Đại Phương Quảng Phật

Hoa Nghiêm Kinh

Phẩm thứ mười một

Tịnh Hạnh Phẩm

Phần 41

大方廣佛華嚴經

(十一)淨行品

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Địa điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội

Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng Mười Một năm 2005

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh Tiến

 

Tập 1543

 

          Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một, phần Sở Ngộ Nhân Vật (所遇人物, những nhân vật gặp gỡ) trong tiểu đoạn thứ ba thuộc đoạn lớn thứ sáu của phần kệ tụng. Chúng ta xem từ bài kệ thứ sáu:

 

          (Kinh) Kiến khổ năo nhân, đương nguyện chúng sanh, hoạch Căn Bản Trí, diệt trừ chúng khổ.

          ()苦惱人。當願眾生。獲根本智。滅除眾苦。

          (Kinh: Thấy kẻ khổ năo, nguyện cho chúng sanh, đắc Căn Bản Trí, diệt trừ các khổ).

 

          Thanh Lương đại sư chú giải bài kệ này khá dài, có Sớ và Sao. Chúng ta xem trước những điều được nói trong phần Sớ.

 

          (Sớ) Lục vân.

          ()六云。

          (Sớ: Điều thứ sáu là nói).

         

          Đây là những điều được nói trong bài kệ thứ sáu.

 

          (Sớ) Hoạch Căn Bản Trí diệt chúng khổ giả, nhược đắc Kiến Đạo Vô Phân Biệt Căn Bản Trí, tắc đoạn ác đạo nghiệp vô minh cố. Tam đồ nhược diệt, tắc tam khổ, bát khổ diệc giai tùy diệt, Tử cập Thủ Uẩn, trực chí Kim Cang hậu Căn Bản Trí, tắc năng vĩnh đoạn.

          (Sao) Tam khổ, bát khổ diệc giai trừ diệt giả, do tam đồ khổ diệt, cố sanh, lăo, bệnh, khổ diệc diệt. Do đoạn thử Hoặc, bất tạo Thập Ác nghiệp, cố vô Oán Tắng Hội khổ. Do đoạn phân biệt dục tham, cố vô Cầu Bất Đắc khổ cập Ái Biệt Ly khổ. Tùng thử duy hữu Tử cập Thủ Uẩn, chí Kim Cang vô gián đạo Căn Bản Trí, đoạn bỉ nhị khổ. Tuy hữu lậu thiện pháp, thử thời do tại Hành Khổ sở tùy, do bị thắng trí chiếu đồng Pháp Tánh, ư giải thoát đạo bất đăi trạch diệt, nhậm vận khí xả, công quy vô gián. Thượng ước pháp tướng thuyết, thủ chánh thể vô phân biệt trí danh vi Căn Bản, dĩ vọng gia hạnh đắc danh. Tuy thông chư vị, nhi Kiến Đạo, Kim Cang nhị xứ tối hiển, cố lược cử chi. Hựu hữu ước Pháp Tánh, dĩ Bổn Giác vi Căn Bản Trí. Dĩ dữ Thỉ Giác vi căn bản cố. Thử duy ước giải thoát đạo chứng lư thời dữ căn bản minh hợp, năi danh hoạch đắc Bổn Giác căn bản. Tùng thử, vĩnh vô Tử cập Thủ Uẩn, tuy đoạn Hoặc chứng Lư lập nhị đạo danh nhiên, đồng nhất sát-na hoạch trí diệc nhĩ. Thị cố vô gián đạo đoạn kiến tu nhị chướng chủng thời , tức thị giải thoát đạo thời đoạn dă[1].

          ()獲根本智滅眾苦者,若得見道無分別根本智,則斷惡道業無明故。三途若滅,則三苦八苦亦皆隨滅,死及取蘊,直至金剛後根本智,則能永斷。

          ()三苦八苦亦皆除滅者︰由三塗苦滅,故生老病苦亦滅.由斷此惑,不造十惡業.故無怨憎會苦。由斷分別欲貪,故無求不得苦及愛別離苦.從此唯有死及取蘊.至金剛無間道根本智斷彼二苦.雖有漏善法,此時猶在行苦所隨.由被勝智照同法性.於解脫道不待擇滅.任運棄捨功歸無間。上約法相說.取正體無分別智名為根本.以望加行得名.雖通諸位,而見道金剛二處最顯,故略舉之。又有約法性,以本覺為根本智.以與始覺為根本故.此唯約解脫道證理時與根本冥合,乃名獲得本覺根本.從此永無死及取蘊。雖斷惑證理立二道名然.同一剎那獲智亦爾.是故無間道斷見修二障種時,即是解脫道時斷也。

          (Sớ: “Đạt được Căn Bản Trí, diệt các nỗi khổ”: Nếu đạt được Kiến Đạo Vô Phân Biệt Căn Bản Trí, sẽ đoạn vô minh nơi các nghiệp của ác đạo. Nếu diệt tam đồ, th́ ba khổ, tám khổ cũng sẽ diệt theo. Tử và Thủ Uẩn th́ cho đến sau khi đă đắc Căn Bản Trí nơi địa vị Kim Cang sẽ có thể vĩnh viễn đoạn trừ.

          Sao: “Ba khổ, tám khổ cũng sẽ diệt trừ”: Do nỗi khổ trong tam đồ đă diệt, cho nên nỗi khổ sanh, lăo, bệnh cũng diệt. Do đă đoạn món Hoặc (phiền năo) ấy, chẳng tạo nghiệp Thập Ác. V́ thế, không có nỗi khổ chán ghét mà cứ phải gặp gỡ. Do đoạn trừ phân biệt, dục, tham, cho nên chẳng có nỗi khổ v́ mong cầu chẳng đạt được và yêu thương phải chia ĺa. Từ đấy, chỉ có Tử và Thủ Uẩn [trong Ngũ Uẩn]. Khi đạt được Căn Bản Trí vô gián đạo nơi địa vị Kim Cang, sẽ đoạn hai thứ khổ ấy (Tử và Thủ Uẩn). Tuy là thiện pháp hữu lậu, lúc ấy, vẫn c̣n thuận theo Hành Khổ. Do được trí thù thắng ấy chiếu soi cùng với Pháp Tánh, đối với đạo giải thoát chẳng cần phải chọn lựa, tùy ư buông bỏ, mà công đức đều là chẳng gián đoạn. Trên đây là nói theo phương diện pháp tướng, coi chánh thể vô phân biệt trí là căn bản. Do đối ứng với các gia hạnh, nên có tên [như thế]. Tuy đều liên quan đến các địa vị, nhưng hai nơi Kiến Đạo và Kim Cang rơ rệt nhất; v́ thế, nêu đại lược [hai địa vị ấy]. Lại c̣n dựa theo Pháp Tánh [để luận định], do lấy Bổn Giác làm Căn Bản Trí, lấy Thỉ Giác làm căn bản. Đấy chỉ là xét theo Lư khi sự chứng Lư nơi đạo giải thoát ngầm hợp với căn bản, bèn có cái tên là Bổn Giác căn bản. Từ đấy, vĩnh viễn chẳng c̣n có Tử và Thủ Uẩn nữa. Tuy lập ra tên gọi của hai đường là đoạn Hoặc và chứng Lư, nhưng cũng giống hệt như cái trí đạt được trong một sát-na. V́ thế, khi vô gián đạo đoạn trừ chủng tử của hai thứ chướng nơi Kiến và Tu, chính là sự đoạn trừ khi đạt đến đạo giải thoát đạo vậy).

 

          Chúng ta xem đoạn này. Trong xă hội hiện thời, “kẻ khổ năo” rất nhiều, chẳng thấy mấy ai thật sự hoan lạc! Đôi khi chúng ta cũng trông thấy, [nhưng những kẻ] ta thấy hoan hỷ đều là miễn cưỡng làm ra vẻ hoan lạc trước công chúng, chứ sau lưng, vẫn là y như cũ, khổ chẳng thể nói nổi! Có thể nói là trong xă hội hiện thời, trong thế gian hiện thời, chúng sanh chỉ có khổ, lấy đâu ra lạc!

          Đức Phật dạy chúng ta, những điều ấy đều là chân tướng sự thật. Có bốn chuyện chẳng thể giữ vững được, bốn chuyện ǵ vậy?

          1) Thứ nhất, phải hiểu “thường tất vô thường” ([cái ǵ tưởng là] thường, ắt sẽ vô thường). Chúng ta luôn nghĩ là [thứ ǵ đó] có thể trường cửu, trọn chẳng biết pháp thế gian là vô thường, biến hóa trong từng sát-na, chẳng có thứ ǵ có thể tồn tại lâu dài trong thế gian. Chớ nên không biết chân tướng sự thật này! Liễu giải chân tướng sự thật th́ gọi là “giác ngộ”. Chẳng hiểu rơ chân tướng sẽ là mê hoặc. Bậc giác ngộ được gọi là Phật, Bồ Tát; kẻ mê hoặc th́ là phàm phu. Phật, Bồ Tát chẳng khác ǵ mọi người, nhưng một đằng th́ giác ngộ, một đằng th́ mê hoặc, chớ nên không biết điều này! Chúng ta muốn làm kẻ hồ đồ, hay muốn làm bậc giác ngộ? Kẻ mê hoặc suốt đời chần chừ, cẩu thả, luống uổng một đời. Bậc giác ngộ biết nắm chắc thời gian, tăng tấn linh tánh của chính ḿnh. Điều này quan trọng! V́ sao? Phàm là vật chất, sẽ chẳng tránh khỏi sanh diệt. Có sanh th́ sẽ có diệt; đấy là vô thường. Linh tánh chẳng phải là vật chất; v́ thế, thân có sanh diệt, linh tánh chẳng có sanh diệt.

          Linh tánh là ǵ? Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đă dạy rất rơ ràng: Nơi cái thân của chúng ta, mắt có thể thấy, tai có thể nghe, mũi có thể ngửi, lưỡi có thể nếm, thân có thể đụng chạm, ư có thể biết, căn tánh của sáu căn [có thể nói gọn lại thành] “thấy, nghe, hay, biết”. Thấy, nghe, hay, biết chẳng phải là vật chất, bởi lẽ, thân thể vật chất có sanh diệt, c̣n nó (kiến, văn, giác, tri) chẳng phải là vật chất, [v́ thế], nó chẳng có sanh diệt. Đoạn kinh văn Mười Phen Hiển Lộ Cái Thấy (Thập Phiên Hiển Kiến, 十番顯見) trong kinh Lăng Nghiêm rất dài. Thuở ấy, vua Ba Tư Nặc nghe đức Phật giảng những đạo lư ấy, nhà vua đă nghe hiểu; do nghe hiểu, hết sức vui vẻ. V́ sao? Không c̣n tham sống sợ chết nữa! Biết điều ǵ? Thân có sanh tử, linh tánh chẳng có sanh tử. Do vậy, người thông minh, người giác ngộ chẳng coi trọng thân thể, mà coi trọng linh tánh. Linh tánh [được biểu hiện] rơ rệt nhất là trí huệ. Chư vị phải biết trí huệ và thông minh khác nhau, chớ nên lẫn lộn chúng với nhau. Chúng hơi tương tự, nhưng thực chất hoàn toàn bất đồng.

          Ở đây nói đến Căn Bản Trí, Căn Bản Trí là ǵ? Quư vị hăy xem bậc đắc Căn Bản Trí. Trước hết, chúng ta phải liễu giải Căn Bản Trí là ǵ? Kinh Bát Nhă đă nói rất hay: “Bát Nhă vô tri, không ǵ chẳng biết”. “Vô tri” là Căn Bản Trí, “không ǵ chẳng biết” là Hậu Đắc Trí, tức là Căn Bản Trí khởi tác dụng. Khi nó khởi tác dụng, sẽ là “không ǵ chẳng biết”. Khi chẳng khởi tác dụng, sẽ là vô tri. Nói theo kiểu như vậy mà mọi người vẫn [cảm thấy] chẳng dễ hiểu, chúng tôi lại nói minh bạch hơn một chút. Nhà Phật nói đến Định Huệ, chư vị khá quen thuộc điều này. Thiền Định và trí huệ, Thiền Định là Căn Bản Trí, trí huệ là Hậu Đắc Trí. Quư vị thấy Phật pháp dạy chúng ta, do Giới đắc Định, do Định khai Huệ, trí huệ do đâu mà có? Trí huệ do Định mà có. Kinh Kim Cang đă nói rất hay: “Tín tâm thanh tịnh, ắt sanh Thật Tướng”. Thật Tướng chính là Căn Bản Trí đang được nói ở đây. V́ thế, thưa cùng chư vị, Căn Bản Trí là tâm thanh tịnh, mọi người dễ hiểu điều này. Tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm chân thành, vế trên trong câu đối do chúng tôi đă viết là “chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng”, đấy là Căn Bản Trí.

          Nếu tâm quư vị thật sự trở về “chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng”, đấy là những thứ bản thân quư vị vốn sẵn có, là chân tâm của quư vị. Hiện thời, cái tâm của quư vị chẳng thật, là vọng tâm, chẳng chân thành, v́ sao? Chân thành là vĩnh hằng bất biến, đấy là chân thành. Chẳng thấy điều ấy trong cái tâm hiện thời của chúng ta, cái tâm của chúng ta trong hiện tại là ǵ? Chính là tâm vọng tưởng, tâm phân biệt, tâm chấp trước, quư vị hăy ngẫm xem có đúng hay không? Chúng ta dấy lên ư niệm ấy, bèn có phân biệt, chấp trước. Phân biệt, chấp trước là vọng tâm, chẳng phải là chân tâm. Khi vọng tâm khởi tác dụng, sẽ là tạo nghiệp. Nghiệp có thiện nghiệp và ác nghiệp; tạo thiện nghiệp th́ quả báo là ba thiện đạo, tức thiên đạo, nhân đạo, A Tu La trong cơi trời và A Tu La trong cơi người đều được coi là thiện báo. Tạo ác nghiệp, quả báo là trong địa ngục, trong súc sanh, trong ngạ quỷ, đấy là ác báo. Có sự luân hồi trong lục đạo hay không? Có chứ, do đâu mà có? Do vọng tâm tạo ra. Kinh Hoa Nghiêm dạy “duy thức sở biến”, thức là vọng tâm, tức là chân tâm dấy lên vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, chân tâm biến thành vọng tâm. Chuyện này rất khó giảng giải; v́ thế, hễ nghe nói cũng rất khó hiểu, thường là khi nghe, sẽ hiểu sai ư nghĩa.

          Chân tâm có thể thật sự biến thành vọng tâm hay không? Nếu chân tâm có thể biến thành vọng tâm, cái “chân tâm” ấy sẽ chẳng thật, cũng là vọng! Chân tâm tuyệt đối chẳng thể biến thành vọng tâm. Vọng tâm do đâu mà có? Vọng tâm là hư vọng, về căn bản là chẳng có, quư vị có hiểu lời này hay không? Vốn chẳng có, hiện tại vẫn chẳng có, nó triệt để hư vọng, nhưng như thế nào? Nó dựa vào chân tâm để dấy lên. Chân tâm chẳng có ư niệm, trong giáo pháp Đại Thừa đă giảng điều này rất nhiều: Chân tâm ly niệm, chẳng có ư niệm, tức “chẳng khởi tâm, không động niệm” là chân tâm. Chúng ta có [chân tâm] hay không? Có chứ! Quư vị sáng sớm thức dậy, mở mắt ra, vẫn chưa có khởi tâm động niệm. Thử hỏi, mở banh mắt, quư vị có thấy những thứ bên ngoài hay không? Thấy chứ! Có phân biệt hay không? Ư niệm phân biệt chưa dấy lên, có chấp trước hay không? Ư niệm chấp trước cũng chẳng dấy lên. Thời gian [tồn tại sự thấy biết không phân biệt, không chấp trước ấy] rất ngắn, một niệm ấy sẽ hoàn toàn chẳng khác chư Phật, Bồ Tát. Nếu quư vị có thể ǵn giữ như vậy, quư vị đă thành Phật. Quư vị chẳng thể giữ được, v́ sao? Cảnh giới hơi có một tí động tĩnh, quư vị lập tức khởi tâm động niệm. Khởi tâm động niệm là vô minh, đấy là vọng tâm dấy khởi, ngay lập tức bèn phân biệt, bèn chấp trước. V́ thế, trong cuộc sống hằng ngày của quư vị, ai nắm quyền, ai làm chủ? Vọng tâm nắm quyền, vọng tâm làm chủ, quư vị hằng ngày đều tạo nghiệp.

          Cổ nhân có một tỷ dụ rất hay, chân tâm giống như ǵ? Giống như một tấm gương, chúng ta thường thấy vật này. Sáng tối mỗi ngày đều phải soi gương. Người dụng tâm như gương th́ gọi là Phật. Quư vị thấy gương soi mọi vật có soi rành rẽ hay không? Rành rẽ! Gương có khởi tâm động niệm hay không? Chẳng có! Nó có phân biệt hay không? Chẳng có! Nó có chấp trước hay không? Chẳng có, [thế mà] chẳng có thứ ǵ không [chiếu soi] rơ ràng! Chúng ta sáng sớm soi gương một lần, buổi tối soi gương một lần, người học Phật phải nghĩ “ta phải dụng tâm như gương, chẳng có thứ ǵ là không rơ ràng, không rành rẽ, nhưng chắc chắn là chẳng có khởi tâm động niệm, chẳng có phân biệt, [chẳng có] chấp trước”, quư vị bèn thành Phật.

          Khởi tâm động niệm, đấy là điều khó nhất! Vẫn c̣n khởi tâm động niệm, chẳng có cách nào không khởi tâm, chẳng động niệm, nhưng hễ có thể chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, hay lắm, quư vị là Bồ Tát. Bồ Tát có khởi tâm động niệm, nhưng chẳng phân biệt, chẳng chấp trước. Phân biệt cũng chẳng dễ đoạn, ta vẫn có phân biệt, nhưng ta có thể chẳng chấp trước. Vậy th́ cũng là khá lắm, đó là A La Hán. A La Hán vượt thoát lục đạo luân hồi. V́ thế, lục đạo luân hồi do đâu mà có? Chính v́ ba thứ ấy, tức khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, mà biến ra vọng tướng (妄相, tướng hư vọng) ấy. Vĩnh Gia đại sư đă nói rất hay: “Trong mộng rành rành chia sáu nẻo, giác rồi ba cơi rỗng toang hoang”. Lời này nói hay lắm, lục đạo luân hồi là nằm mộng. Nói cách khác, nay chúng ta vẫn khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, chúng ta đang nằm mơ một giấc mộng lớn, chưa tỉnh giấc! Sau khi tỉnh giấc, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài mà chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước, [đấy là] đại giác! Có thể chẳng chấp trước hết thảy, đấy là tiểu giác, là A La Hán. Lại có thể chẳng phân biệt, đấy là trung giác, tức Bồ Tát; Phật là đại giác, giác chứ không mê. Không chỉ là Thích Ca Mâu Ni Phật, mà mười phương hết thảy chư Phật Như Lai đều dạy chúng ta điều ǵ? Dạy điều này! Ngàn kinh muôn luận chẳng ĺa chuyện này, giúp chúng ta quay đầu. Quay đầu từ chỗ nào? Quay đầu từ mê hoặc, điên đảo th́ sẽ giác ngộ, “giác chứ không mê” chính là Phật, Bồ Tát.    

          Chân tâm của chúng ta là Bổn Giác, chân tâm của chúng ta là Căn Bản Trí. Nói cách khác, chỉ cần quư vị từ hư vọng trở về chân thật, nỗi khổ quư vị cũng đều chẳng có. Nỗi khổ ǵ cũng đều chẳng có, đấy chính là “diệt trừ chúng khổ” (diệt trừ các nỗi khổ). Chúng ta bỏ hai chữ Trừ và Chúng đi, đọc chữ đầu và chữ cuối thôi, sẽ là “diệt khổ” [được nói đến] trong kinh văn, “hoạch Căn Bản Trí, diệt trừ chúng khổ” (đạt được Căn Bản Trí, diệt trừ các nỗi khổ). Sự diệt khổ có một danh từ tiếng Phạn là Niết Bàn, thưa cùng chư vị, Niết Bàn có nghĩa là ǵ? Niết Bàn là diệt khổ. Diệt khổ có nhiều cấp bậc; do vậy, Niết Bàn cũng có rất nhiều cách nói. Trong giáo pháp Đại Thừa, được nhắc đến nhiều nhất là bốn loại. Loại thứ nhất là Tánh Tịnh Niết Bàn, đó là ǵ? Tự Tánh vốn thanh tịnh, Tự Tánh vốn tịch diệt. Do vậy, trong Tự Tánh chẳng có khổ.

          Tự Tánh Niết Bàn b́nh đẳng, hết thảy chúng sanh ai nấy đều có. Tuy ai nấy đều có, hiện thời quư vị chẳng thể chứng đắc. V́ sao chẳng thể chứng đắc? Chính là như trong kinh Hoa Nghiêm đă nói, “chỉ v́ vọng tưởng, chấp trước mà chẳng thể chứng đắc”. V́ thế, đây là nói theo Lư, hết thảy chúng sanh và chư Phật, Bồ Tát chẳng khác ǵ nhau, các Ngài có Tánh Tịnh Niết Bàn, ta cũng có Tánh Tịnh Niết Bàn. Nhưng Tánh Tịnh Niết Bàn của các Ngài khởi tác dụng, các Ngài đă chứng đắc, Tánh Tịnh Niết Bàn biến thành cuộc sống, biến thành công việc, biến thành xử sự, đăi người tiếp vật trong hiện tiền của các Ngài, đấy chính là “đắc đại tự tại”. Tuy chúng ta có, nay chúng ta xử sự, kẻ nắm quyền là vọng tâm, là phiền năo. V́ thế, cái tương phản của Niết Bàn là phiền năo.

          Khởi tâm động niệm là Vô Minh phiền năo, phân biệt là Trần Sa phiền năo, chấp trước là Kiến Tư phiền năo. Đấy đều là các danh từ thuật ngữ Phật giáo; v́ thế, cái tương phản [của chúng] là Tánh Tịnh Niết Bàn. Trong ba loại đại phiền năo ấy, nếu trừ được một loại, trừ khử Kiến Tư phiền năo trước, sẽ là Chánh Giác. Chúng ta nói là tiểu giác ngộ, tức tiểu giác; tiểu giác là Chánh Giác. V́ sao gọi là Chánh? Nhân gian cũng có rất nhiều người thông minh, giống như các khoa học gia và triết gia trong hiện thời đối với vũ trụ, hiện thời gọi là vũ trụ vĩ mô (Macrocosm) và vũ trụ vi mô (Microcosm), đích xác là họ cũng biết không ít, đấy cũng gọi là Giác, nhưng chẳng gọi là Chánh. V́ sao chẳng gọi là Chánh? Họ chẳng đoạn Kiến Tư phiền năo. Đoạn Kiến Tư phiền năo, Kiến Tư phiền năo là chấp trước, họ chưa đoạn chấp trước. Nếu hoàn toàn chẳng có chấp trước th́ sẽ là Chánh Giác. Nếu đoạn Trần Sa phiền năo, tức là [đoạn trừ] phân biệt, đối với hết thảy các pháp đều chẳng phân biệt, quả vị do họ chứng đắc sẽ được gọi là Chánh Đẳng Chánh Giác, chúng ta gọi họ là “giác ngộ bậc trung”. A La Hán là tiểu giác, c̣n Chánh Đẳng Chánh Giác là giác ngộ bậc trung. Nếu khởi tâm động niệm đều đoạn, sẽ là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Phật pháp tu và cầu chuyện này. Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là Phật, là Như Lai.

          Lời chú giải nói “trực chí Kim Cang hậu Căn Bản Trí” (cho đến sau khi đă đắc Căn Bản Trí nơi địa vị Kim Cang), Kim Cang Hậu Căn Bản Trí là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, v́ cho đến khi ấy, sẽ vĩnh viễn đoạn sanh tử, thật sự chẳng có [sanh tử]. Nhưng đạt được Vô Phân Biệt Trí nơi địa vị Kiến Đạo như trong phần trước [đă nói] th́ chính là sự chứng đắc của A La Hán. Trong sở chứng của A La Hán và Bồ Tát, chẳng có Phần Đoạn sanh tử (tức là sanh tử trong lục đạo luân hồi). Trong mười pháp giới c̣n có Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, và Phật, do các Ngài vẫn có khổ, nên dùng một chữ Tử để biểu thị, tức là nhằm biểu thị sự khổ, chẳng phải là thật sự có sanh tử! [Nỗi khổ] ấy được gọi là Biến Dịch Sanh Tử. Sự sanh tử trong lục đạo được gọi là Phần Đoạn sanh tử, [bởi lẽ], quư vị thấy [chúng sanh sanh tử trong lục đạo] từng đời một. Một người sống trong thế giới này vài chục năm rồi chết, đấy là một giai đoạn, [cho nên sự sanh tử ấy được gọi là] Phần Đoạn sanh tử. Từ A La Hán trở lên, sẽ chẳng có hiện tượng sanh tử ấy, nhưng trong lục đạo th́ có, ngoài lục đạo sẽ chẳng có, ngoài lục đạo được gọi là Biến Dịch. Biến Dịch là chuyện như thế nào? Giống như chúng ta đi học lên lớp. Chúng ta học lớp Một, các môn học trong năm học ấy [đạt điểm] khá lắm, học xong lớp Một, sang năm sẽ lên lớp Hai, tức là lớp Hai được “sanh” ra, lớp Một đă “chết”. Lại lên thêm một lớp, lớp Ba được “sanh” ra, lớp Hai “chết” đi. Đấy gọi là Biến Dịch Sanh Tử, chẳng phải là Phần Đoạn, mà là Biến Dịch (變易, thay đổi); tức là công phu tu học của quư vị không ngừng nâng cao hơn. Chúng ta biết, theo giáo pháp Đại Thừa, kinh Hoa Nghiêm nói Bồ Tát có năm mươi mốt giai cấp, tăng lên cao hơn từng cấp bậc một, đấy là Biến Dịch. Chúng ta sanh tử từng giai đoạn một trong thế gian này th́ gọi là Phần Đoạn (分段). Do đó, nhà Phật nói đến hai loại sanh tử.

          [Đă chứng đắc] Kiến Đạo Vô Phân Biệt Căn Bản Trí như trong phần trước, sẽ chẳng có sanh tử trong lục đạo, đă thoát ly lục đạo luân hồi, nhưng trên đó c̣n có Biến Dịch Sanh Tử. Nói theo kinh Hoa Nghiêm trong giáo pháp Đại Thừa, chúng ta biết Kiến Đạo Vô Phân Biệt Trí thuộc về Thất Tín trong các địa vị của Thập Tín. Nếu đạt đến Thất Tín, sẽ vượt thoát lục đạo luân hồi. Thất Tín, Bát Tín, Cửu Tín, cho đến Thập Tín th́ có Biến Dịch Sanh Tử. Biến Dịch Sanh Tử rất rơ rệt! Đạt đến mức “phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân”, thưa cùng chư vị, đấy mới thật sự là Kiến Đạo. Thật sự Kiến Đạo, sẽ thoát ly mười pháp giới, chẳng c̣n có loại Biến Dịch Sanh Tử rơ rệt như thế nữa! Trong Nhất Chân pháp giới, hăy c̣n có Biến Dịch Sanh Tử rất vi tế, nó có bốn mươi hai cấp bậc, tức là Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, và Diệu Giác, hăy c̣n có bốn mươi hai địa vị ấy. Trong những phần trước, chúng tôi đă nói rất tỉ mỉ. Biến Dịch Sanh Tử [trong Nhất Chân pháp giới] chẳng giống Biến Dịch Sanh Tử trong tứ thánh pháp giới. Biến Dịch Sanh Tử trong tứ thánh pháp giới thô tháp, rất rơ rệt, nó gây trở ngại sự, nhưng bốn mươi hai tầng cấp trong Nhất Chân pháp giới sẽ chẳng trở ngại sự. Hơn nữa, người trong mười pháp giới như bọn chúng ta nh́n vào họ (những vị trụ trong Nhất Chân pháp giới), sẽ hoàn toàn chẳng nh́n ra. Chúng ta thấy họ thảy đều b́nh đẳng, chắc chắn là quư vị chẳng phân biệt được! Vậy th́ v́ sao có bốn mươi hai [địa vị]? Đức Phật đă dạy: Những người ấy c̣n đèo theo tập khí vô thỉ vô minh chưa đoạn. Do đèo theo tập khí nhiều hay ít, mà chia thành bốn mươi hai đẳng cấp. Tập khí ấy chẳng trở ngại sự, nhưng họ hăy c̣n có tập khí!

          Do đó, có đồng học hỏi tôi: “Kinh Hoa Nghiêm nói bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, rốt cuộc bốn mươi mốt giai cấp ấy là có thật hay không?” Câu trả lời của tôi là “chẳng thể bảo là có, mà cũng chẳng thể nói là không có”. Nếu quư vị bảo là có, thật sự chẳng t́m thấy dấu vết. Nếu quư vị bảo là không có, xác thực là tập khí dầy hay mỏng khác nhau, nhưng chắc chắn là chẳng trở ngại bản thân họ tu hành, chẳng trở ngại họ ứng tích thị hiện, chẳng trở ngại tí nào. Chúng ta chớ nên không biết điều này!

          Hiểu rơ những đạo lư ấy, chúng ta nói đến bốn loại Niết Bàn, [loại đầu tiên là] Tánh Tịnh Niết Bàn. Tánh Tịnh là vốn sẵn có, tức là như trong giáo pháp Đại Thừa đă nói “hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh”. Phật Tánh là ǵ? “Thấy, nghe, hay, biết” muỗi, kiến đều có, cổ thánh tiên hiền nói là “bổn thiện”: “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện”. Chúng là cùng một chuyện, nhưng nhà Phật nói tỉ mỉ, c̣n tổ tiên chúng ta nói mơ hồ, nhưng xác thực là cùng một chuyện. V́ thế, khi Phật pháp truyền đến Trung Hoa, người Hoa hoàn toàn tiếp nhận, kết hợp [Phật pháp] với truyền thống văn hóa, thành tựu lẫn nhau. Những điều cổ thánh tiên hiền đă nói là cương lănh, c̣n giáo pháp Đại Thừa dạy chi tiết, càng giúp nhau được tỏ lộ rơ rệt hơn.

          Ba loại [Niết Bàn] sau đó là nói kèm thêm:

          - Loại thứ hai gọi là Hữu Dư Y Niết Bàn. Hữu Dư Y (有餘依) là ǵ? Chứng đắc Niết Bàn trong hiện thời, xác thực là quư vị đă chứng đắc trong đời này. Sau khi đă chứng đắc, thân thể vẫn c̣n, người chưa chết. V́ thế, chư vị phải hiểu, chứng Niết Bàn là chứng trong khi c̣n sống. Hiện thời, rất nhiều người nẩy sanh hiểu lầm, ngỡ Niết Bàn là đă chết; đấy là sai lầm, sai lầm đặc biệt to tát! Niết Bàn được chứng đắc trong hiện tiền, đă chứng đắc mà quư vị vẫn c̣n thân thể, th́ gọi là Hữu Dư Y Niết Bàn.

          - Nếu thọ mạng đă đến, chẳng cần thân thể này nữa, sẽ gọi là Vô Dư Y Niết Bàn. Đấy là loại thứ ba.

          - Loại cuối cùng được gọi là Vô Trụ Niết Bàn. Vô Trụ là ǵ? Phật, Bồ Tát thị hiện trong thế gian, chúng sanh có cảm, các Ngài liền ứng, giống như ba mươi hai ứng thân của Quán Thế Âm Bồ Tát được nói trong phẩm Phổ Môn, đáng nên dùng thân ǵ để đắc độ bèn hiện thân ấy. V́ thế, các Ngài đến ứng hóa, chẳng phải là cái thân nghiệp báo. Thân ấy được gọi là “chẳng trụ sanh tử, chẳng trụ Niết Bàn”; v́ thế, nó được gọi là Vô Trụ Niết Bàn. Đấy là chuyên nói đến thân ứng hóa của chư Phật, Bồ Tát.

          Nói thật ra, Vô Trụ Niết Bàn và Hữu Dư Y Niết Bàn là một chuyện. Hữu Dư Y là chỉ nói theo [khía cạnh] Niết Bàn, c̣n Vô Trụ là [nói theo phương diện] Bồ Tát giáo hóa chúng sanh, nói theo tâm đại từ bi. Ư nghĩa sai khác ở ngay chỗ này.

          Chúng ta mong thật sự ĺa khổ được vui, kinh này đă nói hết sức rơ rệt. Khi nào chúng ta sẽ đắc Căn Bản Trí? Quư vị thấy Thanh Lương đại sư bảo “đoạn ác đạo vô minh”. “Ác đạo” là ba ác đạo. “Ác đạo vô minh”: Vô minh là mê hoặc, chính là tham, sân, si được nói trong giáo pháp Đại Thừa, điều này mọi người dễ hiểu. “Ác đạo nghiệp vô minh” là ngu si trong tham, sân, si. Đoạn hết ngu si th́ gọi là “Vô Phân Biệt Căn Bản Trí hiện tiền”. Chư vị phải biết, v́ sao người ta tham? V́ sao nóng giận? Do ngu si. Do đó, đối với Tam Độc tham, sân, si, Si là cội rễ. Nếu kẻ ấy chẳng si, sẽ chẳng tham. Nếu chẳng si, sẽ chẳng nóng giận, trí huệ sẽ hiện tiền. Trí huệ do đâu mà có? Trí huệ do Định mà có. Quư vị thấy chúng thảy đều có mối quan hệ liên đới. Chẳng tham, chẳng sân là Định, Định có thể sanh ra Huệ, ba món ấy có mối quan hệ liên đới. Tham là đối với thuận cảnh, sân là đối với nghịch cảnh.

          Do đó, đức Phật bảo bốn loại ấy chẳng thể tồn tại lâu dài, chúng ta phải nhận thức rơ ràng, chúng chẳng thể giữ măi được!

          1) Thứ nhất, phải hiểu thế gian vô thường, chúng ta phải dấy lên cái tâm cảnh giác, chắc chắn chẳng có thứ ǵ tồn tại lâu dài. Hoàn cảnh ở đây khá quá, rất tốt, chúng ta rất mong định cư ở chỗ này, có được hay không? Chẳng thể giữ lâu dài. Nói không chừng, do nhân duyên ǵ đó, quư vị lại phải dọn nhà. Tôi thể nghiệm câu này sâu đậm nhất; từ bé, đúng là chẳng có nhà để về, đến chỗ nào cũng đều mong ở yên, nhưng ở chẳng bao lâu lại bị ép buộc, nhất định phải rời khỏi. Nay mới thật sự hiểu rơ, biết hết thảy các pháp đều vô thường, bất luận ở nơi đâu cũng đều giống như ở trong quán trọ, chẳng tham luyến, chẳng yêu thích, mà cũng chẳng chán ghét. Đến thế giới này ở tám mươi năm, nếu mạng dài hơn, sống thêm hai mươi năm nữa th́ là một trăm năm, vẫn là một cái khảy ngón tay!

          2) Điều thứ hai, đức Phật dạy chúng ta, “phú quư tất định bần cùng” (phú quư nhất định sẽ bần cùng), kẻ b́nh phàm chẳng hiểu đạo lư này. V́ sao phú quư nhất định sẽ bần cùng? Phú quư do đâu mà có? Chính là do lúc bần cùng tích lũy công đức nên đạt được quả báo; khi hưởng phước bèn quên gieo phước. V́ thế, hưởng hết phước, lại trở về bần cùng, vĩnh viễn tuần hoàn! Bần cùng biến thành phú quư, phú quư biến thành bần cùng, vĩnh viễn tuần hoàn. Đấy là tướng luân hồi, quư vị thấy rơ ràng sẽ rất thú vị. V́ thế, kẻ thật sự thông minh giác ngộ sẽ tích lũy công đức. Hễ đạt được phước báo to lớn, họ chẳng hưởng thụ, vẫn sống cuộc đời b́nh phàm, tuyệt thay! Đấy là trí huệ chân thật. Do vậy, đời đời phú quư chẳng suy.

          Trong Văn Sao, Ấn Quang đại sư [cho biết] Ngài bội phục nhất ba người, tức là ba nhân vật trong lịch sử Trung Hoa. Người thứ nhất là Khổng lăo phu tử. Quư vị thấy măi cho đến hiện thời, Khổng gia chẳng suy. Nghe nói [người nào đó] là hậu đại của Khổng Tử, không ai chẳng tôn trọng [người ấy]. Tổ tông tích đức to lớn, chẳng hưởng phước. Vị thứ hai là Phạm Trọng Yêm, là một vị Tể Tướng đời Tống. Cho đến hiện thời, gần như là một ngàn năm, trong một ngàn năm, gia đạo [họ Phạm] chẳng suy, đời nào trong gia đ́nh cũng đều xuất hiện nhân tài. Hễ nhắc tới nhà họ Phạm ở Tô Châu, chẳng có ai không tôn kính. Vị thứ ba là Diệp trạng nguyên vào những năm đầu đời Thanh. Vị này tôi không hiểu rơ cho lắm, [gia tộc của ông ta] măi cho đến những năm cuối đời Thanh, suốt ba trăm năm chẳng suy. Từ lịch sử Trung Hoa, đă trông thấy ba trường hợp ấy. V́ sao người ta có thể làm được, mà những kẻ b́nh phàm chẳng làm được? Ba vị ấy là giác chứ không mê, gia phong của họ đời đời tương truyền. Hiện thời, chúng ta thấy tiên sinh Viên Liễu Phàm, trong Tứ Huấn của tiên sinh Liễu Phàm đă nói cả rồi. Nếu con cháu trong nhà nhiều đời nhiều kiếp đều tuân thủ bốn thiên giáo huấn ấy, làm theo, gia tộc của ông ta sẽ ngàn đời, muôn đời đều chẳng suy. Thật đấy, chẳng giả đâu! V́ thế, phú quư phải biết tu phước. Phú quư mà chẳng biết tu phước, chỉ tham cầu hưởng thụ, chẳng biết tu phước, chắc chắn sẽ chẳng lâu dài, phú quư nhất định sẽ bần cùng.

          3) Thứ ba là “hội hợp nhất định biệt ly”, nhà Phật nói “ái biệt ly khổ”. Dẫu thân ái cách mấy, vợ chồng, cha con, bạn bè nhất định phải biệt ly, sanh ly tử biệt. Sau khi đă chết, chẳng thể nào lại ở cùng một chỗ, v́ sao? Nghiệp của mỗi người khác nhau. Bản thân quư vị chẳng có công phu, sẽ phải theo nghiệp chịu khổ trong lục đạo. Mỗi người tạo nghiệp khác nhau, làm sao có thể ở cùng một chỗ cho được? [Để] thật sự có thể vĩnh viễn ở cùng một chỗ, chỉ có một phương pháp: Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Trong đời này, mọi người đều rất nghiêm túc niệm Phật, dựa theo lư luận và phương pháp trong kinh điển để học tập, sanh về Tây Phương Tịnh Độ, thọ mạng đều là vô lượng, là vô lượng thật sự, chẳng phải là giả vô lượng! Thật sự là vô lượng thọ, khi ấy mới có thể vĩnh viễn ở cùng một chỗ. Nếu chẳng thể văng sanh thế giới Cực Lạc, hễ hội hợp trong lục đạo, nhất định sẽ biệt ly.

          4) Thứ tư là “thân thể khỏe mạnh nhất định có già, chết”.

          Đức Phật nói bốn chuyện ấy, quư vị nhất định phải biết, biết như thế nào? Phải thừa dịp lúc thân thể khỏe mạnh bèn thật sự phát phẫn dụng công, đến khi già [mới dụng công] sẽ chẳng kịp. Lúc già, tinh thần lẫn thể lực đều vô dụng, muốn dụng công cũng chẳng được. V́ thế, nhất định phải nắm lấy [cơ hội] hiện thời thân thể c̣n khỏe mạnh, lúc trí nhớ c̣n khá, hăy nghiêm túc thực hiện. Nếu thân thể c̣n đủ sức, trí nhớ đă suy yếu, niệm kinh chẳng nhớ nổi, không sao cả, cứ thật thà niệm, cung kính niệm, chẳng cần phải ghi nhớ. B́nh thường là một câu Phật hiệu chẳng gián đoạn th́ được rồi. Đức Phật dạy chúng ta bốn chuyện ấy, chúng ta ắt phải hiểu rơ, phải thời thời khắc khắc đề cao cảnh giác.

          Do vậy, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta xử sự, đăi người tiếp vật, bất luận là thiện duyên hay ác duyên, là thuận cảnh hay nghịch cảnh, phải dùng cái tâm b́nh thường để đối đăi, chớ nên có phân biệt, chớ nên có chấp trước. Ĺa phân biệt, ĺa chấp trước th́ mới là tâm b́nh thường. Tâm b́nh thường tiếp cận chân tâm, chớ nên phân biệt, so đo. Người có lầm lỗi, cổ nhân nói rất hay: “Nhân phi thánh hiền, thục năng vô quá” (Con người chẳng phải là thánh hiền, ai có thể chẳng phạm lỗi). T́m chẳng ra kẻ nào không có một tí lầm lỗi! V́ thế, cổ nhân dạy chúng ta: Thấy lầm lỗi của người khác, hăy lập tức xét lại chính ḿnh, ta có [lỗi lầm] ấy hay không? Hễ có bèn sửa; nếu không th́ càng thêm nỗ lực. Đó là người thật sự tu hành, thật sự biết dụng công. Thường thấy lỗi của kẻ khác, ghim lỗi lầm của kẻ khác trong ḷng, hoàn toàn chẳng biết lỗi lầm của chính ḿnh, hạng người ấy rất đáng thương! Ghi nhớ lầm lỗi của người khác là tạo nghiệp, biến lương tâm, hảo tâm của chính ḿnh thành thùng đựng rác của kẻ khác, quư vị chẳng sai lầm hay sao? Ghim lỗi của người khác trong tâm chính ḿnh, [tức là] trong cái tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng của chính ḿnh bị chứa một đống to đùng rác rưởi của kẻ khác, người như vậy rất ưnhiều! V́ thế, hăy thường xuyên phản tỉnh chính ḿnh có [chứa lỗi người khác trong tâm ḿnh] hay không? Nếu chính ḿnh đúng là như thế đó, hăy ngay lập tức sửa đổi.

          Cái tâm của chính ḿnh phải chứa đựng giáo huấn tốt đẹp nhất của cổ thánh tiên hiền, phải chứa thiện pháp của hết thảy chúng sanh, trọn chẳng để cho mảy may bất thiện xen tạp vào đó, đấy là đúng! Có thể tu như vậy, sẽ tiêu nghiệp chướng mau chóng. Nghiệp chướng đă tiêu trừ, hiện tượng ấy sẽ lập tức tỏ lộ rất rơ rệt: Thân thể quư vị khỏe mạnh, tuổi tác tuy cao, nhưng quư vị vẫn chẳng già cả. V́ sao? Mỗi khí quan, mỗi tế bào của quư vị đều có thể giữ ǵn b́nh thường, b́nh thường là khỏe mạnh nhất. Trong cuộc sống hằng ngày, giữ được sự “thay cũ, đổi mới” tốt đẹp, [tức là] tế bào cũ chết đi, tế bào mới trưởng thành. Tế bào mới thay thế tế bào cũ, [đó chính là] thay cũ đổi mới! Tất cả các tế bào mới trọn chẳng thua kém những tế bào cũ, c̣n tốt hơn cái cũ. Như vậy là công phu tu hành của quư vị thật sự đắc lực. V́ sao? Quư vị mỗi năm một trẻ hơn, mỗi năm một cường tráng hơn! Chuyện này có thể ư? Không chỉ đức Phật bảo là có thể, mà các nhà khoa học hiện thời cũng đă chứng minh.

          V́ sao kẻ b́nh phàm hễ lớn tuổi sẽ “thay cũ, đổi mới” chẳng tốt đẹp? Tế bào đổi mới chẳng bằng tế bào cũ, thân thể của quư vị sẽ già nua, mỗi năm một suy thoái hơn. Đấy là do nguyên nhân ǵ? Chính là v́ quư vị có phiền năo, có ưu lự, có vướng mắc, có rất nhiều tập khí bất thiện, những ư niệm xấu xa ấy đă làm hỏng toàn bộ những tế bào mới của quư vị, đạo lư là như thế đó. Nếu ư niệm của quư vị là chánh đáng, chẳng phải là phản diện, là thanh tịnh, là thiện lương, là từ bi, là lợi tha, những tế bào vừa được đổi mới sẽ tốt đẹp hơn những cái vốn có, những cái được thay đổi sẽ hoàn toàn mới mẻ. Giống như linh kiện trong máy móc, quư vị đổi tất cả thành linh kiện cũ th́ đương nhiên là không được rồi, hoàn toàn phải đổi lấy linh kiện mới, có khác ǵ mới được sanh ra? Thí nghiệm với nước của tiến sĩ Giang Bổn Thắng đă chứng minh [chuyện ấy], chúng ta phải hiểu đạo lư này: Bồi dưỡng cái tâm thanh tịnh của chính ḿnh, khôi phục Căn Bản Trí của chính ḿnh, tiền đồ của quư vị sẽ là một bầu quang minh, sẽ chẳng nhiễm bệnh, sẽ chẳng bị già cả. Cuối cùng, lại bảo cho quư vị biết, quư vị sẽ chẳng chết. [Cái bị] sanh tử là nhục thể, quư vị chẳng ưa thích nó bèn vứt bỏ, đổi thành cái khác. Quư vị có thể đổi theo ư nguyện của chính ḿnh, càng đổi càng tốt đẹp hơn. Đấy mới là thật sự “diệt trừ chúng khổ”. Nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi giảng đoạn kinh văn này tới đây.

***

          Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Chúng ta xem bài kệ thứ bảy tiếp theo:

 

          (Kinh) Kiến vô bệnh nhân, đương nguyện chúng sanh, nhập chân thật huệ, vĩnh vô bệnh năo.

          ()無病人。當願眾生。入真實慧。永無病惱。

          (Kinh: Thấy người không bệnh, nguyện cho chúng sanh, nhập chân thật huệ, vĩnh viễn chẳng khổ năo v́ bệnh tật).

 

          Đối với nguyện thứ bảy, Thanh Lương đại sư cũng chú giải một đoạn dài, chúng ta đọc đoạn văn ấy một lượt:

 

          (Sớ) Thất, “nguyện nhập chân thật huệ, vĩnh vô bệnh năo giả”, thử hữu nhị chủng: Nhất ước nhập chân Kiến Đạo chi huệ, đoạn thân bệnh chi khổ năo, cập phiền năo bệnh. Vị nhất thiết ác thú chư phiền năo phẩm, sở hữu thô trọng thị phân biệt khởi, diệc vi thân bệnh viễn nhân. Chí Hoan Hỷ Địa chân kiến đạo trung nhất sát-na đoạn, đốn chứng tam giới Tứ Đế Chân Như, thân bệnh cập Hoặc vĩnh bất phục hữu. Nhị ước Kim Cang tâm huệ, đốn đoạn nhất thiết chư phiền năo bệnh, cập tập khí tùy miên, chứng cực viên măn chân thật thắng nghĩa, chư Hoặc vĩnh vong. Y thượng giải giả, chân thật huệ giả tức Căn Bản Trí, đản ước sở diệt Hoặc Khổ bất đồng nhĩ [2].

          (Sao) “Ước nhập chân kiến đạo chi huệ đẳng” giả, diệc hữu nhị nghĩa, lệ đồng đoạn Khổ. Đoạn thân bệnh chi khổ, điệp tiền sở đoạn, “cập phiền năo bệnh” thị thử sở đoạn. “Vị nhất thiết ác thú chư phiền năo” hạ, xuất sở đoạn thể, thô trọng tức thị chủng tử, phân biệt giản ư câu sanh. “Diệc vi thân bệnh viễn nhân” giả, phi cận nhân cố. Như pḥng sắc quá độ thị thân bệnh cận nhân, do tham cố nhĩ tức vi viễn nhân. Ngôn “nhất sát-na đoạn” giả, chí Sơ Địa trung quảng thích. “Đốn chứng Tam Giới Tứ Đế Chân Như” chí Thập Hồi Hướng trung thích. “Ước Kim Cang tâm đốn đoạn nhất thiết chư phiền năo bệnh” giả, tức câu sanh dă.

          ()七願入真實慧,永無病惱者,此有二種。一約入真見道之慧,斷身病之苦惱,及煩惱病。謂一切惡趣諸煩惱品,所有麁重是分別起.亦為身病遠因.至歡喜地真見道中一剎那斷.頓證三界四諦真如.身病及惑永不復有。二約金剛心慧,頓斷一切諸煩惱病,及習氣隨眠。證極圓滿真實勝義.諸惑永亡。依上解者,真實慧者即根本智.但約所滅惑苦不同耳。

          ()約入真見道之慧等者,亦有二義.例同斷苦.斷身病之苦,牒前所斷.及煩惱病是此所斷。謂一切惡趣諸煩惱下,出所斷體︰麁即是種子.分別揀於俱生。亦為身病遠因者,非近因故.如房色過度是身病近因.由貪故爾即為遠因。言一剎那斷者,至初地中廣釋。頓證三界四諦真如,至十迴向中釋約金剛心頓斷一切諸煩惱病,即俱生也

          (Sớ: Điều thứ bảy là “nguyện nhập chân thật huệ, vĩnh viễn ĺa khỏi các khổ năo v́ bệnh tật”. Ở đây có hai loại: Một là xét theo trí huệ của bậc thật sự chứng nhập Kiến Đạo, đoạn trừ các khổ năo do bệnh tật nơi thân và bệnh phiền năo. Nghĩa là đối với các phẩm phiền năo trong các đường ác, tất cả những món [phiền năo] thô nặng đều do phân biệt sanh khởi, chúng cũng là cái nhân xa của bệnh tật nơi thân. Đạt đến Hoan Hỷ Địa, thật sự kiến đạo, sẽ đoạn ngay trong một sát-na, nhanh chóng chứng Tứ Đế và Chân Như trong tam giới. Bệnh tật nơi thân và Hoặc (phiền năo) vĩnh viễn chẳng c̣n nữa. Hai là xét theo trí huệ nơi Kim Cang tâm, nhanh chóng đoạn trừ hết thảy các bệnh phiền năo và các tập khí tùy miên[3], chứng nghĩa thù thắng, chân thật viên măn, các Hoặc vĩnh viễn mất đi. Dựa theo những lời giải thích trên đây, chân thật huệ chính là Căn Bản Trí, chỉ là xét theo mức độ diệt Hoặc Khổ khác nhau mà thôi!

          Sao: “Xét theo trí huệ của bậc thật sự chứng nhập Kiến Đạo”, cũng có hai nghĩa giống như đoạn Khổ. Đoạn trừ nỗi khổ v́ bệnh tật nơi thân, giống như những điều đă được đoạn trừ trong phần trước. “Và bệnh phiền năo” là [nói tới] cái được đoạn trừ ở đây. Từ câu “nghĩa là đối với các phẩm phiền năo trong các đường ác” trở đi, nhằm nêu ra cái Thể của những thứ bị đoạn trừ: [Những món phiền năo] thô nặng chính là chủng tử. Nói “phân biệt” nhằm chỉ rơ đấy chẳng phải là [những phiền năo] từ lúc sanh ra đă có. “Cũng là cái nhân xa của bệnh tật nơi thân”: Chẳng phải là cái nhân gần. Ví như sắc dục quá độ chính là cái nhân gần khiến cho thân thể bệnh tật. Do tham nên mới [sắc dục quá độ] như vậy, [v́ thế, tham] chính là cái nhân xa. Nói đoạn ngay trong một sát-na” th́ đến phần Sơ Địa, sẽ giải thích rộng hơn. “Nhanh chóng chứng Tứ Đế và Chân Như trong tam giới”, đến phần Thập Hồi Hướng sẽ giải thích. “Xét theo trí huệ nơi Kim Cang tâm, nhanh chóng đoạn trừ hết thảy các chứng bệnh phiền năo”: Đấy chính là những phiền năo vốn sẵn có).

 

          Ở đây nói đến “vô bệnh nhân” (người không có bệnh). Trông thấy người không có bệnh, cũng là người thân thể khỏe mạnh, bèn dẫn phát đại nguyện của Bồ Tát, “nhập chân thật huệ, vĩnh vô bệnh năo” (nhập trí huệ chân thật, vĩnh viễn không có các thứ khổ năo v́ bệnh tật) đem phối hợp với bài kệ trong phần trước, tức “hoạch Căn Bản Trí, diệt trừ chúng khổ” (đạt được Căn Bản Trí, diệt trừ các nỗi khổ), nh́n từ hai bài kệ này, sẽ thấy rất hiển nhiên! Ở đây, đức Phật dạy chúng ta “ĺa khổ được vui” là quả, cái nhân là ǵ? Cái nhân là phá mê khai ngộ, dạy chúng ta hết sức rơ ràng. Nếu thật sự mong mỏi ĺa khổ được vui, mà chẳng cầu phá mê khai ngộ, sẽ chẳng thể được! V́ thế, Phật giáo là giáo học, là giáo dục, thứ này chẳng phải do thần thông mà có thể làm được, cũng chẳng phải là do cảm ứng mà có thể làm được. [Những ǵ] Thích Ca Mâu Ni Phật, lịch đại tổ sư đă v́ chúng ta thị hiện, toàn là giáo dục. Khi tôi mới học Phật, thầy đă dạy tôi, “Phật học là một môn Triết Học cao sâu”, tôi nhập môn từ chỗ này. Sau khi đă nhập môn, mới biết Phật pháp thật sự cao, chẳng phải là cao như chúng tôi tưởng tượng, mà c̣n vượt trỗi hơn, xác thực là đạt tới viên măn rốt ráo!

          Không khai trí huệ, sẽ chẳng thể giải quyết vấn đề. Dẫu thường thức (kiến thức thông thường) phong phú, [chỉ vận dụng kiến thức để] giải quyết vấn đề, có lúc c̣n sanh ra tác dụng phụ nghiêm trọng, chỉ có trí huệ chân thật sẽ giải quyết vấn đề rốt ráo viên măn, quyết định chẳng nẩy sanh tác dụng phụ. Xác thực là người biết chuyện này chẳng nhiều! Trong đời này, chúng ta may mắn được làm thân người, nghe Phật pháp, có cơ duyên tốt đẹp gặp gỡ thiện tri thức như thế, khiến cho chúng ta do chánh tín mà nhập Phật môn, chẳng phải là mê tín. Do chẳng ngừng học tập, bèn biết đúng như trong bài kệ khai kinh đă nói: “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”. Chân thật nghĩa của Như Lai là như chúng ta đă được Ngài chỉ dạy, đúng như trong Đàn Kinh, Lục Tổ đă nói: “Nào ngờ tự tánh vốn trọn đủ”. Vô lượng vô biên trí huệ, đức năng, và tướng hảo hoàn toàn vốn trọn đủ trong tự tánh, đúng là “chỉ v́ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mà chẳng thể chứng đắc”. Chúng ta phải luôn nhớ nằm ḷng câu nói này!

          Thật sự tu hành th́ chẳng có chi khác, chính là buông xuống vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mà thôi. Chẳng ngừng buông xuống, hằng ngày buông xuống, hằng năm buông xuống, thật sự [buông xuống] đến mức đối với hết thảy các pháp đều chẳng khởi tâm động niệm, Tánh Đức vốn trọn đủ trong Tự Tánh sẽ hiện tiền viên măn. Nói dễ lắm, làm thật khó, v́ sao khó khăn như vậy? Chúng ta phải biết điều này, thời gian chúng ta mê mất Tự Tánh đă quá lâu, từ vô lượng kiếp đến nay lăn lóc trong luân hồi, đời đời kiếp kiếp càng mê sâu hơn. Thời gian lâu ngày, mê quá sâu, đă biến thành thói quen. Thói quen ấy chính là tập tánh, chẳng phải là bản tánh; đă biến thành tập tánh, rất đáng sợ! Nay chúng ta hiểu rơ làm thế nào để từ tập tánh trở về bản tánh, đấy là Phật pháp. Chữ Phật là tiếng ngoại quốc, từ tiếng Phạn của Ấn Độ dịch ra, có nghĩa là giác, là trí huệ, là giác ngộ. Do đó, Phật pháp là phương pháp giác ngộ. Cái để giác ngộ nương vào chính là trí huệ. Trí huệ hiện tiền, quư vị sẽ giác ngộ. Do giác ngộ, có thể giải quyết hết thảy các vấn đề, ngay cả vấn đề bệnh tật, vấn đề sanh tử của chúng ta, hoàn toàn có thể giải quyết, vĩnh viễn chẳng có khổ năo v́ bệnh tật, vĩnh viễn chẳng có sanh tử. Vĩnh viễn chẳng có sanh tử chính là Đại Niết Bàn.

          Sự vui sướng nơi Niết Bàn là vui sướng vô cùng, trong kinh giáo, đức Phật đă nêu ra mấy thí dụ, [những điều ấy thường gọi là] “Niết Bàn tứ chủng lạc” (bốn sự vui sướng của Niết Bàn):

          1) Thứ nhất là “ĺa hết thảy các nỗi khổ thế gian, đạt được niềm vui xuất thế gian to lớn. Niềm vui xuất thế gian là ǵ? Thưa cùng chư vị, ĺa khổ là lạc. Chúng ta đọc kinh Văng Sanh, kinh Văng Sanh chính là kinh luận Tịnh Độ, nói về chuyện văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Thế giới Tây Phương được gọi là Cực Lạc, [v́] nơi ấy chẳng có khổ. Chẳng có khổ th́ gọi Lạc; v́ thế, khổ và lạc là tương đối. Hễ chẳng có khổ, lạc cũng chẳng có! Nếu quư vị mong đạt được các sự vui sướng trong thế gian này, Phật pháp gọi những sự vui sướng ấy là Hoại Khổ. Phật pháp nói ba thứ khổ, tức là ba loại lớn, tức Khổ Khổ, Hoại Khổ, và Hành Khổ. Ba thứ khổ ấy đều chẳng có, đấy chính là Chân Lạc. Chúng ta thường gọi Khổ Khổ và Hoại Khổ là khổ lạc, [nghĩa là] Khổ Khổ là khổ, Hoại Khổ là lạc. Nếu chẳng có hai thứ ấy th́ gọi là Hành Khổ. V́ sao là Hành Khổ? Họ chẳng giác ngộ, tuy khổ và lạc đều chẳng có, nhưng họ mê, mê chứ chẳng giác. Đấy vẫn là khổ, nên được gọi là Hành Khổ. Hết thảy các thứ khổ chẳng ra ngoài ba loại lớn ấy. Ba loại khổ lớn ấy thảy đều chẳng có th́ gọi là Lạc, gọi là Cực Lạc.

          2) Niềm vui thứ hai của Niết Bàn là “xa ĺa ồn náo”. Nay chúng ta nói là “phồn hoa, náo nhiệt”, hăy xa ĺa, sống ở nơi đâu? Sống trong thanh tịnh, tịch diệt, ư vị ấy lâu dài lắm. Người thế gian ưa thích náo nhiệt; người thật sự có đức hạnh, có tu dưỡng, sẽ chuộng vắng lặng, an tĩnh. Trong an tĩnh có chân vị (ư vị chân thật), những chỗ náo nhiệt là dục vọng. Người hiện thời thường nói đến “từ trường”, từ trường nơi náo nhiệt là dục vọng. Người sống trong ấy sẽ bứt rứt, t́nh tự bất an. Từ truờng trong hoàn cảnh thanh tịnh là an định, là ḥa thuận, đấy chính là sự hưởng thụ thật sự. Sống lâu năm tại đô thị, thỉnh thoảng du hành đến những nơi ấy (nơi hoàn cảnh thanh tịnh) để ngắm phong cảnh, nghỉ ngơi, quư vị sẽ có cảm giác thân tâm thoải mái trong vài ngày. Niềm vui ấy thuộc về niềm vui Niết Bàn.

          3) Thứ ba là “trí huệ đă khai”. Đối với hết thảy các pháp đều biết, đều thấy. Tâm địa thanh tịnh, trí huệ đă khai; nói theo các nhà khoa học hiện thời, sẽ là “đột phá các chiều không gian và thời gian”. Đạt đến cảnh giới ấy, sẽ thật sự là “không ǵ chẳng biết, không ǵ chẳng thấy, không ǵ chẳng thể”. Có cần phải học tập hay chăng? Chẳng cần! V́ sao chẳng cần? “Nào ngờ Tự Tánh vốn sẵn trọn đủ”, Huệ Năng đại sư đă nhập cảnh giới ấy. Quư vị thấy đó, đối với những sách vở thế gian và xuất thế gian, Ngài không biết chữ, quư vị đọc cho Ngài nghe, chẳng có ǵ Ngài không hiểu rơ. Ngài có thể giảng cho quư vị nghe. Người đọc chẳng hiểu, nghe Ngài giảng giải cũng khai ngộ, cũng minh bạch. Kẻ chẳng biết chữ mà có thể giảng kinh! Quư vị đọc sách vở Nho, Thích, Đạo cho Ngài nghe, Ngài thảy đều giảng cho quư vị, chẳng có một tí chướng ngại nào. Nếu quư vị hỏi do nguyên nhân ǵ ư? Nói thật ra, khi Ngài khai ngộ, câu nói đầu tiên là “nào ngờ Tự Tánh vốn sẵn trọn đủ”, trọn đủ vô lượng vô biên trí huệ, làm sao Ngài chẳng biết cho được? “Nào ngờ Tự Tánh vốn sẵn thanh tịnh”, tức là Tánh Tịnh Niết Bàn. Ngài ở trong thế gian này, sáu căn có bị nhuốm bẩn hay không? Chẳng bị nhuốm bẩn mảy may nào! V́ sao? Tự Tánh thanh tịnh, Ngài đă đạt được Tánh Tịnh Niết Bàn như chúng tôi đă nói trong phần trước. Ngài khế nhập cảnh giới ấy. V́ thế, Ngài vĩnh viễn chẳng ĺa chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi, niệm nào cũng đều tương ứng. Đấy là “nhập Chân Thật Huệ”.

          4) Không chỉ là vĩnh viễn chẳng khổ năo v́ bệnh tật, lại c̣n điều cuối cùng trong bốn thứ lạc của Niết Bàn: Niềm vui thân như kim cang, vĩnh viễn chẳng hư hoại. Lục Tổ cũng có sanh tử, nhưng cái bị sanh tử là nhục thân. “Thân như kim cang” chẳng phải là nhục thân của Ngài, mà là Pháp Thân. Pháp Thân bất sanh, bất diệt, có thể hoàn toàn khống chế sự thị hiện trong chín pháp giới. Cái thân ấy chẳng phải là thân nghiệp báo. Thân nghiệp báo mới có sự khổ năo v́ bệnh tật; thân Ngài là thân ứng hóa nhằm thừa nguyện tái lai. Thân ứng hóa chẳng có sự khổ năo v́ bệnh tật. Có lúc cũng bị khổ năo v́ bệnh tật, nhưng đấy là thị hiện; đó là ǵ vậy? Dùng phương thức ấy để giáo hóa chúng sanh. Giống như cư sĩ Duy Ma, thuở đức Phật tại thế, cư sĩ Duy Ma chứng đắc cảnh giới b́nh đẳng với Thích Ca Mâu Ni Phật. V́ thế, chư vị phải hiểu, Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện xuất gia thành Phật, cư sĩ Duy Ma thị hiện tại gia thành Phật. Do vậy có thể biết, thành Phật, thành Bồ Tát, thành A La Hán, quư vị nói xem, là xuất gia hay tại gia? Thảy đều được cả! Tại gia và xuất gia chẳng khác ǵ nhau. Quư vị nhập cảnh giới ấy, sẽ là Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, sự thị hiện ấy mới là viên măn.

          Người xuất gia chớ nên khinh mạn cư sĩ tại gia; khinh mạn th́ sai mất rồi! Cư sĩ tại gia tôn kính hàng xuất gia, hàng xuất gia cũng phải tôn kính cư sĩ tại gia y hệt, chắc chắn là chẳng thua kém! Nguyện thứ nhất trong mười nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát là “lễ kính chư Phật”. Chẳng phải là vừa xuất gia, liền [cảm thấy chính ḿnh] cao ngất ngưởng; [nếu nghĩ kiểu đó], quư vị tiêu rồi! Chẳng xuất gia th́ c̣n đỡ, chứ xuất gia rồi bèn kiêu căng, ngă mạn! Kiêu căng, ngă mạn là phiền năo nghiêm trọng. Quư vị thấy sáu món căn bản phiền năo, sau tham, sân, si là mạn, quư vị đă dấy khởi căn bản phiền năo, đáng ngại quá! Không xuất gia, quư vị chẳng nẩy sanh phiền năo ấy. Vừa xuất gia, phiền năo ấy bèn hiện hành. Chuyện này khó trách cổ nhân bảo: “Trước cửa địa ngục, Tăng, đạo đông”. Chúng ta nghe lời ấy, hăy suy ngẫm, sẽ thấy chẳng phải là vô lư. V́ sao? Ngạo mạn! Chẳng biết thuở đức Thế Tôn tại thế, học tṛ của Ngài như mười sáu vị đại đệ tử, Ca Diếp, Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất, A Nan, những vị ấy thấy cư sĩ Duy Ma, từ kinh điển quư vị trông thấy điều này: Đối với cư sĩ Duy Ma, các Ngài đều đảnh lễ ba lạy, nhiễu theo chiều phải ba ṿng. Đối với thầy là Thích Ca Mâu Ni Phật bèn tôn trọng như vậy, mà đối với cư sĩ Duy Ma cũng tôn trọng như vậy. Đó là đúng! Nay chúng ta chỉ vừa mới xuất gia bèn coi cư sĩ thấp chủn, quư vị c̣n mong thành tựu nữa chăng? Chẳng thể nào!

          Quư vị phải như thế nào th́ mới có thể thành tựu? Ở đây nói đến người không có bệnh. Chữ Bệnh () này phải hiểu theo nghĩa rộng, chẳng phải là nghĩa hẹp. Nay thân thể chúng ta rất khỏe mạnh, chẳng có bệnh tật, nhưng trong tâm có bệnh. Trong tâm có bệnh ǵ vậy? Có tập khí phiền năo th́ là bệnh. Quư vị thấy “bệnh năo” (病惱, khổ năo v́ bệnh tật), “năo” () là phiền năo. Phiền năo là bệnh, Kiến Tư phiền năo là bệnh, Trần Sa phiền năo là bệnh, Vô Minh phiền năo là bệnh. Ai là người khỏe mạnh? Từ A La Hán trở lên. Biết tôn kính người khác, biết yêu thương, che chở người khác, biết giúp đỡ người khác, biết thành toàn cho người khác th́ chính là Phật, Bồ Tát; đó là những người khỏe mạnh chẳng có bệnh tật. Các vị ấy có trí huệ, khế nhập trí huệ chân thật. V́ thế, đối với mười đại cương lănh, tức mười cương lănh tu hành, mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát thảy đều làm được.

          Lễ kính chư Phật, “chư Phật” là nói tới những ai? Quá khứ Phật, hiện tại Phật, vị lai Phật. Trong ấy, quan trọng nhất là vị lai Phật. Vị lai Phật là ai? Hết thảy chúng sanh đều là vị lai Phật. Quư vị có thể cung kính hết thảy chúng sanh giống như đức Phật hay chăng? Nếu có ḷng cung kính, nhưng c̣n có cấp bậc th́ sai mất rồi, quư vị bất b́nh đẳng. Bất b́nh đẳng là bệnh năo, không chân thành là bệnh năo, không thanh tịnh là bệnh năo, một thân toàn là bệnh. Quư vị đối với người, tức là đối với hết thảy mọi người, đối với một kẻ ăn mày bần cùng, hèn kém, cũng phải tôn trọng, lễ kính như đối với đức Phật. Quư vị có thể làm được hay không? Chư Phật, Bồ Tát làm được, các vị đệ tử của đức Thế Tôn thuở Ngài tại thế đă làm được; đấy là biểu diễn cho chúng ta thấy. Không chỉ là đối với người khác, mà đối với tất cả hết thảy động vật, các loài bay lượn, ngọ ngoạy, ḅ trườn, muỗi, kiến, quư vị có ḷng cung kính đối với chúng hay không? Quư vị có tôn trọng chúng hay không? Quư vị chẳng biết tôn trọng, chẳng biết lễ kính chúng, tức là chẳng làm được câu đầu tiên của Phổ Hiền Bồ Tát! Không chỉ là đối với tiểu động vật chẳng khác ǵ đối với Phật, mà đối với thực vật, đối với khoáng vật, đối với hiện tượng tự nhiên, đều [tôn kính] chẳng khác chi hết! Chư Phật, Bồ Tát đối với tất cả hết thảy chúng sanh, tất cả hết thảy hiện tượng trong khắp pháp giới hư không giới là một niềm chân thành cung kính. V́ thế, có người đă hỏi pháp sư Ấn Quang, học Phật như thế nào th́ mới có thể khế nhập cảnh giới của Phật? Ấn Quang đại sư trả lời bằng hai chữ “thành kính”, tức là lễ kính chư Phật. Dùng cái tâm chân thành để tu lễ kính, quư vị sẽ khế nhập. Hết thảy cung kính, không ǵ chẳng kính, thực hiện từ chỗ này. Hết thảy cung kính, quư vị c̣n có thể hại kẻ khác nữa ư? Quư vị c̣n có thể làm chuyện tổn người, lợi ḿnh hay chăng? Đương nhiên là chẳng có!

          Hiện thời, mọi người nói đến chuyện hóa giải xung đột, khôi phục an định, ḥa b́nh, những lời dạy của Phổ Hiền Bồ Tát chính là sự thực hiện rốt ráo nhất, viên măn nhất, triệt để nhất, thật sự thực hiện từ tâm ta, chẳng phải là từ bên ngoài, mà thực hiện từ trong chân tâm, thực hiện từ trí huệ chân thật của chính ḿnh. Quư vị chẳng có trí huệ chân thật, sẽ chẳng thể thật sự nhận biết điều này, chẳng biết vạn hữu trong vũ trụ và ta có mối quan hệ ǵ! Hoàn toàn chẳng biết. Quan hệ giữa vạn hữu trong vũ trụ và ta là “cùng chung một Pháp Thân”. Chúng chính là Pháp Thân của chúng ta, mối quan hệ quá mật thiết. Đối xử như thế nào? Đối xử bằng Tánh Đức, Tánh Đức là thành kính. Nói đơn giản nhất, sẽ là một niềm chân thành, đấy là cốt lơi của Tánh Đức, là trung tâm của Tánh Đức. Chư Phật, Bồ Tát, đại thánh đại hiền chẳng có ǵ khác, các Ngài vĩnh viễn nắm được điểm trung tâm. Chúng ta nói cách khác là “trở về trung tâm”. Trở về trung tâm là trở về chân thành. Trong Ngũ Luân của Trung Hoa có “phụ tử hữu thân” (cha con có t́nh thân), “thân” chính là chân thành. Tướng của chân thành là từ bi, là ái. Tác dụng của chân thành là thanh tịnh, b́nh đẳng, giác. Thanh tịnh, b́nh đẳng là Định, giác là Huệ, từ bi là Giới. Từ bi là đă hoàn toàn được ứng dụng, vận dụng vào cuộc sống hằng ngày, vận dụng trong xử sự, đăi người, tiếp vật, vĩnh viễn chẳng có lầm lỗi. “Vô bệnh năo” là không có lầm lỗi, vĩnh viễn chẳng có lầm lỗi, vĩnh viễn chẳng phạm lỗi lầm. V́ thế, điều kiện tiên quyết là làm thế nào trở về cốt lơi của Tự Tánh, trở về trung tâm của Tự Tánh; đấy là chân thật huệ.

          Chúng ta thấy người không có bệnh, nói theo Phật pháp, “người không có bệnh” chính là đức Phật, [vậy th́] Bồ Tát có phải là người không có bệnh hay không? Bồ Tát vẫn có “bệnh”, v́ sao? Các Ngài chưa đoạn tập khí vô minh. Bất quá, các Ngài [tập khí] rất nhẹ, “bệnh” rất nhẹ, chẳng trở ngại Sự, dường như rất khỏe mạnh, chẳng khác ǵ người khỏe mạnh. A La Hán cũng c̣n khá lắm, bệnh của A La Hán nặng hơn Bồ Tát, nhưng vẫn chẳng trở ngại Sự, coi như là bệnh nhẹ. Bồ Tát là bệnh rất nhẹ, Như Lai mới chẳng có bệnh, lục đạo phàm phu mắc bệnh nghiêm trọng, v́ sao? Chẳng có trí huệ. Do đó, A La Hán được gọi là Chánh Giác, Bồ Tát được gọi là Chánh Đẳng Chánh Giác, Phật được gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đấy là chân thật huệ có cao hay thấp sai khác bất đồng, nhưng đều có thể nói là “vĩnh vô bệnh năo” (vĩnh viễn chẳng khổ năo v́ bệnh tật), các Ngài chỉ có tăng tấn, chẳng bị đọa lạc. Chúng ta phải biết điều này, đấy là điều chúng ta mong cầu, hằng ngày nghiêm túc nỗ lực học tập.

          Phàm phu tu hành dễ dàng thoái tâm. Chúng ta phải suy nghĩ chính ḿnh nên làm như thế nào để mỗi ngày đều có tiến bộ, chẳng đến nỗi thoái chuyển, đức Phật dạy chúng ta bốn điều. Đức Phật nói rất nhiều, nhưng hôm nay chúng tôi chỉ nói bốn chuyện sau đây:

          1) Thứ nhất, đối với Phật pháp nghi hoặc, hoài nghi, dẫu tin tưởng, nhưng nửa tin nửa ngờ, sẽ dễ dàng ngă ḷng. Đối trị như thế nào? Đối trị chính là như đức Phật đă nói, “đoạn nghi sanh tín”. Quư vị có nghi, nhất định phải đoạn trừ mối nghi ấy. Đoạn nghi như thế nào? Hăy học tập, nghiêm túc nỗ lực học tập, quư vị mới có thể sanh khởi tín tâm.

          2) Thứ hai, căn bệnh là chính ḿnh có thành kiến rất sâu, kiêu căng, ngă mạn, chấp trước cách nghĩ và cách nh́n của chính ḿnh, phê b́nh Phật pháp. Vậy là chẳng có cách nào, hạng người như vậy nhiều lắm! Đặc biệt là giới học thuật lấy kinh Phật để phê b́nh. V́ thế, họ chẳng có cách nào nhập chân thật huệ, chướng ngại này rất sâu, đó gọi là Pháp Chấp. Nhất định phải trống ḷng thỉnh giáo; không trống ḷng, sẽ chẳng được! Tổ Ấn Quang đă dạy: “Một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích”. Một kẻ chẳng có tâm cung kính, chẳng có tâm chân thành, học thứ ǵ cũng đều chẳng học được. Hễ có đôi chút ngạo mạn, sẽ hoàn toàn tạo thành chướng ngại nghiêm trọng.

          3) Thứ ba là ganh tỵ lợi dưỡng của kẻ khác. Người có tu hành, thành tựu, đương nhiên là người tôn kính vị ấy đông đảo, người cúng dường vị ấy cũng nhiều. Kẻ khác thấy vậy chẳng nhịn được, sanh khởi cái tâm ganh tỵ. V́ thế, ganh tỵ cũng là phiền năo nghiêm trọng, chướng ngại chính ḿnh nhập chân thật huệ.

          4) Thứ tư là chẳng có tâm cung kính, chẳng có tín tâm đối với hết thảy Bồ Tát.

          V́ thế, bốn thứ ấy dễ khiến cho người tu hành thoái chuyển nhất! Có những kẻ bị thoái chuyển rất nghiêm trọng, bị thoái chuyển với một mức độ to lớn, trong đời này chẳng thể khôi phục. Đấy là điều hết sức đáng tiếc!

          Làm thế nào để có thể chẳng bị thoái chuyển? Trong các buổi giảng, chúng tôi cũng thường nhắc đến; đương nhiên cái nhân thật sự là túc thế thiện căn, tức là thiện căn trong đời quá khứ sâu dầy. Đấy là cái nhân chân thật, trong đời này gặp gỡ thiện duyên. Nếu chẳng gặp thiện duyên, tuy có thiện căn rất tốt, vẫn chẳng thể tiếp tục tăng tấn. V́ thế, nhất định là phải có duyên. Sau khi đă gặp duyên, gặp duyên th́ quan trọng nhất là chính ḿnh phải hiếu học, tôn sư trọng đạo lại c̣n kèm thêm hiếu học, quư vị có hy vọng thành công rất lớn. Tôn sư trọng đạo là dùng Tánh Đức để học, như trong phần trước đă nói: Quư vị có tâm cung kính, quư vị tôn trọng những điều đă học. Sau đấy, học rồi bèn hiểu rơ. Không chỉ là tôn trọng thầy, mà đối với tất cả hết thảy chúng sanh thảy đều tôn trọng. Chắc chắn là cấp bậc tôn trọng chẳng sai khác, ta tôn trọng đức Phật như thế nào, cũng sẽ tôn trọng hết thảy chúng sanh giống hệt như vậy, cũng tôn trọng thầy y hệt như vậy. Như thế th́ quư vị đă thật sự học được “lễ kính chư Phật” của Phổ Hiền Bồ Tát, quư vị thật sự học được! Lợi ích này quá to, có thể giúp cho quư vị khai ngộ, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh.

          Đầu tiên, chúng ta phải học, ngay cả Nho gia, đấy là pháp thế gian, quư vị thấy câu đầu tiên trong Lễ Kư là “Khúc Lễ viết: Vô bất kính” (Khúc Lễ nói: “Không ǵ chẳng kính”), xếp câu này thành câu đầu tiên. Câu đầu tiên của Phổ Hiền Bồ Tát là “lễ kính chư Phật”. Trong Phật môn, có khá nhiều nghi thức bái sám, quư vị hăy lật ra xem, câu đầu tiên là “nhất thiết cung kính, nhất tâm đảnh lễ”, đă nói trọn hết, đă thi hành cụ thể “lễ kính chư Phật”, quyết chẳng thể sơ sót, quyết định chẳng thể xem nhẹ. Sau đấy, quư vị đă có điều này, [đạt được] những thứ sau đó sẽ chẳng khó.

          “Xưng tán Như Lai” rất trọng yếu. Xưng tán Như Lai có nghĩa là ǵ? Người Hoa nói là “ẩn ác, dương thiện” (ẩn giấu điều ác, tuyên dương điều lành) là do ư nghĩa này, cũng như trong Đàn Kinh, Lục Tổ đại sư đă nói: “Chẳng thấy lỗi thế gian”. Đối với bất cứ ai, cũng đều nhất loạt b́nh đẳng, ca ngợi điều thiện của kẻ ấy, chẳng nói lỗi lầm của kẻ đó. Chính ḿnh tu tốt đẹp, hành chánh đáng, người khác phạm sai trái, hăy cảm hóa họ, quyết chẳng phải là chỉ trích họ, quyết chẳng phải là phê b́nh họ, hăy dùng tâm hạnh của chính ḿnh để cảm hóa họ, người như vậy là Bồ Tát. Kẻ thường đem lỗi lầm của người khác ghim trong ḷng, kẻ ấy là phàm phu, là kẻ mê hoặc, chẳng giác ngộ. Bậc giác ngộ sẽ chẳng làm chuyện này. Điều này rất khó làm được, từ nay về sau, sẽ càng ngày càng dễ dàng.

          Thứ ba là “quảng tu cúng dường”. Tu cúng dường chẳng có tâm phân biệt, chẳng có tâm chấp trước, nhưng ta có trí huệ biết phải nên làm theo cách nào. Người thật sự có trí huệ cúng dường th́ có cúng dường sai lầm hay chăng? Cũng có nghĩa là chúng ta cúng dường cho người khác làm chuyện xấu, có hay không? Có chứ! V́ sao người giác ngộ mà c̣n [cúng dường sai lầm]? Người giác ngộ dùng phương thức ấy giáo hóa chúng sanh, khiến cho chúng sanh trông thấy sự việc ấy sẽ tỉnh ngộ. Bởi lẽ, thuận cảnh hay nghịch cảnh đều là cảnh tốt đẹp, thiện duyên hay ác duyên đều là hảo duyên, chuyện thiện hay chuyện ác đều là hảo sự. Ư nghĩa này rất sâu, kẻ b́nh phàm chẳng thấu hiểu được, như vậy là quư vị chẳng liễu giải Phật, Bồ Tát. Phật, Bồ Tát cũng chẳng cần ai liễu giải, những việc các Ngài làm từng ly từng tư chẳng có ǵ không nhằm giúp cho chúng sanh giác ngộ, không ǵ chẳng nhằm giúp chúng sanh quay đầu. Hễ c̣n có những lầm lỗi th́ vẫn phải tiếp tục lập đi lập lại. Tôi nêu một thí dụ, đây là chuyện tôi đích thân gặp gỡ lúc tôi c̣n rất trẻ, nhưng do được thầy chỉ điểm cho nên tôi hiểu rơ, tôi hiểu thầy làm theo kiểu ấy là đúng.

          Pháp sư Đạo An, tức pháp sư Đạo An ở Đài Loan đă qua đời mười mấy năm rồi. Lúc c̣n trẻ, tôi theo Ngài. Lăo nhân gia mở một khóa giảng dành cho sinh viên đại học và các trường chuyên nghiệp tại Đài Bắc, mời tôi làm tổng chủ giảng. V́ thế, tôi qua lại với Ngài khá chặt chẽ. Có một hôm, tôi đến gặp Ngài, Ngài ở Tùng Sơn Tự. Đến gặp Ngài, Ngài hỏi tôi: “Pháp sư Tịnh Không à! Ông có thấy một cư sĩ vừa mới đi ra hay không?” Tôi thưa: “Con thấy chứ! Gặp hắn ở ngoài cửa chính, con cũng quen biết hắn”. Lăo pháp sư bèn bảo tôi: “Hôm nay hắn lại đến lừa gạt ta!” Tôi hỏi: “Ngài có cho hắn hay không?” “Cho hắn rồi”. Kẻ ấy thường đến lừa gạt lăo ḥa thượng. Lăo ḥa thượng giả vờ không biết, mỗi lần đều cho hắn. Sau khi lăo ḥa thượng nói ra, tôi mới hiểu rơ lăo ḥa thượng dụng tâm khổ sở, cuối cùng sẽ có ngày, gă đó giác ngộ, sẽ quay đầu. Nguyên lai, mỗi lần bị [gă đó] lừa gạt, lăo ḥa thượng đều biết, Ngài chẳng hồ đồ. Cứ tưởng Ngài hồ đồ, chẳng biết mỗi lần quư vị đến lừa phỉnh, Ngài đều đưa cho. Ngài biết rành rẽ, rơ ràng, [chấp nhận bị lừa], ngơ hầu sẽ có một ngày quư vị thật sự liễu giải, mới cúi đầu, mới biết sám hối, mới có thể sửa lỗi đổi mới. Dạy một người chẳng đơn giản đâu nhé! Để dạy mỗi người, đều có phương thức và phương tiện khác nhau, lâu ngày chầy tháng sẽ khiến cho kẻ ấy sanh khởi cái tâm hổ thẹn, sẽ quay đầu, sẽ giác ngộ. Lũ b́nh phàm chúng ta làm sao có thể thấy được! Cứ ngỡ lăo ḥa thượng rất dễ lừa, bị lừa gạt rất dễ dàng, nào ngờ Ngài biết rành rẽ, rơ ràng, chẳng hồ đồ tí nào! Ngài cố ư mắc lừa, đó gọi là “dụng tâm lương khổ”, giúp một người quay đầu. Ngài không nói lỗi lầm của kẻ đó, mà cũng chẳng tùy tiện nói với ai khác, điều khó có là Ngài nói với tôi chuyện ấy [nhằm dạy tôi hiểu rơ dụng tâm ấy]. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi giảng tới chỗ này.

 

Tập 1544

 

          Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một, tiểu đoạn thứ ba trong đoạn lớn thứ sáu, tức phần Sở Ngộ Nhân Vật. Hôm nay chúng ta xem từ bài kệ thứ tám.

 

          (Kinh) Kiến tật bệnh nhân, đương nguyện chúng sanh, tri thân không tịch, ly quai tránh pháp.

          ()見疾病人。當願眾生。知身空寂。離乖諍法

          (Kinh: Thấy người bệnh tật, nguyện cho chúng sanh, biết thân không tịch, ĺa pháp chống trái).

 

          Trong phần Sớ, Thanh Lương đại sư chú giải rất đơn giản, nhưng cũng rất rơ ràng:

 

          (Sớ) Tứ Đại quai vi thành bệnh. Tri Không, tắc vĩnh vô sở quai.

          ()四大乖違成病,知空,則永無所乖。

          (Sớ: Tứ Đại chống trái nhau mà thành bệnh. Biết Không, sẽ vĩnh viễn chẳng chống trái).

 

          Lời chú giải rất đơn giản, ư nghĩa hết sức sâu! Bệnh tật, đặc biệt là trong thời đại hiện tại này, tăng lên quá nhiều lần so với quá khứ. Hiện thời có những chứng bệnh xưa kia chẳng có, những chứng bệnh kỳ quái. Nguyên nhân gây nhiễm bệnh là ǵ? Ngài Thanh Lương nói hay lắm, do Tứ Đại. Tứ Đại là ǵ? Địa, Thủy, Hỏa, Phong như kinh Phật đă nói, đấy là Tứ Đại. Chúng nhằm chỉ điều ǵ? Chúng ta chẳng cần phải suy nghĩ cặn kẽ, chúng tôi nghĩ: Cứ nói theo phương diện thường thức b́nh phàm, thân thể này của chúng ta là do thứ ǵ tạo thành? Hiện thời, rất nhiều người đều biết, tuy thân thể bên ngoài là ngũ quan, bên trong là ngũ tạng lục phủ, thảy đều là do các tế bào hợp thành. Tế bào có phải là nhỏ nhất hay chăng? Chẳng phải! Trong thân thể con người, nó là một phần tử cấu tạo nhỏ nhất, nhưng nếu lại phân tích, nó có thể chia thành phân tử, nguyên tử, điện tử, lạp tử, chúng ta gọi những điều này là “thế giới vi mô”. Nay chúng ta lấy tế bào làm đơn vị, thân thể con người do các tế bào hợp thành. Các nhà khoa học cho biết, trên thân thể một người thông thường có bao nhiêu tế bào? Dường như trong quá khứ tôi đă xem một báo cáo, chẳng nhớ rơ là xem khi nào, cũng quên mất rồi, có một khái niệm dường như là sáu mươi vạn ức. Thân thể mỗi người có sáu mươi vạn ức tế bào hợp thành tấm thân này.

          Tứ Đại nhằm chỉ điều ǵ? Chính là nói đến tế bào, Tứ Đại là tế bào. Tế bào có bốn tánh chất. Nói thật ra, dẫu phân tích cho đến hạt cơ bản, nó vẫn có bốn loại tánh chất ấy. Thứ nhất, nó là vật chất. Từ tế bào đă có thể nh́n thấy hết sức rơ ràng, nó xác thực là vật chất. Trong Phật pháp, vật chất được gọi là Địa Đại. [Dùng chữ] Địa nhằm biểu thị nó là vật chất. Thủy Đại biểu thị nó chứa nước, hiện thời mọi người đều hiểu rất rơ điều này. Hỏa Đại là nó có độ ấm, [Thủy và Hỏa] là nó có chứa nước, có độ ấm. Khoa học hiện thời không nói là Thủy và Hỏa, mà nói là “tích điện”. Tích điện dương th́ là Hỏa Đại, tích điện âm th́ là Thủy Đại, nó xác thực là một thể chứa điện. Nó động, chẳng tĩnh lặng; v́ thế, nó có “thay cũ, đổi mới”. Chu kỳ cũng chẳng dài, do có sự thay cũ đổi mới, sự biến động ấy được gọi là Phong Đại. Nếu chúng ta phân tích nó, từ tế bào lại phân tích thành phân tử, phân tử lại phân tích thành nguyên tử, Tứ Đại sẽ rất rơ ràng, rất hiển nhiên. Đối với thường thức khoa học trong hiện thời, mọi người chẳng hoài nghi tí nào. Dưới kính hiển vi có độ phóng đại lớn, sẽ thật sự trông thấy rất rơ ràng: Vật chất rất nhỏ phân tích đến cuối cùng, sẽ là hạt, tức hạt cơ bản, đấy là vật chất, là vật chất nhỏ nhất.

          Trong Phật pháp, chẳng có nhiều danh từ như vậy. Trong Phật pháp, thảy đều dùng một chữ Trần (), tức Vi Trần (微塵), dùng chữ này để biểu thị. Nay chúng ta nói là thế giới vi mô, c̣n Phật pháp dùng chữ Trần để biểu thị. Nhưng Trần có lớn, có nhỏ; thông thường trong kinh Phật đă kể đại khái rất nhiều loại. Đối với mắt thường, nhăn lực rất tốt, sẽ có thể thấy ǵ? Ngưu Mao Trần (牛毛塵). Ngưu mao là một sợi lông trâu. Trên chót của sợi lông trâu có dính một hạt bụi đất, nó đậu ở nơi đó chẳng bị rớt xuống. Để đậu ở đó, đương nhiên [hạt bụi ấy] rất ư là bé, mắt tốt có thể thấy được loại bụi này, chứ kẻ b́nh phàm xác thực là rất khó trông thấy. Một phần bảy của Ngưu Mao Trần, đại khái là nhục nhăn chẳng thể thấy được, sẽ gọi là Dương Mao Trần (羊毛塵). Người Hoa viết chữ bằng bút lông, thành phần lông dê trong bút lông rất nhiều, gần như đại đa số đều là dùng lông dê. Nếu dùng “lang hào” (狼毫), lang hào [là lông tơ] của hoàng thử lang (黃鼠狼, chồn), loại lông này cũng rất mịn. Một phần bảy của Ngưu Mao Trần là Dương Mao Trần. Dương Mao Trần c̣n có thể chia nhỏ, chia nhỏ làm bảy phần, mỗi phần gọi là Thố Mao Trần (兔毛塵). Lông thỏ càng nhuyễn, càng mịn hơn. Lông thỏ cũng có thể làm bút lông. Thố Mao Trần lại chia làm bảy phần, một phần đó sẽ gọi là Thủy Trần (水塵). Nước có mật độ hoàn toàn chẳng lớn, đúng là có những kẽ hở [giữa các phân tử]. Loại trần này có thể tự do bơi qua bơi lại trong nước, chẳng bị mật độ [của các phân tử] nước chướng ngại. Thủy Trần lại chia thành bảy phần, th́ một phần ấy sẽ gọi là Kim Trần (金塵). Kim là kim loại, tức vàng, bạc, đồng, sắt. Kim loại có mật độ rất lớn, nh́n dưới kính hiển vi, nó vẫn có những kẽ hở, giống như cấu trúc mạng lưới. Loại trần này đối với kim loại chẳng có chướng ngại, nó có thể xuyên qua, xuyên lại [giữa các kẽ hở ấy]. Đấy là Kim Trần.

          Lại chia Kim Trần thành bảy phần, một phần ấy sẽ gọi là Vi Trần. Trong quá khứ, đức Phật bảo A La Hán có thể thấy Vi Trần. A La Hán có thể thấy Vi Trần, chứ Thiên Nhăn chẳng trông thấy. Vi Trần c̣n có thể chia nhỏ, một phần sau khi đă chia thành bảy phần được gọi là Sắc Tụ Cực Vi (色聚極微). A La Hán chẳng trông thấy loại trần này. Sắc Tụ Cực Vi c̣n có thể chia thành bảy phần, một phần bảy ấy được gọi là Cực Vi Chi Vi (極微之微), đức Phật nói chẳng thể chia nhỏ hơn nữa. Cực Vi Chi Vi c̣n gọi là Lân Hư Trần (鄰虛塵)[4], ai có thể trông thấy? Bậc Địa Thượng Bồ Tát, nói thông thường, sẽ là Bát Địa Bồ Tát. Hạt cơ bản như khoa học gia đă phát hiện trong hiện thời có phải là Cực Vi Chi Vi hay không? Rất khó nói, loại vi trần này chẳng thể chia nhỏ hơn nữa. Nếu chia ra, sẽ chẳng có. Các nhà khoa học hiện thời đă phát hiện, theo sự suy nghĩ của chúng tôi, sẽ phải là suy luận từ toán học mà ra, tức là vật chất do đâu mà có? Vật chất là từ Vô sanh ra Hữu. Vật chất từ Vô sanh ra Hữu rất có thể là Cực Vi Chi Vi như Phật pháp đă nói, Bát Địa Bồ Tát trông thấy. Các nhà khoa học hiện thời suy luận, biết có thứ này, nhưng chẳng có cách nào trông thấy, khoa học kỹ thuật hiện thời vẫn chưa thấy được! Loại vi trần này là vật chất, từ Không biến hiện ra vật chất, thời gian nó tồn tại rất ngắn ngủi, tạm bợ, sanh diệt trong từng sát-na. Chúng ta thấy tướng của núi, sông, đại địa, đấy là tướng Tương Tục của Cực Vi Chi Vi, là hiện tướng tích lũy, hiện tướng tương tục. V́ thế, Phật pháp dạy: Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”, tướng ấy tuyệt đối chẳng chân thật. “Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, từ kinh Kim Cang mọi người đă đọc thấy điều này!

          Tứ Đại được Phật pháp gọi là Tướng Phần, tướng do đâu mà có? Kinh Hoa Nghiêm đă nói rất hay: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. V́ thế, kinh Hoa Nghiêm cũng là một trong sáu kinh của Tướng Tông. Kinh luận chủ tu của Tướng Tông gồm sáu bộ kinh và mười một bộ luận, gọi là Lục Kinh Thập Nhất Luận, Hoa Nghiêm là một trong số đó. Hoa Nghiêm nói pháp tướng là tâm hiện, thức biến, “tâm” ở đây là Pháp Tánh. Pháp Tánh là cái có thể hiện, tám thức là cái có thể biến. “Có thể hiện, có thể biến”: “Có thể hiện” th́ gọi là Nhất Chân pháp giới, “có thể biến” là biến Nhất Chân pháp giới thành mười pháp giới. Bất luận quư vị biến theo cách nào, chỉ cần là bất cứ vật chất nào, hiện tướng ấy chính là Tướng Phần, Thể của nó là Pháp Tánh. Chuyện này tương tự với những điều các khoa học gia hiện tại đă nói, dần dần tiếp cận ư nghĩa này. V́ thế, có khi chúng tôi dùng thuật ngữ khoa học để nói rơ.

          Khoa học gia nói đến Trường, Trường là ǵ? Hiện tướng của năng lượng thưa thớt, ít ỏi; Phật pháp nói là Không. Hiện tướng của năng lượng tụ tập sẽ biến thành vật chất. V́ thế, trường và vật chất nói thật ra là một loại hiện tướng, một đằng là hiện tướng phân tán, một đằng là hiện tướng tụ tập. Chúng ta đọc Tâm Kinh sẽ thấy: “Sắc chính là Không, Không chính là Sắc, Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc”, dùng [đoạn kinh văn ấy] để giải thích sẽ hết sức thích hợp. Các nhà khoa học gọi là Trường, Phật pháp gọi là Không. Khoa học gia nói “vật chất”, Phật pháp nói là Sắc. Sắc do đâu mà có? Từ Không biến hiện ra; do vậy, Sắc và Không là một, chẳng hai! Điều phát hiện này của khoa học đă được giảng rất rơ ràng trong kinh Bát Nhă. Trong Tánh Tông, Không được nói là Pháp Tánh, Sắc là pháp tướng. Tánh và Tướng là một, không hai. Tánh và Tướng như một, Tánh và Tướng chẳng hai! V́ thế, hiện bất cứ tướng ǵ, Sắc pháp nhất định trọn đủ các đức năng trong Tự Tánh. Đức năng ấy vĩnh viễn chẳng bị mất đi. Đức năng ấy là ǵ? Thấy, nghe, hay, biết, sắc, thanh, hương, vị, nó thảy đều có.

          Tùy thuận Tự Tánh, các tế bào trên toàn thân chúng ta đều có thể tùy thuận Tánh Đức, thân thể sẽ khỏe mạnh, chẳng có bệnh tật. Nếu trái nghịch Tánh Đức, sẽ bị bệnh. Do vậy, chúng ta phải đặc biệt ghi nhớ giáo pháp Đại Thừa đă dạy điều này: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”. Duy thức sở biến, thức là vọng tưởng. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước sẽ có ảnh hưởng đối với Tứ Đại, [tức là có ảnh hưởng] đối với vật chất. Nói cách khác, có ảnh hưởng đối với tế bào của chúng ta. Sanh từ tâm tưởng, tâm tưởng là ư niệm của chúng ta. Ư niệm của chúng ta trái nghịch Tự Tánh, tế bào sẽ nẩy sanh biến hóa, tế bào sẽ bị bệnh. Tế bào đă bị bệnh, các khí quan do tế bào hợp thành sẽ bị bệnh theo, phiền phức xảy ra, đạo lư là như thế đó. Đấy là từ vật lư bèn nói rơ Phật pháp có đạo lư này!

          V́ thế, người như thế nào th́ mới có thể tùy thuận Tự Tánh? Vậy th́ quư vị phải hiểu trong Tự Tánh chẳng có chấp trước. Hễ quư vị có chấp trước bèn trái nghịch Tự Tánh. Trong Tự Tánh chẳng có phân biệt, trong Tự Tánh chẳng có khởi tâm động niệm. Đức Phật dạy đấy là ba loại phiền năo lớn, tức là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước hoàn toàn trái nghịch Tự Tánh; do đó, sẽ gây thành bệnh. Chúng sanh trong lục đạo tệ hại nhất, ba thứ “quai vi” (trái nghịch) thảy đều trọn đủ! “Vi” () trái nghịch, “quai” () là trái ĺa, ĺa khỏi Tự Tánh, chẳng tuân thủ Tự Tánh. Đức Phật dạy chúng ta tu Giới, Định, Huệ, Giới, Định, Huệ là tùy thuận Tự Tánh, chẳng chống trái. Nói cách khác, đó là khỏe mạnh. Trong sự chống trái Tự Tánh, nghiêm trọng nhất là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, đấy là ǵ? Đấy là Kiến Tư phiền năo; nói cách khác, chính là “chấp trước nghiêm trọng” như kinh Hoa Nghiêm đă gọi. Quư vị có tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, lẽ đâu quư vị chẳng sanh bệnh trong lục đạo? Nếu quư vị muốn chẳng sanh bệnh, phải điều chỉnh những thứ trái nghịch Tánh Đức, điều chỉnh sao cho chúng tùy thuận. Thông thường, tôi thường nói là “tùy thuận thiên nhiên” th́ sẽ là mạnh khỏe nhất. Trái nghịch tự nhiên, quư vị sẽ ngă bệnh. V́ thế nói “chớ nên trái nghịch tự nhiên”.

          Tự nhiên là hài ḥa, bất ḥa là trái nghịch tự nhiên. Quư vị bất ḥa với người khác, bất ḥa với vật, bất ḥa với sự, tinh thần của quư vị làm sao vui sướng cho nổi? Tinh thần chẳng vui sướng, chẳng khoan khoái, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến các tế bào toàn thân! V́ thế, chuyện này rất khó thấu hiểu, t́nh tự ảnh hưởng đến con người. Ngạn ngữ thường nói: “Ưu tư khiến cho người ta già khọm”. Con người ưu tư, u uất rất dễ già suy, rất dễ nhiễm bệnh. Người vui sướng chẳng già suy, người vui sướng chẳng dễ nhiễm bệnh. Do nguyên nhân ǵ vậy? Vui sướng là Tánh Đức, ưu lự là trái nghịch, đạo lư ở chỗ này!

          Quư vị thấy thí nghiệm đối với nước của tiến sĩ Giang Bổn Thắng, trong khi giảng kinh, tôi thường trích dẫn, quư vị c̣n chẳng giác ngộ ư? Nước là khoáng vật. Chúng ta sánh ví nước như tế bào trong thân thể chúng ta. Đối với cấu tạo của tế bào th́ thành phần quan trọng nhất là nước. Hiện thời, mọi người đều biết bảy mươi lăm phần trăm thân người là nước, thật sự là Thủy Đại. Thủy trong Tứ Đại lớn nhất, Địa, Hỏa, và Phong đều chẳng bằng, phân lượng của Thủy lớn nhất. Một ư niệm thiện, kết tinh của nước sẽ xinh xắn, đẹp đẽ ngần ấy. Một ư niệm bất thiện, kết tinh bèn hết sức khó coi. Kết tinh khó coi, tế bào sẽ có bệnh, chúng ta nói là “bệnh biến”, nẩy sanh biến hóa [gây ra bệnh tật]. Nếu phạm vi của tế bào bị biến hóa gây ra bệnh tật được khuếch đại, khí quan (organ) sẽ bị bệnh. Đôi khi [khí quan] tạm thời trở lại chẳng sao cả, v́ sao? Vẫn chẳng có ảnh hưởng quá lớn. V́ một khí quan do rất nhiều tế bào hợp thành; [nếu như], mấy tế bào, mấy chục tế bào, mấy trăm tế bào [mắc bệnh], bị biến đổi v́ bệnh th́ vẫn chưa sao, nó vẫn chưa dấy lên tác dụng. Nếu như có đến mấy trăm vạn, mấy ngàn vạn tế bào nẩy sanh sự biến hóa v́ bệnh, người ấy sẽ ngă bệnh. Tế bào trên toàn thân là sáu mươi vạn ức, cho nên đến khi là trăm vạn hoặc ngàn vạn [tế bào bị biến hóa], sẽ là nghiêm trọng, sẽ ngă bệnh! Nếu quư vị hiểu đạo lư này, sẽ hiểu phải dưỡng sanh như thế nào ḥng chiếu cố tốt đẹp các tế bào trên toàn thân.

          Ư niệm tốt đẹp nhất là thiện niệm. Ư niệm cực thiện, Phật, Bồ Tát dạy chúng ta điều này, cũng không phải chỉ riêng Thích Ca Mâu Ni Phật, mà là mười phương ba đời hết thảy chư Phật đều rát miệng buốt ḷng dạy chúng ta: Điều thiện nhất trong các điều thiện, là thiện niệm vô thượng, chính là một câu A Di Đà Phật. Niệm “nam-mô A Di Đà Phật”chỉ ư chí thiện(an trụ nơi điều thiện tột bậc), niệm này thù thắng khôn sánh. Chúng ta xem Sơn Tây Tiểu Viện, bộ đĩa ấy nói về bệnh tật, Sơn Tây Tiểu Viện nhằm giảng giải bài kệ này. Người bệnh đă bị bệnh viện lẫn bác sĩ tuyên bố chẳng thể chữa trị được nữa, khá nhiều người được bác sĩ cho biết, “tối đa quư vị chỉ c̣n có thể sống ba tháng nữa”, người nhà đă ngay lập tức lo liệu hậu sự cho người ấy, chẳng c̣n trông mong chi nữa! Mà những người ấy cũng chẳng mong cầu lành bệnh, hết thảy vọng tưởng, chấp trước thảy đều buông xuống, nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Cũng có người nhất tâm niệm Phật cầu tiêu nghiệp chướng; niệm kinh Vô Lượng Thọ, niệm kinh A Di Đà cầu sanh Tịnh Độ, niệm kinh Địa Tạng, niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát cầu tiêu nghiệp chướng. Có hữu hiệu hay không? Hữu hiệu! V́ sao? Tụng kinh, niệm Phật, niệm Bồ Tát, những ư niệm ấy đều là tốt lành nhất. Ư niệm ấy có thể khiến cho những tế bào bị biến đổi v́ bệnh dần dần khôi phục b́nh thường. Hễ chúng khôi phục b́nh thường, người ta sẽ khỏe mạnh. Tôi có một buổi nói chuyện về Sơn Tây Tiểu Viện, bảo họ biết đạo lư này, chẳng phải là mê tín, hiện thời có khoa học chứng minh điều này!

          Con người khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, chắc chắn sẽ nẩy sanh ảnh hưởng mang tánh chất quyết định đối với toàn thể t́nh tự và toàn thể sinh lư của quư vị. V́ thế, ư niệm của con người chớ nên không chánh, chớ nên bất thiện, chớ nên không thanh tịnh. Quư vị thật sự nắm vững chân thành, thanh tịnh, thiện lương, lẽ nào thân thể của quư vị chẳng khỏe mạnh? Dẫu bệnh biến nghiêm trọng, như bệnh ung thư, có khẩn yếu hay chăng? Chẳng khẩn yếu, có thể khôi phục b́nh thường, quư vị phải tin tưởng chính ḿnh, chớ nên tin tưởng người khác. Phật pháp nói về Nội Học; do đó, nếu thân thể quư vị chẳng thoải mái, có bệnh, hăy nghiêm túc phản tỉnh căn bệnh ấy v́ sao mà có? V́ sao mắc căn bệnh ấy? Cái thân đang khỏe khoắn cớ sao bị nhiễm bệnh? Nhất định là đă phạm sai lầm, ở đây nói sự sai lầm ấy chính là “trái nghịch Tánh Đức”, khẳng định là do nguyên nhân này. Quư vị hăy t́m ṭi, sau khi đă t́m được, quư vị có thể sửa chữa sai lầm ấy, có thể khiến cho các tế bào đă biến đổi v́ bệnh được khôi phục b́nh thường. Trong y học th́ dùng thuốc men, hoặc dùng phương pháp hóa học để giúp bệnh nhân khôi phục, chẳng đáng tin cậy! Quư vị phải t́m cho ra căn cội. Cội nguồn khiến cho tế bào bị biến đổi v́ bệnh tật chính là ư niệm bất thiện của chính ḿnh, hăy sửa đổi từ chỗ này th́ sẽ là thật sự thực hiện từ căn bản.

          Nếu trong Phật pháp mà hướng thượng, sẽ “tri thân không tịch” (biết cái thân là không tịch). Đấy là [sự giác ngộ ở mức độ] cao nhất, chính là cảnh giới của Phật, Bồ Tát, thân lẫn tâm đều chẳng thật. Nay chúng ta nói tới tinh thần và vật chất, th́ tinh thần và vật chất đều là hư vọng. Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng, “phàm những ǵ có h́nh tướng” bao gồm tinh thần. Quư vị thấy Bát Nhă Tâm Kinh đă chép: “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhă Ba La Mật Đa thời”, ở đây nói “hành thâm Bát Nhă Ba La Mật”“biết”. “Chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không”: Thân được nói ở đây bao gồm Ngũ Uẩn, tức Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc là vật chất, Thọ là năm thức trước (từ Nhăn Thức cho đến Thân Thức), Tưởng là thức thứ sáu, Hành là thức thứ bảy, cái cuối cùng chính là thức thứ tám, tức A Lại Da Thức. Thọ, Tưởng, Hành, Thức đều thuộc về tinh thần, chúng chẳng phải là vật chất. V́ thế, tinh thần và vật chất đều chẳng thật. Quư vị đă biết thân không tịch, tất cả hết thảy các pháp “chống trái” đều hoàn toàn chẳng có, gạt bỏ triệt để, đấy là cảnh giới ǵ? Chính là Căn Bản Trí, là Chân Thật Huệ như đă nói trong phần trước. Trí huệ chân thật, Căn Bản Trí hiện tiền, sẽ là “liễu sanh tử”, “liễu” () là liễu thoát, “liễu” là hiểu rơ, “thoát” () là thoát ly. Chân tướng thảy đều hiểu rơ ràng, hiểu minh bạch, thoát ly lục đạo luân hồi, thoát ly Phần Đoạn sanh tử, thoát ly Biến Dịch Sanh Tử. Quư vị thấy các vị Pháp Thân Bồ Tát trông thấy một người bị bệnh, các Ngài xác thực hồi quang phản chiếu, sanh khởi nguyện tâm như vậy, nguyện cho hết thảy chúng sanh đều có thể thông đạt, hiểu rơ Thật Tướng của các pháp. Đấy chính là chân tướng của hết thảy các pháp, là chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, vấn đề của quư vị đă được triệt để giải quyết.

          Chúng ta thấy “tật bệnh” ở đây, thân có bệnh dễ thấy, tâm bệnh thường bị con người sơ sót, trọn chẳng biết tâm bệnh là căn cội của thân bệnh. Cũng có nghĩa là tư tưởng và kiến giải của một người chính là căn bản. Tư tưởng, kiến giải sai lầm, người ấy sẽ mắc bệnh. Nay nếu chúng ta hỏi, thế nào là tư tưởng kiến giải sai lầm? Thế nào là b́nh thường? Trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật thường nói “hữu niệm tắc quai” (hễ có niệm bèn trật), đấy là tiêu chuẩn tuyệt đối. Chỉ cần quư vị khởi tâm động niệm, sẽ trái nghịch Tự Tánh. V́ sao? Tự Tánh như như bất động, chẳng có khởi tâm động niệm. Khởi tâm động niệm c̣n chẳng có, lấy đâu ra phân biệt, chấp trước? V́ thế, chẳng có những thứ này. Nếu quư vị tham cứu thấu triệt lư này, Phật pháp dạy quư vị tu hành, quư vị liền thông đạt, hiểu rơ!

          Tôi thường nhắc nhở các đồng học chỗ này. Quư vị đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, hết thảy người, hết thảy sự, hết thảy vật, đều chẳng c̣n chấp trước, chấp trước thảy đều buông xuống, quư vị bèn chứng quả A La Hán. Chứng A La Hán, các bệnh nơi thân tâm trong lục đạo sẽ hoàn toàn chẳng có, quư vị thoát khỏi lục đạo. Lại tiến hơn bước nữa, phân biệt đối với hết thảy người, sự, vật trong thế gian và xuất thế gian cũng buông xuống, quư vị bèn thành Bồ Tát. Không chỉ là chẳng có chấp trước, mà phân biệt cũng chẳng có. Quư vị lại có thể buông xuống khởi tâm động niệm, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần đều buông xuống khởi tâm động niệm, chẳng khởi tâm, không động niệm, chúc mừng quư vị, quư vị đă thành Phật, đă vượt thoát mười pháp giới, quư vị là Pháp Thân đại sĩ thuộc bốn mươi mốt địa vị trong kinh Hoa Nghiêm, quư vị là chân Phật, chẳng phải là giả Phật. Bốn mươi mốt giai cấp trong Nhất Chân pháp giới là do tập khí vô minh phiền năo [dầy hay mỏng khác nhau], chẳng khẩn yếu, chẳng trở ngại Sự, quư vị đă thành Phật. Đó là ǵ? Khiến cho quư vị nhận thức “trái nghịch Tự Tánh” là ǵ, “tùy thuận Tự Tánh” là ǵ? Kinh Hoa Nghiêm đă nêu ra tổng cương lănh, quư vị có thể nắm bắt điều này, tu hành sẽ thuận tiện.

          Tu hành là tu từ chỗ nào? Trong cuộc sống hằng ngày, chớ nên chấp trước, chớ nên so đo; trong công việc, cũng chớ nên so đo, cũng chớ nên chấp trước. Xử sự, đăi người tiếp vật càng chớ nên phân biệt, chấp trước, vĩnh viễn ǵn giữ cái tâm thanh tịnh, tức là chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi, bệnh ǵ quư vị cũng đều chẳng có. Chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi là Tánh Đức, quư vị ngẫm xem, quư vị khởi tâm động niệm có trái nghịch [Tánh Đức] hay không? Hễ trái nghịch th́ sai mất rồi!

          Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta có thể hết thảy đều chẳng chấp trước, đều chẳng so đo hay không? [Nếu như] hết thảy đều chẳng chấp trước, hết thảy đều không so đo, người ta nói quư vị là ngu ngốc, chẳng hiểu chuyện! Vậy th́ làm như thế nào? Phải học theo Bồ Tát, thuở tại thế, Thích Ca Mâu Ni Phật có phân biệt, chấp trước hay không? Nếu Ngài chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước, cớ sao Ngài có thể giảng kinh, thuyết pháp? Ngài đă v́ chúng ta chế định các giới luật, đó có phải là chấp trước hay không, có phải là phân biệt hay không? Đúng vậy! Chẳng thể nói là Ngài không có phân biệt, không có chấp trước. V́ sao lại nói Ngài chẳng phân biệt, chẳng chấp trước? Thưa cùng chư vị, chư Phật, Bồ Tát thị hiện trên thế gian là ǵ? Du hư thần thông, chẳng thật! Các Ngài chấp trước là do tùy thuận sự chấp trước của chúng sanh mà chấp trước, tùy thuận sự phân biệt của chúng sanh mà phân biệt, như vậy th́ mới có thể ở chung với chúng sanh, đó gọi là “ḥa quang đồng trần”. Chúng sanh chấp trước “đây là một tờ giấy”, đức Phật cũng nói “đây là một tờ giấy”, như vậy là chúng ta có thể cư xử tốt đẹp với nhau. Nếu chúng sanh nói “đây là một tờ giấy”, đức Phật nói “ta không biết”, vậy th́ sao được? Không biết” vẫn là chấp trước, chẳng thể chung sống với nhau. Đấy gọi là ǵ? Tùy duyên, hằng thuận chúng sanh. Trong hằng thuận chúng sanh, có một điều rất cao minh, chẳng giống chúng ta, trong tâm các Ngài chẳng chấp trước. Đúng là giống như diễn tuồng, hết thảy động tác và ngôn ngữ đều đă viết cặn kẽ trong kịch bản, cứ chiếu theo đó để diễn, chẳng làm sai, là biểu diễn, chẳng phải là trong tâm của chính người ấy [có ư nghĩ làm như thế], chẳng phải là thật!

          V́ thế, Phật, Bồ Tát đến thị hiện trong thế gian này là để “diễn tuồng”, để biểu diễn, lũ phàm phu chúng ta thấy thứ ǵ cũng đều coi là thật, sai mất rồi! Thảy đều là giả, tuồng giả mà [chúng sanh] lại diễn thật, thật sự mừng, giận, buồn, vui, thật sự tham, sân, si, mạn, thật sự thị phi, nhân ngă, hỏng bét rồi, đấy là ǵ? Đă hoàn toàn trái nghịch Tự Tánh. Trong Tự Tánh chẳng có những thứ ấy, cớ sao quư vị lại sanh khởi những thứ ấy? Trong Tự Tánh, thân tâm không tịch. V́ thế biết thân là không tịch; đấy là khai ngộ, đại triệt đại ngộ, thân tâm thế giới đều trọn chẳng thể được. Hai câu “tri thân không tịch, ly quai tránh pháp” (biết thân không tịch, ĺa pháp chống trái) là cảnh giới của Pháp Thân Bồ Tát. Chúng tôi nói tương tự, hạ thấp mức độ xuống, hạ đến mức thấp nhất th́ cũng là cảnh giới của A La Hán, tuyệt đối chẳng phải là cảnh giới của chúng sanh trong lục đạo, tối thiểu là cảnh giới của A La Hán. Các Ngài thảy đều buông xuống y báo và chánh báo trong lục đạo, chẳng c̣n ghim trong ḷng, có thể vào lục đạo hay không? Có thể chứ! A La Hán vẫn có thể vào trong lục đạo. Chúng sanh trong lục đạo hữu duyên với Ngài, chúng sanh có cảm, A La Hán cũng có thể thị hiện. Đă thế, đúng là thị hiện cũng chẳng ít, nhưng bọn phàm phu mắt thịt chẳng nhận biết.

          Thế nhưng cảnh giới của A La Hán vẫn chẳng cao, bị mê khi cách ấm. Quyền Giáo Bồ Tát cũng bị mê khi cách ấm, nhưng điều này chẳng đáng sợ. Trong kinh điển, đức Thế Tôn đă dạy, Ngài nói chư Phật Như Lai, Pháp Thân đại sĩ thường chiếu cố các vị Quyền Tiểu Bồ Tát, [khiến cho] loại Bồ Tát này rất dễ đắc độ. V́ sao? Các vị ấy có căn cơ sâu dầy, đang mê, chúng ta thường nói là “nhất thời hồ đồ”, hễ tiếp xúc Chánh Pháp, sẽ lập tức quay đầu, chúng ta thường nói hạng người ấy là “căn tánh hết sức nhạy bén”. Đọc nhiều kinh luận, hơi được khế nhập, tự nhiên quư vị sẽ thông đạt, hiểu rơ chân tướng sự thật. Quư vị thấy học Phật hoặc không học Phật, dùng ư niệm, dùng tinh thần để khôi phục sự khỏe mạnh nơi thân tâm của chính ḿnh, những trường hợp giống như vậy quá nhiều, quư vị hiểu nó là chuyện như thế nào!

          Nói đến tôn giáo, mỗi tôn giáo đều nói đến chuyện “chữa bệnh”. Đức Phật chữa bệnh cho người khác. Quư vị thấy trong Tân Ước và Cựu Ước của Cơ Đốc giáo [chép chuyện] Gia Tô (Jesus) chữa bệnh cho người khác, Mục Hăn Mặc Đức (Mohamed) trị bệnh cho kẻ khác, Ma Tây (Moses) chữa bệnh cho người ta. Những chuyện ấy đều là thật, chẳng giả! Dùng tay sờ quư vị, chúng ta cảm thấy bệnh đă khỏi rồi. Chúng ta cảm thấy đó là chuyện thần kỳ, là gia tŕ, chẳng phải vậy! Chữa bệnh kiểu ấy, nay chúng ta gọi là “án ma” (按摩, xoa bóp, massage). Kinh mạch nào trong thân thể quư vị bị chướng ngại, chẳng thông suốt, họ giúp quư vị khôi phục, quư vị ngay lập tức b́nh phục. Người Hoa gọi là “thôi nă” (推拿, xoa nắn), hiện thời, thường gọi là “án ma”. Họ liễu giải quư vị, một mặt giúp quư vị khôi phục thân thể, mặt khác nhất định sẽ dạy quư vị biến đổi ư niệm. Nếu quư vị có ư niệm tốt đẹp, ư niệm b́nh thường, ư niệm khỏe mạnh, ư niệm vui sướng, sẽ rất dễ khôi phục. Những đạo lư ấy rất sâu, là thật, chẳng giả. C̣n có trường hợp dùng chú (phù chú) để chữa bệnh, cũng là thật, chẳng giả. Chuyện này so với massage hoặc xoa nắn c̣n cao minh hơn, dùng ǵ vậy? Dùng âm thanh. Âm thanh chấn động nội bộ của quư vị. Dùng thứ này để đả thông những chỗ bế tắc nơi kinh mạch trong thân thể của quư vị. Dùng âm thanh để chấn động nó, nó liền thông suốt, bệnh sẽ lành. Bất quá phát âm th́ nhất định phải chánh xác, âm thanh mới thấu tới huyệt đạo nào. Trong kinh Phật, có rất nhiều chú ngữ chữa bệnh, nay quư vị có niệm cũng chẳng linh, do nguyên nhân nào? Phát âm chẳng chánh xác. Từ truyện kư, chúng ta thấy vào đời Đường, có những vị đại đức Mật Tông dùng phương pháp ấy để chữa bệnh cho kẻ khác.

          Hữu hiệu nhất là chính ḿnh, căn bản nhất là ư niệm. Ngàn muôn phần chớ thấy người khác làm chuyện chẳng đúng pháp, làm chuyện bất thiện, sau khi trông thấy, chính ḿnh nẩy sanh phiền năo, tức tối; đó là điều đáng kiêng tránh nhất. Phàm là hạng người có tánh cách ấy, quư vị hăy chú tâm quan sát, [sẽ thấy] nhất định là thân thể người ấy chẳng khỏe mạnh, nhất định là lắm bệnh tật. Bệnh tật của kẻ ấy từ đâu mà ra? Chính kẻ ấy cũng chẳng biết, trên thực tế là như thế đó. Tại Đài Loan, có một bác sĩ bị ung thư tên là Lư Phong, tôi đă xem báo cáo của bà ta. Bà đă giác ngộ, cũng là khi bị bệnh bèn tự ḿnh nghiêm túc phản tỉnh, ngộ được. V́ thế, bà ta nói một câu: “Người khác làm chuyện bất thiện, tôi cần ǵ phải tức giận? Tức giận chính là trừng phạt chính ḿnh. Thấy kẻ khác làm quấy, tự ḿnh trừng phạt chính ḿnh. Đó là rất ngu si, đấy là sai lầm”. V́ thế, bà ta đề xuất, nhất định phải thấy hết thảy người và sự theo chánh diện, đừng nh́n theo phản diện, sẽ hữu ích rất lớn đối với sự khỏe mạnh của thân thể.

          Chúng ta tu học Phật pháp, chúng tôi thường nói, đức Phật đă dạy chúng ta: “Ngày nào cũng là ngày tốt, giờ nào cũng là giờ tốt”. Tôi ghép tiếp hai câu: “Người nào cũng là người tốt, chuyện nào cũng là chuyện tốt”. Đấy là chánh diện. Hoàn toàn dùng tâm thái chánh diện để nh́n hết thảy người, sự, vật; đấy là khỏe mạnh nhất, chẳng dễ ǵ sanh bệnh! Thấy cái này chẳng đúng, cái kia cũng chẳng đúng, phải quay đầu ngẫm xem chính ḿnh có bao nhiêu chuyện làm đúng! Trong tầm mắt của người sáng suốt, [nếu quư vị cứ nghĩ] “tôi thấy kẻ này chẳng đúng, kẻ nọ chẳng đúng, hằng ngày tức tối, chẳng phải là họ không đúng, mà là bản thân quư vị chẳng đúng. V́ sao? Quư vị đang trừng phạt chính ḿnh, có thể coi quư vị là đúng được hay chăng? Quư vị buộc chính ḿnh phải trả một cái giá nghiêm trọng, đấy là sẽ sanh bệnh, mắc bệnh tật. Quư vị phải đánh đổi bằng cái giá ấy, thảy đều là ngu si, chẳng liễu giải chân tướng sự thật. Quư vị đối đăi bằng chánh diện; thật vậy, chánh diện chẳng phải là giả thiết, xác thực là ai nấy đều là người tốt, mọi chuyện đều là chuyện tốt; đấy là ǵ? Kinh Phật nói là “cảnh chuyển theo tâm”, vấn đề là quư vị có thể chuyển được hay không? Quư vị chuyển được, chuyện xấu sẽ biến thành chuyện tốt, ác nhân biến thành thiện nhân, tùy thuộc quư vị có biết chuyển hay không. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nếu có thể chuyển cảnh, ắt giống Như Lai”. A! Đă hết thời gian rồi, chúng tôi nói tới chỗ này!

**

          Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Chúng ta xem tiếp bài kệ tụng thứ chín.

 

          (Kinh) Kiến đoan chánh nhân, đương nguyện chúng sanh, ư Phật, Bồ Tát, thường sanh tịnh tín.

          ()見端正人。當願眾生。於佛菩薩。常生淨信。

          (Kinh: Thấy người đoan chánh, nguyện cho chúng sanh, thường sanh tịnh tín nơi Phật, Bồ Tát).

 

          Kế đó là bài kệ thứ mười:

 

          (Kinh) Kiến xú lậu nhân, đương nguyện chúng sanh, ư bất thiện sự, bất sanh nhạo trước.

          ()醜陋人。當願眾生。於不善事。不生樂著。

          (Kinh: Thấy kẻ xấu xí, nguyện cho chúng sanh, chẳng sanh ưa đắm những chuyện bất hảo).

         

          Có thể gộp hai bài kệ này lại để cùng xem, đây là nói về tướng mạo của con người. Các thầy xem tướng thường nói: “Tướng chuyển theo tâm”. Xem tướng có thể biết hạng người ấy. V́ thế, đối với người thật sự có đức hạnh, có học vấn, sẽ chẳng có cách nào lừa gạt. V́ sao? Người ấy thấy tướng mạo, nghe âm thanh, nh́n vào động tác của quư vị, quư vị là hiền hay ngu, cát, hung, họa, phước vừa nh́n bèn biết ngay. Người thật sự cao minh chẳng hỏi câu nào, người ấy đă rơ ràng, biết rành rẽ. Thông thường, hạng người nào có công năng ấy? Đấy chẳng phải là “công năng đặc dị”. Nói thật thà, toàn là bản năng. Tâm địa thanh tịnh, tâm địa chân thành, tâm b́nh khí ḥa, nếu có thể tu dưỡng trong một thời gian dài như vậy, người ấy sẽ có năng lực đó. Do vậy, xác thực là tướng chuyển theo cái tâm.

          Đă là tướng chuyển theo tâm, v́ sao trong kinh giáo đức Phật đặc biệt nhấn mạnh chuyện tu phước? Trong kinh, đức Thế Tôn đă dạy chúng ta, Bồ Tát thành Phật, cũng là Bồ Tát đă phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, cũng là như chúng ta thường nói “khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước hoàn toàn buông xuống, hoàn toàn tương ứng với Tánh Đức”, đấy chính là “đắc đại viên măn. Nhưng trong lúc ấy, đức Phật đặc biệt nhấn mạnh, Bồ Tát dùng một trăm kiếp, thời gian này rất dài, tới một trăm kiếp; đương nhiên là chúng ta tin tưởng đức Phật thuyết pháp có khi dùng cách nói theo thông lệ nhằm biểu thị pháp. “Một trăm” chẳng phải là một con số thật sự, mà là để biểu thị sự viên măn. Hoa Nghiêm dùng Mười để biểu thị “viên măn”, “một trăm” để biểu thị đại viên măn. V́ vậy, chẳng thể xem nó như một con số. Viên măn có nghĩa là ǵ? Tu thành công, bộ kinh này dạy tu những ǵ? Tu ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo, trong ấy có nghĩa thú rất sâu! Nói thật ra, đức Phật dạy chúng ta tầm trọng yếu của giáo dục nhân quả, nhân lành được quả lành, do nhân ác quư vị sẽ đắc ác báo, đạo lư ở chỗ này. Nói theo kiểu như vậy th́ mới có thể nói suông sẻ, nói viên măn.

          Ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo là quả báo. “Kiến đoan chánh nhân” (Thấy người đoan chánh): Phật, Bồ Tát đoan chánh nhất. Trong kinh, đức Phật đă dạy chúng ta tu “không vọng ngữ”. Không vọng ngữ sẽ đạt được tướng lưỡi rộng dài. Đức Phật dạy: Ba đời chẳng nói dối, lưỡi có thể liếm đến chót mũi của chính ḿnh. Thích Ca Mâu Ni Phật đă v́ đại chúng biểu diễn, lưỡi Ngài thè ra có thể che lấp mặt, rút lại vẫn như người thường, rút vào trong miệng. Khi thè ra, lưỡi lại mỏng, có thể che cả mặt, nhằm bảo mọi người: Ngài đời đời kiếp kiếp chẳng nói dối! Mọi người trông thấy tướng ấy bèn tin tưởng. Mỗi loại tướng đều có nghiệp nhân, những điều này được chép trong Phật Học Từ Điển và Giáo Thừa Pháp Số. Trong bộ Tam Tạng Pháp Số cũng có, trong bộ sách chú giải kinh Kim Cang của cư sĩ Giang Vị Nông cũng nói rất tỉ mỉ, trích lục những điều được nói trong kinh luận.

          Ở đây, đức Phật chỉ dạy chúng ta một câu, “ư Phật, Bồ Tát, thường sanh tịnh tín” (thường sanh ḷng tin thanh tịnh đối với Phật, Bồ Tát), “tịnh” là ǵ? Chẳng hoài nghi. Đối với tấm ḷng, ngôn thuyết, cử chỉ, hành vi của Phật, Bồ Tát, phía sau tối thiểu có bốn thứ ấy, thường sanh ḷng tin thanh tịnh. Đă tin th́ đương nhiên là quư vị bèn học, cho nên mới có thể đạt được tướng đoan chánh. Học từ nơi đâu? Học từ giáo huấn của đức Phật. Đức Phật dạy chúng ta điều ǵ?

          1) Khoa mục thứ nhất là giới luật, mà căn bản của giới luật là Thập Thiện Nghiệp. Mười phương ba đời hết thảy chư Phật đều cùng học. Nói theo kiểu hiện thời, sẽ là môn học ắt phải tu tập, là bài học đầu tiên khi nhập Phật môn, tức Thập Thiện Nghiệp Đạo. Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo chẳng phải là để niệm, chẳng phải là để học thuộc ḷng, nó thuộc loại giới luật, phải làm được! Chẳng giết chóc, sẽ được quả báo khoẻ mạnh, sống lâu. Chẳng trộm cắp, sẽ được quả báo vinh hoa, phú quư. Quư vị tu cái nhân ấy, tự nhiên quả báo hiện tiền. Không dâm, sẽ được dung mạo đoan chánh. Giới luật đều nói về cái nhân, đừng nói là ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo hoàn toàn được gộp trong ấy, mà thậm chí Báo Thân của Phật, Bồ Tát như giáo pháp Đại Thừa đă nói, “thân có vô lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo”, thảy đều chẳng ĺa khỏi Thập Thiện Nghiệp. Viên măn Thập Thiện Nghiệp chính là sự tu hành viên măn rốt ráo của chư Phật Như Lai.

          Chúng ta thường thấy tượng Phật, đặc biệt là tượng vẽ, trên đầu tượng vẽ đức Phật luôn có một vầng viên quang. Trên viên quang có ba chữ, tôi nghĩ chư vị thường nh́n tượng Phật đều có thể trông thấy. Ba chữ ấy có khi dùng chữ Phạn để viết, có khi dùng chữ Tây Tạng để viết, có khi dùng tiếng Hán để viết. Lối chữ tuy khác nhau, nhưng phát âm như nhau, ba chữ “Án, A, Hồng” (Oṃ āḥ hūṃ, 唵阿吽). Ba chữ ấy có nghĩa là ǵ? Thập Thiện Nghiệp Đạo viên măn. Quư vị thấy đó, điều này cho thấy ngàn kinh vạn luận chẳng ĺa khỏi Thập Thiện Nghiệp Đạo. Đấy là cơ sở, là cương lănh, chúng ta học Phật chẳng thể không coi trọng. Nếu quư vị chẳng coi trọng, sai mất rồi! Học từ nơi đâu? Học từ ngay chỗ này! Nhưng lời này nói dễ dàng, làm thật khó, đặc biệt là trong xă hội hiện thời, mấy ai có thể làm được? Thường ôm ḷng đại từ bi, thương xót hết thảy chúng sanh, cứu giúp, che chở hết thảy chúng sanh, mấy ai có thể làm được? Chúng ta biết niệm, chúng ta biết nói, nhưng chẳng thể làm! Các đồng học tại gia chẳng làm được Thập Thiện Nghiệp, đồng học xuất gia chẳng làm được Sa Di Luật Nghi. V́ thế, [chúng ta nói chính ḿnh đang tu học] Phật pháp th́ là giả trất, chẳng thật! Thật sự học Phật là ǵ? Làm được Thập Thiện Nghiệp Đạo, sẽ là thật sự học Phật; làm được Sa Di Luật Nghi sẽ là thật sự xuất gia. V́ sao chẳng làm được? Chúng ta phải t́m, t́m cho ra nguyên nhân ở chỗ nào! Nguyên nhân chẳng ngoài từ thuở bé, chúng ta đă sơ sót giáo dục luân lư, đạo đức, nhân quả. Đấy là nỗi bi ai của người trong thời đại này!

          Kể như tuổi tôi đă tám mươi rồi, lúc bé tôi c̣n được dính dáng một chút ngoài ŕa. Lúc sáu, bảy tuổi, ở nông thôn c̣n có trường tư thục; khi tám, chín tuổi đă chẳng có, tư thục đổi thành trường học ngắn hạn, gọi là “Tiểu Học ngắn hạn”, học hai năm đă tốt nghiệp. Thông thường, Tiểu Học chánh quy là sáu năm, Tiểu Học [ngắn hạn] trong làng quê tại nông thôn là hai năm. Chẳng dạy giáo dục truyền thống, sách giáo khoa của chương tŕnh ngắn hạn dạy điều ǵ? Con cún kêu, con mèo bé nhảy, dạy những thứ ấy. “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện” chẳng dạy, nhưng tư thục th́ dạy. V́ thế, vào lúc sáu, bảy tuổi, tôi c̣n được tiếp nhận một tí giáo dục tư thục, mấy tháng, chẳng lâu! Sau đó, sửa đổi hết. Từ đấy trở đi, khi đó, tuy nói là quốc gia thống nhất, thật ra, các thế lực quân phiệt tồn tại, cho nên xă hội chẳng an định. Kế đó, người Nhật Bản phát động chiến tranh chống Trung Hoa, là một cuộc chiến tranh xâm lược, trong tám năm đă khiến cho toàn thể xă hội của chúng ta bị động loạn nháo nhào. Sau đó là chiến tranh Quốc Cộng, măi cho đến hiện thời, chẳng có cách nào khôi phục. V́ thế, luân lư là ǵ? Đạo đức là ǵ? Nhân quả là ǵ? Hiện thời, mọi người đều không biết! Nh́n lại phong khí xă hội, gần như đa số mọi người khởi tâm động niệm đều là v́ ḷng ích kỷ, đều là tổn người, lợi ḿnh. V́ thế, lễ của Nho gia chẳng có! Chẳng có lễ, Nho liền đoạn. Chẳng có giới, Phật liền đoạn!

          Hiện nay, tại Trung Hoa, Phật pháp chỉ có h́nh thức, chẳng có thực chất! Điều này rất đáng đau xót. V́ thế, trong những năm qua, chúng tôi mới toàn tâm toàn lực đề xướng Đệ Tử Quy, v́ sao? Vun quén căn cội! Từ chỗ này, chúng ta hăy nghĩ đức Thế Tôn đă giáo huấn trong kinh giáo: “Chẳng trước học Tiểu Thừa, sau học Đại Thừa, sẽ chẳng phải là đệ tử Phật!” Chúng ta hiểu Tiểu Thừa là căn cội. Phật giáo Trung Hoa từ cuối đời Đường trở đi, chẳng học Tiểu Thừa, do nguyên nhân nào? Trung Hoa có Nho và Đạo, dùng Nho và Đạo để thay thế Tiểu Thừa rất hay! V́ thế, thành tựu, nhập Đại Thừa chẳng có vấn đề ǵ! Nhưng hiện thời chúng ta Nho cũng chẳng có, Đạo cũng chẳng có, Tiểu Thừa cũng chẳng có, trực tiếp nhập Đại Thừa, kết quả là không thành ra giống ǵ, biến thành hữu danh vô thực. Chúng ta chớ nên không biết chân tướng sự thật này! Sau khi đă liễu giải, đă t́m được cái gốc bệnh, chúng ta học từ căn bản, học từ Nho. Nho học ǵ? Học Đệ Tử Quy, quyết định phải làm được một trăm mười ba chuyện trong Đệ Tử Quy, thực hiện [những điều ấy] một trăm phần trăm, rồi lại học Thập Thiện Nghiệp th́ sẽ chẳng khó. Đệ Tử Quy là căn bản, Thập Thiện Nghiệp nẩy mầm từ căn bản ấy. Phật pháp là sư đạo, Đệ Tử Quy là hiếu đạo, sư đạo nhất định kiến lập trên cơ sở hiếu đạo. Chẳng có hiếu đạo, sẽ chẳng có sư đạo. Đấy là đạo lư nhất định, chúng ta chớ nên không biết, chớ nên không nghiêm túc thực hiện.

          Nay quư vị hăy suy nghĩ, bất luận tại gia hay xuất gia, chúng ta học Phật chẳng mong đọa ác đạo; nếu quư vị chẳng học cẩn thận hai môn ấy, [mong] chẳng đọa ác đạo khó lắm! Đă có cơ sở là hai thứ ấy, tiến cao hơn là Tam Quy Ngũ Giới, quư vị mới nắm chắc niệm Phật văng sanh. V́ sao? Quư vị mở hết thảy kinh luận ra xem, đức Phật luôn nói “thiện nam tử, thiện nữ nhân, thiện tri thức”. Cái thiện”y có điều kiện, tuyệt đối chẳng phải là chúng ta thọ Tam Quy Ngũ Giới theo h́nh thức th́ sẽ là đệ tử Phật môn. Người thế gian thừa nhận quư vị, Phật, Bồ Tát chẳng thừa nhận. Phải làm như thế nào để được Phật, Bồ Tát thừa nhận? Ta làm được giáo huấn của Phật, Bồ Tát, “ư Phật, Bồ Tát, thường sanh tịnh tín” (thường sanh ḷng tin thanh tịnh đối với Phật, Bồ Tát), như vậy th́ Phật, Bồ Tát mới thừa nhận quư vị là đệ tử Phật.

          Quư vị thấy thọ Tam Quy th́ Tam Quy có ba điều. Điều thứ nhất là quy y Phật, giác chứ không mê. Nay quư vị vẫn mê mà bất giác, vậy là không được. Điều thứ hai là quy y Pháp, chánh chứ không tà. Nay quư vị vẫn tà chứ chẳng chánh. Điều thứ ba là quy y Tăng, tịnh chứ chẳng nhiễm. Nay quư vị vẫn là nhiễm chứ không tịnh. Quư vị chẳng quay đầu, chẳng quy y. Trong tập sách Tam Quy Truyền Thọ, trong đĩa CD, trong tập sách nhỏ ấy, chúng tôi đă giảng rất rơ ràng, rất minh bạch, quư vị có nhớ hay không? Có làm theo hay không? Chẳng làm được th́ là giả trất, chẳng thật! V́ thế, bảo là đệ tử Phật thật sự hay đệ tử Phật giả vờ, chẳng cần hỏi ai khác, chính ḿnh biết rành mạch, biết rơ ràng! Đệ tử Phật thật sự chắc chắn sẽ làm được Thập Thiện viên măn, chẳng sát sanh, chẳng trộm cắp, tại gia th́ chẳng tà dâm, xuất gia chẳng dâm dục, chẳng nói dối, chẳng nói đôi chiều, chẳng nói lời thô ác, chẳng nói thêu dệt, chẳng tham, chẳng sân, chẳng si, khẳng định làm được. Đấy là đệ tử Phật, là điều kiện thứ nhất để nhập Phật môn. Chẳng đầy đủ điều kiện này, sẽ chẳng thể nhập Phật môn.

          Trọn đủ Thập Thiện, Tam Quy, Ngũ Giới, tướng mạo của quư vị tự nhiên đoan chánh. Nếu lại có thể thường suy tưởng giáo huấn của Phật, Bồ Tát, tụng kinh, niệm Phật. Đức Thế Tôn, chư Phật Như Lai đă giới thiệu cho chúng ta, chúng ta sanh nhằm thời Mạt Pháp, các Ngài giới thiệu kinh điển của pháp môn Tịnh Tông, khuyên dạy chúng ta niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Sanh về Tây Phương Cực Lạc, tướng hảo sẽ đoan chánh chẳng khác đức Phật. Đấy là pháp môn thù thắng khôn sánh. Trong những pháp môn khác, chẳng có cách nói này! Nói cách khác, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ làm Phật. Ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo là báo đắc (報得, đạt được do quả báo), chẳng cần phải tu, đến thế giới Cực Lạc bèn do quả báo mà đạt được, trong bốn mươi tám nguyện đă có nói. Bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật, nguyện nào cũng đều được thực hiện, chẳng có nguyện nào hư rỗng. V́ thế, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới toàn bộ đều được thực hiện; đấy là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn!

          V́ thế, nay chúng ta là người thật sự triệt để giác ngộ, phải toàn tâm toàn lực vận dụng vào chuyện cầu sanh Tịnh Độ. Đối với chuyện thế gian, giúp đỡ chúng sanh khổ nạn, hăy tùy duyên, đừng phan duyên, có phải làm hay không? Có duyên th́ phải làm; chẳng có duyên, chớ nên bới chuyện ra để làm. V́ sao? Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới rồi trở lại giáo hóa chúng sanh sẽ chẳng trễ, thả chiếc bè Từ, rộng độ chúng sanh. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, ta c̣n chưa thành tựu, tâm từ bi rất thiết tha, thấy chúng sanh đáng thương, hy vọng sẽ ngay lập tức trở về độ chúng sanh, có được hay không? Được chứ! Chẳng có năng lực, chẳng có trí huệ th́ làm thế nào? A Di Đà Phật gia tŕ quư vị, quư vị có thể thừa nguyện tái lai. Nếu lúc nào chính quư vị làm chuyện sai quấy, Phật sẽ đến giúp quư vị, giúp đỡ quư vị sửa đổi. Bản thân quư vị chịu tiếp nhận lời khuyến cáo của kẻ khác, có thể tiếp nhận ư kiến của kẻ khác, chẳng cự tuyệt, chẳng bài xích, đấy là ǵ? Bậc tái lai. “Tái lai” là chính ḿnh chẳng chứng đắc quả vị Bồ Tát, đặc biệt là người từ thế giới Cực Lạc trở về, do thật sự được Phật tiếp dẫn, Phật quang rưới gội, sức gia tŕ thật sự to lớn!

          Trong bài kệ kế đó, “kiến xú lậu nhân” (thấy người xấu xí). Xấu xí là quả báo của nghiệp bất thiện. Chư vị xem Địa Ngục Biến Tướng Đồ sẽ hiểu rơ. Bản thân chúng ta hy vọng chính ḿnh dung mạo đoan chánh, trang nghiêm tốt đẹp, chẳng ưa thích bị xấu xí. Chuyện này chẳng do trời cao quyết định, cũng chẳng do vua Diêm La quyết định, mà là do nghiệp lực biến hiện. Thiện nghiệp, tự nhiên tướng mạo đoan trang. Tâm hạnh chẳng lành, tự nhiên tướng mạo biến thành xấu xí, bị biến đổi. Tôi từng thấy có kẻ khi trẻ tuổi tướng mạo hết sức đẹp đẽ, trang nghiêm, nhưng đến tuổi trung niên, tướng mạo hết sức xấu xí. Người ấy lấy ra ảnh chụp lúc mười mấy tuổi, hai mươi tuổi và ảnh chụp khi ba mươi tuổi, hoàn toàn là hai người khác, biến hóa to lớn ngần ấy! Đấy là ǵ? Lúc c̣n trẻ th́ thiện lương, thuận theo độ tuổi, tập khí phiền năo tham, sân, si, mạn nghiêm trọng, tướng mạo biến đổi. C̣n có những người khi trẻ tướng mạo xấu xí, sau khi đă bốn, năm mươi tuổi, tướng mạo chuyển thành tốt đẹp, đều là người học Phật, niệm Phật tu hành. Thuở trẻ chẳng học Phật, tập khí phiền năo rất nặng; sau khi học Phật, thật sự dụng công nỗ lực, tâm địa mỗi năm một thiện lương hơn, mỗi năm một từ bi hơn, tướng mạo chân thành, thanh tịnh, từ bi bèn hiển lộ, chứng tỏ “tướng chuyển theo tâm” như cổ nhân đă dạy chẳng sai tí nào!

          Sau khi chúng ta học Phật, hiểu những đạo lư do đức Phật đă giảng, bèn chú tâm quan sát cẩn thận trong cuộc sống hằng ngày, [sẽ nhận thấy] tướng mạo của mỗi người biến hóa trong từng sát-na. Quư vị thấy khi kẻ ấy hoan hỷ, tướng mạo của kẻ ấy từ ái, dễ thân thiết. Đến khi kẻ ấy bực bội, khi nổi cáu, tướng mạo sẽ rất khó coi. Chú tâm quan sát, [sẽ thấy] trong một ngày từ sáng đến tối, tướng mạo luôn biến đổi. Nếu chúng ta hiểu đạo lư này, biết chân tướng sự thật này, vĩnh viễn ǵn giữ tâm b́nh khí ḥa, vĩnh viễn ǵn giữ thanh tịnh, từ bi, gương mặt quư vị thường hiện tướng từ bi, từ ái, dễ thân thiết, khiến cho hết thảy chúng sanh hễ trông thấy [chúng ta] đều sanh tâm hoan hỷ. Nếu quư vị là một kẻ có tập khí tham, sân, si, mạn hết sức nghiêm trọng, thời thời khắc khắc trong tâm cứ lo được, lo mất, diện mạo của quư vị sẽ chẳng dễ coi, trong kinh Phật gọi là “xú lậu tướng” (tướng xấu xí).

          Bồ Tát trông thấy hạng người ấy, lập tức dẫn phát hoằng nguyện, “ư bất thiện sự, bất sanh nhạo trước” (chẳng sanh yêu thích, đắm chấp những chuyện bất thiện), “nhạo” () là yêu thích, “trước” () là chấp trước. Câu này rất khẩn yếu! Nếu tướng mạo của chúng ta không tốt, thể chất không tốt, tướng mạo và thể chất liên quan chặt chẽ với ư niệm, cho nên muốn bảo tŕ tướng hảo của chúng ta, tốt nhất là thường tương ứng với Bồ Đề tâm. Bồ Đề tâm là chân tâm, chân tâm là ǵ? Tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm chánh giác, tâm từ bi, thường giữ cái tâm ấy, tướng mạo không tốt sẽ biến thành đoan trang. Nếu chúng ta giữ tấm ḷng hoàn toàn tương phản với những cái tâm trên đây, trái nghịch Tự Tánh, hư ngụy, phản diện của chân thành là hư ngụy, qua lại với kẻ khác toàn là hư t́nh giả ư; nhiễm ô, tức là bị nhuốm bẩn bởi ích kỷ, tham, sân, si, mạn, bất b́nh, trong bất b́nh có kiêu căng, ngă mạn, ghen tỵ, luôn sanh ḷng bất b́nh, ngu si, chẳng có tâm lợi ích chúng sanh, mà là ích kỷ, hoàn toàn trái nghịch Tánh Đức, tướng mạo làm sao tốt đẹp cho được? Thân thể làm sao tốt đẹp cho được? Nếu c̣n có tướng mạo kha khá, c̣n có thể chất rất tốt, đó là do dư phước đă tu từ đời quá khứ, đă tu đại phước trong đời quá khứ, đời này hồ đồ, mê hoặc, tuy làm rất nhiều chuyện sai quấy, ôm ḷng bất lương, nhưng do dư báo c̣n sót lại, [cho nên tướng mạo c̣n đẹp đẽ như thế], cũng cần phải hiểu sự thật này!

          V́ thế, kẻ thật sự chẳng có đức hạnh, chẳng có tu tŕ, xác thực là rất khó phân biệt rốt cuộc thứ ǵ là thật, thứ ǵ là giả. Liễu Phàm Tứ Huấn đă nói tám thứ, tức là nói tướng thiện ác [có tám loại thiện], chân thiện, giả thiện, đại thiện, tiểu thiện, bán thiện (điều thiện chưa viên măn), măn thiện (điều thiện tṛn đầy), thiên thiện (điều thiện lệch lạc), viên thiện (điều thiện viên dung), nói rất nhiều. Nếu chúng ta coi Liễu Phàm Tứ Huấn như một môn công khóa để thực hiện, tôi nhớ là trong quá khứ, tại Mă Lai, đă thâu thành hai đĩa CD, tức là trong hai tiếng đồng hồ đă diễn xuất Liễu Phàm Tứ Huấn. Đối với bài giảng dài hai tiếng đồng hồ ấy, mỗi ngày xem một lần, coi nó như công khóa để thực hiện, quư vị có thể coi trọn một năm, mỗi ngày xem một lần hai tiếng đồng hồ, giáo dục nhân quả sẽ thực hiện được!

          Hai bài kệ này nói về nhân quả; v́ thế, đối với hết thảy thiện sự, quư vị sẽ hết sức hoan hỷ thực hiện; đối với hết thảy chuyện bất thiện, quư vị sẽ chẳng làm. Quư vị có thể dùng tâm thái rất b́nh lặng để nh́n. “Bất sanh nhạo trước”: Chẳng yêu thích, chẳng chấp trước, mà cũng chẳng sanh phiền năo, như vậy th́ mới có thể buông xuống thất t́nh, ngũ dục. Thất t́nh là mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, ham muốn. Coi nhạt nhẽo thất t́nh, buông xuống ngũ dục (ngũ dục là tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê), quư vị mới thật sự có thể khôi phục “chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi”. Nếu trong tâm c̣n có những thứ táp nham xen tạp trong ấy, sẽ rất khó tu học. C̣n ǵ nữa? Tập khí hễ gặp duyên sẽ dấy lên hiện hành, chính ḿnh chẳng thể khống chế được. Thường là có kẻ nói ta tự ḿnh biết lỗi, nhưng chẳng khống chế được, đó là do nguyên nhân nào? Tập khí quá nặng! Vậy th́ làm như thế nào? Càng thêm gắng sức đổ công tu hành! Công phu tu hành của quư vị chẳng đủ, thời gian chẳng đủ, công lực chẳng đủ, chẳng sao cả, quư vị phải nỗ lực, tăng thêm thời gian tu hành, tăng thêm sức mạnh. Sau đấy, tự nhiên sẽ dần dần có thể khắc phục chính ḿnh. Người có thể khắc phục chính ḿnh, sẽ có thể thành thánh, thành hiền, có thể thành Phật, làm Tổ. Khắc phục tập khí phiền năo của chính ḿnh, điều này quan trọng hơn bất cứ ǵ khác.

          Do vậy, ở đây đức Phật đă chỉ dạy chúng ta, chuyện này rơ rệt nhất, tu thiện và làm ác, chính là nói “thiện có thiện báo, ác có ác báo”. Tuy lúc này, quả báo vẫn chưa rơ rệt cho lắm, v́ đây là c̣n đang tu nhân, quả báo ở phía sau. [Quả báo chín] sớm th́ trong tuổi văn niên, chậm th́ quyết định là đời sau. Sớm hay trễ có mối quan hệ chặt chẽ với tu vi (sự tu tŕ) trong đời quá khứ. Muốn trong một đời này tu hành có kết quả, vậy th́ chẳng thể một ngày không nghe kinh, chẳng thể một ngày không niệm Phật, quư vị mới có thể giữ được, đấy là chánh diện. Phản diện th́ quư vị phải biết xa ĺa hết thảy các thứ bất thiện. Thứ ǵ là bất thiện, quư vị có biết hay không? Hiện thời, nội dung của TV bất thiện, như vậy th́ đừng nên xem. Những điều đăng tải trong báo chí, tạp chí có những tin bất thiện, quư vị xem xong sẽ sanh phiền năo, chẳng cần phải xem! Radio, ca múa, hư kịch, điện ảnh, những tiết mục văn nghệ được nói trong hiện thời, nội dung đại đa số đều là bất thiện. Đối với những thứ bất thiện, nếu quư vị có thể cự tuyệt, chẳng sanh yêu thích, đắm chấp th́ các điều thiện do quư vị đă tu mới có thể đắc lực. Nếu quư vị chẳng thể cự tuyệt những thứ ấy, hằng ngày c̣n tiếp cận, sự tu hành của quư vị sẽ khó khăn lắm. Cũng có thể nói là đại đa số, công phu tu hành của người xuất gia và tại gia v́ sao chẳng đắc lực? Do đă xen tạp quá nhiều thứ trong ấy!

          Quư vị thấy đối với pháp môn Niệm Phật, Đại Thế Chí Bồ Tát đă dạy chúng ta phải niệm như thế nào? “Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế” (Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối). Chiếu theo phương pháp ấy để niệm, quả báo sẽ là “bất giả phương tiện, tự đắc tâm khai” (chẳng nhờ vào phương tiện, tâm tự mở mang). “Tâm khai” chính là đại triệt đại ngộ. “Đô nhiếp lục căn” (Nhiếp trọn sáu căn): Nay chúng ta chẳng thâu hồi sáu căn được! Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ư rong ruổi bên ngoài, mắt bị mê bởi sắc, tai bị mê bởi tiếng, mũi bị mê bởi hương, lưỡi bị mê bởi vị, quư vị thấy sáu căn đều mê nơi sáu trần, chẳng thâu hồi được. Công phu chẳng đắc lực, dụng công như thế nào đi nữa vẫn đều chẳng có cách nào, do chẳng thâu hồi lục căn được! V́ thế, quư vị phải biết thâu hồi cái tâm. Thâu hồi cái tâm là ta cự tuyệt, từ nay trở đi, ngoài sách thánh hiền và kinh điển Phật giáo ra, [những thứ khác] ta thảy đều không xem, chẳng tham gia những tṛ thù tạc thông thường, v́ sao? Đều là nhiễm ô. Chẳng có chuyện ǵ, chẳng cần ra đường. Trên đường phố, những ǵ quư vị trông thấy, không có thứ ǵ là thiện sự, chẳng có thứ ǵ là thanh tịnh. V́ thế, phải biết nhiếp trọn sáu căn, quư vị phải biết điều này; sau đấy mới là tịnh niệm. Tịnh niệm là ǵ? Niệm là niệm Phật, [“tịnh niệm” là] dùng cái tâm thanh tịnh để niệm Phật. Thanh tịnh là ǵ? Chẳng có hoài nghi, chẳng có xen tạp, đấy mới là Tịnh. “Tương tục” (相續) là ǵ? Chẳng gián đoạn. Lẽ nào chẳng thành công!

          Đối với hai câu này của Đại Thế Chí Bồ Tát, Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát đă nói chín chữ “chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp, chẳng gián đoạn”. Đấy là bí quyết để niệm Phật. Bản thân quư vị phải biết xem TV là xen tạp, xem báo chí là xen tạp, trong cuộc sống hằng ngày, hễ có điều ǵ chẳng cẩn thận th́ toàn là xen tạp, phá hỏng “tịnh niệm tương kế” (tịnh niệm liên tục) của quư vị, tuy quư vị niệm Phật, chẳng phải là tịnh niệm, mà là tạp niệm, quư vị làm sao đắc lực cho được? Làm sao quư vị có thể thành tựu cho được? Đạo lư ở ngay chỗ này. V́ thế, thời thời khắc khắc đề cao cảnh giác, đoạn hết thảy ác, tu hết thảy thiện. Hiện thời, tu hết thảy các điều thiện, trừ giáo huấn của thánh hiền và kinh giáo ra, gần như đều rất khó t́m thấy thứ ǵ là thiện! Chớ nên không biết điều này, chẳng thể không chú ư, chẳng thể không cẩn thận!

Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh

Phẩm thứ mười một

Tịnh Hạnh Phẩm

Phần 41 hết

 

         



[1] Do phần này lời Sớ quá cô đọng, mà Ḥa Thượng chỉ giảng lướt qua, không giảng về Tử và Thủ Uẩn, hoàn toàn không nhắc đến phần Sao, chúng tôi mạn phép trích dẫn ở đây để làm tài liệu tham khảo.

[2] Ở đây, Ḥa Thượng lược đi một đoạn trong lời Sớ, chúng tôi dựa theo Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao quyển 23 để sao lục nguyên văn lời Sớ và lời Sao.

[3] Tùy Miên (Anuśaya) là cách dịch khác của chữ Sử, hay nói đầy đủ là Sử phiền năo. Tùy Miên nhằm nói tới những phiền năo hiện hành, ẩn nấp trong nội tâm, nhưng có thể tạo ảnh hưởng sâu đậm đến cách nghĩ, cách nh́n, cách làm của mỗi cá nhân. Tùy Miên có nghĩa là phiền năo ấy theo sát từng khởi tâm động niệm như bóng theo h́nh (Tùy); nó vi tế, khó biết nên gọi là Miên (ngủ yên). Nói thông thường cho dễ hiểu, Tùy Miên gồm mười món (Thập Sử), chứ nếu nói chi tiết, sẽ thành hai mươi loại khác nhau như trong Hiển Dương Thánh Giáo Luận đă phân tích.

[4] Lân Hư là gần với hư không”, v́ nếu chia nhỏ hơn, sẽ chẳng c̣n ǵ nữa.