Đại Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 42
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp
sư Thích Tịnh Không
Địa điểm:
Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ
ngày mồng Bảy tháng Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh Tiến
Tập 1545
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống.
Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một, tiểu
đoạn thứ ba trong đoạn lớn thứ sáu của
phần kệ tụng thứ sáu, tức phần Sở Ngộ
Nhân Vật (所遇人物, những
nhân vật được gặp gỡ). Xem
từ bài kệ thứ mười một:
(Kinh) Kiến báo ân nhân, đương nguyện chúng sanh, ư Phật, Bồ
Tát, năng tri ân đức.
(經)見報恩人。當願眾生。於佛菩薩。能知恩德。
(Kinh:
Thấy người báo ân, nguyện cho chúng sanh, hay biết
ân đức của Phật, Bồ Tát).
Hôm
nay vừa khéo là ngày lễ Mẹ (Mother Day). Trong kinh Chánh
Pháp Niệm, đức Phật đă dạy có bốn loại
ân khó báo đáp nhất.
Loại thứ nhất là ân mẹ, thứ
hai là ân cha, thứ ba là ân Như Lai Phật Đà, thứ
tư là ân pháp sư thuyết pháp. Trong kinh, đức Phật
đă dạy, nếu có ai cúng dường bốn hạng
người ấy, sẽ được vô lượng phước.
Hiện thời, được kẻ khác tán thán; đời
vị lai, nếu có duyên gặp Phật, nhất định
sẽ có thể đắc Bồ Đề. Trong đoạn
kinh văn ngắn này, đặc biệt là hôm nay chúng ta đọc
đến bài kệ tụng này trong phẩm Tịnh Hạnh,
lại gặp đúng dịp lễ Mẹ. Ở đây, tuy đức Phật nói đến cuộc sống hằng ngày của chúng ta: Trông thấy người biết ơn, báo ơn, Bồ
Tát nhất định dẫn phát hoằng nguyện, nguyện
cho hết thảy chúng sanh trong khắp pháp giới hư không
giới “ư Phật, Bồ Tát, năng tri ân
đức” (có thể biết ân đức của Phật, Bồ
Tát). V́ sao không nói tới cha mẹ, mà lại nói Phật,
Bồ Tát? Xác thực là ân đức của Phật, Bồ
Tát to nhất. V́ sao chúng ta biết ơn cha mẹ? Do được
Phật, Bồ Tát dạy. [Nếu] Phật, Bồ Tát chẳng
dạy, chúng ta sẽ sơ sót, quên sạch ân đức của
cha mẹ. Do vậy có thể biết, ân đức của
Phật, Bồ Tát to tát dường ấy.
Trong kinh giáo có nói ân Tam Bảo sâu nặng, tức là [ân đức của] Phật Pháp Tăng Tam Bảo.
Đức Phật xuất thế, đối với chúng
sanh, ân đức bậc nhất, ân đức vô lượng
là ǵ? Là giáo hóa chúng sanh. Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật
thị hiện thành đạo lúc ba mươi tuổi; từ
đấy trở đi, Ngài dạy học. Nói theo kiểu
hiện thời, sẽ là “mở lớp dạy học”. V́
thế, Ngài giảng kinh hơn ba trăm hội. “Hơn ba trăm hội” chính
là như chúng ta mở khóa học, khóa học theo quy mô lớn,
khóa học quy mô nhỏ. Suốt một đời, Thích Ca
Mâu Ni Phật đă mở các khóa học hơn ba trăm lần.
Khóa học có quy mô nhỏ nhất th́ số người ít,
thời gian ngắn, chỉ có một, hai buổi dạy;
nhưng khóa học theo quy mô lớn, có khóa phải kéo dài
đến mấy năm, giống như mở trường
học vậy. Đạo tràng trước kia có hệ thống
như vậy để dạy học, số lượng
thính chúng cũng đông đảo, mở khóa học dài hạn. V́ thế, lăo nhân gia giảng kinh, dạy học suốt
bốn mươi chín năm.
Giống như hiện
thời chúng ta làm công việc tương tự, khóa học
ở đây là dài hạn. Chúng tôi cũng mở khóa học ngắn
hạn. Hiện thời, vào thứ Tư trong tuần lễ
đầu tiên của mỗi tháng, sẽ đặc biệt
diễn giảng một lần cho các đồng tu thường
trụ và làm công quả. Lớp học ấy mỗi tháng mở
một lần, mỗi lần hai tiếng đồng hồ.
Ngoài ra, như chúng tôi trả lời, giải đáp các câu hỏi,
đó cũng là một lớp học khác. Buổi học ấy
được tiến hành vào thứ Sáu mỗi tuần nhằm
giải đáp nghi vấn. Hoặc như lần trước
(h́nh như là năm ngoái), chúng tôi mở hai khóa giảng về
Đệ Tử Quy ở đây, có một lần
dài đến mười ngày, tổng cộng là bốn
mươi tiếng đồng hồ. Thuở đức Phật
tại thế, t́nh h́nh cũng giống như thế, thính
chúng khác nhau, đối tượng khác nhau, nghề nghiệp
khác nhau, nhu cầu khác nhau, đức Phật đều rất
từ bi. Đó gọi là “chỉ
văn lai học” (只聞來學, chỉ nghe nói [học tṛ] t́m đến xin học).
Chỉ cần quư vị chịu đến học, đức
Phật chưa hề cự tuyệt, hết sức từ
bi khiến cho mọi người được măn nguyện.
Từ kinh điển, chúng ta thấy được chuyện
này.
Kinh điển chính
là ghi chép những lời dạy của đức
Thế Tôn đối với đại chúng trước kia. Mỗi bộ kinh là một hội, c̣n có khá nhiều
kinh được tập hợp thành một hội, như
Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh chẳng
phải là một bộ kinh! Ba mươi chín phẩm trong ấy
chính là ba mươi chín bộ, t́nh h́nh này rất
nhiều! Mỗi phẩm độc lập, nhưng cũng
liên quan đến phẩm trước và sau đó. Những kinh như vậy thuộc
loại [mở khóa học] theo quy mô lớn.
Sau khi quư vị đă nhận biết điều này, sẽ
hiểu thực chất của Phật giáo là ǵ. Bởi lẽ,
Phật giáo chẳng phải là tôn giáo, chẳng chú trọng
nghi thức tôn giáo! Chư vị phải biết các nghi thức
tôn giáo [trong Phật giáo] là do các vị tổ sư chế
định sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật đă diệt độ.
Thuở đức Phật tại thế, chẳng có nghi
thức, hết sức đơn giản, mà cũng hết
sức sống động, lại c̣n hết sức tự
do, chẳng có ai không hoan hỷ!
Lăo nhân gia suốt
đời ngoài dạy học ra, chẳng có ǵ khác. Hằng
ngày bất luận gặp ai, Ngài đều luôn rát miệng
buốt ḷng khuyên răn, giáo huấn. V́ thế, ân đức
ấy to lớn. Đúng như trong kinh giáo đă nói, đối
tượng giáo hóa không chỉ là nhân loại như chúng ta
trông thấy, mà có thể nói là mười pháp giới thảy
đều được bao gồm. Từ kinh điển, chúng ta
thấy, đặc biệt là từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy
có trời, rồng, quỷ thần, có Bồ Tát, Thanh
Văn, Duyên Giác trong cơi này hay phương khác. Trong thế gian này, có quốc
vương, đại thần, trưởng giả,
cư sĩ, cũng có kẻ bán hàng rong, người chạy
việc vặt. Trong mắt đức Phật, họ đều nhất loạt b́nh đẳng, chẳng có cao thấp! Đúng như
trong kinh đă nói: “Hết thảy
chúng sanh đều có Phật Tánh”. Do vậy, đức Phật nh́n chúng sanh bằng cái
tâm b́nh đẳng, giáo hóa mười phương thế
giới b́nh đẳng chẳng sai khác. [Nếu có sai khác]
th́ sai khác là do chúng sanh. Căn tánh của chúng sanh khác nhau, thiện căn và phước đức không giống nhau. Do vậy,
đức Phật thuyết pháp chính là ứng theo căn
cơ để thuyết pháp, nhưng có thể nói, bất
luận đối với người nào, cũng
đều có một khoa mục chung. Khoa mục chung chính là
dạy chúng ta “hiếu dưỡng
phụ mẫu, phụng sự sư trưởng”. Đấy
là cơ sở, là căn bản. Quư vị thấy trong Tịnh
Nghiệp Tam Phước, hai câu đầu là nói như thế
đó, lại c̣n thêm “từ tâm
chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp”. V́ lẽ
này, kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo là khoa mục
chung. Chỉ cần gặp Phật, chẳng có ai không
được đức Phật dạy bảo.
Do đó, chúng ta coi
Thập Thiện Nghiệp Đạo là căn cội của
Phật pháp, Đệ Tử Quy là căn cội của Nho, Thái Thượng
Cảm Ứng Thiên là căn cội của Đạo. Từ
mấy ngàn năm qua, dân tộc và quốc gia
Trung Hoa đă một mực tiếp nhận sự giáo huấn của ba nhà Nho, Thích,
Đạo. Chúng ta phải hiểu rất rơ ràng, rất
minh bạch căn cội của ba nhà. Nếu chẳng có
căn cội, sẽ chẳng có cách nào dạy được.
V́ thế, trước hết quư vị phải tiếp nhận
giáo dục cơ sở căn bản ấy, tu tập tốt đẹp
căn cội ấy rồi mới có thể dần dần
tiến lên cao hơn. Căn bản ấy giống
như giáo dục Tiểu Học. Đă có cơ sở ấy
th́ mới có thể tiến lên Trung Học, tiến lên
Đại Học, tiến lên Nghiên Cứu Sinh. Trong kinh Thập
Thiện Nghiệp Đạo, đức Phật đă giảng
điều này rất rơ ràng!
Chúng ta thấy đức
Thế Tôn và các vị Bồ Tát suốt đời tận
tâm tận lực, toàn tâm toàn lực, chẳng có ư niệm
thứ hai, chẳng có cách làm thứ hai, hằng ngày đều
theo đuổi việc dạy học, cho nên cảm vời
quốc vương, đại thần nhiệt liệt ủng
hộ. Giáo học của đức Phật giúp xă hội
an định, giúp thiên hạ thái b́nh, thế mà Phật, Bồ
Tát chẳng chấp giữ một pháp thế gian nào cả.
Điều này khiến cho kẻ khác chẳng thể không
tôn kính; trời, rồng, quỷ thần, chẳng có ai không
tôn kính. [Phật, Bồ Tát] đă thực hiện sự hy sinh, dâng hiến viên măn, [thế mà] Phật, Bồ
Tát chỉ cần có ba y, một bát, chỉ tiếp nhận
cúng dường thức ăn, quần áo, đồ trải
nằm và thuốc men khi bị bệnh. Đấy là tứ
sự cúng dường. Trừ bốn chuyện ấy ra,
chẳng lấy ǵ cả, có ai chẳng tôn kính! Cổ nhân
nói chúng ta thường nghĩ tới ân đức, biết
ơn, nghĩ nhớ ơn, tội sẽ diệt,
phước sẽ sanh. Chúng ta tôn kính Phật, tôn kính Bồ Tát, điều
quan trọng nhất trong sự tôn kính là phải học tập
theo các Ngài. Đấy là thật sự tôn trọng, chẳng
phải là bề ngoài. Thật sự tôn trọng là học
tập theo Phật, Bồ Tát, đạo đức của quư vị
nhất định ngày càng tăng trưởng, trí huệ
của quư vị nhất định mỗi ngày một đổi mới.
Bởi lẽ, Phật pháp trưởng dưỡng Pháp Thân huệ
mạng của chúng ta, c̣n cha mẹ sanh thành, nuôi sống thân mạng của chúng ta.
Lũ chúng ta có kẻ
nào chẳng mong mỏi sống lâu, phú quư? Chúng ta tu cái nhân sống
lâu, phú quư, nhất định phải biết cảm
ơn, phải biết yêu thương chính ḿnh, phải biết
yêu thương, bảo vệ, tôn trọng sanh mạng [các
loài vật]. Đối với những tiểu động
vật như muỗi, kiến, phù du, đều phải đối
đăi bằng tấm ḷng yêu thương, bồi dưỡng
ḷng nhân từ của chúng ta. [Ḷng nhân từ ấy] nói theo
Phật pháp sẽ là tâm đại từ bi, cứu giúp, che
chở hết thảy chúng sanh. Phát huy rạng rỡ đại
ân, đại đức đối đăi hết thảy
chúng sanh của đức Phật, Bồ Tát nơi thân ta.
Cũng chỉ có như vậy th́ chúng ta mới có thể
thật sự báo ân Phật. Do đó, Thanh Lương đại
sư chú giải bài kệ này rất nhiều, chúng ta
cũng nên học tập kỹ càng!
Chúng ta xem lời sớ
của Thanh Lương đại sư.
(Sớ) Ư Phật, Bồ
Tát năng tri ân đức giả, chư Phật, Bồ
Tát thỉ tự phát tâm.
(疏)於佛菩薩能知恩德者,諸佛菩薩,始自發心。
(Sớ: “Đối với
Phật, Bồ Tát mà có thể biết ân đức”:
Chư Phật, Bồ Tát từ lúc mới phát tâm).
Ngài Thanh
Lương đă kể ra mười thứ ân. Ân thứ
nhất trong mười thứ ân ấy chính là…
(Sớ) Phát tâm phổ bị
ân.
(疏)發心普被恩。
(Sớ: Ân phát tâm độ trọn
khắp mọi căn cơ).
Đức Phật
dạy chúng ta khi phát nguyện, câu đầu tiên trong Tứ
Hoằng Thệ Nguyện nhằm khuyên dạy chúng ta phải phát thệ
“chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ”, đấy chính là “phát
tâm phổ bị”. Chư Phật, Bồ Tát lúc sơ phát
tâm bèn…
(Sớ) Phổ duyên chúng sanh,
niệm niệm giai thị biến pháp giới hư không
giới, thế giới hải vi trần số sát trung, nhất
thiết chúng sanh, vi nhất niệm tâm.
(疏)普緣眾生,念念皆是遍法界虛空界,世界海微塵數剎中,一切眾生,為一念心。
(Sớ: Duyên trọn
khắp chúng sanh. Niệm nào cũng đều là một niệm
tâm v́ hết thảy chúng sanh trong các cơi nước nhiều
như số vi trần thuộc các thế giới hải
trọn khắp pháp giới hư không giới).
Trong hết thảy
mọi lúc, hết thảy mọi nơi, niệm nào
cũng đều chẳng bỏ! Tấm
ḷng của cha mẹ, nhất là ḷng mẹ, được
gọi là “từ mẫu”. Có
thể nói ḷng Từ của mẹ c̣n măi cho đến hết tuổi
thọ. Chỉ cần mẹ sống một ngày, chẳng
có ngày nào không nghĩ tới con cái của chính ḿnh. Con cái
quên khuấy cha mẹ, chỉ vào dịp lễ Tết mới
nhắc đến; chẳng phải là tết, lễ, sẽ
quên bẵng! Gặp dịp lễ Tết bèn nghĩ đến
mẹ. Hôm nay là ngày lễ Mẹ bèn nghĩ tới mẹ,
nhằm sinh nhật của mẹ bèn nhớ đến mẹ.
Mẹ đă khuất bóng, nhằm ngày giỗ của mẹ
bèn nhớ tới mẹ. Trừ mấy ngày như vậy ra,
ư niệm ấy bị đoạn mất. Có biết hay
chăng, người làm mẹ gần như hằng ngày
đều nghĩ tới con cái, rất ít khi không nghĩ!
Khi công việc bận bịu, trong lúc ấy, mẹ bận
việc túi bụi, hễ buông việc ra, bèn
nghĩ tới con cái. Do vậy, đức Phật nói “ân mẹ khó báo”. Cha có lúc quên bẵng
con cái, có [lúc như vậy], chứ mẹ chẳng quên! V́
thế, trong bốn loại ân, ân mẹ được xếp
đầu tiên, đạo lư ở ngay chỗ này!
Chúng ta hăy ngẫm
xem, cái tâm ân đức của Phật đối với
chúng sanh vượt trỗi cha mẹ, v́ cha mẹ chỉ nghĩ
đến con cái của chính ḿnh, chẳng nghĩ tới
con cái của kẻ khác. Phật, Bồ Tát tuyệt diệu,
[nghĩ tưởng] hết thảy chúng sanh trong khắp
pháp giới hư không giới, thật sự bao gồm
thai, noăn, thấp, hóa. Trong mỗi niệm tâm luôn nghĩ
tưởng hết thảy chúng sanh trong khắp pháp giới
hư không giới, niệm nào cũng v́ chúng sanh. Thấy
chúng sanh làm chuyện sai trái, mê hoặc, điên đảo, do
làm quấy phải chịu ác báo, tâm các Ngài áy náy v́ [tự
trách chính ḿnh] chẳng dạy các chúng sanh ấy đến nơi
đến chốn. Đức Phật có trọn hết trách
nhiệm hay không? Đức Phật đă thật sự trọn
hết trách nhiệm, v́ sao chúng sanh vẫn chẳng nghe theo?
Ương bướng, khó giáo hóa! Chớ nên không biết
điều này!
Trong Sớ Sao, văn
tự của ngài Thanh Lương hoàn toàn chẳng nhiều,
chỉ nêu bày đơn giản, sau đấy từ trong
phần chú giải [lời Sớ], tức là trong phần
Sao, mới chú giải rơ ràng từng điều một.
Chúng ta đọc đoạn văn ấy một lượt.
(Sớ) Chư Phật, Bồ
Tát, thỉ tự phát tâm, phổ duyên chúng sanh.
(疏)諸佛菩薩,始自發心,普緣眾生。
(Sớ: Chư Phật, Bồ
Tát từ lúc mới phát tâm đă duyên trọn khắp chúng
sanh).
Đây là điều
thứ nhất, tức “chúng
sanh vô biên thệ nguyện độ”.
(Sớ) Nan hành khổ hạnh,
bất cố tự thân, thùy h́nh lục đạo, tùy trục
chúng sanh.
(疏)難行苦行,不顧自身,垂形六道,隨逐眾生。
(Sớ: Hành các hạnh
khó khăn và khổ hạnh, chẳng đoái hoài thân ḿnh, hiện
thân trong lục đạo để theo sát chúng sanh).
Hai câu này là “đáng nên dùng thân ǵ để
độ, bèn hiện thân ấy”.
(Sớ) Kiến kỳ tạo
ác, như cát chi thể.
(疏)見其造惡,如割支體。
(Sớ: Thấy họ làm
điều ác, [cảm thấy] như thân ḿnh bị cắt
xẻ).
Thấy chúng sanh
làm ác, chính ḿnh khó chịu dường ấy.
(Sớ) Ngật thành
Chánh Giác, ẩn kỳ thắng đức.
(疏)迄成正覺,隱其勝德。
(Sớ: Đă thành Chánh Giác,
nhưng ẩn giấu đức hạnh thù thắng của
chính ḿnh).
Đấy là nói Thích
Ca Mâu Ni Phật thị hiện trong thế gian này, hoàn toàn
là biểu diễn, là thị hiện; ân đức ấy hết
sức to lớn.
Nay chúng ta xem lời
chú giải của mấy câu này. Lời chú giải cũng do Thanh
Lương đại sư viết. Câu đầu tiên
chúng tôi đă nói rồi, “phát
tâm phổ bị ân” (ân đức phát tâm độ
trọn khắp các căn cơ), chớ nên không biết!
Trên thế gian, trong mười pháp giới, há người
nào có đại ân đại đức như vậy? Trừ
Phật, Bồ Tát ra, quư vị chẳng t́m thấy! [Chư
Phật, Bồ Tát] đối với hết thảy chúng sanh, chẳng
có mong cầu, chấp giữ ǵ. Ngạn ngữ có câu: “Ư nhân vô tranh, ư thế vô cầu”
(Chẳng tranh với người, chẳng cầu
nơi đời). Các Ngài thật sự vô cầu, đă chẳng
cầu danh, mà cũng chẳng cầu lợi. Khởi tâm
động niệm, những việc đă làm, hoàn toàn nhằm
lợi ích chúng sanh, giúp hết thảy chúng sanh dẹp khổ,
ban vui. Sử dụng hết thảy các phương tiện,
vận dụng danh từ giáo dục [để diễn tả]
th́ là “bao gồm toàn bộ”. Thân giáo là nêu gương mẫu, tạo
khuôn phép, và ngôn giáo. Nói thật ra, chúng sanh đúng là
ương ngạnh, khó giáo hóa, chẳng tiếp nhận th́
thôi, lại c̣n hoài nghi, [tức là] hoài nghi các việc làm của
Phật, Bồ Tát, [cứ nghĩ] các Ngài nhất định
có sự mưu tính, mong cầu, nhất định là có mục
đích, v́ sao các Ngài làm như vậy chớ? [Các Ngài] làm như
thế đó, khiến cho chúng ta chẳng nghĩ thông suốt
được. Đúng là ương ngạnh, khó giáo hóa.
Các đồng học ắt phải biết, sau khi Thích Ca Mâu Ni
Phật diệt độ, các học tṛ của Ngài có
người là Đại Thừa, có người là Tiểu
Thừa, tới bốn phương tám hướng để hoằng
dương Phật pháp. “Hoằng
dương Phật pháp” là thuật ngữ Phật giáo;
nếu nói theo kiểu hiện thời, sẽ là vâng lănh giáo
huấn của thầy, đến bốn phương tám
hướng giáo hóa chúng sanh, cũng là mở lớp dạy
học. Vào thời ấy, tuy giao thông chẳng thuận tiện,
chẳng có truyền thông, nhưng có “truyền văn” (傳聞, nghe kể
lại), Bắc Ấn Độ có một người tốt
đẹp ngần ấy; v́ thế, mọi người
cũng rất ngưỡng mộ. Đệ tử đức
Phật đến nơi ấy giáo hóa, thoạt đầu
cũng được hết sức hoan nghênh, được
chánh phủ địa phương dốc sức nâng đỡ;
do vậy, Phật pháp rất hưng vượng. Nhưng
sau một, hai trăm năm, hoặc ba, bốn trăm
năm bèn suy, Phật pháp dần dần suy vi. Một
ngàn năm sau, gần như chẳng có, nhưng cái c̣n sót lại,
được truyền sang Trung
Hoa là một nhánh Đại Thừa, nẩy mầm bén rễ
tại Trung Hoa, phát huy rạng rỡ. Một nhánh khác truyền
đến vùng Đông Nam Á hiện thời, như các xứ
Thái Lan, Miến Điện, Tư Lư Lan Ca (Sri
Lanka) là Tiểu Thừa, cũng một mực truyền
đến hiện thời. Quư vị muốn nghiên cứu
nguyên nhân ở chỗ nào ư? Có thể
nói là người ở những vùng đó có muốn học
tập sự giáo dục ấy hay không? Nếu chịu học
tập, đương nhiên là nó sẽ tồn tại trong
thế gian. Nếu chẳng chịu học tập, nó sẽ bị tiêu mất. Đấy là một
trường hợp rất rơ rệt!
V́ sao [Phật pháp] truyền đến Trung Hoa có thể hưng thịnh
dường ấy? Điều thứ nhất, Phật
pháp truyền sang Trung Hoa là do đế vương lễ
thỉnh. Hán Minh Đế phái đặc sứ qua Ấn
Độ nghênh thỉnh, thỉnh hai vị pháp sư Trúc
Pháp Lan và Ma Đằng sang Trung Hoa. Các Ngài mang theo tượng
Phật và kinh Phật, đúng là Tam Bảo đă đầy
đủ. Hai vị pháp sư đến Trung Hoa đă
được đế vương của nước
nhà nâng đỡ, ủng hộ. Bất luận xưa nay,
trong hay ngoài nước, tập tánh của kẻ b́nh phàm
cũng như phong khí xă hội nói chung là “người trên làm, kẻ dưới bắt chước
theo”. Đế vương đề xướng,
đương nhiên là bá quan ủng hộ, nhân dân hoan hỷ
tiếp nhận. Sự giáo dục của đức Phật
được phổ biến, triển khai tại Trung
Hoa. Đă thế, trong nền văn hóa truyền thống của
Trung Hoa, đối với chuyện hiếu thảo cha mẹ,
tôn kính thầy, biết ân, báo ân, có thể nói là đă [có nề nếp lâu dài] năm ngàn năm, đời nào cũng đều
có những tấm gương tốt đẹp, nhân dân biết
lễ, vâng giữ pháp tắc. V́ thế, ḥa b́nh, an định,
phồn vinh hưng vượng là do dạy dỗ mà ra!
Người Hoa
thông hiểu giáo dục nhất, thấy nền giáo dục
của đức Phật tốt lành ngần ấy, bèn tiếp
nhận toàn bộ, dung hợp với văn hóa truyền thống
của Trung Hoa thành một Thể, chẳng thể chia cắt.
Ngược lại, tại Ấn Độ chẳng có, Phật
giáo đă truyền sang Trung Hoa! Nếu người thuộc
thế hệ này chẳng muốn tiếp nhận, coi Phật
giáo là mê tín, chúng ta chẳng cần đến nó, tôi nghĩ
là năm mươi năm sau, Phật giáo sẽ tuyệt
diệt tại Trung Hoa, giống như tại Ấn Độ.
Trên thế giới, [Phật giáo] có thể tuyệt diệt
hay không? Chẳng thể nào! Như tôi quan sát trong hiện thời,
Đại Hàn có thể kế thừa! Trong quá khứ, tôi
cũng thấy Nhật Bản có thể kế thừa, [đó
là vào] ba mươi năm trước, nhưng ba
mươi năm sau, tôi đă đến Nhật Bản
vài lần, Nhật Bản đă bị Tây hóa với một
mức độ rất lớn. Trong tương lai, Nhật Bản có thể
là quốc gia theo Cơ Đốc giáo, là dân tộc theo Cơ Đốc
giáo. Họ cũng chẳng có Đại Ḥa[1], mà Phật
giáo cũng chẳng có. Nhưng hiện thời, tôi thấy
Đại Hàn hết sức coi trọng [Phật giáo], họ
kế thừa nền văn hóa truyền thống của
Trung Hoa, kế thừa nền văn hóa Phật giáo Đại
Thừa.
V́ thế, văn
hóa hưng vượng hay suy bại liên quan đến sự
tồn vong của quốc gia, dân tộc, chúng ta chớ nên
không biết điều này. Nhưng gần đây nhất,
chúng tôi đă thấy có một tia sáng, khiến cho chúng tôi cảm
thấy hết sức an ủi. Đó chính là Phật giáo
được người lănh đạo tại Trung Hoa ủng hộ. Lần này, trong tháng trước, tại Hàng Châu tổ
chức luận đàn Phật giáo thế giới, đại
biểu từ ba mươi bảy quốc gia tham dự
đại hội ấy, số lượng gần đến
hai ngàn người. Chuyện này hết sức khó có, cho thấy
kẻ lănh đạo đất nước Trung Hoa coi trọng
truyền thống và giáo dục tôn giáo, khác hẳn trước
kia. Kế đó, có một vị đồng tu cắt một
bài báo đưa cho tôi coi, tin tức ngắn chừng một
ô vuông, dường như từ nhật báo Tần Quả số
ra ngày Hai tháng Năm. Theo bản tin ấy, Giả chủ tịch
và Lưu phó chủ tịch của hội nghị hiệp
thương chánh trị Trung Hoa tiếp kiến các nhà lănh
đạo thành phố Bắc Kinh, có nói họ hy vọng sẽ
thành lập một đại học Phật giáo tại Bắc
Kinh. Đấy là một chuyện tốt đẹp, tôi
đọc xong, hết sức hoan hỷ. Đồng thời,
tôi cũng nghĩ hiện thời, Hồ chủ tịch (Hồ
Cẩm Đào) đang đề xướng thế giới
hài ḥa trên khắp quốc tế. Quan niệm ấy tốt
đẹp, đấy là “phát
tâm phổ bị ân”, mong cứu thế giới này, hy vọng
mọi người trên thế giới này có thể đối
đăi b́nh đẳng, chung sống ḥa thuận.
Thế giới hài
ḥa tuy do Hồ chủ tịch đề ra đầu tiên,
nhưng trên thực tế và thực chất, mỗi quốc
gia, mỗi dân tộc, cho đến mỗi cá nhân đều
hy vọng xă hội an định, thế giới ḥa b́nh. Tổ
chức Giáo Dục, Khoa Học, Văn Hóa (UNESCO) của Liên
Hiệp Quốc từ niên đại bảy mươi
đă truy cầu an định, ḥa b́nh, mỗi năm mở
bao nhiêu lượt hội nghị. Suốt ba mươi năm qua, họ
đă đầu tư nhân lực, vật lực, tài lực
chẳng thể kể
xiết, tôi tham dự năm lần. Thế
nhưng tần số xung đột xă hội trên thế
giới mỗi năm một tăng, tai hại mỗi lần
một nghiêm trọng hơn, khiến cho khá nhiều vị
học giả, chuyên gia nh́n vào t́nh h́nh thực tế đều
lắc đầu thở dài, chẳng có cách nào thực hiện
ḥa b́nh! Sau khi tôi tham dự hội nghị vài lần, đă
nghĩ cổ thánh tiên hiền dạy chúng ta “kiến quốc, quân dân, giáo học
vi tiên” (xây dựng đất nước, cai trị dân
chúng, dạy học làm đầu). Lại thấy thành tựu
thuở tại thế của Thích Ca Mâu Ni Phật là do mở
các lớp học thành công, chúng ta có thể làm thử
như vậy xem sao?
Khi tôi học Phật,
tôi đă thưa tŕnh cùng chư vị đồng tu: Thuở
ấy, thầy tôi là Chương Gia đại sư trước
hết dạy tôi đọc các bộ sách Thích Ca Phương
Chí và Thích Ca Phổ, đọc hai loại sách ấy. Hai loại
sách ấy là truyện kư về Thích Ca Mâu Ni Phật. Xem xong,
tôi đối với đạo đức, trí huệ, ḷng
từ bi, và ân huệ của Thích Ca Mâu Ni Phật [bội phục] năm vóc sát đất, kính nể, bội phục tột
cùng. Tôi mong học theo Ngài; do đó, mới phát tâm xin
được quy y. Chương Gia đại sư cho tôi
quy y, hướng theo Thích Ca Mâu Ni Phật học tập. Tại
Trung Hoa là học tập theo Khổng Tử, học tập
theo Mạnh Tử, học tập theo Lăo Tử, làm học
tṛ của các vị thánh hiền. Rốt cuộc bản
thân chúng tôi trí huệ hữu hạn, tâm có thừa mà sức
chẳng đủ, phước báo hữu hạn, trí huệ
hữu hạn, nhưng chúng tôi toàn tâm toàn lực thực hiện.
V́ thế, từ khi xuất gia, tôi bắt đầu mở
lớp dạy học, đi theo con đường này, làm
đến nay đă bốn mươi tám năm, cũng nẩy
sanh một chút hiệu quả. Nếu Liên Hiệp Quốc
có thể chọn phương pháp này, tôi tin tưởng họ
làm một năm sẽ tối thiểu hơn tôi làm hai
mươi năm. Họ làm ba năm, những ǵ tôi đă
làm suốt một đời này đều chẳng sánh bằng! Chuyện
ấy tốt lắm!
V́ thế, tôi
nghĩ Hồ chủ tịch hô hào “thế giới hài ḥa” trên thế giới, thực
hiện từ nơi đâu? Hăy làm từ chỗ mở trường
học, đấy mới là chắc thật. Lập
trường học ǵ vậy? Chẳng phải là mở
đại học Phật giáo! Tôi kiến nghị với
ông ta, tốt nhất là mở trường đại học
tôn giáo thế giới. Dùng đại học tôn giáo thế
giới để bồi dưỡng, huấn luyện học
tṛ, áp dụng phương pháp mở khóa huấn luyện
giáo dục tôn giáo trên khắp thế giới, dùng
phương pháp dạy học để giáo hóa chúng sanh. Các
tín đồ tôn giáo trên khắp thế giới có thể
đối đăi b́nh đẳng, chung sống ḥa thuận,
chuyện này tất nhiên sẽ ảnh hưởng tới dân
tộc, ảnh hưởng quốc gia. Tôi nghĩ sẽ có
thể làm được “thế
giới an định, ḥa b́nh, hóa giải hết thảy các
xung đột”.
Mấy năm
trước, chúng tôi phái mấy học tṛ đến quê
hương tôi là thị trấn Thang Tŕ, tỉnh An Huy làm thí
nghiệm. Chúng tôi mở lớp, lấy thị trấn
Thang Tŕ làm một điểm thí nghiệm. Cư dân ở nơi
ấy là bốn vạn tám ngàn người, nam, nữ, già,
trẻ, các ngành nghề, mọi người cùng nhau học
Đệ Tử Quy. Đến tháng Năm năm nay vừa
đúng nửa năm, có hiệu quả rất tốt, tín
tâm của chúng tôi tăng trưởng. Quư vị thấy biện
pháp từ năm ngàn năm trước, nay là năm ngàn năm sau, chúng ta làm thí nghiệm bèn th́ [kết quả] rất tốt,
[phương pháp này] được lắm, điều này khiến cho tín tâm của chúng tôi
tăng trưởng.
V́ thế, Phật,
Bồ Tát phát tâm giúp đỡ hết thảy chúng sanh khổ
nạn, chúng ta phải nên phỏng theo. Phật, Bồ Tát
dùng phương pháp ǵ để thực hiện? Dùng dạy
học. Các Ngài có hai câu, “phá mê khai ngộ, ĺa khổ được vui”. Nội dung dạy học của chúng ta là
giúp đỡ hết thảy chúng sanh phá trừ mê hoặc; nếu nói theo kiểu
hiện thời sẽ là “phá trừ mê tín, thật sự giác ngộ ư
nghĩa và giá trị của nhân sinh và vũ trụ”. Sau đấy, quư vị mới có thể
hành xử tốt đẹp trong mối quan hệ giữa con người với nhau, hành xử tốt đẹp
trong mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, hành
xử tốt đẹp trong mối quan hệ giữa con
người và các chiều không gian khác nhau. Đấy là “chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ”. Quan hệ tốt đẹp th́ sẽ ĺa khổ
được vui! Người với người có thể
tôn kính lẫn nhau, kính yêu lẫn nhau, quan tâm lẫn nhau, chiếu
cố lẫn nhau, hỗ trợ hợp tác, đấy là
thiên đường trong nhân gian, là thế giới Cực
Lạc trong nhân gian. V́ thế, nếu thật sự mong thực
hiện; ngoài giáo học ra, chẳng có cách thứ hai nào cả!
Trong mấy
năm qua, tôi tham dự công tác ḥa b́nh thế giới, hóa giải
xung đột, xúc tiến ḥa b́nh. Tôi nói với người
phương Tây, ở phương Tây xác thực là có không
ít người suy nghĩ theo kiểu “đối với
xung đột, phải nên dùng vũ lực để trấn
áp, phải nên dùng vũ lực lớn mạnh để
giáng trả”. Hiện thời, đă làm thử nhiều
năm như vậy, chẳng ổn, chỉ khiến cừu
hận sâu thêm, khiến cho vấn đề càng nát bét
hơn! Liên Hiệp Quốc dùng phương pháp họp hành,
dùng phương pháp hội nghị hơn ba mươi
năm, cũng chẳng có hiệu quả! Điều này khiến cho chúng tôi nghĩ đến
biện pháp của tổ tiên, mở lớp dạy học,
chúng ta làm thí nghiệm. Thí nghiệm thành công, báo cáo với
những người có chí, những vị sẵn ḷng nhân tại
Liên Hiệp Quốc: “Có hy vọng! Chúng ta chẳng cần mở
cuộc họp, mà hăy dạy học, mở lớp dạy
học”. Chúng ta t́m những người bạn chí đồng
đạo hợp, phát tâm học tập sách vở của
cổ thánh tiên hiền. Bản thân chúng ta học tập, lấy
thân làm gương, ta làm được trước đă,
sau đấy mới sẽ dạy dỗ người khác.
Chúng tôi mở lớp dạy học tại các nơi trên cả
thế giới, tôi tin là phương pháp này sẽ tốt
hơn, có hiệu quả hơn họp hành. Đấy là từ
ân đức phát tâm độ trọn khắp các căn
cơ của chư Phật, Bồ Tát mà đạt
được sự khải thị. Nay đă hết thời
gian rồi, chúng ta nghỉ ngơi mấy phút.
***
Chư vị pháp
sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống.
Chúng ta xem tiếp ân thứ hai trong mười ân.
(Sao) Nan hành khổ hạnh
ân, do như từ mẫu, yết khổ, thổ cam, xả
đầu, mục, tủy, năo, quốc thành, thê tử, nhiên
thiêu tự kỷ, chiếu diệu chúng sanh, nan xả
năng xả, nan hành năng hành.
(鈔)難行苦行恩,猶如慈母,嚥苦吐甘,捨頭目髓腦,國城妻子,燃燒自己,照耀眾生,難捨能捨,難行能行。
(Sao: “Ân thực hiện các hạnh
khó, hạnh khổ”, ví như mẹ hiền nuốt đắng,
nhả ngọt, bỏ đầu, mắt, tủy, năo, quốc
thành, vợ con, thiêu đốt chính ḿnh để chiếu
sáng chúng sanh, có thể xả những thứ khó
xả, có thể hành hạnh khó hành).
Đây cũng là
nêu ra mấy thí dụ, những chuyện này nói chẳng thể trọn hết được! Trong cổ thư
Trung Hoa đă ghi chép quá ư là nhiều, chẳng có chuyện
nào không khiến cho mọi người cảm động!
Mẹ đặc biệt chăm sóc con cái, trong giai đoạn
từ lúc [con vừa mới] sanh ra cho đến ba tuổi,
đă toàn tâm toàn lực [chăm bẵm con thơ]. Kẻ chẳng
làm cha mẹ không biết, kẻ làm cha mẹ mới thật
sự thấu hiểu. Quư vị làm cha mẹ, chăm sóc
con thơ như thế nào, phải nghĩ khi chính ḿnh sanh
ra, mẹ quư vị đă chăm sóc quư vị như thế
đó. V́ thế, ngạn ngữ Trung Hoa có câu: “Dưỡng tử phương
tri phụ mẫu ân” (Nuôi con mới biết ơn cha mẹ).
Quư vị chẳng sanh con đẻ cái, sẽ chẳng thể
nghĩ tưởng nổi ân đức của cha mẹ.
Khi chính quư vị nuôi nấng con cái, mới biết ân cha mẹ
đối với con cái. V́ thế, bao nhiêu kẻ khi chính
ḿnh nuôi nấng con cái, cha mẹ của chính ḿnh đều
già khọm cả rồi, gần như một nửa
đă qua đời mất rồi, khi ấy có hối hận
th́ đă muộn màng! Nếu chẳng có một vị thầy
tốt thường nhiệt tâm chỉ dạy chúng ta, chúng
ta làm sao biết được?
Một gia tộc,
một dân tộc, một quốc gia đời đời
truyền thừa dựa vào ǵ? Dựa vào giáo dục. Giáo dục
của tổ tiên là kết tinh trí huệ và kinh nghiệm của
họ. Trong các vị tổ tiên của khá nhiều dân tộc
trên cả thế giới, nói thật ra, tổ tiên người
Hoa đáng được tôn kính nhất! Họ đă
nghĩ cho đời sau rất châu đáo. Chúng ta là kẻ làm
con cháu, chớ nên không biết đạo lư và chân tướng
sự thật này. Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ,
và tạo tác của chúng ta có xứng đáng với tổ
tiên hay chăng? Có thể báo đáp ân đức của tổ
tiên hay không? Phải thường xuyên tự vấn. Trên cả
thế giới, đối với giáo huấn do cổ
thánh tiên hiền truyền lại, ta thấy ngoài giáo dục
tôn giáo ra, những thứ khác đều chẳng có cách nào truyền thừa lâu xa. Do nguyên nhân ǵ vậy? Chẳng
có công cụ tốt đẹp, chẳng thể truyền đạt
[cho thế hệ sau] được! Chỉ riêng tổ
tiên người Hoa thật sự có trí huệ, đă phát
minh công cụ để truyền lại tin tức. Công cụ
ǵ vậy? Văn tự! Do vậy, văn tự Trung Hoa là
phù hiệu trí huệ, dẫu quư vị chẳng biết đọc, nhưng nh́n vào h́nh dạng, nh́n vào cách viết
của nó, sẽ có thể thấu hiểu ư nghĩa trong ấy.
Văn tự ngoại quốc chẳng có điều này!
Ngoại quốc dùng văn
tự theo cách bính âm[2], chẳng có
[những phù hiệu hội ư]! V́ thế, văn tự Trung
Hoa là đồ họa, là nghệ thuật, có linh tánh trong ấy,
rất tuyệt diệu! “Văn dĩ tải đạo”
(Văn để chuyên chở đạo). “Văn” (文) là văn
tự, trong ấy có đạo, tức là có trí huệ, có
kinh nghiệm, có đức năng trong ấy.
Phát minh
tuyệt diệu thứ hai là thể loại Văn Ngôn. Đấy là tổ
tiên đă sớm suy tưởng, biết ngôn ngữ sẽ
biến đổi. Người Hoa thường nói “ba
mươi năm là một đời”. Trong kinh nghiệm của bản thân chúng tôi, trong
[khoảng thời gian] ba mươi năm, rất nhiều
câu, chữ trong lời ăn tiếng nói của chúng ta chứa
đựng những thứ mới mẻ, mà người
đời trước chẳng có, chẳng nghe hiểu! Hiện
thời, kẻ trẻ tuổi nói rất nhiều thuật
ngữ tôi nghe không hiểu. Thời chúng tôi làm học tṛ,
lúc mười mấy, hai mươi tuổi, nói năng có
những khẩu ngữ[3], nếu nói
với người hiện thời, họ sẽ nghe không
hiểu. Điều này chứng tỏ ngôn ngữ có thể
biến đổi; v́ thế, văn tự và ngôn ngữ
quyết định chẳng thể hoàn toàn giống nhau. [Ngôn ngữ và văn tự] hoàn toàn giống nhau, vài chục năm, mấy trăm
năm sau th́ những điều được diễn tả
bằng văn tự sẽ chẳng có ai hiểu. Giống
như chữ Lạp Đinh (Latin, chữ La Tinh) của
phương Tây là văn tự thời cổ đại,
chỉ có những vị học giả, chuyên gia, khảo cổ
có thể nhận biết chút ít, vẫn chẳng thể hoàn
toàn liễu giải ư nghĩa. Tổ tiên người Hoa
đă phát minh ra phương cách tách rời ngôn ngữ và
văn tự, Tách rời
ngôn ngữ và văn tự [th́ phần văn tự]
được gọi là thể
loại Văn Ngôn. Thể loại Văn Ngôn[4] là ǵ?
Vĩnh viễn không thay đổi! Đấy là cách làm hay
khéo!
Trong đời sống
thông tục, chúng ta nói là Văn Thoại và Bạch Thoại
(chữ Thoại trong “thuyết
thoại” - 說話, ăn nói). Văn Thoại là Văn
Ngôn, c̣n Bạch Thoại là nói theo kiểu thông dụng b́nh
thường; do vậy mới có thể loại Văn Ngôn
và thể loại Bạch Thoại. Thể loại Văn
Ngôn chuyên chở đạo! Nếu quư vị có thể học tập văn chương Văn Ngôn, xem cổ
thư Trung Hoa (cổ thư toàn viết bằng Văn Ngôn)
sẽ giống như đàm đạo trực tiếp với
[người đời trước], chẳng bị
ngăn ngại! Do đó, có người nói thể loại
Văn Ngôn quá khó; thật ra, chuyện trong thiên hạ chẳng
có ǵ là khó hay dễ! Bảo là “khó” chính là ǵ? Hễ quư vị
chẳng học th́ sẽ khó khăn! “Dễ” là ǵ? Hễ học bèn dễ
dàng.
Khi xưa tôi ở
Đài Loan, trong tay c̣n có mười mấy quyển Quốc
Văn của học tṛ Tiểu Học thời đầu
Dân Quốc (khoảng năm Dân Quốc thứ mười
mấy). Khi đó, gọi là Quốc Văn, chẳng gọi
là Quốc Ngữ. Quốc Văn của cấp Tiểu Học
cũng c̣n có mấy bản, đại khái là năm, sáu quyển
chi đó, chúng là những bài luận văn mẫu của
Tiểu Học, thuộc tŕnh độ từ lớp Bốn
cho đến lớp Sáu. Khi đó, [những lớp ấy]
được gọi là Cao Tiểu (tức cao đẳng
tiểu học), [những bài văn ấy] là những bài
văn làm mẫu. V́ động loạn đă nhiều
năm ngần ấy, chẳng có chỗ ở cố định,
đúng là trôi nổi khắp nơi, những quyển sách ấy
đều mất hết; hiện thời c̣n sót lại ba
bản. Tôi cũng thường đưa cho những bạn
trẻ tuổi xem. Quư vị thấy văn chương do học tṛ Tiểu
Học mười một, mười hai tuổi viết
vào thuở đó, sinh viên đại học ngành
Trung Văn hiện thời không
chỉ là chẳng thể viết được, mà c̣n
đọc không hiểu, vẫn phải tra từ điển,
phải tham khảo tài liệu. Quư vị nói xem, tŕnh độ Quốc
Văn kiểu đó, cổ nhân chê là “đọa lạc ngàn trượng”. Nay chúng ta
nghe lời ấy, đúng là sự thật, chẳng phải
là khoa trương, đúng là “đọa
lạc ngàn trượng”. V́ sao xưa kia học tṛ nhỏ
tí mười một, mười hai tuổi có thể viết
như thế? Chúng nó học từ bé, bắt đầu
đọc sách là đọc thể loại Văn Ngôn. Bắt
đầu đọc sách từ khi nào? Đại khái là
sáu, bảy tuổi. Trẻ nhỏ thông minh đôi chút th́ sáu
tuổi sẽ đi học; thông thường, đại đa
số đều là bảy tuổi bèn đi học. Bảy
tuổi học đến mười hai tuổi, những
sách vở trọng yếu của cổ nhân đều phải đọc
thuộc toàn bộ.
Bí
quyết để đọc sách xưa kia chẳng phải
là giảng giải cho quư vị, v́ lứa tuổi nhi đồng
th́ sức lư giải và sự từng trải trọn chẳng sâu, chỉ là dạy quư vị đọc, dạy quư vị thuộc
ḷng. Bởi lẽ, hiện thời có rất nhiều
người chẳng tán thành phương pháp này, [cho rằng
học thuộc kiểu đó] dường như sẽ
khiến cho người ta học thành kẻ ngốc nghếch.
[Quan niệm ấy] hoàn toàn sai lầm; [dạy học kiểu
đó] là trí huệ chân thật. Do quư vị chẳng tiếp
nhận sự giáo dục ấy, cho nên chẳng hiểu! Lứa
tuổi nhi đồng có trí nhớ tốt nhất trong suốt
một đời, phàm là những thứ cần phải
ghi nhớ đều được hoàn thành trong giai đoạn
này, cổ nhân Trung Hoa biết điều này! V́ thế, giáo
dục Tiểu Học là dạy ǵ? Dạy đức hạnh,
luân lư, đạo đức. Luân lư, đạo đức học
từ chỗ nào? Học từ nơi thầy. Thầy phải
đích thân làm được, thân giáo mà! Trong giáo dục Tiểu
Học, thân giáo là bậc nhất, ngôn giáo thứ nh́, là phụ
trợ, thuộc về địa vị kém hơn. Quan trọng
nhất là thân giáo. Luân lư, đạo đức, thầy phải
làm cho học tṛ thấy, học tṛ phải học tập
thầy cách xử sự, đăi người tiếp vật.
Làm thầy chẳng dễ; v́ thế, thầy có ân đức
to lớn. Chư vị phải hiểu, “ân Phật, Bồ Tát” như đức Phật
đă dạy chính là “ân thầy”.
[Xét theo ư nghĩa của chữ] “thầy”, Phật,
Bồ Tát là thầy, chúng ta gọi Thích Ca Mâu Ni Phật là Bổn
Sư, tức vị thầy căn bản, thầy nêu
gương cho chúng ta nh́n vào!
Xét theo
phương diện sách vở, thầy chỉ dạy chúng
ta thuộc ḷng, dạy
quư vị biết chữ, nhận
biết mặt chữ. Chuyện này cần phải giảng
giải. Dạy quư vị nhận biết chữ, dạy quư
vị đọc thuộc ḷng. Đọc thuộc ḷng là không
nh́n vào sách, mà có thể đọc nằm ḷng. Sau đấy
mới lại đốc thúc quư vị, quư vị có thể
đọc thuộc ḷng, đốc thúc quư vị đọc
thuộc ḷng một trăm lần, đọc thuộc ḷng
hai trăm lần. V́ sao? Nhuyễn nhừ! Sau khi đă nhuyễn
nhừ, suốt cả đời quư vị sẽ chẳng
quên mất. Tới khi cần dùng, đến lúc tráng niên hoặc xế
chiều, khi cần dùng, viết văn chương cần
trích dẫn kinh điển, sẽ chẳng cần phải
tra cứu tài liệu tham khảo, quư vị ghi nhớ toàn bộ! Trong quá khứ, tôi ở cùng một chỗ với
thầy Lư, [thấy] thầy viết văn, trích dẫn
kinh điển chẳng cần t́m sách tham khảo, Ngài có thể
đọc nằm ḷng. Ngài bảo chúng tôi, do lúc nhỏ phải
quỳ trên miếng gạch mà thành! Chúng ta chẳng có kinh
nghiệm về chuyện ấy, chẳng hề phải chịu
nỗi khổ ấy. Thầy lớn hơn tôi ba
mươi chín tuổi, hứng chịu nỗi khổ ấy,
hoàn toàn đều là học thuộc trong khi ấy. V́ thế, chúng tôi thua
kém thầy quá xa!
Đọc thuộc
ḷng, ví như Tứ Thư, Ngũ Kinh, chư tử bách gia.
[Học các tác phẩm của] chư tử bách gia là tuyển
tập, tức là những tác phẩm được chọn
lựa, c̣n Ngũ Kinh, Tứ Thư là những sách bắt
buộc phải đọc. Như sách Tư Trị Thông
Giám[5] ắt phải
đọc, c̣n những tác phẩm như Sử Kư hoặc
Hán Thư thuộc loại tuyển đọc. Kinh sách là học
thuật, là học vấn, là trí huệ; c̣n lịch sử
là kinh nghiệm, là một tấm gương soi tỏ những
điều người trong quá khứ đă làm, cung cấp
cho chúng ta kiến thức và kinh nghiệm phong phú. Những tiểu
phẩm văn nghệ[6] là thứ
để tiêu khiển, tức là những vị đă có
thành tựu nơi kinh sử, có căn cơ rất tốt,
mới học hỏi đôi chút những thứ thuộc về
phương diện văn nghệ, thi, từ, ca, phú là những
thứ kèm theo. Những thứ ấy, nói thật ra, trong ấy
có niềm vui thú to lớn, có trí huệ to lớn, có đại
đức, đại năng, trong ấy thật sự có
đại lạc! V́ thế, đọc sách vui sướng,
niềm vui do đọc sách vô cùng, đọc sách vở của
cổ thánh tiên hiền vĩnh viễn là đọc chẳng chán! V́ chúng tôi lúc bé sanh trưởng trong thời chiến
tranh loạn lạc, đọc quá ít, hiện thời
đă cao tuổi ngần ấy, vẫn c̣n “mất dê mới lo sửa chuồng”, hằng ngày vẫn đọc tụng! Nếu ngày nào
chẳng đọc cổ thư, sẽ cảm thấy
như ngày ấy luống uổng, sống chẳng có mảy
may ư nghĩa ǵ, chẳng có mảy may giá trị ǵ! Mỗi
ngày đọc kinh, đọc sách vở của cổ thánh
tiên hiền, mới thật sự biết ân đức. Ân
đức ǵ vậy? Ân đức cha mẹ. Nhà Phật nói
bốn trọng ân, tức là [ân đức cha mẹ], ân
đức thầy, ân đức quốc gia, và ân đức
chúng sanh. Hết thảy chúng sanh đều có ân đức
đối với chúng ta. Nếu quư vị thật sự
hiểu rơ, quư vị sẽ thông hiểu. V́ thế, Bồ
Tát phát nguyện này, “chúng sanh vô
biên thệ nguyện độ”, đó là báo ân, hết thảy
chúng sanh có đại ân đại đức đối với
chúng ta!
Mẹ chăm sóc
con thơ luôn luôn là dạy dỗ; v́ thế, Trung Hoa có “thai giáo”. Tôi đă nói chuyện
này rất nhiều. Thường là người ta dẫu
chẳng bắt đầu dạy từ khi mang thai,
nhưng sau khi [đứa trẻ] được sanh ra, đứa
bé mở mắt ra, nó có thể thấy, có thể nghe, bèn bắt
đầu dạy, toàn là thân giáo. Kẻ làm cha mẹ ở
trước mặt con cái nhất định phải giữ
lễ, khiến cho trẻ thơ thấy, nghe, tiếp xúc toàn
là những thứ chánh diện, toàn là luân lư đạo
đức. Tất cả hết thảy những thứ bất
thiện quyết định chẳng để cho trẻ
thơ thấy, nghe, tiếp xúc, chẳng thể được!
Ngạn ngữ có câu: “Thiểu
thành nhược thiên tánh, tập quán thành tự nhiên” (Do h́nh
thành từ nhỏ mà giống như bẩm tánh, do thói quen
mà thành tự nhiên). Đúng là chẳng sai tí nào, người
Hoa đă liễu giải [điều ấy]. V́ thế,
người Hoa thường nói “tam
tuế khán bát thập” (từ tánh cách của một người
lúc ba tuổi có thể thấy
được tánh cách của người ấy khi đă
tám mươi). Ba tuổi c̣n
chưa đi học, sáu tuổi mới đi học. Ba tuổi
c̣n chưa đi học, có thể thấy căn cơ của
kẻ ấy như thế nào, có thể thấy được,
[bởi lẽ], thiện căn và phước đức của
một người có thể biểu hiện từ lúc ba
tuổi. “Thất tuế khán
chung sanh”, [nghĩa là] bảy tuổi vào Tiểu Học,
đă đi học, thân cận thầy, có thể từ
đó mà thấy được cả một đời
người ấy! Do vậy có thể biết, trước
khi sáu tuổi là do cha mẹ dạy, [bản thân cha mẹ]
làm người thân, làm vua, làm thầy, tức “quân, thân, sư”. Bảy tuổi trở đi là do thầy dạy, thầy
kế tục việc giảng dạy của cha mẹ,
không ǵ chẳng phải là dùng luân lư, đạo đức,
và nhân quả làm khóa tŕnh chủ yếu nhất. Người ngoại quốc thường nói giáo dục
trước khi bảy tuổi, c̣n người Hoa nói là
trước khi ba tuổi. Trước khi lên ba tuổi là trọng yếu nhất, trước khi tṛn ba tuổi
mà sơ sót, sẽ chẳng dễ dạy, [đứa trẻ sẽ]
học theo điều xấu! Từ chỗ này, quư vị
có thể thấu hiểu ân cha mẹ, ân đức của
người trong một nhà đối với quư vị, v́
sao? Họ đă ở trước mặt quư vị, biểu
diễn cho quư vị thấy những điều chánh
đáng. Người trong một nhà đều có ân đức
đối với quư vị, chỉ sợ quư vị sẽ
học theo cái xấu!
Nh́n lại Thích Ca
Mâu Ni Phật, kinh Bổn Hạnh nói trong đời quá khứ,
khi đức Phật hành Bồ Tát đạo, cũng là
trong quá tŕnh cầu học (thành Phật là tốt nghiệp),
thật sự “có thể hành
được điều khó hành, có thể bỏ điều
khó bỏ”, v́ chuyên tâm cầu học mà vứt bỏ quốc
thành, vợ con. Phụ thân của Ngài là quốc
vương, tức quốc vương xứ Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatsu), Ngài là con trưởng, sẽ kế thừa ngôi vua,
[thế mà thản nhiên] vứt bỏ, vứt bỏ quốc
thành, vứt bỏ vợ con, xuất gia tu đạo. V́
sao? Nhằm báo ân chúng sanh, nhằm báo ân cổ Phật, Ngài
mới làm như thế đó. Như vậy th́ mới có
thể khiến cho chính ḿnh chuyên tâm, nhất tâm nhất ư,
toàn tâm, toàn lực nâng cao sự tu dưỡng đạo
đức của chính ḿnh, tăng tấn trí huệ của
chính ḿnh lên một mức độ cao, đến khắp
nơi cầu học. Chúng ta chớ nên không biết điều
này; sau khi đă biết, phải nên làm theo. Thánh hiền thế
gian và xuất thế gian, có ai chẳng vất vả học
hành? Cầu học chớ nên sợ khổ! Hăy xem Khổng
Tử thành tựu như thế nào? Mạnh Tử thành tựu
như thế nào? Thích Ca Mâu Ni Phật thành tựu như thế
nào? Tinh thần, nghị lực của các Ngài, tinh thần
hiếu học của các Ngài, chẳng sợ hết thảy
gian nan, khốn khổ. Nếu chúng ta có thể thấu hiểu,
chẳng mảy may v́ chính ḿnh mà mưu cầu tiếng
tăm, lợi dưỡng! Thân thể này sống trong thế
gian là để phục vụ hết thảy chúng sanh. Các
hạng mục phục vụ rất nhiều! Họ làm một
vị thầy tốt, làm một giáo viên tốt, dùng thân phận
ấy để v́ Phật pháp, v́ chúng sanh mà cống hiến
chân thật, viên măn.
Trong kinh Phật có
một bài kệ như thế này:
Giả sử đảnh đới kinh trần kiếp,
Thân
vi sàng ṭa biến tam thiên,
Nhược
bất truyền pháp lợi chúng sanh,
Tất
cánh vô năng báo ân giả.
(Giả sử
đeo, đội trải trần kiếp,
Thân làm giường
ṭa khắp tam thiên,
Nếu chẳng
truyền pháp lợi chúng sanh,
Rốt cuộc chẳng
thể báo ân đức).
Bài kệ này nói hay
quá! Nó có ư nghĩa là chúng ta đội cha mẹ trên đỉnh
đầu, thời gian bao lâu? Trải qua số kiếp nhiều
như các hạt vi trần! Chúng ta dùng thân thể này như
giường hoặc ṭa, khi cha mẹ muốn nghỉ
ngơi bèn an vị trên thân ta, thân ấy to cỡ nào? Trọn
khắp tam thiên đại thiên thế giới. [Làm như vậy]
có thể báo ân hay không? Chẳng thể! Phải như thế
nào th́ mới có thể báo ân? Phải truyền pháp lợi lạc
chúng sanh. “Truyền” (傳) là truyền thừa, khiến cho đạo thống (道統, giềng mối đạo) của cổ thánh tiên hiền được truyền
từ đời này sang đời khác, chẳng thể
đến nơi ta bèn đứt đoạn. Người
Hoa thường nói về điều này bằng câu: “Bất hiếu hữu tam, vô hậu
vi đại”. “Hậu” (後) ở
đây là chẳng truyền thừa cho đời sau,
đấy là lầm lỗi đặc biệt to tát! V́ thế,
dẫu quư vị có nhiều con cái đến mấy đi
nữa, mà nếu [chúng nó] chẳng thể truyền
thừa gia nghiệp, những đứa con ấy chẳng
đáng quư! Trong những đứa con, nhất định
phải có đứa có thể kế thừa gia nghiệp,
đạo thống của gia đ́nh đời đời
chẳng suy bại. Điển h́nh nhất tại Trung Hoa là
Khổng Tử, măi cho đến hiện thời đúng là
đời nào cũng đều có truyền nhân. “Truyền
nhân” ở
đây chẳng phải là đời sau có thành tựu, [mà
là đối với] trước tác của Khổng lăo phu
tử, tức là những thứ Ngài truyền lại,
[người ấy] đều học rất thông thuộc,
đều có thể y giáo phụng hành th́ mới là “có truyền thừa”. V́ thế, có gia phong, có gia pháp.
Sự nghiệp chẳng
thể truyền thừa là chuyện thứ yếu, chẳng
thể truyền thừa đạo nghiệp là hỏng rồi,
có lỗi với tổ tông. Đối với Phật pháp,
quư vị thấy điều quan trọng nhất trong các tông
phái là truyền nhân. Truyền pháp chẳng phải là như
hiện thời bái một vị sư phụ, sư phụ
ghi đời thứ mấy, tổ sư đời thứ
mấy thành một quyển
sách truyền cho quư vị th́ được coi là
truyền pháp, chẳng phải vậy! [Truyền pháp] là
truyền đạo. Trước kia, tổ sư các đời
đều truyền đạo, quư vị thật sự
thành tựu. Tịnh Tông chúng ta chẳng có truyền nhân, nhưng
Tịnh Độ Tông cũng có tổ sư, những vị
tổ sư ấy chẳng phải là đời
này truyền cho đời kia, mà là ǵ? Người đời
sau bầu chọn. V́ thế, tổ sư Tịnh Độ
Tông là do dân bầu, chẳng phải là do thầy từ
đời này truyền sang đời khác. Dân bầu chọn
th́ cách bầu chọn như thế nào? Vị pháp sư ấy
đối với chuyện tu tŕ và hoằng dương Tịnh
Độ Tông, sự ảnh hưởng của Ngài xác thực
là có thành tựu rất cao, khiến cho đại chúng trong
tâm kính nể, bội phục, thừa nhận Ngài là tổ
sư của cả một thế hệ. V́ thế, tổ
sư Tịnh Độ Tông chẳng phải là truyền thừa
trong khi c̣n sống, mà đều là sau khi đă khuất bóng,
được người đời sau suy tôn, sùng kính, do
như vậy mà có [các vị tổ sư]. Nhưng ngoài Tịnh
Độ Tông ra, mỗi tông phái đều là đời này
truyền cho đời kia. V́ thế, Tịnh Độ
Tông xác thực là rất đặc thù.
Nếu nói về sự
truyền thừa trong Tịnh Độ Tông, chúng ta có thể
nói là truyền thừa pháp của Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni,
pháp ǵ vậy? Ba kinh một luận, quan trọng nhất là
ba kinh, tức kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng
Thọ Phật, và kinh A Di Đà. Nếu quư vị thuộc
nằm ḷng ba kinh ấy, nếu quư vị y giáo phụng hành ba kinh ấy,
có thể thật sự thực hiện, như vậy th́
quư vị là đệ tử của Thích Ca Mâu Ni Phật, là
đệ tử của A Di Đà Phật, quư vị nắm
chắc văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Đấy là truyền thừa, tức là sự truyền
thừa trong Tịnh Tông. Trong lịch sử Trung Hoa, tông Hoa
Nghiêm truyền Đại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm Kinh; không chỉ là quư vị có thể hiểu
được, mà quư vị c̣n phải làm được!
Tông Thiên Thai truyền Pháp Hoa, Pháp Tướng truyền kinh
luận Duy Thức, Tam Luận truyền Trung Luận, Bách
Luận và Thập Nhị Môn Luận, về sau lại
tăng thêm Đại
Trí Độ Luận. Mỗi tông
phái có kinh luận chủ tu riêng, phải là từ trong ấy, đương nhiên là
người học rất nhiều,
chọn lựa người ưu tú nhất trong số
đó để truyền pháp. V́ thế, đúng là “bất hiếu hữu tam, vô hậu
vi đại”, chúng ta phải ghi nhớ chắc chắn câu giáo huấn này!
Thật ra, truyền
nhân có thể gặp, chứ chẳng thể cầu! Đến
đâu để t́m? Chẳng t́m được! Nói chung là
có nhân duyên đời trước th́ sẽ gặp gỡ; hễ gặp
th́ phải khéo vun bồi, phải khéo dạy dỗ, đó
gọi là “sư tư đạo
hợp” (師資道合, thầy tṛ hợp đạo), [tức là] t́nh cảm
giữa thầy và tṛ c̣n hơn cha con, thật sự truyền
pháp. Sau khi đă tiếp nhận truyền pháp, sứ mạng
suốt một đời này là giáo học, hoằng pháp lợi sanh, lại
t́m truyền nhân cho thế hệ kế tiếp, như vậy
là rất viên măn. Nếu thật sự chẳng t́m thấy
truyền nhân trong đời này, cổ nhân bèn viết sách,
hy vọng đời sau có kẻ đọc sách ấy, sẽ
ngộ, sẽ kế thừa. Đấy là phương
pháp tốt đẹp. Nói thật ra, tại Trung Hoa, Khổng Tử đă
mở đầu phương pháp này! Thuở Khổng Tử
tại thế, chẳng có truyền nhân, mà cũng chẳng
nói truyền pháp cho đệ tử nào. Đến cuối
cùng, ai truyền pháp của Ngài? Mạnh Tử. Khi Mạnh
Tử ra đời, Khổng lăo phu tử đă khuất
bóng, Mạnh Tử học với ai? Sách của Khổng Tử
hăy c̣n, trước tác của lăo nhân gia c̣n đó! Mạnh Tử
rất hoan hỷ, yêu thích, bội phục, bèn học theo Khổng
Tử, học rất giống. V́ thế, Ngài biến thành truyền
nhân của Khổng Tử. Nay chúng ta nói Khổng Mạnh,
chẳng hề nói đến ai khác. Thật vậy! Tại
Trung Hoa, các đời đều khẳng định Khổng
Tử là Chí Thánh, Mạnh Tử là Á Thánh. Đấy là sử
dụng phương pháp đó, trong hiện thời chẳng
t́m thấy [truyền nhân], chúng ta lưu lại trước
tác. Những trước tác ấy sẽ khải phát
người đời sau, hy vọng người đời
sau sẽ tiếp tục làm, đều là rất khó! Lịch
đại (trải qua các triều đại) những vị
suốt một đời thật sự chẳng
t́m thấy truyền nhân rất nhiều; trước kia,
thầy Lư thường kể cho chúng tôi nghe những
câu chuyện ấy!
Chúng ta hiểu rơ đạo
lư này, nếu trong đời này, chúng ta chẳng gặp
được thiện tri thức chân chánh, có thể t́m cổ
nhân. Ví như quư vị học Hoa Nghiêm, chẳng t́m
được một vị thầy tốt chỉ dạy,
được rồi, chú giải của Thanh Lương
đại sư là hướng dẫn tốt nhất. Hợp
Luận của Lư trưởng giả cũng khá lắm, vậy
là quư vị t́m được hai vị thầy! Quư vị
hăy khéo y giáo phụng hành, nghiên cứu những bộ chú giải
của các Ngài, sẽ giúp cho quư vị lư giải những ư
chánh yếu trong kinh, quư vị biến thành truyền nhân của
ngài Thanh Lương và Lư trưởng giả, quư vị sẽ
có thành tựu. Do đó, chúng ta chớ nên không biết
chuyện này.
Thời gian thân cận
thầy tùy thuộc duyên phận. Có người duyên phận
rất ngắn, thân cận mấy hôm, mấy tháng, mấy
năm, nhưng người ấy có thành tựu.
Có những người thời gian duyên phận lâu dài, có thể
thân cận mười mấy, hai mươi năm, ba
mươi năm, đều chẳng phải là chuyện
dễ dàng. Nhưng trong thời đại hiện tại,
duyên phận thù thắng như vậy càng ngày càng khó
gặp! Suốt đời này, tôi chẳng thích di chuyển
nhiều, di chuyển nhiều th́ học thứ ǵ cũng
khó khăn. Tôi luôn mong được yên tĩnh, giống
như cổ nhân suốt đời ở trên một quả núi, chẳng xuống núi, tôi rất mong được
sống cuộc đời như vậy, nhưng chẳng
có phước báo ấy, cho nên suốt đời luôn sống
lưu lạc. Trong lưu lạc có một chút thành tựu nho nhỏ, hết sức khó khăn! Hiện thời, tuổi
đă cao, vẫn muốn t́m một chỗ ở yên, măi cho
đến hiện thời vẫn chẳng có duyên phận.
Tôi trọn chẳng buông
bỏ ư niệm ấy, luôn mong có thể
sống cuộc đời an ổn mấy năm, có thể
có mấy đồng học cùng nhau học tập là tôi thỏa
ḷng măn nguyện rồi!
V́ thế, Ngài
đă ĺa bỏ quốc thành, vợ con, đấy là thứ
khó bỏ nhất! Thích Ca Mâu Ni Phật đă v́ chúng ta biểu
diễn buông xuống, “ăn một bữa giữa trưa, đêm nghỉ
dưới cội cây”. Những học tṛ theo học với Ngài, chúng ta
thường thấy kinh chép một ngàn hai trăm năm
mươi lăm vị, thật sự là chí đồng
đạo hợp, cũng đều giống như Thích
Ca Mâu Ni Phật, cũng là mỗi ngày ăn một bữa
trưa, ba y một bát, qua đêm dưới cội cây,
đều thật sự có thể làm được “chuyện
khó bỏ mà có thể bỏ, khó hành mà có thể hành”. Mỗi ngày ở cùng một chỗ với Thích Ca
Mâu Ni Phật, nghe lăo nhân gia giáo huấn. Lăo nhân gia cũng thật
sự là bậc đại trí huệ, v́ sao? Hằng ngày
đều giảng cho mọi người, giảng suốt
bốn mươi chín năm vẫn chẳng xong. Nay lũ
b́nh phàm chúng ta làm thầy, đi dạy học bên ngoài, chúng
ta chuẩn bị bài giảng, dạy mấy tháng là dạy xong, sau đó chẳng c̣n ǵ nữa. Thích Ca Mâu Ni Phật có
thể nghiễm nhiên dạy suốt bốn
mươi chín năm mà vẫn chẳng dạy xong, điều
này khiến cho kẻ khác chẳng thể không bội phục!
V́ thế, vĩnh viễn là giảng chẳng hết, giảng
chẳng xong!
Mở bộ kinh
này ra, từng chữ, từng câu đều là vô lượng
nghĩa, làm sao quư vị có thể giảng cho hết
được? Chuyện này cần phải nhờ vào ǵ?
Nói theo phía chúng ta là huân tu lâu dài, chẳng gián đoạn một
ngày nào! Hằng ngày phải đọc sách, hằng ngày phải
tu hành. Tu hành th́ quư vị phải nắm được tổng
cương lănh. Tổng cương lănh là ǵ? Buông xuống.
Tôi thường nói buông xuống chấp trước đối
với hết thảy người, hết thảy sự,
hết thảy vật. Nếu chẳng chấp trước, sẽ
là A La Hán. Lại có thể buông xuống, tiến hơn một
bước nữa là buông xuống phân biệt. Không chỉ
là chẳng chấp trước, mà đối với hết
thảy người, sự, vật thảy đều chẳng
phân biệt, sẽ là Bồ Tát. Nếu có ngày nào đối
với hết thảy người, sự, vật, hết
thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều
chẳng khởi tâm, không động niệm, vậy th́ chúc
mừng quư vị, quư vị đă thành Phật. V́ thế,
kinh Hoa Nghiêm nói rất hay: “Hết
thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng
của Như Lai, chỉ v́ vọng tưởng, chấp
trước mà chẳng thể chứng đắc”.
Chúng ta phải nhớ kỹ câu nói ấy, đấy là một
tổng cương lănh! Chỉ cần chúng ta buông xuống
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, sẽ
thành Phật. V́ thế, có người hỏi: “Phật ở
chỗ nào, các ngươi có thấy hay không?” Tôi nói: “Tôi biết,
Phật ở ngay trước mắt, tôi đă thấy rồi!
Chính là quư vị! Chỉ cần quư vị có thể buông xuống
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, quư
vị chính là Như Như Phật!” Tôi có thể buông xuống,
tôi là Phật; quư vị có thể buông xuống, quư vị
cũng là Phật.
Đối với
ba món, chẳng buông xuống vọng tưởng được,
nhưng phân biệt và chấp trước đă buông xuống,
quư vị là Bồ Tát. Trong ba món, có hai món chẳng buông xuống
được, tức là chẳng buông xuống vọng
tưởng và phân biệt, nhưng buông xuống chấp
trước, quư vị
thành A La Hán. Cả ba món đều không buông xuống
được, quư vị là lục đạo phàm phu. Phật
do phàm phu tu thành, thánh và phàm chẳng hai! Hễ quư vị
buông xuống, sẽ là Phật, Bồ Tát. Quư vị chẳng
buông xuống được, sẽ là phàm phu. Nếu chúng
ta mong làm Phật, nếu mong làm Bồ Tát, chẳng có ǵ
khác, buông xuống là được! V́ sao chẳng chịu
buông xuống? Thật sự có thể buông xuống, chuyện
ǵ cũng đều
chẳng làm, đấy là A La Hán.
Sau khi chính ḿnh đă buông xuống, có thể v́ hết thảy
chúng sanh phục vụ, đấy là Bồ Tát. Bỏ ḿnh v́
người, phần sau [của lời chú giải] nói là “nhiên thiêu tự kỷ, chiếu
diệu chúng sanh” (đốt cháy chính ḿnh, chiếu sáng
chúng sanh), đấy là Bồ Tát. Nói theo kiểu hiện thời,
sẽ là “thực hiện sự hiến dâng hy sinh to lớn
tột bậc”. Quư vị thấy chính ḿnh chẳng cần danh,
chẳng cần lợi, xả tài, xả sắc, xả
danh, chẳng có thứ ǵ không thể xả trừ!
Đối với
cái thân, từ thân thể của chính ḿnh mà biểu hiện luân lư, đạo đức, nhân quả,
tôn giáo, đấy là bốn loại giáo dục, ở chỗ
nào? Trong thân ta, ta làm được, làm cho người khác
thấy, tức là thân giáo. Có thân giáo rồi sau đấy mới
có ngôn giáo, người khác sẽ nghe theo, sẽ có thể tin
tưởng. Nếu chính ḿnh nói đến nỗi hoa trời
rơi tán loạn, nhưng làm và nói hoàn toàn chẳng phải
là cùng một chuyện, chẳng có ai tin
tưởng quư vị: “Ngươi giả trất, chẳng thật!” V́ thế,
nhất định phải giống như chư Phật,
Bồ Tát, phải giống như cổ thánh tiên hiền, học
chẳng chán, dạy chẳng mệt. Hằng ngày đều
học, hằng ngày đều dạy, dạy và học
tăng trưởng lẫn nhau, ngày nào cũng có tiến bộ,
ngày nào cũng có thâu hoạch, vui sướng khôn sánh! Hằng
ngày đều dạy là có thâu hoạch, dạy học tṛ rất
nhiều, trong các học tṛ, nhất định có những
người vừa nghe bèn hiểu, có những người
đă giác ngộ, có những người quay đầu, có
những người thật sự hành, vậy th́ làm sao mà chẳng
vui sướng cho được!
Nay chúng ta sống
trong thời đại này, thời đại này là thời
đại bi thảm, nhằm
ngay lúc khoa học kỹ thuật,
văn minh vật chất đúng là đột
nhiên tăng vọt mạnh mẽ, nhưng luân lư, đạo đức, nhân quả và tôn giáo dần
dần sa sút, chẳng có nhân văn! Nếu xu thế ấy
c̣n tiếp tục măi chẳng gián đoạn, chẳng
thể điều chỉnh, cứ tiếp tục chẳng
ngừng, thế giới này sẽ đi theo hướng tận
thế. Lời này do các nhà khoa học đă nói! Trên địa
cầu đă từng phát sanh chuyện này nhiều lần! Phàm là sau khi hiện
tượng ấy xuất hiện, thế giới này sẽ
bị hủy diệt, tôn giáo ngoại quốc gọi chuyện này là “tận thế”.
Chúng ta phải hiểu,
trong đời này, chúng ta hết sức may mắn,
được làm thân người, được nghe
đạo của thánh hiền, chẳng lầm đường
lạc lối, điều quan trọng nhất là chính ḿnh
có thể thành tựu hay không, tùy thuộc quư vị có thể
buông xuống hay không? Điều khó bỏ, quư vị có thể
bỏ hay chăng? Điều khó hành, quư vị có thể
hành hay không? “Khó hành” là chẳng
có điều kiện, tức vô duyên đại từ,
đồng thể đại bi, phục vụ hết thảy
chúng sanh khổ nạn chẳng đ̣i hỏi điều
kiện ǵ. Phục vụ vẫn chưa đáng kể, c̣n
phải hứng chịu sự tức giận, c̣n phải bị họ gây chuyện oan uổng; đó gọi là “khó hành mà
có thể hành”. Chẳng phải là người ta rất
ưa thích quư vị, rất nâng đỡ quư vị! Chẳng
phải vậy! Người ta ở bên cạnh nh́n vào chê
cười! Đến khi chúng ta thật sự làm có thành tựu,
họ miễn cưỡng gật đầu, được
lắm! Vẫn là chẳng thể tán thán quư vị, họ ở
bên cạnh vẫn chê quư vị xuẩn ngốc, quư vị phải có thể chịu đựng. Đấy là “khó hành mà
có thể hành”. “Khó hành mà có thể hành” c̣n khó khăn
hơn “khó bỏ mà có thể bỏ”.
V́ thế, quư vị chẳng thể tâm tâm tương ấn
với chư Phật, Bồ Tát, sẽ rất khó làm
được! Thật sự là “tâm tâm tương ấn”, chí đồng đạo
hợp, chúng ta được chư Phật, Bồ Tát cổ
vũ, khích lệ, gia
tŕ về tinh thần. Do đó,
khó hành mà cũng có thể hành được. Hôm nay đă hết
thời gian rồi, chúng tôi nói tới chỗ này!
Tập
1546
Chư vị pháp
sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi
xuống. Xin xem phẩm thứ mười một, tức
phẩm Tịnh Hạnh, tiểu đoạn thứ ba của
phần Sở Ngộ Nhân Vật trong đoạn lớn thứ
sáu. Xem từ bài kệ thứ mười
một.
(Kinh) Kiến
báo ân nhân, đương
nguyện chúng sanh, ư Phật, Bồ Tát, năng tri ân
đức.
(經)見報恩人。當願眾生。於佛菩薩。能知恩德。
(Kinh:
Thấy người báo ân, nguyện cho chúng sanh, hay biết
ân đức của Phật, Bồ Tát).
Trong phần chú giải,
ngài Thanh Lương đă nêu đại lược
mười thứ ân đức của Phật, Bồ Tát.
Trong phần trước đă nói đến loại thứ
hai, hôm nay chúng ta xem loại thứ ba.
(Sao) Nhất hướng vị tha ân, tằng vô
nhất niệm, tự vị ư kỷ, do như từ
mẫu, đản linh tử lạc, tự sát bất từ.
Kinh vân:
“Bồ Tát sở tu công đức hạnh, bất vị tự
kỷ cập tha nhân, đản dĩ tối thượng
trí huệ tâm, lợi ích chúng sanh cố hồi hướng”.
(鈔)一向為他恩,曾無一念,自為於己,猶如慈母,但令子樂,自殺不辭。經云菩薩所修功德行,不為自己及他人,但以最上智慧心,利益眾生故迴向。
(Sao: Ân “một mực v́ người khác”,
chưa từng có một niệm v́ chính ḿnh. Ví như mẹ
hiền chỉ khiến cho con được vui sướng,
dẫu phải tự sát cũng chẳng nề hà. Kinh dạy:
“Bồ Tát tu công đức hạnh, chẳng v́ chính ḿnh và
người khác, chỉ dùng cái tâm trí huệ tối thượng
nhằm lợi ích chúng sanh mà hồi hướng”).
Chúng ta xem đoạn
này. Nói rơ Phật, Bồ Tát xác thực đă vượt trỗi
thánh hiền thế gian; thánh hiền thế gian có ư niệm
ấy hay không? Nói thật ra, có chứ, [tuy có], chẳng
mạnh mẽ như Phật, Bồ Tát, mà nguyện
cũng chẳng sâu như Phật, Bồ Tát. Chúng ta phải
biết đó là do nguyên nhân ǵ? Thánh nhân thế gian rốt cuộc
chẳng vượt thoát thế gian. “Thế gian” ở đây là nói tới lục đạo
luân hồi, [thánh nhân thế gian] chẳng thể vượt
thoát thế gian. V́ thế, niệm nào cũng lấy thế
gian này và bọn chúng ta là những kẻ đồng loại
làm đối tượng, đúng là rất lỗi lạc.
Quư vị thấy họ vượt khỏi chính ḿnh, vượt
khỏi gia đ́nh, vượt khỏi dân tộc, vượt
khỏi quốc gia, nay chúng ta nói là họ khởi tâm động
niệm đều suy nghĩ v́ nhân loại trên toàn cầu.
Chúng ta thường nói điều này hết sức vĩ
đại, [họ luôn] nghĩ thay cho toàn thể nhân loại.
Nhưng chư Phật, Bồ Tát chẳng vậy, sở
tu, sở chứng của các Ngài vượt trỗi lục
đạo, vượt trỗi mười pháp giới, vượt
trỗi các cơi Phật, các Ngài khởi tâm động niệm
trọn khắp pháp giới hư không giới, phạm vi ấy
quá to! V́ thế, ở đây nói “nhất
hướng vị tha” (một
mực v́ người khác), “Tha”
(他) ở
đây là hết thảy chúng sanh trong khắp pháp giới
hư không giới. Lũ b́nh phàm chúng ta không có cách nào tưởng
tượng nổi, mà cũng chẳng có cách nào thấu hiểu.
Ngoại trừ [người nào] khế nhập kinh giáo
Đại Thừa kha khá th́ mới biết chuyện này!
“Tằng vô nhất niệm, tự vị ư kỷ”
(Chưa hề có một niệm v́ chính ḿnh): Từ chỗ
này, chúng ta có thể thấu hiểu ân đức to lớn,
một niệm c̣n chẳng có, huống hồ những
điều khác! Ngôn ngữ, tạo tác của các Ngài
chưa hề nghĩ v́ chính ḿnh! Thuở tại thế, Thích
Ca Mâu Ni Phật đă nêu gương cho chúng ta thấy. Thuở
Ngài c̣n trẻ có lẽ chúng ta không biết, từ sau khi Ngài
thành đạo, ba mươi tuổi thị hiện thành
đạo, từ đấy bắt đầu cuộc sống
dạy học, suốt một đời theo đuổi công tác
giáo dục xă hội, Ngài cũng chưa hề dấy lên ư
niệm v́ chính ḿnh, chẳng hề có! Sau khi chúng ta đă
thâm nhập kinh tạng mới biết. Đúng như trong
điều kế tiếp có nói “thùy
h́nh lục đạo” (hóa hiện thân h́nh trong lục
đạo), chúng sanh có cảm, Phật, Bồ Tát bèn ứng,
cảm ứng đạo giao, đáng nên dùng thân ǵ đắc
độ, bèn hiện thân ấy. V́ thế, [bèn có] tám tướng
thành đạo! V́ ai? V́ chúng sanh, [tức là] v́ chúng sanh mà thị
hiện đủ mọi thứ, trong phần trước
đă nói là “nan xả năng xả,
nan hành năng hành” (có thể bỏ thứ khó bỏ, có
thể hành điều khó hành), Thích Ca Mâu Ni Phật đă làm
được. Sau ba mươi tuổi, Ngài lại v́ chúng
ta giảng giải, đó là ngôn giáo; trước ba
mươi tuổi là thân giáo. Thật sự đáng gọi
là “thừa nguyện tái lai” (nương theo nguyện trở lại), làm khuôn mẫu cho chúng ta, nêu gương
điển h́nh cho chúng ta.
Chúng ta học Phật
th́ học tập theo ai? Học tập theo Thích
Ca Mâu Ni Phật! Thật sự phải học cho đến
mức “chẳng có một ư niệm nào v́ chính ḿnh”; đấy
là quư vị đă thật sự học đến nơi
đến chốn, học rất giống. Chúng ta hăy ngẫm
xem, nay chúng ta có một niệm nào v́ chính ḿnh hay không? Chắc
chắn là không chỉ một niệm, có thể nói “niệm
nào cũng đều v́ chính ḿnh”. Dẫu học Phật, hoằng
pháp lợi sanh, vẫn là
v́ chính ḿnh. V́ chính ḿnh mà làm những
ǵ? V́ chính ḿnh tích lũy công đức, v́ chính ḿnh đoạn
tham, sân, si, cầu Giới, Định, Huệ, thảy
đều v́ chính ḿnh, chẳng hề ĺa khỏi chính ḿnh.
Như vậy th́ có thể thành tựu hay chăng? Chúng ta phản
tỉnh sâu xa sẽ hiểu rơ, chẳng đoạn Ngă Chấp,
Ngă Kiến, ngoài pháp môn đới nghiệp văng sanh này ra, đối
với tám vạn bốn ngàn pháp môn, chúng ta có thể thành tựu
bằng pháp môn nào? Do pháp môn nào mà chúng ta có thể công phu đắc lực?
Bất luận Đại Thừa hay Tiểu Thừa, Tông
Môn hay Giáo Hạ, chư vị phải biết: Chẳng có
đới nghiệp đâu nhé!
Do đó, có thể
thật sự học đến mức “chẳng có một
niệm v́ chính ḿnh”, người ấy đă thành tựu.
Chẳng v́ chính ḿnh, thưa cùng chư vị, sẽ chẳng
có sanh, tử, chẳng có vinh, nhục, chẳng có nghèo, giàu,
chẳng có sang, hèn; đấy là giải thoát. Quư vị nghĩ
xem có đúng hay không? Nếu c̣n có một niệm v́ chính ḿnh
th́ trần lao, nhiễm tập (tập khí huân nhiễm) sẽ
chẳng đoạn được ǵ! Nếu chẳng thể
văng sanh, vẫn phải luân hồi trong lục đạo y
như cũ. Văng sanh bèn được nhất niệm
tương ứng. Chúng ta hằng ngày niệm Phật, nói
thật ra, chưa từng có một niệm tương ứng,
v́ sao? Công phu không đắc lực. Hễ một niệm tương
ứng th́ sẽ đắc lực; do đó, “một niệm tương ứng
một niệm Phật, niệm niệm tương ứng
niệm niệm Phật”. Chúng ta không đắc lực,
v́ sao không đắc lực? Chẳng có đủ ba điều
kiện Tín, Nguyện, Hạnh. Tin xác thực có Tây
Phương Cực Lạc thế giới, có A Di Đà Phật,
nhưng lại c̣n tin cuộc sống trong thế giới
Sa Bà này vẫn c̣n khá quá, niệm nào cũng đều chẳng
xả, đấy là ǵ? Đấy là tin chẳng đầy
đủ, nguyện chẳng đầy đủ, hạnh
chẳng đầy đủ, ba điều kiện ấy
đều chẳng đầy đủ! V́ thế, niệm
nào cũng đều chẳng tương ứng với Phật,
những thứ khác chẳng cần phải nói nữa. Chẳng
tương ứng th́ khởi tâm động niệm, ngôn
ngữ, tạo tác của chúng ta, nói thật ra, đó là tạo
nên mầm mống nghiệp chướng! Tạo thiện
nghiệp, quả báo là ba thiện đạo; tạo ác nghiệp,
quả báo là ba ác đạo, chẳng thoát khỏi lục
đạo luân hồi. Hăy chú tâm phản tỉnh chuyện
này, đáng sợ quá!
Vậy th́ làm
như thế nào? Giáo pháp Đại Thừa nói rất hay, chỉ
cần c̣n hơi thở, tự cứu vẫn c̣n kịp,
chỉ cần thật sự giác ngộ pháp thế gian chẳng
thật! Kinh Kim Cang nói rất hay, mọi người
cũng đọc rất quen thuộc, “phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư
vọng”, “hết thảy pháp
hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”. Hai câu ấy
bao gồm thân, tâm, thế giới của chúng ta, quư vị phải
biết chúng là hư vọng, phải biết chúng là mộng,
huyễn, bọt, bóng, phải biết những thứ ấy
trọn chẳng thể được, quư vị c̣n chẳng
buông xuống nữa ư? Buông xuống ǵ vậy? Buông xuống
ư niệm v́ chính ḿnh, khởi tâm động niệm phải
phỏng theo Phật, Bồ Tát; Phật, Bồ Tát khởi
tâm động niệm v́ chúng sanh. Làm thế nào để giúp
hết thảy chúng sanh ĺa khổ được vui, làm thế
nào để giúp chánh pháp của chư Phật, Bồ Tát tồn
tại lâu dài [trong thế gian]. Hai chuyện này nói thật
ra, chỉ dùng một chuyện để hoàn
thành, chuyện ấy là ǵ vậy? Chính ḿnh thật thà y giáo
tu hành. Nghiêm túc y giáo tu hành, nói về phía chư Phật, Bồ
Tát, chúng ta đă giúp cho chánh pháp tồn tại lâu dài, đồng
thời chúng ta cũng giúp hết thảy chúng sanh ĺa khổ
được vui.
Phật pháp là hết
thảy đều làm từ nội tâm của chính ḿnh; v́ thế, Phật
pháp được gọi là Nội Học, kinh Phật
được gọi là “nội
điển”, chẳng phải là học từ bên ngoài.
Chính ḿnh tu thành tựu, tự nhiên sẽ dấy lên tác dụng
cảm hóa. Nói cách khác, khởi tâm động niệm, ngôn
ngữ và tạo tác đều phải nêu gương chánh
diện, gương mẫu tốt nhất cho chúng sanh!
Đấy là “nhất hướng
vị tha” (một mực v́ người khác). Thích Ca Mâu
Ni Phật làm như thế đó, chư Phật Như Lai
cũng làm như thế đó, hết thảy các vị Bồ
Tát cũng làm như thế đó. Chúng ta bèn hiểu rơ. Lúc
tôi mới tiếp xúc Phật giáo, tôi hai mươi sáu tuổi,
Chương Gia đại sư đă dạy tôi điều
này, “thấy
thấu suốt, buông xuống”. “Chưa từng có một
niệm v́ chính ḿnh” chính là triệt
để buông xuống, chẳng v́ chính ḿnh mà v́ ai? V́ hết
thảy chúng sanh! Sống trong thế giới này v́ chúng sanh,
v́ chánh pháp tồn tại lâu dài, chẳng v́ chính ḿnh.
Ở đây, đại
sư đă nêu một tỷ dụ rất hay, “do như từ mẫu, đản
linh tử lạc, tự sát bất từ” (giống
như mẹ hiền, chỉ khiến cho con vui sướng,
dẫu tự sát chẳng nề hà), chuyện này từ
xưa đến nay đều thật sự có! Ân cha mẹ
đối với con cái to cỡ nào? Nhằm thành tựu
con cái, [cha mẹ phải] làm trâu, làm ngựa, nhọc nhằn,
vất vả lo chạy vạy cung phụng cho con thành tựu
học nghiệp, thành tựu gia nghiệp; những trường
hợp như thế quá ư là nhiều! Khi gặp tai nạn
to tát, chỉ cần con cái có thể sống tốt đẹp,
chính ḿnh phải mất mạng, sẽ chẳng tiếc nuối.
Trong đời này, trải qua vài chục năm chiến
tranh, loạn lạc, chúng tôi đă thấy những chuyện ấy
nhiều lắm! Ân đức do ḷng yêu thương và sự
chăm sóc hết thảy chúng sanh của Phật, Bồ
Tát nếu so với cha mẹ, thật sự là chỉ
hơn, chứ chẳng kém! Nhất là đối với
chúng sanh dị loại, như từ kinh điển chúng ta
đă đọc thấy, [Bồ Tát] xả thân cho cọp
ăn, cắt thịt nuôi chim ưng. Trong quá khứ, khi Thích
Ca Mâu Ni Phật c̣n đang tu nhân, tu Bồ Tát hạnh, chẳng
biết Ngài đă làm những chuyện ấy bao nhiêu lần!
V́ sao Ngài có thể làm? Ngài v́ chúng sanh, chẳng v́ chính ḿnh. V́
sao Ngài phải làm như vậy? Ngài biết chúng sanh và chính
ḿnh là một Thể.
Chúng sanh đang mê, Ngài đă giác ngộ.
Trong khi mê, đúng là giống như trẻ nhỏ chẳng
hiểu chuyện, cha mẹ hiểu rơ ràng, sẽ chăm sóc [con cái] chẳng sót một điều nhỏ nhặt nào!
Tiếp đó,
đại sư trích dẫn kinh, bài kệ trong kinh này
cũng là nói “nhất hướng
vị tha” (một mực v́ người khác). “Bồ Tát sở tu công đức
hạnh, bất vị tự kỷ cập tha nhân” (Bồ
Tát tu công đức hạnh, chẳng v́ chính ḿnh và người
khác). Bồ Tát từ sơ phát tâm cho đến khi viên thành
Phật đạo, mọi người đều biết
chuyện này, kinh thường nói là tu hành ba đại
A-tăng-kỳ kiếp, từ phát tâm cho đến khi công
đức viên măn, không ǵ chẳng phải là “vị tha” (v́ người khác).
Câu kế tiếp là “bất vị
tự kỷ cập tha nhân” (chẳng v́ chính ḿnh và
người khác), hăy chú trọng chữ Nhân (人)! Thánh hiền thế gian chẳng v́ chính ḿnh, mà v́
người khác; Bồ Tát chẳng phải vậy, Bồ
Tát chẳng v́ chính ḿnh và người khác. V́ sao? Phạm vi càng
rộng lớn hơn! Ngài v́ hết thảy chúng sanh. [Nếu
phạm vi của] “tha nhân” là
nhân đạo (loài người), đă là khó có, chẳng dễ
dàng! [Thế mà] Bồ Tát khởi tâm động niệm v́
mười pháp giới, nhất là chúng sanh khổ nạn
trong tam đồ, chẳng bỏ một ai!
Đúng như trong
kinh, đức Thế Tôn đă nói, “hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ ta
trong quá khứ, là vị lai chư Phật”. Lời này là
sự thật, chúng ta đă luân hồi trong lục đạo
bao nhiêu lần? Vô lượng vô biên vô số lần, cơi trời,
nhân gian, phía trên là đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng
Thiên, phía dưới là tới địa ngục A Tỳ,
chẳng biết bao nhiêu lần! Đời này sanh trong loài
người, bị mê khi cách ấm, quên sạch sành sanh chuyện
trước kia. V́ thế, có mối quan hệ rất mật
thiết với tất cả hết thảy chúng sanh trong
lục đạo, đều là người nhà, quyến
thuộc! Hôm nay, thay đổi một thân thể, hay thay đổi
một khuôn mặt, đôi bên chẳng nhận ra nhau! Đến
khi nào mới thật sự hiểu rơ? Mức độ thấp
nhất đại khái là phải tới khi chứng quả
A La Hán, sẽ dần dần hiểu rơ chân tướng. V́
thế, đôi bên có ân với nhau, mà cũng có oán với
nhau, oán phải quên sạch sành sanh, ân phải niệm nào
cũng chẳng quên! Chư vị phải biết, câu này do
giáo hóa chúng sanh mà nói, làm ra cho hết thảy chúng sanh nh́n
vào, v́ sao? Đấy là Tánh Đức. Trong Tánh Đức,
chỉ có ân, chẳng có oán. V́ thế, chẳng cần ghim
oán trong dạ! Trong Tánh Đức chỉ có thiện, chẳng
có ác; [v́ thế] đừng ghim ác niệm, ác ngôn, ác hạnh
trong tâm. Như vậy th́ mới có thể thật sự đoạn
hết thảy ác, tu hết thảy thiện. Bản thân
chúng ta có thể làm như vậy, sẽ là báo ân chúng sanh, báo ân chư
Phật, báo ân cha mẹ, báo đáp chung cả bốn ân, báo
đáp toàn bộ chuyện này!
Trong giai đoạn
hiện tiền, học Phật nhất định phải
nắm được tổng cương lănh tu học, [hễ
nắm được cương lănh], sẽ [tu học] dễ
dàng! Tổng cương lănh của tu học là ǵ? Buông xuống
vọng tưởng, buông xuống phân biệt, buông xuống
chấp trước, [đấy là] tổng cương lănh.
V́ phổ độ chúng sanh, nguyện thứ nhất trong
phần trước là “chúng
sanh vô biên thệ nguyện độ”, v́ đoạn phiền
năo, v́ học pháp môn, v́ thành Phật đạo, đấy
là Tứ Hoằng Thệ Nguyện. Tôi thường nói, nói
rất nhiều lượt: Trên thực tế, Tứ Hoằng
Thệ Nguyện là một nguyện, “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”
v́ hết thảy chúng sanh; đấy chính là thật sự báo ân! Chư Phật Như Lai
v́ hết thảy chúng sanh, nay ta làm đệ tử đức
Phật, học theo đức Phật, cũng v́ hết thảy
chúng sanh, làm đệ tử thật sự của đức
Phật, giúp đỡ hết thảy chúng sanh ĺa khổ
được vui. Chúng sanh do đâu mà có khổ? Do mê mà ra,
mê chứ chẳng giác, tà chứ chẳng chánh, nhiễm chứ
chẳng tịnh, do vậy mới có lục đạo tam
đồ.
Lục đạo
tam đồ khổ sở! Tam đồ khổ, loài
người cũng khổ. Chư thiên tuy hưởng lạc
trong ấy, đức Phật bảo đó là Hoại Khổ,
đó là Hành Khổ. Tam giới đều khổ, tam giới
ví như nhà lửa! Huống chi đọa trong lục
đạo, khẳng định là thời gian trong ba ác
đạo lâu dài, thời gian trong ba thiện đạo ngắn
ngủi, phải biết điều này! V́ sao nói những lời
lẽ khẳng định như thế? Đấy là sự
thật, lục đạo là do nghiệp của chúng sanh cảm
vời, bản thân chúng ta hăy khéo phản tỉnh, suy ngẫm:
Mỗi ngày kể từ hôm nay, từ sáng cho đến tối,
khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác là thiện
nhiều hay ác nhiều? Là v́ chúng sanh nhiều hay là v́ chính
ḿnh nhiều? V́ chúng sanh th́ là thiện, v́ chính ḿnh th́ là ác, hăy
hiểu điều này!
Bách Pháp Minh Môn đă
nói về các Tâm Sở thuộc loại phiền năo. Thiện Tâm
Sở chỉ có mười một món. Phiền năo Tâm Sở
là những Tâm Sở bất thiện, gồm hai mươi
sáu món. Huống hồ sức lực của thiện Tâm Sở
yếu kém, ít ỏi, rất khó dấy lên thiện niệm.
Sức mạnh của ác Tâm Sở hết sức mạnh mẽ,
to lớn; hễ khởi
tâm động niệm sẽ tương ứng với chúng. Hai mươi sáu món ác Tâm Sở sẽ cảm vời
khổ báo trong tam đồ, mười một món thiện
Tâm Sở [sẽ cảm vời] phước báo nhân thiên! Bao nhiêu ư niệm thiện, bao nhiêu hành vi thiện, bao nhiêu ư niệm ác, bao nhiêu hành vi ác? Tự ḿnh biết rành rẽ, rơ ràng!
Đức Phật chẳng nói sai! Đức Phật chẳng
hù dọa người khác, đức Phật nói lời thật! Do đó, khẳng định là chúng sanh ở trong lục
đạo, thời gian trong ba ác đạo th́ dài, thời
gian ở trong ba thiện đạo ngắn ngủi! Phải
làm như thế nào để giúp đỡ họ? Quư vị
phải hiểu, lục đạo luân hồi là quả báo;
cái quả đương nhiên là có nhân. Cái nhân là ǵ vậy?
Nhân là giác hay mê, do đă mê mới tạo nghiệp chịu
báo; đă giác ngộ sẽ không tạo nghiệp. Giác ngộ sẽ
một mực v́ người khác; khi mê, một bề chính
ḿnh!
V́ thế, ở
đây, nếu quư vị thật sự có tâm cảnh giác cao
độ, quư vị thấy mười hạng mục
này, cái tâm cảnh giác liền dấy lên. “V́ người khác” là giác, “v́ chính ḿnh” là mê. “V́
người khác” là chánh, “v́
chính ḿnh” là tà. “V́ người
khác” là thanh tịnh, “v́ chính
ḿnh” là nhiễm ô. Giác, chánh, tịnh là Tam Quy Y, là tổng
cương lănh của tu học. Phật, Bồ Tát, tổ
sư đại đức rát miệng buốt ḷng khuyên dạy
chúng ta, làm thế nào để thực hiện “giác,
chánh, tịnh”? Thật sự tu hành. Các Ngài dạy ta trước hết
hăy buông xuống chấp trước đối với hết
thảy người, hết thảy sự, hết thảy
vật (“vật” (物) ở đây là y báo và chánh báo trang nghiêm trong chín pháp
giới). Chín pháp giới lại cộng thêm nhân pháp giới
của chúng ta th́ là mười pháp giới. Đối với
y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, vạn
sự, vạn pháp, đừng nên chấp
trước nữa! V́ sao chẳng chấp trước? Y
báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới chẳng
thật. Chuyện này rốt cuộc là như thế nào?
Kinh Hoa Nghiêm đă nói rất hay, “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”; trong
giáo pháp Đại Thừa thường nói: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”.
Vĩnh Gia đại sư nói rất tuyệt: “Trong mộng rành rành phô sáu nẻo,
tỉnh rồi ba cơi rỗng toang hoang”. Nếu chúng ta hỏi, chuyện trong mộng mà quư vị vẫn
c̣n muốn chấp trước ư? Chẳng biết chính ḿnh
khi đang nằm mộng bèn chấp trước, hễ tỉnh
giấc, [biết] đó là một giấc mộng, chuyện
trong mộng coi như xong, đừng chấp trước
nữa, sẽ có thể buông xuống.
Do vậy có thể
biết, không buông xuống được th́ là chưa giác
ngộ. Người giác ngộ nhất định sẽ buông
xuống. Giác ngộ có mức độ sai khác không đều.
Khi vừa mới giác ngộ, có thể buông xuống vật
ngoài bản thân, biết vật ngoài thân chẳng phải là
chính ḿnh. Người thế gian coi trọng tài bảo,
nhưng đức Phật dạy chúng ta, tài bảo là do
năm nhà cùng sở hữu, quư vị chẳng giữ
được, [thế mà vẫn] chẳng thể buông xuống.
Gần đây, tôi đọc một bài viết, tại
Đài Loan có một bác sĩ tên là Lư Phong. Khi bà ta ba
mươi mấy tuổi bị bệnh ung thư, bèn học
buông xuống. Kinh nghiệm của bà ta rất đáng cho bọn
sơ học chúng ta [học tập để biết] buông xuống từ nơi đâu, bà ta buông xuống
từ chỗ nào? Dọn sạch ngăn kéo! Lôi ngăn kéo ra, trong
đó có rất nhiều thứ chẳng thiết yếu.
Những món chẳng thiết yếu bèn bỏ đi toàn bộ,
buông xuống từ chỗ này. Sau đấy, mới dọn
nhà cửa sạch sẽ, giảm bớt những thứ
thừa thăi của chính ḿnh, thật sự đạt
được thân tâm tự tại, chẳng nhiễm mảy
trần, hữu ích rất lớn cho sức khỏe của
bà ta. Đấy là ǵ? Đấy là vừa mới giác ngộ,
Phật pháp gọi chuyện này là Thỉ Giác, tức là bắt
đầu giác ngộ, chịu xả!
Một đời
này, tôi chẳng đam mê chi khác, từ bé đă thích đọc
sách. Hễ có chút tiền đều mua sách, nói theo lẽ
thông thường, đó là một thói quen tốt, nhưng
nói theo phía người tu hành, đấy cũng là chẳng
buông xuống được! Thuở trẻ, rất yêu quư
sách, mà cũng rất chấp trước, sách của tôi chẳng
thể cho kẻ khác mượn xem được! V́ sao? Tôi giữ
sách hết sức kỹ, rất trân trọng, kẻ khác mượn
xem, khi nhận lại sách, gần như đă hoàn toàn thay
đổi h́nh dạng, b́a sách dơ bẩn, cong găy, quăn queo, đôi khi họ c̣n dùng
bút ch́ đánh dấu rất nhiều chỗ trong sách. Chuyện
này tôi không muốn thấy nhất, mà cũng chẳng có
cách nào chịu nổi! V́ thế, sau đấy không cho mượn nữa!
Kể từ sau khi gặp Chương Gia đại sư,
Ngài dạy tôi buông xuống, tôi liền bắt đầu rộng
lượng hơn từ chỗ này! “Rộng lượng hơn” là những sách tôi
đă xem có thể cho người khác mượn, những
sách mới, hoặc sách chính ḿnh thường đọc, vẫn
chẳng thể cho người khác mượn. Sau một
khoảng thời gian, tôi lại rộng răi hơn một
chút, sách tôi rất ưa thích mà người khác thích tôi
cũng có thể cho họ mượn. Cuối cùng đến
mức tôi cũng có thể tặng cho họ. Sách mới
mua, người khác thấy thích, quư vị có thể cầm
về xem trước, xem xong trả lại cho tôi! Buông xuống
dần dần! Đến năm thứ sáu, đại khái
là vào năm thứ năm hay thứ sáu, thầy Lư lập Từ
Quang Đồ Thư Quán (thư viện Từ Quang) tại
Đài Trung, tôi đem sách của
ḿnh, ngoại trừ giữ lại mấy
quyển công khóa, toàn bộ đều hiến tặng cho
đồ thư quán, triệt để buông xuống.
V́ thế, lời
đức Phật dạy trong kinh là thật, chẳng giả,
quư vị càng buông xuống, càng có nhiều! Tài, pháp, vô úy, ba
loại bố thí ấy, tiền tài quư vị càng thích bố
thí, sẽ càng nhiều. Kinh điển, sách vở là Pháp,
càng xả càng nhiều. Đến khi tôi học kinh giáo,
theo học kinh giáo với thầy Lư ở Đài Trung, gần
như là “có cầu, ắt ứng”.
V́ thế, tôi đối với giáo huấn của đức
Phật chẳng hoài nghi mảy may! Học kinh giáo cần
sách tham khảo, thấy trong chú sớ và bút kư của cổ
nhân có giới thiệu những bản chú giải hay, là chú
giải của cổ đại đức, nhưng ở
Đài Loan chẳng thể t́m thấy. Khi đó,
Hương Cảng Phật Kinh Lưu Thông Xứ có không ít
sách chẳng thể mua được tại Đài Loan. Thuở ấy, tôi thường đến chùa Thiện Đạo,
chùa Thiện Đạo có đại lư tiêu thụ của họ.
Tôi thấy địa chỉ ấy bèn kết pháp duyên với
Hương Cảng. Người phụ trách là pháp sư
Trí Khai, tôi muốn có sách ǵ bèn viết thư cho lăo nhân gia, Ngài
sẽ t́m giùm tôi. Gần như những sách tôi cần, Ngài
đều có thể t́m được. Thuở ấy, tôi
đâu có tiền, chẳng có ai hộ tŕ. T́m được
sách, Sư gởi trước cho tôi, bảo tôi khi nào có tiền
th́ gởi cho Sư, mở toang cửa phương tiện.
V́ thế, mười năm tôi học tập tại
Đài Trung, pháp sư Trí Khai đă giúp đỡ tôi rất nhiều, suốt đời tôi chẳng thể quên ân đức
ấy!
Sau này, những
sách ấy đúng là càng thí càng nhiều, có cầu ắt ứng.
Tôi ngay cả nằm mộng cũng chẳng ngờ là nghiễm
nhiên có thể tặng kinh sách. Những thứ khác chẳng
nhắc tới, chỉ nói đến Đại Tạng Kinh. Tặng
Đại Tạng Kinh th́ ngay trong hiện tại, ở
đây hăy c̣n giữ một số chưa gởi đi,
hơn sáu ngàn năm trăm bộ. Thuở trẻ đâu
dám nghĩ đến chuyện này; khi đó, bản thân
chúng tôi mong có một bộ Đại Tạng Kinh, gian nan
ngần ấy! Suốt ba năm nhịn bớt ăn tiêu mới
thỉnh được một bộ Đại Chánh Tạng (Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng
Kinh, 大正新脩大藏經), chỉ có Chánh Biên, chẳng có Tục Biên, sách
đóng b́a cứng gồm năm mươi lăm tập.
V́ thế, biết là hết sức khó khăn! Chương
Gia đại sư dạy tôi điều này, bố thí,
càng thí càng nhiều. Có
nhiều th́ chính ḿnh có thể hưởng thụ
hay không? Chẳng được! Xả đắc, quư vị
xả, sẽ nhất định đạt được. Sau khi
đă đạt được, lại phải xả, lại
phải xả cái đă đạt được, một mực v́ người khác, đừng nên v́ chính ḿnh!
Hai câu sau ấy đă
nói rơ: “Đản dĩ tối
thượng trí huệ tâm, lợi ích chúng sanh cố hồi
hướng” (Chỉ dùng cái tâm trí huệ tối thượng để
lợi ích chúng sanh ḥng hồi hướng), “chúng sanh” ở đây chính là chúng sanh trong mười
pháp giới. Phật, Bồ Tát trong mười pháp giới
nếu nói theo Nhất Chân pháp giới, vẫn là chúng sanh. “Chúng sanh” có nghĩa là hiện tượng được
sanh khởi do các duyên ḥa hợp, nên
được gọi là “chúng
sanh”. V́ thế, vô lượng trí huệ, vô lượng
đức năng, vô lượng thần thông của
chư Phật do đâu mà có? Từ “một mực v́
người khác” mà ra,
đạt được quả báo ấy. Sau khi đă
đạt được quả báo, chính ḿnh chớ nên hưởng
thụ, vẫn là một mực v́ người khác, chúng ta phải nên học
điều này. A! Nay đă hết thời gian rồi, chúng
ta nghỉ ngơi mấy phút.
***
Chư vị pháp
sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi
xuống. Chúng ta xem tiếp câu thứ tư:
(Sao) Thùy h́nh lục đạo
ân, dĩ chứng diệt đạo, ưng thọ vô vi tịch
diệt chi lạc, nhi thùy h́nh lục đạo, biến nhập
tam đồ, trường kiếp cứu vật, nhập
ư địa ngục, dĩ thân cứu thục nhất
thiết chúng sanh.
(鈔)垂形六道恩,已證滅道,應受無為寂滅之樂,而垂形六道,遍入三途,長劫救物,入於地獄,以身救贖一切眾生。
(Sao: Ân “rủ ḷng hóa
hiện thân h́nh trong sáu đường”: Đă chứng diệt
đạo, đáng hưởng niềm vui vô vi tịch diệt,
thế mà rủ ḷng hiện thân trong sáu đường, vào
khắp tam đồ, cứu chúng sanh bao kiếp dài lâu, vào
trong địa ngục cứu chuộc hết thảy
chúng sanh).
Đấy là nói Phật,
Bồ Tát đă chứng đắc Cứu Cánh Niết Bàn. “Tịch
diệt”: Thanh tịnh tịch diệt là Niết
Bàn, tiếng Phạn gọi là Niết Bàn. “Tịch” (寂) là tịch tĩnh (vắng lặng), thanh tịnh
đến tột bậc, Diệt (滅) là diệt phiền năo, diệt sanh tử. Nghiệp
nhân quả báo trong mười pháp giới toàn bộ đều
diệt, khi ấy là cảnh giới ǵ? Nhất Chân pháp giới.
Sự hưởng
thụ trong Nhất Chân pháp giới là niềm vui vô vi, chúng
ta chẳng có phương cách ǵ để h́nh dung niềm
vui ấy, không có cách nào h́nh dung, đúng như trong kinh,
đức Phật thường bảo “như nhân ẩm thủy, lănh noăn tự tri” (như
người uống nước, lạnh nóng tự biết).
Bản thân quư vị chẳng nhập cảnh giới ấy,
sẽ chẳng thể thấu hiểu được! Chẳng
thể nói ra được! Dẫu có nói, quư vị vẫn
chẳng thể lănh hội được. Đó là chân lạc,
trong pháp môn Tịnh Tông gọi là Cực Lạc. Cực Lạc
là niềm vui vô vi; do vậy, Cực Lạc chẳng phải
là lạc trong khổ lạc! Các vị tổ sư đại
đức nhằm giáo hóa chúng sanh thuận tiện, đă
khuyên lơn chúng ta buông Sa Bà xuống, cầu sanh Cực Lạc; v́ thế,
bất đắc dĩ dùng khổ và lạc tương
đối để nói. Thật ra, Cực Lạc chẳng
phải là lạc trong khổ lạc, mà là hai đằng khổ
và lạc đều ĺa khỏi, cảnh giới ấy rất
khó hiểu! Nói khổ và lạc tương đối,
chúng ta hiểu điều này rất dễ dàng! V́ thế,
chớ nên hiểu lầm!
Trong thế giới
Cực Lạc, không chỉ là cơi Thật Báo Trang Nghiêm và cơi
Phương Tiện Hữu Dư là niềm vui vô vi, ngay cả
cơi Phàm Thánh Đồng Cư cũng là niềm vui vô vi, [đều
là] cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Đúng là không có cách nào tưởng
tượng được! V́
thế, mười phương chư Phật tán thán. Quư vị
thấy trong kinh Vô Lượng Thọ, Thích Ca Mâu Ni Phật
đă tán thán A Di Đà Phật, ca ngợi Ngài là “quang trung cực tôn, Phật trung
chi vương” (quang minh tột bậc tôn quư, là vua trong
các đức Phật). Trên thực tế, sở chứng
của chư Phật hoàn toàn b́nh đẳng, tuyệt
đối chẳng có cao thấp; v́ sao chỉ khen ngợi
một ḿnh A Di Đà Phật là vua trong các vị Phật, là
quang minh cực tôn quư? Ư nghĩa quan trọng nhất trong ấy
chính là tiếp dẫn chúng sanh. Thực tế đă bày ra,
nói theo kiểu thế tục hiện thời, pháp duyên của
A Di Đà Phật quá thù thắng! Đúng vậy đó! Hết
thảy chư Phật Như Lai nếu so sánh với A Di
Đà Phật, pháp duyên đều chẳng bằng Ngài, pháp
duyên của A Di Đà Phật đúng là chẳng thể
nghĩ bàn! Hết thảy chư Phật không vị nào chẳng
giới thiệu A Di Đà Phật cho chúng sanh phát nguyện
văng sanh. V́ thế, hết thảy chư Phật trong mười
phương thế giới làm người giới thiệu,
chiêu sinh giùm A Di Đà Phật. Làm người giới thiệu
Tây Phương Cực Lạc thế giới, cũng
đáng gọi là “người
tiếp dẫn”, nói theo kiểu hiện thời cho dễ
hiểu, sẽ là “người giới thiệu”, c̣n A Di
Đà Phật chủ tŕ giáo hóa trong thế giới Cực
Lạc. V́ thế, trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư cũng
hưởng thụ niềm vui vô vi.
Nhưng chư Phật,
Bồ Tát trong thế giới Cực Lạc chẳng khác
Thích Ca Mâu Ni Phật, rủ ḷng hiện h́nh tướng trong sáu đường, trên thực tế là mười
pháp giới. V́ sao chẳng nói mười pháp giới, chỉ
nói sáu đường? Sáu đường quá khổ,
bốn thánh pháp giới vẫn chẳng đáng kể vào đâu, [nói “lục đạo”] nhằm đặc biệt
nêu ra ân đức chẳng thể nghĩ bàn, có ư nghĩa ấy.
“Thùy” (垂) là thùy giáng (垂降), [tức
là] từ trên giáng xuống, “h́nh”
(形) là thị hiện,
đáng nên hiện thân ǵ để [chúng sanh] đắc
độ bèn hiện thân ấy, phải nên dạy bằng
pháp ǵ bèn nói pháp ấy. V́ thế, chư vị phải biết,
chư Phật, Bồ Tát chẳng có h́nh tướng nhất
định, mà cũng chẳng có pháp nhất định
để có thể nói. Kinh Lăng Nghiêm đă nói rất rơ
ràng, dùng h́nh tướng ǵ để giúp đỡ chúng sanh?
“Tùy chúng sanh tâm, ứng sở
tri lượng” (Thuận theo tâm chúng sanh, ứng với khả năng
tiếp nhận của họ). Chúng sanh mong mỏi Phật,
Bồ Tát có h́nh dạng như thế nào, các Ngài bèn hiện
h́nh dạng ấy. Phật, Bồ Tát chẳng có vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, cho nên mới
có năng lực to lớn ấy! Nay v́ sao chúng ta chẳng
thể hóa thân? V́ chấp trước cái thân này là chính ḿnh; do
đó, chẳng có cách nào phân thân, chẳng có cách nào biến
đổi tâm hạnh của chính ḿnh, đạo lư ở
ngay chỗ này!
V́ thế, chư
Phật, Bồ Tát buông xuống chấp trước, đối
với hết thảy pháp
thế gian và xuất thế gian, đối với
người, sự, vật, thảy đều không chấp
trước, quư vị sẽ
có thể biến hóa, A La Hán có thể
phân thân. Giống như Tây Du Kư nói Tôn Ngộ Không có bảy
mươi hai phép biến hóa, A La Hán không chỉ là bảy
mươi hai phép biến hóa! Tôn Ngộ Không thua kém A La Hán quá
xa! Thật đấy, chẳng giả. Nếu quư vị
buông xuống sự phân biệt đối với hết
thảy người, sự, vật, năng lực của
quư vị c̣n to hơn nữa. Nếu buông xuống vọng
tưởng, tức là buông xuống khởi tâm động
niệm, sẽ thành Phật. V́ thế, Phật giúp đỡ
chúng sanh, cứu độ chúng sanh, chẳng có ǵ khác, khuyên
chúng sanh buông xuống, đă buông xuống rồi lại
buông xuống. Điều thứ nhất là buông xuống chấp
trước, thứ hai là buông xuống phân biệt, thứ
ba là buông xuống khởi tâm động niệm. Buông xuống
món thứ nhất, sẽ chứng quả A La Hán. Buông món thứ
hai xuống, sẽ chứng Bồ Tát. Buông món thứ ba xuống,
sẽ chứng Phật quả. Cả ba thứ ấy
đều chẳng buông xuống được, sẽ là lục
đạo phàm phu. V́ thế, chuyển phàm thành thánh xác thực
là trong một niệm. Một niệm thật sự giác,
triệt để buông xuống; khi ấy, quư vị sẽ
hưởng thụ niềm vui vô vi. Chúng ta chẳng có cách
nào h́nh dung niềm vui vô vi, mà cũng chẳng có cách nào
tưởng tượng. Hễ thâm nhập kinh tạng, tự
nhiên sẽ có thể thấu hiểu mấy phần!
Rủ ḷng hiện
thân trong lục đạo, đấy là ứng theo sự
cảm của chúng sanh. V́ thế, chúng sanh có cảm, Phật,
Bồ Tát sẽ ứng, cảm ứng đạo giao. Trong
nhân gian, người ta dùng ǵ để cảm? Có thành ư thật
sự, hiếu học, hy vọng thật sự ĺa khổ
được vui, có ư niệm ấy, Phật, Bồ Tát sẽ
đến. Lại c̣n quá nửa là thị hiện thân Bồ
Tát, dùng thân phận Bồ Tát thị hiện trong lục
đạo hết sức nhiều, giống như ba
mươi hai ứng thân đă nói trong phẩm Phổ Môn. Chúng
ta có cảm, Phật, Bồ Tát có ứng hay không? Tuy có ứng,
có lúc bản thân chúng ta chẳng biết. Đến khi quư vị
đă biết, sẽ hoảng nhiên đại ngộ, hễ
giác ngộ sẽ biết. Chẳng nhất định thị
hiện thân ǵ, nam, nữ, già, trẻ, các nghề nghiệp,
giống như năm mươi ba lần tham học của
Thiện Tài đồng tử cuối kinh Hoa Nghiêm, toàn là
Như Lai “thùy h́nh lục đạo”.
Quư vị tiếp xúc Ngài, thấy h́nh tướng, nghe Ngài
nói năng, đột nhiên có sở ngộ, trong sát-na cảm
ứng đạo giao cùng chư Phật, Bồ Tát. Nếu
quư vị chú tâm quan sát, sẽ chẳng có dấu vết chi
hết! Có khi thị hiện h́nh tướng loài người,
c̣n có trường hợp thị hiện làm súc sanh, ngạ
quỷ, chư thiên, c̣n có trường hợp thị hiện
núi, sông, đại địa, động vật, thực
vật không nhất định. Trong Phật giáo sử Trung
Hoa, trong Cao Tăng Truyện, trong Cư Sĩ Truyện, trong
khá nhiều bộ sơn chí của các danh sơn tại
Trung Hoa Đại Lục đă chép những chuyện này
nhiều khôn xiết kể! “Sanh
công thuyết pháp, ngoan thạch điểm đầu”
(ngài Đạo Sanh thuyết pháp, đá tảng gật
đầu). Trong sát-na ấy, ḥa thượng Đạo
Sanh có cảm, chư Bồ Tát bèn ứng. Dùng h́nh tướng
ǵ để ứng? Tảng đá. Sư thuyết pháp cho
những khối đá, đúng là những tảng đá ở
chỗ Ngài đều gật đầu! Hiện h́nh dạng
không nhất định!
V́ thế, ở
đây không nói là “ứng thân lục
đạo”, chẳng nói “hóa
thân trong lục đạo”, mà dùng chữ “thùy h́nh”, “h́nh” (形) là chẳng có h́nh tướng nhất định như
thế nào! Nếu quư vị dùng chữ “thân”, chúng ta nhất định sẽ nghĩ là
hiện thân người, nam, nữ, già, trẻ, các nghề
nghiệp bất đồng, đều là thân người.
[Thật ra, chư Phật Bồ Tát “thùy h́nh”], chẳng nhất định là thân người, thậm
chí hiện ra hiện tượng tự nhiên. Một trận
gió mát lùa qua, quư vị bèn tỉnh ngộ! V́ sao trận gió ấy
thường lùa qua mà quư vị chẳng giác ngộ, lần
này gặp cơn gió này, đột nhiên giác ngộ? Cơn gió
ấy do Phật, Bồ Tát thị hiện, tương ứng
khít khao với ḷng cảm của quư vị, cho nên cảm ứng
đạo giao, bỗng dưng đại ngộ! Nếu
chẳng có sự cảm ứng ấy, chúng ta học Phật
sẽ khó khăn!
Có khá đông chúng
sanh duyên chín muồi, Phật, Bồ Tát sẽ dùng ứng
thân thị hiện. Các Ngài thật sự thị hiện
đầu thai trong nhân gian, giống như Thích Ca Mâu Ni Phật
thị hiện đầu thai, sống đến tám
mươi tuổi bèn viên tịch, đấy là ǵ? Trong khu
vực này, trong thời đại này, có rất nhiều
chúng sanh duyên đă chín muồi, các Ngài liền dùng
phương pháp chánh quy để dạy dỗ. Nếu chỉ
có một người duyên chín muồi, quá nửa là chỉ
dùng hóa thân, cũng chẳng nhất định dùng h́nh dáng
con người, đến khi quư vị hoát nhiên giác ngộ sẽ chẳng c̣n nữa, dẫu quư vị
t́m kiếm cũng chẳng thấy! Khi đặc biệt
có khó khăn, khi gặp phải tai nạn, sẽ có người
đến giúp quư vị. Lăo ḥa thượng Hư Vân triều
bái núi Ngũ Đài, ba bước một lạy từ Quảng
Đông đến Sơn Tây. Ba bước một lạy
th́ phải lạy mất hơn một, hai
năm mới đến nơi. Trên đường, Sư
ngă bệnh hai lần, cả hai lần đều gặp một
gă ăn mày tên là Văn Cát, gă ăn mày ấy chiếu cố
Sư. Sư hỏi gă ăn mày “quê hương của ông ở
chỗ nào?” Anh ta nói, “quê nhà tôi ở Ngũ Đài Sơn”.
Sư đến Ngũ Đài Sơn hỏi ḍ, hỏi
người khác có biết Văn Cát hay không? Người ta
bảo Sư đó chính là hóa thân của Văn Thù Sư Lợi
Bồ Tát! Khi nào quư vị cần, khi ấy, Ngài sẽ dùng
thân phận ǵ đó để giúp đỡ quư vị.
Trong thời Kháng
Chiến, tôi đi học ở Quư Châu, phu nhân của tiên sinh Châu Bang Đạo (ông Châu là
vị hiệu trưởng của ngôi trường chúng tôi) sau
khi Kháng Chiến thắng lợi bèn ở Nam Kinh. Tôi đă đến căn nhà bà ta ở tại Nam Kinh một lần, sân rất lớn. Châu sư mẫu gặp
Địa Tạng Bồ Tát hóa thân đến nhà bà ta hóa
duyên. Bà ta chẳng cho, khi đó, bà chẳng tin Phật! Hóa
duyên cũng chẳng nhiều, xin năm cân dầu mè. Sau
này, sư mẫu mới biết, bèn rất hối hận.
Hằng ngày niệm kinh Địa Tạng để sám hối.
V́ sao biết là Địa Tạng Bồ Tát? Thật sự
chẳng biết, [bà Châu] cảm thấy vị ḥa thượng
ấy rất lạ lùng, bèn hỏi Ngài từ đâu tới?
[Vị Tăng đáp] “từ Cửu Hoa Sơn tới”,
đến hóa duyên. V́ nhà bà ta khi đó có đến mấy
lớp sân, bên ngoài là một cái sân to. Bên ngoài có một cổng
chánh, ở giữa c̣n có một cổng, cuối cùng đến
chỗ bà ta ở là lớp cửa thứ ba. Bà ta nói cửa
chẳng mở, v́ sao vị ḥa thượng này vào
được? Sau đấy, vị sư bỏ đi,
Sư đi rồi, cửa vẫn c̣n đóng chặt. Bà ta
thắc mắc, Sư vào trong như thế nào? Bỏ đi
như thế nào? Tuyệt đối chẳng phải là nằm
mộng, bao nhiêu năm chẳng thể giải quyết mối
nghi vấn ấy! Về sau, đến sống tại
Đài Trung, gặp thầy Lư, bà ta đem chuyện này kể
với thầy Lư. Thầy Lư bảo đó là Địa Tạng
Vương Bồ Tát, bà ta mới hoảng nhiên đại
ngộ. Đấy là ǵ? Một người duyên chín muồi,
Ngài sẽ thị hiện, đấy là hóa thân, ngay lập
tức chẳng c̣n nữa! Giống như lăo ḥa thượng
Hư Vân gặp Văn Cát cũng là hóa thân. Sau khi Ngài (vị Phật hay Bồ Tát hóa thân) đă rời đi, quư vị cũng chẳng t́m thấy
đâu nữa!
Ứng thân là đầu
thai đến, nhất định sẽ trụ trong thế
gian này một khoảng thời gian. Sử truyện Trung
Hoa cũng ghi chép chẳng ít, như mọi người
đều biết rơ: Bảo Chí Công là ứng thân của
Quán Âm Bồ Tát, vị này là một nhân vật có thật
trong lịch sử. Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư
là thân ứng hóa của A Di Đà Phật; vị này cũng
là thật, đều ở trong thế gian này một khoảng
thời gian. Trí Giả đại sư là ứng thân của
Thích Ca Mâu Ni Phật. Bố Đại ḥa thượng là ứng
thân của Di Lặc Bồ Tát. Trải các đời có những
vị như vậy, rất nhiều! Chư vị xem Thần
Tăng Truyện, [sẽ thấy] c̣n có vị hiện thân
cư sĩ, đấy đều là “thùy h́nh lục
đạo”. Duyên sanh, các Ngài bèn ứng thân, giống
như lũ b́nh phàm chúng ta sống trong thế gian này vài chục
năm, đến khi duyên hết, Ngài ra đi. V́ thế,
các Ngài chẳng phải là thân nghiệp báo, mà là thừa nguyện
tái lai. Thừa nguyện tái lai là duyên phận; duyên đă hết.
“Duyên đă hết” là
ǵ? Chẳng có ai theo Ngài học nữa, Ngài sẽ ra đi.
V́ thế, có người theo học với Ngài, đấy
là hữu duyên. Chẳng có ai theo học với Ngài, Ngài ở
nơi đây chẳng có ư nghĩa ǵ, Ngài ra đi.
Ở đây, Thanh
Lương đại sư đặc biệt bảo
chúng ta: “Biến nhập tam
đồ” (Vào khắp tam đồ), ân ấy c̣n to hơn nữa.
Trong lục đạo th́ [hoàn cảnh sống trong] cơi trời, cơi người c̣n đỡ, hoàn cảnh c̣n khá, chứ
tam đồ khổ sở lắm! Trong kinh luận, đức
Phật đă nói rất nhiều thí dụ về chuyện
này. Từ kinh luận, cổ nhân đă sao chép thành một bộ
sách, đặt tên là Kinh Luật Dị Tướng. Trong Pháp
Uyển Châu Lâm, cũng có rất nhiều. Để độ
súc sanh, Phật, Bồ Tát hiện thân súc sanh,
đương nhiên cũng là [duyên phận] đă chín muồi.
Nhất là loài súc sanh sống thành bầy, có rất nhiều
vị Bồ Tát hóa thân trong ấy, nhất định phải
hiện thân đồng loại, mỗi ngày sống chung với
những súc sanh ấy th́ mới có thể giáo hóa chúng nó.
Căn tánh của súc sanh chẳng bằng con người, cho nên giáo
hóa khá khó khăn! Cũng có kẻ trong đời quá khứ
có duyên rất sâu với Tịnh Độ, đă từng
tu tập pháp môn này, nhưng chẳng tu tốt đẹp,
đọa vào súc sanh đạo, kẻ ấy có thiện
căn đó. V́ thế, Bồ Tát thị hiện cái thân
đồng dạng để đến độ họ,
họ cũng có thể văng sanh. Súc sanh đạo, ngạ
quỷ đạo, địa ngục đạo, văng sanh ít
hơn, trong nhân gian niệm Phật văng sanh khá nhiều!
Nhưng trong xă hội
hiện tiền, chẳng có ai nói đến luân lư, đạo
đức, kẻ b́nh phàm thường bảo tôn giáo là mê
tín, chẳng muốn tiếp xúc. V́ thế, trong thời
đại hiện tại, người văng sanh từ quỷ,
súc sanh, địa ngục nhiều hơn loài người,
quư vị có thể tin tưởng [chuyện này] hay không?
Hăy rất lắng ḷng suy nghĩ, quan sát, quư vị sẽ tin
tưởng. V́ thế, tôi nghe tin tức ấy, suy ngẫm
bèn thấy có lư. Do vậy có thể biết, văng sanh nhiều
hay ít, điều then chốt hoàn toàn chẳng phải là ở
trong đường nào, điều then chốt là có tin hay
không? Bởi lẽ, ba điều kiện để văng sanh là Tín, Nguyện,
Hạnh! Bất luận ở trong đường nào, quư vị
có cái thiện căn ấy, Phật, Bồ Tát nhất
định chiếu cố. Ân đức hiện h́nh trong lục
đạo, bất luận quư vị đang ở trong súc sanh
đạo, trong ngạ quỷ đạo, hay trong địa
ngục đạo, Phật, Bồ Tát đều chẳng vứt
bỏ quư vị. Địa Tạng Bồ Tát [phát nguyện] “địa ngục
chẳng trống, thề không thành Phật”, ai là Địa Tạng? Phàm những ai phát nguyện ấy,
đều là Địa Tạng, Địa Tạng Bồ
Tát quá ư là nhiều! Chúng tôi thường nhắc đến
Địa Tạng Bồ Tát, Ngài chuyên tu pháp môn Địa
Tạng. Người kiêm tu pháp môn này chẳng biết là bao
nhiêu! Đồng tâm, đồng nguyện, đồng đức,
đồng hạnh với Địa Tạng Bồ Tát.
“Trường kiếp cứu vật” (Bao kiếp
dài lâu cứu muôn vật), chẳng nói là “cứu người”! [Nếu chỉ nói] cứu
người, sẽ chỉ giới hạn trong loài người,
nói “vật” tức là chúng
sanh trong chín pháp giới đều được bao gồm trong ấy, phổ độ mà! Địa
ngục là chỗ khổ sở nhất trong lục đạo;
tạo tác Ngũ Nghịch, Thập Ác, đấy là nghiệp nhân khiến đọa địa ngục. Kinh điển Đại
Thừa giảng về tội Ngũ Nghịch rất nhiều.
Đối với người có ân sâu nặng nhất với
chính ḿnh, chẳng biết báo ân, c̣n muốn hại người
ấy. Ngũ Nghịch, thứ nhất là mẹ, thứ
hai là cha, bất hiếu với cha mẹ, giết hại
cha mẹ, sẽ đọa trong địa ngục Vô Gián. Thứ
ba là A La Hán. Trong thế gian này, quư vị chẳng t́m thấy
A La Hán, đó là thánh nhân, nhưng tương
đương với A La Hán là thầy. A La Hán làm ǵ trong thế
gian này? Dạy học; v́ thế, đó là ân thầy. Chúng ta
có thân mạng từ nơi cha mẹ, chúng ta có được huệ mạng trí huệ là nhờ thầy, ân đức thầy
to lớn! Chẳng biết báo ân thầy, mà c̣n hại thầy,
đấy là tội địa ngục!
Thứ tư là làm
thân Phật chảy máu. Đức Phật phước báo
quá to, không ai có thể hại Phật, nhưng khiến cho
đức Phật chảy một tí máu, bị
thương tích đôi chút th́ có thể! Chuyện này, thuở
đức Phật tại thế, Đề Bà Đạt
Đa (Devadatta) luôn ôm ḷng toan tính muốn đẩy Thích Ca Mâu Ni Phật
vào tử địa. Có một hôm, ông ta ở trên vách núi
cheo leo, biết Thích Ca Mâu Ni Phật hằng ngày đều
đi qua nơi ấy để khất thực, ông ta bèn ở trên vách núi đặt một tảng đá lớn, khi thấy Thích
Ca Mâu Ni Phật đi đến liền đẩy tảng đá xuống.
Chúng ta biết đức Phật có thần hộ pháp, Vi
Đà Bồ Tát đứng đầu các vị thần hộ
pháp, dùng chày kim cang đỡ tảng đá ấy từ
trên không trung. Tảng đá ấy nứt vỡ, bể nát
ra, một miểng nhỏ rơi vào lưng bàn chân đức
Phật, chảy một tí máu, đó gọi là “xuất Phật thân huyết”.
Đương nhiên là hiện thời cũng chẳng có Phật
trụ thế, nhưng h́nh tượng Phật tồn tại.
Do ác ư hủy hoại h́nh tượng Phật, sẽ giống
như làm thân Phật chảy máu. V́ sao? Có cùng một cái tâm
với Đề Bà Đạt Đa, muốn hủy diệt
Phật! Do đó, quư vị phải hiểu cái tội này.
Quư vị thấy, nay chúng tôi giảng giải mười
loại ân của Phật, bậc đại ân nhân như vậy,
ân đức chẳng phải là đối với cá nhân
chúng ta, mà cũng chẳng phải là đối với
người trên quả địa cầu này, mà là đối với
vô lượng vô biên chúng sanh trong khắp pháp giới hư
không giới, quư vị nói xem ân đức ấy to cỡ
nào! Lẽ nào có thể hại Ngài? V́ thế, quư vị có thể
cúng dường, tôn kính Ngài, sẽ là vô lượng vô biên
phước báo, làm sao quư vị có thể hại Ngài cho
được? Dấy lên một niệm ác tâm đều
là nghiệp nhân đọa vào địa ngục A Tỳ!
Điều cuối
cùng là phá ḥa hợp Tăng, tức là phá hoại Tăng
đoàn. Hiện thời, xác thực là chẳng thấy Tăng
đoàn ḥa hợp, nhưng một Tăng đoàn thật sự
như lư, như pháp th́ phải hộ tŕ, chớ nên phá hoại.
Đặc biệt là trong thời kỳ Mạt Pháp, quư vị
thấy đạo tràng này, bất luận bao nhiêu người,
từ bốn người trở lên, người nhiều
hay ít chẳng câu nệ, họ tụ tập với nhau
để học tập kinh giáo, chiếu theo giới luật
để tu hành, niệm Phật hoặc là tham Thiền, đều
là khó có, đáng quư! Quư vị tán thán, tôn trọng đoàn thể
ấy, sẽ là gieo vô biên phước báo. Nếu quư vị
phá hoại, chướng ngại đoàn thể ấy, tội
lỗi vô biên! V́ thế, gọi là tội Ngũ Nghịch. Thập
Ác là sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói đôi chiều,
nói lời thô ác, nói thêu dệt, tham dục, sân khuể, ngu si. Hiện
thời, Ngũ Nghịch, Thập Ác hằng ngày đều
nghe thấy, đă chẳng phải là tin tức sốt dẻo.
V́ sao con người đọa lạc đến nông nỗi
này? Nghiệp nhân thật sự là do không có ai dạy! Xác thực
là như kinh Lăng Nghiêm đă nói, thời đại hiện
tại “tà sư thuyết pháp
như hằng hà sa”. Những gă tà sư ấy phá hoại
chánh pháp, dẫn dụ chúng ta tạo tác Ngũ Nghịch, Thập
Ác, phủ định giáo huấn của thánh hiền, bài
bác là mê tín, tôn sùng khoa học kỹ thuật, tôn sùng dục
vọng hưởng thụ vật chất, tôn sùng cạnh
tranh, đem lại vô lượng khổ nạn cho xă hội
này!
Sống trong thế
gian hiện thời, ai nấy đều biết đau khổ,
nhưng chẳng biết do đâu mà có đau khổ. Ai nấy
đều mong cầu xă hội an định, thế giới
ḥa b́nh. Rất nhiều người trong xă hội hiện
tiền nghe xong nguyện vọng này đều lắc
đầu, đấy là một thứ mong tưởng xa
xỉ, chẳng thể làm được! V́ sao người
trước kia có thể làm được? Xă hội trong
thế kỷ trước, người Hoa vẫn là thuần
phác nhất, thiện lương nhất trên thế giới.
Tuy quốc gia yếu hèn, bị liệt cường[7] lấn hiếp,
nhân dân vẫn thiện lương y như cũ. Đấy
là nguyên nhân ǵ? Chúng ta đều phải nghiêm túc suy nghĩ,
nghiêm túc truy tầm, đó là do ảnh hưởng của sự giáo hóa
mấy ngàn năm của tổ tiên! Tuy sự giáo hóa của tổ tiên chẳng c̣n, nhưng vẫn c̣n có ảnh hưởng, cho tới hiện
thời, ảnh hưởng ấy ngày càng nhạt mỏng, sức ảnh hưởng gần như không tồn
tại. Do đó, khá nhiều kẻ mê hoặc, điên đảo,
càng mê sâu hơn, chẳng có sức tự cứu. Chẳng
đọc sách thánh hiền, chẳng muốn nghe giáo huấn
của tổ tiên, quả báo trong tương lai chẳng phải
là tam đồ th́ sẽ đi về đâu? Nhưng
chư Phật, Bồ Tát đối với chúng ta, dẫu
chúng ta bài xích, chướng ngại, hủy báng, hăm hại
các Ngài thế nào đi nữa, các Ngài vẫn bao kiếp dài
lâu cứu độ các chúng sanh tội khổ!
Nếu chúng ta hỏi,
chúng ta tạo tác các tội nghiệp ấy có phải chịu
báo hay không? Phải! Chúng ta vào địa ngục, vào ngạ
quỷ, làm súc sanh, Phật, Bồ Tát cũng vào khắp tam
đồ, đến những nơi ấy để dạy
chúng ta, lại đến cứu chúng ta. Nếu chúng ta hỏi,
trong tương lai, chúng ta trôi lăn trong tam đồ có
được cứu giúp hay không? Ở đây, quư vị
phải ghi nhớ, trong Phật môn có câu: “Phật độ kẻ hữu
duyên”, kẻ hữu
duyên là ai? Đối với Tam Bảo đă từng có một
niệm thiện tâm, trong đời này từng niệm một
câu nam-mô A Di Đà Phật, hoặc nam-mô Quán Thế Âm Bồ
Tát, niệm một câu ấy, đă thọ Tam Quy. Bất luận
thật hay giả, khi thọ Tam Quy, nhất định
đă niệm “quy y Phật, chẳng
đọa địa ngục; quy y Pháp, chẳng đọa
ngạ quỷ; quy y Tăng, chẳng đọa súc sanh”. Trong đời này, quư vị chỉ cần niệm một
lần, đă có chủng tử trong A Lại Da Thức,
đó là “hữu duyên”. V́ thế,
chư Phật, Bồ Tát ở trong tam đồ, những người nào sẽ có thể được độ? Người
hữu duyên có thể được độ. Nếu chẳng
có duyên với Tam Bảo sẽ khó lắm, đạo lư ở
chỗ này!
V́ thế, chúng ta
ngàn muôn phần đừng xem thường chuyện nghe
kinh một lần, hoặc thực hiện công phu một
tiếng đồng hồ. Quư vị thấy đó, niệm
một tiếng Phật hiệu, niệm một câu kinh
văn, thiện căn và phước đức đều
chẳng thể nghĩ bàn! Nghe kinh một tiếng đồng
hồ tuyệt diệu thay! Mỗi ngày nghe kinh mà vẫn tạo tội nghiệp, trong tương lai đọa
vào tam đồ, Phật, Bồ Tát lại đến độ
quư vị, công đức trọn chẳng luống uổng!
V́ thế, khi người ta gặp lúc khó khăn, lúc có nạn
gấp, hăy giúp đỡ họ bằng cách nào? Hăy để cho
họ thấy, cho họ nghe, chúng ta chắp tay niệm một
câu nam-mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, hoặc là niệm
một câu nam-mô A Di Đà Phật, họ sẽ nghe
được, hoặc niệm nam-mô Quán Thế Âm Bồ
Tát, “một phen thoảng qua
tai, vĩnh viễn trở thành chủng tử của đạo”,
thật sự hữu ích cho họ! V́ thế, thờ một
bức tượng Phật, hằng ngày họ trông thấy
tượng Phật, hễ lướt qua mắt, cũng vĩnh
viễn trở thành chủng tử của đạo! Hằng
ngày đều huân tu, v́ sao trong đời này chẳng thể
thành tựu? Kẻ ấy nghiệp chướng tập khí
quá nặng, chẳng chống nổi sự dụ dỗ,
mê hoặc của ngũ trược tà kiến bên ngoài, chẳng
chịu nổi, cho nên kẻ ấy mới tạo tội
nghiệp. Nhưng thiện căn ấy đă gieo, khi vào ác
đạo chịu khổ, Phật, Bồ Tát ở trong ác đạo
cứu bạt chúng sanh, kẻ ấy sẽ có phần, ân
đức ấy to cỡ nào! V́ thế, đối với
Tam Bảo, chúng ta chẳng thể không tôn trọng; đối với Tam Bảo, chúng ta chẳng thể
không cung kính.
Giúp người
khác là để cho người ta có cơ hội nghe, hoặc
thấy, hoặc tiếp xúc, Tam Bảo là công đức lợi
ích bậc nhất. Trong xă hội, khá nhiều kẻ chẳng
biết, chẳng thể tiếp nhận chuyện này, nghe
chẳng lọt tai! Kẻ
ấy chẳng thể tiếp nhận,
chẳng nghe lọt tai, không sao cả, cứ để
cho kẻ ấy thấy, gieo ấn tượng trong A Lại
Da Thức là được rồi. Nếu như kẻ ấy
nghe được, thấy được, tiếp xúc bèn
có thể lập tức tiếp nhận, kẻ ấy chắc
chắn chẳng đọa trong tam đồ, tối thiểu
là đời sau c̣n có thể được hưởng
phước báo nhân thiên. Kẻ ấy một niệm hồi
tâm, bỏ ác hướng thiện, hai đường nhân
thiên c̣n trông cậy được. Nếu lại có thể
tri ân, báo ân giống như Phật, Bồ Tát, chắc chắn
sẽ sanh trong thiên đạo. Nếu niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ, chắc chắn kẻ ấy sẽ
văng sanh, quư vị nói xem công đức ấy có thù thắng
lắm không?
Chúng ta mỗi ngày
đều học tập, tuy nghiệp chướng, phiền
năo tập khí chẳng đoạn, hằng ngày đều huân
tu, chỉ cần thời gian huân tu chẳng gián đoạn,
nói chung sẽ có một ngày quay đầu. Ngày nào thật sự
giác ngộ, thật sự hiểu rơ, thật sự buông xuống,
nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, chẳng
có ai không văng sanh. Sanh vào
Tịnh Độ là đi làm Phật,
Lư và Sự đều phải hiểu rơ, đều phải
minh bạch. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi
nói tới chỗ này!
Đại Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 42 hết
[1]
Đại Ḥa (Yamato, 大和) là tên gọi tự
xưng của người Nhật. Danh xưng này bắt
nguồn từ danh hiệu Đại Ḥa Quốc (Yamato no
Kuni), tương ứng với huyện Nại
Lương (Nara) hiện thời. Đấy là lănh thổ
đầu tiên do thiên hoàng Thần Vũ (Jinmu Tenno) sáng lập,
và được coi là đất tổ của người
Nhật. Thời kỳ cai trị của thiên hoàng Thần
Vũ thường gọi là Đại Ḥa Thời Đại.
Ở đây, ḥa thượng Tịnh Không có ư nói đến
Yamato
Damashii (Đại Ḥa Hồn, 大和魂) hoặc
Yamato-gokoro (Đại Ḥa Tâm) tức là những từ ngữ
chỉ giá trị văn hóa truyền thống, đặc
điểm tâm linh, văn hóa, xă hội truyền thống của
người Nhật.
[2]
Bính âm (拼音)
là một phương pháp phiên âm chữ Hán bằng cách dùng
mẫu tự La Tinh với bốn phù hiệu ghi chú âm
điệu để ghi chú cách đọc chữ Hán theo giọng
Bắc Kinh. Ở đây, ḥa thượng dùng từ ngữ này với
ư nghĩa là “dùng
bảng chữ cái (alphabet) để ghi chép ngôn ngữ”.
[3]
“Khẩu ngữ” theo nghĩa gốc
là ngôn ngữ dùng để nói. Nếu hiểu theo nghĩa
rộng, có thể coi là một số cách dùng từ ngữ
đặc trưng trong ngôn ngữ thông dụng, có thể
hiểu như những idioms
hoặc phrases
trong tiếng Anh.
[4]
Văn Ngôn (gọi đầy đủ
là Văn Ngôn Văn – cách hành văn theo lối diễn tả
trong văn chương) là ngôn ngữ viết đặc
thù thường dùng trong sách vở trước khi chánh quyền
Dân Quốc cấm sử dụng trong nhà trường.
Văn Ngôn lại chia thành hai loại Thâm Văn Ngôn là lối
viết trước thời Tiên Tần, rất cô đọng,
nhiều điển tích. Thiển Văn Ngôn dễ hiểu
hơn, là lối hành văn từ thời Ngụy Tấn
trở đi. Do đó đến đời Đường
lại h́nh thành Thượng Cổ Hán Văn tức là lối
viết văn chương hoàn toàn tuân theo cú pháp của thời
Tiên Tần. Loại thứ hai là Kim Văn, tức lối
Văn Ngôn thông dụng. Ngoài ra c̣n một loại đơn
giản hơn nữa là Biến Văn hoặc Thoại Bổn
cú pháp giản dị, không dùng điển tích, ngắn gọn,
hàm súc, nhưng rành rẽ. Đa phần khi kinh Phật
được dịch sang tiếng Hán đều sử dụng
Biến Văn.
[5]
Tư Trị Thông Giám là một bộ biên niên sử do
Tư Mă Quang chủ biên theo lệnh của Tống Anh Tông
(các trợ thủ đắc lực là Lưu Ban, Lưu Thứ,
Phạm Tổ Vũ). Công tŕnh này tốn đến 19
năm để biên soạn, gồm 294 quyển, ba trăm
vạn chuyện. Nội dung bao gồm các sự kiện lịch
sử tại Trung Hoa từ năm 23 đời Châu Oai Liệt
Vương (403 trước Công Nguyên) khi ba ḍng họ quư tộc
chia nước Tấn thành ba
nước mới là Hàn, Triệu, Ngụy
cho đến năm Hiển Đức thứ sáu (959) của
vua Thế Tông nhà Hậu Châu.
Hán Thư (c̣n gọi là Tiền Hán Thư)
là một bộ sử do Ban Cố biên soạn thời Đông
Hán, gồm một trăm quyển, chép từ năm đầu
thời Hán Cao Tổ (Lưu Bang) cho đến năm Địa
Hoàng thứ tư (23 công nguyên) nhà Tân. Tác phẩm này thật
ra do Ban Bưu khởi xướng, nhưng chưa viết
được mấy phần đă mất. Con trai Ban Bưu
là Ban Cố hoàn thành những phần chủ yếu. Chưa
hoàn thành th́ lại bị gián đoạn do Ban Cố phải
theo Đậu Hiến đi đánh Hung Nô. Ban Cố trở
về th́ lại bị dính vào chuyện đấu đá
cung đ́nh, bị tù rồi chết trong ngục. Hán Ḥa
Đế sai em gái Ban Cố là Ban Chiêu viết tiếp các phần
Thiên Văn Chí và phần Biểu. V́ thế, tác phẩm này vẫn
được ghi tên tác giả là Ban Cố.
[6]
Tiểu phẩm văn nghệ là những tác phẩm do các
bậc tài danh, có tài văn chương biên soạn, không
được xếp vào loại kinh điển hoặc sử
truyện. Chẳng
hạn các tác phẩm dù khá lớn, nhưng nội dung không
phải là mẫu mực giáo dục về luân lư, đạo
đức, chỉ thuần túy là văn chương hoặc
chuyện dă sử,
sẽ bị coi là tiểu phẩm văn nghệ, chẳng
hạn Sở Từ, Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, Thủy
Hử, Hồng Lâu Mộng v.v…
[7]
“Liệt cường”
là các cường quốc thực dân phương Tây như
Anh, Pháp, Đức, Ư, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha… kể cả
thực dân Nhật, các nước
ấy đều chiếm một phần lănh thổ Trung
Hoa, bắt chính quyền Măn Thanh kư ḥa ước nhường
đất để lập ra các tô giới.