Đại
Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm
Kinh
Phẩm
thứ mười một
Tịnh
Hạnh Phẩm
Phần 43
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp
sư Thích Tịnh Không
Địa điểm:
Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ
ngày mồng Bảy tháng Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức
Phong, Huệ Trang và Minh Tiến
Tập
1547
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống.
Xin xem Phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một,
đoạn thứ sáu trong phần kệ tụng [nói về]
lúc khất thực đi đường, tiểu đoạn
thứ ba tức phần “sở ngộ nhân vật” (所遇人物,
những nhân vật sẽ gặp gỡ). Chúng ta vẫn xem
bài kệ thứ mười một. Trước hết,
hăy đọc bài kệ ấy một lượt.
(Kinh) Kiến báo ân nhân, đương nguyện chúng sanh, ư Phật,
Bồ Tát, năng tri ân đức.
(經)見報恩人。當願眾生。於佛菩薩。能知恩德。
(Kinh: Thấy
người báo ân, nguyện cho chúng sanh, hay biết ân đức
của Phật, Bồ Tát).
Ngài Thanh
Lương đă giảng mười thứ đại ân
của đức Phật đối với hết thảy
chúng sanh. Trong phần trước, chúng ta đă đọc
bốn thứ; hôm nay, xem từ loại thứ năm.
(Sao)
Tùy
trục chúng sanh ân, thượng biện hoành biến lục
đạo, kim ước trường kiếp bất xả.
(鈔)隨逐眾生恩,上辨橫遍六道,今約長劫不捨。
(Sao: Ân luôn theo sát chúng sanh. Trong phần trước đă
biện định trên phương diện “theo chiều ngang th́ trọn khắp lục
đạo”, nay xét theo phương diện
“bao kiếp dài lâu chẳng bỏ”).
Bốn
điều trước là nói về chuyện “theo chiều ngang, trọn khắp
mười phương”. Từ đây trở đi là nói về “theo
chiều dọc, tột cùng ba đời”. Do vậy có
thể biết, ân đức của Phật, Bồ Tát trọn
khắp vũ trụ, chẳng có bất cứ thứ ǵ có
thể sánh bằng! Đấy là do nguyên nhân ǵ? Người
xem đọc kinh tạng đôi chút sẽ biết:
Đấy là do Tánh Đức trong tự tâm lưu lộ
viên măn. Hễ là người minh tâm kiến tánh, chẳng có
ai không phải là như vậy, đúng như kinh điển
thường nói “pháp nhĩ
như thị” (法爾如是), [nghĩa là] t́nh trạng vốn
sẵn như vậy đó, chẳng có mảy may miễn
cưỡng. Chúng ta phải hiểu đạo lư và sự
thật này; sau đấy, quư vị sẽ tự nhiên phát
tâm nghiêm túc học tập, đấy mới gọi là “học Phật”. Tuyệt đối chẳng phải là chúng
ta sau khi nghe xong, sanh khởi tâm ngưỡng mộ, tâm tán
thán Phật, Bồ Tát, [rồi tự nhủ] “đó là chuyện
của Phật, Bồ Tát, chẳng phải là chuyện của
ta”. Sai mất rồi! [Nếu nghĩ như vậy] quư vị
học thứ ǵ cũng đều chẳng học
được!
Chuyện
của chư Phật, Bồ Tát là chuyện thuộc về trách nhiệm, là chuyện thuộc về bổn
phận của chính ḿnh! Nói cách khác, chúng ta thấy Phật làm
bằng cách nào th́ đối với
chính ḿnh, đối với công việc, đối với
hết thảy chúng sanh, nhất định phải hiểu
chúng ta hăy nên thực hiện theo cách như vậy. Cách làm ấy là đúng, tùy thuận tự tánh
mà! Nếu cách nghĩ và cách làm của chúng ta trái nghịch
những ǵ kinh Phật đă dạy,
vậy th́ quư vị phải cảnh giác, đấy chính là
trái nghịch Tánh Đức. Tự tánh của chúng ta chẳng
phải là như vậy, Tánh Đức trong tự tánh hoàn
toàn giống như kinh giáo đă nói. Tùy thuận tự tánh là
đạo thành Phật. Tùy thuận tự tánh là như trong Phật môn thường nói, “phụ mẫu
vị sanh tiền bản lai diện mục” (bộ mặt vốn sẵn có trước khi
được cha mẹ sanh ra), vốn là h́nh trạng
như vậy. Từ kinh luận, chúng ta thấy Phật và
các vị Pháp Thân Bồ Tát đă thật sự t́m
được “bộ mặt
vốn sẵn có trước khi được cha mẹ
sanh ra”, lại c̣n hiển lộ viên măn, thật sự
được thọ dụng. Trí huệ viên măn, đức
năng viên măn, tướng hảo viên măn, v́ hết thảy
chúng sanh thị hiện thiện xảo như thế, chúng
ta phải nên học tập.
Đọc
mỗi điều, chúng ta đều phải lắng ḷng tư duy, lănh hội. Trong phần
trước, chúng ta đă đọc “phát tâm phổ bị” (phát tâm độ trọn khắp
các căn cơ), chúng ta có phát đại tâm hay không? Đúng
là hằng ngày niệm Tứ Hoằng Thệ Nguyện, nhưng
đó là ngoài cửa miệng! Niệm suốt mấy chục
năm, hiệu quả như thế nào? Chẳng ảnh
hưởng đến nội tâm chi cả! Ư niệm ấy
trọn chẳng sanh khởi! Hằng ngày đều tụng
niệm công khóa sáng tối, chẳng dẫn phát Tánh Đức
của chính ḿnh, học Phật kiểu ấy có thể đạt
thành tựu ǵ chăng? Chẳng thể nào không luống uổng
một đời! [Đối với] “nan hành, khổ hạnh” (hạnh khó làm, hạnh
khó khăn), phải khích lệ chính ḿnh, quyết định
chớ nên ham an nhàn, ngại nhọc nhằn, tham cầu hưởng
thụ. Người càng sợ khổ, chắc chắn là quư
vị chẳng trốn khỏi quả báo khổ. Người càng chẳng sợ khổ, người
ấy thật sự có thể ĺa khổ, được
vui.
Người
thật sự tu hành, nêu khuôn mẫu cho chúng ta, tuy chúng tôi chẳng
được gặp gỡ Ấn Quang đại sư,
chỉ được nghe những người già kể lại. Lớp tuổi tôi, tôi c̣n được gặp
không ít vị đă từng thân cận Ấn Quang đại
sư. Từ những lời kể của họ, biết
được ân đức của đại sư, tu
hành đúng như lời dạy. Thầy của tôi, lăo
cư sĩ Lư Bỉnh Nam, là học tṛ của Ấn Quang
đại sư, tôi ở bên cạnh quan sát thầy cẩn
thận, [nhận thấy] thầy thật sự học rất giống pháp sư Ấn Quang, thật sự
làm được “phát tâm độ
trọn khắp các căn cơ, chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ”, có nghĩa là giáo hóa chúng sanh chẳng nề
hà nhọc nhằn. Khi tôi theo Ngài, thầy đă ngoài bảy
mươi tuổi, thầy mở giảng ṭa Từ Quang tại
Đài Trung, khi đó, thầy đă gần tám mươi tuổi.
Thuở ấy, có bốn người sinh viên đến từ
Đài Bắc, tôi c̣n nhớ [hai người trong số đó
là] Thái Vinh Hoa và Lư Tương Giai. Lư Tương Giai là
người Hương Cảng, Thái Vinh Hoa đến từ
Mă Lai, là sinh viên năm thứ ba khoa tiếng Hán thuộc
trường Chánh Đại[1]. Lư
Tương Giai dường như là sinh viên năm thứ
hai của đại học Sư Phạm. Họ đều
theo học khoa tiếng Hán, c̣n có hai vị là người Đài
Loan. Bốn sinh viên đến Đài Trung thỉnh giáo thầy
Lư, chúng tôi ở bên cạnh hóng chuyện. Họ hỏi một
số vấn đề, tuy là sinh viên đại học,
đúng là “cách hành như cách
sơn” (khác nghề như cách ngăn bởi núi), chúng
tôi hằng ngày được nghe kinh, học giáo dưới
ṭa của thầy, nghe thấy họ hỏi thầy những
câu đều rất ấu trĩ, nhưng thầy thật
sự có thái độ cung kính, nghiêm túc, chẳng ngại
phiền phức, giải đáp cho họ. Sau khi được
trông thấy lần đó, chúng tôi vỡ lẽ, bội phục.
Bốn người bọn họ từ lần gặp gỡ
đầu tiên ấy, nói chuyện hơn ba tiếng đồng
hồ, các sinh viên rất măn nguyện; do vậy, dự
định kỳ nghỉ Đông và nghỉ Hè sẽ đến
Đài Trung học tập. Đấy chính là duyên khởi
phát sanh Từ Quang Đại Chuyên Giảng Ṭa (khóa giảng
cho sinh viên các trường đại học và chuyên nghiệp
của thư viện Từ Quang).
Đấy
là do thoạt đầu có bốn sinh viên như vậy
đến thưa hỏi, trong các sinh viên, có hai người
thuộc đại học Đài Loan. Chẳng lâu sau,
dường như là năm thứ hai, khi họ đến
[Đài Trung] nhằm mùa Đông, đại học Đài
Loan thành lập một Phật học xă có tên là Thần Hy
học xă (晨曦學社, câu lạc bộ học tập Phật
pháp tia nắng ban mai). Đấy là học xă đầu tiên,
là học xă thứ nhất trong trường cao đẳng
của Đài Loan, do lăo cư sĩ Châu Tuyên Đức xúc
tiến thành lập. Tin tức truyền đến Đài
Trung, thầy Lư rất vui sướng, rất hoan hỷ: “Trong
trường cao đẳng có Phật học xă!” Tôi
thưa với thầy: “Con thấy thầy rất cao hứng,
con thưa với thầy, chưa chắc là chuyện tốt
đẹp”. Thầy nghe nói, rất bực ḿnh, hỏi: “V́
sao chẳng phải là chuyện tốt đẹp?” Tôi
thưa: “Họ là thành phần trí thức cao cấp, nếu
họ học Phật mà chẳng có một vị thầy tốt
đẹp chỉ dạy, sẽ đi chệch đường.
Trong tương lai, ai có thể giúp họ uốn nắn
cho được?” Tôi thưa lời ấy, thái độ
của thầy cũng rất nghiêm túc, thầy bảo “có
lư”. Suy nghĩ rất lâu, thầy hỏi tôi: “Làm như thế
nào đây?” Tôi thưa: “Chúng ta có thể lợi dụng dịp
nghỉ Đông và nghỉ Hè để mở Đại
Chuyên Phật Học Giảng Ṭa. Từ nơi đây, chúng
ta bồi dưỡng một nhóm sinh viên. Nếu họ
đi sai đường, nhóm sinh viên ấy có thể uốn
nắn họ”. Thầy rất hài ḷng. V́ thế, Từ
Quang Đại Chuyên Giảng Ṭa được kiến lập
như thế đó.
Tôi thấy
thầy rất yêu thương, bảo vệ những kẻ
trẻ tuổi. Đối với tấm ḷng quan tâm, giáo
hóa ấy, chúng tôi bội phục năm vóc sát đất,
đúng là có thể hành hạnh khó hành. Thấy lăo nhân gia
đăi người tiếp vật từ bi dường ấy,
thành khẩn dường ấy! Tôi đến Đài Trung, Đài
Trung Liên Xă đă thành lập mười năm, liên hữu
hai mươi vạn người. Thuở đó, ở
Đài Loan, tôi thấy [Đài Trung Liên Xă] rất có thể
là đạo tràng bậc nhất, có đông liên hữu ngần ấy. Tôi ở Đài
Trung mười năm, khi ĺa khỏi, trong mười
năm, liên hữu ở Đài Trung tăng gấp đôi, gần
như là tới năm mươi vạn người. Thầy
thường xuyên nhắc nhở bọn học tṛ chúng tôi
phải kết pháp duyên. Pháp duyên của lăo nhân gia hết sức
thù thắng, Ngài dạy chúng ta phải biết kết pháp
duyên. Kết pháp duyên như thế nào? Bố Thí. Đứng
đầu Tứ Nhiếp Pháp là Bố Thí. [Tứ Nhiếp
Pháp] là Bố Thí, Ái Ngữ, Lợi Hành, Đồng Sự, tôi
học theo thầy từ chỗ này. Chẳng suy xét v́ chính
ḿnh, niệm nào cũng đều nghĩ đến người
khác, niệm nào cũng mong mỏi chánh pháp tồn tại
lâu dài, niệm nào cũng mong mỏi đàn hậu sanh (những
kẻ trẻ tuổi) có thể phát Bồ Đề tâm, tiếp
nối huệ mạng của Phật.
Chẳng
đoái hoài tự thân, “thùy h́nh
lục đạo” (giáng hiện thân h́nh trong lục
đạo). Phật, Bồ Tát đáng nên dùng thân ǵ để
hóa độ, bèn hiện thân ấy. Cùng một đạo
lư như vậy, nay trong thế gian này, chúng ta phải biết
đức Phật phổ độ hết thảy chúng sanh,
chẳng phân biệt quốc gia, chẳng phân biệt dân tộc,
chẳng phân biệt tôn giáo, nhất loạt b́nh đẳng
nhiệt tâm giáo hóa. Nếu chúng ta gặp các chướng ngại,
cũng phải học theo Bồ Tát “đáng nên dùng thân ǵ để đắc độ,
bèn hiện thân ấy”. Chúng ta chẳng thể biến hiện
h́nh trạng, nhưng đừng nên câu nệ thân phận.
Hễ bị câu nệ,
bó buộc vào một thân phận
nhất định, sẽ chẳng thể độ loại
người thứ hai. Phải hiểu rơ điều này, đấy
là phương tiện thiện xảo. Trong bài kệ Hồi
Hướng có câu “xảo bả
trần lao vi Phật sự” (khéo dùng trần lao làm Phật
sự), phải học sống động, vận dụng
sống động. Chúng ta phải nên tùy thuận t́nh lư trong cơi đời, tùy thuận
phong tục, tập quán, người khác sẽ hoan hỷ.
Điều thứ nhất là phải khiến cho chúng sanh
sanh tâm hoan hỷ. Trong Tứ Tất Đàn, Tất Đàn:
Tất (悉) là tiếng Hán, Đàn (檀) là tiếng Phạn. Đàn là Đàn-na (檀那, Dāna). Đàn-na là bố thí, Tất là phổ biến.
V́ thế, nói theo ư nghĩa đơn giản, Tứ Tất
Đàn là bốn loại thí xả phổ biến. Loại
thứ nhất là Thế Giới Tất Đàn, có ư
nghĩa ǵ? Bố thí cái tâm hoan hỷ, đầu tiên là
như vậy. “Bồ Tát sở
tại chi xứ, linh nhất thiết chúng sanh sanh hoan hỷ
tâm” (Bồ Tát ở chỗ nào cũng đều khiến
cho hết thảy chúng sanh sanh tâm hoan hỷ).
Nếu các
đồng học học Phật chúng ta, bất luận tại
gia hay xuất gia hiểu Tứ Nhiếp Pháp, hiểu Tứ
Tất Đàn, có lẽ nào Phật pháp chẳng hưng vượng! Lẽ đâu quư vị chẳng tu hành thành
công! Khẳng định là sẽ giống như chư Phật,
Bồ Tát, ứng hóa trong mười pháp giới, được
trọn khắp hết thảy chúng sanh hoan hỷ, kính ái.
V́ thế, Tứ Nhiếp và Tứ Tất Đàn là nguyên tắc
để chư Phật và Bồ Tát nhiếp thọ hết
thảy chúng sanh. Không chỉ là Thích Ca Mâu Ni Phật lăo nhân
gia làm như vậy, đức Phật bảo chúng ta, mười
phương ba đời hết thảy chư Phật, Bồ
Tát thảy đều tuân thủ, lẽ nào chúng ta có thể
sơ sót cho
được? Nhất
là trong hiện thời c̣n nói đến hóa giải xung
đột, xúc tiến ḥa b́nh, biện pháp này cực tốt,
nhất định phải thực hiện từ bản
thân chúng ta!
Hiện
thời nói đến “tùy trục
chúng sanh” (theo sát chúng sanh), kinh luận thường nói, “Phật thị môn trung, bất xả
nhất nhân” (trong cửa nhà Phật, chẳng bỏ một
ai), dẫu một người cũng theo sát chẳng bỏ.
Bất luận người ấy đọa lạc trong
đường nào, đức Phật trông thấy, Pháp
Thân Bồ Tát trông thấy, sẽ thời thời khắc
khắc khuyên dụ, hướng dẫn quư vị. Bất
luận dùng h́nh trạng ǵ, cũng đều chẳng có
pháp nhất định để có thể nói, luôn giúp
đỡ quư vị, giúp quư vị tiêu nghiệp chướng,
giúp quư vị khai trí huệ, niệm nào cũng đều
chẳng bỏ! Đến khi duyên chín muồi, “chín muồi” là ǵ? Hoan hỷ tiếp nhận tức là
[duyên phận đă] chín muồi. Hoan hỷ tiếp nhận
th́ [chư Phật, Bồ Tát] nhất định sẽ
đến dạy quư vị. Trong đời này, quư vị
có thể gặp gỡ thiện tri thức, gặp thầy
tốt, bạn học tốt, những người ấy
có thể đều được Phật, Bồ Tát gia
tŕ, hoặc Phật, Bồ Tát ứng hiện đến thành
tựu cho quư vị, ai biết? Chúng sanh căn cơ chín muồi
sẽ biết.
Căn
cơ chín muồi là ǵ? Người trọn đủ ḷng
hiếu thảo với cha mẹ, tôn kính thầy. Đấy
là thật sự làm được điều thứ nhất
trong Tịnh Nghiệp Tam Phước, “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư
trưởng”. Làm được hai câu ấy, chư Phật,
Bồ Tát chẳng có vị nào không chiếu cố. Trong Phật
môn, [người như vậy] được gọi là “pháp khí” (法器), [nghĩa là] “hội
đủ điều kiện để tiếp nhận,
truyền thừa”. Điều kiện cơ bản chính là hai
câu ấy. Hiếu dưỡng cha mẹ và phụng sự sư
trưởng là một chuyện, chẳng phải là hai chuyện.
Ḷng hiếu của quư vị vận dụng vào thầy sẽ
là kính, vận dụng vào đồng học sẽ là khiêm
cung, áp dụng vào người đời b́nh phàm sẽ là
có lễ, có nghĩa, tức là lễ nghĩa. V́ vậy, một
vị thầy tốt, một vị thiện tri thức, sẽ
lặng lẽ quan sát xem quư vị có hội đủ những
đức hạnh ấy hay không. Hội đủ những
đức hạnh ấy th́ là pháp khí, chẳng truyền
pháp cho quư vị th́ truyền cho ai? V́ sao truyền cho quư vị?
Quư vị có thể làm được! Chư Phật, Bồ
Tát chẳng có tâm riêng tư, ai có thể làm được,
nhất định sẽ dụng tâm dạy người
đó! Làm không được cũng dạy. V́ sao? Gieo thiện
căn cho người ấy. Chẳng phải là “làm không
được, sẽ chẳng dạy”, làm không được,
vẫn dạy! Người có thể làm được, biết
người ấy có thể thành tựu, có thể tiếp
nối huệ mạng của đức Phật, có thể
hoằng pháp lợi sanh, đó gọi là “đời nào cũng có truyền nhân”, người
thuộc thế hệ này tiếp nối pháp của thế
hệ trước, mà cũng có thể truyền pháp cho thế
hệ sau.
Chúng ta phải
học sao cho đối với bất cứ ai, dẫu người
ấy chẳng muốn tiếp cận chúng ta, nhưng tâm
ta, ư niệm ta chẳng hề vứt bỏ người ấy.
Chúng ta biết đó là tạm thời, người ấy
đă mê, mê quá sâu, lầm đường lạc lối;
nói chung, sẽ có ngày người ấy quay trở lại.
Ngày ấy nếu sớm th́ là dăm ba năm, người ấy sẽ quay đầu. Nếu chậm hơn một chút, sẽ là mười
năm, hai mươi năm, ba mươi năm, người
ấy mới quay đầu. Chậm hơn nữa là đời
kế, hoặc đời sau nữa! V́ thế, bản thân
phải hiểu rơ, nhất định sẽ có ngày [kẻ
ấy] quay đầu! Đấy là hết thảy chúng
sanh đều có Phật Tánh; đă có Phật Tánh, nhất
định sẽ làm Phật, nhưng thời gian xa hay gần
khác nhau, làm sao có thể coi thường cho được?
Làm sao có thể chẳng tôn trọng cho được? Kẻ
tạo tác tội nghiệp cực sâu đều chẳng bỏ
qua, mười điều sau đều có.
Ở
đây, đại sư đă nêu một tỷ dụ:
(Sao)
Như tử kiến phụ, thị phụ nhi dĩ, vô xuất
ly tâm, Như Lai tùy chi, như độc trục mẫu, bị
tương vạn hạnh, tùy trục cứu nhiếp.
(鈔)如子見父,視父而已,無出離心,如來隨之,如犢逐母,備將萬行,隨逐救攝。
(Sao:
Như con thấy cha, nh́n cha mà thôi, chẳng có tâm xuất
ly. Như Lai thuận theo, như con nghé theo mẹ, đầy
đủ vạn hạnh, theo sát cứu độ, nhiếp
thọ).
Nêu thí dụ
này hay lắm. Nhưng xă hội hiện thời đă khác hẳn,
[những điều được nói trong tỷ dụ
này là] nói theo chuyện xưa kia. Thấy đoạn văn
tự này, nghe những lời này, tôi có cảm xúc rất
sâu. Xă hội hiện thời đă biến đổi, gần
một thế kỷ chẳng nói đến luân lư, đạo
đức, chẳng nói đến hiếu, đễ,
trung, tín, thời gian đă lâu ngần ấy, mọi người
đă quên sạch! B́nh thường, trong xă hội chẳng
trông thấy hiếu, đễ, trung, tín, cũng chẳng
thấy tôn sư trọng đạo. Không chỉ là chẳng
thấy, mà cũng chẳng nghe tới, lâu ngày chầy tháng,
tự nhiên quên sạch bách!
Hiện thời,
con cái thấy cha có tâm tôn kính hay không? Trong cuộc đàm thoại
giữa tiến sĩ Thang Ân Tỷ (A. Toynbee) và ông Tŕ Điền
Đại Tác (Ikeda Daisaku) có một đoạn chép như
thế này: “Con cái hiện thời chẳng
có ḷng tin đối với cha mẹ”. Tín tâm đă chẳng có, lấy
đâu ra hiếu tâm? V́ sao chẳng có tín tâm? Trẻ nhỏ
thường thấy ngôn hạnh của cha mẹ không nhất
trí, tức là lời nói và việc làm của cha mẹ khác hẳn
nhau. V́ thế, trẻ nhỏ sanh ḷng ngờ vực. Vào thời
cổ, nhân dân đối với chánh phủ, đối với
người lănh đạo đất nước có tín tâm hết sức mạnh mẽ, đúng là chẳng
khác ḷng hiếu kính đối với cha mẹ của chính
ḿnh. Hiện thời, nhân dân đối với người
lănh đạo nước nhà cũng mất ḷng tin; bởi lẽ, uy tín của chánh phủ bị mất
đi, do nguyên nhân ǵ? Cũng giống như kẻ làm cha mẹ
vậy! Ở trước mặt con cái, lời nói và hành vi
chẳng phù hợp. V́ thế, ngày nay, đưa cho người
hiện thời xem đoạn văn tự như thế,
họ xem rồi cười x̣a, đơn giản là [coi như] là một câu nói đùa! Đấy
là chẳng hiểu văn hóa trong quá khứ, nền văn
minh hiện thời đă bị biến chất, luân lư,
đạo đức bị hạ thấp đến tận
đáy, gần như bằng zéro,
làm sao được nữa!
Bởi lẽ,
tôi nghe cô Dương kể, gần đây có không ít bậc
đại đức theo đuổi công tác giáo dục, có
không ít vị hiệu trưởng và giáo viên đến
Thang Tŕ thăm viếng, sau khi trông thấy, hết sức
cảm động, cảm thấy giáo dục luân lư đạo
đức nếu không t́m cách cứu văn ngay
lập tức trong hiện tại, sẽ chẳng kịp nữa!
Cách nh́n ấy chánh xác, chẳng sai một tí nào! V́ thế,
tôi khích lệ những vị giáo viên trẻ, khổ sở
kiểu nào cũng đều phải cam chịu, phải học
theo chư Phật, Bồ Tát có thể làm chuyện khó làm, có
thể nhẫn chuyện khó nhẫn, quư vị mới có thể
cứu văn luân lư, đạo đức. Nếu chẳng thể
chịu đựng, quư vị sẽ chẳng thể làm
công tác cứu giúp văn hóa truyền thống của cổ
thánh tiên hiền. Làm chuyện này rất ư khổ sở,
làm chuyện tốt phải hứng chịu oan uổng, lại
c̣n bị kẻ khác khinh khi, nhục mạ, c̣n phải bị
kẻ khác vùi dập, phải hứng chịu khá nhiều chướng
nạn, đều phải dùng ḷng kiên nhẫn để
đột phá. Chẳng v́ chính ḿnh, hăy v́ quốc gia, dân tộc, hăy v́ nỗi khổ tâm đời đời truyền thừa
suốt năm ngàn năm của tổ tiên!
Vậy
th́ phải thực hiện như thế nào? Giống
như kinh văn ở nơi đây đă giáo huấn, thực
hiện từ chính ḿnh, mỗi điều trong mười
điều này đều phải học, học sống
động, vận dụng sống động! Bản
thân chúng ta thật sự làm được, xác thực tăng
tấn cảnh giới của chính ḿnh. Quư vị phải
có cảm giác sứ mạng, phải có cảm giác trách nhiệm.
Nói cách khác, sứ mạng và trách nhiệm sẽ bức bách
quư vị mong thành thánh, thành hiền. Nói cách khác, đọc
sách Khổng Tử, quư vị phải là một Khổng Tử
trong thời hiện đại. Đọc Mạnh Tử,
quư vị phải làm Mạnh Tử trong hiện thời. Sức
mạnh nào thúc đẩy quư vị? Trách nhiệm sứ mạng
thúc đẩy quư vị. Hiện thời, trong thế gian
này chẳng có Khổng Tử, chẳng có Mạnh Tử, chẳng
có Phật Thích Ca, chẳng có Phật, Bồ Tát, chúng sanh
vĩnh viễn chẳng thể thoát ĺa khổ nạn! V́ thế,
chính ḿnh thành tựu th́ mới có thể cảm hóa người
khác, mới có thể giáo hóa chúng sanh. Chính ḿnh chẳng thành
tựu, sẽ chẳng làm được!
Hiện
thời, cũng giống như vậy, học tṛ mất
ḷng tin đối với thầy, nguyên nhân ở chỗ
nào? Thầy chẳng làm được những điều
đă nói! V́ sao ba ngàn đệ tử, bảy mươi
hai vị hiền nhân của Khổng Tử đối với
giáo huấn của phu tử đều có thể tiếp
nhận, chẳng hoài nghi? Khổng Tử đă làm
được, Ngài đă làm được những ǵ Ngài
dạy quư vị. Mạnh Tử làm được, Thích Ca
Mâu Ni Phật làm được. Chính ḿnh làm được
rồi dạy kẻ khác, đấy là thánh nhân, đấy
là Phật, Bồ Tát. Tuy chính ḿnh chưa làm
được, nhưng nghiêm túc, nỗ lực siêng học,
hằng ngày đều tăng tấn cảnh giới của
chính ḿnh, đấy là hiền nhân, là Bồ Tát. Nếu chính
ḿnh dạy kẻ khác mà bản thân chần chừ, lười nhác, tán loạn, chẳng thể
khắc
phục tập khí phiền năo của
chính ḿnh, hoàn toàn chẳng thể làm được những
điều chính ḿnh đă dạy, không chỉ là chẳng thể
làm được, ngay cả ư niệm mong thực hiện
cũng chẳng có, đấy là phàm phu. Nói khó nghe th́ là lừa
gạt người ta, kẻ khác làm sao có thể khâm phục
quư vị cho nổi? Làm sao có thể tiếp nhận giáo huấn
của quư vị cho nổi? Những đạo lư này hoàn toàn
chẳng sâu thẳm, hoàn toàn chẳng khó hiểu. V́ thế,
bản thân chúng ta phải nghiêm túc, phải nỗ lực.
Học
điều này bằng cách nào? Chư vị phải ghi nhớ,
trong Phật môn có câu nói: “Phật chẳng độ kẻ vô duyên”. Chỉ cần là hữu duyên với ta, cái duyên ấy
bất luận là thiện duyên hay ác duyên, chỉ cần là
có duyên, phải thường ghim trong ḷng. Bản thân chúng ta
hằng ngày tụng kinh, lạy Phật, thời thời khắc
khắc hồi hướng cho họ, chẳng tiếp xúc
với người đó, nhưng tâm nguyện của
ta thấu tới. Thiện duyên th́ là kẻ đối xử với ta rất
khá, [chúng ta] hy vọng kẻ ấy thành tựu, mà cũng tận tâm tận lực giúp đỡ
kẻ ấy thành tựu. Ác duyên th́ gọi
là “oán thân trái chủ”, hằng
ngày chúng ta hồi hướng cho người ấy, hy vọng
người ấy sẽ giác ngộ, hy vọng người
ấy sẽ quay đầu. Quan trọng nhất là hóa giải
oán đối, làm từ chính bản thân ḿnh, nội tâm của
chính ḿnh chẳng đối lập với người ấy,
nhưng người ấy đối lập với ta, ta chẳng đối lập
kẻ ấy. Kẻ ấy hủy báng
ta, lăng nhục ta, hăm hại ta, ta đều chẳng
để trong ḷng! Tôi thường nói, không chỉ là ta chẳng
để trong ḷng, mà c̣n chẳng sanh ḷng sân khuể, chẳng
có ư niệm trả hờn, ngược lại c̣n cảm
ơn. Quư vị nói xem, ơn ǵ vậy? Tối thiểu là
người ấy đă tăng tấn cảnh giới cho
ta. Bản thân ta học theo giáo huấn của Phật, Bồ
Tát, gặp những nỗi chướng nạn ấy có
c̣n sân khuể hay không? Hiện thời, quả nhiên là chẳng
có sân khuể, quả nhiên chẳng trả hờn, lại
c̣n có ḷng cảm ơn: Người ấy đă cung cấp
tài liệu dạy học cho ta, giúp đỡ ta tăng tấn
hơn; đấy là ân huệ! V́ thế, hằng ngày, niệm
nào ta cũng hồi hướng cho người ấy,
đấy là chuyện ta phải nên làm. Khi nào người ấy
bị cảm động, sẽ lập tức quay đầu,
người ấy sẽ là người tốt nhất trong
những người tốt. Ngạn ngữ Trung Hoa có câu “lăng tử hồi đầu kim bất
hoán” (lăng tử quay đầu, vàng chẳng đổi được), chính là đạo lư này!
V́ thế,
trong kinh Phật có hai câu nói: “Ngày nào cũng là ngày tốt,
giờ nào cũng là giờ tốt”. Tôi ghép
thêm hai câu: “Người nào cũng là người tốt,
chuyện nào cũng là chuyện tốt”. Thật vậy, chẳng giả tí nào!
Đấy là tâm đắc của tôi trong nửa thế kỷ
học Phật. Tại đại học Côn Sĩ Lan
(Queensland) của Úc, có một vị giáo sư hỏi tôi: “Pháp sư Tịnh Không ơi! Thầy nói ai nấy đều là người
tốt, vậy Hy Đặc Lặc (Hitler) cũng là người
tốt ư?” Tôi bảo ông ta: “Tánh con người vốn
lành, lẽ nào ông ta chẳng phải là người tốt?
Chỉ là duyên của ông ta không tốt, từ bé chẳng
được tiếp nhận giáo huấn của người
tốt, nên biến thành kẻ xấu, học theo thói xấu,
chứ bản tánh chẳng xấu!” V́ thế, nh́n từ bản
tánh, ai nấy đều là người tốt. Hy Đặc
Lặc làm rất nhiều chuyện bất hảo, đặc
biệt là tàn sát mấy trăm vạn người Do Thái!
Do tội lỗi ấy, ắt đọa vào địa ngục
A Tỳ. Khi đọa địa ngục, ông ta mới biết
lỗi, hối hận chẳng kịp, ai đến độ
ông ta? Địa Tạng Vương Bồ Tát đến
độ ông ta. Khi nào ông thật sự giác ngộ, nhận
lỗi, ông ta sẽ có thể rời khỏi địa ngục.
Bởi lẽ,
thời gian trong địa ngục tuy dài, vẫn chẳng
phải là pháp cố định. Chư
vị đồng học nhất định phải biết
điều này. Hết thảy các pháp đều chẳng
phải là pháp cố định, biến hóa muôn ngàn! Một
niệm hối cải, Tánh Đức hiện tiền, sẽ
chẳng thấy tướng địa ngục, sẽ
vượt thoát. Nếu cá tánh quật cường, thà chết
vẫn chẳng chịu nhận lỗi, chuyện này phiền
phức lắm, thời gian trong địa ngục bèn lâu
dài. Ngày nào người ấy bắt đầu nhận lỗi,
sẽ được rời khỏi. Đương nhiên là
rời khỏi, do đă giết nhiều người
như vậy, đă giết
nhiều chúng sanh như vậy th́ phải trả nợ.
Thiếu mạng phải đền mạng, thiếu nợ
phải trả nợ. V́ thế, người sống trong
thế gian, nay chúng ta đă thật sự hiểu rơ, mong
chiếm đôi chút tiện nghi của kẻ khác, chẳng
có chuyện ấy đâu nhé! Chẳng chiếm được,
v́ sao? Đời sau quư vị phải trả. Vậy th́
chính ḿnh bị kẻ khác chiếm tiện nghi, chúng ta có bị
thua thiệt hay chăng? Chẳng bị thua thiệt, nhân quả
thông ba đời mà! Quư vị có thể thấy được
nhân quả ba đời, tâm của quư vị sẽ b́nh, thật
sự là tâm b́nh khí ḥa. Giống như chư Phật, Bồ
Tát hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức, suốt
đời này quư vị sống cuộc đời như thế
nào cũng đều có thể rất vui sướng.
[Nh́n vào] cuộc sống của Thích Ca Mâu Ni Phật,
quư vị thấy cuộc sống vật chất của
Ngài, ba y một bát, đêm nghỉ dưới cội cây, giữa
trưa ăn một bữa, vui sướng khôn sánh! Tại
Trung Hoa, quư vị thấy Khổng Tử, Nhan Hồi, ăn
cơm trong giỏ, uống nước trong bầu, cũng
chẳng vui ư? Niềm vui của họ do đâu mà có? Đă giác ngộ! Đức Phật nói rất hay,
khổ do mê mà có, lạc do từ giác mà ra. Cuộc sống
dẫu khổ đến mấy, chỉ cần giác ngộ,
sẽ là đại lạc, sẽ là đại tự tại.
Lại c̣n sau khi đạt đến một cảnh giới
nhất định, như kinh Lăng Nghiêm đă nói: “Nếu có thể chuyển vật,
ắt giống Như Lai”. Cảnh giới bất thiện
ở trước mặt người ấy, người ấy hoàn toàn có thể chuyển [cảnh giới ấy] thành tối thiện. Đức Phật đă làm
được, Bồ Tát làm được, chúng ta phải
học theo, học ǵ vậy? Học diệu pháp “ĺa khổ, được vui”.
Sau đó,
nêu ra một vị Bồ Tát. Trên thực tế, năm
mươi ba vị thiện tri thức trong năm
mươi ba lần tham học, nam, nữ, già, trẻ, các
nghề nghiệp, toàn là cổ Phật tái lai ứng hóa, chẳng
phải là phàm nhân! Nếu chúng ta coi các Ngài là Pháp Thân Bồ
Tát, tức là đă nh́n các vị ấy thấp hơn, cổ
Phật ứng hóa mà! Ngay cả Thiện Tài cũng chẳng
phải là phàm nhân, đều giống như đang diễn
tuồng, diễn cho chúng ta xem. Đấy là Biến Tịnh
Thiên Vương, Biến Tịnh thiên vương là thiên vương của tầng trời
thứ ba trong Tam Thiền Thiên[2]. Vị
ấy….
(Sao)
Như Tu
Di Âm Biến Tịnh thiên vương, đắc tùy chư chúng sanh vĩnh lưu chuyển
sanh tử hải giải thoát môn.
(鈔)如須彌音遍淨天王,得隨諸眾生永流轉生死海解脫門。
(Sao:
Như thiên vương Tu Di Âm Biến Tịnh
đạt được môn giải thoát thuận
theo các chúng sanh mà vĩnh viễn lưu chuyển trong biển
sanh tử).
Đấy
là biểu hiện của ân đức ấy. Cổ Phật
tái lai, dùng thân phận thiên vương, vĩnh viễn tùy
thuận chúng sanh. Chúng sanh tạo nghiệp, thọ báo, Ngài chẳng bỏ sót một người nào! A!
Nay đă hết thời gian rồi, chúng ta nghỉ ngơi mấy
phút.
***
Chư vị
pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi
xuống. Xem tiếp câu thứ sáu:
(Sao)
Đại bi thâm trọng ân, kiến chúng sanh tạo ác,
như cát chi thể. Cố Thiện Tài đồng tử vị
Vô Ưu Đức thần vân: “Thánh giả, thí như hữu
nhân, duy hữu nhất tử, ái niệm t́nh chí, hốt kiến
bị nhân cát tiệt chi thể, kỳ tâm thống thiết,
bất năng tự an. Bồ Tát diệc phục như thị,
kiến chư chúng sanh, tạo phiền năo nghiệp, đọa
tam ác thú, thọ chủng chủng khổ, tâm đại
ưu năo. Nhược kiến chúng sanh, khởi thân ngữ
ư tam chủng thiện nghiệp, sanh nhân thiên thú, hỷ diệc
thâm cố”.
(鈔)大悲深重恩。見眾生造惡,如割支體。故善財童子謂無憂德神云,聖者,譬如有人,唯有一子,愛念情至,忽見被人割截支體,其心痛切,不能自安。菩薩亦復如是,見諸眾生,造煩惱業,墮三惡趣,受種種苦,心大憂惱。若見眾生,起身語意三種善業,生人天趣,喜亦深故。
(Sao:
Ân đại bi sâu nặng, thấy chúng sanh tạo ác,
như bị cắt chân tay, thân thể. V́ thế, Thiện
Tài bảo thần Vô Ưu Đức[3]
rằng: “Thưa thánh giả! Ví như có kẻ chỉ có một
con, nặng ḷng yêu thương tột bậc, bỗng thấy
con bị kẻ khác cắt chặt chân tay, thân thể, cơi
ḷng đau đớn, chẳng thể tự an. Bồ Tát
cũng giống như thế, thấy các chúng sanh tạo
nghiệp phiền năo, đọa trong ba đường ác,
chịu đủ mọi nỗi khổ, tâm hết sức
ưu năo. Nếu thấy các chúng sanh khởi ba thiện nghiệp
nơi thân, ngữ, ư, sanh vào đường trời hay
người, cũng mừng vui sâu xa vậy”).
Mối
quan hệ giữa con người với nhau trong đoạn
chú giải này chẳng khó lư giải, nhưng nói thật ra,
ư nghĩa được bao hàm [trong đoạn Sao này] rất
sâu. Nếu tâm ư hời hợt, xem lướt qua, vẫn là
rất khó lănh hội.
Bi tâm thuộc
về ái tâm, nhà Phật nói là “từ bi”, rất hiếm khi nói là Ái. V́ sao? Người thế
gian trông thấy Ái, nghe nói đến chữ Ái, [sẽ cảm nhận] trong ấy có t́nh,
có ham muốn, [những thứ ấy] sẽ tự nhiên sanh
khởi. Nhưng trong tấm ḷng yêu thương của Phật,
Bồ Tát chẳng có t́nh, mà cũng chẳng có ham muốn!
Trong Ái là ǵ? Trong Ái là trí huệ, chúng ta nói là “lư trí”. Nói nông cạn, rơ ràng hơn đôi chút, từ
bi là t́nh yêu thương bằng lư trí, thế gian nói đến
Ái chính là t́nh yêu thương theo phương diện cảm
t́nh. V́ thế, Phật pháp không nói là Ái mà nói là từ bi! Từ
bi thêm một chữ Đại, Đại là chẳng có điều kiện ǵ. Không kèm thêm bất cứ một điều
kiện nào, ḷng từ bi ấy sẽ được gọi
là “đại từ đại
bi”. Nếu có điều kiện, ḷng từ bi ấy chẳng
thể gọi là đại từ đại bi.
V́ thế,
Phật môn nói từ bi có bốn loại duyên:
1) Loại
duyên thứ nhất là như người thế gian nói, Ái
Duyên Từ Bi. Ta yêu ngươi bèn đối xử với
ngươi bằng ḷng từ bi. Ta chẳng yêu mến ngươi, sẽ không đối đăi với
ngươi bằng ḷng từ bi. Ái Duyên Từ Bi chính là [ḷng từ bi của] những kẻ phàm phu. Trong thế gian có
thánh nhân, có triết nhân. Ḷng yêu thương của họ
không chỉ là yêu thương gia tộc, mà c̣n là yêu
thương xă hội, yêu thương quốc gia, yêu
thương nhân loại, thậm chí yêu thương hết
thảy chúng sanh.
2) Loại
lớn hơn nữa được Phật pháp gọi là
Chúng Sanh Duyên Từ Bi. Tâm lượng của người ấy
to lớn, có thể mở rộng đến hết thảy
chúng sanh.
3) Ḷng từ
bi của Bồ Tát được gọi là Pháp Duyên Từ
Bi. Bồ Tát liễu giải chân tướng của vũ
trụ và nhân sinh, [liễu
giải] y báo và chánh báo trang nghiêm
trong mười pháp giới và chính ḿnh là một Thể.
Đă giải ngộ, đă hiểu rơ! Tuy chẳng đích
thân chứng, chưa chứng ngộ, chỉ là giải ngộ,
nhưng đă thật sự lư giải,
tiếp nhận, chẳng hoài nghi. V́ thế, ḷng yêu
thương ấy chẳng có điều kiện. Ḷng từ bi ấy được gọi là Pháp Duyên Từ Bi.
4) Đạt
đến quả địa Như Lai, sẽ là Vô Duyên Từ
Bi. Nói “vô duyên” tức là chẳng
có điều kiện, đồng thể đại bi, vô
duyên đại từ, chẳng có điều kiện.
Đấy là quả địa của Như Lai. Như Lai
quả địa là địa vị như thế nào?
Chính là Pháp Thân Bồ Tát như trong kinh Hoa Nghiêm, Pháp Thân Bồ
Tát là Như Lai. Nói cách khác, phá một phẩm vô minh, thấy
một phần chân tánh, sẽ đồng thời chứng
đắc một phần Pháp Thân. Khi ấy, ḷng từ bi của
Ngài là vô duyên đại từ, đồng thể đại
bi. Bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ được nói trong kinh Hoa Nghiêm, cộng thêm Phật
quả viên măn rốt ráo tối hậu, sẽ thành bốn
mươi hai địa vị đều là đại từ
đại bi, chúng ta phải hiểu đạo lư này!
Nay chúng ta
nỗ lực th́ có thể đạt được ǵ? Có thể
đạt tới Pháp Duyên Từ Bi. Đấy là ái tâm của
A La Hán, Bích Chi Phật, và Bồ Tát trong tứ thánh pháp giới. Đối với vạn vật trong vũ
trụ, không chỉ là động vật, mà ngay cả thực
vật, ngay cả núi, sông, đại địa, khoáng vật, ḷng yêu thương b́nh đẳng đều
chan chứa. Đó gọi là Pháp Duyên Từ Bi. Nay chúng ta chẳng
có ái tâm, ái tâm biến thành ǵ? Biến thành ích kỷ, yêu ǵ vậy?
Yêu tiếng tăm, lợi dưỡng, yêu mến sự
hưởng thụ ngũ dục, lục trần, sai mất
rồi! Đă trầm mê trong dục vọng, ngay cả [so
với] một bậc quân tử trong thế gian cũng chẳng
bằng, chẳng sánh nổi! V́ sao người ta bị đọa
lạc đến nông nỗi ấy? Chẳng có chi khác! Nếu
quư vị thật sự truy cứu nguyên nhân; [sẽ thấy],
nói chung, là do cái lỗi không đọc sách! Đúng như
trong Tam Tự Kinh đă nói: “Nhân
chi sơ, tánh bổn thiện. Tánh tương cận, tập tương viễn” (Con người thoạt đầu tánh vốn
lành. Tánh [của mọi người] th́ gần như nhau,
do huân tập mà thành khác xa nhau). Đó là đạo lư tất
nhiên. “Cẩu bất giáo, tánh năi
thiên” (Nếu chẳng dạy, tánh sẽ biến
đổi). Nếu quư vị chẳng dạy dỗ cẩn
thận, kẻ đó sẽ bị nhuốm bẩn, học
theo cái xấu. Do vậy, quư vị biết giáo dục trọng
yếu ngần ấy!
Ân đại bi sâu nặng của chư Phật,
Bồ Tát được biểu hiện ở chỗ nào?
Biểu hiện qua sự dạy dỗ chúng ta. Thường
nói là “tam luân thí giáo”[4], “tam luân” là trong tâm niệm nào
cũng đều chẳng bỏ chúng sanh. Chúng sanh tuy nhiều,
trọn khắp pháp giới hư không giới, tâm chư Phật
Như Lai chưa hề rẻ rúng một chúng sanh nào! Các Ngài thật sự có
năng lực to lớn ngần ấy ư? Có chứ! V́
sao chúng ta tin tưởng? Chúng ta tin tưởng v́ đó là Tánh
Đức. Tánh Đức viên măn, chỉ cần minh tâm kiến
tánh th́ sẽ viên măn. Khi chẳng minh tâm kiến tánh
sẽ quên mất, chẳng duyên tới cảnh giới to lớn
dường ấy. Sau khi đă kiến tánh, vấn đề
này chẳng c̣n! Do vậy, có thể biết, học Phật
th́ minh tâm kiến tánh trọng yếu như thế đó.
Chúng ta niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ, văng sanh thế giới
Cực Lạc để làm ǵ? Nói thật ra, chúng ta ở trong
hoàn cảnh của thế giới Sa Bà này mà mong minh tâm kiến
tánh sẽ chẳng làm được! Vậy th́
làm như thế nào? Thay đổi hoàn cảnh học tập,
hăy đến thế giới Cực Lạc. Đến thế
giới Cực Lạc nhằm mục đích tiếp nhận
giáo huấn của A Di Đà Phật, cuối cùng vẫn là
minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật! Quư vị hiểu
rơ đạo lư này, mới hiểu Tịnh Tông
và Thiền Tông, cùng với Thiên Thai, Hiền Thủ, Pháp
Tướng, Tam Luận chẳng có sai biệt, cuối cùng
thảy đều là “minh tâm kiến
tánh, kiến tánh thành Phật”, chỉ là phương thức
khác nhau, phương tiện thực hiện khác nhau, chứ
mục tiêu và phương hướng hoàn toàn giống nhau.
Hiểu đạo lư này, chúng ta đối với Tịnh
Tông sẽ khăng khăng một dạ, chẳng ngờ vực! Lại c̣n đối với các pháp môn khác, nhất định sẽ dấy ḷng
tôn trọng, quyết định chẳng ngạo mạn, chẳng
khinh dễ, mà nhất định sẽ tôn trọng. Giống
như năm mươi ba vị thiện tri thức ở
cuối kinh Hoa Nghiêm, bản thân mỗi vị đều tự ḿnh khiêm hư, tán thán kẻ khác. Tu Tịnh Tông
mà ở cùng một chỗ với các tông phái bất đồng,
ở cùng một chỗ các tôn giáo bất đồng, nhất
định sẽ học được sự khiêm hư,
có thể học đến mức tôn trọng người
khác. Những điều ấy đều thuộc về Tánh Đức.
Thông
thường, hễ nói đến một chữ Ái, đức
Phật nói hai chữ, nói chữ thứ nhất là Từ,
chữ kia là Bi. Hai chữ ấy có nghĩa là ǵ? Hai chữ
th́ đương nhiên là có hai loại ư nghĩa. Từ th́ thiên
trọng ban vui, Bi thiên trọng cứu khổ. Kẻ khác gặp
khổ nạn, sẽ giúp đỡ họ dẹp trừ khổ
nạn, đấy là Bi. Ban sự sung sướng cho họ,
đó là Từ. V́ thế, từ bi toàn là ái tâm! Nếu chúng
ta hỏi, các tôn giáo khác như Cơ Đốc giáo, Thiên
Chúa giáo, c̣n có Do Thái giáo, ba tôn giáo ấy là một nhà, kinh
điển để căn cứ thảy đều là
Tân Ước (Novum
Testamentum, New Testament) và Cựu Ước (Old Testament, Tanakh). Nói
thật ra, giống như các tông phái trong Phật giáo. Do
Thái giáo nương theo Cựu Ước, Cơ Đốc
giáo nương theo Tân Ước, c̣n Thiên Chúa giáo là Tân Ước
và Cựu Ước thảy đều học tập. Do vậy,
h́nh thành ba phái như thế đó.
Từng
có một lần khi tôi ở Tân Gia Ba, có mấy vị đồng
tu từ Nam Phi đến, có mấy vị là người Âu
Châu mời tôi dùng cơm. Chúng
tôi ăn cơm với nhau, họ hỏi tôi: “Thưa pháp
sư! Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, và Cơ Đốc giáo của
phương Tây rốt cuộc là
quan hệ ǵ?” Hỏi tôi câu ấy. Tôi dùng một tỷ dụ
để trả lời. Tôi nói: “Ba tôn giáo ấy là người
một nhà. Do Thái giáo dạy họ sùng bái Thượng Đế,
giống như phái Hoàng Thượng. Thiên Chúa giáo tôn sùng
thánh mẫu Mă Lợi Á (Maria), họ là phái Hoàng Hậu, c̣n Cơ
Đốc giáo tôn sùng Gia Tô Cơ Đốc (Jesus Christ), là
con trai của Thượng Đế; đó là phái Thái Tử”.
Họ nghe xong, nói: “Thầy nói kiểu này rất hay, chúng
tôi lư giải rất dễ dàng”. Xác thực là như thế.
Quư vị
thấy trong kinh điển của họ nói: “Chúa yêu thương người
đời, Thượng Đế yêu thương người
đời”. Sự yêu thương ấy có ư nghĩa ǵ
vậy? Thưa cùng chư vị, sự yêu thương ấy
chính là từ bi như Phật pháp đă nói, mà cũng là lư
tánh, chẳng kèm theo cảm t́nh, chẳng có dục vọng.
Nó là lư tánh, chúng ta phải biết điều này. Kinh Cổ Lan (Q’uran) đă nói: “Allāh
xác thực là nhân từ”. V́ thế, “nhân từ”
và từ bi của nhà Phật cũng có cùng một ư
nghĩa, chúng ta phải hiểu điều này. Những vị thánh nhân ấy, vào thời
cổ, ở những khu vực khác nhau, trong các bối cảnh văn hóa và lịch sử
khác nhau, họ dùng các ngôn ngữ, dùng những từ vựng
chắc chắn là hữu ích rất lớn đối với
người thời đó. Giống như thuở trước
đức Phật xuất hiện tại Ấn Độ,
v́ những người thuở ấy giảng kinh, thuyết
pháp, đương nhiên văn tự thời ấy đều
dùng tiếng Phạn để ghi chép, [kinh điển tiếng
Hán là do] chúng ta dịch từ tiếng Phạn ra. V́ thế,
phải biết là [ngôn từ được sử dụng]
nhằm thích ứng với người nơi đó.
Những
kinh điển ấy được truyền lại cho hậu
thế; đấy chính là ảnh hưởng giáo học của
các Ngài. Như trong Cựu Ước, Ma Tây (Moses) xuất hiện
sớm hơn Gia Tô (Jesus), c̣n sớm hơn Thích Ca Mâu Ni Phật. Thời
đại của Ma Tây cách hiện thời phải là hơn
bốn ngàn năm. Theo ghi chép tại Trung Hoa, Thích Ca Mâu Ni Phật
mới [cách hiện thời] ba ngàn năm; do đó, tối thiểu
là [Ma Tây phải xuất hiện] sớm hơn [đức
Phật] một ngàn năm. Gia Tô cũng xuất hiện từ
hai ngàn năm trước. Chúng ta biết cổ thánh tiên hiền,
do đọc kinh Phật mới hiểu, thảy đều
là “tâm hiện, thức biến”.
Phật, Bồ Tát trọn đủ mười thứ
đại ân. Nếu chúng ta hỏi Gia Tô có hội đủ
hay không? Trọn đủ! Ma Tây có trọn đủ hay
không? Mục Hăn Mặc Đức (Mohamed) có trọn đủ
hay không? Thảy đều trọn đủ, đều
có “phát tâm phổ bị ân”
(ân đức phát tâm độ trọn khắp các căn
cơ). Đều có “nan hành khổ
hạnh ân” (ân thực hiện các hạnh khó, hạnh khổ).
Từ các sánh vở tôn giáo chúng ta đă thấy, đều
có “bất cố tự thân ân”
(ân chẳng đoái hoài bản thân), đều có ân “thùy h́nh lục đạo” (giáng
hiện thân h́nh trong sáu đường). Hôm nay, chúng ta học
“tùy trục chúng sanh ân” (ân
theo sát chúng sanh), ân đại bi sâu nặng thảy đều
trọn đủ! Chúng ta có thể nào không tôn trọng những
tôn giáo ấy hay không? Chúng ta có thể không lễ kính ư? Quư
vị không biết tôn trọng, không biết lễ kính, vẫn
phê b́nh họ là ngoại đạo, phân chia ta và người,
đấy là mê, chẳng giác ngộ! Hễ giác ngộ bèn
thông suốt, giác ngộ bèn thật sự biết “tâm hiện, thức biến”.
Trong tự
tánh vốn sẵn đủ trí huệ và đức tướng,
chắc chắn là đại từ, đại bi, theo sát chúng sanh chẳng bỏ. V́
thế, đáng nên dùng thân ǵ để độ, Ngài bèn hiện
thân ấy. Đáng nên dùng thân Cơ Đốc (Christ) để độ, Ngài bèn hiện thân
Cơ Đốc. Đáng nên dùng thân Phật để độ,
Ngài bèn hiện làm Phật. Đáng nên dùng thân Bồ Tát để
độ, bèn hiện làm Bồ Tát. Đáng nên dùng thân A Hoăng[5] để
độ, bèn hiện thân A Hoăng. Chúng ta đọc phần
ba mươi hai ứng thân của Quán Thế Âm Bồ Tát,
quư vị thấy ḷng đại bi sâu nặng nơi ba
mươi hai ứng thân! V́ thế, chư Phật, Bồ
Tát, các vị đại thánh đại hiền trong các tôn
giáo, không chỗ nào chẳng hiện thân, không lúc nào chẳng
hiện thân. Thấy chúng sanh tạo ác, giống như chân
tay, thân thể của chính ḿnh bị cắt chặt, đấy
là tỷ dụ, sánh ví điều ǵ? Sánh ví nỗi đau
ḷng, tâm từ bi của Ngài mới có thể sanh khởi, tự
nhiên giúp đỡ chúng sanh.
V́ thế,
chúng sanh có cảm, cảm là ǵ? Khi chúng sanh có khổ nạn,
khi cảm thấy đau khổ, đấy là cảm. Quư vị
thấy ở đây nói rất hay! Không chỉ là chúng sanh
khi đang đọa lạc chịu khổ bèn cảm, hoặc
khi tạo ác nghiệp bèn cảm, mà khi tạo thiện nghiệp
cũng cảm. Hễ tương ứng với Pháp Tánh sẽ
là thiện, trái nghịch Pháp Tánh sẽ là ác. Chư vị
phải biết, đại kinh đă nói rất hay, tự
tánh vốn trọn đủ vô lượng trí huệ và đức
tướng. Bốn chữ “trí
huệ, đức tướng” đă bao gồm toàn bộ
vô lượng vô biên thiện hạnh trong tự tánh. Đức
Phật dạy con người Tam Học Giới, Định,
Huệ. Giới là tướng, là đức tướng của
Tự Tánh, Định là đức, trí huệ là Huệ. Ba
chữ Giới, Định, Huệ đă khiến cho trí huệ và đức tướng vốn sẵn có
trong tự tánh, chúng ta nói là “đức năng, tướng
hảo”, thảy đều được bao gồm
[trong ấy]. Nếu ai nghiêm túc học Giới, Định,
Huệ, từ chỗ này, có thể thấy là chư Phật, Bồ Tát sẽ hoan hỷ.
V́ sao? Chắc chắn là quư vị chẳng đọa vào
tam đồ, chắc
chắn là quư vị chẳng thể
hứng chịu tội báo, chẳng hứng chịu nỗi
khổ báo ấy! Khi ấy, chư Phật, Bồ Tát chiếu
cố, giúp đỡ quư vị, dùng ḷng đại từ
giúp quư vị tăng tấn.
Nếu quư
vị rất bất hạnh mê mất tự tánh, sẽ tạo
ǵ? Tạo tham, sân, si. Tham, sân, si là ư niệm sai lầm, hoàn
toàn trái nghịch Tánh Đức, nơi hành vi tạo ra bốn
trọng tội, tức giết, trộm, dâm, dối. Thưa
cùng chư vị, vô lượng vô biên tội nghiệp, quy
nạp lại, chẳng ngoài bốn loại lớn ấy.
Bốn loại lớn ấy chính là tội nghiệp
căn bản. Chuyện này chẳng thể nói cặn kẽ
được! Nói cặn kẽ th́ mỗi chữ giảng
suốt hai giờ vẫn giảng không xong. Hy vọng chư vị đọc Liễu
Phàm Tứ Huấn cho nhiều, Liễu Phàm Tứ Huấn cũng
nói rất mơ hồ, nhưng đă là khá lắm rồi. Quư
vị muốn nghiên cứu cặn kẽ, hăy xem bộ
Ngũ Giới Tướng Kinh Tiên Yếu[6], xem Sa
Di Luật Nghi. Sách chú giải Sa Di Luật Nghi đă chú giải
rất tỉ mỉ. Những thứ khác như An Sĩ Toàn
Thư, Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, hăy đọc
nhiều, thường đọc những thứ ấy,
quư vị mới có ấn tượng sâu đậm. Sau
đấy mới biết trong cuộc sống hằng ngày,
trong xử sự, đăi người tiếp vật, sẽ
chẳng tạo ác nghiệp.
Chúng ta tạo
ác nghiệp, chính ḿnh chịu khổ, chịu vùi dập;
đấy chính là “tự làm, tự
chịu”. Quư vị thấy bao nhiêu chư Phật, Bồ
Tát, bao nhiêu vị đại thánh đại hiền, thấy
quư vị tạo tác hết thảy các điều bất
thiện, các Ngài trông thấy, trong ḷng khó chịu lắm, chúng ta có nên
có lỗi đối với các Ngài hay chăng? Ở
đây, [những
người mà chúng ta có lỗi] bao gồm cả cha mẹ. Chúng ta tạo tác
ác nghiệp, đọa vào ác đạo, trong tâm cha mẹ
khổ sở lắm, tâm thầy khổ sở lắm, người nhà, quyến thuộc của
quư vị khổ sở lắm, quư vị có biết hay
chăng? Phật, Bồ Tát th́ quư vị không biết,
nhưng cha mẹ, sư trưởng, người nhà, quyến
thuộc th́ quư vị biết. Cùng một đạo lư, nếu
quư vị làm việc thiện, không chỉ là Phật, Bồ
Tát trông thấy sẽ hoan hỷ, các vị thần trông thấy
sẽ hoan hỷ, mà cha mẹ, người nhà, quyến
thuộc của quư
vị, chẳng có ai không hoan hỷ.
Nếu quư vị liễu giải chân tướng sự thật
này, tôi tin là quư vị sẽ chẳng làm chuyện xấu, sẽ
chẳng có ư niệm ác, v́ sao? Trong thế gian này, có bao nhiêu người
quan tâm quư vị!
Người
hiện thời mê trầm trọng, mê sâu xa. Không chỉ là
chẳng thể quan tâm kẻ khác, ngay cả quan tâm chính ḿnh
cũng quên tuốt luốt, hồ đồ đến mức coi
như là chuyện đương nhiên. Chuyện này rất
đáng sợ. Nguyên nhân là do phạm lỗi không đọc
sách. V́ thế, quy kết tận gốc, tận đáy, nói
đến cuối cùng, vẫn là giáo dục. Nhất là giáo
dục của cổ thánh tiên hiền, trong những năm
qua, chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh giáo dục luân
lư, giáo dục đạo đức, giáo dục nhân quả,
và giáo dục tôn giáo. Trong bốn loại giáo dục ấy,
giáo dục luân lư là căn cội, mà giáo dục tôn giáo mới
là thật sự đạt được
viên măn rốt ráo! [Giáo dục
tôn giáo] thật sự làm sáng tỏ Thật Tướng của các pháp
và chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. Thứ
này chẳng phải do đức Phật dạy quư vị.
Phật, Bồ Tát chẳng có cách nào dạy, mà phải khiến cho quư vị đích thân chứng. V́ sao? Cảnh
giới viên măn rốt ráo chẳng thể diễn tả
được! Trong giáo pháp Đại Thừa thường
nói: “Ngôn ngữ dứt bặt,
tâm hành xứ diệt”. Không chỉ là nói chẳng nên lời,
mà c̣n chẳng thể khởi tâm động niệm. Hễ
quư vị dấy lên ư niệm, đă sai mất rồi. V́ thế,
nói “mở miệng liền trật,
dấy niệm bèn sai”. Hễ mở miệng bèn trật,
dấy niệm bèn quấy, quư vị chẳng có cách nào nói
được, chẳng có cách nào nghĩ tưởng!
Làm thế
nào để có thể chứng đắc? Đức Phật
dạy chúng ta phương pháp xảo diệu tột bậc,
chính là buông xuống. Buông xuống chấp trước, phải
thật sự làm! Trong các pháp thế gian và xuất thế
gian, đối với hết thảy người, đối
với sự, đối với hết thảy vật, thảy
đều chẳng c̣n chấp trước nữa! Thật
sự không chấp trước, quư vị đă đột
phá tầng cửa ải thứ nhất. Tầng cửa ải
thứ nhất là ǵ? Luân hồi trong lục đạo, quư
vị đă vượt thoát. Đă vượt thoát bèn chứng
quả A La Hán, trí huệ và đức tướng của quư
vị sẽ hiện tiền một phần. Chẳng phải
là hiện tiền viên măn, mà là khơi mở cục bộ.
Lại tiến bộ hơn, sự phân biệt đối
với hết thảy người, sự, vật trong thế
gian và xuất thế gian cũng buông xuống. Không chỉ
là chẳng chấp trước, mà ư niệm phân biệt chẳng
có, vậy th́ chúc mừng quư vị lại tiến lên cao hơn một cấp, quư vị là Bồ
Tát. Tuy quư vị chẳng chấp trước, chẳng phân
biệt, vẫn c̣n khởi tâm động niệm; khởi
tâm động niệm được gọi là vọng
tưởng. Khi nào đoạn sạch vọng tưởng,
sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần mà chẳng
khởi tâm, không động niệm, quư vị sẽ thành Phật.
Từ bậc
Sơ Trụ trong Viên Giáo trở lên như kinh Hoa Nghiêm
[đă dạy] chính là Pháp Thân đại sĩ, c̣n gọi là
Pháp Thân Bồ Tát. Tông Thiên Thai nói vị Phật ấy là Phần
Chứng Tức Phật, là chân Phật, chẳng phải là
giả Phật. Ở trong cảnh giới ấy, ngôn ngữ
dứt bặt, tâm hành xứ diệt; mở miệng
liền trật, dấy niệm đă sai, nhưng chân
tướng của hết thảy [vạn sự vạn vật]
trong vũ trụ quư vị đều hiểu rơ ràng, rành rẽ.
Ḷng từ
bi khi ấy gọi là đại
từ, đại bi. Chẳng đạt tới cảnh giới
ấy th́ cảnh giới Bồ Tát, cảnh giới
Thanh Văn, chúng ta nói là vẫn c̣n vọng tưởng, nhưng
chấp trước đă đoạn, tức là Pháp Duyên Từ
Bi. Phân biệt và chấp trước đă đoạn, chính
là Pháp Duyên Từ Bi. A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát là Pháp
Duyên Từ Bi. Chúng Sanh Duyên Từ Bi sẽ chẳng ra khỏi
lục đạo, đó là bậc thánh nhân trong lục
đạo. Chúng ta nói [những vị thánh nhân trong lục
đạo] là thánh hiền thế gian; thánh hiền thế
gian chẳng ra khỏi lục đạo, Chúng Sanh Duyên Từ
Bi đấy mà!
Chúng ta phải
hiểu rơ ràng, phải nghiêm túc học tập bốn loại
[từ bi] ấy, phải mở rộng cái tâm từ bi của
chính ḿnh. Giống như thoạt đầu,
đương nhiên là yêu mến cha mẹ. Các tại gia
đồng học có thể yêu
thương vợ con, người nhà, quyến thuộc của
chính ḿnh. Sau đấy, từ từ mở rộng ra đến
yêu mến các bạn bè. Trong phần trước, tôi
đă nói: Quư vị có thể yêu thương người hữu
duyên, bất luận là thiện duyên hay ác duyên, đối với
thiện duyên chẳng tham luyến, đối với ác
duyên chẳng sân khuể, chẳng báo thù. Thấy họ khổ
sở bèn giúp đỡ họ. Thấy họ làm việc
thiện bèn tán dương. Làm người sống trong cơi
đời, nói chung phải biết ẩn lấp điều
ác, tán dương điều thiện, đấy là từ
bi! Lại có thể mở rộng ḷng từ bi đối
với hết thảy chúng sanh khổ nạn, quư vị có
thể yêu thương, che chở hết thảy động
vật. Chẳng giết hại hết thảy động
vật, tức là đối với muỗi, kiến, ruồi
nhặng, gián, quư vị đều có thể cư xử ḥa
thuận với chúng. Chúng có linh tánh, hiểu ư con người.
Chúng tôi có kinh nghiệm rất phong phú, cư xử với
những loài tiểu động vật, [nhận thấy]
chúng rất nghe lời, rất hợp tác. Lại mở rộng
ra đến thực vật, hoa, cỏ, cây cối, phải
đối xử bằng cái tâm từ bi. Lại mở rộng
đến vạn vật trong trời đất, Phật
pháp diễn tả điều này là “một bầu từ bi”, tâm t́nh của quư vị
thoải mái, vui sướng dường ấy! Bất luận
ở chỗ nào, trông thấy các động vật, thực
vật, khoáng vật, hễ thấy chúng có khổ nạn, nhất
định sẽ tiện tay giúp đỡ chúng. Thấy
chúng nó sanh trưởng rất tốt đẹp, nhất
định sẽ hoan hỷ, tán thán, yêu thương, che chở,
dưỡng tấm ḷng đại từ bi của chính
ḿnh.
Đệ
tử đức Phật chọn lựa ăn chay, v́ sao? Trong
kinh, đức Thế Tôn đă dạy, Bồ Tát từ bi,
chẳng nỡ ăn thịt chúng sanh. Lương Vũ
Đế đọc [đoạn kinh ấy], bèn thực hiện từ chính ḿnh. V́
thế, phong trào ăn chay là do Lương Vũ
Đế đề xướng. Thuở đức Phật
tại thế, [tăng
đoàn] đi khất thực từng
nhà. Khất thức nhất định là “từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa”,
người ta cho ǵ ăn nấy, chẳng thể kén chọn!
V́ thế, măi cho đến hiện thời, quư vị thấy
Tiểu Thừa tại Thái, Miến Điện, Sri Lanka, các
vị Tiểu Thừa vẫn đi khất thực,
người ta cho ǵ ăn nấy. V́ thế, họ không
ăn chay, đấy là ǵ? Phương tiện. Muốn
người ta phải đặc biệt chuẩn bị
đồ chay cho quư vị, sẽ là làm khó người khác, chuyện ấy chớ nên! V́ thế, Phật
giáo truyền sang Trung Hoa cũng là ăn tam tịnh nhục.
Đến Trung Hoa, chẳng cần khất thực, luôn tiếp
nhận sự cúng dường của hàng đế vương, đại thần, trưởng
giả, cư sĩ, chẳng cần đi khất thực,
nhưng vẫn là ăn thịt, c̣n chưa ăn chay! Lương
Vũ Đế đề xướng ăn chay; v́ thế,
người học Phật ăn chay trên khắp thế giới
chỉ có Trung Hoa, trong những quốc gia khác đều không có. Đấy là một chuyện
tốt đẹp, thật sự là một chuyện tốt
đẹp!
Hơn nữa,
ăn thịt trong hiện thời [sẽ có nguy cơ] v́ những
loài súc sanh, không chỉ là những con vật ta nuôi trong nhà,
hiện thời ngay cả những con vật sống hoang
dă, hoặc thú hoang, đều mang theo rất nhiều virus.
V́ sao? Hoàn cảnh trên toàn thể địa
cầu bị ô nhiễm. Những con vật được
nuôi trong nhà lại càng chẳng cần phải nói nữa,
hoàn toàn dùng thức ăn chứa chất hóa học. Những
thứ thức ăn ấy độc hại nhất, làm
sao dám ăn cho được? Quư vị ăn vào, lẽ
đâu chẳng ngă bệnh? V́ thế, bảo vệ môi
trường th́ mọi người trên cả thế giới
đều biết, có ư thức bảo vệ môi trường,
nhưng chẳng thật sự có cách nào thực hiện chuyện
bảo vệ môi trường. Chuyện này cũng cần
phải do mỗi cá nhân giác ngộ, phải làm từ chính
ḿnh. Đầu tiên là phải làm sao cho tâm lư khỏe mạnh,
sau đấy mới có thể ảnh hưởng tới hoàn cảnh bên ngoài. Nay thân tâm của chúng ta
chẳng khỏe mạnh, bị ô nhiễm nghiêm trọng, ảnh
hưởng tới hoàn cảnh bên ngoài cũng là ô nhiễm
nghiêm trọng.
Trong xă hội
hiện tiền, chuyện này đúng là đại sự
hàng đầu! Nếu chẳng thể cải thiện, hoàn
cảnh trên địa cầu c̣n có thể thích hợp cho
con người tiếp tục cư trụ tại nơi đây hay không sẽ là một
vấn đề to lớn. Đến mức chẳng
thích hợp cho nhân loại cư trụ, nhân loại trên quả
địa cầu này sẽ bị hủy diệt, tuyệt
diệt. Ai tạo ra? Do chính con người tạo ra, chẳng
thể là do tai họa thiên
nhiên. Kinh Phật đă nói rất hay, do nghiệp cảm của
chúng sanh. Quư vị tạo tác nghiệp bất thiện, sẽ
cảm vời loại quả báo ấy, quư vị nói xem, có
đáng sợ lắm hay không! Chúng ta chớ nên không biết
điều này, chớ nên không sửa đổi từ
chính bản thân ḿnh! Sự sửa đổi ấy chính là
đoạn hết thảy các nghiệp bất thiện, chẳng
c̣n tạo ác nữa! Phải đoạn mười ác nghiệp,
phải tu mười thiện nghiệp. Trong Đàn Kinh, Lục
Tổ Huệ Năng đại sư nói “mười ác, tám tà”, lại c̣n đối với
hết thảy các thứ tập khí không tốt đẹp,
nhất định phải nghiêm túc sửa đổi. Sửa
đổi hằng ngày, thời thời khắc khắc
đề cao ḷng cảnh giác của chính ḿnh, hằng ngày phản
tỉnh, hằng ngày sửa chữa, thường xuyên
nghĩ tới ân đức của Phật, Bồ Tát.
Thanh
Lương đại sư đă dẫn đoạn kinh
văn này rất hay. Chư Phật, Bồ Tát thấy các
chúng sanh tạo nghiệp phiền năo. Hiện thời c̣n
chưa đọa vào ba ác đạo, nhưng nếu quư vị
quan sát cẩn thận, [sẽ thấy] bóng dáng của ba ác
đạo đă xuất hiện. Đấy cũng là h́nh
tướng của địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh
ẩn hiện trong cuộc sống thường ngày của
chúng sanh. Nếu quư vị chú tâm quan sát sẽ có thể trông
thấy. H́nh dạng như thế nào? Súc sanh mê hoặc, điên
đảo, chẳng có trí huệ, chẳng có năng lực
phân biệt chân, vọng, tà, chánh, đúng, sai, thiện, ác, chẳng
có năng lực phân biệt [những điều ấy].
Ư niệm tham, sân, si rất nặng nề. Trong hằng
ngày, quư vị nh́n từ tướng mạo, nh́n từ ngôn
hạnh cử chỉ, [sẽ thấy kẻ đó] chẳng
giống [chúng sanh
thuộc] hai đường trời,
người, mà giống như tam ác đạo. Quư vị
hăy cẩn thận quan sát, tuy hiện thời kẻ đó
c̣n chưa đi [vào ba ác đạo], nhưng quư vị có thể
biết tương lai của kẻ đó là trong ba ác đạo.
Nếu quư
vị phát hiện chung quanh ḿnh xác thực có người
như vậy, phải biết nhắc
nhở chính ḿnh cảnh giác. Trông thấy [lỗi lầm của] người khác, hăy hồi quang phản chiếu,
ngẫm lại chính ḿnh, [xét xem] chính ḿnh có những hiện
tượng ấy hay không! Hễ có th́ sửa đổi,
hễ không th́ càng gắng công. Đương nhiên tốt
nhất là dùng Giới Kinh, giống như các đồng học
trong hiện thời, các vị dùng Đệ Tử Quy, dùng
Thập Thiện Nghiệp Đạo, dùng tiêu chuẩn ấy
hay lắm! Khởi tâm động niệm, nói năng, cử
chỉ chẳng trái nghịch Đệ Tử Quy, quư vị
sẽ là người tốt, Phật, Bồ Tát trông thấy
sẽ hoan hỷ. Đồng học xuất gia học Phật
hằng ngày nhất định phải niệm Sa Di Luật
Nghi, niệm Đệ Tử Quy, niệm Thập Thiện
Nghiệp Đạo, làm được ba thứ ấy, Phật,
Bồ Tát sẽ hoan hỷ!
Trong thời
Mạt Pháp, trong niên đại này, quư vị c̣n có thể làm
được, sẽ là thật sự lỗi lạc! Tôi
tin tưởng chư Phật, Bồ Tát đều tán thán
như vậy, quư vị niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ, há có lẽ nào chẳng văng sanh? Chắc chắn!
V́ thế, đấy là nắm chắc văng sanh. Nếu quư vị
chẳng đặt vững cơ sở này, chỉ sợ
là niệm Phật cũng chẳng thể văng sanh. Trong quá
khứ, thầy Lư thường nói, lăo nhân gia nói: “Một vạn người niệm
Phật, thật sự có thể văng sanh chỉ có hai, ba
người”. Đúng là tỷ lệ chẳng
tương xứng! V́ sao? Tâm hạnh chẳng tương ứng.
“Miệng niệm Di Đà tâm
tán loạn, gào toạc cổ họng uổng công thôi”.
Chính bản thân chúng ta phải cảnh giác điều này.
Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi giảng tới
chỗ này!
Tập 1548
Chư vị
pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi
xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười
một, tiểu đoạn thứ ba trong đoạn lớn
thứ sáu của phần kệ tụng, chúng ta đọc
một lượt bài kệ thứ mười một.
(Kinh)
Kiến báo ân nhân, đương nguyện chúng sanh, ư Phật, Bồ
Tát, năng tri ân đức.
(經)見報恩人。當願眾生。於佛菩薩。能知恩德。
(Kinh: Thấy
người báo ân, nguyện cho chúng sanh, hay biết ân đức
của Phật, Bồ Tát).
Ngài Thanh
Lương giảng mười điều, trong phần
trước, chúng ta đă học sáu điều, hôm nay xem từ
điều thứ bảy. Trước hết, chúng ta
đọc phần khai thị của Thanh Lương đại
sư một lượt:
(Sao)
Ẩn thắng chương liệt ân, ngật thành Chánh
Giác, ẩn kỳ thắng đức giả, kinh vân: “Thập
Liên Hoa Tạng trần số tướng, hải trích nan
xưng vô tận chi đức, tịnh ẩn bất
chương, đản vân bách kiếp tu thành tam thập nhị
tướng, tam thập tứ tâm đoạn Kiến tu Hoặc,
ngũ phần Pháp Thân giác thụ sơ viên, như lăo tỳ-kheo
đồng ngũ La Hán”. Cố Pháp Hoa trung, thoát trân ngự
phục, trước tệ cấu y, chấp trừ phấn
khí, văng đáo tử sở.
(鈔)隱勝彰劣恩。迄成正覺隱其勝德者,經云:十蓮華藏塵數相,海滴難稱無盡之德,並隱不彰。但云百劫修成三十二相,三十四心斷見修惑,五分法身覺樹初圓,如老比丘同五羅漢。故法華中,脫珍御服,著弊垢衣,執除糞器,往到子所。
(Sao:
Ân đức ẩn giấu sự thù thắng, phô bày sự
kém cỏi. Đă thành Chánh Giác, bèn ẩn giấu phẩm
đức thù thắng. Kinh dạy: “Các tướng nhiều
như số vi trần trong mười Liên Hoa Tạng, các
đức vô tận nhiều như các giọt nước
biển khó thể kể xiết, đều ẩn tàng, chẳng
bộc lộ, chỉ nói là do trăm kiếp tu tập mà
thành ba mươi hai tướng, ba mươi bốn tâm
đoạn Kiến tu Hoặc, năm phần Pháp Thân ở
dưới cội cây giác ngộ (cây Bồ Đề) mới
viên măn, giống như một vị tỳ-kheo già với
năm vị La Hán”. V́ thế, trong kinh Pháp Hoa [vị trưởng
giả] bèn cởi y phục quư báu, khoác áo lam lũ, bẩn
thỉu, cầm đồ dọn phân, đến chỗ
con ḿnh).
Đoạn này vừa giảng giải, vừa
nêu ra thí dụ thực tế để chúng ta hiểu rơ.
Trong đại kinh, đức Phật đă dạy chúng ta,
như trong kinh Phạm Vơng đă nói, Thích Ca Mâu Ni Phật lần
này đến thị hiện trong thế giới này là lần
thứ tám ngàn, đó là nói đến Ứng Thân, [thị hiện]
tám tướng thành đạo lần thứ tám ngàn. Có thể
thấy Ngài thật sự chẳng giống như bọn
phàm phu chúng ta đầu thai vào trong thế gian này, gặp gỡ
Phật pháp, lại bắt đầu phát tâm tu hành chứng
quả, chẳng phải vậy! Ngài đă sớm thành Phật.
Sau khi thành Phật, thị hiện dùng thân Phật để
đắc độ. Chúng sanh đáng nên dùng thân Phật
để độ, bèn hiện thân Phật
độ họ, lần thứ tám ngàn. Chúng ta hăy ngẫm
xem ân đức ấy to cỡ nào! Thế gian này khổ sở,
nhọc ḷng Phật, Bồ Tát thường đến thị
hiện như thế. Chúng ta chớ nên không hiểu ư
nghĩa này!
V́ sao nói
có nhiều lần thị hiện ngần ấy? Chúng tôi nêu một tỷ dụ đơn
giản cho chư vị dễ hiểu. Ví như một
giáo sư dạy lớp Tiến Sĩ trong trường đại
học, ông ta dạy học tṛ toàn là Tiến Sĩ, nay gặp
một đám học tṛ Tiểu
Học chẳng có ai dạy. Ông ta sẽ khuất
ḿnh, đến làm thầy trong trường Tiểu Học,
[đó là] “ẩn thắng
chương liệt” (ẩn sự thù thắng, phô bày sự
hèn kém). “Chương” (彰) là rơ rệt. Làm một vị thầy Tiểu
Học, tạm thời buông những thứ cao sâu xuống,
chẳng nhắc tới, chẳng nói ra ngoài sách giáo khoa Tiểu
Học. Ông ta cũng có thể dạy học tṛ Tiểu Học
rất khá, răn dạy chúng nó hết sức tốt đẹp,
có ư nghĩa này. Chúng ta biết địa vị Như Lai
đúng là thần thông quảng đại, không chỗ nào
chẳng hiện thân. Không chỉ riêng thế giới Sa Bà, mà mười phương vô lượng vô biên cơi
nước, hết thảy những chỗ có chúng sanh, hễ
chúng sanh có cảm, Ngài thảy đều có thể ứng,
đồng thời có thể ứng vô lượng vô biên
thân. Chẳng như chúng ta trong hiện tại, chúng ta không
cách nào tưởng tượng điều này. Chúng ta chỉ
có cái thân này, chẳng thể hiện thân thứ hai.
Quư vị
thấy La Hán, chúng ta xem trong Cao Tăng Truyện và Thần
Tăng Truyện, [sẽ thấy Ngài] có thể đồng
thời hiện năm trăm thân, có năng lực phân thân
như thế ấy. Đấy là một vị pháp sư Ấn
Độ sang Trung Hoa hoằng pháp lợi sanh. Duyên phận
sắp măn, Ngài trở về nước. Đương
nhiên là các tín đồ đều kính yêu pháp sư, mọi
người đều muốn
thỉnh pháp sư dùng cơm để tiễn hành lăo nhân
gia. Sư rất từ bi, ai thỉnh Ngài cũng đều đáp ứng: “Trưa ngày mai nhất định đến
nhà quư vị ứng cúng”. Tới hôm sau, Sư thật
sự đều đến. Tuy đến, đương
nhiên là kẻ khác chẳng biết, cảm thấy “pháp sư rất từ bi, hôm nay đến
nhà của tôi”. Ngày hôm sau, tiễn chân nơi trường
đ́nh mười dặm. Pháp sư trở về nước,
đến trường đ́nh tiễn chân, những
người ấy đều đến tiễn
đưa. Khi đưa tiễn, họ đều nói: “Ngày
hôm qua, pháp sư từ bi đến nhà tôi ứng cúng”. Kẻ
khác căi: “Bậy nè! Ngày hôm qua thầy ở nhà tôi”. Kẻ khác
nữa, nghe nói vậy,
[phản đối]: “Trật rồi! Ngày hôm qua rơ ràng là ở
nhà tôi”. Nói tới nói lui với nhau như thế, [vỡ lẽ]
cả năm trăm nhà Sư đều đến, phân thân mà! Đấy là Sư có
thuật phân thân! La Hán có thể phân ra năm trăm thân, Bồ
Tát lại càng chẳng cần phải nói
nữa, quả địa Như Lai có thể phân ra vô
lượng vô biên vô số thân. Vậy th́ quư vị biết,
Thích Ca Mâu Ni Phật đến thị hiện trên thế
giới này, đến ứng hóa lần thứ tám ngàn, có
phải là Ngài phân thân để đến hay chăng? Đúng vậy! Chẳng trật tí
nào! Đó gọi là “đắc
đại tự tại!”.
Đến
thế gian này, đúng là “ẩn
thắng chương liệt” (ẩn giấu sự thù
thắng, phô bày sự kém cỏi); v́ thế, Ngài hiện thân chẳng khác
lũ phàm phu chúng ta, bất quá to lớn hơn những kẻ b́nh phàm đôi chút, vóc dáng cao lớn. Kinh
thường nói thân Phật là “trượng
lục kim thân” (thân vàng cao một trượng sáu thước).
“Kim” là lời tán thán, [thân Phật
cao] một trượng sáu thước. Đo lường
thời cổ chẳng giống hiện thời, thước
thời cổ ngắn. [Đối với] “một trượng sáu thước”,
Hoằng Nhất đại sư đă có khảo chứng.
Trong bộ Luật Học Tam Thập Tam Chủng có một
bài viết [về chuyện này]. Theo như Ngài đă khảo
chứng, một trượng sáu thước thời cổ
tương ứng khoảng tám feet hiện thời.
Cũng có nghĩa là “thước”
thời đó, [tức là] thước thời cổ chỉ
bằng năm tấc hiện thời. V́ thế, một
trượng sáu bèn biến thành tám feet. Tám feet th́ đích xác
là cao hơn người b́nh phàm một chút, cho nên hoàn toàn chẳng có ǵ kỳ quái! Nếu Thích Ca Mâu Ni
Phật cao gấp đôi, gấp ba chúng ta hiện thời,
chúng ta sẽ cảm thấy rất kỳ quái. V́ thế,
Ngài thị hiện hoàn toàn giống như chúng ta. Bất
quá về tướng hảo th́ Ngài trọn đủ ba
mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo. Ở
đây, đại sư khai thị cho chúng ta: “Phật thành Chánh Giác, ẩn giấu
đức thù thắng”. Ần giấu, chẳng hiện
đức tướng thù thắng khôn sánh, chẳng hiện
tướng ấy, mà hiện ǵ? Hiện tướng giống như mọi người quư vị,
phải hiểu đạo lư này! Kinh Lăng Nghiêm đă nói
rất rơ ràng, chư Phật, Bồ Tát thị hiện là “tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri
lượng” (thuận theo tâm chúng sanh, ứng với khả
năng lănh hội của họ), chẳng thuận theo sở
chứng của chính ḿnh, v́ thị hiện như vậy
th́ mọi người mới dễ tiếp nhận. Nếu
không, họ sẽ chẳng thể tiếp nhận.
Năm
xưa, tôi ở Tân Gia Ba, Tân Gia Ba có một vị là cư
sĩ Hứa Triết. Vị này hiện thời vẫn
c̣n, năm nay đă một trăm lẻ tám tuổi. Khi tôi
gặp bà cụ ở Tân Gia Ba, bà cụ đă một
trăm lẻ một tuổi, thân thể hết sức khỏe
mạnh. Cụ nói cụ là “thanh niên một trăm lẻ một
tuổi”, chẳng có chút bệnh tật nào, hằng ngày phải
c̣n chăm sóc hai mươi mấy cụ già. Thật ra, những
người già được cụ chăm sóc đều
là bảy, tám chục tuổi, chính cụ là một trăm
lẻ một tuổi. Những người già ấy hết
sức nghèo khổ, cho nên cụ Hứa ắt phải thị hiện tướng nghèo hèn th́ những người già ấy mới
hoan hỷ, mới có thể tiếp nhận. V́ thế, cụ
Hứa mặc quần áo rách nát tả tơi, nhặt từ
trong thùng rác, người ta không cần nữa, vứt
đi, cụ nhặt lấy đem về giặt sạch,
hễ vừa
khít bèn mặc. Chẳng vừa khít sẽ sửa lại. Sống giống hệt
như kẻ bần cùng. V́ sao? Tiếp cận kẻ bần
cùng như vậy, kẻ bần cùng sẽ hết sức
hoan hỷ. Nếu quư vị mang dáng vẻ phú quư, quư vị
đến trước họ, họ sẽ tránh né, chẳng
dám tiếp cận quư vị, mà cũng chẳng muốn tiếp
cận quư vị, đạo lư là ở chỗ này!
V́ thế,
cư sĩ Hứa Triết thị hiện tướng bần
cùng. Cụ có thể sống khá hơn, nhưng cụ chẳng làm vậy. Đă thế,
mỗi ngày cụ ăn một bữa, ăn một bữa
giữa trưa, lại c̣n ăn uống hết sức
đơn giản. Chẳng nhận một đồng tiền.
Có kẻ tặng tiền cho cụ, cụ dùng tiền ấy
giúp đỡ người nghèo khổ. Người khổ
sở trong thế gian này c̣n nhiều lắm, cụ đến
chăm sóc họ. Thông thường cụ luôn ngồi xe
bus, hoặc đi bộ, chắc chắn chẳng ngồi
xe taxi. V́ sao? Chi phí quá lớn, toàn là dùng phương tiện giao thông công cộng.
Sáng đi, tối về, vui sướng chẳng mệt,
suốt đời làm chuyện này! V́ thế, do tài thí, pháp
thí, và vô úy thí, bà cụ được khỏe mạnh,
sống lâu, chi dùng chẳng thiếu thốn, xác thực là có
trí huệ. Từ thân thể của bà cụ, chúng ta thấy
quả báo của ba loại bố thí. Tôi thấy cụ thọ
mạng rất dài, tôi phỏng đoán cụ có thể sống
đến một trăm ba mươi tuổi, xác thực
là “thanh niên vào độ tuổi
một trăm”. Chẳng có ai chăm sóc cụ, cụ
c̣n chăm sóc người khác!
Tôi đă
đến chỗ cụ ở, đến thăm nơi
đó, sạch sẽ, chẳng nhuốm mảy bụi. Ngoài mấy bộ quần áo để thay giặt
ra, chẳng có chi hết. Cụ thích đọc sách, trong nhà
có hai cái kệ sách, trên kệ chất đầy
sách. Trừ thứ ấy ra, chẳng có chi khác. Trước
kia, cụ là nữ tu sĩ, là nữ tu Thiên Chúa giáo, hết
sức cởi mở. Lúc một trăm lẻ một tuổi,
gặp tôi, cụ đă xem một ít sách của tôi, đến
gặp tôi, câu đầu tiên cụ hỏi: “Tôi có tư cách
làm một tín đồ Phật giáo hay không?” Tôi bảo: “Bà
là một Phật tử đúng tiêu chuẩn!” V́ thế,
liền cho cụ quy y, mà cũng truyền Ngũ Giới
cho cụ. V́ sao? Cụ có thể thật sự làm
được, đă làm được. Một trăm lẻ
một tuổi học Phật chẳng trễ! Đấy
là gương điển h́nh của “ẩn thắng chương liệt”. V́ thế, đức Phật đă thành Chánh Giác,
đấy là “đại triệt
đại ngộ, minh tâm kiến tánh” như Thiền
Tông thường hay nói; khi ấy, Tánh Đức của quư
vị hiện tiền. Tự tánh vốn trọn đủ
vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng,
vô lượng tướng hảo, thảy đều hiện
tiền. Ngài thảy đều ẩn giấu chúng, chẳng
thị hiện, chẳng để cho người khác trông
thấy, mà để cho người khác thấy cảnh giới
của chính họ, đấy là đại đức.
Tiếp đó, [đại sư] dẫn kinh để
nói: “Kinh vân
thập cá Liên Hoa Tạng” (Kinh nói mười Liên Hoa Tạng). Liên Hoa Tạng
là Hoa Tạng được nói trong kinh Hoa Nghiêm. Trong phần
trước, tức phẩm Hoa Tạng Thế Giới, tôi
đă thưa cùng chư vị, “Hoa
Tạng thế giới vi trần số” (số vi trần
trong thế giới Hoa Tạng), chẳng phải là “hằng hà sa vi trần số”
(số lượng vi trần nhiều như cát sông Hằng).
“Hoa Tạng thế giới vi trần
số” chẳng biết to hơn hệ Ngân Hà như
chúng ta nói trong hiện thời bao nhiêu lần? Nếu theo
cách nói của lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, cụ nói:
“Một hệ Ngân Hà chính là một đơn vị thế
giới được nói trong kinh Phật”. Một tiểu
thiên thế giới là một ngàn hệ Ngân Hà, một trung
thiên thế giới là một ngàn tiểu thiên thế giới.
Đấy là một trung thiên thế giới! Lại gộp
một ngàn trung thiên thế giới mới thành một
đại thiên thế giới. V́ thế, trong một đại
thiên thế giới có bao nhiêu đơn vị thế giới?
Mười ức (1.000.000.000), mười ức hệ
Ngân Hà là một đại thiên thế giới. Đó là khu
vực giáo hóa của một đức Phật. Thế giới
Hoa Tạng có bao nhiêu đại thiên thế giới như
vậy? Chẳng có cách nào tính toán. Trong phẩm Hoa Tạng
Thế Giới, chúng ta đă thấy thế giới Hoa Tạng
có hai mươi tầng. Thế giới Sa Bà của Thích Ca
Mâu Ni Phật là một đại thiên thế giới, thế
giới Cực Lạc cũng là một đại thiên thế
giới. Đại thiên thế giới này [và thế giới Cực
Lạc] cùng thuộc về một tầng
trong hai mươi tầng của thế giới Hoa Tạng,
tức tầng thứ mười ba. Cực Lạc ở
phía Tây của
[thế giới] chúng ta,
chúng ta ở phía Đông của thế giới Cực Lạc.
Đấy là thế giới Hoa Tạng.
Do vậy,
thế giới Hoa Tạng có hai mươi tầng, hợp
thành một thế giới Hoa Tạng. Nay người hiện
thời nói tới mười thế giới Hoa Tạng,
hay c̣n gọi là mười Liên Hoa Tạng, “thập Hoa Tạng thế giới trần số
tướng” (các tướng [của đức Phật]
nhiều như số vi trần trong mười thế giới
Hoa Tạng). Vi trần có số lượng [nhiều
như thế đó], quư vị tưởng tượng bằng
cách nào? “Hằng hà sa số” chúng ta đă không có cách nào
tưởng tượng! V́ thế, thông thường, tán
dương Phật chỉ nói: “Phật
có vô lượng tướng, mỗi tướng có vô
lượng hảo”, nói
mơ hồ, nói theo kiểu khái niệm sẽ rơ ràng
hơn, thật sự là vô lượng, há nào phải là [chỉ
có] ba mươi hai tướng! Hiện thời, bọn
phàm phu tục tử chúng ta chẳng có cách nào trông thấy
những tướng ấy, nhưng nếu chúng ta nh́n vào quang minh tỏa ra từ mỗi
loại tướng hảo ấy sẽ chẳng có cách nào
chịu đựng nổi, giống như ánh sáng mặt trời soi vào mắt chúng ta, chẳng thể chịu
được! Vô lượng vô biên Phật quang, quư vị
làm sao có thể nh́n thấy cho được? Bởi lẽ,
[đức Phật] có các tướng nhiều như số
vi trần trong mười Liên Hoa Tạng.
Câu kế
tiếp là “hải trích nan
xưng vô tận chi đức” (đức vô tận nhiều như số giọt
nước biển khó thể diễn nói được).
Trong đoạn trước là nói về tướng hảo
của Ngài, ở đây là nói về đức, đức
ấy chẳng thể nói trọn hết! Một giọt
nước trong biển cả, trong biển cả có bao
nhiêu giọt nước, dùng chuyện này để tỷ
dụ. Trong biển cả có bao nhiêu giọt nước? Chẳng đếm hết
được! Vô lượng,
vô biên, vô tận; đó là nói về quả đức. Nói
nhiều ngần ấy, chư vị phải ghi nhớ, đấy
chính là bản năng (năng lực sẵn có) của bản thân chúng ta. Kinh đă nói rất hay, “hết thảy chúng sanh đều
có trí huệ và đức tướng của Như Lai”, “tướng” ấy chính là
tướng hảo nhiều như số vi trần trong
mười Liên Hoa Tạng, là đức năng nhiều
như số giọt nước biển khó thể nói trọn
hết, trong tự tánh của chúng ta thảy đều có.
Chẳng phải là chỉ riêng đức Phật có, mà là
chúng ta đều có. Đều có, nhưng như thế
nào? Đều có, nhưng hiện thời [đức năng
của] chúng ta cũng đều là ẩn tàng, chẳng tỏ
lộ. “Ẩn” chẳng phải
là chúng ta cố ư ẩn, chư Phật, Bồ Tát ẩn tàng
[đức năng] của các Ngài là cố ư ẩn tàng, chúng ta chẳng phải là cố ư [làm như
vậy], mà là do bị mê mất.
Như thế
nào th́ mới có thể khôi phục? Tổng cương lănh
thật ra rất đơn giản, rất ngắn gọn.
Quư vị thấy phẩm [Như Lai] Xuất Hiện [trong
kinh Hoa Nghiêm] đă nói: “Hết
thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng
của Như Lai, chỉ v́ vọng tưởng và chấp
trước mà chẳng thể chứng đắc”, nay
chúng ta mất đi, bị mê mất, là do vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước. Do vậy, phải biết
tướng hảo của chúng ta số nhiều như số
vi trần trong mười thế giới Liên Hoa Tạng,
tướng hảo đấy nhé! Điều này là thật,
chẳng giả, thảy đều bị mất đi, nay
biến thành tướng xấu xí như vậy! Chúng ta thấy
muỗi, thấy kiến, cảm thấy chúng ta vẫn c̣n
khá, chúng nó chẳng thể sánh bằng chúng ta. Nếu muỗi,
kiến thấy tướng trang nghiêm của con người,
chúng nó sẽ nghĩ [tướng loài người] giống
như tướng của chư thiên, giống như Phật,
Bồ Tát, giống như chúng ta nh́n chư Phật, Bồ
Tát hoặc chư thiên. Chúng nó mê càng sâu hơn chúng ta, đọa
lạc càng khổ hơn chúng ta.
Khôi phục
bằng cách nào? Đức Phật dạy ba nguyên tắc, nếu
quư vị hiểu, sẽ tu chẳng khó: Buông xuống vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, sẽ thành Phật,
sẽ thảy đều khôi phục. Quư vị có muốn
buông xuống hay không? Quư vị chẳng muốn buông xuống,
vậy th́ quư vị vẫn phải tiếp tục luân hồi
trong lục đạo. Nếu quư vị thật sự giác
ngộ, “ta chẳng muốn luân hồi
trong lục đạo, ta chẳng mong vào trong ba ác đạo,
cũng chẳng mong ở lâu trong nhân gian”, quư vị thật
sự có cái tâm giác ngộ ấy, có ư niệm ấy, nhà Phật nói là “hoằng
nguyện”, quư vị sẽ thực hiện nguyện vọng
ấy. Trước hết là buông xuống chấp trước,
đối với người, đối với sự,
đối với vật, chẳng c̣n chấp trước,
buông xuống từ chỗ này. Sau
đấy lại buông xuống phân biệt, cuối cùng là
buông xuống vọng tưởng, quư vị sẽ thành Phật.
Buông xuống chấp trước sẽ chứng quả A La
Hán, vượt thoát lục đạo luân hồi. Buông xuống
phân biệt, đấy là đại Bồ Tát. Lại buông
xuống vọng tưởng, sẽ vượt thoát mười
pháp giới. Vượt thoát mười pháp giới, quư vị
vào Nhất Chân pháp giới, đi làm Phật. Kinh Hoa Nghiêm gọi
vị Phật ấy là Pháp Thân Bồ Tát, là Phần Chứng
Tức Phật, v́ sao? Quư vị chẳng đoạn tập
khí vọng tưởng, nhưng như thế nào? Chẳng
sao cả! Chẳng trở ngại Sự. Khi ấy, quư vị
có bao nhiêu tướng hảo? Sẽ giống như ở
đây đă nói, mười Liên Hoa Tạng vi trần số
tướng hảo, đức hạnh khó tính đếm
như số giọt nước biển, thảy đều
là [những thứ] chính ḿnh vốn sẵn có, chẳng do từ
bên ngoài mà có!
Tôi hết
sức cảm kích thầy tôi là Chương Gia đại
sư. Ngày đầu tiên gặp mặt, tôi thỉnh giáo thầy
phương pháp tu hành, Ngài liền bảo tôi “thấy thấu suốt, buông xuống”. Buông xuống sẽ thấy
thấu suốt. Khi ấy, tôi đúng là chỗ hiểu chỗ
không, nhưng hiểu được một chút. Tôi thỉnh
giáo lăo nhân gia: “Thực hiện từ nơi đâu?” Ngài dạy
tôi: “Bố thí”. Bố thí là xả,
thứ ǵ cũng đều phải xả, đến cuối
cùng, ngay cả thân thể cũng xả. Đầu, mắt,
tủy, năo, chẳng có ǵ không thể xả. Thân thể c̣n
có thể xả, huống hồ vật ngoài thân! Giống
như Thích Ca Mâu Ni Phật, quốc thành, vợ con, vinh hoa
phú quư, thảy đều xả hết. Thích Ca Thế Tôn rất
từ bi, nêu gương cho chúng ta thấy, vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước thảy đều buông xuống.
Nếu quư vị hỏi “tu hành đến khi nào sẽ có thể
thành Phật” ư? Khi nào quư vị buông xuống được,
khi ấy sẽ thành Phật. Chẳng buông xuống, quư vị sẽ
chẳng thành. Tôi vừa
mới nói: Buông xuống chấp trước, quư vị
thành A La Hán. Buông xuống phân biệt, quư vị thành Bồ
Tát. Buông xuống vọng tưởng, quư vị sẽ thành
Phật. Chúng ta phải ghi nhớ nguyên lư, nguyên tắc, và cương
lănh tu học ấy, ngàn kinh muôn luận đều chẳng
rời khỏi tổng cương lănh ấy. Hễ ĺa khỏi
tổng cương lănh ấy, sẽ chẳng phải là Phật
pháp.
Phật
pháp chẳng có ǵ khác, buông xuống mà thôi. V́ thế, vô
lượng vô biên hạnh môn trong Bồ Tát đạo, quy
kết đến cuối cùng sẽ là một môn, tức Bố
Thí Ba La Mật. Tám vạn bốn ngàn pháp môn quy nạp đến
cuối cùng là Lục Ba La Mật, lại quy nạp Lục
Ba La Mật sẽ là một điều, tức Bố Thí.
Bố Thí là bảo quư vị hăy buông xuống. Quư vị
buông xuống càng nhiều, trí huệ và đức tướng
của quư vị sẽ dần dần thấu lộ. V́ thế,
những tướng hảo ấy có phải là do tu mà có
hay không? Chẳng phải, vốn sẵn có. Trừ khử một
phần chướng ngại, thứ quư vị vốn sẵn
có sẽ bộc lộ một phần. Trừ khử hai phần
chướng ngại, chúng sẽ lộ ra hai phần. Chớ
nên không hiểu đạo lư này!
Tiếp
đó, [lời Sao] nói: “Hải
trích nan xưng vô tận chi đức, tịnh ẩn bất
chương” (Đức vô tận khó thể diễn tả nhiều
như số giọt nước biển đều ẩn
tàng, chẳng tỏ lộ). Đấy là ân đức. Phật
có thể hiển lộ, nhưng Ngài chẳng hiển lộ, mang thân thể đồng
loại với chúng ta. V́ thế, kế đó, [lời Sao]
viết: “Đản vân bách kiếp
tu thành tam thập nhị tướng, tam thập tứ
tâm” (Chỉ nói trăm kiếp tu thành ba
mươi hai tướng, ba mươi bốn tâm). Ba
mươi hai tướng, ba mươi bốn tâm trong Phật
Học Từ Điển có chép, sách Giáo Thừa Pháp Số
cũng có, mọi người có thể tham khảo, ở
đây tôi chẳng rườm lời. Trong ấy, c̣n có một
dụng ư rất sâu: Trăm kiếp tu nhân, ba mươi hai
tướng là quả báo, đấy là ǵ? Giáo dục nhân quả.
Đấy là giáo hóa chúng sanh trong thế giới Sa Bà, quư vị
thấy có chúng sanh nào chẳng hy vọng chính ḿnh có tướng
hảo? Đức tướng trong tự tánh của quư vị, do quư vị mê mất tự tánh, đức
tướng trong tự tánh chẳng thể hiển lộ.
Nay quư vị mong được tướng hảo th́ phải
làm như thế nào? Tu nhân, đấy là nói về nhân quả.
Do nhân lành mà có tướng lành. Ví như mọi người
chúng ta đều có thể thấu hiểu, các đồng
tu đều có thể thấu hiểu, một người
có tâm địa thiện lương, thoạt nh́n h́nh
tướng người ấy, [sẽ cảm thấy]
người ấy là người tốt, chẳng phải
là người xấu. Một người tâm địa từ bi, sẽ thấy
người ấy có tướng từ bi. Người nào tâm
thanh tịnh, sẽ có tướng thanh tịnh. Người
có tánh ḥa thuận, sẽ hiện tướng ḥa thuận.
Nếu là người rất hung tợn, rất ác độc,
hắn sẽ hiện tướng hung ác. V́ thế nói là “tướng chuyển theo tâm”.
Ba mươi bốn tâm là nhân, ba mươi hai tướng
là quả báo, tu nhân chứng quả. Đấy là ǵ? Đấy
là dạy bọn chúng ta, là những phàm phu nay đang mê hoặc,
điên đảo, chẳng kiến tánh. Nói chung, lục
đạo phàm phu chẳng ĺa khỏi nhân quả báo ứng!
“Đoạn Kiến tu Hoặc”,
Kiến (見) là ǵ? Kiến Tư phiền năo, Hoặc (惑) là mê hoặc, [đoạn Kiến tu Hoặc
là] phá mê khai ngộ. Nhất định phải đoạn Kiến Tư phiền năo! Kiến Tư phiền năo là chấp
trước, Hoặc là vô minh. Trong đó đă tỉnh
lược phân biệt, nhưng ư nghĩa đă được bao gồm trong ấy. Bởi lẽ, Hoặc là vô minh, chúng ta cũng gọi
nó là “vọng tưởng, phân biệt”. Kiến là chấp
trước. “Đoạn Kiến”
là buông xuống chấp trước, “tu Hoặc” là buông xuống phân biệt, buông xuống
vọng tưởng. Chấp trước, phân biệt, vọng
tưởng vô lượng vô biên; thông thường, người
tu hành buông xuống chút phần, chẳng buông xuống hoàn
toàn. Hoàn toàn buông xuống sẽ thành Phật. Buông xuống
một phần, sẽ thành quả A La Hán; lại buông xuống
một phần nữa, sẽ chứng quả vị Bồ
Tát.
Chúng ta biết,
Bồ Tát trước khi kiến tánh có mười địa
vị. Chúng ta nói theo kinh Hoa Nghiêm, từ địa vị Sơ
Tín cho đến Thập Tín, [thuộc vào trong] mười
pháp giới. Trong những phần trước, chúng tôi
đă nói đến điều này rất nhiều! Địa
vị Thất Tín mới là A La Hán, bằng với Tiểu
Thừa A La Hán. Địa vị Bát Tín bằng Bích Chi Phật.
Địa vị Cửu Tín là Quyền Giáo Bồ Tát, địa
vị Thập Tín là Phật trong mười pháp giới,
chưa kiến tánh. Nếu lại lên cao hơn một tầng
nữa, phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp
Thân, vượt thoát mười pháp giới, như vậy
th́ Tánh Đức quư vị thảy đều khôi phục.
V́ thế, chúng ta từ sơ phát tâm đạt đến A
La Hán, sẽ vượt thoát lục đạo, gồm có bảy
địa vị. Sơ Tín đoạn Kiến Hoặc, [Kiến
Hoặc] là một phần chấp trước trong Kiến
Tư phiền năo. Buông xuống
cách nh́n sai lầm, buông xuống kiến giải sai lầm, sẽ chứng
địa vị Sơ Tín Bồ Tát trong Viên Giáo,
tương đương với Sơ Quả Tu Đà
Hoàn của Tiểu Thừa. Quư vị biết địa vị
Nhị Tín bằng Nhị Quả (Tư Đà Hàm) của Tiểu
Thừa, địa vị Tam Tín bằng A Na Hàm của Tiểu
Thừa. Gộp chung Tiểu Thừa và Đại Thừa như
vậy để xem, quư vị bèn hiểu rơ: Chẳng buông
xuống th́ làm sao được? Chẳng có công phu nào khác,
toàn là buông xuống.
V́ thế,
công phu thật sự là trong cuộc sống, công việc, xử
sự, đăi người tiếp vật, chẳng chấp
trước, chẳng phân biệt. Chúng ta xử sự, đăi
người tiếp vật như thế nào? Tùy thuận sự
chấp trước của chúng sanh mà chấp trước,
tùy thuận sự phân biệt của chúng sanh mà phân biệt,
sẽ chẳng khác ǵ Bồ Tát thị hiện, trong tâm của
chính ḿnh có [phân biệt, chấp trước] hay không? Thật
sự chẳng có. V́ thế, buông xuống sẽ chẳng
có phiền năo. Hết thảy đều chẳng chấp
trước, chẳng có Kiến Tư phiền năo. Hết
thảy đều chẳng phân biệt, chẳng có Trần
Sa phiền năo. Chẳng khởi tâm, không động niệm,
chẳng có Vô Minh phiền năo. Đương nhiên là [buông xuống]
khởi tâm động niệm hết sức khó khăn, chính
ḿnh chẳng thể làm chủ được! Cứ tiến
cao hơn từng tầng một. Đức Thế Tôn từ
bi, Phật Di Đà từ bi, đă v́ chúng ta mở ra một
pháp môn thật sự thuận tiện, có thể đới
nghiệp văng sanh, sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới, lại buông xuống vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, chuyện này chẳng thể
nghĩ bàn! Nhưng như thế nào? Nói chung, chúng ta phải
buông xuống phiền năo thô trọng. Tôi thường nói: “Phải buông xuống ích kỷ,
tiếng tăm, lợi dưỡng, phải buông xuống
ngũ dục, lục trần, phải buông xuống tham,
sân, si, mạn”; niệm Phật như vậy, chắc
chắn sẽ được văng sanh. Quư vị c̣n có mười
sáu chữ ấy chẳng buông xuống, dẫu quư vị niệm
Phật, văng sanh chưa chắc có thể thành tựu. Đúng
như thế đấy!
Hăy ngẫm
xem, chúng ta buông xuống mười sáu chữ ấy có khó
khăn hay không? Chẳng khó! Ai nấy đều làm
được! Mười sáu chữ ấy thảy đều
buông xuống, thưa cùng chư vị, ngay cả địa
vị Sơ Tín Bồ Tát c̣n chưa đạt đến!
Đừng tưởng là ta buông xuống những thứ ấy,
đại khái là ta có thể đạt tới địa
vị Sơ Tín Bồ Tát. Chưa đâu! [Để đạt
tới] địa vị Sơ Tín Bồ Tát, c̣n phải nỗ
lực, v́ sao? Chưa buông xuống Thân Kiến, vẫn chấp
trước tấm thân này là ta. Tiểu Thừa Tu Đà Hoàn,
Đại Thừa Sơ Tín vị Bồ Tát, tuyệt đối
chẳng c̣n chấp trước thân này là ta. Thân chẳng phải
là ta, đương nhiên là đối với vật ngoài
thân, người
ấy đều buông xuống
toàn bộ. V́ thế, kinh Kim Cang có một câu rất hay: “Vô ngă tướng, vô nhân tướng,
vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng”. Đó
là địa vị Sơ Tín Bồ Tát, là Tiểu Thừa
Tu Đà Hoàn, phải hiểu điều này!
Công phu ĺa
tứ tướng có cạn hay sâu sai khác. “Cạn” là Sơ
Quả, “sâu” là Tứ Quả La Hán. Đạt đến
các địa vị Bồ Tát là buông xuống những ǵ? Chẳng
phải là tứ tướng! Các Ngài đă phá tứ tướng
từ lâu rồi, [ở đây là phá] tứ kiến. Nửa
sau bộ kinh Kim Cang [đă nói] “ngă
kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến”.
Những điều ấy đều thuộc về phân
biệt, tứ tướng trong phần trước thuộc
loại chấp trước. V́ thế, nửa bộ
trước và nửa bộ sau [kinh Kim Cang] cạn hay sâu
khác nhau. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, bất luận quư vị
tu học pháp môn nào, đều chẳng ĺa khỏi nguyên tắc
này. Kinh Kim Cang là nguyên tắc tổng chỉ đạo sự
tu hành. Quư vị nói chính ḿnh không buông xuống mà có thể thành
tựu, đó là bịp người, chẳng có lẽ ấy!
Chẳng tương ứng với “phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng”
như kinh đă dạy. V́ thế, phải nắm chắc
nguyên tắc và tổng cương lănh như kinh đă dạy,
trong cuộc sống hằng ngày, trong sự tướng, thời
thời khắc khắc đề cao cảnh giác, chẳng
c̣n chấp trước, chẳng c̣n phân biệt, hăy buông xuống;
đó là thật sự tu hành. Công phu mới thật sự
đắc lực!
Năm phần
Pháp Thân là do Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện chứng
đắc. Năm phần Pháp Thân là ǵ? Giới, Định,
Huệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến, đấy là
năm phần. Thành tựu Giới, Định, Huệ, Giải
Thoát, Giải Thoát Tri Kiến nhằm dạy lục đạo
chúng sanh, chẳng phải là Pháp Thân thật sự, nhưng
tương ứng với Pháp Thân. “Giác thụ sơ viên” (dưới
cội cây giác ngộ mới viên măn) tức là nói đến
chuyện thị hiện thành đạo dưới cội
cây Bồ Đề, tức là chứng đắc Vô Thượng
Bồ Đề. Bởi lẽ, “Bồ
Đề thụ”, Bồ Đề (Bodhi) là tiếng Ấn Độ, dịch nghĩa sang tiếng Hán là “giác ngộ”. Dưới cội
Bồ Đề, dường như là vừa mới chứng
đắc viên măn. “Viên măn”
là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, tức
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Thị hiện cho
chúng ta thấy, khiến cho chúng ta thấy rồi sẽ sanh
khởi ḷng ngưỡng mộ, học tập theo Thích Ca
Mâu Ni Phật, đời này chúng ta cũng có thể làm giống
như Ngài. Đó là “ẩn
thắng chương liệt”, biểu diễn đó mà!
“Như lăo tỳ-kheo”: Đức
Phật thị hiện trụ thế tám mươi
năm, người Hoa nói theo kiểu này. Theo cách nói của
người ngoại quốc, Thích Ca Mâu Ni Phật diệt
độ lúc bảy mươi chín tuổi. Ba mươi
tuổi, Ngài thị hiện đại triệt đại
ngộ dưới cội Bồ Đề. Sau khi đă ngộ,
bèn bắt đầu giáo hóa chúng sanh. Từ ba mươi tuổi,
bắt đầu dạy học, nay chúng ta nói là “mở lớp
dạy học”. Đúng là như vậy, măi cho đến
bảy mươi chín tuổi, tổng cộng là bốn
mươi chín năm, giảng kinh hơn ba trăm hội.
Hơn ba trăm hội là mở lớp hơn ba trăm lần,
số người trong mỗi lớp cũng chẳng nhất
định. Khi số người đông nhất, từ
kinh luận, chúng ta thấy dường như hơn một
vạn người. Số người ít nhất th́ trừ
Thường Tùy Chúng của đức Phật ra, có chừng
mười mấy, hai chục người. Mở khóa học
với quy mô lớn, có thể chia thành rất nhiều giảng
đường, chia học tṛ thành từng nhóm để
giảng. Thực hiện khắp nơi; v́ thế, [đức
Phật đă giảng kinh] hơn ba trăm hội trong bốn
mươi chín năm. Bảy mươi chín tuổi Ngài viên
tịch, người Hoa tính theo tuổi ta sẽ là tám
mươi tuổi, cho nên nói là “như
lăo tỳ-kheo”!
“Đồng ngũ La Hán” (Cùng với năm vị La Hán): Đấy là
khi Ngài thị hiện thành đạo lúc ba mươi tuổi.
Thuở đầu, tiếp dẫn học tṛ là năm vị
tỳ-kheo, tức năm vị La Hán, năm vị ấy
đều chứng quả La Hán. Chúng ta biết chứng quả
La Hán là đă đoạn Kiến Tư phiền năo, cũng
có nghĩa là buông xuống chấp trước đối với
hết thảy người, sự, vật, chẳng c̣n chấp
trước. Đấy là chứng A La Hán. Kế đó, dẫn
một câu chuyện. Câu chuyện này được nói trong
kinh Pháp Hoa. Nay đă hết thời gian rồi, câu chuyện
này trong kinh Pháp Hoa cũng được rất nhiều
người biết đến, dùng nó để tỷ dụ
chuyện“ẩn
thắng chương liệt” hết sức rơ ràng! A! Bây giờ chúng ta nghỉ
ngơi mấy phút!
***
Chư vị
pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi
xuống. Xin xem tiếp câu thứ tám:
(Sao)
Ẩn thật thi quyền ân.
(鈔)隱實施權恩。
(Sao:
Ân “ẩn chân thật, hành quyền biến”).
Câu thứ
bảy trong phần trước là “đáng nên dùng thân ǵ để độ được,
bèn hiện thân ấy”. Đoạn này nói về thuyết
pháp. Pháp th́ chẳng có pháp nhất định, cũng là thuận
theo căn tánh của chúng sanh để nói pháp phương
tiện. V́ thế, “ẩn thật
thi quyền”. “Thật” (實) là chân thật, “quyền”
(權) là
phương tiện. Nếu nói pháp chân thật, chẳng có
ai hiểu, mọi người chẳng thể tiếp nhận.
V́ thế, chỉ đành dùng phương tiện thiện
xảo. Giống như thí dụ chúng tôi đă nêu trong phần
trước, thầy hướng dẫn lớp Tiến Sĩ một bụng học
vấn, nhưng đối với học tṛ Tiểu Học,
một bụng học vấn của ông ta không dùng
được, nhất định phải dạy phù hợp
với tŕnh độ học sinh Tiểu Học, chúng nó mới
có thể nghe lọt tai, mới có thể vui vẻ tiếp
nhận, chính là đạo lư này! V́ thế, pháp chân thật
để nói với ai? Nói với Pháp Thân Bồ Tát, đó
là chân thật; [pháp nói với]
chúng sanh trong mười pháp giới đều
là quyền xảo phương tiện. Trong pháp chân thật,
có nói hay chăng? Chẳng nói! Ngôn ngữ dứt bặt, tâm
hành xứ diệt. Nếu đức Phật sử dụng
phương pháp này đối với chúng ta, chúng ta sẽ
chẳng đạt được chi hết! Hoàn toàn chẳng
thể lư giải! V́ thế, ắt cần phải dùng phương tiện thiện xảo.
Chúng ta xem Thanh Lương đại sư khai
thị:
(Sao)
Viên đốn Nhất Thừa, ẩn nhi bất thuyết,
năi dĩ tam thừa nhân thiên tiểu pháp, giáo hóa chúng sanh.
(鈔)圓頓一乘,隱而不說,乃以三乘人天小法,教化眾生。
(Sao:
Ẩn tàng chẳng nói pháp Nhất Thừa viên đốn,
bèn dùng tam thừa, tiểu pháp nhân thiên để giáo hóa
chúng sanh).
Trước
hết, chúng tôi giới thiệu đơn giản đại
ư của đoạn này. “Viên”
(圓) là viên
măn, “đốn” (頓) là chẳng có tầng cấp (chẳng theo
thứ tự tiến dần dần, mà là thẳng thừng
chứng nhập). Đấy là thật, là Nhất Thừa.
Nhất Thừa cũng là bất đắc dĩ giả lập
một danh từ, v́ sao? Viên (圓, tṛn đầy) là đối ứng với
“thiên” (偏, lệch lạc) mà nói, Đốn (頓, nhanh chóng) là nói đối ứng với Tiệm
(漸,
dần dần). Nhất Thừa là nói đối ứng với
ba thừa. Trong kinh Pháp Hoa, đến cuối cùng, đức
Phật mới lộ ra tin tức này. Ngài bảo “duy
hữu Nhất Thừa pháp” (chỉ có pháp Nhất Thừa),
Phật pháp chỉ có pháp Nhất Thừa. “Vô nhị, diệc vô tam” (Không hai, cũng không ba). “Hai” là hai thừa, tức
Đại Thừa và Tiểu Thừa. Ba thừa là Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, đó là ba thừa. Hai thừa và
ba thừa đều là nói phương tiện. Chỉ có
pháp Nhất Thừa, không hai, mà cũng chẳng ba. “Trừ Phật phương tiện
thuyết” (Trừ phi đức Phật nói phương
tiện): Ngoại
trừ đức Phật nói theo
kiểu phương tiện, mới nói thành hai thừa hoặc
ba thừa, thật sự chỉ có Nhất Thừa!
Pháp là Nhất
Thừa, dùng ǵ để tu? Thưa cùng chư vị, nhất
tâm. Tu nhất tâm, tu Nhất Thừa sẽ đạt
được cái quả như thế nào? Nhất Chân. Quư
vị thấy đó, đều là một, nhất tâm, Nhất
Thừa, Nhất Chân. Đấy là quả đức viên
măn rốt ráo, xứng tánh viên măn. Đấy là nói thật với
quư vị, chẳng giả. Nhưng trong mười pháp giới
th́ không được, [chúng sanh trong] mười pháp giới chẳng phải là căn
tánh ấy, đến thế giới Hoa Tạng, đến
thế giới Cực Lạc, sẽ nhập cảnh giới
ấy. Quư vị thấy thế giới Cực Lạc c̣n
có bốn cơi, viên đốn Nhất Thừa thuộc về
cơi nào? Cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Nói cách khác, cơi Phàm Thánh Đồng
Cư và cơi Phương Tiện Hữu Dư trong thế giới
Cực Lạc sẽ c̣n thấy A Di Đà Phật nói phương
tiện. Nhưng đối với phương tiện của
Ngài, do những người văng sanh được
oai thần bổn nguyện của
bốn mươi tám nguyện gia tŕ, họ chẳng có
chướng ngại. Những ǵ đức Phật đă
thị hiện, đă nói, hễ
họ được tiếp xúc, được nghe thấy,
thảy đều có thể giác ngộ. V́ thế nói là
căn tánh hết sức nhạy bén!
V́ sao
căn tánh của chúng ta chẳng được? Chúng ta bị
nghiệp chướng ngăn trở. Sanh trong thế giới
Cực Lạc, được Phật quang và oai thần của
A Di Đà Phật gia tŕ, nay lũ b́nh phàm chúng ta nói là “từ trường”, hoặc
“khí phận”, chẳng có cách
nào tưởng tượng được, chẳng có cách
nào so sánh, nghĩ tưởng, quá tốt đẹp! V́ thế,
ở nơi ấy, giác ngộ rất dễ dàng, khế nhập
rất dễ dàng! Đấy chính là lư do khiến cho mười
phương chư Phật tán thán công đức của thế
giới Cực Lạc, có đạo lư trong ấy, thù thắng
khôn sánh mà! Trong hết thảy các cơi Phật, chẳng có
điều này, đúng là Di Đà Thế Tôn đă từ bi
đến cùng tột. Chúng ta có thể gặp gỡ, đấy
là chuyện rất may mắn to tát
trong đời này, quá hên! V́ thế, đă gặp gỡ,
quư vị đừng nên bỏ lỡ, nhất định
phải mong thành tựu trong một đời này. Nắm
chắc thành tựu là như tôi vừa mới nói, quư vị
tối thiểu là phải buông xuống chấp trước,
sẽ văng sanh chẳng bị chướng ngại, sanh vào
cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Nếu chẳng có chấp
trước và phân biệt, sẽ sanh vào cơi Phương Tiện
Hữu Dư. Nếu vọng niệm cũng buông xuống,
quư vị sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm. V́ thế, cả
ba thứ ấy, quư vị chẳng buông xuống một thứ nào cả,
sẽ chẳng nắm chắc văng sanh. Lâm chung văng sanh trong
một niệm, chính là v́ trong một niệm lúc lâm
chung, người ấy đă buông xuống chấp trước,
người ấy mới có thể văng sanh!
V́ sao có
người lâm chung chẳng thể văng sanh? Thầy Lư
thường nói, một vạn người niệm Phật,
thật sự có thể văng sanh là hai, ba người! Do nguyên
nhân nào? Lâm chung vẫn chẳng buông xuống được,
vậy là chẳng có cách nào cả! Đương nhiên là buông
xuống trong lúc lâm chung sẽ chẳng tốt đẹp bằng
buông xuống trong hiện thời, đó là đắc đại
tự tại! Chỉ cần buông xuống trong hiện tại,
phiền năo sẽ nhẹ nhàng, trí huệ sẽ tăng
trưởng, quư vị có thể xem hiểu kinh giáo! Quư vị
có thể nghe hiểu, có thể khế nhập. V́ sao hiện
thời xem kinh văn chẳng hiểu? Hằng ngày đều
nghe giảng kinh, v́ sao vẫn mơ màng, hồ đồ,
chẳng giác ngộ như vậy?
Chẳng có ǵ khác, là do chẳng buông xuống. Chẳng buông xuống
chướng ngại và
ô nhiễm, đạo lư ở ngay chỗ này. Nếu quư vị
hiểu rơ, chịu buông xuống, sẽ chẳng khó. Trí huệ
cũng mở mang, sẽ nghe hiểu, có thể lănh hội!
Buông xuống
th́ phải buông xuống từ tâm, trong tâm chẳng có c̣n chấp trước, trên mặt Sự th́
sao? Nơi Sự bèn tùy duyên, thứ ǵ cũng đều tốt
đẹp. Giống như Hoằng Nhất đại
sư sau khi học Phật, đúng vậy đó, tôi chẳng
biết Ngài có buông xuống phân biệt hay không, nhưng Ngài
đă buông chấp trước xuống. Thấy từ chỗ
nào? Tôi ở Tân Gia Ba, đă nghe rất nhiều đồng
tu kể: Hoằng Nhất đại sư sang thăm Tân Gia Ba, cư ngụ tại Chiêm Bồ Viện là
đạo tràng của pháp sư Quảng Hiệp. Đạo
tràng ấy rất gần Tịnh Tông Học Hội, đi
bộ mất hai, ba phút sẽ đến nơi. Tôi đă
đến thăm ngôi đạo tràng ấy. Năm xưa,
Hoằng Nhất đại sư ở nơi ấy, thứ
ǵ cũng đều là “miễn sao thuận tiện
th́ thôi, thứ ǵ cũng được, người tốt
lẫn kẻ xấu đều là người tốt”. Chăm lo việc ăn uống và sinh hoạt
hằng ngày cho Ngài, thứ ǵ [Ngài cũng cảm thấy] đều tốt đẹp. Pháp sư Quảng Hiệp
nói có khi đồ ăn mặn một tí, người khác
đều chê quá mặn, hỏi Sư, [Ngài bảo] “mặn có hương vị của mặn”. Nhạt th́ sao? “Nhạt
có hương vị của nhạt”. Chưa bao giờ phiền ḷng. V́ thế, người
chăm sóc Ngài hoan hỷ: “Vị
pháp sư này dễ hầu hạ, chẳng kén chọn chi hết,
thứ ǵ cũng đều tốt”. Đấy là ǵ? Buông xuống chấp trước,
đối với người, đối với sự,
đối với vật, chẳng có thứ ǵ không tốt.
Tôi thường
nói với các đồng học, nhắc nhở mọi
người, đức Phật dạy: “Giờ nào cũng là giờ tốt, ngày nào cũng là ngày
tốt”, quư vị chẳng cần phải kén chọn giờ giấc, chẳng cần phải
kén chọn ngày, buông xuống chấp trước.
Tôi ghép thêm hai câu: “Người
nào cũng là người tốt, chuyện nào cũng là chuyện
tốt”. Đối với hết thảy mọi
người, buông xuống thị, phi, thiện, ác, toàn là người
tốt mà! V́ sao là người tốt? Bản tánh vốn
lành. Họ làm những chuyện xấu, chẳng phải
là ta không biết. Nếu chẳng biết th́ biến thành
ngu ngốc mất rồi! Biết, nhưng như thế
nào? Chẳng ghim trong ḷng; biết đó là do kẻ ấy
nhiễm tập khí, chẳng phải là bản tánh của kẻ
ấy. Bản tánh vốn lành, bản tánh là Phật Tánh,
chúng ta phải tôn trọng bản tánh của kẻ ấy,
chớ nên phân biệt, chấp trước tập khí. Ai nấy
đều là người tốt, chuyện ǵ cũng đều
là chuyện tốt. V́ thế, quư vị phải thật sự
làm được, thực hiện “ai nấy là người tốt, mọi chuyện là chuyện
tốt”, buông xuống chấp trước, chẳng c̣n
chấp trước nữa! Người khác chấp
trước, hăy tùy thuận họ, chẳng có thứ ǵ không tốt. Người khác phân biệt
cũng tùy thuận kẻ đó, tự ḿnh biết “phàm những ǵ có h́nh tướng
đều là hư vọng”. Tâm Kinh càng nói triệt để
hơn, đó là Nhất Chân pháp giới, “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc, Sắc
chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc”. Đấy
là Nhất Chân. Chúng ta phải thường ghi nhớ, “phàm những ǵ có h́nh tướng
đều là hư vọng”, không chấp trước. “Hết thảy pháp hữu vi,
như mộng, huyễn, bọt, bóng”, quư vị c̣n có ǵ đáng để chấp trước?
Đấy
là đức Phật ứng hóa trên thế gian này, đối với chúng sanh trong lục
đạo, chẳng thể không nói tới ba thừa và nhân thiên tiểu pháp. V́ thế,
ư nghĩa này cũng rất hay. Giáo hóa chúng sanh, khuyên dạy
hết thảy chúng sanh chẳng tạo ba ác nghiệp, chẳng
đọa trong ba ác đạo. Đấy là nhân pháp, đời
sau quư vị c̣n được làm thân người. Quư vị
có thể tu Thập Thiện Nghiệp Đạo, đời
sau có thể sanh lên cơi trời. V́ thế, đấy là nhân
thiên tiểu pháp. Nhưng quư vị vẫn chớ nên xem nhẹ,
nhân thiên tiểu pháp là căn cơ để thành Phật! Kinh
Thập Thiện Nghiệp Đạo đă nói rất hay, nhân
thiên pháp, Thanh Văn Bồ Đề, Duyên Giác Bồ Đề,
cho đến Vô Thượng Bồ Đề, đều
lấy Thập Thiện Nghiệp Đạo làm cơ sở.
V́ vậy, tu từ nơi đâu? Phải tu từ chỗ này. Mà suốt một đời đức Thế Tôn trong bốn mươi chín năm [giảng kinh, thuyết pháp] cộng với thời gian
trước đó, sẽ là tám mươi năm, Ngài trụ
thế tám mươi năm, trong tám mươi năm đă
biểu diễn, biểu hiện, thân giáo lẫn ngôn giáo
đều lấy Thập Thiện Nghiệp làm cơ sở.
Chúng ta đọc kinh, chớ nên sơ sót điều này, chẳng
sai tí nào! Hy vọng các đồng học lưu ư, Thập
Thiện Nghiệp Đạo là căn cội của chúng
ta. Chỉ cần có thể làm được Thập Thiện
Nghiệp Đạo, cầu sanh Tịnh Độ sẽ nắm
chắc văng sanh.
Trong Thập
Thiện Nghiệp Đạo, có “không
tham, không sân, không si”. Tôi nói mười sáu chữ được
bao gồm toàn bộ trong Thập Thiện Nghiệp: Buông xuống ích kỷ, buông xuống tiếng
tăm, lợi dưỡng, buông xuống ngũ dục, sáu
trần, buông xuống tham, sân, si, mạn, sẽ làm
được Thập Thiện Nghiệp. V́ sao hiện thời
Thập Thiện Nghiệp của chúng ta khó khăn ngần
ấy? Tôi thưa cùng chư vị, căn cội của
Đại Thừa được kiến lập trên Tiểu
Thừa. Thập Thiện Nghiệp Đạo thông với
Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa, thông hết thảy
các pháp. V́ thế, nay chúng ta dùng ǵ? Dùng Đệ Tử Quy của
Nho gia làm căn bản; trước hết, hăy học Đệ Tử Quy. Đệ Tử
Quy thảy đều làm được, Thập Thiện Nghiệp
sẽ chẳng khó! Nếu quư vị rất nghiêm túc, rất
nỗ lực, trong thời gian hai năm, vun quén vững vàng
căn cội. Dùng thời gian một năm để thực
hiện Đệ Tử Quy, lại dùng thời gian một
năm để thực hiện Thập Thiện Nghiệp
Đạo th́ niệm Phật quyết định văng sanh.
Phàm là người niệm Phật tự tại văng sanh,
quư vị hăy quan sát cặn kẽ, trong cuộc sống thường
nhật, người ấy đăi người tiếp vật
có trái phạm Đệ Tử Quy hay không? Có trái nghịch
Thập Thiện Nghiệp hay chăng? Quư vị chú tâm quan
sát, [sẽ thấy] chắc chắn là chẳng trái nghịch
Thập Thiện Nghiệp, tuyệt đối chẳng
trái phạm Đệ Tử Quy. V́ thế, người ấy
ra đi tự tại, biết trước lúc mất.
Khởi
tâm động niệm, tôi thường nói là v́ chánh pháp tồn
tại lâu dài, v́ độ chúng sanh khổ nạn, [để
hoàn thành] hai chuyện này, chỉ cần hoàn thành một chuyện,
chuyện nào vậy? Chính ḿnh nghiêm túc tu hành, y giáo phụng
hành, quư vị sẽ làm được toàn bộ. Chỉ cần
chính ḿnh làm tốt đẹp, chánh pháp có thể tồn tại
lâu dài. Bản thân ta chẳng làm được Thập Thiện,
chẳng làm được Ngũ Giới, chánh pháp sẽ
không tồn tại trong thế gian. Ta làm được Thập
Thiện Nghiệp Đạo, làm được Đệ
Tử Quy, làm được Tam Quy và Ngũ Giới, sẽ
là hoằng pháp lợi sanh, v́ sao? Nêu gương cho người
khác nh́n vào: “Ta có thể làm được, quư vị
cũng có thể làm được!” Nêu gương cho người khác thấy chính là
hoằng pháp lợi sanh, là giúp đỡ chúng sanh khổ nạn,
là [khiến cho] chánh pháp tồn tại lâu dài. V́ thế, chánh
pháp tồn tại lâu dài chẳng do nói suông, mà phải do
đích thân nỗ lực thực hiện, phải thật
sự làm!
Quư vị
thấy Thích Ca Mâu Ni Phật đă tự ḿnh hoàn toàn làm được rồi Ngài mới bắt
đầu giảng kinh, thuyết pháp. Chẳng làm
được, sẽ không nói; làm được rồi mới
nói. Đấy đều là biểu diễn. Ngài biểu diễn,
chúng ta thật sự làm; do vậy, chúng ta nhất định
phải làm được! Quư vị ngẫm xem nếu
đạo tràng này, mỗi đồng tu đều làm
được Đệ Tử Quy, đều làm
được Thập Thiện Nghiệp Đạo, đạo
tràng này sẽ là xă hội hài ḥa, là thế giới hài ḥa.
Đạo tràng này là tấm gương tốt cho tất cả
những đoàn thể trên cả thế giới, chánh pháp
sẽ ở nơi đây, ở ngay tại chỗ này, ảnh
hưởng của nó được phát huy rạng rỡ.
Đấy là “ẩn thật,
thi quyền”.
Chúng ta lại
xem kế đó, Thanh Lương đại sư dẫn một
đoạn trong kinh Duy Ma Cật. Tiếp đó, Ngài viết:
(Sao)
Tịnh Danh kinh trung, chư Bồ Tát vấn Duy Ma Cật,
kim Thế Tôn dĩ hà thuyết pháp?
(鈔)淨名經中,諸菩薩問維摩詰,今世尊以何說法。
(Sao:
Trong kinh Tịnh Danh[7],
các vị Bồ Tát hỏi ngài Duy Ma Cật: “Nay đức
Thế Tôn dùng ǵ để thuyết pháp?”)
Ngài Duy Ma
Cật cũng là cổ Phật tái lai, thị hiện làm thân
cư sĩ, cùng với Thích Ca Mâu Ni Phật giống như
thổi kèn đôi ḥa tấu, hai vị cùng biểu diễn.
Những vị [Bồ Tát] ấy đều hỏi thay cho
chúng ta, chúng ta không biết, lẽ nào Bồ Tát chẳng biết!
Biết rơ mà cố ư hỏi.
(Sao)
Duy Ma Cật ngôn.
(鈔)維摩詰言。
(Sao:
Ngài Duy Ma Cật nói).
Cư
sĩ Duy Ma trả lời.
(Sao)
Thử độ chúng sanh, cang cường nan hóa, cố Phật
vị thuyết cang cường chi ngữ, dĩ điều
phục chi.
(鈔)此土眾生,剛強難化,故佛為說剛強之語,以調伏之。
(Sao:
Chúng sanh trong cơi này, ương bướng khó giáo hóa. V́ thế,
đức Phật v́ họ nói lời cứng cỏi để
điều phục).
Chúng ta phải
hiểu ư nghĩa này. Trước hết, phải hiểu
chính ḿnh. V́ sao chúng ta học Phật khó khăn dường
ấy? Cư sĩ Duy Ma đă nói rơ ràng: “Cang cường, nan hóa” (ương bướng,
khó giáo hóa). Nói với quư vị,
quư vị chẳng muốn tiếp nhận, chẳng nghe.
Đó là do quư vị có tập khí phiền năo quá nặng,
nó gây chướng ngại, chướng ngại ngộ
tánh của quư vị. Đức Phật nói với quư vị,
quư vị nghe chẳng hiểu, chẳng đạt
được thọ dụng. V́ thế, đức Phật
chẳng nói Viên Đốn Nhất Thừa cho quư vị.
Trong Viên Đốn Nhất Thừa, chắc chắn chẳng
có câu nào là lời lẽ thô thiển, nhưng quư vị nghe
chẳng hiểu, chẳng thể tin tưởng,
đương nhiên là làm không được!
Do vậy,
đức Phật mới nói lời cứng cỏi ǵ vậy?
Tiếp đó, kinh chép:
(Sao)
Thị địa ngục, thị súc sanh, thị ngạ quỷ,
thị chư nạn xứ, thị ngu nhân hạnh, thị
thân tà hạnh, thị thân tà hạnh báo đẳng.
(鈔)是地獄,是畜生,是餓鬼,是諸難處,是愚人行,是身邪行,是身邪行報等。
(Sao:
Là địa ngục, là súc sanh, là ngạ quỷ, là các chỗ
hoạn nạn, là hạnh của kẻ ngu, là tà hạnh
nơi thân, là quả báo của tà hạnh nơi thân v.v…)
Những
điều này đều thuộc loại lời lẽ cứng
cỏi, nhưng lời đức Phật nói chẳng phải
là vọng ngữ! Kinh Kim Cang đă nói rất hay: “Như Lai thị chân ngữ giả”
(Như Lai là bậc chân ngữ), Chân (真) là không giả. “Thật
ngữ giả”, Thật (實) là chẳng hư dối, chẳng phải là
hư vọng. “Như ngữ giả”,
Như (如)
là hoàn toàn tương ứng với chân tướng sự
thật, quyết định chẳng rời khỏi sự
thật. Chân tướng sự thật của lục
đạo do nghiệp lực của chúng sanh biến hiện.
Chúng sanh hành ba thiện nghiệp, ba thiện nghiệp là ǵ?
Chẳng tham, chẳng sân, chẳng si, nhà Phật nói đó
là ba thiện căn. Quả báo của người ấy
là nhân thiên, phải biết điều này! Nếu quư vị
tạo ba ác nghiệp th́ sao? Ba ác nghiệp là tham, sân, si, quả
báo của quư vị là trong ngạ quỷ, địa ngục,
súc sanh. Ngu si là súc sanh, tâm tham là ngạ quỷ, sân khuể là
địa ngục. Quư vị hăy tự suy tưởng xem,
từ sáng đến tối, trong một tuần lễ, từ Chủ Nhật cho đến thứ
Bảy, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo
tác là ba thiện căn nhiều hay ba ác nghiệp nhiều?
Quư vị tự so sánh, tốt nhất là mỗi ngày đều
phản tỉnh một lượt: Ngày hôm nay, ta khởi
tâm động niệm là thiện nhiều hay ác nhiều?
Trước
kia, thiền sư Vân Cốc dạy Viên Liễu Phàm dùng
phương pháp này, tức là Công Quá Cách, bảo quư vị hằng
ngày hăy tự phản tỉnh, ghi chép mỗi ngày. Mỗi
trang trong sổ Công Quá Cách có nửa trên và nửa dưới.
Điều lành viết ở phần trên, chuyện ác viết
ở dưới. Mỗi ngày đối chiếu là thiện
nhiều hay ác nhiều. Phương pháp này hữu hiệu!
Vào những năm cuối đời Minh, đầu đời
Thanh, Công Quá Cách rất thịnh hành, phàm là kẻ đọc
sách đều dùng cách này để kiểm điểm
chính ḿnh. V́ thế, đời thịnh trị đầu
triều Thanh vốn có nguyên do, chẳng phải là không có
nguyên nhân. Trong hơn một trăm năm, [trải qua các đời vua] Khang Hy, Ung Chánh, và Càn Long; Khang Hy làm hoàng đế sáu mươi
năm, Càn Long cũng làm vua sáu mươi năm, c̣n làm Thái
Thượng Hoàng bốn năm, Ung Chánh làm vua mười
ba năm, cộng lại gần như là một trăm
năm mươi năm. Đời thịnh trị trong một
trăm năm mươi năm do đâu mà có? Do người
đọc sách đều dùng
Công Quá Cách. V́ thế, thời ấy h́nh thành một phong khí;
không chỉ là người đọc sách dùng cách ấy, mà
người xuất gia cũng dùng cách ấy. Cớ sao biết?
Tôi thấy tác phẩm Công Quá Cách của Liên Tŕ đại
sư, Ngài không gọi là Công Quá Cách, mà gọi là Tự Tri Lục.
Hiện thời, trong Liên Tŕ Đại Sư Toàn Tập hăy
c̣n. Điều này cho thấy Phật môn cũng đề
xướng, cũng dùng phương pháp này để hằng
ngày kiểm điểm chính ḿnh, [xét xem] ta từ sáng đến
tối khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo
tác là thiện hay ác.
V́ thế,
đời thịnh trị chẳng phải là đế
vương có phước. Đương nhiên là chúng sanh
có phước, thật sự là do có người vun bồi
phước, tạo phước. Người vun bồi phước,
tạo phước là ai? Nói theo kiểu hiện thời, sẽ
là thành phần trí thức. Thành phần trí thức chắc
chắn ảnh hưởng đến phong khí xă hội. Thời
cổ nói là sĩ, nông, công, thương, kẻ đọc
sách hiểu lư, chính lời nói và việc làm của kẻ
đó là tấm gương cho đại chúng b́nh phàm trong
xă hội, chẳng có ai không tôn trọng họ, học tập,
bắt
chước làm theo họ. Hiện thời,
xă hội trong thế gian này loạn đến cùng cực,
nguyên nhân rối loạn là ǵ? Phần tử trí thức chẳng
chịu trách nhiệm, chẳng biết tu thân, vứt bỏ
luân lư, đạo đức, chẳng tin nhân quả, chỉ
mong cầu lợi, vậy th́ làm sao được nữa!
Thành phần trí thức cũng muốn làm chuyện tham, sân,
si, xă hội nguy to! Kẻ đáng nêu gương trong xă hội
đă đọa lạc, các ngành nghề, nam, nữ, già, trẻ
đều noi gương, đều học theo! Quư vị
hễ đọa lạc bèn làm chuyện tham, sân, si, mạn,
chẳng có ai không làm chuyện tham, sân, si, mạn, xă hội
này c̣n có thể tốt đẹp được ư? Chúng
ta không đọc sách, không tu hành, sẽ chẳng lănh hội
được. Thật sự đọc sách thánh hiền,
y giáo phụng hành, quư vị bèn thấy rơ ràng, minh bạch
quan hệ nhân quả, quư vị biết giúp đỡ xă hội
như thế nào!
V́ thế,
hiện thời, chúng tôi giúp đỡ xă hội hài ḥa, giúp
đỡ thế giới hài ḥa bằng cách nào? Giảng
kinh, thật sự hữu ích. Trên thế giới, khá nhiều
tổ chức ḥa b́nh mời tôi dự họp, tôi chẳng
thể không buông [chuyện giảng] kinh xuống. Đó là
ǵ? Bất đắc dĩ. Thật sự nẩy sanh hiệu
quả là giảng kinh, chư vị chớ nên không biết
điều này. Tôi đến tham dự chẳng có chi khác,
hy vọng nói với họ về hiệu quả giảng
kinh. Hy vọng những người ấy cũng sẽ đều phát tâm giảng kinh. Các tôn giáo khác
nhau giảng kinh của họ, [những người] chẳng phải là các chuyên gia, học giả
về tôn giáo th́ hy vọng họ có thể giảng nhiều
về luân lư, đạo đức, nhân quả, có thể cứu
thế giới, nỗi xung đột sẽ có thể tự
nhiên được hóa giải!
Chúng ta lập
một trung tâm văn hóa tại Thang Tŕ, bồi dưỡng,
huấn luyện một số giáo viên. Thời gian bồi
dưỡng, huấn luyện là hai tháng. Sau hai tháng, mời
họ về nông thôn chia nhau dạy Đệ Tử Quy. Cho
đến tháng Năm hiện thời, mới được
nửa năm, có hóa giải xung đột hay không? Hóa giải.
Khá nhiều đồng học bên ấy cho tôi biết, hiện
thời chẳng có chuyện vợ chồng căi nhau. Xung
đột phát xuất từ chỗ này. Mẹ chồng,
con dâu có thể cư xử ḥa thuận, đấy là chuyện
rất khó. Hàng xóm chẳng căi nhau, chẳng c̣n tranh chấp,
có thể nhường nhịn nhau. Quư vị thấy mỗi
cá nhân nhường nhau một bước, thiên hạ thái
b́nh. Trẻ nhỏ biết hiếu thuận với cha mẹ,
trong cửa tiệm chẳng có ai trộm cắp, trộm cắp
giảm hẳn đi. Trước kia, phải canh chừng rất
nghiêm ngặt, vẫn thường
bị mất đồ, nay th́ đồ đạc chẳng phải canh chừng, cũng chẳng thấy món nào bị mất,
giữa người với người bèn tôn trọng
nhau, người với người gặp mặt nhau
đều rất lễ phép.
Chúng tôi thúc đẩy chuyện giáo dục này mới
bốn tháng, chúng tôi thấy nghe [kết quả như vậy] hết
sức an ủi. Đủ để chứng thực lời
cổ nhân đă nói: Người tốt là do dạy dỗ
mà ra, thánh hiền là do dạy dỗ mà ra, Phật, Bồ Tát
cũng là do dạy dỗ mà ra. Quư vị chẳng dạy sẽ
biến
thành xấu xa. V́ thế,
Tam Tự Kinh nói “tánh
tương cận” [nghĩa là bản tánh của] mọi
người đều chẳng sai khác cho mấy, đều
có Phật Tánh, bản tánh vốn lành. “Tập tương viễn”, “tập” (習) là ǵ? Nhiễm phải thói quen, phong khí xă hội
bất hảo, những thứ ấy toàn là bất hảo,
tiêm nhiễm cái xấu! Hiện thời, giáo dục phổ
biến nhất là ǵ? TV và Internet. H́nh như là nhật báo
Đông Phương có đăng một tin tức, các
đồng học đưa cho tôi xem: Một đứa
nhỏ mười tuổi đi chơi game điện tử,
đại khái là mẹ nó không cho nó chơi, nó bèn dùng dao sát
thương mẹ. Mười tuổi đấy nhé! Tuy
bà mẹ chẳng bị nó giết chết, [chỉ] bị
thương, cảnh sát bắt đứa trẻ ấy
đi. Đấy là ǵ? V́ sao biến thành nông nỗi ấy?
Dạy dỗ mà ra. V́ thế, người tốt lẫn kẻ xấu đều do dạy
dỗ mà ra, quư vị cũng chớ nên trách họ. Cũng
chớ nên trách kẻ xấu, quư vị trách kẻ ấy là
sai mất rồi, trách ǵ? Trách chính ḿnh, chúng ta chẳng khéo
dạy dỗ họ. Thời cổ, vua Thang đă nói rất
hay: “Vạn phương hữu
tội, tội tại trẫm cung” (Muôn phương có tội, tội do trẫm
gánh chịu). Tội ở chính nơi ta, kẻ phạm tội
chẳng có tội. Kẻ ấy phạm tội là v́ ta chẳng
dạy đàng hoàng!
Bởi lẽ,
giáo dục trong hiện thời chẳng do cha mẹ dạy,
chẳng do thầy dạy, mà trẻ nhỏ được
TV dạy, Internet dạy nó, máy chơi game dạy nó, trong
tương lai nó sẽ biến thành hạng người nào,
đương nhiên là quư vị có thể biết! Dạy
nó những nội dung ǵ? Toàn là t́nh dục, bạo lực, giết,
trộm, dâm, dối, vậy th́ trong tương lai, nó sẽ
làm chuyện giết, trộm, dâm, dối là lẽ
đương nhiên! Nó học từ đấy, làm sao quư vị
có thể trách nó cho được? Giáo dục từ ngàn
xưa chẳng phải là như vậy, mà là do trong thời
đại này, chúng ta đă vứt bỏ giáo dục của
cổ thánh tiên hiền, giáo dục của tổ tiên, chẳng
cần nữa, học theo phương Tây. Hiện thời,
TV, Internet, phim ảnh, ca múa, quư vị chú tâm xem kỹ nội
dung, coi nó dạy con người thành tốt hay thành xấu,
quư vị chẳng hiểu rơ hay sao? Giống như thầy thuốc chữa bệnh,
trước hết phải t́m ra bệnh căn, sau đấy
mới cắt thuốc tương ứng với chứng
bệnh. Thuốc uống vào, bệnh trừ, như vậy
th́ mới có thể cứu xă hội, mới có thể cứu
thế giới này!
Hiện thời,
nếu chẳng làm ngay lập tức, ai làm? Không cần cầu
người khác, chính ḿnh làm, làm từ chính ḿnh! Cầu
người khác, chắc chắn quư vị sẽ thất vọng!
Chẳng có ai đáng tin tưởng, hăy làm từ chính ḿnh,
dẫu vất vả cũng phải làm. Bản thân quư vị
nhất định phải hiểu, quư vị chỉ cần
một phương hướng, một mục tiêu, học
theo thánh nhân, học theo hiền nhân, học Phật, Bồ
Tát, tuy rất vất vả, trong tương lai quư vị
là thiện quả nhân thiên. Tôi nói với quư vị một
câu thật thà. Nếu quư vị chẳng niệm Phật cầu
sanh Tây Phương, quư vị chắc chắn sanh lên trời.
Vậy là đời này chúng ta vất vả, nhọc nhằn
chịu đựng mấy chục năm đáng giá lắm
chứ! Sau mấy chục năm, sẽ sanh lên trời, quyết
định chẳng đọa trong ác đạo. Nếu
cũng lăn ḿnh vào chỗ bẩn thỉu, hùa theo đại
chúng trong xă hội, quư vị phải hiểu rơ ràng, trong
tương lai, khi sanh mạng mấy chục năm kết
thúc, quư vị sẽ vào địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh, chẳng có phần trong loài người! Quư vị nói
xem, có đáng sợ lắm không? V́ thế, quư vị phải
thấy sự thật rơ ràng, phải nghĩ thông suốt
đạo lư này, sẽ rất nghiêm túc nỗ lực học
theo cái tốt, học điều thiện.
Bởi lẽ,
lời đức Phật dạy là thật, địa ngục
là do tâm sân khuể nặng nề. Súc sanh là do ngu si nặng
nề, chẳng có năng lực phân biệt thị phi, thiện
ác. Không chỉ là chẳng có năng lực phân biệt, ngay
cả lợi hại đều chẳng phân định rơ
ràng cho lắm, chuyện ǵ có lợi đối với ta,
chuyện ǵ có hại cho ta đều chẳng biết. Quư
vị thấy người trong thế gian hiện thời
tham tài, tham lợi, mong thông minh trí huệ, mong khỏe mạnh,
sống lâu, đức Phật đă dạy rất rơ ràng,
như thế nào th́ mới có thể đạt được?
Thí tài được của cải. Quư vị không chịu
bố thí, quư vị mong t́m đủ mọi cách chiếm
đoạt, phi pháp đoạt lấy, đức Phật
đă dạy rất rơ ràng: [Dùng cách phi pháp mà đạt được]
là do trong mạng quư vị có. Nếu trong mạng chẳng có, sẽ chẳng
đoạt được, vậy th́ cớ ǵ cứ
phải [làm như thế]? Đoạt được th́
trong mạng quư vị sẽ bị tổn giảm! Ví
như trong mạng quư vị có của cải một ngàn vạn,
quư vị dùng thủ đoạn bất chánh để lừa
gạt kẻ khác, dùng đủ mọi thủ đoạn
phi pháp đoạt lấy tài vật, kết quả là ǵ? Một
ngàn vạn trong mạng quư vị bị chiết giảm,
chỉ c̣n lại năm trăm vạn. Quư vị trong đời
này chỉ có năm trăm vạn, đă bị giảm thiểu một nửa! Nếu ư niệm
rất ác, thủ đoạn rất độc địa, chỉ sợ quư vị chỉ đạt
được hai, ba phần [số tài sản] trong mạng, bị
chiết giảm với một mức độ to lớn,
chính ḿnh chẳng biết. Đấy là ǵ? Đấy là ngu
si, thị phi, lợi hại đều chẳng hiểu!
Thông minh,
trí huệ là do pháp bố thí, khỏe mạnh, sống lâu là
do vô úy bố thí. Quư vị có thể tu ba loại nhân ấy,
nhất định sẽ đạt được ba loại
quả báo ấy. Phải thường nói đạo lư này,
phải khiến cho mọi người hiểu rơ. Sau khi đă
hiểu rơ, họ sẽ không làm chuyện [ngu si] ấy! Ta có năng lực hằng ngày tu bố
thí, tài bố thí, của cải sẽ không thiếu thốn.
Ta tu pháp bố thí, thông minh trí huệ mỗi ngày một
tăng trưởng. Ta tu vô úy bố thí, sẽ được
khỏe mạnh, sống lâu, v́ sao không làm? Chúng ta phải
làm cho kẻ khác thấy. Bậc
nhất trong vô úy bố thí là ăn chay, chẳng c̣n tổn
thương, tàn hại hết thảy chúng sanh. Chẳng ăn thịt chúng sanh, sẽ
được quả báo là khỏe mạnh, sống lâu. Từ
khi tôi [phát tâm] học Phật cho đến nay là năm
mươi lăm năm, tôi đă ăn chay năm
mươi lăm năm. Tôi học Phật được
nửa năm bèn ăn chay, tôi hiểu đạo lư này. Đạo
lư này do Chương Gia đại sư dạy tôi, Ngài dạy
ba thứ quả báo của ba loại bố thí, tôi tin
tưởng, y giáo phụng hành, quả nhiên hữu hiệu!
Các đồng học theo sát cạnh tôi trong nhiều
năm như thế, quư vị đều trông
thấy. Quả nhiên là thấy rất rơ ràng, thấy minh bạch,
tôi tin tưởng quư vị nhất định sẽ làm
theo, nhất định sẽ sống hết sức vui
sướng, pháp hỷ sung măn, chẳng có phiền năo, chẳng
có ưu lự, chẳng có vướng mắc. V́ sao? Đă
buông xuống!
V́ thế,
ở đây, đức Phật đă giảng ba thứ là
tham, sân, si. Sân khuể là địa ngục, ngu si là súc sanh,
tham lam là ngạ quỷ. Tiếp đó nói “thị chư nạn xứ”, nghĩa là các tai nạn
như chúng ta đă nói trong hiện thời. Tai nạn trong
hiện thời dường như ngày càng nhiều, ngày
càng nghiêm trọng, thảy đều do ác nghiệp cảm
vời. “Thị ngu nhân hạnh”
(Là hạnh của kẻ ngu), chẳng có trí huệ,
chẳng phải là kẻ thông minh. “Thị thân tà hạnh” (Là
tà hạnh nơi thân), tà hạnh nhất định có quả
báo của tà hạnh. Tà (邪) là bất chánh, quả báo của nó, nay chúng
ta sống trong xă hội là quả báo của tà hạnh
nơi thân. Tiếp đó nói…
(Sao)
Năi vân: Như thị cang cường nan hóa chúng sanh, cố dĩ
nhất thiết khổ thiết chi ngôn, năi khả nhập
luật.
(鈔)乃云:如是剛強難化眾生,故以一切苦切之言,乃可入律。
(Sao:
Bèn nói: Chúng sanh ương ngạnh, khó giáo hóa như vậy,
v́ thế, dùng hết thảy những lời khổ sở,
thiết tha [để khuyên răn], khiến cho họ có thể
vâng theo giới luật).
“Luật” (律) ở đây là giới luật. Nói với
họ như vậy, nếu họ thật sự hiểu
rơ nghiệp nhân khổ báo, thật sự nghe lọt tai, thật
sự thông hiểu, chẳng muốn hứng chịu những
quả báo ấy, họ mới chịu tŕ giới, “Nhập luật” (入律) là tŕ giới, mới bằng ḷng học Đệ
Tử Quy, mới bằng ḷng học Thập Thiện Nghiệp.
Đấy là cư sĩ Duy Ma đă bảo các vị: Thích Ca Mâu Ni Phật hiện đang trụ thế, dùng các phương pháp ấy để giáo hóa chúng
sanh. Tiếp đó nói:
(Sao)
Bỉ chư Bồ Tát, văn thuyết thị dĩ, giai
viết vị tằng hữu dă!
(鈔)彼諸菩薩,聞說是已,皆曰未曾有也。
(Sao:
Các vị Bồ Tát ấy, nghe [cư sĩ Duy Ma] nói như
vậy rồi, đều bảo là “chưa từng có”).
Những
vị Bồ Tát ấy chẳng phải là người trong
lục đạo, các Ngài cũng thường nghe Phật,
Bồ Tát giảng kinh, thuyết pháp, nhưng đức Phật
chưa hề nói kiểu này. V́ sao? Người ta thiện
tâm, làm thiện sự, căn bản là chẳng có ác niệm,
lấy đâu ra ba ác đạo? Không chỉ là chẳng có ba
ác đạo, mà lục đạo luân hồi đều chẳng
có!
(Sao)
Như Thế Tôn ẩn kỳ vô lượng tự tại chi lực, năi dĩ bần sở lạc pháp,
độ thoát chúng sanh.
(鈔)如世尊隱其無量自在之力,乃以貧所樂法,度脫眾生。
(Sao:
Như đức Thế Tôn ẩn giấu vô lượng sức tự tại, dùng pháp được coi là vui
trong chốn nghèo cùng để độ thoát chúng sanh).
Đấy
là đại quyền thị hiện, Ngài có vô lượng
vô biên sức tự tại, thảy đều buông xuống,
hoàn toàn tùy thuận chúng sanh. Thị hiện ba y một bát, giữa
trưa ăn một bữa, đêm nghỉ dưới cội
cây, hằng ngày đi khất thực, khất thực vui sướng khôn sánh. Đấy là chúng ta nói
về niềm vui trong cuộc sống tinh thần, cuộc
sống vật chất hoàn toàn đặt qua một bên, dùng
chuyện này để độ chúng sanh, giáo hóa chúng sanh.
(Sao)
Tư chư Bồ Tát, diệc năng lao khiêm, dĩ vô
lượng đại bi, sanh thị Phật độ.
(鈔)斯諸菩薩,亦能勞謙,以無量大悲,生是佛土。
(Sao:
Các vị Bồ Tát ấy cũng có thể chịu đựng
vất vả, do vô lượng đại bi bèn sanh vào cơi Phật ấy).
Chư Bồ
Tát giúp đỡ Thích Ca Mâu Ni Phật giáo hóa chúng sanh. Những
vị này cũng rất lỗi lạc, cũng đều có thể chẳng nài lao khổ,
khiêm hư, nhún nhường, dùng vô lượng từ bi
tâm, cũng xuất sanh trong chốn này, giúp đỡ Thích Ca Mâu
Ni Phật giáo hóa chúng sanh, [đó là] ân “ẩn thật, thi quyền”. Nay đă hết thời
gian rồi, chúng tôi nói tới chỗ này!
Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm
thứ mười một, Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 43 hết
[1]
Chánh Đại là gọi tắt của Quốc Lập
Chánh Trị Đại Học. Thoạt đầu, trường
được thành lập vào năm 1927 tại Nam Kinh, tỉnh
Giang Tô, trực thuộc Hành Chánh Viện của chánh quyền Trung
Hoa Dân Quốc, với danh xưng
Trung Ương Đảng Vụ Học Hiệu. Sau
đó, đổi tên thành Trung Ương Chánh Trị Học
Hiệu vào năm 1929. Khi Quốc Dân Đảng thất trận,
chạy ra Đài Loan, trường được mở lại
ở Đài
Bắc vào năm 1954 và đổi
tên thành Quốc Lập Chánh Trị Đại Học.
Trường này chuyên dạy các khoa thuộc nhân văn, khoa
học xă hội, báo chí, truyền thông, quản trị
cũng như nhiều ngôn ngữ khác. Chánh Đại rất
nổi tiếng tại khu vực Đông Nam Á.
[2]
Tam Thiền Thiên (Śubhakṛtsna)
là tầng trời thứ ba trong Sắc Giới Thiên bao gồm
các cơi trời Thiểu Tịnh Thiên (Parīttaśubha), Vô Lượng Tịnh
Thiên (Apramāṇaśubha), và Biến Tịnh
Thiên (Subhakiṇṇa).
[3]
Khi Thiện Tài đồng tử đến tham phỏng vị
thiện tri thức thứ bốn mươi hai là cô gái
Thích Ca Cù Ba, đi ngang qua giảng đường Phổ
Hiện Pháp Giới Quang Minh, bỗng có một vị thần
mặc khôi giáp xuất hiện, tay cầm binh khí, hiện
tướng hung ác. Vị thần ấy xưng tên là Vô Ưu Đức,
là thần thủ hộ đạo tràng ấy. Vị thần
ấy cũng cho biết chính ḿnh đă được
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát khai đạo. Vô Ưu
Đức thỉnh Thiện Tài thuyết pháp cho chúng thần
thủ hộ. Thuyết pháp xong, Thiện Tài được
mời vào giảng đường để gặp Thích
Ca Cù Ba.
[4]
Có nhiều cách hiểu “tam luân
thí giáo”, đơn giản nhất là Phật dùng thân, ngữ,
ư để giáo hóa chúng sanh. Một cách giải thích khác là thần
túc luân, thuyết pháp luân, và ức niệm luân. Thần túc
luân tức là thị hiện những cảnh giới vi diệu,
những phương tiện quyền biến để
hướng dẫn chúng sanh về chánh đạo. Thuyết
pháp luân là giảng giải. Ức niệm luân là tâm luôn
nghĩ nhớ, quan sát chúng sanh nào căn cơ chín muồi
để hóa độ.
[5]
A Hoăng c̣n phiên âm là A Hành, A Oanh, A Hồng, hoặc Cáp Hoăng, đều
là phiên âm chữ Akhund (c̣n viết là Akhoond, hoặc Akhwand của
cổ ngữ Ba
Tư). Akhund có nghĩa là thầy,
hoặc học giả. Chữ này thường dùng để
gọi các vị tu sĩ tôn giáo, hoặc người đức
cao trọng vọng, tinh thông kinh điển trong đạo
Hồi, tương đương với chữ Imam trong tiếng Ả Rập hiện
thời. Danh xưng Akhund
chỉ thông dụng tại Iran, Azerbaijan, A Phú Hăn và các sắc
dân thiểu số theo đạo Hồi tại Trung Hoa (như dân Uigyurs chẳng hạn).
Akhund có chức trách hướng dẫn các nghi lễ tôn
giáo, giảng đạo.
[6]
Đây là tác phẩm chú giải kinh Phật
Thuyết Ưu Bà Tắc Ngũ Giới Kinh do tổ Ngẫu
Ích Trí Húc biên soạn. Bộ kinh Phật Thuyết Ưu Bà Tắc
Ngũ Giới Tướng do ngài Cầu Na Bạt Ma dịch
từ Phạn sang Hán vào đời Tống.
[7]
Kinh Duy Ma Cật (Vimalakīrti-nirdeśa-sūtra) có tên gọi đầy đủ
là Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, c̣n gọi là kinh Tịnh
Danh, hoặc Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát Kinh.
Hiện thời, trong Đại Tạng Kinh có ba bản dịch:
1. Phật Thuyết Duy Ma Cật Kinh
do ngài Chi Khiêm dịch vào đời Ngô thời Tam Quốc.
2. Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh
do ngài Cưu Ma La Thập dịch.
3. Thuyết Vô Cấu Xưng Kinh do
ngài Huyền Trang dịch vào đời Đường.
Bản dịch của ngài Cưu Ma
La Thập được lưu hành rộng nhất. Do danh
xưng của vị chủ giảng trong pháp hội ấy là cư
sĩ Duy Ma Cật, nếu dịch nghĩa sang nghĩa tiếng Hán, sẽ là Tịnh Danh, nên kinh này
thường được gọi là kinh Tịnh Danh. Kinh
này có khá nhiều bản chú giải, các vị Tăng Triệu,
Trí Khải (Trí Giả đại sư), Huệ Viễn,
Gia Tạng Cát Tường, Khuy Cơ…
đều viết sớ giải.