Đại
Phương Quảng Phật
Hoa
Nghiêm Kinh
Phẩm
thứ mười một
Tịnh
Hạnh Phẩm
Phần 44
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ
giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa điểm:
Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ
ngày mồng Bảy tháng Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức
Phong, Huệ Trang và Minh Tiến
Tập 1549
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười
một, tiểu đoạn thứ ba trong đoạn lớn
thứ sáu của phần kệ tụng, xem từ bài kệ
thứ mười một. Chúng ta đọc
kinh văn một lượt.
(Kinh) Kiến báo ân nhân, đương nguyện chúng sanh, ư Phật,
Bồ Tát, năng tri ân đức.
(經)見報恩人。當願眾生。於佛菩薩。能知恩德。
(Kinh: Thấy người báo
ân, nguyện cho chúng sanh, hay biết ân đức của Phật,
Bồ Tát).
Thanh Lương đại sư đă nêu ra
mười loại ân đức thị hiện của
chư Phật. Trong phần trước, chúng ta đă học
đến loại thứ tám. Hôm nay, xem từ loại thứ
chín. Thứ chín là…
(Sao) Thị diệt sanh thiện
ân. Cố Pháp Hoa kinh vân: “Nhược Phật cửu trụ
ư thế, bạc phước chi nhân bất chủng thiện
căn, bần cùng, hạ tiện, tham trước ngũ dục, nhân ư
ức tưởng vọng kiến vơng trung. Nhược kiến
Như Lai thường trụ bất diệt, tiện khởi
kiêu tứ, nhi hoài yếm đăi, bất năng sanh nan tao
chi tưởng, cung kính chi tâm. Thị cố Như Lai dĩ
phương tiện thuyết: “Tỳ-kheo
đương tri, chư Phật xuất thế, nan khả
trị ngộ”. Năi chí vân “tư chúng sanh đẳng, văn
như thị ngữ, tất đương sanh ư nan
tao chi tưởng, tâm hoài luyến mộ, khát ngưỡng
ư Phật, tiện chủng thiện căn”.
(鈔)示滅生善恩。故法華經云,若佛久住於世,薄福之人,不種善根,貧窮下賤,貪著五欲,人於憶想妄見網中,若見如來常住不滅,便起憍恣,而懷厭怠,不能生難遭之想,恭敬之心,是故如來以方便說,比丘當知,諸佛出世難可值遇。乃至云斯眾生等,聞如是語必當生於難遭之想,心懷戀慕,渴仰於佛,便種善根。
(Sao: Ân “thị hiện diệt độ [khiến
cho hữu t́nh] sanh khởi điều thiện”. V́ thế,
kinh Pháp Hoa chép: “Nếu Phật trụ lâu dài trong cơi đời,
kẻ bạc phước chẳng gieo thiện căn,
nghèo cùng, kém hèn, tham đắm ngũ dục. Do con người
[bị vướng mắc] trong lưới ức tưởng,
vọng kiến, nếu thấy Như Lai trụ thế
dài lâu, chẳng diệt, sẽ sanh ḷng kiêu căng, luông tuồng,
ôm ḷng chán ngán, lười nhác, chẳng thể sanh ư tưởng
khó gặp gỡ, dấy ḷng cung kính. V́ thế, đức
Như Lai nói phương tiện: ‘Các tỳ-kheo nên biết,
chư Phật xuất thế khó thể gặp gỡ’, cho
đến nói ‘những chúng sanh ấy nghe nói như thế,
ắt sanh ư tưởng khó gặp gỡ, ôm ḷng quyến
luyến, hâm mộ, khát ngưỡng đức Phật,
bèn gieo thiện căn’).
Đấy là một đoạn khai thị của
Thanh Lương đại sư. “Thị diệt sanh thiện” (Thị hiện diệt
độ để sanh khởi thiện căn [cho chúng
sanh]). Đức Phật có năng lực thường trụ
chẳng diệt trong thế gian hay không? Thưa cùng chư
vị, có chứ! Xác thực là có năng lực ấy; v́ sao biết?
Trong các vị đệ tử của đức Phật,
tôn giả Tân Đầu Lô (Piṇḍola
Bhāradvāja) hiện thời vẫn c̣n trụ trong thế gian. Tôn giả Đại Ca Diếp cũng trụ trong thế gian,
chờ đợi ngài Di Lặc thị hiện thành Phật,
sẽ đem y bát của Thích Ca Mâu Ni Phật truyền trao
cho Phật Di Lặc. Sau khi Phật Thích Ca diệt độ,
ngài Di Lặc sẽ giáng sanh thị hiện thành Phật
trong thế gian này. Trong Di Lặc Hạ Sanh Kinh có nói thời
gian ấy là năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm. Nói cách khác, tôn giả Ca Diếp phải chờ
tới khi ấy. Hiện thời, ngài Ca Diếp đang ở
nơi đâu? Theo kinh điển ghi chép, Ngài đang ở
núi Kê Túc thuộc tỉnh Vân Nam của Trung Hoa. V́ thế,
lăo ḥa thượng Hư Vân triều bái núi Kê Túc cũng hết
sức cung kính, ba bước một lạy, lạy đến
tận trên núi. Tuy chẳng gặp tôn giả Ca Diếp, nhưng
nghe âm thanh của khóa tụng, nghe tiếng chuông, trống,
kiền chùy. C̣n tôn giả Tân Đầu Lô là do đức
Thế Tôn chẳng cho phép nhập diệt, bắt Ngài
thường trụ trong thế gian để chúng sanh gieo ruộng
phước. Thông thường, chúng ta làm cỗ chay cúng đại
chúng để tu phước, nhất định là nếu có bậc thật sự có phước đến ứng
cúng, phước báo ấy
sẽ to lớn. Đối với
chuyện này, đức Thế Tôn đă dặn ḍ tôn giả
Tân Đầu Lô; v́ thế, ngài [Tân Đầu Lô] vẫn trụ
trong thế gian. Ngài ứng hóa trong thế gian, nhưng loài
người chúng ta chẳng nhận biết! “Đáng
nên hiện thân ǵ để đắc độ, bèn hiện
thân ấy”, Ngài
chẳng có thân h́nh nhất định.
Từ kinh điển, nh́n bề ngoài, các
Ngài là Đại A La Hán; thật ra, các Ngài toàn là Pháp Thân Bồ
Tát. Nếu luận định khít khao sự thật, chúng
ta biết tôn giả Ca Diếp đă thành Phật từ nhiều
kiếp lâu xa, thị hiện thân Thanh Văn nhằm giúp
Thích Ca Mâu Ni Phật giáo hóa chúng sanh, tôn giả Tân Đầu
Lô cũng không phải là ngoại lệ. Đấy chính là “thùy h́nh lục đạo”
(giáng hiện thân h́nh trong sáu đường) như chúng ta
đă thấy trong phần trước. Thân phận bất
định, Quyền, Thật bất định, h́nh
tướng bất định, thuyết pháp bất định,
thường trụ trong nhân gian. Lẽ nào Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng
có năng lực này? V́ sao Ngài phải thị hiện nhập
Bát Niết Bàn?
Kinh Pháp Hoa đă nói rất hay, cùng một
đạo lư giống như vậy. Đó gọi là “ai nấy có cùng một tâm, tâm có
cùng một lư ấy”. Năm xưa, thầy Lư ở
Đài Trung suốt ba mươi tám năm. Tại Đài
Trung, Ngài kiến lập Đài Trung Liên Xă và Từ Quang Đồ Thư Quán, mở lớp dạy học. Khi tôi đến Đài Trung, thầy đă dạy
mười năm tại đó. Tôi thấy các bạn học
theo chân thầy suốt mười năm, tôi hết sức
hâm mộ. Tôi làm như thế nào để có thể đuổi
kịp đón đầu họ? Tuy thầy đă dạy suốt
mười năm, trên thực tế, thời gian lên lớp
hoàn toàn chẳng dài. Thầy dạy học tại Đài
Trung, giảng kinh, thuyết pháp cho mọi người mỗi
tuần hai lần, mỗi lần hai tiếng đồng hồ,
nhưng cần phải dùng Đài ngữ để phiên dịch (phiên dịch
[từ tiếng
Phổ Thông] sang tiếng Mân Nam). Do đó, trên thực
tế, thời gian [giảng giải] chỉ có một giờ.
Mỗi tuần giảng một lần tại Đài Trung
Liên Xă, mỗi tuần giảng một lần hoặc hai lần
tại Từ Quang Đồ Thư Quán. Ngoài ra c̣n có một
lần dạy về Nho học. V́ thế, chỉ có ba lần,
[tức là] mỗi tuần chỉ giảng ba lần. Dạy
Nho học hai tiếng đồng hồ, không có phiên dịch.
Đó là dạy học dành cho học sinh trong nội bộ.
Do vậy, trên thực tế, mỗi tuần dạy học
bốn tiếng đồng hồ.
Thoạt đầu, tôi đến Đài
Trung, khi ấy, tôi đă nghĩ là có thể đuổi kịp.
Thời gian thầy dạy học đại khái mỗi
năm là bốn mươi lăm tuần; gặp dịp Tết,
thầy nghỉ. V́ thế, một năm đại khái là bốn
mươi lăm tuần. Do đó, thời gian chẳng
dài! Lúc đó, tôi đă nghĩ: “Nếu tôi không phải
đi làm, dùng toàn bộ thời gian để học tập,
tôi tin là trong ṿng hai năm sẽ có thể đuổi kịp
họ học mười năm”, dấy lên ư niệm ấy.
Buông xuống công việc như thế nào? Nghĩ tới Chương
Gia đại sư khuyên tôi xuất gia, tôi xuất gia là do
Chương Gia đại sư khuyên lơn, khích lệ. Tôi
vừa dấy lên ư niệm ấy, sang năm thứ hai,
duyên ấy quả nhiên chín muồi, tôi tŕnh lên thầy Lư. Thầy
Lư hỏi tôi: “V́ sao muốn xuất gia?” Tôi thưa rơ đạo
lư này, tôi nói: “Thầy dạy tại đây đă mười
năm, bản thân con có công việc, mỗi ngày làm việc
tám tiếng đồng hồ, mỗi ngày học tập chỉ
có bốn tiếng đồng hồ! Nếu con chẳng cần phải đi làm, dùng thân phận người xuất
gia để khéo học tập, mỗi ngày tối thiểu
con có thể học mười giờ, hai năm bèn đuổi
kịp”. Thầy nghe nói, cũng gật đầu: “Có lư!”
Chẳng phải là vô lư, như vậy th́ mới
chấp thuận cho tôi xuất gia. V́ lẽ đó, xuất
gia chẳng bao lâu, tôi lại trở về Đài Trung, chẳng
cần phải đi làm, trong hai năm, thật sự đuổi
kịp [các bạn học].
Tốc độ tiến triển trong học
tập của tôi mau lẹ hơn họ. Các bạn học
ở Đài Trung hỏi tôi: “Anh học bằng cách nào vậy?
Thầy dạy anh cách nào?” Tôi đáp: “Thầy chưa có lần
nào đặc biệt dạy tôi. Khi lên lớp, giảng
kinh, mọi người đều cùng học với nhau,
thầy chưa hề dạy riêng một ḿnh tôi, chẳng có lần
nào!” Tôi nói: “Tôi có thể học nhanh hơn quư vị một
chút là do tâm thái học tập của chúng ta khác nhau”. Các
đồng học của chúng tôi rất đông, thường
ở cùng một chỗ, họ nói: “Khác nhau như thế
nào?” Tôi đáp: “Quư vị là người Đài Trung, nhà quư vị
ở Đài Trung. Thầy quanh năm dạy học tại
đây. Năm nay, quư vị học chẳng hiểu c̣n có
năm sau, năm sau học chẳng hiểu th́ c̣n năm
sau nữa, có thời gian ấy”. Tôi nói: “Tôi khác quư vị.
Tôi từ bên ngoài tới, chẳng có cội rễ tại
Đài Trung. V́ thế, tôi đối với thời gian mỗi
ngày ở Đài Trung đều hết sức trân quư, tôi rất
nghiêm túc học tập, v́ sao? Không chừng ngày nào đó, tôi
chẳng có cái duyên này nữa, phải rời khỏi. [Do
đó], tâm thái khác nhau”. Họ nghe nói, cảm thấy
cũng có lư. Bởi lẽ, tôi nghiêm túc hơn, tinh tấn
hơn họ, tương ứng với điều này!
V́ thế, tỷ dụ trong kinh Pháp Hoa
được nêu ở đây rất hay. Nếu đức
Phật thường trụ trong thế gian này, đức
Phật có thể trụ thế mấy trăm năm, mấy
ngàn năm, pháp vận của đức Phật là một
vạn hai ngàn năm, người ta sẽ không chịu học
Phật. Điều thứ nhất là họ nh́n vào đức Phật, [bèn nói]: “Ngài là thần, thọ mạng
của Ngài dài ngần ấy. Chúng tôi không làm được,
bọn tôi là phàm phu, làm sao có thể học theo Ngài cho
được?” Thứ hai là kẻ thật sự bạc
phước trong thế gian, chẳng phải là người
gieo thiện căn, sẽ chẳng có cách nào gieo thiện
căn; đó cũng là hạng người tuy hằng ngày ở
cùng một chỗ với đức Phật mà chẳng
thể sanh khởi thiện căn được. Phần
kinh văn kế đó đă nói rất rơ ràng, v́ sao chẳng
sanh khởi được? “Bần
cùng, hạ tiện”. “Bần cùng” (貧窮, nghèo túng) là chẳng có phước báo. “Hạ tiện” (下賤, kém hèn) là chẳng có địa vị. Trong thế
gian, người như vậy đông lắm, chiếm
đại đa số. “Tham
trước ngũ dục” (Tham đắm ngũ dục): Vẫn
đang đuổi theo tiếng tăm, lợi dưỡng, hưởng
thụ ngũ dục, lục trần. Quư vị bảo kẻ
đó gieo thiện căn, học Phật, [hắn sẽ biện
bác]: “Chẳng gấp ǵ! Đức Phật thường trụ
trong thế gian mà”, tức là như tôi nói về người
ở Đài Trung, năm nay chẳng học nên hồn, hăy
c̣n có năm sau. Năm sau học không đàng hoàng, hăy c̣n
năm sau nữa! Có thời gian như thế! Giải
đăi, chần chừ, như thế sẽ lầm lạc
đại sự cả một đời, kẻ ấy chẳng
chịu tinh tấn. Đối với chuyện nghe pháp, kẻ
ấy khất lại lần sau, theo đuổi ngũ dục,
lục trần, tiếng tăm, lợi dưỡng [trước đă], xếp những thứ ấy vào địa vị hàng đầu. Dùng tâm thái ấy
học Phật, sẽ hết sức khó khăn, chẳng
sanh khởi tâm thành kính đối với Phật pháp, đối
với Tam Bảo.
Phật, Bồ Tát, thiện tri thức thị
hiện diệt độ. Sau khi các Ngài diệt độ,
đă thật sự độ rất nhiều người.
Mọi người nhất định sẽ nghĩ: “Phật chẳng c̣n trụ thế, thầy chẳng
c̣n nữa”. Nhất định sẽ nghĩ: “Ta theo thầy nhiều năm ngần ấy, thầy
dạy ta những ǵ? Trong hội của thầy, ta đă học
những ǵ?”, sẽ nghiêm túc phản tỉnh. Giống
như thuở ấy, tôi theo học với Chương Gia
đại sư, đại sư dạy tôi mỗi tuần
hai giờ vào ngày Chủ Nhật. V́ bản thân tôi phải
đi làm, chỉ thân cận thầy vào ngày Chủ Nhật.
Ngài dành cho tôi thời gian hai tiếng đồng hồ, suốt
ba năm giống như một ngày. Ba năm sau thầy
văng sanh, tôi hết sức nghiêm túc phản tỉnh, dựng
một cái lều ở chỗ hỏa táng thầy. Tôi ở
trong lều ba ngày. Người canh giữ bên thầy có
đến mười mấy người, dẫn đầu
là Cam Châu Hoạt Phật. Chúng tôi đều là bạn bè rất
thân thiết, đều là học tṛ của Chương Gia đại
sư. Họ dựng lều ở nơi hỏa táng khoảng
một tuần. Tôi v́ bận rộn công việc, chỉ xin
nghỉ ba ngày, ở đó ba ngày. Nghiêm túc phản tỉnh
trong ba năm ấy đại sư đă dạy tôi những
ǵ, nghiêm túc phản tỉnh!
V́ lúc thầy c̣n tại thế, tôi đă
sơ sót, dụng tâm chẳng khẩn thiết. Phản tỉnh
lần ấy khiến cho tôi một mực tiếp nhận
sự giáo huấn của lăo nhân gia, tôi đă hoàn toàn sơ
sót sự giáo huấn ấy. V́ tôi học Phật là do Triết
Học dẫn nhập, thầy Phương đă
hướng dẫn tôi, coi kinh Phật như Triết Học,
tức là Triết Học trong kinh Phật. Tiến nhập từ góc
độ ấy, chẳng phải từ tôn giáo. V́ thế,
đối với lư luận và phương pháp trong kinh
điển th́ rất hâm mộ, nhưng đối với
giới luật cũng rất khinh mạn. Tuy ở trước
mặt thầy chẳng dám nói năng, nhưng khẳng
định là thầy đă thấy tôi có quan niệm rất
sai lầm: Tôi cho rằng giới luật có tánh chất giống
như lễ nghi của Trung Hoa vào thời cổ, là những
khuôn phép cho cuộc sống của những kẻ b́nh
phàm!
Lễ giáo nhằm lập khuôn phép cho cuộc
sống, chắc chắn sẽ v́ thời điểm, v́
nơi chốn mà khác biệt. Cổ lễ Trung Hoa trong thời
Tam Đại khác nhau. Tam Đại là [ba triều đại]
Hạ, Thương, Châu, [lễ nghi trong ba triều đại
ấy] chẳng giống nhau! Ví như trước kia vào thời
đại đế vương, sự kính lễ [trang trọng]
nhất sẽ là nhân dân hoặc bầy tôi hễ gặp
hoàng thượng bèn hành lễ gồm ba lần quỳ,
chín lần khấu đầu. Hiện thời, lễ nghi
của chúng ta, [thể hiện sự kính lễ nhất]
chính là cúi ḿnh ba lần, làm sao giống nhau cho được? [Theo cái nh́n
sai lầm của tôi thuở ấy], những giới luật
trong Phật pháp giống như lễ, là những khuôn phép trong cuộc
sống. Ba ngàn năm trước chính là thời gian bất
đồng, chúng ta thuộc ba ngàn năm sau. Xét về
nơi chốn, đó là lễ của Ấn Độ, chính là lễ
của Ấn Độ vào thời cổ, hiện thời
ta học nó để làm ǵ? Chúng ta nay là người thuộc
thế kỷ hai mươi mốt. V́ thế, tôi coi những
thứ ấy như một loại kỷ niệm, biết
trạng huống sinh hoạt của hết thảy nhân dân,
một số chế độ, phong tục, tập quán xă
hội trong thuở ấy, coi chúng như [những dữ
kiện] lịch sử th́ được rồi, hiện
thời làm sao có thể sử dụng nó cho được?
Bởi đó, đối với kinh, luật, luận, tôi rất
coi trọng kinh và luận, đối với giới luật
hoàn toàn chẳng nghĩ phải nghiêm túc học tập những
thứ ấy.
Đại sư rất từ bi, mỗi tuần
tôi đến gặp Ngài, tuyệt đại đa số
là khi tôi rời đi, Ngài đều đưa tôi đến
tận cửa, thường xuyên dặn một câu: “Giới luật rất trọng
yếu”. Nói một câu nhẹ nhàng như vậy, diễn
tả đơn sơ, trong ba năm, tôi nhớ đă nghe [thầy dặn ḍ như vậy] tối thiểu ba chục hoặc
năm chục lần. V́ thế, ấn tượng rất
sâu, nhưng chẳng lưu ư. Đại sư đă văng
sanh, tôi ở trong lều ba ngày, ngẫm lại giáo huấn
của lăo nhân gia, lập tức ấn tượng ấy
sâu đậm nhất, ngay tức khắc trồi lên. Thầy
nói nhiều lượt ngần ấy có ư nghĩa ǵ, chẳng
phải là rất trọng yếu ư? Khi ấy, mới
suy xét chuyện này lần nữa, tiếp nhận. Nếu đại
sư chẳng văng sanh, tôi vĩnh viễn chẳng tiếp
nhận giới luật của nhà Phật, “thị diệt sanh thiện ân” (ân “thị hiện
diệt độ nhằm sanh khởi điều lành”).
Khi thầy ĺa khỏi thế gian, tôi thật
sự coi trọng câu nói ấy, hoàn toàn tiếp nhận, mới
nghiêm túc xem phần Giới Luật trong Tạng Kinh, mới
biết lễ trong pháp thế gian thuộc về thế
gian. V́ thế, xưa nay, trong ngoài nước, [lễ nghi]
khác nhau. Giới luật trong nhà Phật chẳng phải là
pháp thế gian, tôi nghĩ đến điều này, nó là
ǵ? Nó là tiêu chuẩn [để phân định] thánh phàm.
Tiêu chuẩn thánh phàm vượt trỗi không gian, vượt
trỗi thời gian, tôi lănh hội ư nghĩa này. Nếu nay
chúng ta mong siêu phàm nhập thánh, giới luật hết sức
trọng yếu. Nếu chẳng mong vượt thoát lục
đạo, lễ của Nho gia là được rồi. Chúng ta phải tuân thủ lễ xưa nay, trong ngoài nước. Chúng ta hiểu
lễ của cổ nhân, nhưng chắc chắn là giữ
lễ theo hiện đại, chẳng tuân thủ lễ
pháp của cổ nhân. Quan niệm này là một quan niệm
rất mới mẻ, khiến cho tôi tiếp nhận giới
học. Nhưng giới học là căn bản; bởi lẽ,
Giới là Phật thân, Giáo là Phật ngôn, Thiền là Phật
tâm, tuy một mà ba, tuy ba mà một, thiếu một điều
đều chẳng được. Có như vậy,
tôi mới một lần nữa học Tam Quy, Ngũ Giới.
V́ thế, nếu lăo nhân gia chẳng ra đi, tuy tôi ở
trước mặt lăo nhân gia thọ Tam Quy, Ngũ Giới,
[chỉ là] h́nh thức, hữu danh vô thực! Chuyện này
cũng giống như giáng một gậy đánh thức
tôi, hoàn toàn có cùng ư nghĩa với đoạn [chú giải] nói về
ân này.
Do đó, trong kinh đức Phật đă nói,
đấy là nói về những kẻ b́nh phàm, đặc
biệt là trong xă hội hiện thời, chúng ta thấy rất
rơ ràng, họ tham đắm tiếng tăm, lợi dưỡng,
ngũ dục, lục trần. “Ức
tưởng” (憶想) là vọng tưởng; vọng tưởng là Kiến
Tư phiền năo. Kiến phiền năo bao gồm Thân Kiến,
Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Thủ Kiến,
và Tà Kiến. Trong Tư phiền năo, Tư (思) là tư tưởng, [Tư phiền năo] là tham, sân,
si, mạn, nghi. “Ức tưởng
vọng kiến vơng trung” (Trong lưới ức tưởng,
vọng kiến) là nói về mười thứ phiền
năo, kẻ b́nh phàm ai mà chẳng có những thứ ấy! Lục
đạo chúng sanh cho đến Phi Tưởng Phi Phi
Tưởng Xứ Thiên, chẳng đoạn tập khí phiền
năo này! Càng lên cao hơn, công năng định lực càng
sâu hơn. Công năng định lực chế phục phiền
năo, chẳng đoạn, nhưng đôi khi tập khí phiền
năo vẫn dấy lên hiện hành!
V́ thế, sanh vào Phi Tưởng Phi Phi Tưởng
Thiên, thọ mạng là tám vạn đại kiếp, khi thọ
mạng đă tới, vẫn bị đọa lạc.
Đó gọi là “trèo cao ngă nặng”.
Trèo đến chỗ cao nhất, tức Vô Sắc Giới
Thiên, hễ đọa lạc th́ chẳng phải là đọa
lạc trong nhân gian, mà chắc chắn sẽ đọa lạc
vào địa ngục. V́ sao? Trong cảnh giới ấy,
khi người ấy đă mất đi công năng định
lực, sẽ sanh ḷng sân khuể, sanh tâm ngờ vực, hủy
báng thánh hiền: “Thánh hiền đă nói rơ ràng, Phật, Bồ
Tát đă nói rơ ràng, tu hành mà khế nhập cảnh giới
Niết Bàn sẽ chẳng sanh, chẳng diệt, v́ sao nay ta
đă đạt đến cảnh giới Niết Bàn -
người ấy ngỡ Tứ Không Thiên trong cơi trời Tứ Thiền[1] là Niết Bàn, tưởng cảnh giới ấy là
bất sanh, bất diệt - cớ sao ta nay vẫn bị
đọa lạc?” Có thể thấy đấy là giả,
chẳng thật. Hễ có một niệm ấy, sẽ là cái
nhân khiến đọa vào địa ngục A Tỳ. V́ thế,
trong tội Ngũ Nghịch, [quả báo] hủy báng Tam Bảo
và phá ḥa hợp Tăng là trong địa ngục A Tỳ,
đạo lư ở chỗ này, chúng ta chớ nên không biết.
Nhưng do chính người ấy nẩy sanh hiểu lầm,
hoàn toàn chẳng phải là cảnh giới Niết Bàn thật
sự, cảnh giới ấy tương tự Niết
Bàn, chẳng thật! Niết Bàn là vĩnh hằng bất
biến, quyết chẳng bị thoái chuyển. Cảnh giới
Tứ Không Thiên sẽ thoái chuyển, hễ công năng
định lực mất đi, sẽ bị thoái chuyển.
Người ấy dựa vào công năng định lực
để duy tŕ. V́ thế, chẳng phải là lâu dài,
cũng thuộc về vô thường. Tam giới vô thường
mà!
Câu này nói về lục đạo chúng sanh. Nếu
chúng sanh trong lục đạo thấy Như Lai thường
trụ bất diệt, những kẻ học Phật ấy
nhất định sẽ dấy ḷng ngạo mạn, tự
cho ḿnh là đệ tử đức Phật, nhưng lại
chẳng nghiêm túc học tập, mà giải đăi, chán
chường, mệt mỏi sẽ là chuyện chắc chắn! V́ thế,
chẳng thể nghĩ “thân người
khó được, Phật pháp khó nghe”. Họ chẳng
nghĩ đến chuyện này, cho rằng: “Ta được làm thân
người, rất may mắn. Đức Phật thường
trụ, học Phật khi nào cũng đều được!
Hiện thời có thể hưởng thụ niềm vui ngũ
dục, đến khi tuổi tác đă cao sẽ lại học
cũng đâu có trễ!” Hễ đức Phật thường
trụ, sẽ luôn có một hạng
chúng sanh ôm tâm lư cầu may như thế! Tôi
đă gặp chuyện này rất nhiều. Trước kia,
tôi có rất nhiều bạn bè, tuổi c̣n lớn hơn
tôi, c̣n có những người già bằng lớp tuổi
cha tôi. Sau khi tôi đă học Phật, thường gặp
họ, [khuyên nhủ] th́ họ cũng đều gật
gù: “Rất hay! Xuất gia học Phật khá lắm, tốt
lắm!” Họ nói: “Hiện thời tôi c̣n bận đi làm,
chờ đến khi tôi về già sẽ học”. Chẳng
được mấy năm đă qua đời mất rồi!
Trên đường đến suối vàng, chẳng có già
hay trẻ! Họ muốn chờ tới về hưu mới
lại học [Phật], c̣n chưa về hưu đă qua
đời! Dẫu cũng có người thuộc lớp tuổi đó, sau lúc sáu, bảy mươi tuổi về hưu, xác
thực là tinh thần lẫn thể lực đều suy thoái, rất
muốn học, nhưng tinh thần và thể lực chẳng
đủ, cũng đành bỏ cuộc. Tôi gặp rất
nhiều người như thế đó.
V́ thế, phải biết, thiện tri thức
và Phật hoàn toàn chẳng trụ măi trong thế gian. Các vị
tổ sư đại đức xưa kia chưa đến
bảy mươi tuổi đă khuất bóng rất nhiều,
năm, sáu chục tuổi đă ra đi. Chúng ta ngẫm xem,
những vị ấy đều thực hiện ân “thị diệt sanh thiện”,
khiến cho sau khi thầy đă ra đi, những học
tṛ tiếp nhận sự
giáo hóa của các Ngài thật sự
nghĩ tưởng khó gặp gỡ, sẽ nghiêm túc học
tập những điều thầy đă dạy, dũng
mănh tinh tấn, đầu sào trăm
thước tiến thêm một bước nữa. V́ thế,
hễ thầy diệt độ, có rất nhiều học
tṛ chứng quả, thành tựu. [Thầy khuất
bóng] đă kích thích họ rất lớn, khiến cho họ nghiêm túc
phản tỉnh, kiểm điểm, sám hối, sửa lỗi
đổi mới. V́ thế, thầy c̣n sống có ân to lớn
đối với chúng ta, Ngài ra đi, diệt độ, đối
với chúng ta cũng là đại ân. Tôi cảm ơn Chương
Gia đại sư; nếu Ngài không ra đi, tôi sẽ chẳng
có thành tựu, tối đa là coi Phật pháp như Triết
Học, coi như một môn học thuật thế
gian để nghiên cứu, sẽ chẳng thể lănh hội
nghĩa thú chân thật
trong giáo huấn của đức
Phật!
Sau khi đại sư đă khuất, một
năm sau tôi quen biết thầy Lư. Dường như thầy
Lư cùng độ tuổi với Chương Gia đại
sư. Khi tôi quen biết Chương Gia đại sư,
lăo nhân gia đă sáu mươi lăm tuổi, Ngài khuất
bóng lúc sáu mươi tám tuổi. Một năm sau, tôi quen biết
thầy Lư, thầy Lư năm ấy
đă bảy mươi tuổi. V́ thế, dường
như tuổi tác của hai vị tối đa là chênh nhau
một, hai năm. Tôi nghĩ tuổi đă cao ngần
ấy, chẳng biết thầy sẽ ra đi vào lúc nào! Cổ
nhân nói, từ xưa tới nay đều nói là “thất
thập cổ lai hy”, [tức
là] “nhân sanh thất thập cổ lai hy” (đời người bảy chục tuổi
xưa nay hiếm). V́ thế, kẻ đă ngoài bảy
mươi thường bị mọi người nói là “năm tháng c̣n sót lại như ngọn
đuốc trước gió”, có
thể ra đi bất cứ lúc nào!
Trong cổ lễ Trung Hoa, thầy Lư từng
bảo chúng tôi: “Thất thập
bất lưu túc, bát thập bất lưu phạn”,
[nghĩa là] đối với người đă hơn bảy
mươi tuổi, đừng nên giữ họ ở lại
nhà [của chính ḿnh], dẫu một đêm cũng chẳng nên!
[Bởi lẽ], vạn nhất họ ở lại một
đêm, qua đời trong đêm ấy, vậy là chẳng
phải bản thân quư vị chuốc phải phiền phức
ư? Chẳng mời người bảy mươi tuổi
ngủ lại, nhưng có thể mời người ấy
ăn cơm. Người đă tám mươi tuổi th́
ngay cả mời ăn cơm cũng chớ nên. Vạn nhất
họ ăn một bữa cơm
bị mắc nghẹn, qua đời, quư
vị vẫn bị nói là hại người ấy, hạ
độc trong thức ăn! V́ thế, cổ lễ Trung
Hoa nói “bát thập bất
lưu phạn” (chẳng mời người đă tám
mươi ở lại ăn cơm). Điều ấy chẳng
coi là thất lễ, “bảy
mươi chẳng mời ngủ lại”. Thầy Lư
thường nói lời ấy. Tôi hiểu ư thầy v́ sao
nói lời ấy, nhằm nhắc nhở lũ học tṛ
chúng tôi: Thầy hiện diện trên cơi đời, tuổi
tác đă cao như vậy, chẳng biết ra đi khi nào, phải
ham học, phải nghiêm túc, phải nỗ lực, chớ nên lỡ làng
thời gian quá tốt đẹp. [Nếu bỏ lỡ],
sai lầm mất rồi!
Kể ra thầy Lư cũng từ bi, đúng
thế, đến chín mươi bảy tuổi thầy mới
mất, dạy học tại Đài Trung đúng ba mươi
tám năm. Có thể nói, tại Đài Loan, thầy là người
thành tựu nhất; tuy phước báo chẳng lớn,
nhưng thầy thật sự dạy! Thầy dạy học
chẳng dầy dặc, v́ chính thầy có công việc. Nếu
thầy thôi việc, chuyên tâm dạy học, giảng kinh hằng
ngày, sẽ tuyệt diệu lắm! Mỗi tuần thầy
giảng kinh hai lần, thật sự là thời gian quá ít.
Nếu học tṛ đối với thầy, đối với
những điều chính ḿnh đă học mà chẳng
nghĩ là khó gặp, chẳng có tâm thành kính, sẽ chẳng
có thành tựu. Chúng ta nói là nhân tài “tục Phật huệ mạng, vị văng thánh kế
tuyệt học” (nối tiếp huệ
mạng của đức Phật, kế thừa cái học
tuyệt diệu của các vị thánh hiền đời
trước), sẽ chẳng thể xuất hiện
được.
Do vậy, thuở tại thế, đức
Phật thường nói, chúng ta thấy điều này trong
khá nhiều kinh luận, Thích Ca Mâu Ni Phật thường bảo
“thân người khó được,
Phật pháp khó nghe”, thời thời khắc khắc nhắc
nhở chúng ta. Nhất là trong khi ấy, thuở đức
Thế Tôn tại thế, công khóa sáng tối là niệm kinh
Vô Thường. Trong Đại Tạng Kinh có bản kinh
này, h́nh như tôi cũng thấy có bản lưu hành riêng lẻ,
nhưng không được lưu thông phổ biến. Kinh
văn không dài, nhắc nhở chính ḿnh “vạn pháp vô thường”. Quư vị thật sự
có thể thấu hiểu vô thường th́ mới có thể
nghiêm túc, mới có thể nỗ lực, mới biết điều
ǵ là quư báu nhất trên thế gian này. Thời gian quư báu nhất,
những thứ khác toàn là giả. Các đồng học học
Phật ai nấy đều có thể nói: “Vạn ban tương bất khứ, duy hữu nghiệp
tùy thân” (Muôn thứ chẳng mang được, chỉ có nghiệp
theo thân). Đức Phật dạy các đệ tử: Hai
loại nghiệp thiện và ác đều phải buông xuống,
chuyên tu Tịnh nghiệp. V́ sao? Do thiện nghiệp sẽ
ở trong ba thiện đạo, quả báo của ác nghiệp
là trong ba ác đạo, chẳng thoát khỏi lục đạo
luân hồi. Được làm thân người chẳng dễ
dàng! Được làm thân người lại c̣n gặp gỡ
Phật pháp, càng khó khăn hơn. Gặp gỡ Phật
pháp mà nếu chẳng thể vượt thoát lục đạo
ngay trong một đời này, đúng là đáng tiếc! V́ thế,
từ kinh nghiệm trong một đời này, tôi đă thấu
hiểu sâu xa chuyện này!
V́ sao ở trong thế giới hiện thời
mà chúng tôi chẳng bị nhuốm bẩn, nguyên nhân là ǵ? Hằng
ngày đọc kinh, hằng ngày nghe giáo huấn của Phật,
Bồ Tát, hằng ngày ở cùng một chỗ với các vị
tổ sư đại đức. Các bản chú giải
đều là [do các vị] tổ sư đại đức [biên soạn], chẳng có ngày nào ĺa khỏi, cho nên mới có thể
giữ được [chính ḿnh chẳng bị ô nhiễm]!
Ba ngày không đọc kinh, thử hỏi quư vị có thể
chống nổi ngũ dục lục trần dụ dỗ,
mê hoặc hay không? Chẳng chống đỡ nổi, khẳng
định là quư vị đọa lạc, tiến đến
tam đồ. Do vậy, tôi có thể giữ vững,
thưa tŕnh thật ḷng cùng quư vị là do hằng ngày giảng
kinh. Giảng kinh mỗi ngày th́ quư vị phải đọc
kinh mỗi ngày. Chẳng đọc, giảng cái ǵ đây? Năm
mươi lăm năm giống như một ngày. V́ thế
mới thấy thấu suốt thế gian; sau đấy,
quư vị mới có thể thật sự buông xuống, chẳng
c̣n ghim giữ pháp thế gian, cũng như chẳng ghim giữ
lục đạo lẫn mười pháp giới trong tâm.
Căn tánh của chính ḿnh chẳng phải là hạng người thượng thượng căn. Chuyện này phải
nói thật ḷng, phải thật thà, căn tánh của chúng
tôi là căn tánh trung hạ. Nếu ngoài niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ ra, muốn dùng các pháp môn khác để
đoạn Hoặc chứng Chân, tôi chẳng làm được!
Đi theo con đường ấy chẳng suông sẻ,
chính ḿnh hiểu rơ điều này hơn bất cứ điều ǵ khác! Tôi tiếp nhận giáo huấn của thầy Lư, suốt
đời chuyên tu Tịnh nghiệp. Lăo nhân gia làm mẫu cho
tôi thấy, chuyên tu Tịnh nghiệp, cầu sanh Tịnh
Độ, thân cận Di Đà, thành tựu đạo nghiệp.
Thành tựu của chúng ta là mong tới Tây Phương Cực
Lạc thế giới, đấy là mục tiêu trong một
đời này, hồi hướng Tây Phương.
Chúng ta sống trong hoàn cảnh hiện tiền,
hoàn cảnh này là cơi đời thiên hạ đại loạn. Chẳng
phải là đại trị mà là đại loạn, chưa
hề có tiền lệ trong lịch sử, chẳng t́m thấy
trong lịch sử trong nước lẫn ngoài nước.
Tuy quá khứ có đời loạn, nhưng so sánh với hiện
thời, [thuở trước] vẫn là xă hội tốt đẹp rất khó có! Hiện
thời đă loạn, loạn đến mức cùng cực;
v́ thế, tôn giáo ngoại quốc nói đến “tận thế”. Chúng ta gặp
đúng cảnh này, chẳng thể không dành ra một
phần thời gian để giúp đỡ xă hội, giúp ǵ
vậy? Hóa giải xung đột, khôi phục an định,
ḥa b́nh. Vậy th́ phải làm như thế nào? Ngoài việc
mở lớp dạy học giống như chư Phật,
Bồ Tát, chẳng có biện
pháp thứ hai nào! Trong mấy ngàn
năm lịch sử, chúng ta quan sát kỹ lưỡng xưa
nay trong ngoài nước, [sẽ thấy] họp hành chẳng
thể giải quyết. Nếu có thể giải quyết,
cổ nhân nhất định dùng phương pháp họp
hành! Cổ nhân có thể thâu được hiệu quả
từ dạy học, thảy đều là do mở lớp
dạy học! Chúng ta ắt cần phải thí nghiệm
phương pháp của Phật, Bồ Tát, cổ thánh tiên
hiền. Thí nghiệm quả nhiên hữu hiệu; v́ thế,
hiện thời, tín tâm trọn đủ mười phần.
Đấy là lư do v́ sao phải rút ra một chút thời gian
để làm những công tác ấy, đạo lư ở chỗ
này! Nếu là đời thái b́nh thịnh trị, công việc
suốt đời của chúng tôi sẽ là giảng kinh, dạy
học. Ngoài chuyện ấy ra, thứ ǵ cũng sẽ chẳng
tham dự. Đấy là chánh nghiệp của chúng tôi. A! Nay
đă hết thời gian rồi, chúng tôi nói đoạn này
tới đây.
***
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem tiếp đoạn
cuối cùng, tức “bi niệm
vô tận ân” (悲念無盡恩, ân nghĩ xót thương vô tận). Đại
sư dạy:
(Sao) Vị Thế Tôn đồng nhân trung thọ, ưng
thọ bách niên, lưu nhị thập niên phước,
dĩ tư Mạt Pháp đệ tử. Đại Tập kinh
vân: “Bi mẫn chúng sanh cố, xả thọ đệ tam phần,
linh ngă pháp hải măn, tẩy dục chư thiên nhân. Giả
sử hủy cấm giới, tất trụ bất thoái
địa. Nhược hữu qua đả bỉ, tức
vi đả ngă thân. Nhược hữu mạ nhục giả,
tắc vi hủy nhục ngă”. Hựu vân: “Lưu bạch hào
chi phước dĩ phú đệ tử”. Ngôn “lưu giáo” giả,
tức Tam Tạng, Bát Tạng, quảng ích chúng sanh, y chi tu
hành, giai đắc thành Phật.
(鈔)謂世尊同人中壽,應壽百年,留二十年福,以庇末法弟子。大集經云,悲愍眾生故,捨壽第三分,令我法海滿,洗浴諸天人,假使毀禁戒,悉住不退地。若有撾打彼,即為打我身,若有罵辱者,則為毀辱我。又云留白毫之福以覆弟子。言留教者,即三藏八藏,廣益眾生,依之修行,皆得成佛。
(Sao: Ư nói, trong tuổi
thọ giống như loài người, lẽ ra đức
Thế Tôn thọ một trăm năm, nhưng Ngài lưu
lại phước trong hai mươi năm để che
chở hàng đệ tử trong thời Mạt Pháp. Kinh
Đại Tập nói: “V́ xót thương chúng sanh, nên bỏ
phần thọ mạng thứ ba ḥng khiến cho biển
pháp của ta được tràn đầy, gột rửa
các hàng trời người, khiến cho kẻ dẫu hủy
phạm giới cấm ắt trụ nơi địa vị
Bất Thoái. Nếu có kẻ nào đánh đập họ
chính là đánh đập ta. Nếu có kẻ nhục mạ
họ, chính là hủy nhục ta”. Lại nói: “Lưu lại
phước nơi tướng bạch hào để che chở
các đệ tử”. Nói đến chuyện “lưu lại
giáo pháp” th́ Tam Tạng hoặc Bát Tạng lợi ích chúng
sanh rộng răi, nương theo đó tu hành, sẽ đều
được thành Phật).
Đấy chính là bi niệm vô tận! Ư
nghĩa [của đoạn này] nhằm nói thuở Thích Ca
Mâu Ni Phật tại thế, thọ mạng của con
người, chúng ta nói tuổi
thọ b́nh quân là một trăm
năm. Chư vị phải biết, Phật pháp nói đến
thọ mạng của con người th́ có Tăng Kiếp
và Giảm Kiếp hai loại khác nhau! Thích Ca Mâu Ni Phật
xuất hiện trong thế gian này nhằm Giảm Kiếp.
Giảm Kiếp là cứ một trăm năm sẽ giảm
một tuổi. Thọ mạng loài người dài nhất
là tám vạn bốn ngàn năm. Khi đạt đến tám
vạn bốn ngàn tuổi, cứ mỗi trăm năm bèn
giảm một tuổi, một mực giảm cho đến
khi loài người thọ mười năm. Mười
năm là ngắn nhất, con người thọ mười
tuổi. Từ mười tuổi trở đi, cứ mỗi
trăm năm tăng thêm một tuổi, tăng cho đến
tám vạn bốn ngàn tuổi. [Một chu kỳ] một
tăng một giảm như vậy được gọi
là tiểu kiếp. Hai mươi tiểu kiếp là một
trung kiếp, bốn trung kiếp là một đại kiếp.
Đấy là cách tính thời gian trong Phật pháp. V́ thế,
tiểu kiếp là [chu kỳ] một tăng một giảm.
Nay chúng ta đang thuộc Giảm Kiếp. Thời Thích Ca
Mâu Ni Phật, thọ mạng của loài người là một
trăm tuổi, cứ mỗi trăm năm giảm một
tuổi. Kể từ sau khi đức Phật diệt
độ cho đến hiện thời là ba ngàn năm,
theo ghi chép của người Hoa là ba ngàn năm. V́ thế,
tuổi thọ b́nh quân của người hiện thời
là bảy mươi tuổi. Đương nhiên là nói theo đại đa số,
tức cộng nghiệp. Trong cộng nghiệp có biệt
nghiệp, thọ mạng do biệt nghiệp sẽ khác
nhau. V́ thế, có người sống lâu hơn bảy
mươi tuổi, có người chẳng sống đến
bảy mươi tuổi. Thuở đức Phật tại
thế, có người sống hơn trăm tuổi,
cũng có người chẳng thọ tới một
trăm tuổi. Một trăm tuổi là rất b́nh thường,
nhưng đức Phật tám mươi tuổi bèn viên tịch,
Ngài hăy c̣n [thọ mạng] hai mươi năm. Nói thông
thường là hăy c̣n hai mươi năm, [Ngài ra đi
trước] hai mươi năm nhằm lưu lại
phước trong hai mươi năm ấy. Thuở Thích
Ca Mâu Ni Phật tại thế, Ngài đáng lẽ hưởng
thọ mạng một trăm tuổi, nhưng Ngài đă ra
đi trước, tám mươi tuổi liền khuất
bóng.
“Đồng nhân
trung thọ” (Có thọ mạng giống như nhân loại): Trong thời
đại này, thọ mạng của nhân loại là bao
nhiêu, Phật, Bồ Tát thị hiện thọ mạng đều giống
như nhân loại. “Lưu nhị
thập niên” là tám mươi tuổi Ngài liền khuất
núi, để lại phước báo của hai mươi
năm, tức phước báo của đức Phật.
Ban phước báo ấy cho ai? Ban cho “mạt thế chúng sanh”, ban cho đệ tử. “Mạt thế” là nói đến
thời Mạt Pháp. Đệ tử thời Mạt Pháp nghiêm
túc tu hành, sẽ chẳng sợ chết đói, chẳng sợ
chết rét, tuyệt đối chẳng chết v́ đói mà
cũng chẳng chết v́ lạnh. V́ sao? Phước thừa
trong hai mươi năm của đức Phật trọn
đủ cho đến lúc Phật pháp diệt mất, nhu
cầu về tứ sự cúng dường của đệ
tử Phật môn đều có thể đầy đủ,
chẳng thiếu khuyết. “Tứ
sự cúng dường” là thức ăn, quần áo,
đồ trải nằm, thuốc men; đó là bốn thứ
không thể thiếu khuyết trong đời sống của
chúng ta, đức Phật đều cung cấp. V́ thế,
chỉ cần chuyên tâm tu đạo, chẳng cần lo lắng
về vấn đề cuộc sống vật chất, Phật,
Bồ Tát sẽ lo liệu. Nếu bản thân chúng ta phan
duyên, Phật, Bồ Tát sẽ chẳng chiếu cố. Do vậy,
quư vị sẽ bị lưu chuyển theo nghiệp.
Phải tin tưởng lời này. V́ sao? Quư
vị mới dám buông xuống. Rất nhiều người
biết, đức Phật thường thường dạy
chúng ta phải buông xuống, phải bố thí, phải xả,
nhưng [chúng ta] chẳng dám, cứ sợ xả rồi
ngày mai sẽ chẳng có cơm ăn, ngày mai phải bị
rét buốt, chẳng dám làm! Đấy là do nguyên nhân ǵ? Vẫn
chẳng tin Phật. Đối với giáo huấn của
đức Phật, vẫn ngờ vực y như
cũ, chẳng thể triệt để phụng hành. Lỗi lầm ấy chẳng ở nơi Phật pháp, mà ở
bản thân chúng ta. V́ thế, nghi là Căn Bản Phiền
Năo, tham, sân, si, mạn, nghi. Hoài nghi giáo huấn của đức
Phật, chẳng thể hoàn toàn tiếp nhận. Sai mất
rồi! Nhất định phải tin tưởng. Tôi có được những nguyên lư và nguyên tắc cơ bản về học
tập này, toàn là đạt được từ chỗ Chương
Gia đại sư. Trong
ba năm ấy, Ngài đă dạy những điều cơ
sở, là những cương yếu hết sức quan trọng,
suốt đời này, cả năm
mươi lăm năm, tôi được thọ dụng.
Đúng là chỉ cần y giáo phụng hành, khẳng định
là chướng duyên và tai nạn vẫn có, nhưng đều
rất thuận lợi vượt qua, do oai thần của
Tam Bảo gia tŕ!
Tiếp đó, [ngài Thanh Lương] trích dẫn
kinh Đại Tập, “bi mẫn
chúng sanh cố, xả thọ đệ tam phần” (do
v́ thương xót chúng sanh, nên xả phần thứ ba của
tuổi thọ). Đấy là đức Phật đă xả
hai mươi năm cuối [trong tuổi thọ]. “Linh ngă pháp hải măn, tẩy dục
chư thiên nhân” (Khiến cho biển pháp của ta viên
măn, gột rửa các hàng trời, người). Câu trước
nhằm nói để chánh pháp tồn tại lâu dài, nhất
định phải dựa vào sức gia tŕ từ oai thần
của đức Thế Tôn, tức là hai mươi
năm phước báo của Ngài. V́ thế, Phật pháp hiện
nay vẫn đang suy vi, suy đến nông nỗi này, trong
tương lai, có thể phục hưng hay không? Có thể
chứ! Chương Gia đại sư bảo tôi điều
này. Tôi đă từng hỏi thầy, thầy dạy: “Thời
kỳ Mạt Pháp hăy c̣n chín ngàn năm, trong chín ngàn năm ấy,
Phật pháp có lúc hưng, lúc suy. Hưng hay suy không do pháp,
pháp chẳng có hưng hay suy. Hưng hay suy là do con người,
mà cũng là do phước báo của chúng sanh”. Chúng sanh
đều có thể tin tưởng thiện pháp, Phật
pháp sẽ hưng thịnh, chư Phật, Bồ Tát ứng
thế. Mọi người chẳng tin tưởng, không
chịu học, Phật pháp sẽ suy vi. Dẫu trong thế
hệ chúng ta, [Phật pháp] suy vi, thế hệ tiếp theo
có thể là sẽ
có người hưng khởi.
V́ thế, chín ngàn năm Mạt Pháp có hưng và suy.
Phật pháp quyết định chẳng thể diệt, v́ sao? Pháp vận của Ngài hăy c̣n chín ngàn
năm. Sau chín ngàn năm, Phật pháp sẽ diệt. V́ thế, chúng ta chẳng
cần phải bận ḷng chuyện này, chính ḿnh phải thật
sự nỗ lực, thật sự phát phẫn, phải
gánh vác sứ mạng giữ ǵn chánh pháp trụ thế lâu
dài. Nay tôi hiểu rơ, giác ngộ, chọn lựa nghề
nghiệp này, “nghề nghiệp” này là thần thánh, không ǵ
có thể sánh bằng. V́ sao? Nối tiếp huệ mạng
của Phật, lợi ích chúng sanh, chẳng phải v́ chính
ḿnh. Nối tiếp huệ mạng của Phật, lợi
ích chúng sanh đều phải thực hiện từ chính
ḿnh, chẳng thể đ̣i hỏi ai khác! Ta làm, làm có
hiệu quả, chắc chắn sẽ cảm động
được một số người, nhất định
là sẽ có người chí đồng đạo hợp. Người
chí đồng đạo hợp như vậy ngày càng nhiều,
Phật pháp sẽ hưng vượng. V́ thế, chẳng
làm từ chính ḿnh, chắc chắn là chẳng thể! “Linh ngă pháp hải măn” (Khiến
cho biển pháp của ta tràn đầy) chính là chánh pháp trụ
thế lâu dài, “tẩy dục
chư thiên nhân” (gột rửa hàng trời người)
là hoằng pháp lợi sanh.
Mấy câu tiếp đó nói rất hay. “Giả sử hủy cấm giới,
tất trụ bất thoái địa” (Giả sử
có kẻ hủy phạm giới cấm, [đều khiến
cho] người ấy trụ nơi địa vị chẳng
thoái chuyển). Đă thọ giới, thọ giới rồi
làm không được; v́ sao nói người ấy vẫn
trụ nơi địa vị Bất Thoái? Khi thọ giới,
đă gieo thiện căn trong A Lại Da Thức; giáo pháp Đại
Thừa thường diễn tả điều này là “nhất lịch nhĩ căn,
vĩnh vi đạo chủng” (một phen thoảng qua
tai, vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo),
chắc chắn chẳng lui sụt! Mắt chúng ta xem kinh,
nh́n tượng Phật, hễ lướt qua mắt, cũng vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo!
Nhưng nếu quư vị có thể tŕ giới cấm, sẽ
thành tựu trong đời này. Nếu quư vị chẳng
tŕ giới cấm, nếu
hủy phạm giới luật, ắt
trụ nơi địa vị Bất Thoái, tức là nói ai
nấy trong tương lai chắc chắn có duyên phận gặp
gỡ Phật pháp, thiện căn sẽ dấy lên hiện
hành. Đó gọi là Bất Thoái. Chẳng phải là nói trong
một đời này, mà là nói về đời kế, hoặc
đời sau nữa! Chủng tử thiện căn của
quư vị (được gọi là chủng tử Kim Cang)
vĩnh viễn bất hoại. Dẫu cho vô lượng kiếp
về sau nó mới dấy lên hiện hành, cũng sẽ
thành Phật, có ư nghĩa này. Cũng chớ nên hiểu lầm
ư nghĩa của phần kinh văn ở chỗ này. Hiểu
lầm ư nghĩa th́ trật mất rồi! Chẳng có
nghĩa là hiện thời giới ǵ ta cũng chẳng cần
giữ, chúng ta sẽ bất thoái trong hiện tại, chẳng
phải vậy, mà là chủng tử Kim Cang trong tương
lai chẳng bị thoái thất, nói theo ư này! Hiện thời,
quư vị mê hoặc, điên đảo, tạo tác tội
nghiệp, quư vị vẫn phải chịu quả báo luân hồi. Chịu
hết quả báo, đă hứng chịu xong, gặp duyên,
thiện căn lại dấy lên tác dụng, lại dấy
lên hiện hành, đó gọi là Bất Thoái. Ngàn muôn phần
đừng hiểu lầm ư nghĩa này.
Trong hai câu kế đó, “nhược hữu qua đả bỉ” (nếu
có kẻ đánh đập họ), đấy là có kẻ lấn
hiếp đệ tử đức Phật, đức Phật
nói “tức vi đả ngă thân”
(tức là đánh đập thân ta). Lời này là thật. Cho
nên chúng ta phải hiểu đạo lư này. Lại đọc
tiếp hai câu kế đó, “nhược
hữu mạ nhục giả”. Đấy là chửi rủa đệ tử đức
Phật, kể cả hàng tại gia. Bất luận xuất gia hay tại
gia, nếu quư vị chửi bới họ, “tắc
vi hủy nhục ngă” (tức là đă hủy nhục ta). “Ngă” là đức Thế Tôn tự
xưng. Lời này là thật. Do vậy, người xuất
gia phạm lầm lỗi, chúng ta đối đăi người
ấy như thế nào? Phổ Hiền Bồ Tát đă nói
hay lắm, lễ kính người ấy, chẳng nói đến
lỗi lầm của người ấy, v́ sao? Người
ấy là đệ tử đức Phật, ta cung kính người
ấy là gieo phước. Nếu ta phê b́nh người ấy,
tức là đă phê b́nh Tam Bảo, hủy nhục Tam Bảo.
V́ sao tội hủy nhục Tam Bảo nặng nề ngần
ấy? Khiến cho kẻ khác trông thấy, nghe nói, bèn chẳng
sanh tín tâm đối với Phật pháp, đạo lư ở
chỗ này! V́ thế, chúng ta phải suy xét tầm ảnh hưởng,
khiến cho hết thảy chúng sanh có thiện niệm tốt
lành đối với Tam Bảo, đừng nên khiến
cho họ v́ ta mà sanh ác niệm, sanh ra ảnh hưởng
không tốt, vậy là ta sai lầm mất rồi!
V́ thế, bất luận là xuất gia tại
gia, hàng tại gia đă thọ Tam Quy, Ngũ Giới, bất
kể họ tŕ giới hay không, họ tạo tác chuyện
ác chẳng liên quan ǵ đến ta. V́ sao? Mỗi người
có nhân quả riêng, ai chịu báo nấy, ta cần ǵ phải
phê b́nh họ? Ta cần ǵ phải chỉ trích họ? Ta phê b́nh, chỉ
trích, thật ra chính ḿnh đă mất đi ḷng đôn hậu,
nhưng có một loại t́nh h́nh ta có thể phê b́nh, chỉ
trích người ấy. Đó là ǵ? Chẳng có kẻ thứ
ba hiện diện, ta khuyên dạy kẻ ấy. Đóng chặt
cửa pḥng th́ có thể! Chỉ cần có kẻ thứ ba
hiện diện th́ chớ nên! Đấy là giáo huấn của
Như Lai. Hiện thời, những kẻ hiểu đạo
lư này quá ít, người thật sự có thể làm
được càng ít hơn nữa! Họ không hiểu th́
làm sao có thể làm được?
V́ thế, ngàn muôn phần đừng cho rằng chúng ta có thể tùy tiện phê b́nh.
Trong xă hội hiện thời, đại chúng mất ḷng tin đối với Phật
pháp. V́ sao mất ḷng tin? Họ nghe quá nhiều, mà cũng thấy
quá nhiều, làm sao có thể tin tưởng cho nổi? Chúng
ta tùy tiện phê b́nh, tùy tiện nhục mạ, có trách nhiệm
hay không? Có chứ! Chướng ngại khá nhiều chúng sanh
nhập Phật môn. Cổ nhân nói rất hữu lư, “nhược yếu Phật pháp
hưng, trừ phi Tăng tán Tăng” (nếu muốn Phật
pháp hưng thịnh, ngoại trừ Tăng ca ngợi
Tăng). Chúng ta tán thán lẫn nhau, tạo thiện niệm
tốt nhất, thiện duyên tốt nhất cho đại
chúng trong xă hội, mà cũng là khiến cho lương tâm của
những đệ tử Phật trót phá trai, phạm giới
được phát hiện, họ có thể quay đầu,
quay đầu là bờ! Nếu họ làm chuyện sái quấy,
quư vị thường chửi bới họ, họ bị
chửi riết đâm lỳ, cũng coi như không có ǵ hết,
vẫn y như cũ làm theo ư ḿnh, căn bản là chẳng
quan tâm tới quư vị! Đâm ra là ǵ? Đâm ra là khiến
cho họ chẳng biết phản tỉnh, chẳng biết
quay đầu. Nếu đối với ác hạnh, ác nghiệp
của kẻ ấy, chúng ta chẳng nói một câu nào, hễ
kẻ ấy có một tí thiện hạnh, chúng ta liền
tán thán kẻ ấy. Lâu ngày chầy tháng, lương tâm sẽ
phát hiện; đấy chính là giáo dục. Đấy thật
sự là hộ pháp, hộ tŕ. V́ thế, ư nghĩa này hết
sức hay, hết sức sâu, chúng ta phải chú tâm thấu
hiểu. Nếu có thể thật sự y giáo phụng hành,
quư vị sẽ thật sự là đệ tử đức
Phật.
Trong Đàn Kinh, Lục Tổ Huệ Năng
đại sư đă nói rất hay: “Nếu người thật tu đạo, chẳng
thấy lỗi thế gian”. Vẫn thấy lỗi lầm của thế gian, trong khi giảng
kinh, chúng tôi cũng thường nói, đó chẳng phải
là lỗi lầm của thế gian, mà là lỗi lầm của chính ḿnh! Chính ḿnh có lỗi lầm ǵ vậy? Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Quư vị nói xem, có đúng
như thế hay không? Ngày hôm qua, tôi c̣n nói “một người
mà vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy
đều buông xuống, người ấy sẽ thành Phật.
Có thể buông xuống phân biệt, chấp trước, người
ấy là Bồ Tát. Chẳng thể buông xuống vọng
tưởng và phân biệt, nhưng buông xuống chấp trước, người ấy thành A La Hán, và cũng
vượt thoát tam giới”, đấy là đúng! Quư vị
đối với vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước thảy đều chẳng buông xuống, sẽ
là lục đạo phàm phu, sai mất rồi. Nếu chẳng
thể buông xuống ba thứ ấy trong một lúc, quư vị
sẽ chẳng thể văng sanh! Niệm Phật v́ sao văng sanh?
Chẳng buông xuống những thứ ấy, nhưng trong một sát-na văng sanh, ngay trong sát-na ấy, người đó
buông xuống, cho nên mới có thể văng sanh được.
Đó gọi là “một niệm
tương ứng một niệm Phật, niệm niệm
tương ứng niệm niệm Phật”. Khi sắp chết, thở hắt một hơi cuối cùng mà vẫn
chẳng buông xuống được, vậy là uổng
công niệm Phật suốt đời rồi!
Tịnh Tông nói rất hay, đới nghiệp
chỉ là “đới cựu
nghiệp” (mang theo nghiệp cũ), chẳng mang theo nghiệp
hiện hành. Cựu nghiệp là ǵ? Nghiệp thuộc về
ngày hôm qua đều là cựu nghiệp, trọn chẳng
mang theo nghiệp [gây tạo] trong ngày hôm nay, chẳng mang
theo nghiệp hiện tiền. Hễ c̣n một niệm hiện
tiền, sẽ chẳng thể văng sanh. V́ thế, chúng ta niệm
Phật, mỗi ngày niệm Phật giống như ǵ? Giống
như luyện binh, huấn luyện, khi lâm chung là đánh
giặc, hy vọng một niệm cuối cùng lúc lâm chung là
chánh niệm, là A Di Đà Phật, chẳng có vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước th́ mới có thể văng
sanh. Do vậy có thể biết, sự huấn luyện
trong lúc b́nh thường hết sức quan trọng, lâm
chung quư vị mới nắm chắc. Nếu sơ sót sự
huấn luyện trong lúc b́nh thường, khi lâm chung, sẽ
chẳng nắm chắc. V́ cho đến khi ấy, hễ
c̣n có một niệm không buông xuống được, sẽ
chẳng thể văng sanh, lầm lỡ đại sự!
Đương nhiên phương pháp tốt
nhất là trong lúc b́nh thường hằng ngày, chúng ta hăy
tưởng như một niệm khi lâm chung. V́ thế, Ấn
Quang đại sư dạy chúng ta, niệm Phật như
thế nào th́ mới có thể thành tựu? Phương pháp
của Ngài hay lắm, dán một chữ Chết trên trán. Có
nghĩa là thường tưởng ta sẽ chết, ta sẽ
chết trong ngày hôm nay, hăy xem quư vị c̣n muốn chẳng
buông xuống hay không? Tôi đă đến thăm quan pḥng (關房, nơi bế quan) của lăo nhân gia, tiểu Phật đường
trong quan pḥng của Ngài rất bé, chỉ là một gian nhà,
đại khái chỉ bằng một phần ba pḥng thâu
h́nh này. Trên bàn Phật, chỉ thờ một bức tượng
A Di Đà Phật. Trên vách tường phía sau tượng
Phật, dán một chữ Tử do lăo nhân gia tự viết.
Mỗi ngày thấy chữ Tử, thời thời khắc
khắc nghĩ đến cái chết, muôn niệm đều
nguội lạnh, buông xuống muôn duyên! Đối với
kẻ khác bèn khiêm hư, cung kính, chỉ có đối với
hạng người nào là có chỉ trích? Những học
tṛ thật sự chịu nghe dạy. Suốt đời lăo
nhân gia chẳng thâu nhận đồ đệ xuất
gia, chẳng có đồ đệ xuất gia, toàn là đệ
tử quy y, tức là đệ tử quy y xuất gia và tại
gia. Thật sự chịu học, thật sự hiếu học,
thật sự mong thành tựu trong một đời này,
Ngài sẽ chẳng rất
khách sáo giáo huấn quư vị. Nếu
chẳng phải là kẻ chân tâm mong học, mong cầu sanh
Tịnh Độ, lăo nhân gia sẽ rất khách sáo đối
với quư vị. Quư vị có thể thấy Ngài rất từ
bi.
Đấy là chúng ta thấy xă hội trong hiện
tiền hiểu lầm người xuất gia, hiểu lầm Phật giáo, có cách nh́n sai lầm đối với người xuất gia học Phật, ảnh hưởng toàn thể xă hội. Hiểu lầm
nền giáo dục của đức Phật sẽ gây
chướng ngại cho việc thúc đẩy [khuếch
trương] nền giáo dục của đức Phật.
Không chỉ là bản thân họ chẳng học, mà c̣n khiến
cho đại chúng trong xă hội trông thấy hiện tượng
ấy cũng hiểu lầm Phật giáo là mê tín. Thời
thơ ấu, Tiểu Học, và Sơ Trung (cấp hai, Trung Học đệ
nhất cấp), tôi luôn ngỡ Phật
giáo là mê tín, đối với Phật giáo chẳng có ấn
tượng tốt đẹp! Tôi tiếp xúc các tôn giáo khá
lâu, v́ trong các bạn học có người là tín đồ
đạo Cơ Đốc, có người là tín đồ
đạo Hồi, các cuộc lễ bái họ thường
mời tôi đến tham dự. Tôi cũng đến
đó rất nhiều lần, nghe những vị mục
sư hoặc A Hoăng (thầy tu đạo Hồi) giảng
đạo, cũng cảm thấy rất hữu lư. Xem kinh sách của
họ, cũng đều có thể sanh tâm hoan hỷ, chỉ
riêng đối với Phật giáo là hiểu lầm nghiêm
trọng. Bởi lẽ, Phật giáo không có ai giảng kinh.
Chùa miếu rất nhiều, toàn là thắp nhang, lạy lục,
toàn là làm kinh sám, Phật sự, siêu độ người
chết. V́ thế, có ấn tượng rất xấu. Chẳng
thể trách đại chúng trong xă hội! Hiện thời,
bản thân chúng ta phải nghiêm túc phản tỉnh, chúng ta đă
trái nghịch giáo huấn của đức Phật.
Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế,
Ngài giảng kinh hơn ba trăm hội, thuyết pháp bốn
mươi chín năm, đó là ǵ? Nói theo kiểu hiện thời
là “mở lớp dạy học”.
Khi tôi ở Đài Trung, đối với Đài Trung Liên Xă
và Từ Quang Đồ Thư Quán của thầy Lư, lăo nhân gia đă mở
tổng cộng hơn ba
mươi lớp, mở lớp dạy học, có khóa học
dài hạn, có khóa học ngắn hạn. Như khóa Đại
Chuyên Phật Học th́ thời gian ngắn, hai tuần lễ.
Dài nhất h́nh như là lần thứ ba, bốn tuần lễ.
Đó là khóa học dài nhất trong kỳ nghỉ Hè; về
sau, thông thường là trong khóa nghỉ Hè và nghỉ
Đông đều là hai tuần, ngắn hơn! Khóa học
dài ngày, tức là khóa giảng kinh, dài nhất là lớp học kinh Hoa
Nghiêm. Các lớp giảng kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng
Thọ, th́ kinh Vô Lượng Thọ khoảng ba, bốn
tháng, c̣n như giảng kinh A Di Đà th́ đại khái là một, hai tháng. Mở lớp
dạy học khiến cho người ta hiểu Lư, tŕ giới,
tuân thủ pháp tắc.
Trừ chuyện ấy ra, trong Liên Xă có bốn
mươi tám ban niệm Phật, chiếu theo bốn mươi tám nguyện
của A Di Đà Phật. Liên hữu quá đông, phải chia
ban, chia thành bốn mươi tám ban. Thông
thường họ niệm Phật, mỗi tuần hai lần
đến nghe kinh. Mỗi tháng, mỗi ban c̣n có một lần tụ hội, mời thầy giảng khai thị, giải đáp nghi vấn.
Chuyện này đều là dài hạn, tháng nào cũng đều
có, suốt mấy chục năm chẳng gián đoạn. Đối với
nhi đồng, thầy lập hai ấu trĩ viên (trường
Mẫu Giáo, nhà trẻ). Đối với người già,
có một viện an lăo (dưỡng lăo). Đối với
kẻ bệnh hoạn, thầy có Bồ Đề y viện.
Kẻ trẻ tuổi th́ có ban thanh niên và ban thanh nữ. Các
lớp dạy học th́ có lớp Phật học, lớp
Nho học, c̣n có lớp dạy thư pháp, lớp thi từ,
lớp mỹ thuật, hội họa, tổng cộng mở
hơn ba mươi lớp. Mở lớp dạy học
đấy nhé! Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế
là như vậy; v́ thế, Phật pháp là giáo dục xă hội
đa nguyên văn hóa.
Chúng ta mới hiểu rơ Phật giáo là ǵ, mới
hiểu rơ ràng, mới thấy rơ Phật giáo chẳng mê tín.
Đă thế, Phật giáo chẳng phải là tôn giáo, mà là
giáo dục xă hội. V́ sao? Trong tôn giáo, chắc chắn chẳng
thể thiếu Thần (Chúa, Thượng Đế)
được! Trong Phật giáo chẳng có! Trong Phật
giáo chỉ có thầy, Thích Ca Mâu Ni Phật là Bổn Sư của
chúng ta. Ngài chẳng phải là thần, mà là thầy. Nói “thành Phật” th́ như trong
kinh luận, kinh Hoa Nghiêm đă dạy thấu triệt
như thế này: “Hết thảy
chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai, chỉ v́ vọng tưởng và chấp trước
mà chẳng thể chứng đắc”. Lời này đă
giảng rơ ràng như vậy, minh bạch như vậy! Phật
là ǵ? Phật là Như Lai, Ngài có trí huệ viên măn, có đức
năng viên măn, có tướng hảo viên măn. Đức Phật
nói hết thảy chúng sanh thảy đều có trí huệ,
đức năng, và
tướng hảo. Phật ở nơi
đâu? Hết thảy chúng sanh ai nấy đều là Phật.
Quư vị vốn đă thành Phật, v́ sao nay chẳng phải
là Phật? Hiện thời, quư vị sanh khởi vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, cho nên quư vị
biến thành phàm phu.
Kinh Hoa Nghiêm dạy chúng ta: Chỉ cần quư
vị có thể buông xuống vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, quư vị sẽ là Như Như Phật.
Các loại trí huệ, thần thông, và đức tướng
của chư Phật quư vị thảy đều có, khôi
phục toàn bộ. Hiện thời, biến thành t́nh trạng
này là do vọng tưởng, phân biệt, chấp trước
đă che lấp và chướng ngại trí huệ, đức
năng, tướng hảo vốn có trong tự tánh. Tuy có
mà chẳng thể hiện tiền, chẳng dấy lên tác dụng.
V́ thế, phàm phu thành Phật, nói theo lư luận là trong một
niệm. Chỉ cần quư vị chịu buông xuống, sẽ
thành Phật. Khi nào quư vị buông xuống, sẽ thành Phật
khi ấy. Buông xuống trong hiện tại, sẽ thành Phật
trong hiện tại. Chẳng thể buông xuống vọng
tưởng, có thể buông xuống phân biệt và chấp
trước, quư vị thành Bồ Tát. Phân biệt cũng
không buông xuống được, vậy th́ quư vị buông
xuống chấp trước, sẽ thành A La Hán. Buông xuống
chấp trước chính là buông xuống lục đạo
luân hồi. Lục đạo luân hồi là do chấp
trước biến hiện; v́ thế, nó chẳng phải
là thật!
Thuở ấy, tôi thỉnh giáo Chương
Gia đại sư. Tôi thưa: “Con biết Phật pháp tốt
đẹp, con có sự nhận thức thô thiển là do
tiên sinh Phương Đông Mỹ giới thiệu”. Tôi thỉnh
giáo Ngài: “Có phương pháp ǵ khiến cho con có thể khế
nhập rất nhanh chóng hay không?” Ngài dạy tôi: “Thấy thấu suốt, buông xuống”.
Tôi học năm mươi lăm năm, cảm kích thầy
ngay hôm đầu tiên đă dạy cho tôi bí quyết ấy.
Tôi thật sự làm, nhưng buông xuống không triệt
để cho lắm. Tuy không triệt để, đấy là do tập
khí phiền năo quá nặng, nhưng mỗi năm buông xuống
nhiều hơn. Mỗi tháng buông xuống nhiều hơn một tí. Các đồng học có phát hiện chuyện này hay
không? Tôi tin là đại đa số chẳng phát hiện,
có một ít người rất chú tâm sẽ phát hiện. Họ
phát hiện như thế nào? Nghe tôi giảng kinh, mỗi
năm khác hẳn! [Không chỉ là] mỗi năm khác hẳn,
mà mỗi năm có tiến bộ, mỗi tháng khác hẳn, mỗi
tháng đều có tiến bộ.
Trí huệ chẳng do học được,
trí huệ từ đâu mà có? Buông xuống một phần,
trí huệ trong tự tánh thấu lộ một phần. Buông
xuống hai phần, sẽ thấu lộ hai phần. Đức năng và
tướng hảo cũng giống như thế. Đấy
gọi là Tánh Đức hiển lộ. Thấy thấu suốt
và buông xuống là Tu Đức. Tuy có Tánh Đức, nếu
quư vị chẳng có Tu Đức, Tánh Đức sẽ
không thể hiện tiền. V́ thế, chỉ cần quư vị
quan sát cẩn thận sẽ thấy ngay! Phải thấy thấu
triệt, phải buông xuống triệt để, đó gọi
là công phu thật sự. Dùng công phu thực tế này để
niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ th́ mới tương
ứng. V́ lẽ đó, “một
niệm tương ứng một niệm Phật, niệm
niệm tương ứng niệm niệm Phật”,
đạo lư ở chỗ này.
Nhất định phải y giáo tu hành. Đức
Phật dạy quyết định chẳng sai! Quư vị
có thể học mười nguyện của Phổ Hiền
Bồ Tát th́ gọi là “đại
tu hành”. Tâm địa thanh tịnh, b́nh đẳng, từ
bi, hết thảy cung kính, đối với người, đối
với sự, đối với vật, đều ẩn
giấu điều ác, tuyên dương điều lành.
Đấy là “xưng tán Như
Lai”. Chẳng ghim trong ḷng tất cả hết thảy
những thứ bất thiện; thấy, nghe, tiếp xúc toàn là hết
thảy những điều thiện, chẳng có ǵ không tán
thán, đấy là “xưng tán
Như Lai”. “Quảng tu cúng
dường”: Phàm là những
ǵ có lợi cho chúng sanh, bèn tận tâm tận lực cống
hiến. Phật pháp nói “cúng
dường” là nói đến bố thí. “Sám hối nghiệp chướng”, sám hối
như thế nào? Hằng ngày sửa đổi, hằng
ngày sửa lỗi đổi mới, hằng ngày thấy
thấu suốt, hằng ngày buông xuống, thật sự sám
hối! “Tùy hỷ công đức”
chúng ta thường nói là “tùy
duyên”. Trong cuộc sống hằng ngày, thứ ǵ cũng
đều tùy duyên, tâm địa chẳng có phiền năo, chẳng
có ưu lự, chẳng có vướng mắc, quư vị nói
xem, có tự tại lắm hay không? “Thỉnh chuyển pháp luân”, chẳng cần thỉnh
ai khác, hăy thỉnh chính ḿnh. Thỉnh người khác, người
ta không đáp ứng, quư vị sẽ sanh phiền năo. Hăy thỉnh
chính ḿnh. “Thỉnh Phật trụ
thế” cũng là thỉnh chính ḿnh, chánh pháp tồn tại
lâu dài!
Điều cuối cùng quan trọng lắm,
“hằng thuận chúng sanh”.
Chúng sanh tạo ác, tạo tội cũng phải tùy thuận.
Họ đọa tam đồ, đọa địa ngục,
vẫn phải tùy thuận, rất nhẫn nại chờ
đợi cơ duyên chín muồi. Cơ duyên chẳng chín muồi,
sẽ chẳng độ được! Quư vị nói ǵ với
họ, họ đều không tin tưởng, chẳng thể
tiếp nhận. Họ tạo nghiệp chịu báo, chịu
hết khổ nạn rồi mới có thể quay đầu,
mới có thể giác ngộ. Khi ấy, quư vị giúp họ
vẫn không trễ! Những đạo lư và sự
tướng như vậy trong kinh luận Đại Tiểu
Thừa đă nói quá ư là nhiều, chúng ta muốn học,
học chẳng xong! Chỉ cần quư vị nắm
được cương lănh, sẽ có thể khế nhập.
Đấy gọi là “biết học”.
V́ thế, các vị tổ sư đại
đức thường trắc nghiệm học tṛ, hỏi
họ: “Hội ma?” (會麼, hiểu chăng?) Câu này có ư nghĩa rất sâu!
Người biết học, từ kinh luận chúng ta
thường thấy [từ ngữ] “thiện học” (善學, khéo học). “Thiện học”
chính là “hội ma” như các
tổ sư đă nói. “Hội”
(會) là có thể khế nhập; chẳng hiểu, khó lắm!
Hễ hiểu, sẽ dễ dạy, nắm được
cương lănh. Thấy thấu suốt là hiểu rơ ràng,
minh bạch, chẳng hồ đồ tí nào, trí huệ
đấy! Buông xuống là tŕ giới, là đắc Định.
Tŕ giới, hằng thuận chúng sanh; đắc Định,
thanh tịnh chẳng nhiễm. Đấy là Phật pháp,
đấy là tự tánh! Phật pháp chẳng phải là thứ ǵ khác, Phật pháp là chân tâm của chính ḿnh, là bản
tánh của chính ḿnh. Đối với chân tâm bản tánh của
chính ḿnh, Huệ Năng đại sư đă nói hay lắm:
“Vốn chẳng có một vật,
chỗ nào nhuốm bụi bặm”. Chúng tôi thường
nói điều này, v́ ích kỷ, tiếng tăm, lợi
dưỡng, ngũ dục, lục trần, tham, sân, si, mạn,
thảy đều chẳng có, [tức là] trong chân
tâm tự tánh của chính ḿnh chẳng có [những thứ ấy].
Những thứ ấy là ǵ vậy? Tồn tại trong vọng
tâm, chẳng phải là chân tâm. V́ thế, đó chẳng phải
là tự tánh, chẳng phải là chân tâm, mà là tập tánh. Tập
tánh chẳng thật. Có thể đoạn trừ tập tánh,
có thể buông xuống. Trong chân tánh chẳng có [những thứ
ấy]. Chỉ cần quư vị buông xuống hư vọng,
vô lượng trí huệ và vô lượng đức
năng trong tự tánh sẽ thật sự hiện tiền.
V́ thế, cổ nhân có một câu nói: “Chỉ cần buông xuống vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, chẳng cần cầu
Chân. Chân tự sẽ tự nhiên hiện tiền!” Cách
nói ấy hay tuyệt! “Chỉ
trừ vọng tưởng, chẳng cần t́m Chân”. Nếu
quư vị cầu chân, chân sẽ biến thành vọng. Quư vị
chẳng cầu, nó tự nhiên hiện tiền. A! Phần
sau c̣n có một đoạn nhỏ nữa, hôm nay đă hết
thời gian rồi, chúng tôi nói tới chỗ này!
Tập
1550
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh
thứ mười một, tiểu đoạn thứ ba
trong đoạn lớn thứ sáu của phần kệ tụng,
xem từ bài kệ thứ mười một:
(Kinh) Kiến báo
ân nhân, đương
nguyện chúng sanh, ư Phật, Bồ Tát, năng tri ân
đức.
(經)見報恩人。當願眾生。於佛菩薩。能知恩德。
(Kinh: Thấy người báo
ân, nguyện cho chúng sanh, hay biết ân đức của Phật,
Bồ Tát).
Trong đoạn này, Thanh Lương đại
sư đă nói mười điều. Nói thật ra, ân cha
mẹ, ân Phật, Bồ Tát, ân thầy, ân chúng sanh, nói chẳng
tận! Trong kinh chỉ nêu mấy thí dụ mà thôi! Mười
điều ấy chúng ta đă đọc qua, phía sau điều
cuối cùng hăy c̣n có mấy câu chúng ta cũng phải đọc,
chẳng thể sơ sót! Thanh Lương đại sư
viện dẫn kinh điển bảo:
(Sao) Hựu vân, lưu bạch hào chi phước
dĩ phú đệ tử. Ngôn lưu giáo giả, tức Tam
Tạng, Bát Tạng, quảng ích chúng sanh, y chi tu hành, giai
đắc thành Phật.
(鈔)又云留白毫之福以覆弟子。言留教者,即三藏八藏,廣益眾生,依之修行,皆得成佛。
(Sao: Lại nói:
“Lưu lại phước [do tu tập tướng] bạch
hào để tạo phước cho các đệ tử”.
Nói đến chuyện “lưu lại giáo pháp” th́ Tam Tạng
hoặc Bát Tạng lợi ích chúng sanh rộng răi,
nương theo đó tu hành, sẽ đều được
thành Phật).
Đấy là điều thứ mười, tức
là đoạn cuối cùng nói về ân “bi niệm vô tận”. Trong kinh, đức
Phật cũng nói về chuyện này, nhưng gần
như không có ai nhắc tới. Khi chúng tôi xuất gia thọ
giới, vị Giới ḥa thượng là lăo pháp sư
Đạo Nguyên, pháp sư Bạch Thánh khai
đường, chúng tôi nhớ các Ngài đă nói với chúng tôi [về
chuyện này].
Thuở đức Thế Tôn trụ thế,
tuổi thọ trong cơi đời đáng lẽ là một
trăm tuổi, lăo nhân gia tám mươi tuổi đă khuất
bóng, cho nên c̣n phước báo của hai mươi năm
lưu lại cho chúng sanh thời Mạt Pháp. Cũng có
nghĩa là sau khi đức Phật diệt độ, pháp
vận của lăo nhân gia là một vạn hai ngàn năm.
Trong một vạn hai ngàn năm ấy, hàng đệ tử
xuất gia, tức xuất gia tứ chúng, [nghĩa là] tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, sa-di, sa-di-ni, hai mươi
năm phước báo của đức Phật đủ
cho họ dùng. Lại nói đến bạch hào của đức
Phật. Tướng bạch hào là một trong ba
mươi hai tướng của đức Phật, tức
là giữa hai đầu chân mày có hai sợi bạch hào (白毫, lông màu trắng trong suốt). Bạch hào cuộn
tṛn lại giống như một viên châu. Nó chẳng phải
là một hạt châu, mà là hai sợi bạch hào [cuộn tṛn lại].
Đấy là Phật tướng. Đức Phật giảng
kinh, thuyết pháp, bạch hào thường tỏa ra quang
minh, [kinh thường
ghi là] “bạch hào phóng quang”. Phước
của tướng bạch hào cũng gia tŕ các đệ tử
trong đời sau, tức là hàng tại gia và xuất gia thảy
đều có phần. Đấy là bi niệm vô tận của
chư Phật Như Lai. Nhưng quư vị phải nghiêm túc
học, phải khéo học, chớ nên cô phụ đức
Phật đă ban phước, nhất định phải nghiêm
túc y giáo phụng hành, phải làm một đệ tử tốt
đẹp của đức Phật, chớ nên phá hoại
h́nh tượng của Phật pháp. Tội phá hoại h́nh
tượng Phật pháp có cùng cấp bậc với phá ḥa
hợp Tăng, chẳng khác ǵ cả! Quả báo đều
là trong địa ngục. Chớ nên không biết điều
này, chớ nên không cẩn thận.
Tuy trong kinh Đại Tập đức Phật
đă nói, hôm trước, chúng ta đă đọc điều
này, “giả sử hủy cấm
giới, tất trụ bất thoái địa” (giả
sử hủy phạm giới cấm, ắt trụ nơi
địa vị Bất Thoái). Tôi đă nói rất rơ ràng về
hai câu này: Lời Phật dạy là thật, chẳng giả,
nhưng chẳng phải là [nói về] hiện tiền. Hiện
tiền tŕ giới tu hành, niệm Phật cầu văng sanh, hai
câu ấy sẽ trở thành sự thật. Cớ sao biết
hủy phạm giới vẫn là “ắt trụ
nơi địa vị Bất Thoái”? Chẳng
tŕ giới mà vẫn có thành tựu ư? Tấm
gương của pháp sư Oánh Kha đời Tống là một
chứng minh tốt nhất. Trải các đời, những
kẻ phá giới phạm trai như pháp sư
Oánh Kha cuối cùng đều có thể sám hối văng sanh rất
nhiều. Phải hiểu điều này, chớ nên hàm hồ,
đọc lơ mơ lướt qua! [Để rồi] cứ
tưởng chúng ta xuất gia, phá giới, phạm trai chẳng
sao hết, đức Phật nói “vẫn trụ nơi địa vị Bất Thoái”
mà! Đến cuối cùng, quư vị đọa
địa ngục, chê trách đức Phật nói chẳng
giữ lời! Quư vị lại báng Phật, báng Pháp, đọa
vào địa ngục A Tỳ.
Câu chuyện về pháp sư Oánh Kha được
chép trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, trong Cao
Tăng Truyện cũng có, Văng Sanh Truyện cũng có, An
Sĩ Toàn Thư cũng có trích lục. Đấy là một
vị xuất gia, nghiệp chướng rất nặng, chẳng
có cách nào tŕ giới, cho nên phá giới. Chính Sư biết người
xuất gia phá giới trong tương lai nhất định
đọa tam đồ, nghĩ tới chuyện này, cảm
thấy rất kinh sợ, bèn hỏi đồng tham đạo
hữu có phương pháp ǵ để có thể cứu
Sư. Các đạo hữu cũng rất từ bi, đưa
cho Sư xem một quyển Văng Sanh Truyện. Xem xong, Sư
hết sức cảm động, đau đớn khóc lóc,
tuôn lệ, do vậy bèn phát khởi đại nguyện, đóng
chặt cửa liêu pḥng niệm Phật. Niệm suốt ba
ngày ba đêm, chẳng ngủ nghỉ, chẳng ăn uống,
chân thành đến mức cùng cực, nghiễm nhiên niệm
cảm A Di Đà Phật hiện đến. A Di Đà Phật
bảo Sư: “Ông c̣n mười năm tuổi thọ, thọ
mạng hăy c̣n mười năm. Đợi đến khi
ông lâm chung, ta lại đến tiếp dẫn ông. Ông hăy
khéo niệm Phật”. Pháp sư Oánh Kha thưa: “Không
được đâu! Con tập khí rất nặng, nghiệp
chướng rất sâu, chẳng chống nổi
dụ dỗ, mê hoặc. Hễ hoàn cảnh nhân sự dụ
dỗ, mê hoặc, trong mười năm ấy, con chẳng
biết sẽ lại phạm bao nhiêu tội lỗi, chính
ḿnh chẳng có cách nào khống chế. Con chẳng cần mười
năm thọ mạng, nay con theo lăo nhân gia ra đi”. A Di
Đà Phật mỉm cười đáp ứng, Ngài bảo:
“Như vậy cũng được, ba ngày sau ta lại
đến tiếp dẫn ông”.
Oánh Kha cũng rất cao hứng, mở cửa
pḥng bảo các đồng tham đạo hữu trong tự viện:
“Tôi niệm Phật ba ngày ba đêm, A Di Đà Phật đến
ước hẹn ba ngày sau sẽ đến tiếp dẫn
tôi”. Trong tự miếu chẳng có một ai tin tưởng:
“Ngươi là hạng người như vậy mà có thể
văng sanh ư?” Nhưng nghe ra giọng điệu và thái
độ của Sư chẳng giống gạt người,
dường như là thật sự có chuyện ấy.
Cũng may thời gian ba ngày rất ngắn, mọi người
chờ xem. Tới ngày thứ ba, thời gian Sư ước
định với đức Phật đă đến, mọi
người đều đến xem. Sư xin mọi
người niệm Phật tiễn Sư văng sanh.
Đương nhiên là mọi người hoan hỷ: “Ngươi
chẳng sanh bệnh, khỏe mạnh, coi ngươi ra đi bằng
cách nào?” Niệm gần được một khắc, pháp
sư Oánh Kha nói: “A Di Đà Phật đến rồi, tôi thấy
Ngài tới rồi, nay tôi theo Ngài ra đi”. Cáo từ đại
chúng, Sư liền ra đi. Đấy chính là ǵ? Giả sử
hủy phạm giới cấm, ắt trụ địa vị
Bất Thoái. Quư vị thấy đó, văng sanh thế giới
Cực Lạc, dẫu là hạ hạ phẩm văng sanh, vẫn
là viên chứng ba món Bất Thoái, thật đấy! Há có giả
ư? Vấn đề là quư vị phải thật sự
sám hối cầu văng sanh, sẽ có thể trụ nơi
địa vị Bất Thoái. V́ thế, ngài Oánh Kha đă
nêu một tấm gương rất hay. Do vậy, đối
với những vị xuất gia mà phá giới, phạm
trai, chúng ta nhất định chớ nên khinh mạn. Nói
không chừng, người ấy một phen tỉnh giác, sợ
đọa địa ngục, sẽ dũng mănh, tinh tấn
vượt trỗi
chúng ta học Phật vài chục
năm, chúng ta đều chẳng sánh bằng họ.
Kẻ tại gia không học Phật, như
vua A Xà Thế đă
được nói tới trong kinh
Quán Vô Lượng Thọ. Nhà vua tạo tội Ngũ Nghịch,
giết cha, hại mẹ, làm thân Phật chảy máu, phá ḥa
hợp Tăng, chuyện xấu ǵ cũng đều làm hết.
Lâm chung hối hận, khi lâm chung giác ngộ đời này
đă làm chuyện sai lầm to lớn, tự biết ắt
đọa trong tam đồ, cho nên mới quay đầu,
thật thà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, nhà
vua thật sự văng sanh. Trong cách nh́n thông thường của
chúng ta, Quán Kinh nói hạ hạ phẩm văng sanh toàn là kẻ tội nghiệp rất
nặng niệm Phật văng sanh. Vua A Xà Thế tạo nghiệp
nặng nề dường ấy, chúng ta nghĩ nhất
định là hạ hạ phẩm văng sanh, chẳng ngờ
trong kinh A Xà Thế Vương, Thích Ca Mâu Ni Phật dạy
“vua A Xà Thế văng sanh là thượng
phẩm trung sanh”. Đọc xong, chúng tôi hết sức
cảm động, đấy là nhất niệm chân tâm sám
hối. Ngạn ngữ Trung Hoa có câu: “Lăng tử hồi đầu kim bất hoán” (Lăng tử
quay đầu, vàng chẳng đổi được). Nhà
vua thật sự quay đầu, quay đầu th́ là thiện
nhân! Chúng ta chẳng thể tưởng tượng điều
này!
V́ thế, văng sanh Tây Phương Tịnh
Độ bao gồm hai phương thức. Một là chúng
ta b́nh thường niệm Phật, tích lũy công đức.
Loại kia là tạo ác lắm nỗi, lâm chung sám hối, tùy
thuộc công phu sám hối của người ấy, [tùy
thuộc] ḷng chân thành của người ấy. Nếu là mười
phần chân thành, giống như vua A Xà Thế là thượng
phẩm trung sanh, tuyệt diệu thay! Tâm chân thành kém hơn
một bậc, lại kém hơn một bậc, vẫn có
thể văng sanh, trung thượng phẩm văng sanh, hoặc hạ
phẩm thượng sanh, thảy đều có thể, đều trụ địa
vị Bất Thoái. Chúng ta phải biết điều này. Nếu
chẳng dũng mănh thống thiết sám hối, quả báo
của tội nghiệp sẽ là trong tam đồ. Thọ xong, thọ
hết quả báo trong tam đồ, quư vị mới ĺa khỏi
tam đồ. Sau đấy, chắc chắn có duyên phận
gặp gỡ Phật pháp, nhưng chẳng biết duyên phận
ấy sẽ [xảy ra] vào lúc nào. Có khi mau chóng th́ là đời
kế, hoặc đời sau sẽ gặp gỡ. Có khi chậm
chạp, mười mấy đời, một, hai
trăm đời, thậm chí c̣n có trường hợp trải
qua bao nhiêu đại kiếp. Thời gian sớm hay muộn
là vận mạng của mỗi người, mà cũng là do
tập khí nghiệp chướng của mỗi người!
Do vậy có thể biết, huân tập Phật
pháp có công đức chẳng thể nghĩ bàn. Thời
gian huân tập Phật pháp dài, quư vị sẽ rút ngắn thời
gian, dễ dàng cảnh giác, dễ dàng quay đầu. Nếu
thời gian huân tập Phật pháp ít, tập khí thế tục
rất nặng, tập khí tham, sân, si, mạn rất nặng,
quư vị sẽ quay đầu trễ tràng. V́ sao? Dẫu gặp
gỡ pháp, gặp gỡ thiện tri thức hướng dẫn,
quư vị chẳng chịu tiếp nhận, chẳng nghe
theo. V́ thế, quư vị rất khó quay đầu. Chỉ cần
quay đầu, chẳng có ai không thành tựu! V́ thế,
người trong thế gian nhất định phải biết
thân cận thiện tri thức, sợ nhất là suốt
ngày ở chung với ác tri thức, phiền phức sẽ
to lớn! Chớ nên không biết điều này!
Tiếp đó, [ngài Thanh Lương nói] “lưu giáo” (để lại giáo pháp), “giáo” (教) là kinh
điển. Đấy là đại sự bậc nhất
của bi niệm vô tận. Nếu kinh giáo của Phật,
Bồ Tát chẳng truyền lại, bi niệm vô tận cũng
giống như một lời nói suông. V́ sao? Chẳng có cách
nào lợi ích chúng sanh. Khi chư Phật, Bồ Tát tại
thế, giảng kinh, thuyết pháp giáo hóa chúng sanh, mọi
người được lợi ích. Phật, Bồ Tát chẳng
tại thế, dùng ǵ để giáo hóa chúng sanh? Kinh giáo. Kinh
giáo ở đây là Tam Tạng, hoặc Bát Tạng. Tam Tạng
th́ chư vị biết. Kinh, Luật, Luận Tam Tạng,
Đại Tạng Kinh là Tam Tạng kinh điển. Bát Tạng
là ǵ? Bát Tạng vẫn là Tam Tạng. V́ sao gọi là Bát Tạng?
Quư vị thấy Kinh, Luật, Luận, lại thêm chú, [thành
bốn phần là] Giới, Định, Huệ, Chú. Giới
là Luật Tạng, Định là Kinh Tạng, Huệ là Luận
Tạng, cộng thêm Chú. Đấy là nội dung của Tam
Tạng, tức là Giới, Định, Huệ, Chú. Đấy
là bốn loại lớn để đức Phật giáo
hóa chúng sanh. Đại Thừa bao gồm Giới, Định, Huệ,
Chú thành bốn tạng. Tiểu Thừa cũng có Giới,
Định, Huệ, Chú, [tạo thành bốn tạng]. V́ thế, gọi gộp
chung là Bát Tạng. Bát Tạng là nói chi tiết, c̣n Tam Tạng
là nói đại khái. Do vậy, nội dung của Tam Tạng và Bát Tạng
chẳng sai biệt, chúng ta phải hiểu điều này.
Đức Phật lưu lại [kinh điển]
nhiều ngần ấy, gọi là Pháp Bảo. Trân bảo thế
gian có thể cứu giúp chúng ta thoát khỏi cảnh bần
cùng. Nếu quư vị có của báu, sẽ giàu có, có thể
tránh khỏi nỗi khổ nghèo túng. Nhưng sanh tử luân hồi là nỗi
khổ to lớn, dùng phương pháp ǵ để có thể
tránh khỏi? Giáo huấn của
Phật, Bồ Tát có thể giúp chúng ta giải quyết nỗi
khổ sanh tử luân hồi to lớn. Quư vị nói đó
có phải là của báu hay chăng? C̣n quư báu hơn tất cả
hết thảy trân bảo trong thế gian! Tam Tạng hoặc
Bát Tạng dẫu nhiều, quư vị chỉ cần thọ
tŕ một thứ sẽ có thể đắc độ,
công đức chẳng thể nghĩ bàn.
Nhưng bất luận Đại Thừa
hay Tiểu Thừa, quư vị thấy nguyên tắc chỉ đạo tu học cao nhất của Tịnh Tông là Tịnh Nghiệp
Tam Phước. Tổng cộng là ba điều, điều
thứ nhất là phước nhân thiên, chẳng phải là Phật
pháp, mà là pháp thế gian. Đối với phước nhân
thiên, đức Phật dạy chúng ta “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự
sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập
Thiện Nghiệp”. V́ thế, kinh Thập Thiện Nghiệp
Đạo là phước nhân thiên. Phước nhân thiên là
cơ sở của Phật pháp. Do đó, trong kinh Thập
Thiện Nghiệp Đạo, đức Phật đă nói
từ nhân thiên, sau đấy lại nói đến Thanh Văn Bồ
Đề, Độc Giác Bồ Đề, Vô Thượng
Bồ Đề, đều là dùng Thập Thiện Nghiệp
Đạo làm căn bản, làm cơ sở. Do vậy có thể
biết, nếu chúng ta học Phật, bất luận tại
gia hay xuất gia, quư vị tu Đại Thừa cũng thế,
mà tu Tiểu Thừa cũng thế, Tông Môn cũng vậy,
Giáo Hạ cũng vậy, Hiển Giáo cũng vậy, Mật
Giáo cũng vậy, tu từ nơi đâu? Tu từ Thập
Thiện Nghiệp Đạo. Chẳng có mười thiện
nghiệp, sẽ chẳng có Phật pháp; nhưng v́
sao hiện thời chúng ta vẫn chẳng làm được
Thập Thiện Nghiệp Đạo? Đấy là do chúng
ta đă sơ sót giáo dục luân lư đạo đức từ
bé. V́ thế, tuy hiện thời nói đến Thập Thiện, chẳng làm
được! Phải như thế nào th́ mới có thể
làm được? Chớ nên không học bổ sung, chúng ta
t́m căn bản của căn bản. Căn bản của
căn bản là “hiếu thân,
tôn sư”, [tức là] hiếu thuận cha mẹ, tôn
sư trọng đạo. Học điều này từ chỗ
nào? Học từ Nho gia và Đạo gia.
Trung Hoa từ xưa tới nay, mấy ngàn
năm qua đă
tiếp nhận sự giáo
dục của ba nhà Nho, Thích, Đạo, đó là ba hệ
thống giáo dục. Trọng điểm trong giáo học của
Nho gia là luân lư, đạo đức. Trọng điểm
của giáo dục Đạo gia là nhân quả cảm ứng.
Trọng điểm của giáo học nhà Phật là
trí huệ, nói thông thường th́ là giáo dục tôn giáo. Nay
chúng ta nói đến giáo dục tôn giáo sợ mọi
người nẩy sanh hiểu lầm. Người ta hễ
nghe nhắc đến [giáo dục tôn giáo] bèn bảo là mê
tín, chúng ta nói là “giáo dục trí huệ”,
mọi người sẽ chẳng hiểu là mê tín. Trọng
điểm giáo dục của đức Phật là trí huệ,
trí huệ mới có thể giải quyết hết thảy
vấn đề, chẳng có trí huệ sẽ không
được. Nói cụ thể hơn một tí, giáo dục
Giới, Định, trí huệ rất hoàn chỉnh, nếu
đại chúng b́nh phàm hỏi tới, quư vị có thể
đáp được!
Phật giáo đă là Định Huệ, giáo
dục trí huệ, ắt phải t́m luân lư, đạo đức
làm căn cội. V́ thế, chúng ta nói đến căn cội
của tam giáo, tức là căn cội của tam giáo Nho,
Thích, Đạo, quư vị chớ nên không biết. Căn cội
của Nho gia là Đệ Tử Quy, căn cội của
Đạo giáo là Thái Thượng Cảm Ứng Thiên và
Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn. Đấy
là căn cội của Đạo gia. Căn cội của
Phật gia là Thập Thiện Nghiệp Đạo. Nếu
chúng ta thật sự mong thành tựu trong một đời
này, trước hết, hăy vun đắp căn cơ. Nếu
quư vị chẳng có ba căn cơ ấy, quư vị học
thế nào đi nữa, đều chẳng thành công, chớ
nên không biết điều này! V́ thế, tôi đề nghị
trước hết học Đệ Tử Quy, sau đấy
học Cảm Ứng Thiên, rồi học Thập Thiện
Nghiệp, sẽ chẳng có một tí vấn đề nào.
Khẳng định là quư vị có thể thực hiện,
có thể làm được, quư vị có căn cội mà!
Sau đấy, bất luận tu học bộ kinh luận
nào, pháp môn nào, cũng đều có thành tựu. Chúng ta là
người tu học trong hiện thời, chớ nên
sơ sót điều này, đừng nên ham cao chuộng xa,
chớ nên nhảy cấp, nhất định phải là
theo thứ tự trước sau th́ mới có thể thành tựu.
Phàm là người mong mỏi thật sự
có thành tựu trong một đời này, quư vị chớ
nên sơ sót. Quư vị học từ Đệ Tử Quy và
Cảm Ứng Thiên là tốt nhất. V́ sao? Rất hữu
ích cho việc học Phật của quư vị. Cảm Ứng
Thiên thuộc về giáo dục nhân quả. V́ vậy, chúng
tôi thường nhắc tới bốn loại giáo dục,
luân lư, đạo đức, nhân quả, tôn giáo, nay chúng tôi
đổi tôn giáo thành trí huệ, mọi người dễ
hiểu. Bốn loại giáo dục ấy là một Thể.
Do quư vị có giáo dục nhân quả, chắc chắn sẽ
giúp quư vị khai trí huệ, quư vị sẽ sống đời
này hết sức hạnh phúc mỹ măn. V́ quư vị có trí huệ,
quư vị có thể chọn lựa cho đời sau, có thể
chọn lựa thiên đường, có thể chọn lựa
thế giới Cực Lạc, hoặc Tịnh Độ của
chư Phật, Bồ Tát, chính quư vị có thể chọn lựa.
Sau đấy mới thật sự giúp quư vị giải
quyết vấn đề.
Bởi lẽ, kinh điển, sau khi Phật,
Bồ Tát diệt độ, trong Tam Bảo, quan trọng nhất
là Pháp Bảo. Thuở đức Phật tại thế, bậc
nhất là Phật Bảo, thứ hai là Pháp Bảo. Khi đức
Phật chẳng tại thế, thứ nhất là Pháp Bảo,
thứ hai là Tăng Bảo, thứ ba mới là Phật Bảo.
V́ sao? Đức Phật chẳng tại thế, chúng ta đối
với Phật Bảo
chỉ là cung kính, chỉ là lễ
bái, nhưng Phật Bảo chẳng thể dạy dỗ chúng
ta. Ai dạy chúng ta? Tăng Bảo dạy chúng ta. Chúng ta t́m một vị thiện tri
thức tốt hoặc một vị thầy tốt nhất.
Thiện tri thức tốt đẹp hoặc vị thầy tốt lành cũng chẳng
nhất định là người xuất gia. Trong hàng tại
gia cũng có. Họ tŕ giới, tu Định, hiểu kinh,
họ cũng diễn giáo, “diễn”
(演)
là biểu diễn, giảng kinh, thuyết pháp, tự hành, hóa độ người
khác, trong các vị cư sĩ, cũng có không ít vị. Thời
đầu Dân Quốc, chúng ta biết những vị đại
cư sĩ có thành tựu trong Phật môn c̣n nhiều hơn người
xuất gia, rất nhiều vị thật sự có thành tựu.
Đấy là “quảng ích chúng sanh”,
lợi ích chúng sanh [rộng khắp].
Người đời sau nương vào
đó tu hành, đều được thành Phật. Chỉ
cần quư vị nương vào kinh điển Tam Tạng.
Tại Trung Hoa có mười tông phái, ở Nhật Bản có
mười ba tông phái, bất luận tông phái nào, chắc chắn
nương theo kinh luận do Thích Ca Mâu Ni Phật đă dạy.
Hoặc là lấy một thứ, hoặc là lấy vài thứ.
Tổ sư mỗi tông phái chế định khóa tŕnh khác
nhau, nhưng thảy đều có thể thành tựu. Có vị
nương theo một bộ kinh, có người suốt đời
nương theo kinh A Di Đà, thật sự văng sanh. Có
người suốt đời tham Thiền, nương
theo kinh Kim Cang, thật sự khai ngộ. Nương theo kinh
Pháp Hoa, nương theo kinh Lăng Nghiêm, một bộ kinh,
suốt đời hạ thủ công phu nơi một bộ
kinh.
Trong thời cận đại, lăo pháp sư Viên Anh và lăo pháp
sư Hải Nhân đều chuyên tu kinh Lăng Nghiêm. Thuở
sinh tiền, pháp sư Viên Anh có Viên Minh Giảng Đường,
là học viện chuyên đề xướng kinh Lăng
Nghiêm, đấy là [thâm nhập] một bộ kinh. Năm
1977, lần đầu tiên tôi sang Hương Cảng giảng
kinh Lăng Nghiêm, giảng suốt bốn tháng. Lăo ḥa thượng
Hải Nhân trụ tại Đại Dự Sơn, tôi có
đến thăm Ngài. Khi đó, Ngài đă chín mươi mấy
tuổi, năm sau Ngài văng sanh. V́ thế, tôi đă được
gặp mặt Ngài một lần. Khi ấy, tại
Hương Cảng, Ngài cũng được tôn là Thủ Lăng
Nghiêm Vương, suốt đời chuyên tu, chuyên hoằng
kinh Lăng Nghiêm. Học tṛ của Sư cũng chẳng
đông. Nghe nói chỉ có sáu vị, cả sáu người
đều rất lỗi lạc. V́ Ngài đ̣i hỏi phải
thuộc ḷng kinh Lăng Nghiêm. Không chỉ thuộc kinh mà c̣n
phải thuộc chú giải. Chẳng thể thuộc, Ngài chẳng tiếp nhận. Do vậy, học
tṛ của Ngài chỉ có sáu người. V́ vậy nói bất luận pháp môn nào, bất luận bộ
kinh luận nào, hễ nghiêm túc y giáo phụng hành, chẳng
có ai không thành tựu.
Đây là nói về tầm quan trọng của
kinh điển. Hễ ĺa khỏi kinh điển, sẽ chẳng
có Phật pháp, phải biết điều này! Chẳng có Phật
pháp, tức là có những trang thiết bị vật chất,
như những tháp miếu của Phật, những thứ
di tích ấy vẫn c̣n, [nhưng không có thực chất].
Trong phần sau có nói:
(Sao) H́nh tượng, tháp miếu, năi chí xá-lợi, nhất
hưng cúng dường, thiên phản sanh thiên đẳng, cố
tự đảnh chí túc hạ, kết thành ân trọng.
(鈔)形像塔廟,乃至舍利,一興供養,千返生天等,故自頂至足下,結成恩重。
(Sao: Đối với h́nh tượng, tháp, miếu,
cho đến xá-lợi, hễ dấy lên sự cúng dường,
sẽ [được phước đức như] ngàn lần
sanh trong cơi trời v.v… V́ thế, từ đỉnh đầu
cho đến dưới chân [đức Phật]
đều kết thành ân trọng).
“H́nh tượng” là h́nh
tượng của Phật, Bồ Tát. Bất luận là
tượng bằng đất nặn, điêu khắc bằng
gỗ, hoặc là những h́nh tượng do kim loại
đúc thành, tuy chẳng thể khiến cho quư vị đều
được thành Phật, chúng chẳng làm được
điều này, nhưng đă cho quư vị [cơ hội] tu
phước. Quư vị có thể lễ kính, có thể lễ
bái, sẽ dẫn phát thiện căn của quư vị, công
đức ấy rất to. “Tháp”
(塔) để
thờ xá-lợi của đức Phật. Quá nửa là
để cúng dường xá-lợi. “Miếu” (廟) là tự miếu, nơi thờ phụng h́nh tượng
Phật, Bồ Tát. Ở chỗ này, chư vị phải
biết, nơi đây đă biến thành miếu, chẳng
phải là Tự, chẳng phải là tự, viện, am,
đường. Trong tự, viện, am, đường,
có Tam Tạng, Bát Tạng, có giảng kinh, giáo học. Nếu
tự, viện, am, đường hiện thời chẳng
có ai giảng kinh, chẳng có ai giáo học, thậm chí kinh điển cũng chẳng có, chỉ có những
h́nh tượng, giống như hiện thời nói là “kinh sám Phật
sự”, th́ là Miếu! Trên thực chất,
nó là Miếu; trên chiêu bài, vẫn dùng chữ Tự, nhưng
Tự đă biến thành Miếu. Do vậy, Tự và Miếu
khác nhau, chúng ta phải biết điều này! Điều
này có nghĩa là trong thời kỳ Mạt Pháp, trong thời
kỳ Phật pháp suy vi, tháp miếu, tượng Phật lồ
lộ, nhưng chẳng có ai học kinh giáo.
Hiện thời, chúng ta thấy vấn đề
này đúng là ngày càng nghiêm trọng! Người thật sự
tu hành tŕ giới, tụng kinh ngày càng ít, mà kẻ lạy Phật,
tu sám, cầu phước ngày càng nhiều! Toàn là cầu phước,
chẳng chú trọng Giới, Định, Huệ, [chỉ
lo] cầu cảm ứng, cầu Phật, Bồ Tát phù hộ
thăng quan phát tài, làm những chuyện ấy, có thể cầu
được hay chăng? Trong Phật pháp có nói: “Trong cửa nhà Phật, có cầu
ắt ứng”. Quư vị phải hiểu lư luận, phải
hiểu phương pháp, đúng lư đúng pháp mà cầu,
chẳng có ǵ không cảm ứng. Lư và pháp ở chỗ nào? Lư
và pháp ở trong Tam Tạng, trong Bát Tạng. Do vậy có thể
biết, nếu ĺa kinh giáo, cầu phước nơi
tháp miếu, sẽ rất hữu hạn, chỉ có thể
nói là “gieo một chút thiện căn”. Thật
ra, những ǵ quư vị cầu được vẫn là do
trong mạng của quư vị có! Đối với chuyện
này, hy vọng quư vị hăy đọc kỹ Liễu Phàm Tứ
Huấn th́ sẽ hiểu rơ. Quư vị hăy xem phần thiền
sư Vân Cốc khai thị cho Viên Liễu Phàm, đoạn
văn ấy hay lắm! Phải đọc cho nhiều, suy
nghĩ cho nhiều, chúng ta sẽ biết cầu phước,
cầu phú quư, cầu con cái, cầu thăng quan, cầu tiêu
tai diên thọ (tiêu trừ tai nạn,
kéo dài tuổi thọ) như thế
nào, chẳng có thứ ǵ không cầu được! Khai thị
của thiền sư Trung Phong dành cho những kẻ đọc
sách hay khéo tột bậc!
“Năi chí xá-lợi”
(Cho đến xá-lợi): Xá-lợi
(Śarīra) được thờ phụng trong tháp. Xá-lợi của Phật, xá-lợi
của Bồ Tát, xá-lợi của La Hán, xá-lợi của tổ
sư đại đức. Thấy xá-lợi giống
như thấy người, chúng ta có thể nghĩ đến
hành trạng của Phật,
Bồ Tát, thiện tri thức, sẽ có thể sanh khởi
thiện căn. V́ thế, hễ cúng dường, sẽ
đạt được phước báo là “thiên phản sanh thiên” (sanh
trong cơi trời một ngàn lần), tức một ngàn lần
qua lại trong cơi trời hoặc nhân gian, chẳng đọa
vào ác đạo. Phước báo ấy to cỡ nào! V́ thế,
người tu phước đông đảo, họ chẳng
thành Phật. Tiếp đó là nói “cố
tự đảnh chí túc hạ” (v́ thế từ đỉnh
đầu cho đến dưới chân) là nói về toàn
thân đức Phật, từ đỉnh đầu cho
đến ḷng bàn chân hóa thành xá-lợi. Nói theo phía chúng sanh,
sẽ đều là vô tận từ bi, vô tận ân huệ,
kết thành ân trọng.
Đức Phật đối với chúng
sanh có ân đức nhiều dường ấy, ân đức
to ngần ấy, nay chúng ta đọc phần kinh văn
này, hăy báo ân! Chẳng biết ân, sẽ không biết báo ân; biết
ân th́ mới có thể phát nguyện báo ân, mới phát ra cái
tâm ấy. Báo đáp bằng cách nào? Trong đoạn kinh
văn này, phần trước có một bài kệ, trong lời
Sớ có một bài kệ, chúng tôi cũng đă đọc trong
phần trước. Bài kệ ấy được nói
trong kinh: “Giả sử đảnh
đới kinh trần kiếp. Thân vi sàng ṭa biến tam
thiên, nhược bất truyền pháp lợi chúng sanh, tất
cánh vô năng báo ân giả (Giả
sử đeo, đội trải trần kiếp, thân làm giường
ṭa khắp đại thiên, nếu chẳng truyền pháp lợi
chúng sanh, rốt cuộc chẳng thể báo ân được).
Phần sau lại có một bài kệ, thuộc
phần Sao, ư nghĩa đại khái tương đồng:
(Sao) Duy hữu truyền tŕ chánh pháp tạng, tuyên dương
giáo lư thí quần sanh, tu tập nhất niệm khế Chân
Như, tức thị chân báo Như Lai giả.
(鈔)唯有傳持正法藏,宣揚教理施群生,修習一念契真如,即是真報如來者。
(Sao: Chỉ có truyền tŕ chánh pháp tạng, tuyên
dương giáo lư thí muôn loài, tu tập một niệm hợp
Chân Như, chính là thật sự báo ân Như Lai).
So với bài kệ
trước, bài kệ này càng dễ hiểu hơn. Bài kệ
trước có ư nghĩa rất sâu, bài này chúng ta vừa
đọc liền hiểu rơ!
Chúng ta phải báo ân như thế nào? Chỉ
có “truyền tŕ”! Tŕ (持) là ǵ? Tŕ là làm được, là thọ tŕ. Chúng ta nhất
định phải làm được. Đối
với những ǵ đức Phật dạy chúng ta, chúng ta
nghiêm túc học tập, ắt phải biến chúng thành cuộc
sống, thành tư duy, thành tiêu chuẩn xử thế
đăi người của chúng ta, đó là Tŕ. Chính ḿnh có thể
tŕ th́ chúng ta có thể truyền, mong mỏi chánh pháp đừng
bị đoạn tuyệt, đời nào cũng đều
có người truyền thừa. Từ chỗ thầy truyền
tới, chúng ta đạt được; trong tương
lai, chúng ta cũng phải truyền cho đời kế tiếp.
“Truyền tŕ chánh pháp tạng”,
quư vị nhất định phải có nguyện này. “Tuyên dương giáo lư thí quần
sanh”. “Tuyên dương” (宣揚) là quư vị có cơ duyên dạy người
khác, đem đạo lư, phương pháp, sự tu học
và hiệu quả của Phật pháp làm cho người khác
thấy, dạy dỗ người khác, đấy là Pháp Bố
Thí, bố thí hết thảy chúng sanh. Cơ duyên của mỗi
cá nhân khác nhau, hễ tận tâm tận lực th́ thảy đều viên
măn, công đức đều là chẳng thể nghĩ bàn.
Hai câu trước, ai nấy đều có thể
làm được, câu thứ ba th́ không phải ai cũng
đều có thể làm được, nhưng người
tu Tịnh Độ chiếm tiện nghi rất lớn, nghĩa
là sao? Người tu Tịnh Độ nếu thật sự
niệm Phật văng sanh, sẽ là một niệm khế nhập
Chân Như. Trong các pháp môn khác, điều này chẳng dễ
dàng. Pháp môn Tịnh Tông là pháp môn đặc biệt, thật
thà niệm một câu Phật hiệu đến cùng, sẽ
thật sự có thể văng sanh. Hễ văng sanh, sẽ khế
nhập Chân Như, sẽ tương ứng. Đấy là
người thật sự báo ân Phật, thật sự báo
đền ân Phật. V́ sao? Quư vị thành Phật, hạ hạ
phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư của Tây
Phương Cực Lạc thế giới, cũng sẽ thành Phật viên măn ngay trong một đời. V́ thế,
văng sanh là thành Phật, chuyện này tuyệt vời lắm
thay! Bất luận chúng ta tu hành hoằng pháp lợi sanh như
thế nào, nếu quư vị sơ sót chuyện văng sanh, hai câu
sau sẽ chẳng có! Nhưng để báo ân Phật, báo đáp
chẳng viên măn, báo đáp chẳng rốt ráo, nhất định
phải niệm Phật văng sanh, đấy mới là người
báo ân Phật viên măn rốt ráo. Chúng ta học tập bài kệ
này tới đây.
***
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem bài kệ kế tiếp
là bài thứ mười hai:
(Kinh) Kiến bội ân nhân, đương nguyện
chúng sanh, ư hữu ác nhân, bất gia kỳ báo.
(經)見背恩人。當願眾生。於有惡人。不加其報。
(Kinh: Thấy kẻ bội ơn, nguyện cho chúng
sanh, đối với kẻ ác, chẳng báo thù họ).
Nguyện này là đại đức, cũng
là đại hạnh của Bồ Tát, nhất là trong hiện
thời, ít kẻ báo ân, mà kẻ bội ân, vong ân phụ
nghĩa phổ biến, chỗ nào cũng đều có thể
trông thấy. Không chỉ là tại Trung Hoa, mà gần như
trên cả thế giới, có thể nói là “thấy lợi quên nghĩa”, chẳng biết ân
nghĩa, cho nên họ chẳng biết báo ân là ǵ, ân đức
là ǵ, họ không biết. Nếu thấy kẻ tri ân, báo ân,
họ sẽ nói kẻ đó là
“đứa ngốc, đầu óc có vấn đề, chẳng
biết tự lợi!” V́ thế,
trong thế gian hiện thời, làm chuyện tốt chẳng
dễ dàng! Có những người làm thiện sự
cũng đến kể với tôi, họ làm thiện sự bị chướng
ngại quá ư là nhiều, đến hỏi tôi “v́ sao có lắm
chướng ngại ngần ấy?” Từ xưa tới
nay, chuyện tốt khó làm, người tốt càng khó làm!
Thời cổ, những bậc thánh hiền,
những người lănh đạo đất nước
đều là thánh hiền. Thời đại trước
kia th́ gọi là hoàng đế, thiên tử, hoàng thượng
thánh minh; những lời ấy có lư. V́ sao? Họ đọc
rất nhiều sách, đă được hưởng sự
giáo dục tốt nhất. “Thánh
minh” (聖明) nếu nói
đơn giản sẽ là người hiểu biết, là
người có trí huệ thông hiểu, chẳng phải là phường hồ đồ. Người thông hiểu sẽ chẳng
làm chuyện hồ đồ, sẽ không gây tổn thương
cho người khác, chẳng thể nào thương thiên hại
lư, cho nên là thánh minh. Nhưng vào thời ấy, làm người tốt, làm chuyện tốt cũng rất
khó khăn; thật ra, vẫn c̣n tốt hơn chúng ta
trong hiện thời quá nhiều, dễ làm! V́ quư vị làm
chuyện tốt, sẽ thật sự có người tán thán,
có kẻ hộ tŕ. Hiện thời, trong thời đại
này, quư vị mong làm chuyện tốt, chẳng có ai tán thán, chẳng
có ai hộ tŕ, lại c̣n t́m nhiều cách
gây khó dễ, chướng ngại quư vị, phá hoại quư
vị nhiều lắm. Đấy là nguyên nhân ǵ vậy? Thánh
hiền thế gian và xuất thế gian dạy chúng ta, “hành hữu bất đắc, phản
cầu chư kỷ” (có chuyện ǵ chẳng làm
được, hăy quay lại xét ḿnh). Chúng ta làm chẳng
thuận lợi, chướng duyên rất nhiều, làm như
thế nào? Hăy quay lại phản tỉnh, xét lại chính ḿnh. V́ sao có
lắm chướng ngại ngần ấy? Nếu quư vị
thật sự t́m ra nguyên nhân đạo lư, cái tâm quư vị sẽ
b́nh, tâm an lư đắc, đă thông suốt đạo lư, sau
đấy sẽ là tâm b́nh khí ḥa. Có cần phải làm chuyện
tốt hay không? Phải làm! Thật sự là chướng
ngại quá nhiều, nhưng bất đắc dĩ, làm không được là v́ chúng sanh chẳng có phước, chính ḿnh có lỗi lầm
hay chăng? Chính ḿnh chẳng có lỗi lầm, v́ sao? Chính ḿnh
đă tận tâm, tận lực, há có lỗi lầm! Lỗi
lầm ở chỗ chúng sanh thiếu phước!
Cớ sao chúng sanh chẳng có phước? Phải
biết điều này, chúng sanh chẳng có cơ duyên tiếp nhận giáo huấn
của thánh hiền. Chúng ta không nói tới thánh hiền; đối
với người hiện thời, ư nghĩa thánh hiền
rất khó lănh hội. Họ cũng chẳng biết thánh
hiền là ǵ? Chúng tôi nói cách khác, người hiện thời
chẳng được hưởng giáo dục luân lư, đạo
đức, giáo dục nhân quả, nói như vậy họ
sẽ dễ hiểu. Giáo dục luân lư là ǵ? Trung tâm của
giáo dục luân lư nhằm nói rơ mối quan hệ giữa con
người với nhau. Họ chẳng hiểu mối quan
hệ giữa con người với nhau, chẳng thấu
hiểu! Cha con, anh em là ǵ? Thân thích, bằng hữu là ǵ? Tôn
ty, lớn bé là ǵ? Chẳng hiểu các mối quan hệ ấy.
V́ sao không hiểu? Chẳng có ai dạy! Vài hôm trước,
từ báo chí tôi thấy có bản tin đứa trẻ
mười tuổi giết mẹ, may là mẹ nó chỉ bị
thương, c̣n chưa chết! V́ nguyên nhân ǵ? Đứa
nhỏ chơi game điện tử, mẹ nó không cho chơi,
nó lấy dao phay giết mẹ. Đấy là nguyên nhân ǵ? Chẳng được
hưởng giáo dục luân lư, chẳng thể trách nó. Nói thật
thà, nó chẳng có lầm lỗi, [mà là] cha mẹ, sư
trưởng của nó đă sơ sót trong việc giáo huấn.
Nhưng hiện thời, người Hoa gặp
một nguy cơ nghiêm trọng nhất, nguy cơ ấy là
ǵ? Nếu chẳng thể khôi phục sự dạy học
về văn hóa truyền thống, coi như tiêu, chuyện
này rất đáng sợ! Chư vị nhất định
phải hiểu, dẫu chánh quyền bị mất chẳng
sao cả, [coi như] không có ǵ cả! Dẫu sao người
Hoa có tâm lượng to lớn, ai làm hoàng đế cũng
đều được, chỉ cần chúng ta giữ
được văn hóa. Quư vị tới làm hoàng đế,
có thể tôn trọng truyền thống văn hóa của chúng
tôi, chúng tôi cũng có thể bao dung. Người Mông Cổ vào
làm chủ Trung Hoa một trăm năm, người Măn
Thanh vào làm chủ Trung Hoa hai trăm sáu mươi năm, xác
thực là họ đă tôn trọng, chẳng hủy diệt
văn hóa truyền thống của Trung Hoa; ngược
lại, lại bị Trung Hoa đồng hóa, cùng người
Hoa hợp thành một nhà. Đấy là một thứ sức
mạnh rất tuyệt vời của văn hóa Trung Hoa. Các
vị học giả, chuyên gia phương Tây chẳng thể
không tự đáy ḷng tán thán điều này!
Nhưng trong một trăm năm gần đây
nhất, do v́ luôn có chiến tranh, loạn lạc. Sau khi nhà
Măn Thanh mất nước, bọn quân phiệt Trung Hoa cát cứ, xă hội hỗn loạn. Tuy là cục diện
hỗn loạn, giáo học văn hóa truyền thống c̣n
có thể tiếp tục. Nhưng năm Dân Quốc 26
(1937), Nhật Bản phát động chiến tranh đối
với Trung Hoa. Tám năm Kháng Chiến đă khiến cho
Trung Hoa rối loạn, xă hội nháo nhào, bị tổn thương
hết sức nghiêm trọng. Cách giáo học truyền thống chẳng
c̣n, hằng ngày lo tỵ nạn, tôi sanh nhằm thời đại
ấy. Khi Kháng Chiến bùng nổ, tôi mười một tuổi.
Khi Kháng Chiến kết thúc, tôi mười tám tuổi, quư vị
thấy đó, toàn là đang trong độ tuổi cầu
học. Tôi nhớ trong tám năm ấy, tôi ở chỗ nào,
thời gian dài nhất chẳng quá mười tháng lại
phải đi, ngắn nhất là một, hai tuần.
V́ thế, trong tám năm, tôi đi qua mười tỉnh,
hoàn toàn là đi bộ, chẳng có công cụ giao thông, nhọc
nhằn như vậy đó! Những chỗ rất gần
với tiền tuyến sẽ nghe được tiếng
súng máy, tiếng đại bác càng chẳng cần phải
nói nữa. V́ thế, toàn thể xă hội đại loạn.
Măi cho đến hiện tại, giáo học truyền thống
hoàn toàn bị sơ sót, bỏ quên. Điều này hết sức
đáng sợ.
Đề xướng chữ Giản Thể
cố nhiên đem lại đôi chút thuận tiện, nhưng
phải trả một cái giá quá lớn! Cái giá phải trả
là ǵ? Chẳng có năng lực đọc cổ thư
Trung Hoa. Văn tự Trung Hoa là phù hiệu trí huệ, sau khi
đơn giản hóa
[Hán tự], quư vị chẳng thấy
được trí huệ và ư nghĩa trong những chữ ấy,
phải trả một cái giá quá ư to lớn.
V́ thế, tôi đă từng nghe nói, người Nhật đă
từng nói, khi Trung Hoa thi hành chữ Giản Thể, họ
liền cười nhạo: “Năm mươi
năm sau, người Hoa không nhận biết chữ Hán,
phải thỉnh giáo người Nhật”. Tôi nghe lời
ấy rất cảm động. Lần đầu tiên tôi
sang thăm Nhật Bản, đi cùng pháp sư Đạo
An, thời gian lần đó cũng dài, ở Nhật Bản
hơn hai mươi ngày, viếng thăm rất nhiều nơi,
chẳng thể không bội phục người Nhật!
Mấy năm trước, tôi lại sang thăm
Nhật Bản, thời gian cách nhau vừa đúng ba mươi
năm, thấy văn hóa truyền thống của người
Nhật bị suy thoái trên một mức độ lớn.
Chúng tôi trông thấy rất khó chịu. Người Nhật
Bản học theo phương Tây rất triệt để,
đă bị Tây hóa, hiện thời chỉ c̣n giữ lại
h́nh thức, chứ luân lư, đạo đức, nhân quả
cũng đều chẳng tin tưởng. Ngược lại,
người Đại Hàn dấy lên, Đại Hàn hết
sức coi trọng, nghiêm túc học tập Nho, Thích, Đạo, vượt
trỗi người Nhật rất nhiều. V́ thế, trước kia, Đại Hàn chẳng
bằng Nhật Bản, hiện thời đă vượt
xa khá nhiều. Do đó, trong tương
lai, đối với nền văn hóa truyền thống của
Trung Hoa, đúng là người Hoa và người Nhật Bản
đều phải sang Đại Hàn học tập. Người
Đại Hàn kế thừa truyền thống Trung Hoa;
đấy là chuyện rất lỗi lạc, chúng ta chớ
nên không gấp rút đuổi theo. Nếu chúng ta không quật
khởi, chẳng nghiêm túc nỗ lực học tập, trong
tương lai, chắc chắn người Đại Hàn
là thầy của chúng ta, trừ phi chúng ta vứt bỏ
truyền thống năm ngàn năm. Nếu muốn khôi phục
truyền thống, chẳng thể không cầu người
Đại Hàn dạy dỗ!
V́ thế, phải biết, trong xă hội, kẻ
vong ân phụ nghĩa nhiều ngần ấy, không biết ân
cha mẹ, không biết ân thầy, mà cũng chẳng biết
ân quốc gia, càng chẳng biết ân chúng sanh, càng chẳng
biết ân Phật pháp. Chẳng có khái niệm, chẳng tiếp
xúc, [lầm tưởng Phật pháp] là mê tín, lập tức
bài xích. Giáo dục của ngoại quốc từ bé đă dạy
ǵ? [Chạy theo] hiệu quả và lợi ích, dạy cạnh tranh. Trong
khi giảng kinh, tôi thường luôn nhắc tới chuyện
này, học cạnh tranh từ bé, khi lớn lên sẽ là đấu
tranh, lại nâng cao hơn nữa là chiến tranh. Chiến tranh trong hiện
thời là cùng nhau chết sạch, quư vị nói xem, có đáng
sợ lắm hay không? V́ thế, ở đây, đức Phật
dạy chúng ta, trông thấy những kẻ vong ân phụ nghĩa,
bèn dẫn phát đại nguyện, nguyện hết thảy
chúng sanh trong khắp pháp giới hư không giới, “ư hữu ác nhân, bất gia kỳ
báo” (nếu có kẻ ác, chẳng trả thù họ), phải
thương xót họ. Họ vô tri, chớ nên trách móc họ!
V́ thế, người theo đuổi công tác
dạy học, trong quá khứ đều biết, quư vị
đọc sách từ nhỏ, sách vỡ ḷng là Tam Tự Kinh.
Câu đầu tiên trong Tam Tự Kinh là
“nhân chi
sơ, tánh bổn thiện”. Có
ai là ác? Chẳng có kẻ ác! Sau đấy v́ sao biến
thành ác? Học theo điều xấu, quư vị chẳng
khéo dạy dỗ. V́ thế, câu thứ hai trong Tam Tự
Kinh là “tánh tương cận,
tập tương viễn” (tánh th́ gần giống như
nhau, do huân tập mà trở nên khác xa nhau). Câu này đă nói rất
rơ ràng! Bản tánh vốn lành, mọi người đều
như nhau, chẳng có ǵ sai biệt, nhưng tập tánh khác
nhau. Tập tánh ngày càng xa cách bản tánh, hiện thời đă
xa đến mức độ nào? Xa đến nỗi hoàn
toàn quên bẵng bản tánh! Có bản tánh hay không? Có chứ!
Về căn bản là chẳng biết có bản tánh, chỉ
biết là thiện hay ác. Thiện là ǵ? Lợi chính ḿnh là
thiện, bất lợi cho chính ḿnh th́ toàn là ác.
V́ thế, trẻ nhỏ đối với mẹ, mẹ
cho nó chơi game điện tử th́ nó vui vẻ, nghĩ là
thiện. Mẹ chẳng cho phép chơi th́ là ác. Ác th́ phải
diệt trừ, nghiễm nhiên cầm dao giết mẹ!
Nguyên nhân ở chỗ này, quư vị phải t́m cho ra!
Giáo học truyền thống của Trung Hoa
là một nền giáo học tốt đẹp dường
ấy. V́ thế, trong một trăm năm trước, có
thể nói là dân chúng Trung Hoa là dân chúng thiện lương
nhất trên thế giới, có thể nhẫn nhục, có thể
nhường nhịn, chẳng thích tranh giành, có thể chịu
khổ, chịu hết mọi nỗi khuất nhục mà họ
vẫn sống được, lại c̣n có thể ǵn giữ
truyền thống. Điều này khá lắm! Truyền thống
ấy chính là gia giáo, căn cội là gia giáo. Bởi lẽ,
xưa kia, trẻ nhỏ sanh ra được ai dạy?
Cha mẹ dạy. Quan trọng nhất là sự dạy dỗ của mẹ.
V́ con ở với mẹ thời gian khá dài, cha có lúc phải
đi làm, mẹ th́ quá nửa là không biết chữ. Mẹ
tôi không biết chữ, nhưng từ nhỏ, cụ đă
kể cho chúng tôi những câu chuyện hiếu, đễ,
trung, tín, dạy chúng tôi xử sự, đăi người tiếp
vật như thế nào, bà cụ hiểu hết.
Cụ học từ đâu ra? Từ thế hệ trước,
ông bà dạy cho mẹ.
Về giáo dục xă hội, giáo dục xă hội
tại Trung Hoa vào thời cổ đă dựa vào ǵ? Nói theo
cách hiện thời, [sẽ là] dựa vào biểu diễn văn
nghệ. Tại nông thôn, trong những dịp lễ Tết,
rước thần, trảy hội, nhằm ngày vía của
thần, Phật, đều có lễ mừng. Trong lễ mừng, thông
thường là mời ban hát đến diễn tuồng. Nội
dung tuồng tích Trung Hoa nói chung chẳng ngoài hiếu, đễ,
trung, tín, thiện có thiện quả, ác có ác báo, họ (khán thính
giả) học từ chỗ này, toàn là giáo dục. Chẳng
như hiện thời, văn nghệ hiện thời lấy
chuyện giải trí làm mục đích. Trung Hoa chẳng vậy.
Văn nghệ tại Trung Hoa trong mấy ngàn năm qua lấy
giáo dục làm mục đích. V́ chẳng có trường học
nhiều ngần ấy, chẳng có nhiều thầy như
vậy, trước kia cũng chẳng có TV, radio, những
thứ thường được dùng là ca múa, tuồng hát,
mỹ thuật, đều là nghệ thuật. Mọi người
đều tuân thủ, các nhà nghệ thuật đều tuân
thủ một câu nói của Khổng lăo phu tử, đó là
nguyên tắc chỉ đạo cao nhất, tức là “tư vô tà” (思無邪, chẳng nghĩ tà vạy). Quư vị thấy, nghe,
tiếp xúc, tuyệt đối sẽ chẳng nẩy sanh ác
niệm, lấy chuyện này làm mục đích. V́ thế,
những kẻ không biết chữ tại nông thôn đều
hiểu đạo lư làm người, mà cũng đều
biết cách dạy dỗ con cái.
Do vậy, giáo dục gia đ́nh là điều
đặc sắc trong sự truyền thừa năm ngàn năm
của Trung Hoa, người ngoại quốc chẳng có. Dạy
từ khi nào? Trẻ nhỏ sanh ra, mở mắt ra, nó có thể
thấy, có thể nghe, tuy nó chẳng nói năng, nó có thể
thấy, có thể nghe. Bởi vậy, cha mẹ, người
lớn ở trước mặt trẻ nhỏ, ăn nói lẫn
cử chỉ đều phải đoan trang, khiến cho
trẻ nhỏ thấy, nghe, tiếp xúc, toàn là những thứ
chánh diện, toàn là thiện, quyết định chẳng
cho chúng nó trông thấy những dáng vẻ hung ác. Người
lớn quan tâm chiếu cố trẻ nhỏ như vậy,
trẻ nhỏ đến khi tṛn ba tuổi sẽ có năng
lực phân biệt đúng, sai, thiện, ác, nó có năng lực
ấy. V́ sao? Từ bé nó đă học được, đó
gọi là căn cội! Trung Hoa có một câu ngạn ngữ
cổ: “Thiểu thành nhược
thiên tánh, tập quán thành tự nhiên” (Những
ǵ được h́nh thành từ bé sẽ trở thành giống
như bẩm tánh, do thói quen mà trở thành tự nhiên).
Đến năm, sáu tuổi, trẻ phải thực hiện Đệ Tử Quy, hiếu thảo cha mẹ,
tôn kính bậc trưởng thượng, đối với
ai lớn hơn nó, nó đều phải tôn trọng. Trong
gia đ́nh, có những chuyện nó sẽ phải học làm,
như quét dọn, ứng đối. Đấy là khởi
sự học, đều do cha mẹ dạy, người
bề trên dạy. Thông thường, đến sáu, bảy
tuổi bèn đi học. Đi học trong trường tư
thục, được thầy dạy dỗ. Trước
khi lên mười, người dạy (cha, mẹ, thầy)
đều là lấy thân làm gương, chính ḿnh làm được, nêu gương cho nó xem, chẳng
phải là ngôn giáo, mà là thân giáo. Sau khi lên năm, lên sáu, mới
có ngôn giáo, trẻ hiểu ư nghĩa. Từ khi sanh ra cho
đến ba, bốn tuổi, hoàn toàn là thân giáo, thảy đều
là làm cho trẻ thấy. Lúc đó, chẳng bảo trẻ
niệm Đệ Tử Quy, mà là cha mẹ đều làm
được. Tuy cha mẹ chẳng đọc sách, nhưng
đều hiểu đạo lư làm người. Họ hiểu
những điều được nói trong Đệ Tử
Quy; tuy họ không biết chữ, nhưng họ đều
làm được. Do vậy, trẻ nhỏ từ bé đă được học,
hiểu. Đến khi sáu, bảy
tuổi đi học, thầy cũng làm được. Nói
thật ra, những người làm thầy, tức thầy
giáo trong trường tư thục đă làm được
Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên cũng có thể làm
được. Thập Thiện Nghiệp Đạo
cũng chẳng sai kém cho mấy! Họ có căn cội, đó
gọi là nền tảng sâu dầy. V́ thế, ngạn ngữ mới có câu: “Tam tuế khán bát thập, thất tuế khán chung
thân”(từ [tánh cách của một người]
lúc ba tuổi, có thể thấy được tánh cách của
người ấy lúc tám mươi. Nh́n vào cách
cư xử lúc bảy tuổi, sẽ biết suốt
đời người ấy sống như thế nào). Bảy
tuổi là vừa mới đi học,
có thể phán đoán cả đời của đứa trẻ
ấy.
V́ thế, mắt xích quan trọng nhất
trong giáo dục truyền thống bị mất đi, như Tam Tự
Kinh đă nói: “Cẩu bất
giáo, tánh năi thiên”. [Ư nói] nếu quư vị chẳng khéo dạy
nó, dần dần nó sẽ học theo thói xấu! Chúng ta nh́n
vào sự giáo dục trẻ nhỏ trong hiện thời, nó
giết cha, giết mẹ, giết anh em là do được
dạy dỗ mà ra. Ai dạy nó? TV dạy nó, Internet dạy nó, tṛ chơi
điện tử dạy nó. Quư vị thấy nội dung của những thứ ấy là ǵ? Bạo lực, t́nh dục,
giết, trộm, dâm, dối, hằng ngày nó học những
thứ ấy. V́ thế, nó chẳng biết giết người
là tội lỗi, chẳng biết đó là sai lầm, coi đó
là tṛ chơi!
Do vậy, tôi thấy chuyện này rất lo
ngại, những đứa trẻ ấy trong tương
lai lớn lên, từ bé chúng nó đă chơi đùa như vậy,
trong tương lai, chúng nó nắm chánh quyền, mỗi quốc
gia chế tạo nhiều vũ khí nguyên tử và vũ khí
hóa học như thế, đến khi lọt vào tay của
chúng nó, sẽ bị sử dụng
loạn xạ, v́ sao? Tṛ chơi
mà! Chúng nó chẳng biết đó là sai lầm, chẳng biết
giết người là có tội, chẳng biết chiến
tranh, tai họa là sai lầm, chẳng biết, tṛ chơi mà!
Giống như chơi đùa với máy chơi game vậy.
Lúc ấy sẽ là tận thế, làm như thế nào đây? Bởi
lẽ này, tôi mới đề xuất, mong mỏi những quốc gia có vũ khí nguyên tử phải cảnh
giác, tốt nhất là tiêu hủy vũ khí hạch nhân và vũ
khí hóa học, như vậy th́ mới mang lại an toàn cho xă hội.
Nếu không, nhiều thứ ngần ấy bày ra đó, chắc
chắn sẽ có ngày dùng tới. Nếu dùng tới, sẽ
là ngày tàn của thế
giới, đáng sợ hơn bất cứ
điều ǵ khác! Hiện thời, những người ấy
c̣n có thể kiềm chế. Kẻ lănh đạo quốc
gia biết kiềm chế, sợ rằng một hai thế
hệ sau sẽ chẳng thể kiềm chế.
Chúng ta thấu hiểu đạo lư này, đối
với những kẻ làm ác trong hiện thời sẽ tự
nhiên có thể dung thứ họ, lại c̣n dùng phương
pháp ǵ? Chỉ vận dụng cảm hóa, quyết định
chớ nên trả đũa. Trả đũa sẽ chẳng
thể giải quyết vấn đề, chỉ khiến
cho cừu hận sâu xa hơn. Bởi lẽ, ở phương
Tây, xác thực là có những người đối với
chuyện xử lư bọn khủng bố, họ chủ trương
dùng cách giáng trả, dùng sự trấn áp, tức là dùng vũ
lực để trấn áp, trả đũa bằng vũ
lực, có hiệu quả hay không? Nh́n vào hiện thời, chẳng
có hiệu quả! Sau khi sự kiện Mười Một
tháng Chín phát sanh, khá nhiều vị chuyên gia, học giả
suy nghĩ nghiêm túc, [nhận thấy] trấn áp hay trả đũa
đều chẳng thể giải quyết vấn đề.
V́ thế, mới nghĩ tới chuyện hăy nên chọn lựa
phương pháp ḥa b́nh để giải quyết. Cách nghĩ
ấy là chánh xác!
Làm từ nơi đâu? Làm từ chính bản
thân ta. V́ thế, tôi tham dự hội nghị nhiều lần,
tôi đề xuất “để
hóa giải xung đột, phải làm từ trong nội tâm
sâu thẳm của chính ḿnh”. Đối với hết thảy
người, đối với hết thảy sự, đối
với hết thảy vật, phải hóa giải ư niệm
đối lập trong nội tâm của chúng ta, chẳng
đối lập với người khác, chẳng đối
lập với sự, mà cũng chẳng đối lập
với hết thảy vật, hóa giải ư niệm đối
lập từ trong nội tâm của chính ḿnh. Người
khác hủy báng, lăng nhục, hăm hại ta, ta đều chẳng so đo, đều chẳng
bận ḷng. V́ sao? Nếu quư vị so đo, ghim trong ḷng, vô
dụng, họa hại vô cùng! Đây chẳng phải là
chuyện một đời, sẽ tạo thành đời đời kiếp kiếp
oan oan tương báo, chẳng
hết, chẳng xong, quá đau khổ! Giải quyết vấn
đề ấy như thế nào? Chính là chẳng ghim trong
ḷng, nơi ta chẳng có, nơi họ có. Họ đối
với ta không tốt, ta đối với họ tốt lành.
Nếu họ c̣n có thiện căn, c̣n có phước báo, thời
gian lâu sau, chắc chắn họ sẽ bị cảm động, sẽ
quay đầu là bờ. Chúng ta tiếp nhận, dung nạp,
bao dung họ, quyết định chẳng so đo, đấy
là giáo dục. Phải biến ác nhân thành thiện nhân, phải
biến kẻ mê hoặc, điên đảo thành người
giác ngộ, hóa mê thành ngộ, hóa ngu thành trí, hóa phàm thành thánh,
đấy là giáo dục.
V́ thế, phải làm từ nội tâm, có thể
làm đến mức trong nội tâm chẳng có kẻ đối
địch, cổ nhân diễn tả chuyện này là “nhân giả vô địch”. “Nhân
giả” (仁者, người có ḷng nhân) là Bồ Tát. Trong tâm Bồ
Tát, tuyệt đối chẳng có kẻ đối địch.
Người ngoài đối địch với Bồ Tát; Phật,
Bồ Tát bao dung kẻ ấy, Phật, Bồ Tát tuyệt đối
là dùng thiện ư đối đăi người khác. Thấy
kẻ khác làm ác, chẳng nói một câu nào. Thấy kẻ khác
làm việc thiện, có thể tán thán họ. Đấy là “xưng tán Như Lai” như trong
mười nguyện Phổ Hiền đă nói. Như Lai là Tánh
Đức, Tánh là thiện, bản tánh vốn lành. V́ thế,
quư vị làm lành, chúng tôi tán thán quư vị. Quư vị làm ác, chẳng
nhắc tới một câu nào, mà cũng chẳng ghim trong ḷng.
Trước hết là độ chính ḿnh; sau đấy,
quư vị sẽ có thể độ người khác. Chẳng
độ nổi chính ḿnh, làm sao quư vị có thể độ
người khác cho được? Thấy người
khác làm ác, khó nhẫn nhất là người ác có ác ư đối
với chính ḿnh. Chuyện này khó nhẫn nhất! Phải nhẫn,
khó nhẫn vẫn phải nhẫn, khó hành vẫn phải hành,
đấy là ǵ? Công phu! Nếu quư vị thấu hiểu đạo
lư này, người khác dùng ác ư đối với ta, ta không
chỉ chẳng oán hận kẻ ấy. Không chỉ chẳng
có cái tâm trả thù, mà c̣n đối với kẻ ấy tột
bậc cảm ơn! Cảm ơn ǵ vậy? Tăng tấn
cảnh giới cho ta! Vị thầy dạy ta Nhẫn Nhục
Ba La Mật chính là kẻ ấy.
Từ kinh Phật, các đồng học
đều biết rành chuyện vua Ca Lợi cắt chặt
thân thể. Trong kinh Kim Cang đă trích dẫn câu nói ấy, thật
sự là chuyện khó chịu đựng nhất. Nhẫn
Nhục tiên nhân chẳng có lỗi lầm, vua Ca Lợi nổi
giận, đem [tiên nhân] lăng tŕ xử tử. “Lăng tŕ” (凌遲) là dùng đao lóc thịt, lóc từng miếng một,
măi cho đến khi người ấy bị hại chết;
đó là chẳng để cho người ấy chết yên
lành. Nhưng Nhẫn Nhục tiên nhân đối với vua
Ca Lợi bèn phát nguyện: “Ta chẳng có tâm nóng giận, chẳng
có tâm trả thù. Trong tương lai, ta thành Phật, sẽ độ
ngươi trước tiên”. Nhẫn Nhục tiên nhân thuở
ấy là chuyện thuộc về tiền thân của Thích
Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật, thật sự
độ người đầu tiên là vua Ca Lợi. Tôn giả Kiều Trần Như chính là thân
sau của vua Ca Lợi. Nói rồi bèn giữ lời, chẳng
báo oán, chỉ biết báo ân, chẳng biết báo oán. Tiên
nhân cảm kích vua Ca Lợi, v́ sao? Khảo nghiệm cuối
cùng về Nhẫn Nhục Ba La Mật, ngươi có thể nhẫn hay không? V́ thế, vua Ca Lợi cắt
chặt thân thể chính là [giúp Nhẫn Nhục tiên nhân] viên măn Nhẫn Nhục Ba La Mật. Có thể chịu đựng
điều này, quư vị mới thật sự là viên măn, chẳng
có mảy may oán hận nào!
V́ thế, chúng ta bị người ta lăng
nhục, phải thường nghĩ đến chuyện vua Ca Lợi cắt chặt thân thể, tâm chúng ta sẽ
b́nh lặng. V́ sao? Chúng ta hứng chịu những tổn thương
nhẹ hơn Nhẫn Nhục tiên nhân quá nhiều. So sánh nỗi
tổn thương của Ngài với sự tổn thương
của chúng ta trong hiện tại, [sự tổn thương
của Ngài] không chỉ vượt gấp trăm lần,
ngàn lần, Ngài nhẫn được. Chúng ta chỉ là bị
va đập đôi chút, thấm vào đâu? Thành tựu
đức hạnh của chính ḿnh. V́ thế, người biết
tu hành sẽ chuyển cảnh giới. Kinh Lăng Nghiêm
đă dạy: “Nếu có thể
chuyển vật, ắt giống như Như Lai”. Đặc
biệt là đối với nghịch cảnh, ác duyên, quư vị
phải biết chuyển. Hễ chuyển được,
sẽ hữu ích cho sự tu hành của chúng ta rất lớn,
giúp chúng ta tăng tốc độ tiến cao hơn, lẽ
đâu chẳng cảm ơn? Lẽ nào c̣n có thể trả
thù? Há có đạo lư ấy! Thuận cảnh và nghịch cảnh
đều như nhau, thuận cảnh cũng nhằm khảo nghiệm ta, giúp chúng ta tăng tấn. Đối
với thuận cảnh, chớ nên tham luyến. Hễ có
tham luyến là hỏng. V́ thế, trong thuận cảnh, tức
là đối với thuận cảnh và thiện nhân, chẳng
dấy ḷng tham luyến, mang ḷng cảm ơn, nhưng chẳng
tham luyến. Đối với nghịch cảnh, ác nhân, có
tâm cảm ơn, chẳng trả thù, chẳng oán hận, đoạn
sân khuể. Trong nghịch cảnh, học
đoạn sân khuể; trong thuận cảnh, học đoạn
tham dục. Đoạn tham, sân, si từ chỗ nào? Nếu
quư vị chẳng nghiêm túc rèn luyện trong hoàn cảnh nhân
sự, có thể đoạn tham, sân, si ư?
Do đó, quư vị phải thấu hiểu đạo
lư này, người tu hành tu ǵ vậy? Siêng tu Giới, Định,
Huệ, dứt diệt tham, sân, si. Tham, sân, si đă đoạn,
ba ác đạo sẽ chẳng có, cái tâm cảnh giác sẽ
cao. Đối với thuận cảnh, thiện duyên, hễ
quư vị sanh ḷng tham ái, sẽ đi vào ngạ quỷ đạo.
Cảnh giới ấy là ǵ? Lôi kéo, dẫn dụ quư vị vào
ngạ quỷ đạo. Nghịch cảnh, ác duyên
hiện hữu trước mặt quư vị, nếu quư vị
dấy ḷng sân khuể, dấy lên ư niệm trả thù, nó sẽ
lôi kéo quư vị vào địa ngục đạo. Quư vị
hăy ngẫm xem, nếu quư vị là một người thông
hiểu, sẽ chẳng bị hại. Đối
với nghịch cảnh, ác duyên mà chẳng sân khuể, không
chỉ là chẳng đọa địa ngục, mà c̣n tăng
tấn vượt trỗi
trên một mức độ lớn.
Đối với thuận cảnh, thiện duyên chẳng
dấy ḷng tham luyến. Chẳng sanh tham luyến, sẽ không
vào ngạ quỷ đạo, cũng là tăng tấn
vượt trỗi trên một mức độ lớn. Giải quyết
vấn đề này như thế nào? Trí huệ. V́ thế,
quư vị có trí huệ, cảnh giới thảy đều chuyển
được. Quư vị thấy
người ấy vốn là cảnh giới tam đồ,
nay chuyển biến, tối thiểu là biến thành ba cảnh
giới thiện. Quả báo trong đời sau của quư vị
là Dục Giới Thiên, Sắc Giới Thiên, và Vô Sắc Giới
Thiên. Nếu quư vị có thể niệm Phật cầu sanh
Tịnh Độ, sẽ vượt thoát mười pháp
giới.
V́ thế, “ư
hữu ác nhân” (với kẻ làm ác), chẳng dấy ḷng sân
khuể, “bất gia kỳ báo”
(chẳng trả thù họ), đấy là đại đức.
Quư vị chẳng có cảnh giới ấy, sẽ chẳng
tu thành đức to lớn này. Họ tạo cơ hội
cho quư vị tu đại đức, mà cũng tạo cơ
hội cho quư vị đọa địa ngục. Tức
là cảnh giới ấy hiện tiền, một đằng
là thiên đường, một đằng là địa ngục,
chính quư vị chọn lựa. Chẳng khởi tâm, không động
niệm, sẽ là thiên đường. Khởi tâm động
niệm, dấy ḷng oán hận, tâm sân khuể là địa
ngục. Trong thuận cảnh khởi tâm động niệm,
khi dấy ḷng tham ái, sẽ là ngạ quỷ, súc sanh. V́ thế,
cảnh giới hiện tiền, quư vị phải thường
nghĩ tưởng, đối với cảnh giới này,
ta sẽ tạo ba ác nghiệp hay là ba thiện nghiệp? Ba
thiện nghiệp hoàn toàn tùy thuận Tánh Đức, ba ác
nghiệp hoàn toàn trái nghịch Tánh Đức, đạo lư
là như thế đó. Do vậy, quư vị phải thấu
hiểu, quyết định tu ba thiện nghiệp, quyết
định xa ĺa tham, sân, si. Bất luận cảnh giới
ǵ cũng sẽ chẳng dẫn phát ư niệm tham, sân, si trong tâm, quư vị sẽ thành công, Giới, Định, Huệ
của quư vị có cơ sở.
Do vậy, hiện thời, người vong ân
phụ nghĩa quá ư là nhiều, kẻ hăm hại, kẻ lường gạt,
kẻ lấn hiếp, kẻ khiến quư vị phải chịu
tội, kẻ phá hoại quư vị, thảy đều là hảo nhân! Quư vị có thể
ngay lập tức giác ngộ, chẳng có mảy may sân khuể,
chẳng báo thù mảy may, chính ḿnh chẳng thua thiệt, chịu
một chút khổ trước mắt chẳng sao cả,
đời sau sẽ là cơi trời hoặc nhân gian, chẳng
phải là tam đồ. Ngược lại, quư vị hăy nên
thương xót những kẻ ấy, v́ sao? Do họ tạo
tác [ác nghiệp], trong tương lai, sẽ đọa tam
đồ, đọa tam đồ rồi vẫn mong ta giúp
đỡ họ, siêu độ họ. Đấy là chánh lư, là sự thật.
Đức Thế Tôn đă thị hiện,
trước hết là phải độ Kiều Trần
Như. Phàm là kẻ nào làm hại chúng ta, khi chúng ta đă
thành tựu, trước hết là phải độ họ,
hăy nên phát cái tâm ấy. A! Nay đă hết thời gian rồi. Chúng tôi
giảng bài kệ này tới đây!
Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm
thứ mười một
Tịnh
Hạnh Phẩm
Phần 44 hết
[1]
Do cơi Vô Sắc bao gồm bốn tầng
trời lần lượt tương ứng với bốn
cấp Thiền Định, nên thường gọi là Tứ
Thiền Thiên. Do không c̣n sắc chất, bốn cơi trời ấy
thường gọi là Tứ Không Thiên, tức Không Vô Biên Xứ
(Ākāśānantyāyatana), Thức Vô Biên Xứ (Vijñānānantyāyatana), Vô Sở Hữu Xứ (Ākiṃcanyāyatana)
và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ (Naivasaṃjñānāsaṃjñāyatana).