Đại Phương Quảng
Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần
41
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh
Không
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy
tháng Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ
tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ
Trang và Minh Tiến
Tập 1543
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười
một, phần Sở Ngộ Nhân Vật (所遇人物, những
nhân vật gặp gỡ) trong tiểu đoạn thứ
ba thuộc đoạn lớn thứ sáu của phần kệ
tụng. Chúng ta xem từ bài kệ thứ sáu:
(Kinh)
Kiến khổ năo nhân,
đương nguyện chúng sanh, hoạch Căn Bản
Trí, diệt trừ chúng khổ.
(經)見苦惱人。當願眾生。獲根本智。滅除眾苦。
(Kinh: Thấy kẻ khổ
năo, nguyện cho chúng sanh, đắc Căn Bản Trí, diệt
trừ các khổ).
Thanh Lương đại
sư chú giải bài kệ này khá dài, có Sớ và Sao. Chúng ta
xem trước những điều được nói trong
phần Sớ.
(Sớ) Lục vân.
(疏)六云。
(Sớ: Điều thứ sáu
là nói).
Đây là những điều được nói trong bài kệ thứ
sáu.
(Sớ) Hoạch Căn Bản
Trí diệt chúng khổ giả, nhược đắc Kiến
Đạo Vô Phân Biệt Căn Bản Trí, tắc đoạn
ác đạo nghiệp vô minh cố. Tam đồ nhược
diệt, tắc tam khổ, bát khổ diệc giai tùy diệt,
Tử cập Thủ Uẩn, trực chí Kim Cang hậu Căn
Bản Trí, tắc năng vĩnh đoạn.
(Sao) Tam khổ, bát khổ diệc
giai trừ diệt giả, do tam đồ khổ diệt,
cố sanh, lăo, bệnh, khổ diệc diệt. Do đoạn thử Hoặc,
bất tạo Thập Ác nghiệp, cố vô Oán Tắng
Hội khổ. Do đoạn phân biệt dục tham, cố vô Cầu Bất Đắc khổ cập Ái Biệt Ly khổ. Tùng thử duy hữu Tử
cập Thủ Uẩn, chí Kim Cang vô gián đạo Căn Bản
Trí, đoạn bỉ nhị khổ. Tuy hữu lậu thiện
pháp, thử thời do tại Hành Khổ sở tùy, do bị
thắng trí chiếu đồng Pháp Tánh, ư giải thoát
đạo bất đăi trạch diệt, nhậm vận
khí xả,
công quy vô gián. Thượng ước pháp tướng thuyết,
thủ chánh thể vô phân biệt trí danh vi Căn Bản,
dĩ vọng gia hạnh đắc danh. Tuy thông chư vị,
nhi Kiến Đạo, Kim Cang nhị xứ tối hiển,
cố lược cử chi. Hựu hữu ước Pháp Tánh, dĩ Bổn Giác vi Căn
Bản Trí. Dĩ dữ Thỉ Giác vi căn bản cố.
Thử duy ước giải thoát đạo chứng lư thời
dữ căn bản minh hợp, năi danh hoạch đắc
Bổn Giác căn bản.
Tùng thử, vĩnh vô Tử cập Thủ Uẩn, tuy đoạn
Hoặc chứng Lư lập nhị đạo danh nhiên, đồng
nhất sát-na hoạch trí diệc nhĩ. Thị cố vô gián
đạo đoạn kiến tu nhị chướng chủng
thời , tức thị giải thoát đạo thời
đoạn dă[1].
(疏)獲根本智滅眾苦者,若得見道無分別根本智,則斷惡道業無明故。三途若滅,則三苦八苦亦皆隨滅,死及取蘊,直至金剛後根本智,則能永斷。
(鈔)三苦八苦亦皆除滅者︰由三塗苦滅,故生老病苦亦滅.由斷此惑,不造十惡業.故無怨憎會苦。由斷分別欲貪,故無求不得苦及愛別離苦.從此唯有死及取蘊.至金剛無間道根本智斷彼二苦.雖有漏善法,此時猶在行苦所隨.由被勝智照同法性.於解脫道不待擇滅.任運棄捨功歸無間。上約法相說.取正體無分別智名為根本.以望加行得名.雖通諸位,而見道金剛二處最顯,故略舉之。又有約法性,以本覺為根本智.以與始覺為根本故.此唯約解脫道證理時與根本冥合,乃名獲得本覺根本.從此永無死及取蘊。雖斷惑證理立二道名然.同一剎那獲智亦爾.是故無間道斷見修二障種時,即是解脫道時斷也。
(Sớ: “Đạt được
Căn Bản Trí, diệt các nỗi khổ”: Nếu đạt
được Kiến Đạo Vô Phân Biệt Căn Bản
Trí, sẽ đoạn vô minh nơi các nghiệp của ác
đạo. Nếu diệt tam đồ, th́ ba khổ, tám
khổ cũng sẽ diệt theo. Tử và Thủ Uẩn
th́ cho đến sau khi đă đắc Căn Bản Trí
nơi địa vị Kim Cang sẽ có thể vĩnh viễn
đoạn trừ.
Sao: “Ba khổ, tám khổ
cũng sẽ diệt trừ”: Do nỗi khổ trong tam
đồ đă diệt, cho nên nỗi khổ sanh, lăo, bệnh
cũng diệt. Do đă đoạn món Hoặc (phiền
năo) ấy, chẳng tạo nghiệp Thập Ác. V́ thế,
không có nỗi khổ chán ghét mà cứ phải gặp gỡ.
Do đoạn trừ phân biệt, dục, tham, cho nên chẳng
có nỗi khổ v́ mong cầu chẳng đạt
được và yêu thương phải chia ĺa. Từ
đấy, chỉ có Tử và Thủ Uẩn [trong Ngũ Uẩn].
Khi đạt được Căn Bản Trí vô gián đạo
nơi địa vị Kim Cang, sẽ đoạn hai thứ
khổ ấy (Tử và Thủ Uẩn). Tuy là thiện pháp hữu
lậu, lúc ấy, vẫn c̣n thuận theo Hành Khổ. Do được
trí thù thắng ấy chiếu soi
cùng với Pháp Tánh, đối với đạo giải thoát chẳng
cần phải chọn lựa, tùy ư buông bỏ, mà công đức
đều là chẳng gián đoạn. Trên đây là nói theo
phương diện pháp tướng, coi chánh thể vô phân
biệt trí là căn bản. Do đối ứng với các
gia hạnh, nên có tên [như thế]. Tuy đều liên
quan đến các địa vị, nhưng hai nơi Kiến
Đạo và Kim Cang rơ rệt nhất; v́ thế,
nêu đại lược [hai địa vị ấy]. Lại
c̣n dựa theo Pháp Tánh [để luận định], do lấy
Bổn Giác làm Căn Bản Trí, lấy Thỉ Giác làm
căn bản. Đấy chỉ là xét theo Lư khi sự
chứng Lư nơi đạo giải thoát ngầm
hợp với căn bản, bèn có cái tên
là Bổn Giác căn bản. Từ đấy, vĩnh viễn
chẳng c̣n có Tử và Thủ Uẩn nữa. Tuy lập ra
tên gọi của hai đường là đoạn Hoặc
và chứng Lư, nhưng cũng giống hệt như cái trí đạt được trong một sát-na. V́
thế, khi vô gián đạo đoạn trừ chủng
tử của hai thứ chướng nơi Kiến và Tu, chính
là sự đoạn trừ khi đạt đến đạo giải
thoát đạo vậy).
Chúng ta xem đoạn này.
Trong xă hội hiện thời, “kẻ
khổ năo” rất nhiều, chẳng thấy mấy ai thật
sự hoan lạc! Đôi khi chúng ta cũng trông thấy, [nhưng những
kẻ] ta thấy hoan hỷ đều là miễn cưỡng
làm ra vẻ hoan lạc trước công chúng, chứ sau lưng, vẫn là y
như cũ, khổ chẳng thể nói nổi! Có thể
nói là trong xă hội hiện thời, trong thế gian hiện
thời, chúng sanh chỉ có khổ, lấy đâu ra lạc!
Đức Phật dạy
chúng ta, những điều ấy đều là chân tướng
sự thật. Có bốn chuyện chẳng thể giữ
vững được, bốn chuyện ǵ vậy?
1) Thứ nhất, phải hiểu “thường tất vô thường” ([cái ǵ tưởng là] thường, ắt sẽ vô thường). Chúng ta luôn nghĩ là [thứ
ǵ đó] có thể trường cửu, trọn chẳng biết
pháp thế gian là vô thường, biến hóa trong từng sát-na,
chẳng có thứ ǵ có thể tồn tại lâu dài trong thế
gian. Chớ nên không biết chân tướng sự thật này!
Liễu giải chân tướng sự thật th́ gọi
là “giác ngộ”. Chẳng hiểu
rơ chân tướng sẽ là mê hoặc. Bậc giác ngộ được
gọi là Phật, Bồ Tát; kẻ mê hoặc th́ là phàm phu. Phật,
Bồ Tát chẳng khác ǵ mọi người, nhưng một
đằng th́ giác ngộ, một đằng th́ mê hoặc,
chớ nên không biết điều này! Chúng ta muốn làm kẻ
hồ đồ, hay muốn làm bậc giác ngộ? Kẻ
mê hoặc suốt đời chần chừ, cẩu thả,
luống uổng một đời. Bậc giác ngộ biết
nắm chắc thời gian, tăng tấn linh tánh của
chính ḿnh. Điều này quan trọng! V́ sao? Phàm là vật chất,
sẽ chẳng tránh khỏi sanh diệt. Có sanh th́ sẽ có
diệt; đấy là vô thường. Linh tánh chẳng phải
là vật chất; v́ thế, thân có sanh diệt, linh tánh chẳng
có sanh diệt.
Linh tánh là ǵ? Trong kinh Lăng
Nghiêm, đức Phật đă dạy rất rơ ràng: Nơi
cái thân của chúng ta, mắt có thể thấy, tai có thể
nghe, mũi có thể ngửi, lưỡi có thể nếm,
thân có thể đụng chạm, ư có thể biết,
căn tánh của sáu căn [có thể nói gọn lại
thành] “thấy, nghe, hay, biết”.
“Thấy, nghe, hay, biết” chẳng phải là vật chất, bởi lẽ, thân thể vật chất có sanh diệt, c̣n nó (kiến,
văn, giác, tri) chẳng phải là vật chất, [v́ thế],
nó chẳng có sanh diệt. Đoạn kinh văn Mười
Phen Hiển Lộ Cái Thấy (Thập Phiên Hiển Kiến, 十番顯見) trong kinh Lăng Nghiêm rất dài. Thuở ấy, vua
Ba Tư Nặc nghe đức Phật giảng những
đạo lư ấy, nhà vua đă nghe hiểu; do nghe hiểu, hết sức vui
vẻ. V́ sao? Không c̣n tham sống sợ chết
nữa! Biết điều ǵ? Thân có sanh tử, linh tánh chẳng
có sanh tử. Do vậy, người thông minh, người
giác ngộ chẳng coi trọng thân thể, mà coi trọng
linh tánh. Linh tánh [được biểu hiện] rơ rệt
nhất là trí huệ. Chư vị phải biết trí huệ
và thông minh khác nhau, chớ nên lẫn lộn chúng với nhau. Chúng hơi tương tự, nhưng thực chất
hoàn toàn bất đồng.
Ở đây nói đến
Căn Bản Trí, Căn Bản Trí là ǵ? Quư vị hăy xem bậc
đắc Căn Bản Trí. Trước hết, chúng ta phải
liễu giải Căn Bản Trí là ǵ? Kinh Bát Nhă đă nói rất
hay: “Bát Nhă vô tri, không ǵ chẳng
biết”. “Vô tri” là Căn
Bản Trí, “không ǵ chẳng biết”
là Hậu Đắc Trí, tức là Căn Bản Trí khởi
tác dụng. Khi nó khởi tác dụng, sẽ là “không ǵ chẳng biết”. Khi
chẳng khởi tác dụng, sẽ là vô tri. Nói theo kiểu
như vậy mà mọi người vẫn [cảm thấy] chẳng dễ hiểu, chúng tôi lại nói minh bạch hơn một
chút. Nhà Phật nói đến Định Huệ, chư vị
khá quen thuộc điều này. Thiền Định và trí huệ,
Thiền Định là Căn Bản Trí, trí huệ là Hậu
Đắc Trí. Quư vị thấy Phật pháp dạy chúng ta,
“do Giới đắc Định, do Định khai Huệ”, trí huệ
do đâu mà có? Trí huệ do Định mà có. Kinh Kim Cang
đă nói rất hay: “Tín tâm thanh
tịnh, ắt sanh Thật Tướng”. Thật Tướng
chính là Căn Bản Trí đang được nói ở đây. V́ thế, thưa cùng chư vị, Căn Bản
Trí là tâm thanh tịnh, mọi người dễ hiểu
điều này. Tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm chân
thành, vế trên trong câu đối do chúng tôi đă viết là
“chân thành, thanh tịnh, b́nh
đẳng”, đấy là Căn Bản Trí.
Nếu tâm quư vị thật
sự trở về “chân thành,
thanh tịnh, b́nh đẳng”, đấy là những thứ
bản thân quư vị vốn sẵn có, là chân tâm của quư vị.
Hiện thời,
cái tâm của quư vị chẳng thật, là vọng
tâm, chẳng chân thành, v́ sao? Chân thành là vĩnh hằng bất
biến, đấy là chân thành. Chẳng thấy điều ấy trong cái tâm hiện
thời của chúng ta, cái tâm của
chúng ta trong hiện tại là ǵ? Chính là tâm vọng tưởng,
tâm phân biệt, tâm chấp trước, quư vị hăy ngẫm
xem có đúng hay không? Chúng ta dấy lên ư niệm ấy, bèn
có phân biệt, chấp trước. Phân biệt, chấp
trước là vọng tâm, chẳng phải là chân tâm. Khi vọng
tâm khởi tác dụng, sẽ là tạo nghiệp. Nghiệp
có thiện nghiệp và ác nghiệp; tạo thiện nghiệp
th́ quả báo là ba thiện đạo, tức thiên đạo,
nhân đạo, A Tu La trong cơi trời và A Tu La trong cơi người
đều được coi là thiện báo. Tạo ác nghiệp,
quả báo là trong địa ngục, trong súc sanh, trong ngạ
quỷ, đấy là ác báo. Có sự luân hồi trong lục
đạo hay không? Có chứ, do đâu mà có? Do vọng tâm tạo
ra. Kinh Hoa Nghiêm dạy “duy thức
sở biến”, “thức” là vọng tâm, tức là chân tâm dấy
lên vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, chân
tâm biến thành vọng tâm. Chuyện này rất khó giảng
giải; v́ thế, hễ nghe nói cũng rất khó hiểu,
thường là khi nghe, sẽ hiểu sai ư nghĩa.
Chân tâm có thể thật sự biến thành vọng tâm hay không? Nếu
chân tâm có thể biến thành vọng tâm, cái “chân
tâm” ấy sẽ chẳng thật, cũng là vọng! Chân tâm tuyệt
đối chẳng thể biến thành vọng tâm. Vọng
tâm do đâu mà có? Vọng tâm là hư vọng, về căn
bản là chẳng có, quư vị có hiểu lời này hay
không? Vốn chẳng có, hiện tại vẫn chẳng có,
nó triệt để hư vọng, nhưng như thế
nào? Nó dựa vào chân tâm để dấy lên. Chân tâm chẳng
có ư niệm, trong giáo pháp Đại Thừa đă giảng
điều này rất nhiều: Chân tâm ly niệm, chẳng
có ư niệm, tức “chẳng khởi
tâm, không động niệm” là chân tâm. Chúng ta có [chân tâm]
hay không? Có chứ! Quư vị sáng sớm thức dậy, mở
mắt ra, vẫn chưa có khởi tâm động niệm. Thử
hỏi, mở banh mắt, quư vị có thấy những thứ
bên ngoài hay không? Thấy chứ! Có phân biệt hay không? Ư niệm
phân biệt chưa dấy lên, có chấp trước hay
không? Ư niệm chấp trước cũng chẳng dấy
lên. Thời gian [tồn tại sự thấy biết không phân
biệt, không chấp trước ấy] rất ngắn, một
niệm ấy sẽ hoàn toàn chẳng khác chư Phật, Bồ
Tát. Nếu quư vị có thể ǵn giữ như vậy, quư vị đă
thành Phật. Quư vị chẳng thể giữ được, v́
sao? Cảnh giới hơi có một tí động tĩnh, quư
vị lập tức khởi tâm động niệm. Khởi
tâm động niệm là vô minh, đấy là vọng tâm dấy
khởi, ngay lập tức bèn phân biệt, bèn chấp
trước. V́ thế, trong cuộc sống hằng ngày của quư vị, ai nắm quyền, ai làm chủ? Vọng tâm nắm
quyền, vọng tâm làm chủ, quư vị hằng ngày đều
tạo nghiệp.
Cổ nhân có một tỷ dụ
rất hay, chân tâm giống như ǵ? Giống như một
tấm gương, chúng ta thường thấy vật này.
Sáng tối mỗi ngày đều phải soi gương.
Người dụng tâm như gương th́ gọi là Phật.
Quư vị thấy gương soi mọi vật có soi rành rẽ
hay không? Rành rẽ! Gương có khởi tâm động niệm
hay không? Chẳng có! Nó có phân biệt hay không? Chẳng có! Nó
có chấp trước hay không? Chẳng có, [thế mà] chẳng
có thứ ǵ không [chiếu soi] rơ ràng! Chúng ta sáng sớm soi
gương một lần, buổi tối soi gương một
lần, người học Phật phải nghĩ “ta phải dụng tâm như gương, chẳng có thứ ǵ
là không rơ ràng, không rành rẽ, nhưng chắc chắn là chẳng
có khởi tâm động niệm, chẳng có phân biệt, [chẳng
có] chấp trước”, quư vị bèn thành Phật.
Khởi tâm động niệm,
đấy là điều khó nhất! Vẫn c̣n khởi tâm động niệm,
chẳng có cách nào không khởi tâm, chẳng động niệm, nhưng hễ có thể chẳng phân biệt, chẳng
chấp trước, hay lắm, quư vị là Bồ Tát. Bồ Tát có khởi
tâm động niệm, nhưng chẳng phân biệt, chẳng
chấp trước. Phân biệt cũng chẳng dễ đoạn,
ta vẫn có phân biệt, nhưng ta có thể chẳng chấp
trước. Vậy th́ cũng là khá lắm, đó là A La Hán.
A La Hán vượt thoát lục đạo luân hồi. V́ thế,
lục đạo luân hồi do đâu mà có? Chính v́ ba thứ
ấy, tức khởi tâm động niệm, phân biệt,
và chấp trước, mà biến ra vọng tướng
(妄相,
tướng hư vọng) ấy. Vĩnh Gia đại sư đă
nói rất hay: “Trong mộng rành
rành chia sáu nẻo, giác rồi ba cơi rỗng toang hoang”. Lời này nói hay lắm, lục đạo luân hồi
là nằm mộng. Nói cách khác, nay chúng ta vẫn khởi tâm
động niệm, phân biệt, chấp trước, chúng
ta đang nằm mơ một giấc mộng lớn, chưa
tỉnh giấc! Sau khi tỉnh giấc, sáu căn tiếp
xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài mà chẳng khởi
tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, không chấp
trước, [đấy là] đại giác! Có thể chẳng
chấp trước hết thảy, đấy là tiểu
giác, là A La Hán. Lại có thể chẳng phân biệt, đấy
là trung giác, tức Bồ Tát; Phật là đại giác, giác chứ
không mê. Không chỉ là Thích Ca Mâu Ni Phật, mà mười
phương hết thảy chư Phật Như Lai đều
dạy chúng ta điều ǵ? Dạy điều này! Ngàn kinh muôn luận
chẳng ĺa chuyện này, giúp chúng ta quay đầu. Quay
đầu từ chỗ nào? Quay đầu từ mê hoặc,
điên đảo th́ sẽ giác ngộ, “giác chứ không mê” chính là Phật, Bồ Tát.
Chân tâm của chúng ta là Bổn
Giác, chân tâm của chúng ta là Căn Bản Trí. Nói cách khác, chỉ
cần quư vị từ hư vọng trở về chân thật,
nỗi khổ ǵ quư vị cũng đều chẳng có. Nỗi khổ
ǵ cũng đều chẳng có, đấy chính là “diệt trừ chúng khổ”
(diệt trừ các nỗi khổ). Chúng ta bỏ hai chữ
Trừ và Chúng đi, đọc chữ đầu và chữ
cuối thôi, sẽ là “diệt khổ”
[được nói đến] trong kinh văn, “hoạch Căn Bản Trí, diệt
trừ chúng khổ” (đạt được Căn Bản
Trí, diệt trừ các nỗi khổ). Sự diệt khổ
có một danh từ tiếng Phạn là Niết Bàn, thưa
cùng chư vị, Niết Bàn có nghĩa là ǵ? Niết Bàn là “diệt
khổ”. Diệt khổ có nhiều cấp
bậc; do vậy, Niết Bàn cũng có rất nhiều cách
nói. Trong giáo pháp Đại Thừa, được nhắc
đến nhiều nhất là bốn loại. Loại thứ nhất là Tánh Tịnh
Niết Bàn, đó là ǵ? Tự Tánh vốn thanh tịnh, Tự
Tánh vốn tịch diệt. Do vậy, trong Tự Tánh chẳng
có khổ.
Tự Tánh Niết Bàn b́nh
đẳng, hết thảy chúng sanh ai nấy đều
có. Tuy ai nấy đều có, hiện thời quư vị chẳng
thể chứng đắc. V́ sao chẳng thể chứng
đắc? Chính là như trong kinh Hoa Nghiêm đă nói, “chỉ v́ vọng tưởng, chấp
trước mà chẳng thể chứng đắc”. V́
thế, đây là nói theo Lư, hết thảy chúng sanh và chư
Phật, Bồ Tát chẳng khác ǵ nhau, các Ngài có Tánh Tịnh
Niết Bàn, ta cũng có Tánh Tịnh Niết Bàn. Nhưng Tánh
Tịnh Niết Bàn của các Ngài khởi tác dụng, các
Ngài đă chứng đắc, Tánh Tịnh Niết Bàn biến
thành cuộc sống, biến thành công việc, biến thành
xử sự, đăi người tiếp vật trong hiện
tiền của các Ngài, đấy chính là “đắc đại tự tại”. Tuy chúng ta
có, nay chúng ta xử sự, kẻ nắm quyền là vọng
tâm, là phiền năo. V́ thế, cái tương phản của
Niết Bàn là phiền năo.
Khởi tâm động niệm
là Vô Minh phiền năo, phân biệt là Trần Sa phiền năo, chấp
trước là Kiến Tư phiền năo. Đấy đều
là các danh từ thuật ngữ Phật giáo; v́ thế, cái
tương phản [của chúng] là Tánh Tịnh Niết Bàn.
Trong ba loại đại phiền năo ấy, nếu trừ
được một loại, trừ khử Kiến
Tư phiền năo trước, sẽ là Chánh Giác. Chúng ta nói là tiểu giác ngộ, tức tiểu
giác; tiểu giác là Chánh Giác. V́ sao gọi là Chánh? Nhân gian
cũng có rất nhiều người thông minh, giống như
các khoa học gia và triết gia trong hiện thời đối
với vũ trụ, hiện thời gọi là vũ trụ
vĩ mô (Macrocosm) và vũ trụ vi mô (Microcosm), đích xác là
họ cũng biết không ít, đấy cũng gọi là Giác,
nhưng chẳng gọi là Chánh. V́ sao chẳng gọi là Chánh? Họ chẳng đoạn Kiến
Tư phiền năo. Đoạn Kiến Tư phiền năo, Kiến
Tư phiền năo là chấp trước, họ chưa
đoạn chấp trước. Nếu hoàn toàn chẳng có
chấp trước th́ sẽ là Chánh Giác. Nếu đoạn
Trần Sa phiền năo, tức là [đoạn trừ] phân biệt,
đối với hết thảy các pháp đều chẳng
phân biệt, quả vị do họ chứng đắc sẽ
được gọi là Chánh Đẳng Chánh Giác, chúng ta gọi họ
là “giác ngộ bậc trung”. A
La Hán là tiểu giác, c̣n Chánh Đẳng Chánh Giác là giác ngộ
bậc trung. Nếu khởi tâm động niệm đều
đoạn, sẽ là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác. Phật pháp tu và cầu chuyện này. Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác là Phật, là Như Lai.
Lời chú giải nói “trực chí Kim Cang hậu Căn Bản Trí” (cho đến sau khi đă đắc Căn Bản
Trí nơi địa vị Kim Cang), Kim Cang Hậu Căn Bản
Trí là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, v́ cho đến
khi ấy, sẽ vĩnh viễn đoạn sanh tử, thật
sự chẳng có [sanh tử]. Nhưng đạt được
Vô Phân Biệt Trí nơi địa vị Kiến Đạo
như trong phần trước [đă nói] th́ chính là sự chứng
đắc của A La Hán. Trong sở chứng của A La Hán và Bồ
Tát, chẳng có Phần Đoạn sanh tử (tức là
sanh tử trong lục đạo luân hồi). Trong mười
pháp giới c̣n có Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, và Phật,
do các Ngài vẫn có khổ, nên dùng một chữ Tử
để biểu thị, tức là nhằm biểu thị
sự khổ, chẳng phải là thật sự có sanh tử! [Nỗi khổ] ấy được gọi là Biến
Dịch Sanh Tử. Sự sanh tử trong lục đạo
được gọi là Phần Đoạn sanh tử, [bởi lẽ], quư vị thấy [chúng sanh sanh tử trong lục đạo] từng đời một. Một người sống trong thế
giới này vài chục năm rồi chết, đấy là một
giai đoạn, [cho nên sự sanh tử ấy được
gọi là] Phần Đoạn sanh tử. Từ A La Hán trở
lên, sẽ chẳng có hiện tượng sanh tử ấy,
nhưng trong lục đạo th́ có, ngoài lục đạo
sẽ chẳng có, ngoài lục đạo được gọi
là Biến Dịch. Biến Dịch là chuyện như thế
nào? Giống như chúng ta đi học lên lớp. Chúng ta học
lớp Một, các môn học trong năm học ấy
[đạt điểm] khá lắm, học xong lớp Một,
sang năm sẽ lên lớp Hai, tức là lớp Hai
được “sanh” ra, lớp
Một đă “chết”. Lại
lên thêm một lớp, lớp Ba được “sanh” ra, lớp Hai “chết” đi. Đấy gọi
là Biến Dịch Sanh Tử, chẳng phải là Phần
Đoạn, mà là Biến Dịch (變易, thay
đổi); tức là công phu tu học của quư vị
không ngừng nâng cao hơn. Chúng ta biết, theo giáo pháp Đại
Thừa, kinh Hoa Nghiêm nói Bồ Tát có năm mươi mốt
giai cấp, tăng lên cao hơn từng cấp bậc một,
đấy là Biến Dịch. Chúng ta sanh tử từng giai
đoạn một trong thế gian này th́ gọi là Phần
Đoạn (分段). Do đó, nhà Phật nói đến hai loại sanh tử.
[Đă chứng
đắc] Kiến Đạo Vô Phân Biệt Căn Bản
Trí như trong phần trước, sẽ chẳng có sanh tử
trong lục đạo, đă thoát ly lục đạo luân
hồi, nhưng trên đó c̣n có Biến Dịch Sanh Tử. Nói
theo kinh Hoa Nghiêm trong giáo pháp Đại Thừa, chúng ta biết
Kiến Đạo Vô Phân Biệt Trí thuộc về Thất
Tín trong các địa vị của Thập Tín. Nếu
đạt đến Thất Tín, sẽ vượt thoát lục
đạo luân hồi. Thất Tín, Bát Tín, Cửu Tín, cho
đến Thập Tín
th́ có Biến Dịch Sanh Tử. Biến
Dịch Sanh Tử rất rơ rệt! Đạt đến
mức “phá một phẩm vô
minh, chứng một phần Pháp Thân”, thưa cùng chư
vị, đấy mới thật sự là Kiến Đạo.
Thật sự Kiến Đạo, sẽ thoát ly mười
pháp giới, chẳng c̣n có loại Biến Dịch Sanh Tử
rơ rệt như thế nữa! Trong Nhất Chân pháp giới,
hăy c̣n có Biến Dịch Sanh Tử rất vi tế, nó có bốn
mươi hai cấp bậc, tức là Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng
Giác, và Diệu Giác, hăy c̣n có bốn mươi hai địa
vị ấy. Trong những phần trước, chúng tôi
đă nói rất tỉ mỉ. Biến Dịch Sanh Tử [trong
Nhất Chân pháp giới] chẳng giống Biến Dịch
Sanh Tử trong tứ thánh pháp giới. Biến Dịch Sanh
Tử trong tứ thánh pháp giới thô tháp, rất rơ rệt,
nó gây trở ngại sự, nhưng bốn mươi hai tầng
cấp trong Nhất Chân pháp giới sẽ chẳng trở
ngại sự. Hơn nữa, người trong mười
pháp giới như bọn chúng ta nh́n vào họ (những vị
trụ trong Nhất Chân pháp giới), sẽ hoàn toàn chẳng
nh́n ra. Chúng ta thấy họ thảy đều b́nh đẳng,
chắc chắn là quư vị chẳng phân biệt được! Vậy
th́ v́ sao có bốn mươi hai [địa vị]? Đức Phật đă dạy: Những người
ấy c̣n đèo theo tập khí vô thỉ vô minh chưa đoạn.
Do đèo theo tập khí nhiều hay ít, mà chia thành bốn
mươi hai đẳng cấp. Tập khí ấy chẳng
trở ngại sự, nhưng họ hăy c̣n có tập khí!
Do đó, có đồng học
hỏi tôi: “Kinh Hoa Nghiêm nói bốn mươi mốt địa
vị Pháp Thân đại sĩ, rốt cuộc bốn
mươi mốt giai cấp ấy là có thật hay không?”
Câu trả lời của tôi là “chẳng thể bảo là
có, mà cũng chẳng thể nói là không có”. Nếu quư vị
bảo là có, thật sự chẳng t́m thấy dấu vết.
Nếu quư vị bảo là không có, xác thực là tập khí dầy
hay mỏng khác nhau, nhưng chắc chắn là chẳng trở
ngại bản thân họ tu hành, chẳng trở ngại họ ứng tích thị
hiện, chẳng trở ngại tí nào. Chúng ta chớ nên
không biết điều này!
Hiểu rơ những đạo
lư ấy, chúng ta nói đến bốn loại Niết Bàn,
[loại đầu tiên là] Tánh Tịnh Niết Bàn. Tánh Tịnh
là vốn sẵn có, tức là như trong giáo pháp Đại Thừa
đă nói “hết thảy chúng sanh
đều có Phật Tánh”. Phật Tánh là ǵ? “Thấy, nghe, hay, biết” muỗi,
kiến đều có, cổ thánh tiên hiền nói là “bổn thiện”: “Nhân chi sơ, tánh
bổn thiện”. Chúng là cùng một chuyện, nhưng
nhà Phật nói tỉ mỉ, c̣n tổ tiên chúng ta nói
mơ hồ, nhưng xác thực là cùng một chuyện. V́
thế, khi Phật pháp truyền đến Trung Hoa, người
Hoa hoàn toàn tiếp nhận, kết hợp [Phật pháp] với
truyền thống văn hóa, thành tựu lẫn nhau. Những
điều cổ thánh tiên hiền đă nói là cương
lănh, c̣n giáo pháp Đại Thừa dạy chi tiết, càng
giúp nhau được tỏ lộ rơ rệt hơn.
Ba loại [Niết Bàn] sau
đó là nói kèm thêm:
- Loại thứ hai gọi là Hữu
Dư Y Niết Bàn. Hữu Dư Y (有餘依) là ǵ? Chứng
đắc Niết Bàn trong hiện thời, xác thực là
quư vị đă chứng đắc trong đời này. Sau
khi đă chứng đắc, thân thể vẫn c̣n, người
chưa chết. V́ thế, chư vị phải hiểu, chứng
Niết Bàn là chứng trong khi c̣n sống. Hiện thời,
rất nhiều người nẩy sanh hiểu lầm, ngỡ
Niết Bàn là đă chết; đấy là sai lầm, sai lầm
đặc biệt to tát! Niết Bàn được chứng
đắc trong hiện tiền, đă chứng đắc
mà quư vị vẫn c̣n thân thể, th́ gọi là Hữu
Dư Y Niết Bàn.
- Nếu thọ mạng đă đến,
chẳng cần thân thể này nữa, sẽ gọi là Vô Dư Y Niết
Bàn. Đấy là loại thứ ba.
- Loại cuối cùng được
gọi là Vô Trụ Niết Bàn. Vô Trụ là ǵ? Phật, Bồ
Tát thị hiện trong thế gian, chúng sanh có cảm, các
Ngài liền ứng, giống như ba mươi hai ứng
thân của Quán Thế Âm Bồ Tát được nói trong phẩm
Phổ Môn, đáng nên dùng thân ǵ để đắc độ
bèn hiện thân ấy. V́ thế, các Ngài đến ứng
hóa, chẳng phải là cái thân nghiệp báo. Thân ấy
được gọi là “chẳng
trụ sanh tử, chẳng trụ Niết Bàn”; v́ thế,
nó được gọi là Vô Trụ Niết Bàn. Đấy
là chuyên nói đến thân ứng hóa của chư Phật,
Bồ Tát.
Nói thật ra, Vô Trụ Niết
Bàn và Hữu Dư Y Niết Bàn là một chuyện. Hữu
Dư Y là chỉ nói theo [khía cạnh] Niết Bàn, c̣n Vô Trụ
là [nói theo phương
diện] Bồ Tát giáo hóa chúng sanh, nói theo tâm
đại từ bi. Ư nghĩa sai khác ở ngay chỗ này.
Chúng ta mong thật sự ĺa
khổ được vui, kinh này đă nói hết sức rơ
rệt. Khi nào chúng ta sẽ đắc Căn Bản Trí? Quư
vị thấy Thanh Lương đại sư bảo “đoạn ác đạo vô minh”.
“Ác đạo” là ba ác đạo. “Ác đạo vô minh”: Vô minh là mê hoặc, chính là
tham, sân, si được nói trong giáo pháp Đại Thừa,
điều này mọi người dễ hiểu. “Ác đạo nghiệp vô minh”
là ngu si trong tham, sân, si. Đoạn hết ngu si th́ gọi
là “Vô Phân Biệt Căn Bản
Trí hiện tiền”. Chư vị phải biết, v́ sao
người ta tham? V́ sao nóng giận? Do ngu si. Do đó, đối
với Tam Độc tham, sân, si, Si là cội
rễ. Nếu kẻ ấy chẳng si, sẽ chẳng
tham. Nếu chẳng si, sẽ chẳng nóng giận, trí huệ
sẽ hiện tiền. Trí huệ do đâu mà có? Trí huệ
do Định mà có. Quư vị thấy chúng thảy đều có mối quan hệ liên đới. Chẳng tham, chẳng
sân là Định, Định có thể sanh ra Huệ, ba món ấy
có mối quan hệ liên đới. Tham là đối với
thuận cảnh, sân là đối với nghịch cảnh.
Do đó, đức Phật
bảo bốn loại ấy chẳng thể tồn tại
lâu dài, chúng ta phải nhận thức rơ ràng, chúng chẳng
thể giữ măi được!
1) Thứ nhất, phải hiểu
thế gian vô thường, chúng ta phải dấy lên cái tâm
cảnh giác, chắc chắn chẳng có thứ
ǵ tồn tại lâu dài. Hoàn cảnh ở đây khá quá, rất
tốt, chúng ta rất mong định
cư ở chỗ này, có được hay không? Chẳng
thể giữ lâu dài. Nói không chừng, do nhân duyên ǵ đó,
quư vị lại phải dọn nhà. Tôi thể nghiệm câu
này sâu đậm nhất; từ bé, đúng là chẳng có nhà
để về, đến chỗ nào cũng đều
mong ở yên, nhưng ở chẳng bao lâu lại bị ép
buộc, nhất định phải rời khỏi. Nay mới
thật sự hiểu rơ, biết hết thảy các pháp
đều vô thường, bất luận ở nơi
đâu cũng đều giống như ở trong quán trọ,
chẳng tham luyến, chẳng yêu thích, mà cũng chẳng chán
ghét. Đến thế giới này ở tám mươi
năm, nếu mạng dài hơn, sống thêm hai mươi năm nữa
th́ là một trăm năm, vẫn là một cái khảy ngón
tay!
2) Điều thứ hai,
đức Phật dạy chúng ta, “phú quư tất định bần cùng” (phú quư nhất
định sẽ bần cùng), kẻ b́nh phàm chẳng hiểu
đạo lư này. V́ sao phú quư nhất định sẽ bần
cùng? Phú quư do đâu mà có? Chính là do lúc bần cùng tích lũy
công đức nên đạt được quả báo; khi
hưởng phước bèn quên gieo phước. V́ thế,
hưởng hết phước, lại trở về bần
cùng, vĩnh viễn tuần hoàn! Bần cùng biến thành phú
quư, phú quư biến thành bần cùng, vĩnh viễn tuần
hoàn. Đấy là tướng luân hồi, quư vị thấy
rơ ràng sẽ rất thú vị. V́ thế, kẻ thật sự
thông minh và giác ngộ sẽ tích lũy công đức. Hễ
đạt được phước báo to lớn, họ
chẳng hưởng thụ, vẫn sống cuộc đời
b́nh phàm, tuyệt thay! Đấy là trí huệ chân thật.
Do vậy, đời đời phú quư chẳng suy.
Trong Văn Sao, Ấn Quang
đại sư [cho biết] Ngài bội phục nhất ba
người, tức là ba nhân vật trong lịch sử Trung
Hoa. Người thứ nhất là Khổng lăo phu tử. Quư
vị thấy măi cho đến hiện thời, Khổng
gia chẳng suy. Nghe nói [người nào đó] là hậu
đại của Khổng Tử, không ai chẳng tôn trọng
[người ấy]. Tổ tông tích đức to lớn, chẳng
hưởng phước. Vị thứ hai là Phạm Trọng
Yêm, là một vị Tể Tướng đời Tống.
Cho đến hiện thời, gần như là một ngàn
năm, trong một ngàn năm, gia đạo [họ Phạm]
chẳng suy, đời nào trong gia đ́nh cũng đều
xuất hiện nhân tài. Hễ nhắc tới nhà họ Phạm
ở Tô Châu, chẳng có ai không tôn kính. Vị thứ ba là Diệp
trạng nguyên vào những năm đầu đời
Thanh. Vị này tôi không hiểu rơ cho lắm, [gia tộc của
ông ta] măi cho đến những năm cuối đời
Thanh, suốt ba trăm năm chẳng suy. Từ lịch sử
Trung Hoa, đă trông thấy ba trường hợp ấy. V́
sao người ta có thể làm được, mà những kẻ
b́nh phàm chẳng làm được? Ba vị ấy là giác chứ
không mê, gia phong của họ đời đời
tương truyền. Hiện thời, chúng ta thấy tiên
sinh Viên Liễu Phàm, trong Tứ Huấn của tiên sinh Liễu
Phàm đă nói cả rồi. Nếu con cháu trong nhà nhiều
đời nhiều kiếp đều tuân thủ bốn
thiên giáo huấn ấy, làm theo, gia tộc của ông ta sẽ ngàn đời, muôn đời đều chẳng
suy. Thật đấy, chẳng giả đâu! V́ thế,
phú quư phải biết tu phước. Phú quư mà chẳng biết
tu phước, chỉ tham cầu hưởng thụ, chẳng
biết tu phước, chắc chắn sẽ chẳng lâu
dài, phú quư nhất định sẽ bần cùng.
3) Thứ ba là “hội hợp nhất định
biệt ly”, nhà Phật nói “ái
biệt ly khổ”. Dẫu thân ái cách mấy, vợ chồng,
cha con, bạn bè nhất định phải biệt ly, sanh ly tử
biệt. Sau khi đă chết, chẳng thể nào lại ở
cùng một chỗ, v́ sao? Nghiệp của mỗi người
khác nhau. Bản thân quư vị chẳng có công phu, sẽ phải
theo nghiệp chịu khổ trong lục đạo. Mỗi
người tạo nghiệp khác nhau, làm sao có thể ở
cùng một chỗ cho được? [Để] thật sự
có thể vĩnh viễn ở cùng một chỗ, chỉ
có một phương pháp: Niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ. Trong đời này, mọi người đều
rất nghiêm túc niệm Phật, dựa theo lư luận và
phương pháp trong kinh điển để học tập,
sanh về Tây Phương Tịnh Độ, thọ mạng
đều là vô lượng, là vô lượng thật sự,
chẳng phải là giả vô lượng! Thật sự là
vô lượng thọ, khi ấy mới có thể vĩnh viễn
ở cùng một chỗ. Nếu chẳng thể văng sanh thế
giới Cực Lạc, hễ hội hợp trong lục đạo, nhất
định sẽ biệt ly.
4) Thứ tư là “thân thể khỏe mạnh nhất
định có già, chết”.
Đức Phật nói bốn
chuyện ấy, quư vị nhất định phải biết,
biết như thế nào? Phải thừa dịp lúc thân thể
khỏe mạnh bèn thật sự phát phẫn dụng công, đến
khi già [mới dụng công] sẽ chẳng kịp. Lúc già,
tinh thần lẫn thể lực đều vô dụng, muốn
dụng công cũng chẳng được. V́ thế, nhất
định phải nắm lấy [cơ hội] hiện
thời thân thể c̣n khỏe mạnh, lúc trí nhớ c̣n khá,
hăy nghiêm túc thực hiện. Nếu thân thể c̣n đủ sức, trí nhớ đă suy yếu, niệm kinh chẳng nhớ
nổi, không sao cả, cứ thật thà niệm, cung kính niệm,
chẳng cần phải ghi nhớ. B́nh thường là một
câu Phật hiệu chẳng gián đoạn th́ được
rồi. Đức Phật dạy chúng ta bốn chuyện ấy,
chúng ta ắt phải hiểu rơ, phải thời thời khắc
khắc đề cao cảnh giác.
Do vậy, trong cuộc sống
hằng ngày, chúng ta xử sự, đăi người tiếp
vật, bất luận là thiện duyên hay ác duyên, là thuận cảnh hay nghịch cảnh, phải
dùng cái tâm b́nh thường để đối đăi, chớ
nên có phân biệt, chớ nên có chấp trước. Ĺa phân
biệt, ĺa chấp trước th́ mới là tâm b́nh thường.
Tâm b́nh thường tiếp cận chân tâm, chớ nên phân biệt,
so đo. Người có lầm lỗi, cổ nhân nói rất
hay: “Nhân phi thánh hiền, thục
năng vô quá” (Con người chẳng phải là thánh hiền, ai có thể chẳng phạm
lỗi). T́m chẳng ra kẻ nào không có một tí lầm
lỗi! V́ thế, cổ nhân dạy chúng ta: Thấy lầm
lỗi của người khác, hăy lập tức xét lại
chính ḿnh, ta có [lỗi lầm] ấy hay không? Hễ
có bèn sửa; nếu không th́ càng thêm nỗ lực. Đó là
người thật sự tu hành, thật sự biết dụng
công. Thường thấy lỗi của kẻ khác, ghim lỗi
lầm của kẻ khác trong ḷng, hoàn toàn chẳng biết
lỗi lầm của chính ḿnh, hạng người ấy rất đáng thương! Ghi nhớ lầm lỗi
của người khác là tạo nghiệp, biến
lương tâm, hảo tâm của chính ḿnh thành thùng đựng
rác của kẻ khác, quư vị chẳng sai lầm hay sao? Ghim lỗi của người khác trong tâm chính ḿnh, [tức
là] trong cái tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng của
chính ḿnh bị chứa một đống to đùng rác
rưởi của kẻ khác, người như vậy rất
ư là nhiều! V́ thế, hăy thường xuyên phản tỉnh
chính ḿnh có [chứa lỗi người
khác trong tâm ḿnh] hay không? Nếu
chính ḿnh đúng là như thế đó, hăy ngay lập tức
sửa đổi.
Cái tâm của chính ḿnh phải
chứa đựng giáo huấn tốt đẹp nhất của cổ thánh tiên hiền, phải chứa thiện
pháp của hết thảy chúng sanh, trọn chẳng để
cho mảy may bất thiện xen tạp vào đó, đấy
là đúng! Có thể tu như vậy, sẽ tiêu nghiệp
chướng mau chóng. Nghiệp chướng đă tiêu trừ,
hiện tượng ấy sẽ lập tức tỏ lộ
rất rơ rệt: Thân thể quư vị khỏe mạnh, tuổi
tác tuy cao, nhưng quư vị vẫn chẳng già cả. V́ sao?
Mỗi khí quan, mỗi tế bào của quư vị đều
có thể giữ ǵn b́nh thường, b́nh thường là khỏe
mạnh nhất. Trong cuộc sống hằng ngày, giữ được sự “thay cũ, đổi mới” tốt đẹp, [tức là] tế bào cũ chết đi, tế bào mới
trưởng thành. Tế bào mới thay thế tế bào
cũ, [đó chính là] thay cũ đổi mới! Tất cả các tế
bào mới trọn chẳng thua kém những tế bào cũ,
c̣n tốt hơn cái cũ. Như vậy là công phu tu hành của
quư vị thật sự đắc lực. V́ sao? Quư vị
mỗi năm một trẻ hơn, mỗi năm một cường
tráng hơn! Chuyện này có thể ư? Không chỉ đức
Phật bảo là có thể, mà các nhà khoa học hiện thời
cũng đă chứng minh.
V́ sao kẻ b́nh phàm hễ lớn
tuổi sẽ “thay cũ, đổi
mới” chẳng tốt đẹp? Tế bào đổi
mới chẳng bằng tế bào cũ, thân thể của
quư vị sẽ già nua, mỗi năm một suy thoái hơn. Đấy là do nguyên nhân ǵ?
Chính là v́ quư vị có phiền năo, có ưu lự, có vướng
mắc, có rất nhiều tập khí bất thiện, những
ư niệm xấu xa ấy đă làm hỏng toàn bộ những
tế bào mới của quư vị, đạo lư là như thế
đó. Nếu ư niệm của quư vị là chánh đáng, chẳng
phải là phản diện, mà
là thanh tịnh, là thiện
lương, là từ bi, là lợi tha, những tế bào vừa được đổi mới sẽ tốt đẹp
hơn những cái vốn có, những cái được
thay đổi sẽ hoàn toàn mới mẻ. Giống như linh kiện
trong máy móc, quư vị đổi tất cả thành linh kiện
cũ th́ đương nhiên là không được rồi,
hoàn toàn phải đổi lấy linh kiện mới, có
khác ǵ mới được sanh ra? Thí nghiệm với
nước của tiến sĩ Giang Bổn Thắng
đă chứng minh [chuyện ấy], chúng ta phải hiểu
đạo lư này: Bồi dưỡng cái tâm thanh tịnh của chính
ḿnh, khôi phục Căn Bản Trí của chính ḿnh, tiền
đồ của quư vị sẽ là một bầu quang
minh, sẽ chẳng nhiễm bệnh, sẽ chẳng bị già
cả. Cuối cùng, lại bảo cho quư vị biết, quư
vị sẽ chẳng chết. [Cái bị] sanh tử là nhục
thể, quư vị chẳng ưa thích nó bèn vứt bỏ,
đổi thành cái khác. Quư vị có thể đổi theo ư
nguyện của chính ḿnh, càng đổi càng tốt đẹp
hơn. Đấy mới là thật sự “diệt trừ chúng khổ”. Nay đă hết thời
gian rồi, chúng tôi giảng đoạn kinh văn này tới
đây.
***
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống.
Chúng ta xem bài kệ thứ bảy tiếp
theo:
(Kinh) Kiến vô bệnh nhân, đương
nguyện chúng sanh, nhập chân thật huệ, vĩnh vô bệnh
năo.
(經)見無病人。當願眾生。入真實慧。永無病惱。
(Kinh: Thấy người không
bệnh, nguyện cho chúng sanh, nhập chân thật huệ,
vĩnh viễn chẳng khổ năo v́ bệnh tật).
Đối với nguyện
thứ bảy, Thanh Lương đại sư cũng chú
giải một đoạn dài, chúng ta đọc đoạn
văn ấy một lượt:
(Sớ) Thất, “nguyện nhập
chân thật huệ, vĩnh vô bệnh năo giả”, thử hữu
nhị chủng: Nhất ước nhập chân Kiến
Đạo chi huệ, đoạn thân bệnh chi khổ
năo, cập phiền năo bệnh. Vị
nhất thiết ác thú chư phiền năo phẩm, sở hữu
thô trọng thị phân biệt khởi, diệc vi thân bệnh viễn nhân. Chí Hoan Hỷ Địa
chân kiến đạo trung nhất sát-na đoạn, đốn chứng tam
giới Tứ Đế Chân Như, thân bệnh cập Hoặc
vĩnh bất phục hữu. Nhị ước Kim Cang tâm
huệ, đốn đoạn nhất thiết chư phiền
năo bệnh, cập tập khí tùy miên, chứng cực viên
măn chân thật thắng nghĩa, chư Hoặc vĩnh vong.
Y thượng giải giả, chân thật huệ giả tức
Căn Bản Trí, đản ước sở diệt Hoặc
Khổ bất đồng nhĩ [2].
(Sao) “Ước nhập chân kiến đạo chi huệ đẳng” giả, diệc hữu nhị nghĩa, lệ đồng
đoạn Khổ. Đoạn thân bệnh chi khổ,
điệp tiền sở đoạn, “cập phiền năo bệnh” thị thử sở đoạn. “Vị nhất
thiết ác thú chư phiền năo” hạ,
xuất sở
đoạn thể, thô trọng tức thị chủng tử,
phân biệt giản ư câu sanh. “Diệc vi thân bệnh viễn nhân” giả, phi cận nhân cố. Như pḥng
sắc quá độ thị thân bệnh cận nhân, do tham cố
nhĩ tức vi viễn nhân. Ngôn “nhất sát-na đoạn”
giả, chí Sơ Địa trung quảng thích. “Đốn
chứng Tam Giới Tứ Đế Chân Như” chí Thập
Hồi Hướng trung thích. “Ước Kim Cang tâm đốn
đoạn nhất thiết chư phiền năo bệnh” giả,
tức câu sanh dă.
(疏)七願入真實慧,永無病惱者,此有二種。一約入真見道之慧,斷身病之苦惱,及煩惱病。謂一切惡趣諸煩惱品,所有麁重是分別起.亦為身病遠因.至歡喜地真見道中一剎那斷.頓證三界四諦真如.身病及惑永不復有。二約金剛心慧,頓斷一切諸煩惱病,及習氣隨眠。證極圓滿真實勝義.諸惑永亡。依上解者,真實慧者即根本智.但約所滅惑苦不同耳。
(鈔)約入真見道之慧等者,亦有二義.例同斷苦.斷身病之苦,牒前所斷.及煩惱病是此所斷。謂一切惡趣諸煩惱下,出所斷體︰麁重即是種子.分別揀於俱生。亦為身病遠因者,非近因故.如房色過度是身病近因.由貪故爾即為遠因。言一剎那斷者,至初地中廣釋。頓證三界四諦真如,至十迴向中釋。約金剛心頓斷一切諸煩惱病者,即俱生也。
(Sớ: Điều thứ bảy là
“nguyện nhập chân thật huệ, vĩnh viễn ĺa khỏi
các khổ năo v́ bệnh tật”. Ở đây có hai loại:
Một là xét theo trí huệ của bậc thật sự chứng
nhập Kiến Đạo, đoạn trừ các khổ
năo do bệnh tật nơi thân và bệnh phiền năo. Nghĩa
là đối với các phẩm phiền năo trong các
đường ác, tất cả những món [phiền năo]
thô nặng đều do phân biệt sanh khởi, chúng cũng là
cái nhân xa của bệnh tật nơi thân. Đạt đến
Hoan Hỷ Địa, thật sự kiến
đạo, sẽ đoạn ngay trong một sát-na, nhanh chóng chứng
Tứ Đế và Chân Như trong tam giới. Bệnh tật
nơi thân và Hoặc (phiền năo) vĩnh viễn chẳng
c̣n nữa. Hai là xét theo trí huệ nơi Kim Cang tâm, nhanh chóng
đoạn trừ hết thảy các bệnh phiền năo
và các tập khí tùy miên[3], chứng
nghĩa thù thắng, chân thật viên măn, các Hoặc vĩnh
viễn mất đi. Dựa theo những lời giải
thích trên đây, chân thật huệ chính là Căn Bản Trí,
chỉ là xét theo mức độ diệt Hoặc Khổ
khác nhau mà thôi!
Sao: “Xét theo trí huệ của
bậc thật sự chứng nhập Kiến Đạo”,
cũng có hai nghĩa giống như đoạn Khổ. Đoạn
trừ nỗi khổ v́ bệnh tật nơi thân, giống
như những điều đă được
đoạn trừ trong phần trước. “Và bệnh
phiền năo” là [nói tới] cái được đoạn trừ
ở đây. Từ câu “nghĩa là đối với các phẩm
phiền năo trong các đường ác” trở đi, nhằm
nêu ra cái Thể của những thứ bị đoạn
trừ: [Những món phiền năo] thô nặng
chính là chủng tử. Nói “phân biệt” nhằm chỉ
rơ đấy chẳng phải là [những phiền năo] từ
lúc sanh ra đă có. “Cũng là cái nhân xa của bệnh tật
nơi thân”: Chẳng phải là cái nhân gần. Ví như sắc
dục quá độ chính là cái nhân gần khiến cho thân thể
bệnh tật. Do tham nên mới [sắc dục quá
độ] như vậy, [v́ thế, tham] chính
là cái nhân xa. Nói “đoạn ngay trong một sát-na” th́
đến phần Sơ Địa, sẽ giải thích rộng
hơn. “Nhanh chóng chứng Tứ Đế và Chân Như trong
tam giới”, đến phần Thập Hồi Hướng
sẽ giải thích. “Xét theo trí huệ nơi Kim Cang tâm, nhanh
chóng đoạn trừ hết thảy các chứng bệnh
phiền năo”: Đấy chính là những phiền năo vốn
sẵn có).
Ở đây nói đến “vô bệnh nhân” (người không
có bệnh). Trông thấy người không có bệnh,
cũng là người thân thể khỏe mạnh, bèn dẫn
phát đại nguyện của Bồ Tát, “nhập chân thật huệ, vĩnh vô bệnh năo”
(nhập trí huệ chân thật, vĩnh viễn không có các thứ
khổ năo v́ bệnh tật) đem phối hợp với
bài kệ trong phần trước, tức “hoạch Căn Bản Trí, diệt trừ chúng khổ”
(đạt được Căn Bản Trí, diệt trừ
các nỗi khổ), nh́n từ hai bài kệ này, sẽ thấy rất hiển nhiên! Ở đây, đức Phật
dạy chúng ta “ĺa khổ
được vui” là quả, cái nhân là ǵ? Cái nhân là phá mê
khai ngộ, dạy chúng ta hết sức rơ ràng. Nếu thật
sự mong mỏi ĺa khổ được vui, mà chẳng
cầu phá mê khai ngộ, sẽ chẳng thể được!
V́ thế, Phật giáo là giáo học, là giáo dục, thứ
này chẳng phải do thần thông mà có thể làm được,
cũng chẳng phải là do cảm ứng mà có thể làm
được. [Những ǵ] Thích Ca Mâu Ni Phật, lịch đại tổ sư đă
v́ chúng ta thị hiện, toàn là giáo dục. Khi tôi mới học
Phật, thầy đă dạy tôi, “Phật học là một môn Triết Học
cao sâu”, tôi nhập môn từ chỗ này.
Sau khi đă nhập môn, mới biết Phật pháp thật
sự cao, chẳng phải là cao như chúng tôi tưởng
tượng, mà c̣n vượt trỗi hơn, xác thực là
đạt tới viên măn rốt ráo!
Không khai trí huệ, sẽ chẳng
thể giải quyết vấn đề. Dẫu thường
thức (kiến thức thông thường) phong phú, [chỉ
vận dụng kiến thức để] giải quyết
vấn đề, có lúc c̣n sanh ra tác dụng phụ nghiêm trọng,
chỉ có trí huệ chân thật sẽ giải quyết vấn
đề rốt ráo viên măn, quyết định chẳng nẩy
sanh tác dụng phụ. Xác thực là người biết
chuyện này chẳng nhiều! Trong đời này, chúng ta
may mắn được làm thân người, nghe Phật
pháp, có cơ duyên tốt đẹp gặp gỡ thiện
tri thức như thế, khiến cho chúng ta do chánh tín mà nhập
Phật môn, chẳng phải là mê tín. Do chẳng ngừng học
tập, bèn biết đúng như trong bài kệ khai kinh
đă nói: “Nguyện giải
Như Lai chân thật nghĩa”. Chân thật nghĩa của
Như Lai là như chúng ta đă được Ngài chỉ dạy,
đúng như trong Đàn Kinh, Lục Tổ đă nói: “Nào ngờ tự tánh vốn
trọn đủ”. Vô
lượng vô biên trí huệ, đức năng, và tướng
hảo hoàn toàn vốn trọn đủ trong tự tánh, đúng là
“chỉ v́ vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước mà chẳng thể chứng
đắc”. Chúng ta phải luôn nhớ nằm ḷng câu nói này!
Thật sự tu hành th́ chẳng
có chi khác, chính là buông xuống vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước mà thôi. Chẳng ngừng buông xuống,
hằng ngày buông xuống, hằng năm buông xuống, thật
sự [buông xuống] đến mức đối với
hết thảy các pháp đều chẳng khởi tâm động
niệm, Tánh Đức vốn trọn đủ trong Tự
Tánh sẽ hiện tiền viên măn. Nói dễ
lắm, làm thật khó, v́ sao khó khăn như vậy? Chúng ta phải biết
điều này, thời gian chúng ta mê mất Tự Tánh đă
quá lâu, từ vô lượng kiếp đến nay lăn lóc trong
luân hồi, đời đời
kiếp kiếp càng mê sâu hơn. Thời gian lâu ngày, mê quá sâu,
đă biến thành thói quen. Thói quen ấy
chính là tập tánh, chẳng phải là bản tánh; đă biến
thành tập tánh, rất đáng sợ! Nay chúng ta hiểu rơ
làm thế nào để từ tập tánh trở về bản
tánh, đấy là Phật pháp. Chữ Phật là tiếng
ngoại quốc, từ tiếng Phạn của Ấn
Độ dịch ra, có nghĩa là giác, là trí huệ, là giác
ngộ. Do đó, Phật pháp là phương pháp giác ngộ.
Cái để giác ngộ nương vào chính là trí huệ. Trí
huệ hiện tiền, quư vị sẽ giác ngộ. Do giác ngộ,
có thể giải quyết hết thảy các vấn đề,
ngay cả vấn đề bệnh tật, vấn đề
sanh tử của chúng ta, hoàn toàn có thể giải quyết, vĩnh viễn chẳng có khổ năo v́ bệnh tật,
vĩnh viễn chẳng có sanh tử. Vĩnh viễn chẳng
có sanh tử chính là Đại Niết Bàn.
Sự vui sướng nơi
Niết Bàn là vui sướng vô cùng, trong kinh giáo, đức
Phật đă nêu ra mấy thí dụ, [những điều ấy thường gọi là] “Niết
Bàn tứ chủng lạc” (bốn sự vui sướng
của Niết Bàn):
1) Thứ nhất là “ĺa hết thảy các nỗi khổ
thế gian, đạt được niềm
vui xuất thế gian to lớn”. Niềm
vui xuất thế gian là ǵ? Thưa cùng chư vị, ĺa khổ
là lạc. Chúng ta đọc kinh Văng Sanh, kinh Văng Sanh chính là
kinh luận Tịnh Độ, nói về chuyện văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Thế giới
Tây Phương được gọi là Cực Lạc,
[v́] nơi ấy chẳng có khổ. Chẳng có khổ th́ gọi
là Lạc; v́ thế, khổ và lạc là tương
đối. Hễ chẳng có khổ, lạc cũng chẳng
có! Nếu quư vị mong đạt được các sự
vui sướng trong thế gian này, Phật pháp gọi những
sự vui sướng ấy là Hoại Khổ. Phật pháp
nói ba thứ khổ, tức là ba loại lớn, tức Khổ
Khổ, Hoại Khổ, và Hành Khổ. Ba thứ khổ ấy
đều chẳng có, đấy chính là Chân Lạc. Chúng ta
thường gọi Khổ Khổ và Hoại Khổ là khổ
lạc, [nghĩa là] Khổ Khổ là khổ, Hoại Khổ
là lạc. Nếu chẳng có hai thứ ấy th́ gọi là
Hành Khổ. V́ sao là Hành Khổ? Họ chẳng giác ngộ,
tuy khổ và lạc đều chẳng có, nhưng họ mê, mê chứ chẳng
giác. Đấy vẫn là khổ, nên được
gọi là Hành Khổ. Hết thảy các thứ khổ chẳng
ra ngoài ba loại lớn ấy. Ba loại khổ lớn ấy
thảy đều chẳng có th́ gọi là Lạc, gọi
là Cực Lạc.
2) Niềm vui thứ hai của Niết
Bàn là “xa ĺa ồn náo”. Nay
chúng ta nói là “phồn hoa, náo nhiệt”,
hăy xa ĺa, sống ở nơi đâu? Sống trong thanh tịnh,
tịch diệt, ư vị ấy lâu dài lắm. Người thế
gian ưa thích náo nhiệt; người thật sự có
đức hạnh, có tu dưỡng, sẽ chuộng vắng
lặng, an tĩnh. Trong an tĩnh có chân vị (ư vị chân thật), những chỗ náo nhiệt là dục vọng. Người hiện
thời thường nói đến “từ trường”, từ trường nơi
náo nhiệt là dục vọng. Người sống trong ấy
sẽ bứt rứt, t́nh tự bất an. Từ truờng trong hoàn cảnh
thanh tịnh là an định, là ḥa thuận, đấy
chính là sự hưởng thụ thật sự. Sống
lâu năm tại đô thị, thỉnh thoảng du hành
đến những nơi ấy (nơi có hoàn cảnh
thanh tịnh) để ngắm phong cảnh, nghỉ
ngơi, quư vị sẽ có cảm giác thân tâm thoải mái
trong vài ngày. Niềm vui ấy thuộc về niềm vui Niết
Bàn.
3) Thứ ba là “trí huệ đă khai”. Đối với hết thảy
các pháp đều biết, đều thấy. Tâm địa
thanh tịnh, trí huệ đă khai; nói theo các nhà khoa học hiện
thời, sẽ là “đột
phá các chiều không gian và thời gian”. Đạt đến
cảnh giới ấy, sẽ thật sự là “không ǵ chẳng biết, không ǵ
chẳng thấy, không ǵ chẳng thể”. Có cần phải
học tập hay chăng? Chẳng cần! V́ sao chẳng cần?
“Nào ngờ Tự Tánh vốn sẵn
trọn đủ”, Huệ
Năng đại sư đă nhập
cảnh giới ấy. Quư vị thấy đó, đối
với những sách vở thế gian và xuất thế gian,
Ngài không biết chữ, quư vị đọc cho Ngài nghe, chẳng
có ǵ Ngài không hiểu rơ. Ngài có thể giảng cho quư vị
nghe. Người đọc chẳng hiểu, nghe Ngài giảng
giải cũng khai ngộ, cũng minh bạch. Kẻ chẳng biết chữ mà có thể giảng kinh! Quư vị đọc sách vở Nho, Thích,
Đạo cho Ngài nghe, Ngài thảy đều giảng cho
quư vị, chẳng có một tí chướng ngại nào. Nếu
quư vị hỏi do nguyên nhân ǵ ư? Nói thật ra, khi Ngài khai
ngộ, câu nói đầu tiên là “nào
ngờ Tự Tánh vốn sẵn trọn
đủ”, trọn đủ
vô lượng vô biên trí huệ, làm sao Ngài chẳng biết cho được? “Nào ngờ Tự Tánh vốn
sẵn thanh tịnh”, tức
là Tánh Tịnh Niết Bàn. Ngài ở trong thế gian này, sáu
căn có bị nhuốm bẩn hay không? Chẳng bị nhuốm bẩn mảy may nào! V́ sao? Tự Tánh thanh tịnh, Ngài
đă đạt được Tánh Tịnh Niết Bàn như chúng tôi đă nói trong phần trước. Ngài khế nhập
cảnh giới ấy.
V́ thế, Ngài vĩnh viễn chẳng
ĺa “chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ
bi”, niệm nào cũng đều tương ứng. Đấy là “nhập Chân Thật Huệ”.
4) Không chỉ là vĩnh viễn chẳng
khổ năo v́ bệnh tật, lại c̣n điều cuối
cùng trong bốn thứ lạc của Niết Bàn: Niềm
vui “thân như kim cang, vĩnh viễn chẳng hư hoại”. Lục Tổ cũng có sanh tử, nhưng cái bị
sanh tử là nhục thân. “Thân
như kim cang” chẳng phải là nhục thân của
Ngài, mà là Pháp Thân. Pháp Thân bất sanh, bất diệt, có thể
hoàn toàn khống chế sự thị hiện trong chín pháp
giới. Cái thân ấy chẳng phải là thân nghiệp báo.
Thân nghiệp báo mới có sự khổ năo v́ bệnh tật;
thân Ngài là thân ứng hóa nhằm thừa nguyện tái lai. Thân
ứng hóa chẳng có sự khổ năo v́ bệnh tật. Có
lúc cũng bị khổ năo v́ bệnh tật, nhưng đấy
là thị hiện; đó là ǵ vậy? Dùng phương
thức ấy để giáo hóa chúng sanh. Giống như
cư sĩ Duy Ma, thuở đức Phật tại thế,
cư sĩ Duy Ma chứng đắc cảnh giới b́nh
đẳng với Thích Ca Mâu Ni Phật. V́ thế, chư vị
phải hiểu, Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện xuất
gia thành Phật, cư sĩ Duy Ma thị hiện tại gia
thành Phật. Do vậy có thể biết, thành Phật, thành
Bồ Tát, thành A La Hán, quư vị nói xem, là xuất gia hay tại
gia? Thảy đều được cả! Tại
gia và xuất gia chẳng khác ǵ nhau. Quư vị nhập cảnh
giới ấy, sẽ là Lư Sự vô ngại, Sự Sự
vô ngại, sự thị hiện ấy mới là viên măn.
Người xuất gia chớ
nên khinh mạn cư sĩ tại gia; khinh mạn th́ sai mất
rồi! Cư sĩ tại gia tôn kính hàng xuất gia, hàng xuất
gia cũng phải tôn kính cư sĩ tại gia y hệt, chắc
chắn là chẳng thua kém! Nguyện thứ nhất trong
mười nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát là “lễ kính chư Phật”. Chẳng
phải là vừa xuất gia, liền [cảm thấy chính
ḿnh] cao ngất ngưởng; [nếu nghĩ kiểu
đó], quư vị tiêu rồi! Chẳng xuất gia th́ c̣n
đỡ, chứ xuất gia rồi bèn kiêu căng, ngă mạn!
Kiêu căng, ngă mạn là phiền năo nghiêm trọng. Quư vị
thấy sáu món căn bản phiền năo, sau tham, sân, si là mạn,
quư vị đă dấy khởi căn bản phiền năo, đáng
ngại quá! Không xuất gia, quư vị chẳng nẩy sanh
phiền năo ấy. Vừa xuất gia, phiền năo ấy
bèn hiện hành. Chuyện này khó trách cổ nhân bảo: “Trước cửa địa
ngục, Tăng, đạo đông”. Chúng ta nghe lời ấy, hăy suy ngẫm, sẽ thấy chẳng phải là vô lư. V́ sao? Ngạo mạn! Chẳng biết thuở
đức Thế Tôn tại thế, học tṛ của Ngài
như mười sáu vị đại đệ tử, Ca
Diếp, Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất, A Nan, những
vị ấy thấy cư sĩ Duy Ma, từ kinh điển
quư vị trông thấy điều này: Đối với
cư sĩ Duy Ma, các Ngài đều đảnh lễ ba lạy,
nhiễu theo chiều phải ba ṿng. Đối với thầy
là Thích Ca Mâu Ni Phật bèn tôn trọng như vậy, mà đối
với cư sĩ Duy Ma cũng tôn trọng như vậy.
Đó là đúng! Nay chúng ta chỉ vừa mới xuất gia bèn coi
cư sĩ thấp chủn, quư vị c̣n mong thành tựu nữa chăng? Chẳng thể nào!
Quư vị phải như thế
nào th́ mới có thể thành tựu? Ở đây nói đến
người không có bệnh. Chữ Bệnh (病) này phải hiểu theo nghĩa rộng, chẳng phải
là nghĩa hẹp. Nay thân thể chúng ta rất khỏe mạnh,
chẳng có bệnh tật, nhưng trong tâm có bệnh. Trong
tâm có bệnh ǵ vậy? Có tập khí phiền năo th́ là bệnh.
Quư vị thấy “bệnh năo”
(病惱, khổ năo v́ bệnh tật), “năo” (惱) là phiền năo. Phiền năo là bệnh, Kiến Tư
phiền năo là bệnh, Trần Sa phiền năo là bệnh, Vô Minh
phiền năo là bệnh. Ai là người khỏe mạnh? Từ
A La Hán trở lên. Biết tôn kính người khác, biết yêu
thương, che chở người khác, biết giúp đỡ
người khác, biết thành toàn cho người khác th́ chính là Phật,
Bồ Tát; đó là những người khỏe mạnh chẳng
có bệnh tật. Các vị ấy có trí huệ, khế nhập
trí huệ chân thật. V́ thế, đối với mười
đại cương lănh, tức mười cương lănh
tu hành, mười đại nguyện vương của
Phổ Hiền Bồ Tát thảy đều làm được.
Lễ kính chư Phật, “chư Phật” là nói tới những ai? Quá khứ Phật, hiện tại Phật, vị
lai Phật. Trong ấy, quan trọng nhất là vị lai Phật.
Vị lai Phật là ai? Hết thảy chúng sanh đều
là vị lai Phật. Quư vị có thể cung kính hết thảy
chúng sanh giống như đức Phật hay chăng? Nếu
có ḷng cung kính, nhưng c̣n có cấp bậc th́ sai mất rồi, quư vị bất b́nh đẳng. Bất b́nh đẳng là bệnh năo,
không chân thành là bệnh năo, không thanh tịnh là bệnh năo, một
thân toàn là bệnh. Quư vị đối với
người, tức
là đối với hết
thảy mọi người, đối với một kẻ ăn mày bần cùng, hèn kém, cũng phải
tôn trọng, lễ kính như đối với đức
Phật. Quư vị có thể làm được hay không? Chư Phật, Bồ Tát làm được, các vị
đệ tử của đức Thế Tôn thuở Ngài tại
thế đă làm được; đấy là biểu diễn
cho chúng ta thấy. Không chỉ là đối với người
khác, mà đối với tất cả hết thảy động
vật, các loài bay lượn, ngọ ngoạy, ḅ trườn,
muỗi, kiến, quư vị có ḷng cung kính đối với chúng hay
không? Quư vị có tôn trọng chúng hay không? Quư vị chẳng
biết tôn trọng, chẳng biết lễ kính chúng, tức là chẳng làm được câu đầu tiên của
Phổ Hiền Bồ Tát! Không chỉ là đối với
tiểu động vật chẳng khác ǵ đối với
Phật, mà đối với thực vật, đối với
khoáng vật, đối với hiện tượng tự
nhiên, đều [tôn kính] chẳng khác chi hết! Chư Phật,
Bồ Tát đối với tất cả hết thảy
chúng sanh, tất cả hết thảy hiện tượng
trong khắp pháp giới hư không giới là một niềm
chân thành cung kính. V́ thế, có người đă hỏi pháp
sư Ấn Quang, “học Phật như thế nào th́ mới có thể
khế nhập cảnh giới của Phật?” Ấn Quang đại
sư trả lời bằng hai chữ “thành kính”, tức là lễ kính chư Phật. Dùng cái
tâm chân thành để tu lễ kính, quư vị sẽ khế
nhập. Hết thảy cung kính, không ǵ chẳng kính, thực
hiện từ chỗ này. Hết thảy cung kính, quư vị
c̣n có thể hại kẻ khác nữa ư? Quư vị c̣n có
thể làm chuyện tổn người, lợi ḿnh hay
chăng? Đương nhiên là chẳng có!
Hiện thời, mọi người nói đến chuyện hóa giải xung đột,
khôi phục an định, ḥa b́nh, những lời dạy của
Phổ Hiền Bồ Tát chính là sự thực hiện rốt
ráo nhất, viên măn nhất, triệt để nhất, thật
sự thực hiện từ tâm ta, chẳng phải là từ
bên ngoài, mà thực hiện từ trong chân tâm, thực
hiện từ trí huệ chân thật của chính ḿnh. Quư vị
chẳng có trí huệ chân thật, sẽ chẳng thể thật
sự nhận biết điều này, chẳng biết vạn
hữu trong vũ trụ và ta có mối quan hệ ǵ! Hoàn toàn chẳng biết. Quan hệ giữa vạn hữu trong vũ trụ và
ta là “cùng chung một Pháp Thân”.
Chúng chính là Pháp Thân của chúng ta, mối quan hệ quá mật
thiết. Đối xử như thế nào? Đối xử
bằng Tánh Đức, Tánh Đức là thành kính. Nói
đơn giản nhất, sẽ là một niềm chân
thành, đấy là cốt lơi của Tánh Đức, là trung
tâm của Tánh Đức. Chư Phật, Bồ Tát, đại
thánh đại hiền chẳng có ǵ khác, các Ngài vĩnh viễn
nắm được điểm trung tâm. Chúng ta nói cách
khác là “trở về trung tâm”. Trở về trung tâm là trở
về chân thành. Trong Ngũ Luân của Trung Hoa có “phụ tử hữu thân” (cha
con có t́nh thân), “thân” chính là chân
thành. Tướng của chân thành là từ bi, là ái. Tác dụng
của chân thành là thanh tịnh, b́nh đẳng, giác. Thanh tịnh,
b́nh đẳng
là Định, giác là Huệ, từ
bi là Giới. Từ bi là đă hoàn toàn được ứng dụng,
vận dụng vào cuộc sống hằng ngày, vận dụng
trong xử sự, đăi người, tiếp
vật, vĩnh viễn chẳng có lầm lỗi. “Vô bệnh năo” là không có lầm
lỗi, vĩnh viễn chẳng có lầm lỗi, vĩnh
viễn chẳng phạm lỗi lầm. V́ thế, điều
kiện tiên quyết là làm thế nào trở về cốt lơi của Tự Tánh, trở về trung tâm của Tự Tánh; đấy
là chân thật huệ.
Chúng ta thấy người
không có bệnh, nói theo Phật pháp, “người không có bệnh” chính là đức Phật,
[vậy th́] Bồ Tát có phải là người không có bệnh
hay không? Bồ Tát vẫn có “bệnh”, v́ sao? Các Ngài chưa
đoạn tập khí vô minh. Bất quá, các Ngài
[tập khí] rất nhẹ, “bệnh” rất nhẹ, chẳng
trở ngại Sự, dường như rất khỏe mạnh,
chẳng khác ǵ người khỏe mạnh. A La Hán cũng c̣n
khá lắm, bệnh của A La Hán nặng hơn Bồ Tát,
nhưng vẫn chẳng trở ngại Sự, coi như là
bệnh nhẹ. Bồ Tát là bệnh rất nhẹ, Như
Lai mới chẳng có bệnh, lục đạo phàm phu mắc
bệnh nghiêm trọng, v́ sao? Chẳng có trí huệ. Do
đó, A La Hán được gọi là Chánh Giác, Bồ Tát được
gọi là Chánh Đẳng Chánh Giác, Phật được
gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đấy
là chân thật huệ có cao hay thấp sai khác bất đồng,
nhưng đều có thể nói là “vĩnh vô bệnh năo” (vĩnh viễn chẳng khổ
năo v́ bệnh tật), các Ngài chỉ có tăng tấn, chẳng bị
đọa lạc. Chúng ta phải biết điều này, đấy là điều chúng ta mong cầu, hằng ngày nghiêm túc nỗ lực học
tập.
Phàm phu tu hành dễ dàng thoái
tâm. Chúng ta phải suy nghĩ chính ḿnh nên làm như thế nào để mỗi ngày đều
có tiến bộ, chẳng đến nỗi thoái chuyển,
đức Phật dạy chúng ta bốn điều. Đức
Phật nói rất nhiều, nhưng hôm nay chúng tôi chỉ
nói bốn chuyện sau
đây:
1) Thứ nhất, đối
với Phật pháp nghi hoặc, hoài nghi, dẫu tin tưởng,
nhưng nửa tin nửa ngờ, sẽ dễ dàng ngă ḷng.
Đối trị như thế nào? Đối trị chính
là như đức Phật đă nói, “đoạn nghi sanh tín”. Quư vị có nghi, nhất định phải đoạn
trừ mối nghi ấy. Đoạn nghi như thế nào?
Hăy học tập, nghiêm túc nỗ lực học tập, quư
vị mới có thể sanh khởi tín tâm.
2) Thứ hai, căn bệnh
là chính ḿnh có thành kiến rất sâu, kiêu căng, ngă mạn,
chấp trước cách nghĩ và cách nh́n của chính ḿnh,
phê b́nh Phật pháp. Vậy là chẳng có cách nào, hạng
người như vậy nhiều lắm! Đặc biệt
là giới học thuật lấy kinh Phật để phê
b́nh. V́ thế, họ chẳng có cách nào nhập chân thật
huệ, chướng ngại này rất sâu, đó gọi là
Pháp Chấp. Nhất định phải trống ḷng thỉnh
giáo; không trống ḷng, sẽ chẳng được! Tổ
Ấn Quang đă dạy: “Một
phần thành kính được một phần lợi ích,
mười phần thành kính được mười phần
lợi ích”. Một kẻ chẳng có tâm cung kính, chẳng
có tâm chân thành, học thứ ǵ cũng đều chẳng
học được. Hễ có đôi chút ngạo mạn,
sẽ hoàn toàn tạo thành chướng ngại nghiêm trọng.
3) Thứ ba là ganh tỵ lợi
dưỡng của kẻ khác. Người có tu hành, thành tựu,
đương nhiên là người tôn kính vị ấy
đông đảo, người cúng dường vị ấy
cũng nhiều. Kẻ khác thấy vậy chẳng nhịn
được, sanh khởi cái tâm ganh tỵ. V́ thế, ganh
tỵ cũng là phiền năo nghiêm trọng, chướng ngại
chính ḿnh nhập chân thật huệ.
4) Thứ tư là chẳng có
tâm cung kính, chẳng có tín tâm đối với hết thảy
Bồ Tát.
V́ thế, bốn thứ ấy
dễ khiến cho người tu hành thoái chuyển nhất!
Có những kẻ bị thoái chuyển rất nghiêm trọng,
bị thoái chuyển với một mức độ to lớn, trong
đời này chẳng thể khôi phục. Đấy là điều
hết sức đáng tiếc!
Làm thế nào để có thể
chẳng bị thoái chuyển? Trong các buổi giảng,
chúng tôi cũng thường nhắc đến; đương
nhiên cái nhân thật sự là “túc thế
thiện căn”, tức
là thiện căn trong đời quá khứ sâu dầy.
Đấy là cái nhân chân thật, trong đời này gặp
gỡ thiện duyên. Nếu chẳng gặp thiện duyên,
tuy có thiện căn rất tốt, vẫn chẳng thể
tiếp tục tăng tấn. V́ thế, nhất định là phải
có duyên. Sau khi đă gặp duyên, gặp duyên th́ quan trọng nhất
là chính ḿnh phải hiếu học, tôn sư trọng đạo
lại c̣n kèm thêm hiếu học, quư vị có hy vọng
thành công rất lớn. Tôn sư trọng đạo là dùng
Tánh Đức để học, như trong phần trước
đă nói: Quư vị có tâm cung kính, quư vị tôn trọng những
điều đă học. Sau đấy, học rồi bèn
hiểu rơ. Không chỉ là tôn trọng thầy, mà đối với
tất cả hết thảy chúng sanh thảy đều
tôn trọng. Chắc chắn là cấp bậc tôn trọng
chẳng sai khác, ta tôn trọng đức Phật như thế
nào, cũng sẽ tôn trọng hết thảy chúng sanh giống hệt
như vậy, cũng tôn trọng thầy y hệt như vậy.
Như thế th́ quư vị đă thật sự học
được “lễ kính
chư Phật” của Phổ Hiền Bồ Tát, quư vị
thật sự học được! Lợi ích này quá to,
có thể giúp cho quư vị khai ngộ, đại triệt đại
ngộ, minh tâm kiến tánh.
Đầu tiên, chúng ta phải
học, ngay cả Nho gia, đấy là pháp thế gian, quư vị
thấy câu đầu tiên trong Lễ Kư là “Khúc Lễ viết: Vô bất kính” (Khúc Lễ nói:
“Không ǵ chẳng kính”), xếp câu này thành câu đầu
tiên. Câu đầu tiên của Phổ Hiền Bồ Tát là “lễ kính chư Phật”.
Trong Phật môn, có khá nhiều nghi thức bái sám, quư vị
hăy lật ra xem, câu đầu tiên là “nhất thiết cung kính, nhất tâm đảnh lễ”,
đă nói trọn hết, đă thi hành cụ thể “lễ kính chư Phật”, quyết
chẳng thể sơ sót, quyết định chẳng thể
xem nhẹ. Sau đấy, quư vị đă có điều
này, [đạt được]
những thứ sau đó sẽ chẳng
khó.
“Xưng
tán Như Lai” rất trọng yếu. Xưng tán Như
Lai có nghĩa là ǵ? Người Hoa nói là “ẩn ác, dương thiện” (ẩn giấu
điều ác, tuyên dương điều lành) là do ư
nghĩa này, cũng như trong Đàn Kinh, Lục Tổ
đại sư đă nói: “Chẳng
thấy lỗi thế gian”. Đối với bất cứ
ai, cũng đều
nhất loạt b́nh đẳng, ca ngợi
điều thiện của kẻ ấy, chẳng nói lỗi
lầm của kẻ đó. Chính ḿnh tu tốt đẹp,
hành chánh đáng, người khác phạm sai trái, hăy cảm
hóa họ, quyết chẳng phải là chỉ trích họ,
quyết chẳng phải là phê b́nh họ, hăy dùng tâm hạnh của chính ḿnh để cảm hóa họ,
người như vậy là Bồ Tát. Kẻ thường
đem lỗi lầm của người khác ghim trong ḷng, kẻ
ấy là phàm phu, là kẻ mê hoặc, chẳng giác ngộ. Bậc
giác ngộ sẽ chẳng làm chuyện này. Điều này rất
khó làm được, từ nay về sau, sẽ càng ngày
càng dễ dàng.
Thứ ba là “quảng tu cúng dường”. Tu cúng dường chẳng
có tâm phân biệt, chẳng có tâm chấp trước, nhưng
ta có trí huệ biết phải nên làm theo cách nào. Người
thật sự có trí huệ cúng dường th́ có cúng dường
sai lầm hay chăng? Cũng có nghĩa là chúng ta cúng dường
cho người khác làm chuyện xấu, có hay không? Có chứ!
V́ sao người giác ngộ mà c̣n [cúng dường sai lầm]?
Người giác ngộ dùng phương thức ấy giáo hóa
chúng sanh, khiến cho chúng sanh trông thấy sự việc ấy
sẽ tỉnh ngộ. Bởi lẽ, thuận cảnh hay nghịch
cảnh đều là cảnh
tốt đẹp, thiện
duyên hay ác duyên đều là hảo duyên, chuyện thiện
hay chuyện ác đều là hảo sự. Ư
nghĩa này rất sâu, kẻ b́nh phàm chẳng thấu hiểu
được, như vậy là quư vị chẳng liễu giải Phật,
Bồ Tát. Phật, Bồ Tát cũng chẳng cần ai liễu
giải, những việc các Ngài làm từng ly từng tư chẳng
có ǵ không nhằm giúp cho chúng sanh giác ngộ, không ǵ chẳng
nhằm giúp chúng sanh quay đầu. Hễ c̣n có những lầm
lỗi th́ vẫn phải tiếp tục lập đi lập
lại. Tôi nêu một thí dụ, đây là chuyện tôi
đích thân gặp gỡ lúc tôi c̣n rất trẻ, nhưng do được thầy chỉ
điểm cho nên tôi hiểu rơ, tôi hiểu thầy làm theo
kiểu ấy là đúng.
Pháp sư Đạo An, tức
pháp sư Đạo An ở Đài Loan đă qua đời
mười mấy năm rồi. Lúc c̣n trẻ, tôi theo Ngài. Lăo nhân gia mở
một khóa giảng dành cho sinh viên đại học và các
trường chuyên nghiệp tại Đài Bắc, mời
tôi làm tổng chủ giảng. V́ thế, tôi qua lại với
Ngài khá chặt chẽ. Có một hôm, tôi đến gặp
Ngài, Ngài ở Tùng Sơn Tự. Đến gặp Ngài, Ngài
hỏi tôi: “Pháp sư Tịnh Không à! Ông có thấy một cư
sĩ vừa mới đi ra hay không?” Tôi thưa: “Con thấy
chứ! Gặp hắn ở ngoài cửa chính, con cũng quen biết hắn”. Lăo pháp sư bèn bảo tôi: “Hôm nay hắn lại
đến lừa gạt ta!” Tôi hỏi: “Ngài có cho hắn hay không?” “Cho hắn rồi”.
Kẻ ấy thường đến lừa gạt lăo ḥa
thượng. Lăo ḥa thượng giả vờ không biết,
mỗi lần đều cho hắn. Sau khi lăo ḥa thượng
nói ra, tôi mới hiểu rơ lăo ḥa thượng dụng tâm khổ
sở, cuối cùng sẽ có ngày, gă đó giác ngộ, sẽ
quay đầu. Nguyên lai, mỗi lần bị [gă đó] lừa
gạt, lăo ḥa thượng đều biết, Ngài chẳng
hồ đồ. Cứ tưởng Ngài hồ đồ,
chẳng biết mỗi lần quư vị đến lừa
phỉnh, Ngài đều đưa cho. Ngài biết rành rẽ,
rơ ràng, [chấp nhận bị lừa], ngơ hầu sẽ có một ngày quư vị thật sự liễu giải,
mới cúi đầu, mới biết sám hối, mới có
thể sửa lỗi đổi mới. Dạy một
người chẳng đơn giản đâu nhé! Để
dạy mỗi người, đều có phương thức
và phương tiện khác nhau, lâu ngày chầy tháng sẽ
khiến cho kẻ ấy sanh khởi cái tâm hổ thẹn,
sẽ quay đầu, sẽ giác ngộ. Lũ b́nh phàm chúng
ta làm sao có thể thấy được! Cứ ngỡ lăo
ḥa thượng rất dễ lừa, bị lừa gạt
rất dễ dàng, nào ngờ Ngài biết rành rẽ, rơ ràng,
chẳng hồ đồ tí nào! Ngài cố ư mắc lừa,
đó gọi là “dụng tâm
lương khổ”, giúp một người quay đầu.
Ngài không nói lỗi lầm của kẻ đó, mà cũng chẳng
tùy tiện nói với ai khác, điều khó có là Ngài nói với
tôi chuyện ấy [nhằm dạy
tôi hiểu rơ dụng tâm ấy]. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi giảng
tới chỗ này.
Tập
1544
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin
xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một, tiểu
đoạn thứ ba trong đoạn lớn thứ sáu, tức phần Sở Ngộ Nhân Vật.
Hôm nay chúng ta xem từ bài kệ thứ
tám.
(Kinh) Kiến tật bệnh nhân,
đương nguyện chúng sanh, tri thân không tịch, ly
quai tránh pháp.
(經)見疾病人。當願眾生。知身空寂。離乖諍法。
(Kinh:
Thấy người bệnh tật, nguyện cho chúng sanh,
biết thân không tịch, ĺa pháp chống trái).
Trong phần Sớ, Thanh
Lương đại sư chú giải rất đơn
giản, nhưng cũng rất rơ ràng:
(Sớ) Tứ Đại quai vi
thành bệnh. Tri Không, tắc vĩnh vô sở quai.
(疏)四大乖違成病,知空,則永無所乖。
(Sớ: Tứ Đại chống
trái nhau mà thành bệnh. Biết Không, sẽ vĩnh viễn
chẳng chống trái).
Lời chú giải rất
đơn giản, ư nghĩa hết sức sâu! Bệnh tật,
đặc biệt là trong thời đại hiện tại
này, tăng lên quá nhiều lần so với quá khứ. Hiện thời
có những chứng bệnh xưa kia chẳng có, những chứng
bệnh kỳ quái. Nguyên nhân gây nhiễm bệnh là ǵ? Ngài Thanh
Lương nói hay lắm, do Tứ Đại. Tứ Đại
là ǵ? Địa, Thủy, Hỏa, Phong như kinh Phật đă
nói, đấy là Tứ Đại. Chúng nhằm chỉ điều
ǵ? Chúng ta chẳng cần phải suy nghĩ cặn kẽ,
chúng tôi nghĩ: Cứ nói theo phương diện thường
thức b́nh phàm, thân thể này của chúng ta là do thứ ǵ tạo
thành? Hiện thời, rất nhiều người đều
biết, tuy thân thể bên ngoài là ngũ quan, bên trong là
ngũ tạng lục phủ, thảy đều là do các tế
bào hợp thành. Tế bào có phải là nhỏ nhất hay
chăng? Chẳng phải! Trong thân thể con người,
nó là một phần tử cấu tạo nhỏ nhất,
nhưng nếu lại phân tích, nó có thể chia thành phân tử,
nguyên tử, điện tử, lạp tử, chúng ta gọi
những điều này là “thế
giới vi mô”. Nay chúng ta lấy tế bào làm đơn vị,
thân thể con người do các tế bào hợp thành. Các
nhà khoa học cho biết, trên thân thể một người
thông thường có bao nhiêu tế bào? Dường như
trong quá khứ tôi đă xem một báo cáo, chẳng nhớ rơ
là xem khi nào, cũng quên mất rồi, có một khái niệm
dường như là sáu mươi vạn ức. Thân thể
mỗi người có sáu mươi vạn ức tế
bào hợp thành tấm thân này.
Tứ Đại nhằm chỉ
điều ǵ? Chính là nói đến tế bào, Tứ Đại
là tế bào. Tế bào có bốn tánh chất. Nói thật ra, dẫu
phân tích cho đến hạt cơ bản, nó vẫn có bốn
loại tánh chất ấy. Thứ nhất, nó là vật chất.
Từ tế bào đă có thể nh́n thấy hết sức
rơ ràng, nó xác thực là vật chất. Trong Phật pháp, vật
chất được gọi là Địa Đại. [Dùng
chữ] Địa nhằm biểu thị nó là vật chất.
Thủy Đại biểu thị nó chứa nước,
hiện thời mọi người đều hiểu rất
rơ điều này. Hỏa Đại là nó có độ ấm,
[Thủy và Hỏa] là nó có chứa nước, có độ
ấm. Khoa học hiện thời không nói là Thủy và Hỏa,
mà nói là “tích điện”. Tích
điện dương th́ là Hỏa Đại, tích điện
âm th́ là Thủy Đại, nó xác thực là một thể
chứa điện. Nó là
động, chẳng tĩnh lặng;
v́ thế, nó có “thay cũ, đổi mới”. Chu kỳ
cũng chẳng dài, do có sự thay cũ đổi mới,
sự biến động ấy được gọi là
Phong Đại. Nếu chúng ta phân tích nó, từ tế bào lại
phân tích thành phân tử, phân tử lại phân tích thành nguyên tử,
Tứ Đại sẽ rất rơ ràng, rất hiển nhiên.
Đối với thường thức khoa học trong hiện
thời, mọi người chẳng hoài nghi tí nào. Dưới
kính hiển vi có độ phóng đại lớn, sẽ thật
sự trông thấy rất rơ ràng: Vật chất rất nhỏ
phân tích đến cuối cùng, sẽ là hạt, tức hạt
cơ bản, đấy là vật chất, là vật chất
nhỏ nhất.
Trong Phật pháp, chẳng có
nhiều danh từ như vậy. Trong Phật pháp, thảy
đều dùng một chữ Trần (塵), tức Vi Trần (微塵), dùng chữ này để biểu thị. Nay chúng ta
nói là “thế giới vi mô”, c̣n Phật pháp dùng chữ Trần để biểu
thị. Nhưng Trần có lớn, có nhỏ; thông
thường trong kinh Phật đă kể đại khái rất
nhiều loại. Đối với mắt thường, nhăn
lực rất tốt, sẽ có thể thấy ǵ? Ngưu
Mao Trần (牛毛塵). “Ngưu mao” là
một sợi lông trâu. Trên chót của sợi lông trâu có dính một
hạt bụi đất, nó đậu ở nơi đó
chẳng bị rớt xuống. Để đậu ở đó, đương
nhiên [hạt bụi ấy] rất ư là bé, mắt tốt
có thể thấy được loại bụi này, chứ
kẻ b́nh phàm xác thực là rất khó trông thấy. Một
phần bảy của Ngưu Mao Trần, đại khái là
nhục nhăn chẳng thể thấy được, sẽ
gọi là Dương Mao Trần (羊毛塵). Người Hoa viết chữ bằng bút lông, thành
phần lông dê trong bút lông rất nhiều, gần như
đại đa số đều là dùng lông dê. Nếu dùng “lang hào” (狼毫), “lang hào” [là
lông tơ] của hoàng thử lang (黃鼠狼, chồn), loại lông này cũng rất mịn. Một
phần bảy của Ngưu Mao Trần là Dương Mao
Trần. Dương Mao Trần c̣n có thể chia nhỏ,
chia nhỏ làm bảy phần, mỗi phần gọi là Thố
Mao Trần (兔毛塵). Lông thỏ càng nhuyễn, càng mịn hơn. Lông thỏ
cũng có thể làm bút lông. Thố Mao Trần lại chia
làm bảy phần, một phần đó sẽ gọi là Thủy
Trần (水塵). Nước có mật độ hoàn toàn chẳng lớn, đúng là có những kẽ hở
[giữa các phân tử]. Loại trần này có thể tự
do bơi qua bơi lại trong nước, chẳng bị
mật độ [của các phân tử] nước chướng
ngại. Thủy Trần lại chia thành bảy phần,
th́ một phần ấy sẽ gọi là Kim Trần (金塵). Kim là kim loại, tức vàng, bạc, đồng, sắt.
Kim loại có mật độ rất lớn, nh́n dưới
kính hiển vi, nó vẫn có những kẽ hở, giống như
cấu trúc mạng lưới. Loại trần này đối
với kim loại chẳng có chướng ngại, nó có thể
xuyên qua, xuyên lại [giữa các kẽ hở ấy]. Đấy
là Kim Trần.
Lại chia Kim Trần thành bảy
phần, một phần ấy sẽ gọi là Vi Trần.
Trong quá khứ, đức Phật bảo A La Hán có thể
thấy Vi Trần. A La Hán có thể thấy Vi Trần, chứ
Thiên Nhăn chẳng trông thấy. Vi Trần c̣n có thể chia nhỏ,
một phần sau khi đă chia thành bảy phần
được gọi là Sắc Tụ Cực Vi (色聚極微). A La Hán chẳng trông thấy loại trần này. Sắc
Tụ Cực Vi c̣n có thể chia thành bảy phần, một
phần bảy ấy được gọi là Cực Vi
Chi Vi (極微之微), đức Phật nói chẳng thể chia nhỏ
hơn nữa. Cực Vi Chi Vi c̣n gọi là Lân Hư Trần
(鄰虛塵)[4],
ai có thể trông thấy? Bậc Địa Thượng Bồ
Tát, nói thông thường, sẽ là Bát Địa Bồ Tát. Hạt
cơ bản như khoa học gia đă phát hiện trong hiện thời
có phải là Cực Vi Chi Vi hay không? Rất khó nói, loại
vi trần này chẳng thể chia nhỏ hơn nữa. Nếu
chia ra, sẽ chẳng có. Các nhà khoa học hiện thời
đă phát hiện, theo sự suy nghĩ của chúng tôi, sẽ
phải là suy luận từ toán học mà ra, tức là vật
chất do đâu mà có? Vật chất là từ Vô sanh ra Hữu.
Vật chất từ Vô sanh ra Hữu rất có thể là Cực
Vi Chi Vi như Phật pháp đă nói, Bát Địa Bồ Tát
trông thấy. Các nhà khoa học hiện thời suy luận,
biết có thứ này, nhưng chẳng có cách nào trông thấy,
khoa học kỹ thuật hiện thời vẫn chưa
thấy được! Loại vi trần này là vật chất,
từ Không biến hiện ra vật chất, thời gian
nó tồn tại rất ngắn ngủi, tạm bợ,
sanh diệt trong từng sát-na. Chúng ta thấy tướng của núi, sông, đại địa, đấy là tướng
Tương Tục của Cực Vi
Chi Vi, là hiện tướng tích lũy,
hiện tướng tương tục. V́ thế, Phật
pháp dạy: “Phàm những
ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”, tướng ấy tuyệt đối chẳng chân
thật. “Hết thảy pháp hữu
vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, từ kinh Kim
Cang mọi người đă đọc thấy điều
này!
Tứ Đại được
Phật pháp gọi là Tướng Phần, tướng do
đâu mà có? Kinh Hoa Nghiêm đă nói rất hay: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. V́
thế, kinh Hoa Nghiêm cũng là một trong sáu kinh của
Tướng Tông. Kinh luận chủ tu của Tướng
Tông gồm sáu bộ kinh và mười một bộ luận,
gọi là Lục Kinh Thập Nhất Luận, Hoa Nghiêm là một
trong số đó. Hoa Nghiêm nói pháp tướng là “tâm hiện, thức
biến”, “tâm”
ở đây là Pháp Tánh. Pháp Tánh là cái có thể hiện, tám thức
là cái có thể biến. “Có thể
hiện, có thể biến”:
“Có thể hiện” th́ gọi là Nhất Chân pháp giới,
“có thể biến” là biến
Nhất Chân pháp giới thành mười pháp giới. Bất
luận quư vị biến theo cách nào, chỉ cần là bất
cứ vật chất nào, hiện tướng ấy chính
là Tướng Phần, Thể của nó là Pháp Tánh. Chuyện
này tương tự với những điều các khoa học
gia hiện tại đă nói, dần dần tiếp cận
ư nghĩa này. V́ thế, có khi chúng tôi dùng thuật
ngữ khoa học để nói rơ.
Khoa học gia nói đến
Trường, Trường là ǵ? Hiện tướng của
năng lượng thưa thớt, ít ỏi; Phật pháp
nói là Không. Hiện tướng của năng lượng
tụ tập sẽ biến thành vật chất. V́ thế,
trường và vật chất nói thật ra là một loại
hiện tướng, một đằng là hiện tướng
phân tán, một đằng là hiện tướng tụ tập.
Chúng ta đọc Tâm Kinh sẽ thấy: “Sắc
chính là Không, Không chính là Sắc, Sắc chẳng khác Không, Không
chẳng khác Sắc”, dùng [đoạn kinh văn ấy] để
giải thích sẽ hết sức thích hợp. Các nhà khoa học
gọi là Trường, Phật pháp gọi là Không. Khoa học
gia nói “vật chất”, Phật
pháp nói là Sắc. Sắc do đâu mà có? Từ Không biến
hiện ra; do vậy, Sắc và Không là một, chẳng hai!
Điều phát hiện này của khoa học đă
được giảng rất rơ ràng trong kinh Bát Nhă. Trong
Tánh Tông, Không được nói là Pháp Tánh, Sắc là pháp
tướng. Tánh và Tướng là một, không hai. Tánh và
Tướng như một, Tánh và Tướng chẳng hai!
V́ thế, hiện bất cứ tướng ǵ, Sắc pháp
nhất định trọn đủ các đức
năng trong Tự Tánh. Đức năng ấy vĩnh viễn
chẳng bị mất đi. Đức năng ấy là
ǵ? Thấy, nghe, hay, biết, sắc, thanh, hương, vị, nó thảy đều có.
Tùy thuận Tự Tánh, các tế
bào trên toàn thân chúng ta đều có thể tùy thuận Tánh
Đức, thân thể sẽ khỏe mạnh, chẳng có bệnh tật. Nếu
trái nghịch Tánh Đức, sẽ bị bệnh. Do vậy,
chúng ta phải đặc biệt ghi nhớ giáo pháp Đại
Thừa đă dạy điều này: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”.
Duy thức sở biến, thức là vọng tưởng. Vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước sẽ có ảnh hưởng đối với Tứ Đại,
[tức là có ảnh hưởng] đối với vật
chất. Nói cách khác, có ảnh hưởng đối với
tế bào của chúng ta. Sanh từ tâm tưởng, tâm
tưởng là ư niệm của chúng ta. Ư niệm của
chúng ta trái nghịch Tự Tánh, tế bào sẽ nẩy sanh biến
hóa, tế bào sẽ bị bệnh. Tế bào đă bị bệnh,
các khí quan do tế bào hợp thành sẽ bị bệnh theo,
phiền phức xảy ra, đạo lư là như thế
đó. Đấy là từ vật lư bèn nói rơ Phật pháp có
đạo lư này!
V́ thế, người
như thế nào th́ mới có thể tùy thuận Tự Tánh?
Vậy th́ quư vị phải hiểu trong Tự Tánh chẳng
có chấp trước. Hễ quư vị có chấp trước
bèn trái nghịch Tự Tánh. Trong Tự Tánh chẳng có phân biệt,
trong Tự Tánh chẳng có khởi tâm động niệm. Đức
Phật dạy đấy là ba loại phiền năo lớn,
tức là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.
Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước hoàn
toàn trái nghịch Tự Tánh; do đó, sẽ gây thành bệnh.
Chúng sanh trong lục đạo tệ hại nhất, ba thứ
“quai vi” (trái nghịch) thảy
đều trọn đủ! “Vi”
(違) trái nghịch, “quai” (乖) là trái ĺa, ĺa khỏi Tự Tánh, chẳng tuân thủ
Tự Tánh. Đức Phật dạy chúng ta tu Giới,
Định, Huệ, Giới, Định, Huệ là tùy thuận
Tự Tánh, chẳng chống trái. Nói cách khác, đó là khỏe
mạnh. Trong sự chống trái Tự Tánh, nghiêm trọng nhất
là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, đấy là ǵ? Đấy
là Kiến Tư phiền năo; nói cách khác, chính là “chấp trước nghiêm trọng” như kinh Hoa Nghiêm đă gọi. Quư vị có tham, sân, si, mạn,
nghi, ác kiến, lẽ đâu quư vị chẳng sanh bệnh
trong lục đạo? Nếu quư vị muốn chẳng
sanh bệnh, phải điều chỉnh những thứ
trái nghịch Tánh Đức, điều chỉnh sao cho
chúng tùy thuận. Thông thường, tôi thường nói là “tùy thuận thiên nhiên” th́ sẽ
là mạnh khỏe nhất. Trái nghịch tự nhiên, quư vị
sẽ ngă bệnh. V́ thế nói “chớ
nên trái nghịch tự nhiên”.
Tự nhiên là hài ḥa, bất
ḥa là trái nghịch tự nhiên. Quư vị bất ḥa với
người khác, bất ḥa với vật, bất ḥa với
sự, tinh thần của quư vị làm sao vui sướng
cho nổi? Tinh thần chẳng vui sướng, chẳng
khoan khoái, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến
các tế bào toàn thân! V́ thế, chuyện này rất khó thấu
hiểu, t́nh tự ảnh hưởng đến con
người. Ngạn ngữ thường nói: “Ưu tư khiến cho người
ta già khọm”. Con
người ưu tư, u uất
rất dễ già suy, rất
dễ nhiễm bệnh. Người vui sướng chẳng
già suy, người vui sướng chẳng dễ nhiễm
bệnh. Do nguyên nhân ǵ vậy? Vui sướng là Tánh Đức,
ưu lự là trái nghịch, đạo lư ở chỗ này!
Quư vị thấy thí nghiệm
đối với nước của tiến sĩ Giang Bổn
Thắng, trong khi giảng kinh, tôi thường trích dẫn,
quư vị c̣n chẳng giác ngộ ư? Nước là khoáng vật.
Chúng ta sánh ví nước như tế bào trong thân thể
chúng ta. Đối với cấu tạo của tế bào
th́ thành phần quan trọng nhất là nước. Hiện
thời, mọi người đều biết bảy
mươi lăm phần trăm thân người là nước,
thật sự là Thủy Đại. Thủy trong Tứ
Đại lớn nhất, Địa, Hỏa, và Phong đều
chẳng bằng, phân lượng của Thủy lớn nhất.
Một ư niệm thiện, kết tinh của nước sẽ
xinh xắn, đẹp đẽ ngần ấy. Một ư
niệm bất thiện, kết tinh bèn hết sức khó
coi. Kết tinh khó coi, tế bào sẽ có bệnh, chúng ta nói
là “bệnh biến”, nó nẩy
sanh biến hóa [gây ra bệnh tật]. Nếu phạm vi của tế bào bị biến
hóa gây ra bệnh tật được
khuếch đại, khí quan (organ) sẽ
bị bệnh. Đôi khi [khí quan] tạm thời trở lại chẳng sao cả, v́ sao? Vẫn chẳng
có ảnh hưởng quá lớn. V́ một khí quan do rất
nhiều tế bào hợp thành; [nếu như], mấy tế
bào, mấy chục tế bào, mấy trăm tế bào [mắc
bệnh], bị biến đổi v́ bệnh th́ vẫn
chưa sao, nó vẫn chưa dấy lên tác dụng. Nếu như
có đến mấy trăm vạn, mấy ngàn vạn tế
bào nẩy sanh sự biến hóa v́ bệnh, người ấy
sẽ ngă bệnh. Tế bào trên toàn thân là sáu mươi vạn
ức, cho nên đến khi là trăm vạn hoặc ngàn vạn
[tế bào bị biến hóa], sẽ là nghiêm trọng, sẽ
ngă bệnh! Nếu quư vị hiểu đạo lư này, sẽ
hiểu phải dưỡng sanh như thế nào ḥng chiếu
cố tốt đẹp các tế bào trên toàn thân.
Ư niệm tốt đẹp
nhất là thiện niệm. Ư niệm cực thiện, Phật,
Bồ Tát dạy chúng ta điều này, cũng không phải
chỉ riêng Thích Ca Mâu Ni Phật, mà là mười
phương ba đời hết thảy chư Phật đều rát miệng
buốt ḷng dạy chúng ta: Điều thiện nhất
trong các điều thiện, là thiện niệm vô thượng,
chính là một câu A Di Đà Phật. Niệm “nam-mô A Di Đà Phật” là “chỉ
ư chí thiện” (an trụ nơi điều thiện tột bậc), niệm này thù thắng khôn sánh. Chúng ta xem Sơn Tây
Tiểu Viện, bộ đĩa ấy nói về bệnh
tật, Sơn Tây Tiểu Viện nhằm giảng giải
bài kệ này. Người bệnh đă bị bệnh viện
lẫn bác sĩ tuyên bố chẳng thể chữa trị
được nữa, khá nhiều người được
bác sĩ cho biết, “tối
đa quư vị chỉ c̣n có thể sống ba tháng
nữa”, người nhà đă ngay lập tức
lo liệu hậu sự cho người ấy, chẳng c̣n
trông mong chi nữa! Mà những người ấy cũng chẳng
mong cầu lành bệnh, hết thảy vọng tưởng,
chấp trước thảy đều buông xuống, nhất
tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Cũng có
người nhất tâm niệm Phật cầu tiêu nghiệp
chướng; niệm kinh Vô Lượng Thọ, niệm
kinh A Di Đà cầu sanh Tịnh Độ, niệm kinh
Địa Tạng, niệm thánh hiệu Địa Tạng
Bồ Tát cầu tiêu nghiệp chướng. Có hữu hiệu
hay không? Hữu hiệu! V́ sao? Tụng kinh, niệm Phật,
niệm Bồ Tát, những ư niệm ấy đều là tốt lành nhất. Ư niệm ấy có thể khiến cho những tế
bào bị biến đổi v́ bệnh dần dần khôi
phục b́nh thường. Hễ chúng khôi phục b́nh thường,
người ta sẽ khỏe mạnh. Tôi có một buổi nói chuyện
về Sơn Tây Tiểu Viện, bảo họ biết
đạo lư này, chẳng phải là mê tín, hiện thời
có khoa học chứng minh điều này!
Con người khởi tâm
động niệm, phân biệt, chấp trước, chắc
chắn sẽ nẩy sanh ảnh hưởng mang tánh chất
quyết định đối với toàn thể t́nh tự
và toàn thể sinh lư của quư vị. V́ thế, ư niệm của
con người chớ nên không chánh, chớ nên bất thiện,
chớ nên không thanh tịnh. Quư vị thật sự nắm
vững chân thành, thanh tịnh, thiện lương, lẽ
nào thân thể của quư vị chẳng khỏe mạnh? Dẫu
“bệnh biến”
nghiêm trọng, như bệnh ung thư, có khẩn yếu
hay chăng? Chẳng khẩn yếu, có thể khôi phục
b́nh thường, quư vị phải tin tưởng chính ḿnh,
chớ nên tin tưởng người khác. Phật pháp nói về
Nội Học; do đó, nếu thân thể quư vị chẳng
thoải mái, có bệnh, hăy nghiêm túc phản tỉnh căn bệnh
ấy v́ sao mà có? V́ sao mắc căn bệnh ấy? Cái thân
đang khỏe khoắn cớ sao bị nhiễm bệnh?
Nhất định là đă phạm sai lầm, ở
đây nói sự sai lầm ấy chính là “trái nghịch Tánh Đức”, khẳng định
là do nguyên nhân này. Quư vị hăy t́m ṭi, sau khi đă t́m
được, quư vị có thể sửa chữa sai lầm ấy, có thể khiến cho các tế bào
đă biến đổi v́ bệnh được khôi phục
b́nh thường. Trong y học th́ dùng thuốc men, hoặc dùng
phương pháp hóa học để giúp bệnh nhân khôi phục,
chẳng đáng tin cậy! Quư vị phải t́m cho ra
căn cội. Cội nguồn khiến cho tế bào bị
biến đổi v́ bệnh tật chính là ư
niệm bất thiện của chính ḿnh, hăy sửa đổi
từ chỗ này th́ sẽ là thật sự thực hiện
từ căn bản.
Nếu trong Phật pháp mà
hướng thượng, sẽ là“tri thân không tịch” (biết
cái thân là không tịch).
Đấy là [sự giác ngộ ở mức
độ] cao nhất, chính là cảnh giới của Phật,
Bồ Tát, thân lẫn tâm đều chẳng thật. Nay
chúng ta nói tới tinh thần và vật chất, th́ tinh thần
và vật chất đều là hư vọng. Phàm những
ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng, “phàm những ǵ có h́nh tướng”
bao gồm tinh thần. Quư vị thấy Bát Nhă Tâm Kinh đă chép:
“Quán Tự Tại Bồ Tát
hành thâm Bát Nhă Ba La Mật Đa thời”, ở đây nói
“hành thâm Bát Nhă Ba La Mật”
là “biết”. “Chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không”: Thân
được nói ở đây bao gồm Ngũ Uẩn, tức
Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc là vật
chất, Thọ là năm thức trước (từ Nhăn Thức
cho đến Thân Thức), Tưởng là thức thứ
sáu, Hành là thức thứ bảy, cái cuối cùng chính là thức
thứ tám, tức A Lại Da Thức. Thọ, Tưởng,
Hành, Thức đều thuộc về tinh thần, chúng chẳng
phải là vật chất. V́ thế, tinh thần và vật
chất đều chẳng thật. Quư vị đă biết thân không tịch,
tất cả hết thảy các pháp “chống trái” đều hoàn toàn
chẳng có, gạt bỏ triệt để, đấy là
cảnh giới ǵ? Chính là Căn Bản Trí, là Chân
Thật Huệ như đă nói trong phần trước.
Trí huệ chân thật, Căn Bản Trí hiện tiền, sẽ
là “liễu sanh tử”, “liễu” (了) là liễu
thoát, “liễu” là hiểu rơ,
“thoát” (脫) là thoát
ly. Chân tướng thảy đều hiểu rơ ràng, hiểu
minh bạch, thoát ly lục đạo luân hồi, thoát ly Phần
Đoạn sanh tử, thoát ly Biến Dịch Sanh Tử. Quư
vị thấy các vị Pháp Thân Bồ Tát trông thấy một người bị
bệnh, các Ngài xác thực hồi
quang phản chiếu, sanh khởi nguyện tâm như vậy,
nguyện cho hết thảy chúng sanh đều có thể
thông đạt, hiểu rơ Thật Tướng của các
pháp. Đấy chính là chân tướng của hết thảy
các pháp, là chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, vấn
đề của quư vị đă được triệt
để giải quyết.
Chúng ta thấy “tật bệnh” ở đây,
thân có bệnh dễ thấy, tâm bệnh thường bị
con người sơ sót, trọn chẳng biết tâm bệnh
là căn cội của thân bệnh. Cũng có nghĩa là
tư tưởng và kiến giải của một người
chính là căn bản. Tư tưởng, kiến giải
sai lầm, người ấy sẽ mắc bệnh. Nay nếu
chúng ta hỏi, thế nào là tư tưởng kiến giải
sai lầm? Thế nào là b́nh thường? Trong giáo pháp Đại
Thừa, đức Phật thường nói “hữu niệm tắc quai” (hễ
có niệm bèn trật), đấy là tiêu chuẩn tuyệt
đối. Chỉ cần quư vị khởi tâm động
niệm, sẽ trái nghịch Tự Tánh. V́ sao? Tự Tánh
như như bất động, chẳng có khởi tâm
động niệm. Khởi tâm động niệm c̣n chẳng
có, lấy đâu ra phân biệt, chấp trước? V́ thế,
chẳng có những thứ này. Nếu quư vị tham cứu
thấu triệt lư này, Phật pháp dạy quư vị tu hành,
quư vị liền thông đạt, hiểu rơ!
Tôi thường nhắc nhở
các đồng học chỗ này. Quư vị đối với
hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, hết
thảy người, hết thảy sự, hết thảy
vật, đều chẳng c̣n chấp trước, chấp
trước thảy đều buông xuống, quư vị bèn
chứng quả A La Hán. Chứng A La Hán, các bệnh nơi
thân tâm trong lục đạo sẽ hoàn toàn chẳng có, quư vị
thoát khỏi lục đạo. Lại tiến hơn
bước nữa, phân biệt đối với hết
thảy người, sự, vật trong thế gian và xuất
thế gian cũng buông xuống, quư vị bèn thành Bồ Tát.
Không chỉ là chẳng có chấp trước, mà phân biệt
cũng chẳng có. Quư vị lại có thể buông xuống
khởi tâm động niệm, sáu căn tiếp xúc cảnh
giới sáu trần đều buông xuống khởi tâm động niệm, chẳng khởi tâm, không động niệm, chúc mừng
quư vị, quư vị đă thành Phật, đă vượt
thoát mười pháp giới, quư vị là Pháp Thân đại
sĩ thuộc bốn mươi mốt địa vị
trong kinh Hoa Nghiêm, quư vị là chân Phật, chẳng phải
là giả Phật. Bốn mươi mốt giai cấp trong
Nhất Chân pháp giới là do tập khí vô minh phiền năo [dầy
hay mỏng khác nhau], chẳng khẩn yếu, chẳng trở
ngại Sự, quư vị đă thành Phật. Đó là ǵ? Khiến
cho quư vị nhận thức “trái nghịch Tự Tánh” là ǵ,
“tùy thuận Tự Tánh” là ǵ? Kinh Hoa Nghiêm đă nêu ra tổng cương lănh, quư vị có thể nắm bắt
điều này, tu hành sẽ thuận tiện.
Tu hành là tu từ chỗ nào?
Trong cuộc sống hằng ngày, chớ nên chấp trước,
chớ nên so đo; trong công việc, cũng chớ nên so
đo, mà cũng chớ nên chấp trước. Xử sự,
đăi người tiếp vật càng chớ nên phân biệt,
chấp trước, vĩnh viễn ǵn giữ cái tâm thanh tịnh,
tức là chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ
bi, bệnh ǵ quư vị cũng đều chẳng có. Chân thành,
thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi là Tánh Đức,
quư vị ngẫm xem, quư vị khởi tâm động niệm
có trái nghịch [Tánh Đức] hay không? Hễ trái nghịch
th́ sai mất rồi!
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta có thể hết thảy
đều chẳng chấp trước, đều chẳng so đo hay không? [Nếu như] hết thảy đều chẳng chấp
trước, hết thảy đều không so đo,
người ta nói quư vị là ngu ngốc, chẳng hiểu
chuyện! Vậy th́ làm như thế nào? Phải học
theo Bồ Tát, thuở tại thế, Thích Ca Mâu Ni Phật có
phân biệt, có chấp trước hay không? Nếu Ngài chẳng
có phân biệt, chẳng có chấp trước, cớ sao Ngài có thể giảng kinh, thuyết pháp? Ngài đă v́
chúng ta chế định các giới luật, đó có phải
là chấp trước hay không, có phải là phân biệt hay không?
Đúng vậy! Chẳng thể nói là Ngài không có phân biệt,
không có chấp trước. V́ sao lại nói Ngài chẳng phân
biệt, chẳng chấp trước? Thưa cùng chư vị,
chư Phật, Bồ Tát thị hiện trên thế gian là ǵ?
Du hư thần thông, chẳng thật! Các Ngài chấp trước
là do tùy thuận sự chấp
trước của chúng sanh
mà chấp trước, tùy thuận sự phân biệt của
chúng sanh mà phân biệt, như vậy th́ mới có thể ở
chung với chúng sanh, đó gọi là “ḥa quang đồng trần”. Chúng sanh chấp
trước “đây là một tờ giấy”, đức Phật
cũng nói “đây là một tờ giấy”, như vậy
là chúng ta có thể cư xử tốt đẹp với
nhau. Nếu chúng sanh nói “đây là một tờ giấy”,
đức Phật nói “ta không biết”, vậy th́ sao được? “Không biết” vẫn là chấp trước, chẳng thể
chung sống với nhau. Đấy gọi là ǵ? Tùy duyên, hằng
thuận chúng sanh. Trong hằng thuận chúng sanh, có một
điều rất cao minh, chẳng giống chúng ta, trong tâm
các Ngài chẳng chấp trước. Đúng là giống
như diễn tuồng, hết thảy động tác và ngôn
ngữ đều đă viết cặn kẽ trong kịch
bản, cứ chiếu theo đó để diễn, chẳng làm sai, là biểu diễn, chẳng phải là trong tâm của
chính người ấy
[có ư nghĩ làm như thế], chẳng
phải là thật!
V́ thế, Phật, Bồ Tát
đến thị hiện trong thế gian này là để “diễn tuồng”, để biểu
diễn, lũ phàm phu chúng ta thấy thứ ǵ cũng đều
coi là thật, sai mất rồi! Thảy đều là giả,
tuồng giả mà [chúng sanh] lại diễn thật, thật
sự mừng, giận, buồn, vui, thật sự tham,
sân, si, mạn, thật sự có thị phi, nhân ngă,
hỏng bét rồi, đấy là ǵ? Đă hoàn toàn trái nghịch
Tự Tánh. Trong Tự Tánh chẳng có những thứ ấy,
cớ sao quư vị lại sanh khởi những thứ ấy?
Trong Tự Tánh, thân tâm không tịch. V́ thế biết thân là
không tịch; đấy là khai ngộ, đại triệt đại
ngộ, thân tâm thế giới đều trọn chẳng thể được. Hai câu “tri thân không tịch, ly quai tránh
pháp” (biết thân không tịch, ĺa pháp chống trái) là cảnh
giới của Pháp Thân Bồ Tát. Chúng tôi nói tương tự,
hạ thấp mức độ xuống, hạ đến
mức thấp nhất th́ cũng là cảnh giới của
A La Hán, tuyệt đối chẳng phải là cảnh giới
của chúng sanh trong lục đạo, tối thiểu là cảnh giới
của A La Hán. Các Ngài thảy
đều buông xuống y báo và chánh báo trong lục đạo,
chẳng c̣n ghim trong ḷng, có thể vào lục đạo hay
không? Có thể chứ! A La Hán vẫn có thể vào trong lục
đạo. Chúng sanh trong lục đạo hữu duyên với
Ngài, chúng sanh có cảm, A La Hán cũng có thể thị hiện.
Đă thế, đúng là thị hiện cũng chẳng ít,
nhưng bọn phàm phu mắt
thịt chẳng nhận biết.
Thế nhưng cảnh giới
của A La Hán vẫn chẳng cao, bị mê khi cách ấm.
Quyền Giáo Bồ Tát cũng bị mê khi cách ấm, nhưng
điều này chẳng đáng sợ. Trong kinh điển,
đức Thế Tôn đă dạy, Ngài nói chư Phật Như
Lai, Pháp Thân đại sĩ thường chiếu cố
các vị Quyền Tiểu Bồ Tát, [khiến cho] loại
Bồ Tát này rất dễ đắc độ. V́ sao? Các vị
ấy có căn cơ sâu dầy, đang mê, chúng ta thường
nói là “nhất thời hồ
đồ”, hễ tiếp xúc Chánh Pháp, sẽ lập tức
quay đầu, chúng ta thường nói hạng người
ấy là “căn tánh hết sức
nhạy bén”. Đọc nhiều kinh luận, hơi
được khế nhập, tự nhiên quư vị sẽ
thông đạt, hiểu rơ chân tướng sự
thật. Quư vị thấy học Phật
hoặc không học Phật, dùng ư niệm, dùng tinh thần
để khôi phục sự khỏe mạnh nơi thân tâm
của chính ḿnh, những trường hợp giống
như vậy quá nhiều, quư vị hiểu nó là chuyện
như thế nào!
Nói đến tôn giáo, mỗi
tôn giáo đều nói đến chuyện “chữa bệnh”. Đức Phật chữa bệnh
cho người khác. Quư vị thấy trong Tân Ước và
Cựu Ước của Cơ Đốc giáo [có chép chuyện]
Gia Tô (Jesus) chữa bệnh cho người khác, Mục Hăn Mặc Đức
(Mohamed) trị bệnh cho kẻ khác, Ma Tây (Moses) chữa bệnh cho người ta. Những chuyện ấy đều
là thật, chẳng giả! Dùng tay
sờ quư vị, chúng ta cảm thấy bệnh đă khỏi
rồi. Chúng ta cảm thấy đó là chuyện thần kỳ,
là gia tŕ, chẳng phải vậy! Chữa bệnh kiểu ấy,
nay chúng ta gọi là “án ma” (按摩, xoa bóp, massage). Kinh mạch nào trong thân thể quư vị
bị chướng ngại, chẳng thông suốt, họ
giúp quư vị khôi phục, quư vị ngay lập tức b́nh
phục. Người Hoa gọi là “thôi nă” (推拿, xoa nắn), hiện thời, thường gọi là
“án ma”. Họ liễu giải
quư vị, một mặt giúp quư vị khôi phục thân thể,
mặt khác nhất định sẽ dạy quư vị biến
đổi ư niệm. Nếu quư vị có ư niệm tốt
đẹp, ư niệm b́nh thường, ư niệm khỏe mạnh,
ư niệm vui sướng, sẽ rất dễ khôi phục.
Những đạo lư ấy rất sâu, là thật, chẳng
giả. C̣n có trường hợp dùng chú (phù chú) để chữa
bệnh, cũng là thật, chẳng giả. Chuyện này so
với massage hoặc xoa nắn c̣n cao minh hơn, dùng ǵ vậy?
Dùng âm thanh. Âm thanh chấn động nội bộ của
quư vị. Dùng thứ này để đả thông những
chỗ bế tắc nơi kinh mạch trong thân thể của
quư vị. Dùng âm thanh để chấn động nó, nó liền
thông suốt, bệnh sẽ lành. Bất quá phát âm th́ nhất định
phải chánh xác, âm thanh mới thấu tới huyệt
đạo nào. Trong kinh Phật, có rất nhiều chú ngữ
chữa bệnh, nay quư vị có niệm cũng chẳng
linh, do nguyên nhân nào? Phát âm chẳng chánh xác. Từ truyện
kư, chúng ta thấy vào đời Đường, có những
vị đại đức Mật Tông dùng phương
pháp ấy để chữa bệnh cho kẻ khác.
Hữu hiệu nhất là chính
ḿnh, căn bản nhất là ư niệm. Ngàn muôn phần chớ
thấy người khác làm chuyện chẳng đúng pháp,
làm chuyện bất thiện, sau khi trông thấy, chính ḿnh nẩy
sanh phiền năo, tức tối; đó là điều đáng kiêng
tránh nhất. Phàm là hạng người có tánh cách ấy,
quư vị hăy chú tâm quan sát, [sẽ thấy] nhất định
là thân thể người ấy chẳng khỏe mạnh,
nhất định là lắm bệnh tật. Bệnh tật
của kẻ ấy từ đâu mà ra? Chính kẻ ấy cũng
chẳng biết, trên thực tế là như thế đó.
Tại Đài Loan, có một bác sĩ bị ung thư tên là
Lư Phong, tôi đă xem báo cáo của bà ta. Bà đă giác
ngộ, cũng là khi bị bệnh bèn tự ḿnh nghiêm túc phản
tỉnh, ngộ được. V́ thế, bà ta nói một
câu: “Người khác làm chuyện
bất thiện, tôi cần ǵ phải tức giận? Tức
giận chính là trừng phạt chính ḿnh. Thấy kẻ khác
làm quấy, tự ḿnh trừng phạt chính ḿnh. Đó là rất
ngu si, đấy là sai lầm”. V́ thế, bà ta đề
xuất, nhất định phải thấy hết thảy
người và sự theo chánh diện, đừng nh́n theo
phản diện, sẽ hữu ích rất lớn đối
với sự khỏe mạnh của thân thể.
Chúng ta tu học Phật pháp,
chúng tôi thường nói, đức Phật đă dạy
chúng ta: “Ngày nào cũng là ngày tốt,
giờ nào cũng là giờ tốt”. Tôi ghép tiếp hai
câu: “Người nào cũng là
người tốt, chuyện nào cũng là chuyện tốt”.
Đấy là chánh diện. Hoàn toàn dùng tâm thái chánh diện
để nh́n hết thảy người, sự, vật;
đấy là khỏe mạnh nhất, chẳng dễ ǵ
sanh bệnh! Thấy cái này chẳng đúng, cái kia cũng chẳng
đúng, phải quay đầu ngẫm xem chính ḿnh có bao
nhiêu chuyện làm đúng! Trong tầm mắt của người
sáng suốt, [nếu quư vị
cứ nghĩ] “tôi thấy
kẻ này chẳng đúng, kẻ nọ chẳng đúng”, hằng
ngày tức tối, chẳng phải là họ không đúng,
mà là bản thân quư vị chẳng đúng. V́ sao? Quư vị đang
trừng phạt chính ḿnh, có thể coi quư vị là đúng
được hay chăng? Quư vị buộc chính ḿnh phải
trả một cái giá nghiêm trọng, đấy là sẽ sanh
bệnh, mắc bệnh tật. Quư vị phải đánh
đổi bằng cái giá ấy, thảy đều là ngu
si, chẳng liễu giải chân tướng sự thật.
Quư vị đối đăi bằng chánh diện; thật vậy,
chánh diện chẳng phải là giả thiết, xác thực
là ai nấy đều là người tốt, mọi chuyện đều
là chuyện tốt; đấy là ǵ? Kinh Phật
nói là “cảnh chuyển theo tâm”, vấn đề là quư vị
có thể chuyển được hay không? Quư vị chuyển
được, chuyện xấu sẽ biến thành chuyện
tốt, ác nhân biến thành thiện nhân, tùy thuộc quư vị có biết
chuyển hay không. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nếu có thể chuyển cảnh, ắt giống
Như Lai”. A! Đă hết thời gian rồi, chúng tôi
nói tới chỗ này!
**
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống.
Chúng ta xem tiếp bài kệ tụng thứ chín.
(Kinh) Kiến đoan chánh nhân,
đương nguyện chúng sanh, ư Phật, Bồ Tát,
thường sanh tịnh tín.
(經)見端正人。當願眾生。於佛菩薩。常生淨信。
(Kinh: Thấy người
đoan chánh, nguyện cho chúng sanh, thường sanh tịnh tín
nơi Phật, Bồ Tát).
Kế đó là bài kệ thứ
mười:
(Kinh) Kiến xú lậu nhân, đương
nguyện chúng sanh, ư bất thiện sự,
bất sanh nhạo trước.
(經)見醜陋人。當願眾生。於不善事。不生樂著。
(Kinh: Thấy kẻ xấu xí,
nguyện cho chúng sanh, chẳng sanh ưa đắm những
chuyện bất hảo).
Có thể gộp hai bài kệ
này lại để cùng xem, đây là nói về tướng
mạo của con người. Các thầy xem tướng
thường nói: “Tướng
chuyển theo tâm”. Xem tướng có thể biết hạng
người ấy. V́ thế, đối với người
thật sự có đức hạnh, có học vấn, sẽ
chẳng có cách nào lừa gạt. V́ sao? Người ấy
thấy tướng mạo, nghe âm thanh, nh́n vào động
tác của quư vị, quư vị là hiền hay ngu, cát, hung, họa,
phước vừa nh́n
bèn biết ngay. Người thật
sự cao minh chẳng hỏi câu nào, người ấy
đă rơ ràng, biết rành rẽ. Thông thường, hạng
người nào có công năng ấy? Đấy chẳng phải
là “công năng đặc dị”. Nói thật thà, toàn là bản
năng. Tâm địa thanh tịnh, tâm địa chân thành,
tâm b́nh khí ḥa, nếu có thể tu dưỡng trong một thời gian dài như vậy, người ấy sẽ
có năng lực đó. Do vậy, xác thực là tướng chuyển theo cái tâm.
Đă là tướng chuyển
theo tâm, v́ sao trong kinh giáo đức Phật đặc biệt
nhấn mạnh chuyện tu phước? Trong kinh, đức
Thế Tôn đă dạy chúng ta, Bồ Tát thành Phật,
cũng là Bồ Tát đă phá một phẩm vô minh, chứng
một phần Pháp Thân, cũng là như chúng ta thường
nói “khởi tâm động niệm,
phân biệt, chấp trước hoàn toàn buông xuống, hoàn
toàn tương ứng với Tánh Đức”, đấy
chính là “đắc đại viên măn”. Nhưng trong lúc ấy, đức Phật đặc
biệt nhấn mạnh, Bồ Tát dùng một trăm kiếp,
thời gian này rất dài, tới một trăm kiếp;
đương nhiên là chúng ta tin tưởng đức Phật
thuyết pháp có khi dùng cách nói theo thông lệ nhằm biểu thị pháp. “Một trăm”
chẳng phải là một con số thật sự, mà là
để biểu thị sự viên măn. Hoa Nghiêm dùng Mười
để biểu thị “viên măn”, “một trăm” để
biểu thị đại viên măn. V́ vậy, chẳng thể
xem nó như một con số. Viên măn có nghĩa là ǵ? Tu thành
công, bộ kinh này dạy tu những ǵ? Tu ba mươi hai tướng,
tám mươi thứ hảo, trong ấy có nghĩa thú rất
sâu! Nói thật ra, đức Phật dạy chúng ta tầm
trọng yếu của giáo dục nhân quả, nhân lành
được quả lành, do nhân ác quư vị sẽ đắc
ác báo, đạo lư ở chỗ này. Nói theo kiểu như vậy
th́ mới có thể nói suông sẻ, nói viên măn.
Ba mươi hai tướng,
tám mươi thứ hảo là quả báo. “Kiến đoan chánh nhân” (Thấy
người đoan chánh): Phật, Bồ Tát đoan chánh nhất.
Trong kinh, đức Phật đă dạy chúng ta tu “không vọng ngữ”. Không vọng
ngữ sẽ đạt được tướng lưỡi
rộng dài. Đức Phật dạy: Ba đời chẳng
nói dối, lưỡi có thể liếm đến chót
mũi của chính ḿnh. Thích Ca Mâu Ni Phật đă v́ đại
chúng biểu diễn, lưỡi Ngài thè ra có thể che lấp
mặt, rút lại vẫn như người thường,
rút vào trong miệng. Khi thè ra, lưỡi lại mỏng, có
thể che cả mặt, nhằm bảo mọi người: Ngài đời đời kiếp kiếp chẳng
nói dối! Mọi người trông thấy tướng ấy bèn tin
tưởng. Mỗi loại tướng đều có nghiệp
nhân, những điều này được chép trong
Phật Học Từ Điển và Giáo Thừa Pháp Số.
Trong bộ Tam Tạng Pháp Số cũng có, trong bộ sách
chú giải kinh Kim Cang của cư sĩ Giang Vị Nông cũng
nói rất tỉ mỉ, trích lục những điều
được nói trong kinh luận.
Ở đây, đức Phật
chỉ dạy chúng ta một câu, “ư
Phật, Bồ Tát, thường sanh tịnh tín” (thường
sanh ḷng tin thanh tịnh đối với Phật, Bồ
Tát), “tịnh” là ǵ? Chẳng
hoài nghi. Đối với tấm ḷng, ngôn thuyết, cử
chỉ, hành vi của Phật, Bồ Tát, phía sau tối thiểu
có bốn thứ ấy, thường sanh ḷng tin thanh tịnh.
Đă tin th́ đương nhiên là quư vị bèn học, cho nên
mới có thể đạt được tướng
đoan chánh. Học từ nơi đâu? Học từ giáo
huấn của đức Phật. Đức Phật dạy
chúng ta điều ǵ?
1) Khoa mục thứ nhất
là giới luật, mà căn bản của giới luật
là Thập Thiện Nghiệp. Mười phương ba
đời hết thảy chư Phật đều cùng học.
Nói theo kiểu hiện thời, sẽ là môn học ắt
phải tu tập, là bài học đầu tiên khi nhập Phật
môn, tức Thập Thiện Nghiệp Đạo. Kinh Thập
Thiện Nghiệp Đạo chẳng phải là để
niệm, chẳng phải là để học thuộc ḷng,
nó thuộc loại giới luật, phải làm được!
Chẳng giết chóc, sẽ được quả báo khoẻ
mạnh, sống lâu. Chẳng trộm cắp, sẽ
được quả báo vinh hoa, phú quư. Quư vị tu cái nhân ấy,
tự nhiên quả báo hiện tiền. Không dâm, sẽ
được dung mạo đoan chánh. Giới luật
đều nói về cái nhân, đừng nói là ba mươi
hai tướng và tám mươi thứ hảo hoàn toàn
được gộp trong ấy, mà thậm chí Báo Thân của
Phật, Bồ Tát như giáo pháp Đại Thừa đă
nói, “thân có vô lượng tướng,
mỗi tướng có vô lượng hảo”, thảy
đều chẳng ĺa khỏi Thập Thiện Nghiệp. Viên
măn Thập Thiện Nghiệp chính là sự tu hành viên măn rốt
ráo của chư Phật Như Lai.
Chúng ta thường thấy
tượng Phật, đặc biệt là tượng vẽ,
trên đầu tượng vẽ đức Phật luôn có
một vầng viên quang. Trên viên quang có ba chữ, tôi nghĩ
chư vị thường nh́n tượng Phật đều
có thể trông thấy. Ba chữ ấy có khi dùng chữ Phạn
để viết, có khi dùng chữ Tây Tạng để viết,
có khi dùng tiếng Hán để viết.
Lối chữ tuy khác nhau, nhưng phát âm như nhau, ba chữ
“Án, A, Hồng” (Oṃ
āḥ hūṃ,
唵阿吽). Ba chữ ấy có nghĩa là ǵ? Thập
Thiện Nghiệp Đạo viên măn. Quư vị thấy
đó, điều này cho thấy ngàn kinh vạn luận chẳng
ĺa khỏi Thập Thiện Nghiệp Đạo. Đấy
là cơ sở, là cương lănh, chúng ta học Phật chẳng
thể không coi trọng. Nếu quư vị chẳng coi trọng, sai mất rồi! Học
từ nơi đâu? Học từ ngay chỗ này! Nhưng lời
này nói dễ dàng, làm thật khó, đặc biệt là trong xă hội
hiện thời, mấy ai có thể làm được?
Thường ôm ḷng đại từ bi, thương xót hết
thảy chúng sanh, cứu giúp, che chở hết thảy chúng
sanh, mấy ai có thể làm được? Chúng ta biết
niệm, chúng ta biết nói, nhưng chẳng thể làm! Các
đồng học tại gia chẳng làm được Thập
Thiện Nghiệp, đồng học xuất gia chẳng
làm được Sa Di Luật Nghi. V́ thế, [chúng ta nói
chính ḿnh đang tu học] Phật pháp th́ là giả
trất, chẳng thật! Thật sự học Phật là
ǵ? Làm được Thập Thiện Nghiệp Đạo, sẽ
là thật sự học Phật; làm được Sa Di Luật Nghi
sẽ là thật sự xuất gia. V́ sao chẳng làm
được? Chúng ta phải t́m, t́m cho ra nguyên nhân ở
chỗ nào! Nguyên nhân chẳng ngoài từ thuở bé, chúng ta
đă sơ sót giáo dục luân lư, đạo đức, nhân
quả. Đấy là nỗi bi ai của người trong
thời đại này!
Kể như tuổi tôi
đă tám mươi rồi, lúc bé tôi c̣n được dính
dáng một chút ngoài ŕa. Lúc sáu, bảy tuổi, ở nông thôn
c̣n có trường tư thục; khi tám, chín tuổi đă chẳng
có, tư thục đổi thành trường học ngắn
hạn, gọi là “Tiểu Học ngắn hạn”, học
hai năm đă tốt nghiệp. Thông thường, Tiểu
Học chánh quy là sáu năm, Tiểu Học [ngắn hạn]
trong làng quê tại nông thôn là hai năm. Chẳng dạy giáo
dục truyền thống, sách giáo khoa của chương
tŕnh ngắn hạn dạy điều ǵ? Con cún kêu, con mèo
bé nhảy, dạy những thứ ấy. “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện” chẳng dạy,
nhưng tư thục th́ dạy. V́ thế, vào lúc sáu, bảy
tuổi, tôi c̣n được tiếp nhận một tí
giáo dục tư thục, mấy tháng, chẳng lâu! Sau
đó, sửa đổi hết. Từ đấy trở
đi, khi đó, tuy nói là quốc gia thống nhất, thật
ra, các thế lực quân phiệt tồn tại, cho nên
xă hội chẳng an định. Kế đó, người
Nhật Bản phát động chiến tranh chống Trung
Hoa, là một cuộc chiến tranh xâm lược, trong tám
năm đă khiến cho toàn thể xă hội của chúng ta bị động loạn nháo nhào. Sau đó là chiến tranh
Quốc Cộng, măi cho đến hiện thời, chẳng
có cách nào khôi phục. V́ thế, luân lư là ǵ? Đạo đức
là ǵ? Nhân quả là ǵ? Hiện thời, mọi người
đều không biết! Nh́n lại phong khí xă hội, gần
như đa số mọi người khởi tâm động
niệm đều là v́ ḷng ích kỷ, đều là tổn
người, lợi ḿnh. V́ thế, lễ của Nho gia chẳng
có! Chẳng có lễ, Nho liền đoạn. Chẳng có giới,
Phật liền đoạn!
Hiện nay, tại Trung Hoa, Phật
pháp chỉ có h́nh thức, chẳng có thực chất!
Điều này rất đáng đau xót. V́ thế, trong những
năm qua, chúng tôi mới toàn tâm toàn lực đề xướng
Đệ Tử Quy, v́ sao? Vun quén căn cội! Từ chỗ
này, chúng ta hăy nghĩ đức Thế Tôn đă giáo huấn
trong kinh giáo: “Chẳng trước
học Tiểu Thừa, sau học Đại Thừa, sẽ
chẳng phải là đệ tử Phật!” Chúng ta hiểu
Tiểu Thừa là căn cội. Phật giáo Trung Hoa từ
cuối đời Đường trở đi, chẳng
học Tiểu Thừa, do nguyên nhân nào? Trung Hoa có Nho và Đạo,
dùng Nho và Đạo để thay thế Tiểu Thừa rất hay! V́ thế, có thành tựu, nhập Đại Thừa
chẳng có vấn đề ǵ! Nhưng hiện thời chúng
ta Nho cũng chẳng có, Đạo cũng chẳng có, Tiểu
Thừa cũng chẳng có, trực tiếp nhập Đại
Thừa, kết quả là không thành ra giống ǵ, biến thành
hữu danh vô thực. Chúng ta chớ nên không biết chân
tướng sự thật này! Sau khi đă liễu giải,
đă t́m được cái gốc bệnh, chúng ta học từ
căn bản, học từ Nho. Nho học ǵ? Học Đệ
Tử Quy, quyết định phải làm được một
trăm mười ba chuyện trong Đệ Tử Quy, thực
hiện [những điều ấy] một trăm phần
trăm, rồi lại học Thập Thiện Nghiệp th́
sẽ chẳng khó. Đệ Tử Quy là căn bản, Thập
Thiện Nghiệp nẩy mầm từ căn bản ấy.
Phật pháp là sư đạo, Đệ Tử Quy là hiếu
đạo, sư đạo nhất định kiến lập
trên cơ sở hiếu đạo. Chẳng có hiếu
đạo, sẽ chẳng có sư đạo. Đấy
là đạo lư nhất định, chúng ta chớ nên không
biết, chớ nên không nghiêm túc thực hiện.
Nay quư vị hăy suy nghĩ, bất
luận tại gia hay xuất gia, chúng ta học Phật chẳng
mong đọa ác đạo; nếu quư vị chẳng học
cẩn thận hai môn ấy, [mong] chẳng đọa ác
đạo khó lắm! Đă có cơ sở là hai thứ ấy,
tiến cao hơn là Tam Quy Ngũ Giới, quư vị mới
nắm chắc niệm Phật văng sanh. V́ sao? Quư vị mở
hết thảy kinh luận ra xem, đức Phật luôn nói
“thiện nam tử, thiện nữ
nhân, thiện tri thức”. Cái “thiện” ấy có điều
kiện, tuyệt đối chẳng phải là chúng ta thọ
Tam Quy Ngũ Giới theo h́nh thức th́ sẽ là đệ
tử Phật môn. Người thế gian thừa nhận quư
vị, Phật, Bồ Tát chẳng thừa nhận. Phải
làm như thế nào để được Phật, Bồ Tát thừa nhận? Ta làm
được giáo huấn của Phật, Bồ Tát, “ư Phật, Bồ Tát, thường
sanh tịnh tín” (thường sanh ḷng tin thanh tịnh
đối với Phật, Bồ Tát), như vậy th́ Phật,
Bồ Tát mới thừa nhận quư vị là đệ tử
Phật.
Quư vị thấy thọ Tam
Quy th́ Tam Quy có ba điều. Điều thứ nhất là
quy y Phật, giác chứ không mê. Nay quư vị vẫn mê mà bất
giác, vậy là không được. Điều thứ hai là
quy y Pháp, chánh chứ không tà. Nay quư vị vẫn tà chứ
chẳng chánh. Điều thứ ba là quy y Tăng, tịnh chứ
chẳng nhiễm. Nay quư vị vẫn là nhiễm chứ
không tịnh. Quư vị chẳng quay đầu, chẳng quy
y. Trong tập sách Tam Quy Truyền Thọ, trong đĩa CD,
trong tập sách nhỏ ấy, chúng tôi đă giảng rất
rơ ràng, rất minh bạch, quư vị có nhớ hay không? Có làm theo hay
không? Chẳng làm được th́ là giả trất, chẳng
thật! V́ thế, bảo là đệ tử Phật thật
sự hay đệ tử Phật giả vờ, chẳng
cần hỏi ai khác, chính ḿnh biết rành mạch, biết rơ
ràng! Đệ tử Phật thật sự chắc chắn
sẽ làm được Thập Thiện viên măn, chẳng sát
sanh, chẳng trộm cắp, tại gia th́ chẳng tà dâm,
xuất gia chẳng dâm dục, chẳng nói dối, chẳng
nói đôi chiều, chẳng nói lời thô ác, chẳng
nói thêu dệt, chẳng tham, chẳng sân, chẳng si, khẳng
định làm được. Đấy là đệ tử
Phật, là điều kiện thứ nhất để nhập
Phật môn. Chẳng đầy đủ điều kiện
này, sẽ chẳng thể nhập Phật môn.
Trọn đủ Thập
Thiện, Tam Quy, Ngũ Giới, tướng mạo của
quư vị tự nhiên đoan chánh. Nếu lại có thể
thường suy tưởng giáo huấn của Phật, Bồ
Tát, tụng kinh, niệm Phật. Đức Thế Tôn,
chư Phật Như Lai đă giới thiệu cho chúng ta,
chúng ta sanh nhằm thời Mạt Pháp, các Ngài giới thiệu
kinh điển của pháp môn Tịnh Tông, khuyên dạy chúng
ta niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Sanh về
Tây Phương Cực Lạc, tướng hảo sẽ đoan
chánh chẳng khác đức Phật. Đấy là pháp môn
thù thắng khôn sánh. Trong những pháp môn khác, chẳng có cách
nói này! Nói cách khác, sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới sẽ làm Phật. Ba mươi hai tướng,
tám mươi thứ hảo là báo đắc (報得, đạt được do quả báo), chẳng cần
phải tu, đến thế giới Cực Lạc bèn do quả
báo mà đạt được, trong bốn mươi tám
nguyện đă có nói. Bốn mươi tám nguyện của
A Di Đà Phật, nguyện nào cũng đều được
thực hiện, chẳng có nguyện nào hư rỗng. V́
thế, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới
toàn bộ đều được thực hiện; đấy
là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn!
V́ thế, nay chúng ta là người
thật sự triệt để giác ngộ, phải toàn
tâm toàn lực vận dụng vào chuyện cầu sanh Tịnh
Độ. Đối với chuyện thế gian, giúp
đỡ chúng sanh khổ nạn, hăy tùy duyên, đừng
phan duyên, có phải làm hay không? Có duyên th́ phải làm; chẳng
có duyên, chớ nên bới chuyện ra để làm. V́ sao? Sanh
về Tây Phương Cực Lạc thế giới rồi
trở lại giáo hóa chúng sanh sẽ chẳng trễ, thả
chiếc bè Từ, rộng độ chúng sanh. Đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới, ta c̣n chưa
thành tựu, tâm từ bi rất thiết tha, thấy chúng
sanh đáng thương, hy vọng sẽ ngay lập tức
trở về độ chúng sanh, có được hay không?
Được chứ! Chẳng có năng lực, chẳng
có trí huệ th́ làm thế nào? A Di Đà Phật gia tŕ quư vị,
quư vị có thể thừa nguyện tái lai. Nếu lúc nào
chính quư vị làm chuyện sai quấy, Phật sẽ đến
giúp quư vị, giúp đỡ quư vị sửa đổi. Bản
thân quư vị chịu tiếp nhận lời khuyến cáo của
kẻ khác, có thể tiếp nhận ư kiến của kẻ
khác, chẳng cự tuyệt, chẳng bài xích, đấy là
ǵ? Bậc tái lai. “Tái lai” là
chính ḿnh chẳng chứng đắc quả vị Bồ
Tát, đặc biệt là người từ thế giới Cực
Lạc trở về, do thật sự được Phật
tiếp dẫn, Phật quang rưới gội, sức gia
tŕ thật sự to lớn!
Trong bài kệ kế đó, “kiến xú lậu nhân” (thấy
người xấu xí). Xấu xí là quả
báo của nghiệp bất thiện. Chư vị xem Địa
Ngục Biến Tướng Đồ sẽ hiểu rơ. Bản
thân chúng ta hy vọng chính ḿnh dung mạo đoan chánh, trang
nghiêm tốt đẹp, chẳng ưa thích bị xấu
xí. Chuyện này chẳng do trời cao quyết định,
cũng chẳng do vua Diêm La quyết định, mà là do nghiệp
lực biến hiện. Thiện nghiệp, tự nhiên
tướng mạo đoan trang. Tâm hạnh chẳng lành, tự
nhiên tướng mạo biến thành xấu xí, bị biến
đổi. Tôi từng thấy có kẻ khi trẻ tuổi tướng
mạo hết sức đẹp đẽ, trang nghiêm,
nhưng đến tuổi trung niên, tướng mạo hết
sức xấu xí. Người ấy lấy ra ảnh chụp
lúc mười mấy
tuổi, hai mươi tuổi và ảnh chụp
khi ba mươi tuổi, hoàn toàn là hai người khác, biến
hóa to lớn ngần ấy! Đấy là ǵ? Lúc c̣n trẻ
th́ thiện lương, thuận theo độ tuổi, tập
khí phiền năo tham, sân, si, mạn nghiêm trọng, tướng
mạo biến đổi. C̣n có những người khi trẻ
tướng mạo xấu xí, sau khi đă bốn, năm
mươi tuổi, tướng mạo chuyển thành tốt
đẹp, đều là người học Phật, niệm
Phật tu hành. Thuở trẻ chẳng học Phật, tập
khí phiền năo rất nặng; sau khi học Phật, thật
sự dụng công nỗ lực, tâm địa mỗi
năm một thiện lương hơn, mỗi năm một
từ bi hơn, tướng mạo chân thành, thanh tịnh,
từ bi bèn hiển lộ, chứng tỏ “tướng chuyển theo tâm” như cổ nhân
đă dạy chẳng sai tí nào!
Sau khi chúng ta học Phật, hiểu
những đạo lư do đức Phật đă giảng,
bèn chú tâm quan sát cẩn thận trong cuộc sống hằng
ngày, [sẽ nhận thấy] tướng mạo của mỗi
người biến hóa trong từng sát-na. Quư vị thấy
khi kẻ ấy hoan hỷ, tướng mạo của kẻ
ấy từ ái, dễ thân thiết. Đến khi kẻ ấy
bực bội, khi nổi cáu, tướng mạo sẽ rất khó
coi. Chú tâm quan sát, [sẽ thấy] trong một ngày từ sáng
đến tối, tướng mạo luôn biến đổi.
Nếu chúng ta hiểu đạo lư này, biết chân tướng
sự thật này, vĩnh viễn ǵn giữ tâm b́nh khí ḥa,
vĩnh viễn ǵn giữ thanh tịnh, từ bi, gương
mặt quư vị thường hiện tướng từ
bi, từ ái, dễ thân thiết, khiến cho hết thảy
chúng sanh hễ trông thấy
[chúng ta] đều sanh tâm hoan hỷ. Nếu
quư vị là một kẻ có tập khí tham, sân, si, mạn hết
sức nghiêm trọng, thời thời khắc khắc trong
tâm cứ lo được, lo mất, diện mạo của
quư vị sẽ chẳng dễ coi, trong kinh Phật
gọi là “xú lậu tướng”
(tướng xấu xí).
Bồ Tát trông thấy hạng
người ấy, lập tức dẫn phát hoằng nguyện,
“ư bất thiện sự, bất
sanh nhạo trước” (chẳng sanh yêu thích, đắm
chấp những chuyện bất thiện), “nhạo” (樂) là yêu thích, “trước”
(著) là chấp
trước. Câu này rất khẩn yếu! Nếu tướng
mạo của chúng ta không tốt, thể chất không tốt,
tướng mạo và thể chất liên quan chặt chẽ
với ư niệm, cho nên muốn bảo tŕ tướng hảo
của chúng ta, tốt nhất là thường tương ứng
với Bồ Đề tâm. Bồ Đề tâm là chân tâm, chân
tâm là ǵ? Tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm chánh
giác, tâm từ bi, thường giữ cái tâm ấy, tướng
mạo không tốt sẽ biến thành đoan trang. Nếu
chúng ta giữ tấm ḷng hoàn toàn tương phản với
những cái tâm trên đây, trái nghịch Tự Tánh, hư ngụy,
phản diện của chân thành là hư ngụy, qua lại
với kẻ khác toàn là hư t́nh giả ư; nhiễm ô, tức
là bị nhuốm bẩn bởi ích kỷ, tham, sân, si, mạn,
bất b́nh, trong bất b́nh có kiêu căng, ngă mạn, ghen tỵ,
luôn sanh ḷng bất b́nh, ngu si, chẳng có tâm lợi ích chúng sanh,
mà là ích kỷ, hoàn toàn trái nghịch Tánh Đức, tướng
mạo làm sao tốt đẹp cho được? Thân thể
làm sao tốt đẹp cho được? Nếu c̣n có
tướng mạo kha khá, c̣n có thể chất rất tốt, đó là do dư phước đă tu từ đời quá
khứ, đă tu đại phước trong đời quá
khứ, đời này hồ đồ, mê hoặc, tuy làm rất
nhiều chuyện sai quấy, ôm ḷng bất lương, nhưng
do dư báo c̣n sót lại, [cho nên tướng mạo c̣n đẹp
đẽ như thế], cũng cần phải hiểu sự
thật này!
V́ thế, kẻ thật sự
chẳng có đức hạnh, chẳng có tu tŕ, xác thực
là rất khó phân biệt rốt cuộc thứ ǵ là thật,
thứ ǵ là giả. Liễu Phàm Tứ Huấn đă nói tám
thứ, tức là nói tướng thiện ác [có tám loại thiện], chân thiện, giả thiện, đại
thiện, tiểu thiện, bán thiện (điều thiện
chưa viên măn), măn thiện (điều thiện tṛn đầy),
thiên thiện (điều thiện lệch lạc), viên thiện
(điều thiện viên dung), nói rất nhiều. Nếu
chúng ta coi Liễu Phàm Tứ Huấn như một môn công
khóa để thực hiện, tôi nhớ là trong quá khứ,
tại Mă Lai, đă thâu thành hai đĩa CD, tức là trong hai
tiếng đồng hồ đă diễn xuất Liễu
Phàm Tứ Huấn. Đối với bài giảng dài hai tiếng
đồng hồ ấy, mỗi ngày xem một lần, coi
nó như công khóa để thực hiện, quư vị có thể
coi trọn một năm, mỗi ngày xem một lần hai
tiếng đồng hồ, giáo dục nhân quả sẽ thực
hiện được!
Hai bài kệ này nói về nhân
quả; v́ thế, đối với hết thảy thiện
sự, quư vị sẽ hết sức hoan hỷ thực hiện;
đối với hết thảy chuyện bất thiện,
quư vị sẽ chẳng làm. Quư vị có thể dùng tâm thái rất b́nh lặng để nh́n. “Bất
sanh nhạo trước”: Chẳng yêu thích, chẳng chấp
trước, mà cũng chẳng sanh phiền năo, như vậy
th́ mới có thể buông xuống thất t́nh, ngũ dục.
Thất t́nh là mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét,
ham muốn. Coi nhạt nhẽo thất t́nh, buông xuống
ngũ dục (ngũ dục là tài, sắc, danh vọng,
ăn uống, ngủ nghê), quư vị mới thật sự
có thể khôi phục “chân thành,
thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi”. Nếu
trong tâm c̣n có những thứ táp nham xen tạp trong ấy, sẽ
rất khó tu học. C̣n ǵ nữa? Tập khí hễ gặp
duyên sẽ dấy lên hiện hành, chính ḿnh chẳng thể
khống chế được. Thường là có kẻ
nói ta tự ḿnh biết lỗi, nhưng chẳng khống
chế được, đó là do nguyên nhân nào? Tập khí
quá nặng! Vậy th́ làm như thế nào? Càng thêm gắng sức đổ công
tu hành! Công phu tu hành của quư vị chẳng
đủ, thời gian chẳng đủ, công lực chẳng
đủ, chẳng sao cả, quư vị phải nỗ lực,
tăng thêm thời gian tu hành, tăng thêm sức mạnh. Sau đấy,
tự nhiên sẽ dần dần có thể khắc phục
chính ḿnh. Người có thể khắc phục chính ḿnh, sẽ có thể
thành thánh, thành hiền, có thể thành Phật, làm Tổ. Khắc phục tập khí phiền năo của chính ḿnh, điều
này quan trọng hơn bất cứ ǵ khác.
Do vậy, ở đây đức
Phật đă chỉ dạy chúng ta, chuyện này rơ rệt
nhất, tu thiện và làm ác, chính là nói “thiện có thiện báo, ác có ác báo”. Tuy lúc này, quả
báo vẫn chưa rơ rệt cho lắm, v́ đây là c̣n
đang tu nhân, quả báo ở phía sau. [Quả báo chín] sớm
th́ trong tuổi văn niên, chậm th́ quyết định là
đời sau. Sớm hay trễ có mối quan hệ chặt
chẽ với tu vi (sự
tu tŕ) trong đời quá khứ. Muốn
trong một đời này tu hành có kết quả, vậy
th́ chẳng thể một ngày không nghe kinh, chẳng thể
một ngày không niệm Phật, quư vị mới có thể
giữ được, đấy là chánh diện. Phản
diện th́ quư vị phải biết xa ĺa hết thảy
các thứ bất thiện. Thứ ǵ là bất thiện, quư
vị có biết hay không? Hiện thời, nội dung của
TV là bất thiện, như vậy th́ đừng nên xem.
Những điều đăng tải trong báo chí, tạp
chí có những tin bất thiện, quư vị xem xong sẽ
sanh phiền năo, chẳng cần
phải xem! Radio, ca múa, hư kịch, điện
ảnh, những tiết mục văn nghệ được nói trong hiện thời, nội dung đại đa số đều là bất
thiện. Đối với những thứ bất thiện,
nếu quư vị có thể cự tuyệt, chẳng sanh yêu
thích, đắm chấp th́ các điều thiện do quư vị
đă tu mới có thể đắc lực. Nếu quư vị
chẳng thể cự tuyệt những thứ ấy, hằng
ngày c̣n tiếp cận, sự tu hành của quư vị sẽ
khó khăn lắm. Cũng có thể nói là đại đa số,
công phu tu hành của người xuất gia và tại gia v́
sao chẳng đắc lực? Do đă xen tạp quá nhiều thứ trong
ấy!
Quư vị thấy đối
với pháp môn Niệm Phật, Đại Thế Chí Bồ
Tát đă dạy chúng ta phải niệm như thế nào? “Đô nhiếp lục căn, tịnh
niệm tương kế” (Nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm tiếp nối). Chiếu theo phương pháp ấy
để niệm, quả báo sẽ là “bất giả phương tiện, tự đắc
tâm khai” (chẳng nhờ vào phương tiện, tâm tự
mở mang). “Tâm khai” chính là
đại triệt đại ngộ. “Đô nhiếp lục căn” (Nhiếp
trọn sáu căn): Nay chúng ta chẳng thâu hồi sáu căn
được! Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ư
rong ruổi bên ngoài, mắt bị mê bởi sắc, tai bị
mê bởi tiếng, mũi bị mê bởi hương, lưỡi
bị mê bởi vị, quư vị thấy sáu căn đều
mê nơi sáu trần, chẳng thâu hồi được.
Công phu chẳng đắc lực, dụng công như thế
nào đi nữa vẫn đều chẳng có cách nào, do chẳng
thâu hồi lục căn được! V́ thế, quư vị
phải biết thâu hồi cái tâm. “Thâu hồi
cái tâm” là ta cự
tuyệt, từ nay trở đi, ngoài sách thánh hiền và
kinh điển Phật giáo ra, [những thứ khác] ta thảy
đều không xem, chẳng tham gia những tṛ thù tạc
thông thường, v́ sao? Đều là nhiễm ô. Chẳng
có chuyện ǵ, chẳng cần ra đường. Trên
đường phố, những ǵ quư vị trông thấy,
không có thứ ǵ là thiện sự, chẳng có thứ ǵ là thanh
tịnh. V́ thế, phải biết nhiếp trọn sáu
căn, quư vị phải biết điều này; sau đấy
mới là tịnh niệm. Tịnh niệm là ǵ? “Niệm” là niệm Phật, [“tịnh niệm” là] dùng cái tâm thanh tịnh để niệm Phật. Thanh tịnh
là ǵ? Chẳng có hoài nghi, chẳng có xen tạp, đấy mới
là Tịnh. “Tương tục”
(相續) là
ǵ? Chẳng gián đoạn. Lẽ nào chẳng thành công!
Đối với hai câu này của
Đại Thế Chí Bồ Tát, Giác Minh Diệu Hạnh Bồ
Tát đă nói chín chữ “chẳng
hoài nghi, chẳng xen tạp, chẳng gián đoạn”.
Đấy là bí quyết để niệm Phật. Bản
thân quư vị phải biết xem TV là xen tạp, xem báo chí là
xen tạp, trong cuộc sống hằng ngày, hễ có điều ǵ chẳng cẩn thận th́
toàn là xen tạp, phá hỏng “tịnh
niệm tương kế” (tịnh niệm liên tục)
của quư vị, tuy quư vị niệm Phật, chẳng phải
là tịnh niệm, mà là tạp niệm, quư vị làm sao
đắc lực cho được? Làm sao quư vị có thể
thành tựu cho được? Đạo lư ở ngay chỗ này.
V́ thế, thời thời khắc khắc đề cao cảnh
giác, đoạn hết thảy ác, tu hết thảy thiện.
Hiện thời, tu hết thảy các điều thiện,
trừ giáo huấn của thánh hiền và kinh giáo ra, gần
như đều rất khó t́m thấy thứ ǵ là thiện! Chớ
nên không biết điều này, chẳng thể không chú ư, chẳng
thể không cẩn thận!
Đại Phương
Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần
41 hết
[1] Do phần
này lời Sớ quá cô đọng, mà Ḥa Thượng chỉ
giảng lướt qua, không giảng về Tử và Thủ
Uẩn, hoàn toàn không nhắc đến phần Sao, chúng tôi
mạn phép trích dẫn ở đây để làm tài liệu
tham khảo.
[2] Ở
đây, Ḥa Thượng lược đi một đoạn
trong lời Sớ, chúng tôi dựa theo Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao quyển
23 để sao lục nguyên văn lời Sớ và lời
Sao.
[3] Tùy Miên
(Anuśaya) là cách
dịch khác của chữ Sử, hay nói
đầy đủ là Sử phiền năo. Tùy Miên nhằm
nói tới những phiền năo hiện hành, ẩn nấp
trong nội tâm, nhưng có thể tạo ảnh hưởng
sâu đậm đến cách nghĩ, cách nh́n, cách làm của
mỗi cá nhân. Tùy Miên có nghĩa là phiền năo ấy theo sát
từng khởi tâm động niệm như bóng theo h́nh
(Tùy); nó vi tế, khó biết nên gọi là Miên (ngủ yên).
Nói thông thường cho dễ hiểu, Tùy Miên gồm mười
món (Thập Sử), chứ nếu nói chi tiết,
sẽ thành hai mươi loại khác nhau như trong Hiển
Dương Thánh Giáo Luận đă phân tích.
[4] Lân
Hư là “gần với hư không”, v́
nếu chia nhỏ hơn, sẽ chẳng c̣n ǵ nữa.