chữ, từng câu đều là sống động, chẳng chết cứng.
“Hoan lạc nhân” (người hoan lạc) thật sự vui
sướng, trừ đọc sách ra, trừ nghiêm túc học
tập ra, sẽ chẳng đạt được, tức
là chẳng đạt được niềm hoan hỷ thật
sự. Ḷng ưa thích của người thế gian
được kiến lập trên vinh hoa, phú quư, nhưng
vinh hoa, phú quư chẳng thể giữ măi! Giữ chẳng
được, một mai hưởng hết phước
báo, [vinh hoa, phú quư] sẽ mất đi, sự hoan lạc ấy
chẳng c̣n nữa! Bài kệ kế tiếp nói đến ba
khổ, tám khổ, chúng ta hiểu ngay. Trong xă hội hiện
thực, từ kinh nghiệm đích thân từng trải của
chúng tôi trong một đời này, trong quá khứ
đă thấy kẻ quan cao chức cả, giàu sụ, sự
hưởng thụ vật chất của họ đúng là “gọi
một tiếng, trăm kẻ dạ”, trong nhà tôi tớ
rất nhiều, đến lúc tuổi già, địa vị
mất đi. Nhất là Trung Hoa gặp phải rất nhiều
lần chiến tranh loạn lạc, đến tuổi già, trong nhà chẳng có một người hầu
nào. Hai vợ chồng già tuổi đều đă cao, tự
ḿnh xách giỏ ra đường mua thức ăn. Chúng tôi
trông thấy hiện tượng thê thảm ấy. Quá khứ
là quan to, đại tướng chẳng ai b́ nổi,
chẳng hiểu sao tuổi già lại rơi vào t́nh cảnh
ấy! Sự hoan lạc ấy là giả, chẳng thật.
Sự hoan lạc thật sự là đọc sách,
v́ sao? Người ấy chẳng bị ngoại giới ảnh
hưởng, có thể vĩnh viễn ǵn giữ sự vui
sướng. V́ thế nói niềm vui do đọc sách là vui sướng vô cùng. Câu đầu tiên trong
Luận Ngữ là “học nhi thời
tập chi, bất diệc duyệt hồ?”
(học rồi thường xuyên tu tập, cũng chẳng
vui sao?) “Duyệt” (悅) là hỷ duyệt, tức là “hoan lạc” đang được
nói ở đây. Đấy là ǵ? Từ trong tự tánh
lưu lộ, chẳng phải từ bên ngoài. Phàm là những
thứ hoan lạc có được từ bên ngoài sẽ
đều bị mất đi. Chỉ có những ǵ từ
trong tự tánh lưu lộ th́ mới vĩnh viễn chẳng
bị mất đi!
Quư
vị đọc sách của cổ thánh tiên hiền vui
sướng, đọc sách Phật càng vui sướng
hơn. Do vậy, quư vị phải hiểu: Đầu
tiên, quư vị phải trừ khử chướng ngại,
chướng ngại là ǵ? Dục vọng vật chất.
V́ thế, Nho gia dạy quư vị điều thứ nhất
là ǵ? Cách vật (格物, trừ khử ham muốn vật chất)!
V́ sao? Nó là chướng ngại. Quư vị có thứ ấy,
“vật” (物) là sự ham muốn hưởng thụ vật
chất. Nếu quư vị chẳng thể buông xuống dục
vọng vật chất, sẽ chẳng đạt
được niềm vui do đọc sách. V́ thế,
điều kiện tiên quyết là phải trừ bỏ dục
vọng vật chất, chuyên chú vào đâu? Sự vui sướng nơi tinh thần, cổ nhân gọi niềm
vui sướng ấy là “Khổng Nhan chi lạc”. Khổng phu tử và Nhan
Hồi có nhu cầu vật chất hết sức đạm
bạc. Thích Ca Mâu Ni Phật đă biểu hiện, buổi
trưa ăn một bữa, nghỉ đêm dưới cội
cây, sống cuộc đời ǵ vậy? Khất thực!
So với Khổng, Nhan, chỉ có hơn chứ chẳng
kém. Khổng Tử, Nhan Hồi đă là hết sức hỷ
duyệt, niềm hoan lạc
của Phật, Bồ Tát khẳng định là vượt
trỗi niềm vui của Khổng Tử và Nhan Hồi rất
nhiều! Từ suy luận, chúng ta có thể suy ra chuyện
này. Nếu chúng ta nghĩ tưởng được, hăy
nên học theo Khổng Tử, học theo Mạnh Tử, học Phật, Bồ Tát,
quư vị mới thật sự có thể đạt được.
Quư vị đạt được niềm hoan lạc ấy
th́ mới thật sự, nói theo kiểu cách của chúng
sanh, “chịu hy sinh, dâng hiến”
cho hết thảy chúng sanh, nhưng bản thân những
người ấy chẳng cảm thấy phải hy sinh
ǵ, chẳng có dâng hiến ǵ. V́ hết thảy chúng sanh, giúp
đỡ hết thảy chúng sanh, đấy là chuyện tự
nhiên, là chuyện đáng nên làm, tức là
chuyện phải đáng nên làm trong bổn phận của
ta, giống như cha mẹ chăm sóc con cái, chẳng có bất
cứ điều kiện ǵ, c̣n nói ǵ đến hy sinh, hiến
dâng nữa! [Hễ bảo là hy sinh, dâng hiến], sẽ là
quá khoa trương, tự nhiên mà! V́ sao? Chúng sanh và ta có cùng
một Thể. Do vậy, sự hỷ duyệt ấy do
Tánh Đức lưu lộ, hoan lạc là Tánh Đức.
Chúng
ta thường nói trong Tánh Đức có chân thành, có thanh tịnh,
có b́nh đẳng, có chánh giác, có từ bi. Tâm đại từ
bi tự nhiên lưu lộ, khẳng định là sẽ
giúp đỡ hết thảy chúng sanh khổ nạn. Trong sự
giúp đỡ, hiện thời, chúng ta nói các hạng mục
hết sức nhiều, nhưng điều quan trọng nhất
là giúp đỡ chúng sanh giác ngộ. Phương pháp tốt
nhất để giúp họ giác ngộ là giáo học; do vậy,
các bậc đại thánh đại hiền thế
gian và xuất thế gian đối với hết thảy
chúng sanh, không vị nào chẳng dùng giáo học làm
phương tiện. Rơ ràng nhất, quư vị thấy người
sáng lập mỗi tôn giáo đều là những vị thật
sự có đức hạnh, có học vấn, có trí huệ,
họ chẳng làm ǵ khác mà dạy học. V́ sao? Chỉ có
giáo học th́ mới có thể giúp đỡ người
khác giác ngộ. Sau khi đă giác ngộ, người ấy
mới có thể độc lập, mới có thể tự
ḿnh chăm sóc chính ḿnh, trong đời này, tất nhiên cũng
sẽ đạt được hoan lạc. Trong một
đời, người ấy có mục tiêu, có
phương hướng, người ấy chẳng mê hoặc,
chẳng điên đảo, lẽ nào người ấy chẳng
vui sướng? Hằng ngày, người ấy đều
tiến về phía trước, sẽ chẳng thụt lùi.
Hằng ngày đều có tiến bộ, hằng ngày phiền năo nhẹ nhàng, trí huệ tăng
trưởng. Ví như đọc một quyển sách, ở
Trung Hoa, vào thời cổ, người đọc Tứ
Thư phổ biến nhất, đông nhất, suốt
đời đọc bộ sách ấy, thường xuyên
có ngộ xứ mới mẻ, niềm vui ấy khôn sánh. V́ sao người ấy có ngộ
xứ mới mẻ? Định càng ngày càng sâu hơn, phiền
năo nhẹ nhàng, trí huệ tăng trưởng. V́ sao phiền
năo nhẹ nhàng? Tâm đă định, chẳng sanh phiền
năo. Chẳng sanh phiền năo, sẽ sanh ra trí huệ. Định
lực mỗi năm một sâu hơn, phiền năo mỗi
năm giảm thiểu, trí huệ mỗi năm tăng
trưởng, người ấy làm sao có thể chẳng
vui sướng cho được?
Cổ
đức đă dạy chúng ta một phương pháp,
phương pháp ấy rất hay, đó là “độc thư thiên biến, kỳ nghĩa tự
kiến” (đọc sách ngàn lần, tự thấy ư
nghĩa). Trước hết, quư vị chẳng cầu
mong giải thích, cứ niệm, thật thà niệm, cung
kính niệm, đấy là phương pháp. Phương pháp
thuộc về giới luật, phải cung kính niệm, phải
thật thà niệm. Thật thà niệm là ǵ? Chớ nên xen tạp
vọng tưởng, chớ nên xen tạp phân biệt, chấp
trước, cứ niệm từng lần một, niệm
một ngàn lần, sẽ có công phu nơi Định. Mấy
chục lần chẳng đủ, hai ba trăm lần
chưa được, quư vị vẫn chẳng đắc
Định, một ngàn lần sẽ đắc Định.
Không nhất định tại lúc nào, không nhất định
do cơ duyên nào, sẽ hoát nhiên đại ngộ, Phật pháp
nói là “khai ngộ”. Khai ngộ
là ǵ? Thông hiểu những nghĩa lư được nói
trong bộ kinh ấy, đă thông suốt, lại c̣n kỳ
quái hơn là “một kinh thông, hết
thảy các kinh đều thông; hễ được tiếp
xúc bèn thông hiểu”. Biện pháp này diệu tuyệt. Chẳng
phải là ta học một bộ bèn hiểu một bộ,
[mà là] ta học một bộ, kinh ǵ cũng đều
thông, chẳng ĺa tự tánh. Kinh điển Phật pháp
cũng giống như thế, quư vị hằng ngày chỉ
niệm một bộ kinh, vận dụng công phu đă sâu,
thứ ǵ cũng đều thông. Không chỉ là thông Phật
pháp, mà pháp thế gian cũng thông, chẳng cần phải
học. Người khác giảng nói, tùy tiện xem bèn hiểu
rơ ngay, Lư là một. Do vậy, trong ấy mới
thật sự có niềm vui thú.
V́
thế, thật sự biết học, nói theo Phật pháp,
chính là người thật sự có thiện căn, có phước
đức. Có thiện căn th́ họ sẽ có thể tiếp
nhận, tiếp nhận giáo huấn của thiện tri thức.
Có phước đức th́ mới có thể kiên tŕ
vĩnh viễn chẳng
biến đổi,
khẳng định thành tựu. Nhân tố thứ nhất
khiến chẳng thể thành tựu chính là cái tâm xáo động, bộp chộp. V́ thế, quư
vị chỉ cần thấy kẻ trẻ tuổi vào lứa
tuổi học tṛ mà tâm tánh bộp chộp, hấp tấp,
sẽ chẳng thể nào thành tựu. Đấy là điều
kỵ húy lớn nhất. [Niệm] một ngàn lần, cái
tâm đă Định, trí huệ mở mang, đă nếm
được pháp vị, có thể biến đổi hay
không? Chớ nên biến đổi, cứ tiếp tục.
Đọc xong một ngàn lần,
lại đọc một ngàn lần
nữa, đọc xong hai
ngàn lần lại đọc một ngàn lần nữa, suốt đời chẳng thay đổi. Như
vậy th́ công phu định lực của quư vị ngày
càng sâu, tập khí phiền năo của quư vị sẽ theo thời
gian mà càng ngày càng nhạt mỏng, trí huệ của quư vị
cũng thuận theo thời gian mà ngày càng tăng trưởng,
hoàn thành Tam Học Giới,
Định, Huệ một lượt, cách này tuyệt
diệu! Người hiện thời nói chung chẳng tin
tưởng, vậy là chẳng có cách nào cả, vĩnh viễn
chẳng nếm được pháp vị.
Hai
câu sau là “thường đắc
an lạc, nhạo cúng dường Phật” (thường
được yên vui, thích cúng dường Phật). Giữa
tháng Tư, tôi tham gia luận đàn Phật giáo thế giới
được tổ chức tại Hàng Châu, chủ đề
được đề xuất trong luận đàn là “thế giới hài ḥa, bắt
đầu từ tâm”. C̣n có chủ đề phụ là “tâm an, chúng sanh an”. “Thường
đắc an lạc” là tâm an, họ đề ra ba
điều, “tâm tịnh ắt
cơi nước tịnh, tâm an ắt cơi nước an, tâm
b́nh ắt thiên hạ b́nh”. Tuy nói ba thứ, tuy một mà ba, tuy ba mà một.
Chỉ cần đạt được một điều,
hai điều kia sẽ đều đạt được. V́ thế, chúng ta có thể
đạt được an lạc, cái tâm đương
nhiên thanh tịnh, đương nhiên là b́nh đẳng. Nếu
tâm bất b́nh, tâm của quư vị sẽ chẳng an. Tâm của
quư vị chẳng thanh tịnh, tâm của quư vị sẽ
chẳng an. An lạc là quả báo, thanh tịnh và b́nh đẳng là nhân duyên. Ba câu “tâm tịnh, tâm an, tâm b́nh” toàn
là những điều được nói trong giáo pháp Đại
Thừa, chúng ta tu học Đại Thừa có đạt
được hay không? Nếu chẳng đạt
được, tức là uổng công học mất rồi,
khẳng định là phương pháp và lư luận sai lầm,
chẳng phải là do đức Phật dạy sai, mà là v́ bản
thân chúng ta nghĩ sai, làm sai, [do đó], ba thứ ấy
đều chẳng đạt được.
Câu
cuối cùng quan trọng lắm: “Nhạo
cúng dường Phật”. “Nhạo” (樂) là yêu thích. Ai là Phật? Hết thảy
chúng sanh đều là Phật, so với “v́ nhân dân phục vụ” được nói trong hiện
thời, phạm vi c̣n lớn hơn! Nhân dân là Phật, chúng
sanh cũng là Phật. Chúng sanh bao gồm những loài
được gọi là sinh vật và vô sinh vật. Người
hiện thời thường nói động vật là Phật,
thực vật cũng là Phật, khoáng vật cũng là Phật,
hiện tượng tự nhiên vẫn là Phật, phạm
vi ấy to cỡ
nào! V́ thế, tâm tịnh, tâm b́nh, đạt được
an lạc, khẳng định là sẽ giống như hết
thảy chư Phật Như Lai và các vị đại Bồ
Tát. Nhà Phật có một thuật ngữ là “phổ độ chúng sanh”,
“nhạo cúng dường Phật”
ở đây chính là phổ độ chúng sanh. V́ sao dùng câu này, chẳng
dùng “phổ độ chúng sanh?”
Trong câu nói này, có cái tâm cung kính, “phổ
độ chúng sanh” chẳng hiển lộ ư ấy,
dường như ta là người có thể độ, những
kẻ kia là người được ta độ, sao
không kém hơn một bậc? “Nhạo cúng dường
Phật” là ta v́ hết thảy đại
chúng phục vụ, họ là chủ nhân, ta là đầy tớ,
ư nghĩa khác hẳn, những ư niệm như kiêu căng, ngă
mạn, tự cho ḿnh là đúng đều hoàn toàn chẳng
có!
Khiêm nhường,
hiếu kính. Đối với cha mẹ, đối với
người bề trên, đều khiêm tốn, hiếu
kính, đối với hết thảy nhân dân đều
khiêm nhường, hiếu kính, đối với hết thảy
chúng sanh, những loài ngọ ngoạy, bay hoặc ḅ như
kiến gió, muỗi mắt, cho đến các vi sinh vật,
không ǵ chẳng khiêm tốn, nhún nhường, cung kính. Đối
với thực vật, đối với bùn cát (đấy
là khoáng vật), đối với núi, sông, đại địa,
toàn bộ đều khiêm tốn, nhún nhường, cung kính.
Ngay trong bốn chữ “nhạo
cúng dường Phật” này, quư vị thấy phạm
vi to cỡ nào! V́ thế, quư vị thấy câu này ngàn muôn phần
đừng hiểu lầm, [nghe nói] “cúng dường Phật” bèn nghĩ tới tượng
Phật bằng đất nặn hay gỗ tạc, quư vị hoàn toàn sai lầm mất
rồi. Phật là giác ngộ, nhất định phải
hoan hỷ giúp đỡ hết thảy chúng sanh giác ngộ,
[đấy mới là] thật sự cúng dường. Khởi
tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác chẳng ĺa
điều này. Hôm nay thời gian đă hết rồi, chúng
tôi giảng bài kệ này tới đây!
Đại Phương
Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần
40
[1] Nostradamus
tên thật là Michel de Nostredame (1503-1566)
là một dược sĩ người
Pháp, được tin là có tài tiên tri. Tác phẩm Les
Propheties của ông chứa đựng những
dự ngôn được những người diễn giải
cho là tiên đoán chính xác những sự kiện sẽ xảy
ra trên thế giới. Cha ông vốn là người Do Thái, cải
đạo sang Công Giáo và đổi họ thành Nostredame
(đức bà của chúng ta) v́ hôm ông ta cải đạo
nhằm ngày lễ kính Đức Bà Maria. Hoàng hậu Catherine de Médicis rất sùng bái Nostradamus, từng mời ông lên Paris để lập lá số
tử vi cho hoàng gia. Năm 1560, ông được vua Charles
IX phong làm ngự y.
[2] Sơ Trung là gọi tắt của từ ngữ
Sơ Cấp Trung Học. Tại Đài Loan, cấp học
này c̣n được gọi là Quốc Dân Trung Học hay gọi
tắt là Quốc Trung. Sơ Trung gồm lớp Bảy, lớp
Tám, lớp Chín (thường gọi là Sơ Nhất, Sơ
Nhị, Sơ Tam). Lớp Sáu (tức Đệ Thất theo
kiểu gọi trước kia tại Việt Nam) vẫn
được xếp vào Tiểu Học. Năm thứ ba
của bậc Sơ Trung chính là lớp Chín.
[3] Joseph
Francis Charles Rock (1884-1962) thường được
người Hoa phiên âm là Ước Sắt Phu Lạc Khắc
là người Mỹ gốc Áo. Ông là một nhà thám hiểm,
nghiên cứu địa lư, nhà ngôn ngữ
học,
và chuyên nghiên cứu thực vật. Ông sanh trưởng tại
Vienna (Áo), từng theo cha qua Ai Cập lúc mười tuổi,
đi khá nhiều nơi tại Âu Châu. Năm 1905, ông di
cư sang Mỹ rồi chuyển sang sống tại Hawaii để chuyên
nghiên cứu các loại hoa trên quần đảo này. Ông là
vị giáo sư được mời dạy về môn thực
vật học đầu tiên tại đại học
Hawaii, thiết lập vườn thực vật đầu
tiên cho đại học này. Niềm đam mê thực vật
và ngôn ngữ học khiến cho ông từ chức, bỏ
sang châu Á nghiên cứu. Ông xuất bản một quyển tự
điển dầy 1.094 trang, cũng như nhiều bài viết
nghiên cứu lịch sử của sắc
dân Nạp Tây (Nakhi, Naxi) cũng như những công tŕnh
nghiên cứu về các ngôn ngữ của dân thiểu số
tại Vân Nam. Tên ông được trang trọng đặt
cho một số loài thực vật tại Hawaii và Cam Túc,
chẳng hạn Lobelia rockii ở Molokai (Hawaii), Paeonia rockii
(tên một giống hoa phù dung tại vùng núi Cam Túc) v.v…
[4] Rặng núi này có tên gọi đầy đủ là Ngọc
Long Tuyết Sơn (tên gọi trong tiếng Nạp Tây là Ba
Thạch Âu Lỗ) thuộc thành phố Lệ Giang, tỉnh
Vân Nam, được coi là núi thánh của người Nạp
Tây. Rặng núi này phân cách Tây Tạng và Vân Nam. Ngọn núi này
được coi là nơi đẹp nhất trong những
vùng núi cực Nam Trung Hoa, có nhiều chỗ quang cảnh
đẹp như vẽ. Núi này cùng với Lệ Giang Cổ
Thành, Hổ Khiêu Giáp (khe hổ nhảy) và hồ Ninh Lăng Hồ
Lô được coi là những thắng cảnh phải
đến thăm khi viếng thăm Lệ Giang.
[5] Shangri-la là một địa danh hư cấu
trong tiểu thuyết Lost Horizon của nhà văn James
Hamilton người Anh. Hamilton
đă mô tả nơi ấy như một nơi huyền
bí, hài ḥa, được hướng dẫn bởi một
tu viện của các lạt-ma, nằm ở phía Tây rặng
núi Côn Luân. Nơi ấy
được coi như là thiên đàng hạ giới.
Người sống ở đó gần như bất tử.
Danh xưng này lấy cảm hứng từ truyền thuyết
của những vương quốc bí mật, ẩn kín của
các vị thánh nhân theo truyền thống
Tây Tạng (chẳng hạn Shambala). Nói cách khác, Shangri-la có
thể hiểu là một khái niệm tương
đương với “thế
ngoại đào nguyên” trong văn học Trung Hoa.