Đại
Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm
Kinh
Phẩm
thứ mười một
Tịnh
Hạnh Phẩm
Phần 45
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp
sư Thích Tịnh Không
Địa điểm:
Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ
ngày mồng Bảy tháng Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và
Minh Tiến
Tập 1551
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười
một, tiểu đoạn thứ ba trong đoạn lớn
thứ sáu của phần Kệ Tụng.
Xin xem bài kệ thứ mười ba:
(Kinh)
Nhược kiến sa-môn, đương nguyện chúng
sanh, điều nhu tịch tĩnh, tất cánh đệ nhất.
(經)若見沙門。當願眾生。調柔寂靜。畢竟第一。
(Kinh: Nếu thấy sa-môn, nguyện cho chúng sanh,
điều nhu, tịch tĩnh, rốt ráo bậc nhất).
Đấy là khi khất thực ở bên
ngoài, nhất định sẽ gặp đồng hành.
Đồng hành đều là người xuất gia,
nhưng ở đây chẳng nói nhất định là
đệ tử Phật! Bởi lẽ, tại Ấn
Độ vào thời cổ, Sa-môn (Śramaṇa) gần như là tiếng để gọi chung
người xuất gia trong tất cả các tôn giáo! Đấy
là [từ ngữ]
phiên âm từ chữ Phạn; trong phần
chú giải, Thanh Lương đại sư đă nói:
(Sớ) Thử vân Chỉ Tức.
(疏)此云止息。
(Sớ: Cơi này dịch là Chỉ Tức).
“Thử” (此) là “thử phương”
(此方, phương
này), tức Trung Hoa. Trong nghĩa tiếng Hán, [Sa-môn] có
nghĩa là Chỉ Tức (止息, ngưng dứt). Nhưng trong giới kinh (戒經, kinh dạy
về giới luật, luật tạng), chúng ta thường
dịch là Cần Tức (勤息, siêng
năng dứt trừ), chữ Cần trong Cần Phấn
(勤奮, siêng năng, phấn chấn), ư nghĩa càng rơ rệt
hơn. V́ thế, “cần tu Giới,
Định, Huệ, tức diệt tham, sân, si” (siêng tu
Giới, Định, Huệ, dứt diệt tham, sân, si);
đấy là ư nghĩa của chữ Sa-môn trong Phật môn.
Ở đây, cách dịch của ngài Thanh Lương có thể là cách giải
thích thông dụng trong xă hội Ấn Độ thời cổ,
nên nói là Chỉ Tức. Ư nghĩa trong Phật môn hay hơn,
“siêng tu Giới, Định, Huệ,
dứt diệt tham, sân, si”. Nói chung, ư nghĩa được
bao hàm trong ấy tuyệt đối là “dứt ác”, ngưng dứt hết thảy ác niệm,
ác ngôn, và ác hạnh.
Tại Ấn Độ, chúng ta biết trong
thời đại đức Thế Tôn xuất thế, có
thể nói Ấn Độ là “đất
nước tôn giáo” trên
thế giới này. Kinh Phật
nói [thuở ấy] có chín mươi sáu loại [tôn giáo khác nhau], các đồng học học Phật theo thói quen thường
gọi họ là chín mươi sáu thứ ngoại đạo.
“Ngoại đạo” chẳng
phải là biếm nhẽ, hạ thấp người khác đâu
nhé, chẳng phải là ư nghĩa ấy! Trong Phật pháp, “ngoại đạo” nghĩa là: Cầu pháp ngoài tâm
th́ gọi là ngoại đạo. Đồng học học
Phật nếu chẳng biết nội quán tự tánh th́
cũng biến thành ngoại đạo, thuật ngữ
trong Phật môn gọi là “môn nội
ngoại” (門內外), tức
là ngoại đạo ngay trong Phật môn! Chúng ta ngẫm
xem, chúng ta có phải là “môn nội
ngoại” như nhà Phật đă nói hay không? Có phải vẫn
là cầu pháp ngoài tâm hay không? Cẩn thận quan sát, tư duy,
đại khái là bảy, tám phần mười trong Phật
môn vẫn là cầu pháp ngoài tâm, chẳng biết trở về
tự tánh. Nếu mọi người đọc kỹ
kinh Lăng Nghiêm, quư vị sẽ hiểu được chuyện này: Làm thế
nào để giống như Quán Thế Âm “xoay cái nghe lại để nghe tự tánh, tánh thành
vô thượng đạo”? Cổ nhân thường nói: “Hành hữu bất đắc, phản
cầu chư kỷ” (Có chuyện ǵ chẳng làm
được, hăy quay lại xét ḿnh). Nếu chúng ta nói theo
cách hiện thời, “phản
quán” (反觀) là như thế nào? Phàm đối với mọi
chuyện, bất luận chuyện ǵ, nhất định là
phải thường xuyên nh́n vào bên trong, quư vị mới có thể thật
sự khơi mở,
sanh khởi trí huệ. Nếu việc ǵ
cũng nh́n ra ngoài, chắc chắn sẽ nẩy sanh phiền năo. V́ sao Phật, Bồ Tát chẳng sanh phiền
năo, chỉ sanh trí huệ? Chẳng có ǵ khác, bất luận
là thuận cảnh hay nghịch cảnh, thiện duyên hay ác
duyên, các Ngài đều có thể phản tỉnh sâu xa. Do vậy,
các Ngài chẳng sanh phiền năo.
Trong phần trước, chúng ta đă từng
đọc thấy ư nghĩa của hai bài kệ ấy đều
rất sâu. Thật ra, mỗi bài kệ đều sâu rộng
vô tận. V́ sao Thanh Lương đại sư chú giải
hai bài kệ trước cặn kẽ như thế? Chúng
ta cũng tốn mười mấy giờ để học
tập chúng. Đấy là “tri
ân, báo ân”. Từ xưa tới nay, điều này đă
duy tŕ sự an toàn trong xă hội. Nói theo kiểu hiện thời,
sẽ là “hóa giải xung đột,
xúc tiến sự an định và ḥa b́nh trong xă hội”.
Thật sự biết “tri ân,
báo ân”, chuyện này sẽ được giải quyết
dễ dàng. Chúng ta hăy suy nghĩ chuyện này, người ta v́ sao có
thể tri ân? Do được dạy dỗ mà ra! Thời cổ, chúng ta có thể
nói là một trăm năm trước, kẻ làm
cha mẹ đều biết cách dạy con cái, nuông chiều
mù quáng rất ít, phải dạy cho con hiểu chuyện, phải
dạy con thành người. Chẳng thể nuông chiều!
Cha mẹ dạy trẻ nhỏ (dạy con cái) phải tôn
sư trọng đạo, phải biết ơn thầy.
Do vậy, biết ân thầy là do cha mẹ [dạy dỗ],
chẳng phải do kẻ nào khác dạy bảo! Nói chung, thầy
chẳng tiện nói, đúng hay chăng? Thầy nói: “Các tṛ!
Thầy có ân đức với các tṛ, các tṛ phải biết
ân, báo ân”. Chẳng thốt ra lời lẽ ấy được;
v́ thế, nhất định phải do cha mẹ dạy.
Nhưng kẻ làm con cái đối với ân
cha mẹ, chúng cũng không biết. Nếu biết cha mẹ
có ân, làm sao có thể giết hại cha mẹ cho được?
Làm sao có thể tổn thương, làm hại cha mẹ cho
được? Con cái có
thể biết ân cha mẹ bằng cách nào?
Do thầy dạy. Cha mẹ cũng chẳng thể bảo con
cái: “Cha mẹ vất vả nuôi tụi bay, tụi bay phải
biết báo ân”. Lời này cũng chẳng thể thốt ra
được, người Hoa từ xưa đều rất
khiêm hư. V́ thế, chuyện này do thầy dạy, đạo
lư ở chỗ này. Ân quốc gia, ân Phật, Bồ Tát, ân chúng sanh
đều do thầy dạy. Thầy phải nói thấu
triệt những đạo lư và chân tướng sự thật
ấy, lại c̣n đều có thể vận dụng [những
điều ấy] trong cuộc sống, ngôn hạnh và cử
chỉ. Hết thảy chúng sanh, không chỉ là người,
mà động vật, thực vật, khoáng vật, và hiện
tượng thiên nhiên đều có ân đối với
chúng ta. V́ cuộc sống của chúng ta chẳng tách rời
hoàn cảnh ấy. Chúng
ta dùng cái tâm báo ân để đối đăi thiên nhiên; hiện thời, chư vị đă hiểu, chư vị
thấy thí nghiệm với nước của ông Giang Bổn
Thắng liền biết: Dùng cái tâm báo ân đối với
thiên nhiên, thiên nhiên sẽ nhất định gió thuận
mưa ḥa. Chẳng biết báo ân, toan phá hoại thiên nhiên,
toan cải tạo thiên nhiên, được lắm! Thiên tai, nhân họa
liền xảy ra. Quư vị hăy ngẫm xem, quan niệm “tri ân, báo ân” có quan trọng hay
không?
V́ thế, trong kinh, đức Phật đă
dạy, Thanh Lương đại sư đă trích dẫn
điều ấy trong lời Sớ; ở đây, tôi đọc
lại một lần nữa: “Đắc
nhân tiểu ân, thường hoài đại báo” (chịu
chút ơn nhỏ của người khác, thường mang
ḷng báo đáp to tát). Cổ nhân dạy thế hệ sau
như thế, họ dạy rằng: “Thọ nhân trích thủy chi ân, thường tư
dũng tuyền vi báo” (chịu
ơn của người khác chừng bằng giọt
nước, thường nghĩ báo đáp như suối
trào). Chúng ta chịu ân đức của thiên nhiên, chịu
ân đức của hết thảy chúng sanh. Quư vị hăy
ngẫm xem, từ sáng đến tối, những thứ
chúng ta ăn uống là do bao nhiêu người đă nhọc
nhằn lo toan, nên chúng ta mới có được một
chén cơm này, mới có một đĩa đồ ăn
này, mới có một bộ quần áo này, há có phải là
đơn giản dường ấy ư? Nay quư vị
ăn no, mặc ấm, có nghĩ một hạt cơm ấy,
một bộ quần áo ấy do đâu mà có hay không? Lẽ nào quư vị
có thể nói chúng sanh chẳng có ân ǵ đối với quư vị?
Gạo thóc sanh trưởng từ mặt đất, đại
địa có ân với chúng ta! Nếu gieo hạt thóc xuống,
mà chẳng có ánh sáng mặt trời, chẳng có không khí, chẳng
có nước, chẳng có phân bón, lúa cũng không thể mọc
lên được! Những thứ ấy thảy đều
có ân với chúng ta, quư vị có biết hay không? Hai câu sau
đó đă nói rất hay: “Bất
tri ân giả, đa tao hoạnh tử” (Kẻ chẳng
biết ân, phần nhiều sẽ bị chết ngang trái).
Khi tôi giảng kinh, chẳng nói là “hoạnh tử” (橫死, chết
ngang trái, chết bất ngờ), mà nói là ǵ? Tai nạn! Gặp
nhiều tai nạn ngang trái. Kinh nói c̣n nặng hơn tôi!
Đấy là lời thật, chẳng giả tí nào!
Quư vị chẳng biết báo ân, nay quư vị
vẫn chưa bị chết ngang trái, là v́ lẽ nào? Trong mạng
của quư vị hăy c̣n một chút phước thừa;
đợi cho đến lúc quư vị hưởng hết
chút phước thừa ấy, tai nạn ngang trái sẽ xảy
tới! Chẳng biết ân là ngu si, là đáng thương.
Quư vị tạo tác những tội nghiệp ấy, chẳng
thể nói là không có lỗi lầm. Lỗi lầm ǵ vậy?
Lỗi lầm nhẹ hơn một chút, nhẹ hơn ai?
[Nhẹ hơn kẻ] vong ân phụ nghĩa. Kẻ ấy biết
ân, biết ân mà chẳng thể báo, tội ấy nặng nề.
Quư vị chẳng biết ân, tạo những lỗi lầm
ấy th́ vẫn có tội, tội ấy cũng chẳng
nhẹ đâu nhé! Quư vị phải hiểu, trên thế giới
này, khá nhiều tôn giáo nói đến chuyện tận thế.
Thiên sách cuối cùng trong kinh Thánh là Khải Thị Lục[1] chính là lời
tiên đoán, tiên đoán về tận thế. Trong sáu tín
điều của kinh Cổ Lan (Q’uran), có một
điều là “tin vào ngày tận
thế”, chớ nên không biết! V́ thế,
chúng tôi đối với chuyện “tri ân, báo ân”, bèn
nói về những điều
ấy khá nhiều.
Trông thấy kẻ chẳng biết ân, tức
là [chủ đề
của] bài kệ tụng thứ mười
hai, “kiến bội ân nhân”
(thấy kẻ bội ơn), tức kẻ vong ân phụ
nghĩa, Phật, Bồ Tát sanh khởi ḷng thương xót,
“ư hữu ác nhân, bất gia
kỳ báo” (đối với kẻ ác, chẳng trả
thù họ). Trong xă hội hiện tại, bất luận tại
Trung Hoa hay ngoại quốc, người hiện thời nhận
lănh sự giáo dục hoàn toàn trái nghịch luân lư, đạo
đức, nhân quả, trí huệ! Họ nhận lănh sự
giáo dục ǵ vậy? Ích kỷ, tổn người, lợi
ḿnh, giáo dục hiện thời là như vậy đó! Từ nhỏ
đă được dạy “tổn
người, lợi ḿnh”. V́ chính ḿnh đạt
được một tí lợi ích mà coi giết người, phóng hỏa là
chuyện chánh đáng, b́nh thường! Chẳng giết
người, chẳng phóng hỏa, làm sao ta có thể
đạt được lợi ích? Đáng kinh hăi quá! Nhỏ
là giết người, phóng hỏa, lớn là tiêu diệt
quốc gia của kẻ khác, tiêu diệt chủng tộc của
người ta, ta mới có thể đạt được
lợi ích. Có đúng như vậy hay không? Trong các buổi
giảng, chúng tôi đă nói về đạo lư ấy quá nhiều lượt, các vị đồng tu lâu năm đă nghe nhàm tai rồi:
“Tổn hại kẻ khác chắc
chắn sẽ hại chính ḿnh”. Quư vị phải hiểu
nhân quả thông ba đời!
Tôi vừa mới thấy một vị
đồng học, [chuyện của
người ấy] chính là một
chứng minh. Người ấy có oan gia trái chủ dựa
thân, bám vào thân người ấy, nói rất rơ ràng: “Oán thân
trái chủ ấy là do trong đời quá khứ đă bị
vị đồng tu ấy giết, nay kẻ ấy đến
báo cừu”. Nhưng như thế nào? Thấy người ấy
học Phật, tâm địa rất thiện lương,
rất từ bi, lại chẳng nỡ ḷng ra tay. V́ thế,
yêu cầu cùng nhau tu hành, niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ. Tôi giới thiệu người ấy đến
núi Đông Thiên Mục. Đấy là một chứng minh! Đời
trước quư vị giết người, đoạt tài
sản của người ta, đó là “tổn người,
lợi ḿnh”; đời này người ta t́m quư vị,
đến báo cừu. May mắn là quư vị học Phật!
Khi quư vị chẳng học Phật, họ nhất định
sẽ đoạt mạng. V́ thế, tổn người
chắc chắn là hại chính ḿnh, oan oan tương báo chẳng
hết, chẳng xong!
Để giải quyết vấn đề,
chắc chắn là phải dựa vào trí huệ. Thật sự
có thể giải quyết, [phải cậy vào] luân lư, đạo
đức, vun bồi thiện hạnh của quư vị. Giáo
dục nhân quả hết sức trọng yếu, nếu
quư vị đă học tập, sẽ chẳng dấy lên ác
niệm đối với hết thảy người, sự,
vật. V́ sao? Biết quả báo đáng sợ. Bất luận
là đối với người, đối với sự,
đối với muôn vật trong trời đất, muôn vật
trong trời đất đều có ân với ta, nếu ta
có lỗi đối với họ, quư vị sẽ thường
bị ǵ? Người hiện thời nói là “tai họa thiên nhiên”. Thật ra, chẳng phải
là tai họa thiên nhiên, mà là do quư vị có lỗi đối
với thiên nhiên, thiên nhiên trả thù quư vị. Tai họa
thiên nhiên ở chỗ nào? Nếu thật sự là có các tai
họa thiên nhiên, ông Khải Tây (Edgar Cayce) của nước
Mỹ sẽ chẳng nói: “Đối
với bất cứ một ai trên cả thế giới,
những sự gặp gỡ trong cả đời, dẫu
là chuyện vặt vănh đến
mấy, đều có liên quan tới nghiệp nhân trong đời
trước”. Ông ta nói chẳng thể có chuyện nào
đột nhiên phát sanh, chẳng có tiền nhân (cái nhân trước đó). Đấy chính là giáo dục nhân quả.
Dẫu đời này chúng ta học Phật,
học rất khá, rất ít lỗi lầm, quư vị có
nghĩ trước khi học Phật, quư vị có lỗi
lầm hay chăng? Đời trước, đời
trước đó nữa, chúng ta đời đời kiếp
kiếp ở trong lục đạo, chẳng biết
đă luân hồi bao nhiêu lần! Quá khứ chẳng có khởi
đầu, vị lai chẳng có kết thúc, đời
đời kiếp kiếp trong quá khứ có lẽ nào chúng
ta chẳng tạo tội nghiệp? Há có lẽ nào chẳng
hồ đồ? Há có lẽ nào chẳng làm chuyện sai quấy?
Quư vị liền biết chính ḿnh có bao nhiêu oán thân trái chủ!
Nếu chúng ta học Phật, tu hành nghiêm túc, oán thân trái chủ
sẽ chẳng t́m đến, v́ lẽ ǵ? Hằng ngày chúng ta hồi hướng
cho họ, hằng ngày chia sẻ cho họ công đức tu
tập của chính ḿnh. Họ cũng có thiện tâm,
cũng có lương tâm, biết oan oan tương báo th́
đôi bên đều rất khổ, thấy quư vị tu
hành khá lắm, lại c̣n hồi hướng công đức
cho họ, họ sẽ miễn cưỡng nín nhịn, chẳng
trả thù. Nếu quư vị ngă ḷng, thoái chuyển, đổi
dạ, biến đổi chủ ư, họ sẽ ngay lập
tức t́m đến. Quư vị phải biết những kẻ
đó đều là phàm phu, chẳng phải là Bồ Tát. V́
thế, chúng ta liễu giải, hiểu rơ ràng rành mạch
những kẻ vong ân phụ nghĩa là do đạo lư nào,
v́ sao mà họ biến thành như vậy! Chúng ta chớ nên
trách móc họ, chính ḿnh phải khéo tu tập!
Đă thế, lại c̣n cảm tạ họ
đă tổn thương, làm hại chúng ta, chúng ta sẽ chuyển biến cảnh giới. Năm xưa, mười năm
trước, tôi rời khỏi Đài Loan, tôi viết sáu
điều: “Sống trong thế
giới cảm ơn”.
1) Điều thứ nhất là cảm ơn kẻ chê
trách ta. V́ sao? Ta có thể nhẫn nhục, có thể chịu
đựng. Từ sự hủy báng, lăng nhục ác ư vô
duyên vô cớ của kẻ khác, từ trong cảnh giới ấy,
ta nhận biết công phu Định Huệ của chính
ḿnh có được mấy phần. V́ thế, gặp cảnh
giới ấy, sẽ chẳng sân khuể. Chẳng có tâm
sân khuể, đương nhiên cũng sẽ chẳng
báo thù, lại c̣n rất cảm kích. Người ấy
đến khảo đảo ta, coi công phu nhẫn nhục
của ta đạt đến mức độ nào, ta gặp
gỡ, ta tiếp xúc rất an nhiên!
2) [Thứ hai], cảm kích kẻ quấy nhiễu ta, lúc
nào cũng làm phiền, lúc nào cũng gây chướng ngại.
Trong suốt một đời, sở dĩ người hiện
thời nói “khó làm chuyện tốt”, [là v́] người thật
sự giúp đỡ quư vị rất ít, kẻ ngáng chân quá
nhiều, hữu ư hay vô t́nh chẳng hợp tác với quư vị.
Chúng ta cũng cảm kích kẻ ấy. Hăy nghĩ xem là do
nguyên nhân nào! Đại khái là trong quá khứ ta có thái độ
ấy đối với kẻ đó, nay kẻ ấy
đối xử với ta như vậy, đó là lẽ
đương nhiên! Nhưng ta trọn chẳng chùn bước,
vẫn phải t́m ra phương pháp để đột
phá, vẫn phải t́m ra biện pháp để thực hiện
viên măn, phải làm thành công những chuyện như vậy.
V́ thế, những cảnh duyên ấy giúp ta tăng trưởng
năng lực, quư vị nói xem, ta có phải cảm kích kẻ
ấy hay chăng?
3) Thứ ba, phải cảm tạ kẻ đă ruồng
bỏ ta. Có đấy! Sau khi Hàn quán trưởng đă ra
đi, Hàn quán trưởng đă vứt bỏ chúng tôi. Sau
khi bà đă đi rồi, cảnh duyên hết sức xấu
ác, chúng tôi không thể chẳng rời khỏi Đài Loan.
Đấy là duyên phận, chúng tôi chẳng oán hận, mà
cũng chẳng trả đũa, vẫn phải cảm
ơn. V́ sao? Chúng ta phải học từ bi, tự lực
cánh sanh. Trong quá khứ chúng ta c̣n dựa dẫm, chỗ nương dựa ấy
chẳng c̣n nữa!
4) Thứ tư, cảm kích kẻ đánh đập ta.
V́ sao? Tiêu nghiệp chướng cho ta.
5) [Thứ năm], cảm kích kẻ lừa gạt ta.
Tuy chúng ta rất thật thà, toàn là thiện tâm thiện ư
giúp đỡ người khác, xác thực là bị lừa
gạt, bị thua thiệt, bị gạt gẫm. Chúng ta vẫn không hối hận, mà rất cảm
tạ, cảm kích kẻ ấy v́ lẽ ǵ? Tăng trưởng
kiến thức cho chúng ta. Có một năm, tôi giảng kinh
ở Cựu Kim Sơn (San Francisco), các đồng tu dẫn
tôi đi văng cảnh, đến chơi cầu lớn Kim
Sơn (Golden Gate). Gặp một đám trẻ tuổi
người Mỹ, họ vây quanh tôi nói líu lo líu lường,
khiến cho tôi nghe chẳng hiểu ǵ! Chẳng lâu sau, nhóm người ấy tản đi, chẳng c̣n
nữa, một đứa cũng chẳng thấy!
Tôi bỗng dưng phát hiện ví tiền đă bị họ
lấy trộm mất. Dường như có hai, ba ngàn Mỹ
kim trong ấy bị họ đánh cắp. Tôi chẳng oán hận
họ mà c̣n rất cảm kích. V́ sao? Trong đời này, lần
đầu tiên tôi gặp chuyện ấy. Sau đấy, sẽ
lưu tâm cẩn thận, họ đă cảnh cáo tôi. Tôi chỉ
có thể nói chính ḿnh chẳng cẩn thận! Tôi đeo ba
lô, ba lô có khóa kéo (zipper, fermeture). Quư vị thấy người
Hương Cảng rất thông minh, họ đều
đeo ba lô đằng trước, dùng tay ôm lấy. Tôi chẳng
vậy, tôi đeo ba lô sau lưng. Người ta kéo dây khóa ra, lấy
ví tiền đi. C̣n may là hộ chiếu và chứng từ
thông hành chẳng để cùng một chỗ. Luôn có tâm cảm
kích người khác, đấy là chuyện tốt.
Điều cuối cùng, cảm kích kẻ tổn
thương ta. V́ sao? Kẻ ấy rèn luyện tâm trí ta. Ta
phải chịu nổi sự thử thách, giống như
vua Ca Lợi cắt chặt thân thể. Đó là tổn
thương, tổn thương nghiêm trọng!
Bởi lẽ, kẻ vong ân phụ nghĩa
trong xă hội hiện thời đông lắm, chúng ta có thể
thường xuyên gặp phải. Dẫu gặp phải,
cũng chớ nên nguội lạnh tấm ḷng. Nếu tấm
ḷng nguội lạnh, vậy là quư vị mắc lừa rồi,
quư vị đă bị kẻ khác d́m xuống nước!
Vĩnh viễn đối đăi bằng tấm ḷng cảm
ơn, hồi quang phản chiếu, tăng cao cảnh giới
của chính ḿnh, đều là chuyện tốt đẹp. V́
thế, chúng ta thấu hiểu, ai nấy đều là người tốt,
chuyện nào cũng đều là chuyện tốt, bất
luận thiện duyên hay ác duyên, thuận cảnh hay nghịch
cảnh, chúng ta học
sao cho có thể chuyển cảnh
giới trong Phật pháp. Nếu có thể chuyển cảnh,
ắt giống như Như Lai. V́ sao Như Lai thường
trụ trong Giới, Định, Huệ? Trong đại kinh thường tán thán: “Na Già thường tại Định, vô hữu bất
định thời” (Bậc Na Già[2] thường
ở trong Định, không lúc nào chẳng định). Bất
luận thuận cảnh hay nghịch cảnh, thiện
duyên hay ác duyên, Ngài đều ở trong
đại định, đạo lư ǵ vậy? Có thể
chuyển biến cảnh giới.
Chúng ta học Phật rất đáng
thương. Đối với cảnh giới bé tí đều
bị ngoại cảnh xoay chuyển, chính ḿnh chẳng thể
làm chủ được! Nếu là v́ chuyện cá nhân, hăy
coi như xong, chuyện
ǵ cũng đều chớ
nên so đo, cần ǵ phải vậy! Sẽ chẳng có chuyện
chi hết! Nếu chuyện ấy liên quan đến sự
an nguy hoặc lợi hại của đại chúng trong xă hội th́ chẳng thể
không hỏi đến. Đấy chẳng phải là v́
chính ḿnh, mà là v́ chúng sanh, v́ chánh pháp tồn tại lâu dài. [Nếu là chuyện] v́ lợi ích chúng sanh, đối với chuyện ấy
nhất định phải hỏi tới, phải hỏi
như thế nào? Khéo léo, uyển chuyển. Trong hiện thời,
người thật sự phát đại tâm làm thiện sự
chẳng nhiều. Quư vị đọc Liễu Phàm Tứ
Huấn sẽ hiểu rơ, rất nhiều kẻ làm thiện
sự là do theo đuôi người khác. Thấy người
ta làm, chính ḿnh bèn tùy hỷ đôi chút. Kẻ khác chẳng
làm, họ tuyệt đối chẳng thể dấy lên ư
niệm. V́ thế, thiện kiểu đó chẳng thật,
thiện kiểu đó là giả. Quư vị thấy tiên sinh
Liễu Phàm đă nói có tám loại thiện, có chân, có giả,
có thiên lệch, có chánh đáng, có lớn, có nhỏ, có chẳng
toàn vẹn và toàn vẹn. Quư vị xem rồi sẽ
hiểu rơ!
Nếu người nào chẳng tu hành, chẳng
thật sự giác ngộ, sẽ chẳng thể được! Họ
nghĩ thiện sự viên măn ngần ấy, họ làm rốt
ráo dường ấy, chẳng phải là chuyện
đơn giản đâu nhé! Từ chỗ này, quư vị
cũng có thể nhận biết, cũng có thể thấu hiểu tu hành chẳng phải
là chuyện đơn giản dường ấy, đồng
thời cũng ư thức nghiệp chướng sâu nặng dường ấy, nghiệp chướng ngăn lấp ngần
ấy. Nếu chẳng bị nghiệp chướng ngăn
lấp, quư vị sẽ là người thông minh, lanh lợi
bậc nhất, trong đời này, quư vị xác thực sẽ
tiêu tai, tích lũy công đức. Cuộc sống của
quư vị sẽ là pháp hỷ sung măn, chắc chắn sẽ
có thể lợi ích vô lượng vô biên chúng sanh. Quy kết
đến cuối cùng, sẽ là trí huệ; chẳng có trí
huệ sẽ không được! Nhưng trí huệ, nói
theo lư, mỗi cá nhân đều như nhau, hết thảy
chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai, chỉ v́ vọng tưởng và chấp trước
mà không thể chứng đắc. Quư vị bèn hiểu vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước nhiều
dường ấy! Lại có một chướng ngại to
lớn là oán thân trái chủ, hữu h́nh hay vô h́nh. Nói theo
phương diện cảm ứng, sẽ là hiển ứng
(顯應, cảm ứng rơ rệt) hay minh ứng (冥應, cảm ứng ngấm ngầm). Đấy là
chướng ngại rất lớn. V́ thế, hầu
như bất cứ người tu hành nào, gần như chẳng
có ai không coi chuyện hóa giải oán kết, tức là oán kết
trong nhiều đời và hiện tiền như đại
sự bậc nhất trong việc tu hành. Tu ǵ vậy? Hóa giải
oán kết. Chỉ có thời thời khắc khắc chính
ḿnh phản tỉnh, luôn luôn phải quy kết về chính ḿnh, đừng nên trách móc ai khác. Trách móc kẻ
khác chắc chắn là sai lầm! Chẳng có lẽ ấy!
V́ thế, nay chúng ta đọc bài kệ này,
trên đường, quư vị gặp gỡ người tu
hành, bất luận là người tu hành thuộc tôn giáo
nào, v́ ở đây [Văn Thù Bồ Tát] chẳng nói “nhược kiến tỳ-kheo,
nhược kiến sa-di” (nếu thấy tỳ-kheo, nếu
thấy sa-di). [Nếu nói như vậy], sẽ chắc chắn
là đệ tử Phật. Kinh chỉ chép “sa-môn”, tức là nói chung tất cả những người
tu hành thuộc các tôn giáo. Sa-môn cũng chẳng nhất định
là người xuất gia! Hàng tại gia thật sự
đoạn ác tu thiện, cũng được gọi là sa-môn; nhưng
sau khi Phật giáo truyền đến Trung Hoa, chữ sa-môn
tại Trung Hoa quá nửa là nói đến hàng xuất gia,
hàng tại gia chẳng gọi là sa-môn. Nhưng cũng có một
số ít thật sự hiểu “tại gia cũng có thể
gọi là sa-môn”. Họ cũng chẳng sai. Theo thói quen, [từ ngữ sa-môn] dùng để chỉ người xuất gia, người
xuất gia được gọi là sa-môn. Do vậy, ư nghĩa
gốc của từ ngữ này chẳng phân biệt xuất
gia hay tại gia, nhưng nhất định là “dứt ác, làm lành”, đấy
là điều khẳng định. V́ thế, ở đây
Thanh Lương đại sư dịch [chữ Sa-môn] thành Chỉ Tức.
“Tất cánh chỉ
tức” (Ngưng dứt rốt ráo): Trong Phật pháp, “tất cánh chỉ tức” là
ngưng dứt vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước. Nếu ngưng dứt những thứ ấy,
sau đó sẽ thật sự là “duy
Đại Niết Bàn”, [nghĩa là] chỉ có Đại
Niết Bàn. Tại Ấn Độ, Niết Bàn và Đại
Niết Bàn vào thời cổ cũng là thông xưng (danh xưng
thông dụng), mỗi tôn giáo đều gọi chuyện
“đạt đến quả báo tột cùng viên măn” là Niết
Bàn. Niết Bàn có ư nghĩa “bất
sanh, bất diệt”, trong Phật môn thường dùng chữ
Viên Tịch (圓寂) [với
hàm nghĩa] “công đức viên
măn, thanh tịnh tịch diệt”. Phật môn dùng hai câu ấy
để giải thích [danh xưng Niết Bàn]. Trong chín
mươi sáu loại tôn giáo ở Ấn Độ vào thời
cổ, xác thực là có khá nhiều phái có công phu Thiền
Định rất khá. Trong khi nhập Định, họ
có thể đến Sắc Giới Thiên, Sơ Thiền, Nhị
Thiền, Tam Thiền, và Tứ Thiền, có thể đến
Tứ Không Thiên. Có những tôn giáo ngỡ Tứ Thiền là
Niết Bàn, hiểu lầm mà! C̣n có các tôn giáo coi Tứ Không
Thiên là Niết Bàn. Quư vị thấy tầng cao nhất
trong Tứ Không Thiên, công phu định lực có thể
đạt tới tám vạn đại kiếp, kém hơn
một bậc là sáu vạn đại kiếp, kém hơn một
bậc nữa là bốn vạn đại kiếp, kém hơn một bậc nữa là hai vạn đại kiếp. Quư vị bèn
hiểu công phu định lực trong Tứ Thiền, tức
là công phu định lực trong Đệ Tứ Thiền
của Sắc Giới là một vạn sáu ngàn kiếp.
Họ đều coi những cảnh giới
ấy như Niết Bàn, nhưng khi thời gian đă tới (thời gian có thể duy tŕ định
lực đă hết), công phu
định lực của họ bị mất đi. Sau
khi đă mất
đi, phiền năo tập khí của họ liền dấy
lên hiện hành, cái tâm bèn loạn. Khi ấy, họ sẽ
hoài nghi, hoài nghi ǵ vậy? Niết Bàn như thánh nhân đă
nói là giả trất, chẳng thật. Chẳng phải là
Niết Bàn bất sanh bất diệt ư? V́ sao hiện thời hiện tượng sanh diệt của ta lại dấy lên? Đă nẩy
sanh ư niệm ấy, bèn hủy báng thánh hiền. Tội lỗi
hủy báng thánh hiền nặng lắm. Không chỉ là chuyện
của riêng ḿnh quư vị đâu nhé! V́ quư vị
hủy báng mà khiến cho rất nhiều người
đánh mất tín tâm đối với thánh hiền, cho rằng
những điều thánh hiền đă dạy toàn là giả trất. V́ sao? Người ấy đă chứng minh rồi
đó! Người ấy đă chứng Đại Niết
Bàn, hiện thời lại bị lui sụt, có thể thấy
là Niết Bàn chẳng thật! Điều này khiến cho
bao nhiêu người chôn vùi tín tâm, tội báo ấy chính là
địa ngục A Tỳ! Đó gọi là “trèo cao, ngă nặng”. Đạo lư ở ngay chỗ
này!
Bồ Tát thấy những người tu
hành ấy, quư vị thấy các Ngài (Bồ Tát) từ trong cảnh
giới bèn dẫn phát đại nguyện trong tự
tánh, “đương nguyện
chúng sanh, điều nhu tịch tĩnh, tất cánh đệ
nhất” (nguyện cho chúng sanh, điều ḥa, mềm mỏng,
vắng lặng, rốt ráo là bậc nhất), có nguyện
như thế đó. “Tất
cánh đệ nhất” xác thực là Đại Niết
Bàn của Như Lai, đấy mới là đệ nhất
thật sự. V́ sao? “Bất
sanh bất diệt” như các tôn giáo khác đă nói đều
chẳng thật, [bởi lẽ], chẳng thoát khỏi tam
giới. Sở dĩ Phật, Bồ Tát thị hiện trong thế gian này
chính là v́ chuyện này, đấy là do căn cơ của
các chúng sanh đă chín muồi. V́ sao? Đối với những
lạc sự, vinh hoa, phú quư trong thế gian, họ đă thấy thấu suốt, biết chúng là hư giả, chẳng truy cầu nữa,
mà mong cầu bất sanh bất diệt. Chỉ cần có ư
niệm ấy th́ gọi là “căn
cơ đă chín muồi”. Ư niệm ấy là cảm. Căn
cơ đă chín muồi, chúng sanh có cảm, Phật, Bồ Tát
sẽ ứng. V́ thế, Thích Ca Mâu Ni Phật bèn đến,
Ngài đến ứng hóa. V́ sao Ngài không đến ứng
hóa tại Trung Hoa? Người sống tại Trung Hoa vào
thuở ấy chẳng có ư niệm ấy, tối đa là người Hoa có nguyện vọng ǵ? Sanh lên trời!
Người Hoa biết có trời, có Ngọc Hoàng Đại
Đế, hoàn cảnh trên trời tốt đẹp
hơn nhân gian, chẳng biết ngoài trời c̣n có trời,
chẳng biết! V́ thế, người Hoa chẳng có ư niệm
mong vượt thoát lục đạo luân hồi, chẳng
hề có! [Do vậy], Phật, Bồ Tát chẳng [ứng hiện]
tại [Trung Hoa]!
Trên thực tế, nói “Phật, Bồ Tát chẳng đến”, quư vị
cũng đừng nghe rồi hiểu lầm! [Thật ra],
Phật, Bồ Tát vẫn đến, đến như thế
nào? Chẳng đến bằng thân phận Phật, Bồ
Tát! Do vậy, ở Trung Hoa xuất hiện Khổng Tử,
Lăo Tử, Mạnh Tử, Trang Tử, quư vị nói họ có
phải là Bồ Tát tái lai hay chăng? Rất có thể.
Năm xưa, tôi cầu học ở Đài Trung, đă thỉnh
giáo thầy Lư về chuyện này. Thầy Lư bảo: “Nói theo Lư th́ hợp lẽ!” Chẳng
phải là Quán Âm Bồ Tát đă từng nói: ‘Đáng nên dùng
thân ǵ để đắc độ bèn hiện thân ấy’ đó sao? Đáng nên dùng thân
Khổng Tử để đắc độ, bèn hiện
thân Khổng Tử. Đáng nên dùng thân Lăo Tử để đắc
độ, bèn hiện thân Lăo Tử. Vậy th́ Khổng Tử,
Lăo Tử là Phật, Bồ Tát tái lai, nói theo Lư sẽ suông sẻ.
“Nơi Sự th́ chẳng có
căn cứ”. V́ sao? Chính họ chẳng nói họ là Bồ
Tát nào tái lai. Nếu Khổng Tử, Mạnh Tử khi lâm
chung bảo mọi người họ là Bồ Tát ǵ đó
tái lai th́ đấy là thật. Họ chẳng nói; do chẳng
nói, chẳng có căn cứ sự thật. Nói theo Lư, chắc
chắn sẽ thông suốt. V́ thế, Phật, Bồ Tát thị
hiện tại Trung Hoa, chẳng dùng thân phận Bồ Tát
để thị hiện, mà thị hiện ǵ? Quư vị nói
tới đời sau, thị hiện làm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
sa-di, sa-di-ni, cư sĩ, quốc vương, đại thần.
Đúng là giống như ba mươi hai ứng thân mà kinh
điển đă nói, xác thực là có, chẳng phải là
không có. Cao Tăng Truyện, Thần Tăng Truyện, và Cư
Sĩ Truyện đều có ghi chép rất cặn kẽ!
Nơi xứ Ấn Độ, xác thực là
cơ duyên của họ đă chín muồi, v́ họ tu Thiền
Định. Lại c̣n có Thiền Định sâu như vậy,
Tứ Thiền Bát Định! Do đó, lục đạo
luân hồi chẳng phải do đức Phật nói ra
đầu tiên, mà là do Bà La Môn nói. Bà La Môn giáo sớm hơn
Phật giáo quá nhiều. Chính họ tự nói tôn giáo của
họ truyền đến hiện thời đă hơn một
vạn năm, có đáng tin hay chăng? Cũng có thể tin
được, nhưng người Ấn Độ không
coi trọng lịch sử, chẳng ghi chép. Trên thế giới
hiện thời, nói chung, mọi người công nhận Bà
La Môn giáo tối thiểu là có lịch sử tám ngàn
năm trăm năm.
V́ thế, trong các tôn giáo trên toàn thế giới, nói theo lịch
sử, Bà La Môn giáo được xếp đầu tiên. Do
Thái giáo (Judaism, Yehudah) có bốn ngàn năm, Bái Hỏa giáo (Zoroastrianism,
Mazdayasna) đă lâu hơn ba ngàn năm, đại khái là ba
ngàn năm trăm năm, Phật giáo xếp thứ tư,
tức là xếp vào hạng thứ tư. Điều này có
nghĩa là họ ở trong Thiền Định đă đột
phá thời gian, vượt qua các chiều không gian, trông thấy
lục đạo luân hồi, chẳng phải do họ
tưởng tượng, họ trông thấy rồi nói ra. Họ hiểu rành mạch hiện tượng
luân hồi trong lục đạo, nhưng lục đạo
v́ sao mà có, họ chẳng biết. Ngoài lục đạo c̣n có
ǵ khác hay chăng, họ cũng chẳng biết.
Trong t́nh huống ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật
dùng thân Phật, dùng thân Bồ Tát để thị hiện, v́ sao? Họ
mong cầu Niết Bàn, mong cầu bất sanh bất diệt,
Phật pháp thật sự có “bất sanh, bất
diệt”. Niết Bàn của Tiểu Thừa gọi là Thiên Chân
Niết Bàn, vượt thoát lục đạo luân hồi, chẳng
có Phần Đoạn sanh tử. Chẳng có hiện tượng
sanh tử như trong lục đạo luân hồi,
nhưng ngoài lục đạo luân hồi, c̣n có một thứ là Biến Dịch sanh tử; [đấy là] hai loại
sanh tử. Biến Dịch sanh tử chẳng phải là
sanh tử thật sự, mà là do tu hành rất vất vả,
cho nên coi nỗi khổ ấy như sanh tử. Vất vả
như thế nào đi nữa, chẳng nhọc nhằn bằng
tu hành trong lục đạo. Nó nhẹ nhàng hơn nhiều
lắm! Tuy nhẹ nhàng, nhưng vẫn có, v́ thế gọi
là Biến Dịch sanh tử. Mỗi giai đoạn tu hành
đến một [mức độ] công phu nào đó, lại
tiến cao hơn. V́ thế, tiến lên Đại Thừa,
đạt đến đại triệt đại ngộ,
minh tâm kiến tánh, đấy là chứng Đại Niết
Bàn. Không chỉ là vượt thoát lục đạo, mà c̣n vượt
thoát mười pháp giới. Đấy là đi khất thực
bên ngoài, trông thấy người tu hành, chính ḿnh luôn có nguyện
vọng như vậy, thầm lặng chúc phước cho
người ấy, hy vọng người ấy thật sự
có thể liễu sanh tử, thoát tam giới, chứng đại
Niết Bàn của Như Lai. A! Chúng tôi giảng bài kệ
này tới đây.
***
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Xin hăy xem tiếp bài kệ
tiếp theo là bài thứ mười bốn:
(Kinh) Kiến Bà La Môn, đương nguyện chúng
sanh, vĩnh tŕ phạm hạnh, ly nhất thiết ác.
(經)見婆羅門。當願眾生。永持梵行。離一切惡。
(Kinh: Thấy Bà La Môn, nguyện cho chúng sanh, măi giữ
phạm hạnh, ĺa hết thảy ác).
Bà La Môn vào thời cổ được
người hiện thời gọi là Ấn Độ giáo;
ở Nam Dương, nó được gọi là Hưng
Đô giáo (Hinduism), tín đồ cũng chẳng ít. Mấy
năm trước, chúng tôi ở Tân Gia Ba, giáo đồ
Hưng Đô giáo tại Tân Gia Ba rất đông. Bất cứ
lúc nào cũng có thể thấy đạo tràng của họ,
cũng có không ít đạo tràng tôi đă đến
thăm, kết duyên cùng họ cũng rất sâu. Kinh điển
Ấn Độ giáo khá ít tuy lịch sử truyền thừa
rất lâu. Họ thờ thần, điều chủ yếu
của tôn giáo là [tin vào một vị] thần sáng tạo
vũ trụ, tức Đại Phạm Thiên. Trong Phật
môn, vị này được gọi là Đại
Phạm Thiên Vương. Thoạt đầu, họ
cũng tiếp nhận không ít giáo nghĩa Phật giáo; v́ thế,
Hưng Đô giáo là phái cách tân của Bà La Môn giáo, có mối
quan hệ rất mật thiết với Phật giáo. Họ
coi Thích Ca Mâu Ni Phật là tiên tri, là thánh nhân, nhưng trên
thánh nhân c̣n có một vị thần, tức là thần chúa tể.
Chuyện này có thể nói thông suốt được, Phật
pháp là viên dung, xác thực là “đáng
nên dùng thân ǵ để đắc độ, bèn hiện
thân ấy”!
Trong các vị Đại Phạm Thiên Vương
có Phật, Bồ Tát thị hiện hay không? Khẳng định
là có! Trong giáo pháp Đại Thừa, chúng ta thường thấy
Thập Địa Bồ Tát thường ứng hóa trong Sắc
Giới Thiên, làm thiên vương trong Sắc Giới hay Dục
Giới, dùng loại thân phận ấy để độ
chư thiên. Những vị thiên vương ấy là hóa thân
của Phật, Bồ Tát, tự nhiên là hộ pháp trong Phật
môn. V́ thế, họ cũng thường lễ thỉnh
chư Phật, Bồ Tát đến thiên cung giảng kinh,
thuyết pháp. Quư vị thấy kinh Địa Tạng chẳng
phải là giảng trên Đao Lợi Thiên ư? C̣n đối
với kinh Hoa Nghiêm, trong phần trước, quư vị
đă thấy rồi đó, tôi đă giới thiệu, bảy
chỗ, chín hội. Có khá nhiều bài kinh được giảng
tại trời Dạ Ma, trời Đâu Suất, trời
Hóa Lạc, hay trời Tha Hóa Tự Tại. Như thế
th́ chúng ta có thể tưởng tượng, các vị thiên
vương ấy chắc chắn là Bồ Tát hóa thân. Chư
vị phải hiểu, thiên vương quá nhiều!
Tam giới lục đạo ở trong tam
thiên đại thiên thế giới. Một đại thiên
thế giới là khu vực giáo hóa của một vị Phật.
Khu vực giáo hóa của Thích Ca Mâu Ni Phật là một tam
thiên đại thiên thế giới. Đức Phật dạy,
trên đỉnh của Dục Giới Thiên là Sơ Thiền
Thiên, đấy là một đơn vị thế giới.
Trong một tiểu thiên thế giới, có bao nhiêu đơn
vị thế giới? Có một ngàn. Tầng trời chót
đỉnh của một ngàn đơn vị thế giới
là Nhị Thiền Thiên. Do vậy, phía trên một ngàn Dục
Giới Thiên (Lục Dục Thiên) chỉ có một Nhị
Thiền Thiên. Phía trên một ngàn Sơ Thiền Thiên là một
Nhị Thiền Thiên. V́ thế, Sơ Thiền là tầng trời
chót đỉnh của một đơn vị thế giới,
Nhị Thiền là tầng trời chót đỉnh của một
tiểu thiên. Tam Thiền là tầng trời chót đỉnh
của một trung thiên. Tứ Thiền là tầng trời
chót đỉnh của một đại thiên thế giới.
[Nói cách khác], một tam thiên đại thiên thế giới
chỉ có một Tứ Thiền Thiên. Một tiểu thiên
thế giới có một ngàn Dục Giới Thiên. [Đă là] một ngàn Dục Giới Thiên, như vậy th́ quư vị
biết như Đao Lợi thiên vương [chẳng hạn],
sẽ có một ngàn vị Đao Lợi thiên vương, một
ngàn Dạ Ma thiên vương, một ngàn Đâu Suất thiên
vương. Rốt cuộc là vị thiên vương của
Đâu Suất Thiên nào? Là vị thiên vương của Đao Lợi Thiên nào? Không chỉ là một vị, rất
ư là nhiều! Giống như trên quả địa cầu hiện
thời có hơn một trăm quốc gia, giả thiết
những quốc gia ấy đều là quốc gia dân chủ,
mỗi quốc gia đều có Tổng Thống, quư vị
là Tổng Thống của quốc gia nào? Hơn một
trăm quốc gia! Chúng ta phải hiểu rơ điều này,
chớ nên hàm hồ, lơ mơ! Có nghĩa là Đao Lợi
thiên vương nhiều ngần ấy, trong số đó, có
vị thật sự là chư thiên thuộc Dục Giới
Thiên, trong ấy, xác thực cũng có Phật, Bồ Tát ứng hóa. Phật,
Bồ Tát đến ứng hóa nơi đâu? Đấy
đều là do chúng sanh cảm ứng. Chúng sanh có cảm,
Phật, Bồ Tát bèn ứng. Đạo lư như thế
đó, phải hiểu rơ ràng, rành rẽ chuyện này.
Bà La Môn giáo coi Phạm Thiên là chân thần
để sùng bái. Phạm (梵) có nghĩa là thanh tịnh. Trong Phật giáo, Phạm
Thiên được gọi là Sơ Thiền Thiên Chúa, tức
Đại Phạm Thiên Vương. Do vậy, trong đại
thiên thế giới này, Đại Phạm Thiên Vương
cũng rất nhiều, đương nhiên là có Phật, Bồ
Tát thị hiện trong ấy. Điều này là khẳng
định, có thể nói là chúng ta chẳng mảy may ngờ
vực chi! Phạm Thiên đề xướng tịnh hạnh,
Phạm có nghĩa là thanh tịnh, dẫn phát đại
nguyện của Bồ Tát, “vĩnh
tŕ Phạm hạnh, ly nhất thiết ác” (vĩnh viễn
giữ ǵn hạnh thanh tịnh, ĺa hết thảy ác), tu tâm
thanh tịnh. Trong kinh Hoa Nghiêm có phẩm Phạm Hạnh, hiện
thời chúng ta đang đọc phẩm Tịnh Hạnh,
phần sau c̣n có phẩm Phạm Hạnh. Nếu Tịnh Hạnh được nâng cao
hơn, sẽ là Phạm Hạnh. Tựa đề kinh Vô
Lượng Thọ đă nêu ra tổng cương lănh tu
hành, chớ nên không biết điều này!
Chúng ta muốn tu Tịnh Độ, giáo pháp
Đại Thừa đă dạy, “tâm tịnh, cơi Phật tịnh”. Nói thật ra, cơi
nước chẳng có tịnh hay uế, tịnh hay uế
là do ḷng người! Ḷng người thanh tịnh; núi, sông,
đại địa chẳng có thứ ǵ không thanh tịnh.
Ḷng người bất tịnh, chẳng có pháp nào là thanh tịnh.
Đấy là ǵ? Cảnh chuyển theo tâm, đúng vậy, Thật
Tướng đấy! V́ thế, kinh Lăng Nghiêm có nói: “Nếu có thể chuyển vật,
ắt giống Như Lai”. Phạm vi của chữ “vật” (物) hết sức rộng lớn, loài người
cũng được bao gồm trong ấy, [thường
nói gộp chung là] “nhân vật”.
Nếu nói là “người”
th́ trong lục đạo chỉ có nhân đạo (loài người),
chín pháp giới khác chẳng được bao gồm trong
đó. Nếu nói “vật”,
mười pháp giới đều được bao gồm. V́ thế,
chữ “vật” bao gồm y
báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, hoàn toàn bao gồm trong ấy. Tâm tịnh th́ hết thảy các pháp đều tịnh.
Sau đó là câu “ly nhất thiết
ác” (ĺa hết thảy ác). Do vậy có thể biết, hết
thảy ác sanh từ nơi đâu? Hết thảy ác sanh từ
cái tâm nhiễm ô, chẳng thanh tịnh. Chúng ta thường
nói là “phiền năo”, phiền
năo sẽ chẳng thanh tịnh. Trong cái tâm thanh tịnh chẳng
có phiền năo; tựa đề kinh Vô Lượng Thọ đă nêu
ra “thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác”, năm chữ ấy
chính là nhu cầu bức thiết trong xă hội hiện tại.
Tháng trước, tại Châu Sơn thuộc
Hàng Châu, Trung Hoa, đă tổ chức luận đàn Phật
giáo thế giới lần thứ nhất. Đây là kỳ
đầu tiên, nghe nói sau này sẽ c̣n tiếp tục tổ
chức. Chủ đề trong luận đàn là “giác, chánh, tịnh”, “tâm tịnh ắt cơi nước
tịnh, tâm an ắt chúng sanh an, tâm b́nh ắt thiên hạ
b́nh”. Đấy chính là “thanh
tịnh, b́nh đẳng, giác” được nói trong tựa
đề kinh Vô Lượng Thọ. Thanh tịnh và b́nh
đẳng th́ mọi người có thể thấy rất
rơ rệt, nhưng “giác” th́
dường như chẳng thấy. Nó có [tác dụng] an
tâm, tâm an như thế nào? Hễ giác bèn an, mê sẽ chẳng
an. V́ thế, tựa đề kinh dùng chữ Giác. V́ sao
chúng ta biết mê sẽ chẳng an, hễ giác bèn an? Tôi nêu
công án của Huệ Khả đại sư trong Thiền
Tông, nay chúng ta nói là câu chuyện, [công án] tức là một
câu chuyện về Huệ Khả đại sư, quư vị
chẳng hiểu rơ hay sao?
Tổ sư Đạt Ma đến Trung Hoa,
đấy là người đầu tiên truyền nhập
Thiền Tông vào Trung Hoa.
Do vậy, Ngài là Sơ Tổ của
Thiền Tông Trung Hoa. Huệ Khả là người thừa kế
của Ngài, là tổ sư đời thứ hai của Thiền
Tông. Vị này cũng rất lỗi lạc. Ngài đến
chùa Thiếu Lâm tham phỏng tổ sư Đạt Ma, rất
vất vả, rất chân thành. V́ thế, đấy chính là
như cổ đức đă nói: “Một phần thành kính được một phần
lợi ích, mười phần thành kính được
mười phần lợi ích”. Thành kính được
biểu hiện từ chỗ nào? Khi Ngài đến bái phỏng
tổ sư Đạt Ma, nhằm lúc tuyết đổ,
mùa Đông trời đổ tuyết. Tổ sư Đạt
Ma tĩnh tọa trong pḥng, mở toang cửa. Ngài thấy tổ sư tĩnh
tọa, chẳng tiện kinh động Tổ; v́ thế, đứng ngoài cửa. Tuyết đổ
dầy, ngập đến tận gối như thế
đó, quư vị biết Ngài đă đứng bao lâu, Ngài vẫn
cứ đứng nơi đó. Tổ sư vẫn chưa xuất định,
Ngài đợi rất lâu. Gặp
tổ sư cũng chẳng có ǵ để cúng dường.
Khi ấy, người xuất gia trên thân đều đeo
một thanh giới đao. Quư vị thấy quần áo của
người xuất gia hiện thời ở bên này có may
hai cái túi. Cái túi ấy để làm chi vậy? Để chứa
giới đao. Ngài dùng giới đao chặt đứt cánh
tay của chính ḿnh, đem cánh tay ấy cúng dường tổ
sư Đạt Ma.
Tổ sư Đạt Ma xuất định,
mở mắt ra, thấy t́nh h́nh như vậy, liền hỏi
Ngài: “Sao ngươi khổ sở như vậy? Rốt cuộc
là v́ điều ǵ?” Huệ Khả đại sư
thưa: “Tâm con bất an, cầu đại sư an tâm cho
con”. Tổ sư Đạt Ma bảo: “Ông lấy cái tâm ra đi”. V́ thế, nay chúng ta thấy
rất nhiều bức tượng tạc tổ Đạt
Ma duỗi một cánh tay ra. Duỗi tay để làm ǵ? “Ngươi
lấy cái tâm ra đây, ta sẽ an nó cho ngươi!” Huệ
Khả đại sư nghe xong sững sờ, suy ngẫm
t́m tâm, lặng thinh một lúc lâu, Ngài thưa: “Ngă mịch tâm liễu bất khả
đắc”, [nghĩa là] con t́m chẳng thấy cái tâm.
Trong kinh Lăng Nghiêm, ngài A Nan c̣n t́m tâm ở bảy chỗ,
nói ra bảy chỗ đều bị Thích Ca Mâu Ni Phật bác
bỏ. Quư vị nh́n từ chỗ này, dường như
Huệ Khả đại sư c̣n cao hơn ngài A Nan một
bậc, Ngài lập tức trả lời: “T́m tâm trọn chẳng thể được!” Tổ
sư Đạt Ma đáp lại bằng một câu: “Dữ nhữ an tâm cánh”,
nghĩa là ta đă an cái tâm cho ngươi rồi đó. Từ
câu nói ấy, ngài Huệ Khả bèn ngộ, hoát nhiên đại
ngộ.
V́ thế, giác ngộ th́ tâm bèn an; khi mê, tâm bất
an! Đấy là một thí dụ rất rơ rệt. Quư vị
mong tâm an, để tâm an th́ phải giác ngộ. Giác ngộ
ǵ vậy? Thật sự triệt để liễu giải
chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. Khi ấy, vọng
niệm chẳng sanh, tâm bèn an. Tâm bất an tức là vọng
tưởng quá nhiều, làm sao quư vị có thể an cho nổi?
Nay chúng ta thường nói [tâm bất an] là phập phều,
bộp chộp. Phàm là kẻ xáo động, bộp chộp,
học ǵ cũng đều chẳng thành công. Đừng
nói là học Phật pháp, pháp thế gian kẻ ấy
cũng chẳng thể có thành tựu chi cả! Dạy học
thời cổ rất coi trọng chuyện này. Bất luận
pháp thế gian hay Phật pháp, đều phải là tâm b́nh
khí ḥa, quư vị mới thật sự có thể học
được thứ này, thứ nọ. Tâm địa
thanh tịnh, chắc chắn là chẳng hời hợt, bộp
chộp, người như vậy th́ sẽ có
thể dạy được!
Điều đó có nghĩa là người ấy có ḷng thành
kính, có ḷng chân thành cung kính. Hễ chân thành, cung kính,
cái tâm sẽ chẳng hời hợt, bộp chộp. Kẻ
hời hợt, bộp chộp, sẽ chẳng có ḷng chân thành, mà
cũng chẳng có kính ư. Dẫu cung kính, đó là giả trất,
chẳng thật! Người sáng mắt vừa nh́n bèn thấy
rơ ngay, thấy ǵ vậy? Thấy cái tâm của quư vị có
thanh tịnh hay không, thấy quư vị có thật sự chân
thành hay không. Nếu thật sự chân thành, thật sự rất trang trọng, ổn trọng, thầy nhất định
sẽ chịu dạy quư vị. Thầy chẳng chịu dạy
quư vị th́ sẽ chẳng phải là bậc thiện tri
thức thật sự. Một vị thiện tri thức
thật sự suốt một đời chẳng có mong cầu
chi khác, Ngài luôn hy vọng có thể gặp một học
tṛ tốt đẹp ḥng có thể truyền thừa đạo
nghiệp do ngài đă học. Quư vị thấy tổ Đạt
Ma gặp ngài Huệ Khả, đang khi Ngài tĩnh tọa
nhập định, trời trong lặng, chưa đổ
tuyết. Nay Tổ xuất Định, thấy tuyết đổ sâu
như vậy, Huệ Khả vẫn đứng nơi chỗ
đất ngập tuyết, lại c̣n chặt cánh tay để
cúng dường. Từ chỗ này, quư vị thấy
được điều ǵ? Thấy ḷng thành của
người ta, thấy ḷng kính của
người ta, thấy tâm
người ta là định, chẳng phải là hời hợt, bộp
chộp. V́ thế, Tổ
chỉ điểm một câu, ngài
Huệ Khả bèn thông suốt, hoát nhiên đại ngộ.
Ngài ngộ nhập cảnh giới do Phật, Bồ Tát đă
chứng nhập.
Kinh Bát Nhă đă giảng về cảnh giới
ấy rất nhiều. Người đọc kinh Bát Nhă rất
ít, chứ kinh Kim Cang và Tâm Kinh ắt ai nấy đă từng
đọc, từng niệm rồi, cảnh giới ấy
là cảnh giới ngộ nhập của tổ sư đại
đức. Vừa mở đầu, Tâm Kinh bèn nói đến
chuyện trí huệ đă khai: “Chiếu
kiến Ngũ Uẩn giai không” (Soi thấy
năm uẩn đều không). Đối với ngũ dục
lục trần trong thế gian, pháp thế gian và xuất thế
gian, quư vị sẽ tự nhiên buông xuống. Chương
Gia đại sư nói “chiếu
kiến” là “thấy thấu
suốt”. Thật sự thấy thấu suốt, hiểu
rơ, đó chính là giác. Chiếu kiến là giác, buông xuống là
ĺa hết thảy ác. Căn cội của hết thảy
ác là ǵ? Thưa cùng chư vị, căn cội là vọng
tưởng. Kinh luận Pháp Tướng đă nói: “Do một niệm bất giác mà
có vô minh. Vô minh sanh tam tế, tam tế sanh lục thô”. V́
thế, vô minh là cội nguồn của hết thảy ác,
không chỉ là cội nguồn của lục đạo và
mười pháp giới. Sau khi đă thật sự ngộ,
không chỉ là chẳng có lục đạo. “Giác hậu không không vô đại
thiên” (giác rồi ba cơi rỗng toang hoang), lục đạo
và mười pháp giới đều chẳng có, triệt
ngộ mà! Đấy mới thật sự là ĺa hết thảy
ác, dẹp trừ gốc ác!
Chúng tôi thường giới thiệu điều
này với các đồng tu, chúng tôi căn cứ trên lời
dạy của đức Thế Tôn trong kinh Hoa Nghiêm: “Hết thảy chúng sanh vốn đă
thành Phật. Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ
và đức tướng của Như Lai, chỉ v́ vọng
tưởng và chấp trước mà chẳng thể chứng
đắc”. Nói cách khác, trong mắt Phật, hết thảy
chúng sanh, “hết thảy chúng
sanh” ở đây không chỉ là hữu t́nh chúng sanh, mà c̣n
bao gồm vô t́nh chúng sanh trong ấy. Nay chúng ta nói “vô t́nh” là nói đến ǵ vậy?
Nói tới thực vật, khoáng vật, hiện tượng
tự nhiên đều được bao gồm trong ấy.
Nay chúng ta chẳng có trí huệ, đức năng cũng
chẳng có, tướng hảo cũng chẳng có, biến
thành nông nỗi ấy, phải biết nguyên nhân. Một câu
nói của đức Phật đă cảnh tỉnh chúng ta,
[nguyên nhân là do] vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước. Tuy Ngài chẳng nói đến phân biệt, tỉnh
lược phân biệt, nhưng trong vọng tưởng
luôn có phân biệt. Vọng tưởng là ǵ? Vô minh phiền
năo. Phân biệt là Trần Sa phiền năo, chấp trước
là Kiến Tư phiền năo. Đối với các đồng
học đă có học tập Phật pháp, hễ nói đến những danh từ ấy, chư vị đều hiểu rất rơ. Ba loại phiền năo lớn, mỗi loại đều
là vô lượng vô biên, đoạn chúng bằng cách nào?
Kinh Hoa Nghiêm đă nói rất hay! Kinh chẳng
dùng ba thứ danh từ phiền năo ấy, mà dùng “vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước”. Chúng ta đọc kinh, nghe kinh, nghe
nói theo kiểu ấy, dường như là hiểu
được; thật ra, hoàn toàn chẳng thật sự
hiểu! Nếu thật sự hiểu, vẫn là ba loại
phiền năo như kinh Đại Tiểu Thừa đă nói,
nói rất cặn kẽ. Cách đoạn như thế nào? Kinh Hoa Nghiêm là
đại pháp viên đốn, giống như tổ Đạt
Ma độ ngài Huệ Khả, như Ngũ Tổ độ
Huệ Năng, đại pháp viên đốn mà! “Một
ngộ, hết thảy ngộ, một giác, hết thảy
giác”, đỡ
tốn công lắm! Chuyển phàm thành thánh trong một niệm!
Một niệm cũng chẳng dễ quay đầu
đâu nhé, lũ b́nh phàm chúng ta chẳng làm được,
chẳng chuyển nổi niệm ấy! Chẳng có
năng lực chuyển được. Năng lực ǵ vậy?
Chân thành đến mức tột bậc, chẳng có ǵ
khác! Chúng ta là hư t́nh giả ư, chuyển cách nào cũng
đều chẳng thể
chuyển được! Người
ta thành kính cùng cực, chuyển rất dễ dàng!
Chuyển nơi vọng tưởng; hễ
chẳng có vọng tưởng, đương nhiên là chẳng
có phân biệt và chấp trước. Vọng tưởng
là căn cội! Từ vọng tưởng sanh ra phân biệt,
từ phân biệt sanh ra chấp trước. Quư vị bèn
hiểu vọng tưởng là căn cội; dẹp trừ
từ vọng tưởng, vấn đề bèn được
giải quyết. Bí quyết truyền pháp trong Tông Môn ở
ngay chỗ này. Vọng tưởng là ǵ? Tôi thường giải
thích với các đồng học, dùng lời lẽ nông cạn nhất, đơn giản nhất để quư vị dễ
hiểu, tức là khởi tâm động niệm. Quư vị
hăy ngẫm xem, nếu chúng ta có thể giữ sao cho sáu căn
tiếp xúc cảnh giới sáu trần, mắt thấy sắc,
tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm
vị, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài
mà chẳng khởi tâm, không động niệm, sẽ là Phật,
là Như Lai. Vừa mới khởi tâm động niệm,
vô minh đă sanh. Vô minh sanh khởi, nhất định sẽ
dấy lên phân biệt, nhất định sẽ dấy
lên chấp trước. Càng dấy, càng hỏng bét!
Rèn luyện trong Tông Môn, chẳng phải là
rèn luyện điều chi khác, mà là ngay trong lúc sáu căn tiếp
xúc cảnh giới sáu trần, bèn học chẳng khởi
tâm, không động niệm. Chư vị phải biết,
tôi nói “học” tức là
đă khởi tâm động niệm, đúng không? V́ thế,
chúng ta chẳng có cách nào học, ta vẫn phải học! Chẳng
thể học
ư? Chẳng thể học cũng là khởi tâm động
niệm, phiền toái rồi! Rốt cuộc phải
như thế nào th́ mới được? Trong Tông môn có
nói, “hăy tham cứu”. Chẳng
có cách nào nói, mà cũng chẳng thể tưởng tượng
được. Do vậy, “ngôn
ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”, thật sự
giải quyết vấn đề. Nếu c̣n có ngôn ngữ,
c̣n có tư duy, chẳng phải thảy đều là lại phân biệt, chấp trước đó sao? V́ thế,
đối tượng truyền pháp của Tông Môn là bậc
thượng thượng căn. Sáu căn của người
thượng thượng căn ở trong cảnh giới
sáu trần sẽ chẳng khởi tâm, không động niệm.
Quư vị nói xem người ấy c̣n có ác hay không? Thiện
c̣n chẳng có, lấy đâu ra ác? Thiện lẫn ác đều
chẳng có! Thưa cùng chư vị, thiện trong thiện
ác vẫn là ác, v́ sao? Quư vị chấp trước điều
thiện ấy, phân biệt điều thiện ấy, sẽ
chẳng ĺa khỏi lục đạo luân hồi, chỉ thọ
sanh trong ba thiện đạo của lục đạo mà
thôi! Đấy gọi là tâm tịnh, là Phạm Hạnh.
Chúng ta hăy ngẫm xem, đấy chẳng phải
là cảnh giới hiện tiền của chúng ta! V́ thế,
Giáo Hạ khuyên mọi người hăy học từ nơi
đâu? Học từ không chấp trước, điều
này dễ học. Quả vị trong Phật giáo có ba bậc.
Bậc nhất là Phật Đà, tức là quả vị
đă thành Phật. Quả vị thứ hai là Bồ Tát, quả
vị thứ ba là La Hán. Đấy là ba quả vị tu chứng
trong Phật môn. Người nào tu khá lắm, sẽ thành A La
Hán. Thành A La Hán bằng cách nào? Đoạn trừ chấp
trước. Sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần,
quư vị hăy ngẫm xem, người ấy c̣n khởi tâm
động niệm. Khởi tâm động niệm tức là người ấy c̣n có vọng tưởng, c̣n có phân
biệt, nhưng chẳng có chấp trước. Đừng
coi thường nhé! Chẳng có chấp trước, sẽ
chẳng có lục đạo luân hồi! V́ thế, tuy
người ấy chẳng vượt thoát mười
pháp giới, người ấy đă vượt thoát lục
đạo. Nếu chúng ta đối với hết thảy
người, sự, vật, và hết thảy các pháp mà c̣n
có chấp trước, quư vị phải biết chính ḿnh
chắc chắn ở trong lục đạo, chẳng thoát
khỏi lục đạo. V́ sao? Chúng ta phải có sự cảnh
giác này. Nay chúng ta niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ,
mà có chấp trước nghiêm trọng đối với hết
thảy người, sự, vật, sẽ chướng ngại
quư vị văng sanh, đạo lư ở chỗ này. Ta thứ
ǵ cũng đều chẳng chấp trước, có thể
buông xuống chấp trước, niệm Phật văng sanh
sẽ chẳng có chướng ngại. Chẳng có chướng
ngại đến mức độ nào? Thưa cùng chư
vị, có thể tự tại văng sanh, biết trước
lúc mất, khi văng sanh chẳng bị một tí đau khổ
nào. Đau khổ đều là do chấp trước mà có!
Chấp trước cái thân này, chấp trước người
nhà, quyến thuộc, chẳng chịu buông xuống, cho nên
khổ sở, đau khổ bèn đưa tới. Đó gọi
là “sanh ly tử biệt”. Do
vậy, phải học thấy thấu suốt, buông xuống
chấp trước, đừng nên chấp trước nữa.
Trong cuộc sống hằng ngày, hăy tùy duyên.
“Tùy duyên” là thứ ǵ cũng
đều tốt. V́ hết thảy chúng sanh làm chuyện tốt;
làm chẳng thành công, cũng chẳng cần chấp
trước. V́ sao? Chúng sanh chẳng có phước báo, chính
ḿnh chẳng có trí huệ. Nếu chính ḿnh có trí huệ, dẫu
chúng sanh chẳng có phước báo, vẫn có cách đột
phá. Nếu chính ḿnh chẳng đủ trí huệ, chúng sanh lại
chẳng có phước, khi có rất nhiều chướng
duyên đưa tới, sẽ chẳng thể đột
phá. Điều này cũng là lẽ tự nhiên, cũng chẳng
cần phải chấp trước! Đấy là đột
phá lục đạo, sanh vào tứ thánh pháp giới. Trong tứ
thánh pháp giới, có vọng tưởng, có phân biệt. Nếu
đoạn trừ phân biệt, sẽ thuộc vào Phật
pháp giới trong tứ thánh pháp giới. Tứ thánh pháp giới
có bốn đẳng cấp là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ
Tát, và Phật. Phật trong mười pháp giới chẳng
rốt ráo. V́ thế, quư vị phải hiểu: Luôn rèn luyện
trong cuộc sống hằng ngày. Hễ có thể không phân
biệt, bèn tận hết sức chẳng phân biệt. Hễ
có thể chẳng chấp trước, bèn tận hết sức
không chấp trước. Có đoạn chấp trước,
phân biệt hay không? Chẳng đoạn, [chỉ là] giảm
bớt. Giảm bớt th́ vẫn tốt hơn [chấp
trước, phân biệt] rất nhiều! V́ thế, tận
hết sức giảm bớt chấp trước, giảm
bớt phân biệt th́ khởi tâm động niệm sẽ
chẳng có bao nhiêu. Đấy thật sự là “một đoạn th́ hết thảy
đều đoạn”. Do vậy, chúng ta đoạn
phân biệt và chấp trước từng phần một.
Đó là hằng ngày có tiến bộ, đó là công phu thật
sự. Phiền năo bớt một phần, trí huệ sẽ
tăng trưởng một phần, đức tướng
cũng tăng trưởng một phần, lợi ích rất
nhiều!
Phiền năo nhẹ nhàng, trí huệ tăng
trưởng, người thế gian cũng biết,
nhưng họ chẳng hiểu rơ ràng! Có phải là người thế
gian nói [như thế này] hay không? “Tướng chuyển theo tâm”. Thâm nhập một
tầng sâu hơn, sẽ là “mạng
chuyển theo tâm”. Tiên sinh Liễu Phàm đă hiểu “mạng chuyển theo tâm”, tâm tốt, mạng sẽ tốt;
tâm tốt, tướng sẽ tốt đẹp. Hiểu
đạo lư ấy, ông ta có thể cải tạo vận mạng
của chính ḿnh, có thể chuyển biến tướng hảo
của chính ḿnh. Ông ta đạt được phước
báo trước mắt trong thế gian. Bất luận là cuộc
sống vật chất hay cuộc sống tinh thần, ông
ta đều hết sức hạnh phúc, vui sướng, mỹ
măn, ông ta đă hiểu đạo lư này. Đấy là giáo dục
nhân quả, luân lư, đạo đức. Thật sự có thể
buông xuống phân biệt, chấp trước, trí huệ mở
mang. Buông xuống càng nhiều, trí huệ thấu lộ
càng nhiều, đạo lư là như thế đó. V́ vậy,
quư vị chẳng thể không buông xuống! Nếu không buông
xuống, sẽ vĩnh viễn chẳng thể khai trí huệ,
vĩnh viễn chẳng đạt được tướng
hảo.
Nếu công phu tăng tấn cao hơn, đấy
là do dụng công đă lâu, không nhất định là duyên
nào sẽ được thúc đẩy thành tựu,
lập tức buông khởi tâm động niệm xuống.
Quư vị thấy Huệ Khả đại sư ở trước
mặt tổ Đạt Ma, tổ Đạt Ma bảo: “Dữ nhữ an tâm cánh” (Ta đă
an cái tâm cho ngươi rồi). Từ ngay trong câu nói ấy,
ngài Huệ Khả khai ngộ. Khai ngộ ǵ vậy? Đại
triệt đại ngộ, tức là buông xuống khởi
tâm động niệm. Không chỉ là chẳng có phân biệt,
chẳng có chấp trước, mà trong sát-na chẳng có khởi
tâm động niệm, sẽ khế nhập Nhất Chân
pháp giới. Cảnh giới ấy
chính là “diện mạo vốn có trước khi được
cha mẹ sanh ra” (phụ
mẫu vị sanh tiền bản lai diện mục) của chính ḿnh như trong Tông Môn đă
nói, Ngài đă khế nhập. Khế
nhập và sở chứng chẳng khác tổ Đạt Ma,
chẳng khác chư Phật. Đó gọi là “Thật Tướng của các pháp cùng một lúc nhanh
chóng hiện ra”,
đấy là nhập cảnh giới.
Chúng ta nói đến tu hành thật sự th́
là tu ǵ? Thật sự tu hành, người lợi căn tu
hành sẽ là tu trong cuộc sống hằng ngày, trong công việc,
trong xử sự, đăi người tiếp vật, thấy
thấu suốt chân tướng sự thật, buông xuống
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Trừ
những thứ ấy ra, chẳng có Phật pháp! Ngàn kinh
muôn luận nói đến cuối cùng, đạt đến
kết luận, chính là điều này. V́ thế, Phật
pháp chẳng phải là mê tín, ngay cả tiến sĩ Thang
Ân Tỷ (Arnold Toynbee) cũng biết chuyện này. Tôi đọc
sách của ông ta, thấy ông ta nói: “Phật giáo là vô thần luận, Phật giáo là trí huệ,
Phật giáo là đại học vấn”. Khi tiên sinh
Phương Đông Mỹ giới thiệu Phật giáo cho
tôi, cụ đă bảo tôi: “Phật
giáo là triết học cao cấp”. Cao đến mức độ
nào? Cụ bảo tôi: “Trên thế
giới này, chẳng có ǵ cao hơn Triết Học trong kinh
Phật”. Tôi theo học Triết Học với cụ,
sau đấy, cụ c̣n bảo tôi: “Học Phật là sự hưởng thụ cao nhất
trong đời người”. Nghe câu nói ấy xong, rất
động ḷng, thế là tôi hướng theo Phật môn.
Sau khi tôi xuất gia lại đến thăm cụ, cụ
thấy tôi bèn nói: “Anh thật sự làm được! Tôi
nói đúng mà!” Thầy giới thiệu [Phật pháp], hết sức hoan hỷ. Thầy bảo: “Anh đi
theo con đường ấy là đúng, hoàn toàn chánh xác”.
Kể từ khi chúng tôi được thầy
giới thiệu cho đến nay đă là năm
mươi lăm năm, trong năm mươi lăm
năm ấy, hằng ngày đọc kinh, hằng ngày học
tập, tôi chẳng phải là kẻ lợi căn. Lợi
căn là như ngài Huệ Năng, hoặc như ngài Huệ
Khả, đó là bậc lợi căn. Công phu của tôi là
như tôi thường nói, từ chấp trước, từ
phân biệt mà buông xuống dần dần. Nhưng tôi một
mực buông xuống, hằng năm buông xuống, hằng
tháng buông xuống, hằng ngày buông xuống. Quá nhiều,
buông chẳng hết! Nhưng hằng ngày buông xuống, hằng
tháng buông xuống, cho nên tôi nói là những chúng sanh hoặc
đồng học lưu ư một chút, những đồng
học chú tâm sẽ có thể cảm nhận được,
[những người như vậy] rất ít, chẳng nhiều,
được mấy người! Họ nhận biết
từ chỗ nào? Nghe từ nội dung giảng kinh của
tôi. Đó là ǵ vậy? Mỗi tháng khác hẳn, chúng ta thường
nói là “tiến bộ”, hằng
tháng có tiến bộ. Hằng ngày có tiến bộ, họ
chẳng dễ phát hiện. Hằng tháng có tiến bộ, sẽ
dễ phát hiện. So sánh giữa tháng này và tháng trước,
[sẽ thấy tháng này] giảng hay hơn, thấu triệt
hơn tháng trước. Tháng sau lại giảng hay hơn
tháng này.
Khi tôi cầu học nơi thầy Lư, thầy
đă nói với tôi chuyện này. Tôi nghe thầy giảng
kinh, buổi học đầu tiên bèn viết bút kư. Chư
vị biết là khi ấy thầy giảng kinh mỗi tuần
một lần. Buổi học thứ hai vào tuần thứ
hai, tôi vẫn viết bút kư. Sau khi dạy xong buổi thứ
ba, thầy gọi tôi vào pḥng, hỏi: “Anh nghe kinh có ghi bút kư
hay không?” Tôi thưa: “Có ạ!” “Anh viết để làm ǵ?”
“Con sợ quên, thầy giảng những chỗ quan trọng
con đều ghi lại”. Thầy bảo: “Có tác dụng chi
đâu? Từ rày anh không cần viết nữa”. Tôi hỏi:
“V́ sao ạ?” “Cảnh giới mỗi năm khác nhau. Tốn
nhiều thời gian ngần ấy để viết lắm
thứ như thế, sang năm chẳng có một tí tác dụng
nào!” Tôi ngẫm nghĩ thấy có lư, bèn chuyên tâm nghe, chẳng cần
phải chia trí để viết bút kư, thầy dạy tôi
[như thế đó]. Do vậy, từ đấy trở
đi, tôi không viết bút kư nữa. Tôi theo học với thầy
mười năm, chẳng có một quyển bút kư nào là v́
lăo nhân đă dạy tôi hăy chuyên tâm nghe. Nghe hiểu th́ rất
tốt, nghe không hiểu cũng chẳng sao. Lần sau lại
nghe tiếp. Cách này hay tuyệt! Toàn tâm chăm chú, dốc
toàn bộ tinh thần chăm chú nghe thầy giảng kinh,
quư vị có thể khế nhập cảnh giới. Huấn
luyện điều ǵ? Huấn luyện Giới, Định,
Huệ. Viết bút kư sẽ bị phân tâm, có phân biệt, có
chấp trước. Khi chuyên tâm nghe th́ sẽ chẳng có, phân
biệt, chấp trước đều tạm thời buông
xuống, toàn tâm nghe thầy giảng diễn.
Nhưng đối với tôi, thầy dùng phương
pháp này; đối với các bạn học khác, chẳng phải
là phương pháp này. Những đồng học khác viết
bút kư thầy chẳng hỏi tới. Đấy là tùy theo mỗi
người mà áp dụng cách dạy khác nhau, [bởi lẽ],
căn tánh của mỗi người khác nhau. Phương
pháp này là đối với kẻ có ngộ tánh th́ phải
dùng phương pháp này. Kẻ không có ngộ tánh, chẳng nghe nhiều, nhớ dai, phải để cho họ viết bút kư.
Rốt cuộc vẫn là người ghi bút kư đông
hơn. V́ thế, thầy liễu giải học tṛ,
phương pháp dạy học [đối với mỗi
tṛ] khác nhau. Đấy là nói làm thế nào để ĺa hết
thảy ác. Để thật sự ĺa hết thảy ác
th́ phải ĺa từ gốc, hiệu quả sẽ hết
sức rơ rệt. Ĺa từ Sự sẽ hết sức khó
khăn. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi nói tới
chỗ này!
Tập
1552
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh
thứ mười một, tiểu đoạn thứ ba, tức
phần Sở Ngộ Nhân Vật trong đoạn lớn thứ
sáu của phần Kệ Tụng. Xin xem từ bài kệ thứ
mười lăm:
(Kinh) Kiến khổ hạnh nhân, đương nguyện
chúng sanh, y ư khổ hạnh, chí cứu cánh xứ.
(經)見苦行人。當願眾生。依於苦行。至究竟處。
(Kinh: Thấy người khổ hạnh, nguyện
cho chúng sanh, nương vào khổ hạnh, đến
chỗ rốt ráo).
Phật pháp dạy mọi người “ĺa khổ, được vui”,
mọi người đều biết chuyện ấy. Nếu
Phật pháp dạy người ta “ĺa vui,
được khổ”, có lẽ chẳng có ai học.
Nhưng thuở đức Thế Tôn tại thế, đối
với những kẻ tu khổ hạnh (chữ Hạnh (行) đọc giọng Khứ Thanh, đọc thành Hèng
(tức Hạnh), phải hiểu là động từ, tức
là tu khổ hạnh), Ngài đặc biệt tán thán. [Tán thán
như vậy] có mâu thuẫn với những ǵ đức
Phật đă dạy hay chăng? Thưa cùng chư vị,
chẳng mâu thuẫn! Nếu chỉ nh́n từ bề ngoài,
dường như cách nói của đức Phật phạm
lỗi mâu thuẫn, trên thực tế, lại là thành tựu
lẫn nhau! Khổ, ĺa khổ được vui, khổ là
ǵ? Tam đồ khổ, lục đạo khổ! Trong lục
đạo, nói đến nhân đạo, nay chúng ta đang
thuộc trong nhân đạo, những ǵ được thấy
nghe chính là cảnh giới Hiện Lượng, đấy
là sự thật. Quư vị nói đến cơi trời th́ cơi
trời là vui. Nói đến nỗi khổ trong địa
ngục và trong đường ngạ quỷ, chúng sanh sẽ
nói: “Chúng tôi chưa hề trông
thấy, rất khó lănh hội!”
Nhưng Phật pháp dạy quư vị chân tướng của
nhân sinh và vũ trụ, đức Phật giảng về
mười pháp giới, giảng về quá khứ, hiện
tại, vị lai. Nêu rơ chân tướng của vũ trụ, sẽ
biến thành Phật pháp cao sâu, kẻ sơ học hoặc
kẻ hiểu biết nông cạn sẽ chẳng thể lư
giải. V́ sao đức Phật tán thán khổ hạnh? Ai
nấy đều biết, bản thân chúng ta tập khí nghiệp
chướng rất nặng, có ai chẳng mong mỏi chính
ḿnh tiêu nghiệp chướng, tăng trưởng trí huệ?
Hễ nói tới chuyện này, mọi người chẳng
có ai là không mong muốn. Nhưng chư vị phải biết,
cam tâm sống cuộc đời gian khổ, sẽ tiêu nghiệp
chướng nhanh chóng nhất, tiêu trừ triệt để
nhất. Điều này chẳng khó hiểu, chỉ trách
chúng ta trong cuộc sống hằng ngày đă sơ sót, vô
tâm, ơ hờ đối với chuyện này.
Đức Thế Tôn đối với nhân
gian, cơi trời, giới nội, giới ngoại, Ngài xác thực
đă chứng đắc phước báo viên măn rốt ráo.
Chúng ta đọc kinh Đại Thừa bèn thấy tướng
hảo của đức Phật chẳng thể nói trọn
hết được! Chúng ta thấy kinh Đại Thừa
thường nói: “Phật có vô
lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng
hảo”. “Vô lượng” là cách
nói mông lung, ai cũng chẳng có cách nào nói rơ ràng, nhưng xác
thực là trong kinh giáo đă thuyết minh cặn kẽ, “vi trần tướng hải
thân”. Kinh Hoa Nghiêm c̣n nói minh bạch hơn, trong phần
trước, chúng ta đă đọc rồi đó, “thập Liên Hoa Tạng vi trần
số tướng hảo” (tướng hảo có số
lượng nhiều như số vi trần trong mười
thế giới Liên Hoa Tạng), chúng ta thường thấy
kinh nói là “Hằng hà sa số”
(nhiều như số cát trong sông Hằng). Đấy là
nói theo nhân gian, nói theo đại thiên thế giới, chứ
nói theo vũ trụ, chúng ta sẽ thường nói là “biến pháp giới hư không giới”
(trọn khắp pháp giới hư không giới), Báo Thân có
mười Liên Hoa Tạng thế giới vi trần số
tướng hảo, chúng ta không có cách nào thấu hiểu. Hằng
hà sa số đă chẳng có cách nào lănh hội, thế giới
vi trần số tướng hảo càng chẳng có cách nào
lănh hội, [thế mà] nay là mười Hoa Tạng thế giới vi trần
số tướng hảo! V́ sao Thích Ca Mâu Ni Phật thị
hiện trong thế gian này (trong thế giới này) c̣n phải
tu khổ hạnh? Từ lúc thành đạo, ba mươi
tuổi Ngài thị hiện thành đạo dưới cội
Bồ Đề, độ năm vị tỳ-kheo tại
Lộc Dă Uyển, thành lập Tăng đoàn, sống cuộc
đời như thế nào? Giữa trưa ăn một bữa,
qua đêm dưới cội cây, ba y một bát, đấy
là một bậc khổ hạnh. V́ lẽ ǵ mà đức
Phật làm như thế?
Trong quá khứ, chúng tôi mới học Phật,
khi mới xuất gia, nghi hoặc cũng rất nhiều.
Lăo ḥa thượng dạy chúng tôi, chẳng nói rơ ràng. Ngài chỉ
bảo chúng tôi: Thuở đức Thế Tôn xuất thế,
Ấn Độ đúng là một quốc gia tôn giáo. Các môn
phái tôn giáo rất nhiều. Những tôn giáo được nhắc đến trong kinh Phật
đều là những tôn giáo nổi danh nhất, có chín mươi sáu thứ [tôn giáo]. Người tu hành
trong mỗi tôn giáo đều tu khổ hạnh. Do đó,
nếu đức Phật chẳng thị hiện khổ
hạnh, nhất định sẽ bị đại chúng
trong xă hội châm biếm, hủy báng, nói: “Các ngươi
thấy phái của chúng
nó chẳng tu khổ hạnh, chúng nó muốn
hưởng thụ”. V́ thế, đức Phật ắt phải
thị hiện giống như các tôn giáo khác, chỉ có
hơn, chứ không kém. Như vậy th́ mới có thể
khiến cho đại chúng trong xă hội tôn kính, tín ngưỡng,
tiếp nhận sự giáo hóa của đức Phật.
Nói kiểu ấy cũng chẳng phải là vô lư, nhưng
cách nói ấy rất nông cạn, v́ luận định dựa
theo t́nh huống xă hội đương thời để nói. Trên thực tế, ngôn hạnh và cử chỉ của
đức Phật đáng gọi là “đều có mật
nghĩa”, có ư nghĩa rất sâu trong ấy, thật sự lấy
thân làm gương nhằm hóa độ, hướng dẫn
chúng sanh.
Mật nghĩa ǵ vậy? Mật nghĩa là
nhằm bảo chúng ta: Tam đồ khổ, lục đạo
khổ, mười pháp giới khổ, những thứ ấy
đều chẳng thật. Kinh Bát Nhă đă dạy: “Phàm những ǵ có h́nh tướng
đều là hư vọng”, “phàm
những ǵ có h́nh tướng” bao gồm mười pháp
giới, bao gồm hết
thảy các cơi Phật trọn khắp pháp
giới hư không giới, phạm vi ấy quá to. V́ sao phải
nói đến các cơi nước khác của chư Phật?
Hết thảy cơi nước của chư Phật có mối
quan hệ với chúng ta, mối quan hệ ǵ vậy? Có lúc
chúng ta sẽ di dân sang bên đó. Khi nào th́ sẽ di dân? [Khi] thế
giới này hư hoại. Trong kinh, đức Phật
đă dạy rất rơ ràng. Đại thiên thế giới [trải qua các giai đoạn] thành, trụ,
hoại, không, [tức là] bốn trung kiếp. Trong bốn
trung kiếp, chỉ có một trung kiếp là có thể cư trụ, chứ ba [trung] kiếp khác đều chẳng thể cư trụ được! Chỉ
có Trụ Kiếp là có thể cư trụ.
Khi thế giới thành th́ chẳng thể cư trụ, [bởi
lẽ] thế giới mới vừa thành th́ sẽ chẳng
thể cư trụ. Hoại Kiếp th́ chẳng thể trụ; thế
giới này đă hư hoại, khá nhiều tôn giáo nói là “tận thế”. Thế giới
bị hư hoại, sẽ chẳng thể sống trong thế
giới ấy. Không Kiếp th́ đương nhiên là chẳng thể trụ.
Nhưng mỗi trung kiếp lại bao gồm
hai mươi tiểu kiếp, thời gian rất dài.
Chúng ta biết người tu Thiền Định,
tu đến Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền,
Tứ Thiền, cho đến kể cả Tứ
Không Thiên, thọ mạng đều luận định bằng
kiếp. “Kiếp” ở
đây là đại kiếp. Thế giới này “hoại” hoặc
“không”, thọ mạng của họ c̣n chưa hết. Quư vị
nghĩ xem thọ mạng của chư thiên trời Phi
Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ là tám vạn đại
kiếp, quư vị có biết lâu cỡ
nào hay chăng? “Tám vạn đại
kiếp” nghĩa là thế giới Sa Bà này thành, trụ,
hoại, không tám vạn lần. Trong một đại kiếp
có một lần “thành, trụ, hoại, không”. Quư vị nói
xem thọ mạng của họ dài cỡ nào! Vậy th́ họ
sẽ đến nơi đâu? Thế giới này hoại,
kinh Phật thường nói, họ sẽ được dời qua thế giới khác, qua cơi Phật khác. Ở
đây là hoại không, ở bên kia là thành, trụ, có thể
di chuyển sang bên ấy. Trong tam đồ, ngạ quỷ,
súc sanh, địa ngục, thọ mạng cũng tính bằng
kiếp, họ đến nơi đâu để thọ
quả báo? Thế giới này hoại, họ cũng đến
thế giới khác.
Quư vị bèn hiểu, vô lượng vô biên các
cơi Phật trong khắp pháp giới hư không giới có mối
quan hệ với chúng ta mật thiết dường ấy.
Các cơi nước ấy đều là khu vực giáo hóa của
Phật, Bồ Tát. Chúng sanh nơi nào có cảm, Phật, Bồ Tát sẽ
thị hiện, đáng nên dùng thân ǵ để độ,
bèn hiện thân ấy. Trong phần trước, chúng ta vừa
mới đọc, Thanh Lương đại sư đă
khai thị mười loại ân đức ứng hóa trên
thế gian của chư Phật Như Lai. Đấy là
đề cương, nếu nói chi tiết, sẽ chẳng
thể nói hết được. V́ thế, con người
chẳng thể không tri ân. Tri ân, báo ân. Kinh đă nói hết
sức hay: Kẻ chẳng biết tri ân, sẽ gặp nhiều
tai họa ngang trái. Kinh văn nói là “hoạnh tử” (橫死, chết bất ngờ, chết ngang xương). Chẳng
biết ân, sau khi chết, nhất định đọa vào
địa ngục, chẳng phải là ngạ quỷ hay
súc sanh, mà chắc chắn là đọa địa ngục.
Bởi lẽ, cái tội vong ân phụ nghĩa rất nặng.
Khổ hạnh, nhất là cam tâm vui ḷng sống
cuộc đời kham khổ, công đức ấy vô
lượng. Công đức do đâu mà có? Nêu gương
cho hết thảy chúng sanh, công đức ấy to lớn.
Quư vị thấy có chúng sanh nào bằng ḷng chịu khổ
hay chăng? Chẳng có! V́ sao con người tạo tội
nghiệp? Do sợ khổ! Họ mong ĺa khổ, được
vui, nhưng chẳng hiểu đạo lư, mà cũng chẳng
hiểu phương pháp. Giống như trong xă hội có những thanh thiếu niên,
chúng ta ở bên cạnh nh́n vào, [sẽ thấy] họ
t́m niềm vui trong cảnh khổ. “Trong cảnh khổ mà ngỡ
là vui” là ǵ vậy? T́m sự kích thích, hút thuốc phiện, chơi
morphine. V́ sao họ làm vậy? Họ tưởng đó là lạc
(vui thú). Lạc ấy chỉ là hết sức ngắn ngủi,
tạm bợ. Đạt được một tí lạc ngắn ngủi,
quư vị phải trả giá thống khổ cỡ nào! Chuyện
này hết sức rơ rệt, vừa nói ra, mọi người
đều biết. Mọi người chẳng biết là
trong một đời này, niệm nào chúng ta cũng đều
chẳng phải là mong cầu “ĺa khổ, được vui” đó ư? Nghĩ trọn mọi phương pháp để
thu được tiếng tăm, lợi dưỡng, thu
được ngũ dục, lục trần, đấy
chẳng phải tham cầu hưởng thụ hay sao? Nói
thật ra, chẳng khác lũ trẻ tuổi vô tri hút thuốc
phiện!
Tâm quư vị bất thiện, hành vi bất
thiện, phương pháp thủ đoạn bất thiện,
tận lực làm chuyện tổn người lợi ḿnh,
dẫu trước mắt đạt được chút lợi
nho nhỏ, dẫu quư vị đoạt được ngôi
vua trong thế gian, vẫn là v́ trong mạng quư vị sẵn
có. Nếu trong mạng chẳng có, quư vị sẽ chẳng
đoạt được! Trong mạng đă có, cần ǵ
phải chiếm đoạt? Trong mạng mà có, chắc chắn
sẽ chẳng vứt bỏ được. Đó là trong
quá khứ đă tu tập, tích lũy thiện căn,
phước đức; đời này, quư vị nhất
định sẽ đạt được quả báo. Quư
vị vô tri, chẳng hiểu chân tướng sự thật,
liều mạng dùng mưu kế, dùng thủ đoạn chẳng
chánh đáng để đạt được. Đạt
được th́ như thế nào? Vẫn là do trong mạng
sẵn có, nhưng cái có sẵn trong mạng ấy đă bị
chiết khấu, tổn giảm. Người Hoa đă nói,
nói rất nhiều: “Trong mạng của quư vị có phước
báo mười đời làm đế vương, trong nhà
quư vị nhất định sẽ sanh ra mười vị
hoàng đế, đời đời truyền thừa”.
Trong nhà quư vị có phước báo một trăm vị
đế vương, đó là do tổ tông tự ḿnh tích
phước to lớn, nhất định sẽ có một
trăm con cháu truyền thừa, quư vị phải tin tưởng.
Nhưng quư vị dùng thủ đoạn bất chánh để
chiếm đoạt ngôi vua, dùng thủ đoạn bất
chánh để bóc lột nhân dân, vậy là phước báo một
trăm đời có thể chỉ c̣n sót lại mười
đời, bị chiết khấu. Thật đấy, chẳng
giả đâu nhé!
Hoặc là có [trường hợp], đây
cũng là thật, chẳng giả, phước báo của quư
vị chẳng hiện hữu trong đời này, mà sẽ
là trong đời kế, hoặc đời sau nữa, nhưng
trong đời này, quư vị dùng thủ đoạn chẳng
chánh đáng để đoạt lấy th́ cũng đoạt
được. Vốn là phước báo to lớn trong đời kế hoặc đời sau, hiện
thời đạt được, biến thành phước
báo nhỏ bé, tức là quư vị thúc đẩy phước
báo của chính ḿnh đến sớm, vẫn là phước
báo của chính ḿnh, nhưng hưởng thụ trước.
Nói theo luật nhân quả, sẽ là “lộc tận nhân vong” (người hết lộc
sẽ chết). Quư vị thấy phước mấy
trăm đời, khi quư vị hưởng trước, một
đời là hưởng hết sạch! Đă hưởng
hết rồi, quư vị c̣n tạo tác rất nhiều tội
nghiệp, làm hại những kẻ khác, người ta sẽ
báo thù. Quư vị tước đoạt tài sản của kẻ
khác, khi đến lúc, họ cũng sẽ đến
đ̣i nợ, quư vị nói xem, phiền phức to lớn hay không?
V́ thế, tôi thấy chuyện chẳng phải là
đơn giản như vậy đâu nhé!
Ngày hôm qua, ở đây có một vị đồng
tu, cũng là người làm công quả đă lâu năm tại
đạo tràng chúng ta. Ngày hôm qua, [người ấy] đến
gặp tôi. Có oán thân trái chủ dựa thân người ấy,
người ấy rất đau khổ. Oán thân trái chủ
cho biết, đời trước oán thân trái chủ đă
bị người ấy giết. Người ấy tuyệt
đối chẳng bịa chuyện gạt gẫm tôi, rất
nhiều người trong số quư vị đă trông thấy:
Người ấy cũng chẳng phải là hạng bịa
chuyện, đồn thổi. Oan gia đến đ̣i mạng,
nhưng đời này, người ấy đă học Phật
rất nhiều năm, tâm địa rất thiện
lương. Con quỷ ấy cũng rất khó có, thấy
người ấy [tốt lành như vậy], bèn chẳng
nỡ ḷng ra tay. Vấn đề hiện thời là quỷ
đó vẫn ở trên thân người ấy, chẳng bỏ
đi. Trong quá khứ chúng tôi đă gặp chuyện này vài lần,
chúng tôi liễu giải. Sau khi quỷ đă đến [dựa
thân] rồi, nó chẳng bỏ đi, nó hết sức mong
muốn tu hành, [người ấy] đến hỏi tôi,
hy vọng tôi giới thiệu một nơi để
người ấy đến đó tu hành. Tôi giới thiệu
người ấy đến núi Đông Thiên Mục, người
ấy rất hoan hỷ. Chẳng giả! Oan có đầu,
nợ có chủ! Đời này, một người được
làm thân người trong thế gian này, bất luận quư vị
có thân phận ǵ, bất luận địa vị nào, bất
luận sống như thế nào, đều phải thật
thà, chắc chắn là chẳng thể tổn hại chúng
sanh. Đừng nói là chẳng thể tổn hại chúng
sanh, [ngay cả] súc sanh cũng chớ nên tổn hại, chớ
nên phá hoại hoàn cảnh tự nhiên.
Trong phần trước, chúng ta đă đọc
kinh Hoa Nghiêm, [thấy kinh nói đến] thần núi, thần
đất, thần sông, thần biển, thần cây, thần
thảo mộc, thần lúa mạ, chúng ta đọc thấy
quá nhiều [loại thần]. Núi, sông, đại địa,
cỏ cây, rừng rậm có chủ hay không? Có chứ, quỷ
thần làm chủ! Chúng ta muốn sử dụng những
cây cối ấy, trong giới kinh, đức Phật
đă dạy người xuất gia: Người xuất
gia ở chốn núi rừng, nếu muốn chặt mấy
cội cây để dựng lều tranh nhỏ th́
được phép, nhưng phải nên như thế nào? Ba
ngày trước đó, quư vị nh́n trúng mấy cây nào, quư vị
phải cúng tế chúng nó, [tức là] cúng tế thần cây,
cúng dường, tụng kinh, tŕ chú, triển khai đàm phán
với thần cây. Tôi bất đắc dĩ, muốn dựng lều tranh tu hành ở chỗ này, cần
đến những vật liệu
này, xin họ chuyển nhà. Chư vị
phải biết, “thần cây” chẳng phải là cái cây ấy
thành thần, mà là quỷ thần dựa vào cây ấy, coi
như nhà của họ, họ ở chỗ đó. [Do vậy,
phải] xin họ chuyển nhà. Đấy là đúng pháp, chẳng
đắc tội với họ, họ nhất định
sẽ dọn đi.
Chúng tôi hiểu đạo lư ấy; do vậy,
vài năm trước, [nói
đúng ra là] ba năm trước, chúng tôi mua một
ngôi nhà thờ ở Đồ Văn Ba (Toowoomba), Úc châu, mua
hết mấy căn nhà bên cạnh. Có một căn nhà quá
cũ nát, chúng tôi liền phá đi xây lại. Ngoài cửa có
hai cây to. Chúng tôi đă cúng tế thần cây ấy từ ba
hôm trước. Sau khi cúng bái xong, trong các đồng học,
có một vị đồng học buổi tối nằm
mộng thấy thần cây đến t́m người ấy,
bảo [người ấy hăy nói với] những người
xuất gia chúng tôi: Sau này, hễ cúng tế mời họ
chuyển nhà, họ muốn chúng tôi phải làm sớm hơn,
tức là trước đó bảy ngày. Thần nói thời
gian ba ngày quá ngắn, [lần này] thần vẫn dọn
đi, nhưng rất bận bịu, yêu cầu chúng tôi [báo
trước] bảy ngày. Chúng tôi nghe tin tức ấy, suy ngẫm
thấy rất có lư, v́ sao? Tập khí của người Úc
là tất cả hết thảy các động tác đều
hết sức thong thả, chẳng giống người
bên này làm việc luôn cầu hiệu suất, động
tác luôn rất nhanh nhẹn. Người Úc xác thực giống
như loài gấu không đuôi, chẳng chú trọng hiệu suất, đúng
là bất luận làm chuyện ǵ cũng đều tà tà, quư
vị giao thiệp với họ phải rất kiên nhẫn.
V́ thế, quỷ thần, thần cây tại Úc cũng giống người Úc, nói ba ngày không
được, phải là bảy ngày, chúng ta hiểu
được! Về sau, đương nhiên là hiện thời
chúng tôi đang ở Úc, thường có chuyện xây dựng; sau
đó, hễ cần vật liệu, chúng ta biết là phải
cúng tế họ trước bảy ngày. Há có phải là giả?
Phật môn chẳng thờ cúng quỷ thần.
Cúng bái ở đây chẳng giống như trong tôn giáo, [tôn
giáo] coi quỷ thần như Thượng Đế, coi
như là chúa tể, Phật môn chẳng phải vậy. Cúng
bái quỷ thần trong Phật môn th́ quỷ thần là chúng
sanh, là bằng hữu của chúng ta. Chúng ta đôi bên ở
cùng một chỗ, cũng phải giao thiệp lễ độ
với nhau. Họ chẳng phải là chúa tể, điều
này có ư nghĩa khác biệt rất lớn so với tôn giáo.
V́ thế, chúng ta làm những Phật sự siêu độ
nhằm khuyên nhủ, hướng dẫn họ, chúng ta cùng
nhau tu tập. Mục tiêu của Tịnh Tông là cầu sanh Tịnh
Độ, chúng ta cùng tu với nhau, cùng phát nguyện cầu
sanh Tịnh Độ. Có Tịnh Độ hay không? Trong thế
giới này, đức Thế Tôn giới thiệu [Tịnh
Độ] cho chúng ta, lại c̣n nói với kẻ căn tánh
trung hạ: “Có [Tịnh Độ], khẳng định là
có”. Quư vị chấp trước có th́ mới có thể
văng sanh. Nếu quư vị chấp trước “chẳng có [Tịnh
Độ]”, sẽ chẳng thể văng sanh. Nếu đức
Phật nói với người thượng thượng
căn, sẽ chẳng giống như nói với chúng ta.
[Đối với] người thượng thượng
căn, đức Phật nói như thế nào? Có Tịnh
Độ hay không? “Duy tâm sở
hiện, duy thức sở biến”. Có Tịnh Độ,
có thế giới Cực Lạc, có A Di Đà Phật, có
như thế nào? Do chính cái tâm của quư vị, do cái thức
của quư vị biến, chẳng ĺa tâm thức. Đấy
gọi là “chân tánh”.
Người thượng thượng
căn là ǵ? Buông xuống phân biệt, chấp trước th́
gọi là người thượng thượng căn. Chẳng
buông xuống phân biệt và chấp trước th́ là kẻ
trung hạ căn. V́ thế, kẻ trung hạ căn văng
sanh Tịnh Độ là đới nghiệp văng sanh. Pháp
môn này rất đặc thù. Ngẫu Ích đại sư là
một người rất lỗi lạc, Ngài đă thị
hiện, nêu gương cho chúng ta. Ngài quy y pháp môn Tịnh
Độ, lấy biệt hiệu là Tây Hữu Đạo
Nhân. Tây (西) là phương Tây, Hữu (有) là hữu (có) trong hữu-vô, nhằm trực tiếp
dạy rơ ràng cùng chúng ta, “Tây Phương là có thật”. V́ thế,
Ngài tự xưng là Tây Hữu Đạo Nhân. Quư vị thấy
Ngài chú giải kinh Di Đà, tức Di Đà Yếu Giải,
phân lượng chú giải không nhiều lắm. Trong lời
tựa, Ngài đă viết rất rơ ràng, chín ngày bèn viết
xong. Cận đại, pháp sư Viên Anh có bộ [Di Đà
Kinh Yếu Giải] Giảng Nghĩa, pháp sư Bảo
Tĩnh có bộ [Di Đà Kinh Yếu Giải] Thân Văn Kư,
đều là chú giải của bộ Yếu Giải. Trong
quá khứ, chúng tôi cũng đă giảng cặn kẽ, lăo
cư sĩ Lưu Thừa Phù chép từ băng thâu âm thành một
quyển giảng kư. Bộ sách Yếu Giải được
Ấn Quang đại sư tán thán tột bậc. Trong
Văn Sao có chép lời tổ Ấn Quang đă nói: “Dẫu cổ Phật tái lai viết
chú giải cho kinh A Di Đà cũng chẳng thể hay
hơn bản này được”. Đấy là tán thán tột
bậc, chẳng có cách nào tán dương nữa!
Năm xưa, pháp sư Diễn Bồi
đă đem vấn đề này hỏi tôi. Tôi tu Di Đà Tịnh
Độ, c̣n Ngài tu Di Lặc Tịnh Độ, [tức là]
Ngài cầu sanh về Đâu Suất Nội Viện. Ngài hỏi
tôi: “Câu ấy của tổ Ấn Quang có phải là hơi
quá lố một chút hay chăng?” Vị này cũng là một
vị đại pháp sư giảng kinh. Tôi nói với Ngài,
tôi thưa: - Lời tổ Ấn Quang đă nói tuyệt
đối chẳng quá lố tí nào! Nói thật ra, Ngài nói vừa
đúng! Nay chúng ta biết, Ấn Quang đại sư là
Tây Phương thế giới Đại Thế Chí Bồ
Tát tái lai. Đại Thế Chí Bồ Tát tán thán tổ Ngẫu
Ích như vậy, vị này là hạng người nào?
Nhưng suốt đời Ngẫu Ích đại sư chẳng
bộc lộ thân phận. Chúng ta thấy Đại Thế
Chí Bồ Tát đă tán thán như vậy, chúng tôi nghĩ: Nếu
ngài Ngẫu Ích chẳng phải là A Di Đà Phật tái lai, chắc
chắn là Quán Thế Âm Bồ Tát tái lai th́ mới có thể
chú giải hay như thế, thấu triệt như thế.
Văn tự không nhiều lắm, nhưng từng câu, từng
chữ đúng là ư nghĩa của A Di Đà Phật, ư
nghĩa của Thích Ca Mâu Ni Phật, lẽ nào kẻ b́nh
phàm có thể nói được ư?
Quư vị thấy Ngẫu Ích đại
sư khiêm hư như vậy, Ngài cũng được
coi là một vị Tăng khổ hạnh, đă v́ chúng ta
thị hiện, nêu gương cho chúng sanh thời Mạt
Pháp: Tŕ giới niệm Phật. Thuở ấy, Ngẫu Ích
đại sư cũng được mọi người
xưng tụng là một vị luật sư. Ngài đổ
công dốc sức rất sâu nơi giới luật, giống
Hoằng Nhất đại sư vào đầu thời Dân
Quốc. Hoằng Nhất đại sư cũng đổ
công dốc sức rất lớn nơi giới luật. Những
vị ấy đều làm cho chúng ta thấy: Tŕ giới niệm
Phật th́ quư vị mới có thể thật sự văng
sanh. Đức Phật dạy mọi người, căn
tánh trung hạ th́ thiên trọng sự tướng, c̣n bậc
thượng thượng căn th́ thiên trọng lư tánh,
nhưng tánh và tướng như một, Lư và Sự chẳng
hai. Chúng ta ắt cần phải hiểu điều này. Tuy
hiểu rơ Lư, chẳng thể phế bỏ Sự. Nếu
chấp trước Lư, phế Sự, sẽ là sai lầm
đặc biệt to tát. Vẫn chẳng bằng không hiểu
rơ Lư, mà chuyên môn chú trọng nơi sự tướng, sẽ
thật sự có phần trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư.
Nếu chấp trước Lư, vứt bỏ sự tu tập
nơi Sự, sẽ chẳng có phần trong cơi Phàm Thánh
Đồng Cư! Quư vị c̣n chưa thấu triệt
Lư. Hễ thấu triệt, sẽ kiến tánh, đúng là vấn
đề ǵ cũng đều được giải quyết.
Hiểu rơ Lư đôi chút, chẳng thấu triệt, sẽ vô
dụng. Phải đến khi nào mới thấu triệt
Lư? Thấu triệt lại là như thế nào? Chớ nên
không biết điều này! V́ sao? Quư vị thường xuyên
hồi quang phản chiếu, khám nghiệm chính ḿnh, rốt
cuộc ta có thấu triệt hay không? Thật sự thấu
triệt, [sẽ là] “nghe một,
ngộ cả ngàn; một ngộ, hết thảy ngộ”.
Ngày nào quư vị thật sự khai ngộ, sẽ
giống như Lục Tổ Huệ Năng đại
sư của Thiền Tông: Tất cả hết thảy các
kinh điển quư vị đều thông suốt toàn bộ.
Chúng ta biết Huệ Năng đại sư không biết
chữ, chưa hề học kinh giáo. Quư vị thấy tỳ-kheo-ni
Vô Tận Tạng thọ tŕ kinh Niết Bàn mấy chục
năm, hằng ngày đọc tụng, đọc tụng rất
thuần thục, [thế mà] chẳng khai ngộ. Bà thỉnh
giáo ngài Huệ Năng, khi đó, ngài Huệ Năng vẫn
mang h́nh tướng tại gia, chẳng thị hiện
tướng xuất gia, vị tỳ-kheo-ni ấy là người
xuất gia. Lục Tổ Huệ Năng đại sư ở
Hoàng Mai chỉ giă gạo trong pḥng xay xát. Nói theo kiểu hiện
thời, Ngài là người làm công quả, chẳng phải
là người xuất gia, [thế mà] tổ sư truyền
y bát cho Ngài. Tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng hoàn toàn chẳng
biết, chỉ cảm thấy vị này rất hiểu Phật pháp,
nói rất có lư, bội phục đến mức năm vóc sát đất, liền đem kinh Niết
Bàn hướng về
Ngài thỉnh giáo. Huệ Năng đại
sư bảo bà ta: “Bà hăy đọc cho tôi nghe”. Bà ta liền
đọc, đọc xong, Huệ Năng đại sư
giảng giải, bà ta khai ngộ. Nếu quư vị có
năng lực ấy, chứng tỏ quư vị đă thật
sự khai ngộ, hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian không có thứ ǵ chẳng thông đạt. Nếu chẳng
đạt đến mức độ ấy, hăy thật
thà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, phải
tin thật sự có Tịnh Độ, đời này mới
chẳng đến nỗi luống uổng!
Đối với thụy tướng văng
sanh, trong đời này tôi đă thấy mấy trường
hợp, đứng mất, ngồi mất, lâm chung chẳng
ngă bệnh, biết trước lúc mất. Hôm trước
c̣n có một vị lăo cư sĩ đến từ
phương Bắc kể với tôi: Chồng của bà ta
văng sanh, bảy mươi tám tuổi, biết trước
lúc mất, chẳng ngă bệnh, nói đi là đi. Bà ta chính
mắt trông thấy, nay bèn sanh khởi tín tâm, kể với
tôi là bà hăy c̣n có những thứ chẳng thể buông xuống
được. Tôi bảo bà ta, hăy buông xuống! Thế
gian và xuất thế gian toàn là giả! Một người
có thể văng sanh hay không, điểm then chốt là người
ấy có buông xuống hay không. Nếu thật sự buông xuống,
niệm Phật chắc chắn được văng sanh. Bà
ta kể hôm chồng bà
văng sanh, ông c̣n kéo tay bà, bảo bà: “Hăy
nh́n xem! Hai bên đường toàn là hoa sen”. Ông bảo bà
như vậy, nhưng bà chẳng thấy, chồng bà th́ thấy.
Khoảng một, hai giờ sau, ông ra đi. Những chuyện chúng tôi
đích thân mắt thấy, tai nghe rất nhiều, chẳng
phải là giả.
V́ thế, đối với hết thảy
các kinh luận, chúng ta mở ra mà c̣n có nghi hoặc, c̣n chẳng
thể thông đạt, chẳng hiểu rơ, [tức là] chẳng
ngộ! B́nh thường nói đến “ngộ”, đó là tiểu ngộ, chẳng phải
là đại triệt đại ngộ. Tiểu ngộ và
đại ngộ đều vô dụng, v́ sao? Chẳng thể
liễu sanh tử, chẳng thể thoát ly lục đạo
luân hồi. Người đại triệt đại ngộ
có thể thoát ly lục đạo luân hồi, đến
chỗ nào? Đến tứ thánh pháp giới, chẳng phải
là đến thế giới Cực Lạc, phải hiểu
chuyện này! Nay chúng ta nói “hằng
ngày có ngộ xứ”, chính là tiểu ngộ. Cổ đức
thường nói “tích tiểu ngộ
thành đại ngộ”, nay chúng ta thực hiện công
phu này, tích đại ngộ thành triệt ngộ, đấy chẳng
phải là chuyện dễ dàng. Trong một vạn người,
đại khái chẳng t́m được một ai! Ắt
cần phải làm. Điều then chốt để có thể
ngộ hay không, thưa cùng chư vị, khổ hạnh là một nhân
tố rất trọng yếu; v́ sao? Người cam tâm t́nh
nguyện sống cuộc đời kham khổ, sẽ chẳng
có dục vọng. Nghiêm trọng nhất trong các phiền
năo chính là ái dục. Thứ này khó đoạn lắm! Cam tâm
t́nh nguyện sống cuộc đời kham khổ, tập
khí ái dục liền mỏng bớt. Đấy là chuyện
tốt.
V́ lẽ ấy, thuở đức Thế
Tôn tại thế, đă v́ chúng ta thị hiện. Quư vị
nh́n lại các vị thánh hiền thế gian. Tại
Trung Hoa, quư vị hăy nh́n vào Khổng Tử, nh́n vào Mạnh
Tử. Quư vị thấy một học tṛ của Khổng
Tử là Nhan Hồi,
vị này thường được phu tử
tán thán. Nhan Hồi là một vị tăng khổ hạnh,
cơm đựng trong giỏ, nước đựng trong
bầu, sống cuộc đời kham khổ nhất. Hiện
thời, trong thế gian này, một số ít, chẳng nhiều, những người thật sự tu hành, sống
trên núi, chẳng xuống núi, ở trong lều tranh. Ở
bên cạnh chiếc lều tranh của ḿnh, bèn trồng một
ít rau, giữa trưa ăn một bữa, há có thứ ǵ
ngon miệng? Thế mà họ trường thọ, khỏe
mạnh. Quư vị thấy cụ Hứa Triết ở Tân
Gia Ba, năm nay đă một trăm lẻ tám tuổi. Khi cụ
một trăm lẻ một tuổi, đă đến chỗ
tôi xin quy y. Mỗi ngày bà cụ ăn một bữa, bà
ăn rau sống, một chút cơm, chẳng có dầu, chẳng
có muối, chẳng có đường, những thứ gia
vị ǵ bà cụ đều chẳng ăn. Rau sống th́
bà dùng nước sôi chần qua một chút. Sống cuộc
đời ấy, bà cụ sống [như vậy đă] vài
chục năm, thân thể hết sức khỏe mạnh.
Cụ đă v́ chúng ta thị hiện, nghe nói hai hôm nay, cụ
sang Thượng Hải. Một trăm lẻ tám tuổi
mà c̣n đi khắp nơi. Quư vị thấy cụ suốt
đời chăm sóc hai mươi mấy người già.
Thật ra, những người già đó toàn là bảy, tám
mươi tuổi, c̣n bản thân cụ là một trăm lẻ
tám tuổi, chăm sóc những người già bảy, tám mươi tuổi, chăm nom hơn hai
mươi người. V́ thế, cụ bảo người
khác, cụ là “thanh niên một trăm lẻ tám tuổi”!
Lũ người thế gian chúng ta lại sợ
thứ này chẳng đủ dinh dưỡng, sợ thứ
kia không đủ dinh dưỡng, kết quả là như
thế nào? Kết quả là thật sự đều chẳng
đủ. V́ sao? Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng!
Quư vị thường nghĩ nó không đủ, làm sao nó
đủ cho được? Giống như cụ Hứa
Triết, giống như đức Thế Tôn và các vị
đệ tử của Ngài, thứ ǵ cũng chẳng
nghĩ đến. Thứ ǵ cũng chẳng nghĩ đến
th́ sẽ đều đủ, vấn đề ǵ cũng
đều chẳng có. Chúng ta chớ nên không biết điều
này. V́ thế, thấy người khổ hạnh, tự
nhiên Bồ Tát sẽ dẫn khởi đại nguyện,
hy vọng vĩnh viễn “y
ư khổ hạnh” (nương vào khổ hạnh), tự
hành, hóa độ người khác đạt đến chỗ
rốt ráo. Chỗ rốt ráo của chúng ta chính là văng sanh Tịnh
Độ, đấy là chỗ rốt ráo của chúng ta.
Sau khi đă đến Tịnh Độ, nhất định
sẽ chứng Vô Thượng Bồ Đề ngay trong một
đời, chẳng cần đến đời thứ
hai, [mà là] thành tựu ngay trong một đời. A! Nay
đă hết thời gian rồi, chúng tôi giảng tới chỗ
này!
***
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem bài kệ kế tiếp
là bài thứ mười sáu:
(Kinh) Kiến thao hành nhân, đương nguyện
chúng sanh, kiên tŕ chí hạnh, bất xả Phật đạo.
(經)見操行人。當願眾生。堅持志行。不捨佛道。
(Kinh: Thấy người tu luyện, nguyện cho
chúng sanh, giữ vững chí hạnh, chẳng bỏ Phật
đạo).
Bài kệ này cũng là khi ra khỏi cửa,
trong phần trước đă nói là đi khất thực,
[trông thấy] những nhân vật có thể gặp gỡ
trên đường. Ở đây là người như thế
nào? Giữ vững giới luật, người có tu luyện,
chúng ta thường nói là “nghiêm
tŕ giới luật”. Ra cửa trông thấy [người
như vậy] bèn dẫn phát đại nguyện, “đương nguyện chúng
sanh, kiên tŕ chí hạnh” (nguyện cho chúng sanh, giữ
vững chí hạnh). “Chí” (志) là chí hướng, “hạnh”
(行) là hành vi. “Bất xả Phật đạo”
(chẳng bỏ Phật đạo): Có chí hướng
làm Phật. Nói cách khác, tâm, ngôn ngữ, và thân của chúng ta,
[hay nói cách khác là] “thân, ngữ,
ư” nhất định phải giống như Phật.
Tâm Phật là Thiền, Phật ngôn là giáo, Phật thân là giới
luật. V́ thế, Thiền, Giáo, Giới là Phật đạo,
thời thời khắc khắc chẳng thể vứt bỏ,
người như vậy có ai chẳng thành tựu? Không chỉ
là thành tựu, lại c̣n khẳng định là sẽ thành
tựu ngay trong một đời, chẳng đợi
đến đời kế tiếp hay đời sau. Phàm
là c̣n có thể kéo dài đến đời kế tiếp hay đời
sau, đều là do đời này chí hạnh tu hành chẳng
vững chắc, mới luống uổng thời gian trong
đời này, thậm chí bỏ phí. Chuyện này hết sức
đáng tiếc.
Chúng ta có mong thành tựu ngay trong
một đời này hay không? Bài kệ này chính là mấu chốt.
Phần trước dạy chúng ta phải nương theo
khổ hạnh. Thuở ấy, trước khi đức Thế
Tôn nhập diệt, đă răn dạy đệ tử, v́ ngài A Nan
hướng về Thích Ca Mâu Ni Phật thỉnh giáo: “Khi đức Phật trụ thế,
mọi người tôn Phật là thầy. Sau khi đức
Phật đă nhập Bát Niết Bàn, chúng con lấy ai làm thầy?” Đức Phật nói hai câu: “Dĩ khổ vi sư, dĩ giới vi sư” (Lấy khổ
làm thầy, lấy giới làm thầy). Chỉ cần quư vị
có thể chẳng bỏ khổ hạnh, giữ vững giới
luật, sẽ chẳng khác ǵ Phật đang tại thế.
V́ thế, đức Phật suốt đời thị hiện
khổ hạnh. Dẫu quốc vương, đại thần,
trưởng giả, cư sĩ quy y cúng dường, đức
Phật vẫn khất thực, vẫn là ba y một bát. Cúng
dường vườn rừng, tinh xá, chỉ dùng để
giảng kinh, dạy học mà thôi, quyết định chẳng
coi những thứ đó là tài sản của chính ḿnh, chẳng hề có!
Đức Phật là xuất gia thật sự. Người
xuất gia nếu c̣n có tài sản, xuất gia ở chỗ
nào? Luận định khít khao sự thật, quư vị ra
khỏi cái nhà nhỏ, v́ đất đai, nhà cửa của
quư vị chẳng to cho
lắm. Quư vị ra khỏi cái
nhà nhỏ để vào một căn nhà to. Trụ tŕ một
ngôi tự viện, tự viện ấy biến thành nhà của
quư vị, diện tích đất đai, điện,
đường, pḥng ốc to hơn nhà của quư vị rất
nhiều. Quư vị lại vào một cái nhà to hơn! Nhà nhỏ
chướng ngại quư vị liễu sanh tử, thoát tam
giới; nhà to càng chẳng cần phải nói nữa! Chúng
ta phải thấy thấu suốt, thấy rơ ràng điều
này, Thích Ca Mâu Ni Phật lăo nhân gia làm như thế nào, chúng
ta phải học tập theo Ngài.
Thuở ấy, đối với các thứ
cúng dường của quốc vương, đại thần,
trưởng giả, cư sĩ, đức Phật chẳng
lấy một phần, một mảy nào, chỉ là mượn
chỗ của họ. Nói theo cách hiện thời, sẽ là “mở lớp dạy học”.
Quư vị cung cấp nơi chốn, được lắm,
chúng tôi mở [khóa học] ngay tại cơ sở này của
quư vị. Giảng xong xuôi, giảng xong khóa học ấy,
sẽ ra đi, chắc chắn chẳng lưu luyến. V́
thế, nay chúng ta nói là “mở
lớp dạy học”, mọi người sẽ dễ
hiểu. Có chỗ đức Phật chỉ giảng một
bộ kinh, nay chúng ta nói là một đơn nguyên
(đơn vị, unit). Có những chỗ, đức Phật
giảng mấy bộ kinh, như Kỳ Thụ Cấp Cô
Độc Viên đại khái là chỗ được giảng
kinh nhiều nhất trong các nơi chốn. Ngài giảng
mười mấy bộ kinh ở nơi ấy. Tại
núi Linh Thứu, trên núi Linh Thứu chẳng có nhà cửa,
dưới cội cây to, học tṛ vây quanh Thích Ca Mâu Ni Phật
nghe giảng dạy, chẳng có bàn, ghế, đều ngồi
dưới đất
trên cỏ. Mở lớp dạy học
như vậy, trong đời đức Thế Tôn chiếm
thời gian dài nhất. Có tinh xá, có pḥng ốc là do người
khác cung cấp, rất ít! Đức Phật chẳng có mảy
may lưu luyến, tùy duyên, thứ ǵ cũng đều tốt
đẹp, chẳng có ǵ không tốt. Trong ấy có một
đạo lư rất sâu, kinh Lăng Nghiêm bảo: “Nếu có thể chuyển cảnh,
sẽ giống Như Lai”.
Đức Phật ở bất cứ chỗ
nào, cảnh giới đều là cảnh giới Phật. Ở
nơi đồng trống, mọi người trải
đồ lót ngồi thẳng xuống đất. Nơi
đức Phật giảng kinh, thuyết pháp, mùa Đông có
rét mướt hay không? Mùa Hè có nóng bức hay không? Chúng ta biết
Ấn Độ là xứ nhiệt đới, chẳng có
mùa Đông, cho nên ba y một bát là đủ. Có gặp
mưa, móc, gió, sương hay không? Chúng ta tin tưởng
điều này. Đức Phật dạy học ở
nơi đó, ngoại trừ đại chúng và thính chúng mà chúng ta có thể thấy bằng nhục nhăn, c̣n có
[những chúng sanh] mà nhục nhăn của lũ chúng ta chẳng
thấy, nhưng từ Tu Đà Hoàn trở lên th́ có thể trông thấy.
Tu Đà Hoàn là Tiểu Thừa Sơ Quả, công phu đoạn
chứng của Ngài bằng với hàng Bồ Tát thuộc
địa vị Sơ Tín như trong kinh Hoa Nghiêm của
Đại Thừa đă nói. Đối với Lục Thông,
Ngài đạt được hai món là Thiên Nhăn Thông và Thiên
Nhĩ Thông. Nói cách khác, Ngài có thể trông thấy trời, rồng,
quỷ thần cũng đang vây quanh Thích Ca Mâu Ni Phật
nghe kinh. Có nhiều trời, rồng, quỷ thần ngần
ấy, khẳng định là mưa ḥa gió thuận, hiện
thời nói là khí hậu tốt nhất. Bất luận
đức Phật đến nơi đâu, quư vị thấy
núi, sông, đại địa đều là hết sức
cát tường, hết sức ḥa thuận, chẳng có gió
mưa, chẳng có chướng ngại, chúng ta có thể
tưởng tượng điều này. V́ sao? Những
người đến nghe giảng kinh đều là thiện
nhân, kinh nói là “thiện nam tử,
thiện nữ nhân”, họ chẳng tạo tội nghiệp.
Không chỉ là đức Phật bảo
chúng ta, “hết thảy các pháp sanh
từ tâm tưởng”, hiện thời, tiến sĩ
Giang Bổn Thắng của Nhật Bản làm thí nghiệm
với nước, khiến cho chúng ta từ phương
pháp khoa học đă thấu hiểu “cảnh giới bên
ngoài thật sự chuyển theo ư niệm của chúng ta”. Chúng
ta có ư niệm tốt đẹp, tức là thiện niệm
th́ núi, sông, đại địa, hết thảy vạn vật,
chẳng có vật ǵ không tốt lành. Nếu ư niệm của
chúng ta bất thiện, sẽ chẳng có vật ǵ là thiện!
Trước kia, đức Phật đă nói, khoa học gia
hiện thời đă chứng minh, có thể chẳng tin
tưởng hay sao? Đáng cho chúng ta suy nghĩ sâu xa!
Những người tu hành, những người
thật sự có tu luyện, tôi tin mục tiêu của họ là mong
đạt được thành tựu ngay trong đời
này, thành tựu Phật đạo. Phật đạo là
ǵ? Trong các buổi giảng, chúng tôi đă thưa tŕnh cùng
chư vị đồng học: Buông xuống vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, sẽ thành
Phật. Dẫu chẳng buông xuống vọng tưởng
được mà có thể buông xuống phân biệt và chấp
trước th́ là Bồ Tát. Nếu phân biệt cũng chẳng
có cách nào buông xuống được, nhưng buông xuống
chấp trước th́ cũng là khó có, chứng A La Hán. V́
thế, Phật, Bồ Tát, La Hán là do con người tu
thành, v́ sao biết? Kinh Hoa Nghiêm đă nói rất rơ ràng: “Hết thảy chúng sanh đều
có trí huệ và đức tướng của Như Lai, chỉ
v́ vọng tưởng và chấp trước mà chẳng thể
chứng đắc”. Lời này đă nói rơ ràng dường
ấy, chỉ cần chúng ta trừ bỏ, buông xuống vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, trí huệ
và đức tướng của Như Lai sẽ hiện
tiền, quư vị sẽ thành Phật. V́ thế, điều
then chốt là quư vị có buông xuống hay không, then chốt
ở chỗ này!
Quư vị thật sự phát tâm tu, có thể giữ
vững chí hạnh hay chăng? Điều then chốt là
kiên tŕ (giữ vững), “kiên”
(堅) là kiên quyết, “tŕ” (持) là giữ ǵn, dẫu một sát-na cũng chẳng
để mất đi! Nói theo cách hiện thời, “chí” là nguyện vọng, “hạnh” là hành vi nơi ba nghiệp.
Dốc chí nơi Phật đạo, Phật đạo là trí
huệ viên măn rốt ráo. Trí huệ viên măn rốt ráo chẳng
đến từ bên ngoài, bên ngoài chẳng có đâu nhé, tự
tánh vốn trọn đủ. Tự tánh do đâu mà có? Tự
tánh do từ đại định mà đắc, kinh
Lăng Nghiêm gọi môn đại định ấy là “Thủ Lăng Nghiêm đại
định”. Thủ Lăng Nghiêm đại định
là Định vốn sẵn có trong tự tánh, chẳng phải
do từ bên ngoài mà có. Tự tánh của quư vị vốn định,
hiện thời cũng chẳng động, hiện thời
bị dao động là ǵ? Cái bị dao động chẳng
phải là tự tánh, mà là ǵ? Là vô minh, là vọng tưởng,
là phân biệt, là chấp trước, những thứ ấy động, chúng tuyệt
đối chẳng thuộc trạng thái tĩnh. Tập
khí phiền năo động, v́ sao? Nó do vô minh biến hiện
ra, vô minh là động, nhưng minh th́ bất động.
Minh là chiếu, tức chiếu kiến, chiếu kiến sẽ
bất động giống như nước. Chúng ta
đi chơi xa, thấy cảnh sắc núi hồ
xinh đẹp. Tại sông
lớn và sông cái chẳng thấy
hiện tượng ấy, nhưng nơi hồ, ao, sẽ
thấy hiện tượng này.
Hai tuần trước tôi có cơ duyên
như vậy, đến Lệ Giang tỉnh Vân Nam ở lại
hai ngày. Tại Lệ Giang, trông thấy cái hồ thanh tịnh
chẳng bị ô nhiễm. Nước hồ b́nh lặng, chẳng nổi
sóng, giống như một tấm gương, núi Ngọc
Long phản chiếu trong hồ, giống như soi
gương, rành rẽ,
rơ ràng, chiếu kiến đấy! Tâm chúng
ta vốn thanh tịnh, vốn b́nh đẳng, vốn giác
ngộ, lại thưa cùng chư vị, vốn là từ
bi, chưa hề bị dao động, chẳng bị nhuốm
bẩn, đó là chân tâm của chúng ta, đó là Phật đạo!
V́ sao hiện thời chúng ta lâm vào nông nỗi này? Trong kinh,
đức Phật thường bảo: “Do chẳng tuân thủ tự tánh”. Khi nào chẳng
tuân thủ tự tánh? Ngay trong hiện tiền, hiện tiền
quư vị có vọng niệm, vọng niệm là vọng
tưởng. Quư vị có phân biệt, có chấp trước,
có phiền năo, có tập khí, những thứ ấy thảy
đều là không tuân thủ tự tánh mà biến hiện.
Trong tự tánh vốn chẳng có những thứ ấy!
Đức Phật nhọc nhằn dạy dỗ
chúng ta, dạy ǵ vậy? Dạy chúng ta quay đầu,
đúng như kinh Lăng Nghiêm đă nói, nói quá hay,
đơn giản, rơ ràng, người tu hành thành Phật
như thế nào? Mấu chốt quan trọng nhất chính
là lấy cái tâm chẳng sanh diệt để tu nhân th́
sẽ thành công. V́ sao phàm phu tu hành chẳng thể thành tựu?
Họ dùng cái tâm sanh diệt làm cái gốc để tu nhân.
V́ thế, tu vô lượng kiếp vẫn chẳng thể
thành tựu. Lời này đă nói rất rơ ràng, rất minh bạch.
Điều này cũng là nói rơ: Quư vị tu hành mà chẳng
buông bỏ vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, vậy th́ vô lượng kiếp, tam đại
A Tăng Kỳ kiếp, quư vị vẫn chẳng thể
thành tựu. Nếu quư vị dùng cái tâm chẳng sanh diệt
làm nhân, tức là cái nhân để tu hành, quư vị sẽ
thành tựu Vô Thượng Bồ Đề ngay trong đời
này. Trong Lăng Nghiêm Chánh Mạch, Giao Quang đại sư
đă nêu ra điều này: Tu hành theo kinh Lăng Nghiêm th́ quan
trọng nhất là “bỏ Thức
dùng Căn”! Thức là ǵ? Vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước là Thức. Căn là ǵ? Tánh nơi Căn. Đối
với sáu căn, nơi Nhăn Căn th́ là tánh Thấy của
Nhăn Căn, tánh Nghe nơi Nhĩ Căn, tánh Ngửi nơi Tỵ
Căn, tánh Nếm trong Thiệt Căn. Tánh chẳng có vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, nhưng Thức
th́ có. V́ thế, hiện thời, những kẻ tu hành b́nh
phàm dùng ǵ để thấy? Dùng Nhăn Thức để thấy,
dùng Nhĩ Thức để nghe, dùng Tỵ Thức để
ngửi, dùng Thiệt Thức để nếm. Trong ấy
c̣n có phân biệt, chấp trước. Nếu đổi
ngược lại, chúng ta dùng Tánh bên trong Căn, dùng Tánh sẽ
toàn là chiếu kiến. Dùng Tánh để thấy, tức là
dùng tánh Thấy để thấy, dùng tánh Nghe để
nghe, dùng tánh Ngửi để ngửi, dùng Thiệt Tánh
để nếm, người ấy bèn thành Phật.
Quư vị thấy chỗ sai biệt giữa
chúng sanh và Phật, kinh Lăng Nghiêm đă nói rất rơ ràng,
rất minh bạch. Quư vị có thể buông tâm ư thức xuống.
Tâm là vọng tưởng, Ư là chấp trước, Thức
là phân biệt, hăy buông tâm ư thức xuống, đừng
dùng tâm ư thức, tức là chẳng dùng vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước. Chỉ cần buông xuống
những thứ ấy, sáu căn của quư vị sẽ sử
dụng Tánh, tức là tánh Thấy, tánh Nghe, tánh Ngửi, tánh
Nếm, đều là tánh, chẳng phải là Thức. Cảnh
giới bên ngoài biến đổi, thật sự là hết
thảy các pháp sanh từ tâm tưởng, mắt quư vị
thấy sắc bên ngoài, đó là ǵ? Sắc Tánh, chẳng phải
Sắc Trần. Nhăn Thức thấy Sắc Trần, c̣n tánh
Thấy sẽ thấy Sắc Tánh. Hễ thấy Sắc
Tánh, nghe Thanh Tánh, th́ gọi là “minh
tâm kiến tánh”. Tông Môn nói hay lắm: “Kiến tánh thành Phật”. Đức Phật dạy
mọi người, nói thật ra, chẳng giấu diếm
mảy may, cổ nhân nói là “ḥa
bàn thác xuất” (和盤托出, giăi bày trọn
hết), chẳng giấu diếm tí ti nào, toàn bộ đều
trao cho quư vị. Quư vị có muốn tiếp nhận hay
không? Quư vị có thấu hiểu hay không? Quư vị thật
sự nghe hiểu, lănh hội, ư niệm vừa chuyển, phàm
phu bèn thành Phật. V́ thế, phàm hay thánh xác thực là trong
ṿng một niệm. Chẳng chuyển được, tức
là tập khí quá nặng, phiền năo quá sâu!
Nhưng đối với những giáo huấn
ấy, chúng ta nghe, đọc, giống như một tia chớp,
tuy rất ngắn ngủi, tạm bợ, một niệm ấy
chính là tánh quang. Tánh quang chợt hiện, giống như tia
chớp. Khó có lắm! Trước nay chưa hề lóe tia
chớp, nay đă lóe một lần. Hy vọng từ rày trở
đi, số lần chớp lóe sẽ nhiều, dần dần
dầy đặc, từ tia chớp lóe biến thành thường
quang, quư vị bèn thành tựu. Như thế nào th́ mới
có thể giúp chính ḿnh tăng tấn, từ tia chớp lóe tăng
cao hơn thành thường quang? Kiên tŕ chí hạnh, điều
này rất trọng yếu. Lại thưa cùng chư vị
rơ ràng hơn một chút. Kiên tŕ khổ hạnh, kiên tŕ tŕ giới.
Quư vị chẳng thực hiện từ chỗ này, sự
kiên tŕ của quư vị sẽ là hữu danh vô thực. Thực
hiện từ chỗ nào? Nay tôi khuyên các đồng học
hăy thực hiện từ Đệ Tử Quy, thực hiện
bằng Cảm Ứng Thiên, thực hiện bằng Thập
Thiện Nghiệp, đó là cơ sở của ba nhà Nho,
Thích, Đạo. Quư vị chẳng thực hiện từ
nơi ấy, sẽ chẳng làm được! Phải thực
hiện từ chỗ dễ dàng nhất, chớ nên [thực hiện từ chỗ] rất khó, hăy từ dễ đến
khó, từ cạn đến sâu, tuần
tự tiến dần dần, sẽ thành công.
V́ thế, nói chung phải biết căn cội
của Nho, Thích, Đạo. Ba thứ ấy chính là căn cội
của Nho, Thích, Đạo, chính ḿnh nhất định phải
làm cho tốt. Quư vị dạy người khác, có những
người vừa nghe nói bèn rất hoan hỷ, nghe một, hai tháng,
bèn ngă ḷng, một năm, hai năm, họ sẽ chẳng
đến nữa. Cổ nhân gọi cách học theo kiểu
ấy là: “Học Phật nhất
niên, Phật tại nhăn tiền. Học Phật
nhị niên, Phật tại thiên biên. Học Phật
tam niên, Phật hóa vân yên” (Học Phật
một năm, Phật ở trước mắt. Học Phật
hai năm, Phật ở trên trời. Học Phật ba
năm, Phật hóa thành mây, khói), [ḷng hăng hái] chẳng c̣n
nữa, đă biến thành ỉu x́u. Trong xă hội hiện
thời, hiện tượng này hết sức phổ biến,
là hiện tượng thường thấy! Làm như thế
nào? Hăy hồi quang phản chiếu! Tổ tiên đă dạy
chúng ta: “Hành hữu bất đắc,
phản cầu chư kỷ” (Có điều
ǵ chẳng làm được, hăy xét lại chính ḿnh). V́ sao
có những người vừa nghe bèn chạy mất? Vừa
mới nghe mấy hôm, hoan hỷ khôn cùng, bị cảm
động mắt đẫm lệ, dần dần trốn
mất. Đấy là v́ bản thân ta chẳng làm được!
V́ sao thời cổ vua Nghiêu, vua Thuấn dạy
người khác, suốt đời người ta chẳng
chạy trốn? Hằng ngày đều đi theo, hằng
ngày chẳng bỏ! Thích Ca Mâu Ni Phật dạy học, các
đệ tử thường tùy là một ngàn hai trăm
năm mươi lăm vị, suốt đời chẳng
ĺa bỏ, đều chẳng bỏ đi. Do nguyên nhân nào?
Chính ḿnh đă làm được! V́ thế, giáo học trong
hiện thời, trước hết, chính quư vị phải
thừa nhận, bản tánh của chúng sanh vốn lành, hết
thảy chúng sanh đều có Phật Tánh. Đầu tiên,
quư vị phải thừa nhận điều này. Quư vị
cũng chớ nên nói: “Họ chẳng có thiện căn, chẳng
có phước báo, nghe vài ngày rồi không đến nữa,
chẳng có thiện căn”. Sai mất rồi, suốt đời quư vị
sẽ chẳng thành công. Làm sao quư vị có thể trách móc kẻ
khác cho được? Quư vị phải nghĩ chính ḿnh tu không đủ tốt
đẹp, chính ḿnh giảng chẳng đủ hay; do
đó, người ta bỏ đi mất!
Một bộ kinh, cùng là một bộ kinh,
chẳng hạn như bộ kinh A Di Đà, giảng một
lần đương nhiên mới mẻ, hai lần, ba lần
th́ vẫn c̣n được, chứ mười lần hay
tám lần sẽ nghe chẳng vô, v́ sao? Ta đă nghe rồi,
ta nghe đă rành quá rồi, chẳng cần nghe nữa. V́
sao khi Phật, Bồ Tát giảng, chúng sanh chẳng chạy
mất? Nguyên nhân nào? Quư vị phải biết, Phật, Bồ
Tát giảng kinh mỗi lần đều khác nhau, luôn có điều
đáng để nghe. Quư vị giảng kinh mỗi lần
đều giống hệt như nhau, nghe một lần
xong có c̣n muốn nghe lần thứ hai hay không? V́ sao các Ngài
giảng mỗi lần khác nhau? Công phu tu hành tăng tấn
mỗi ngày, phiền năo mỗi ngày nhẹ hơn, trí huệ
mỗi ngày tăng trưởng, cho nên các Ngài giảng khác hẳn,
tức là mỗi lần đều có cái đáng để
nghe, đều có thể thu hút người khác, cho nên thành
công. V́ thế, quư vị phải quay lại xét ḿnh, chớ
nên chê trách kẻ khác chẳng có thiện căn, chẳng có
phước báo, [nếu chê trách] th́ đă hoàn toàn sai mất
rồi. Chính ḿnh sai lầm, chẳng biết lỗi lầm
ở đâu, chỉ biết trách móc kẻ khác!
Đức Phật nói rất hay, “chẳng thể tự độ,
làm sao có thể độ người khác?” Quư vị muốn
dạy kẻ khác, trước hết phải dạy chính
ḿnh cho tốt đẹp. V́ thế, làm thầy khó lắm!
V́ sao thầy thời cổ được người ta
tôn trọng dường ấy? Đạo lư ở chỗ
này. Thầy là người tu hành, tu ǵ? Sửa đổi lầm
lỗi nơi tư tưởng, ngôn ngữ, hành vi của
chính ḿnh, hằng ngày đều sửa đổi, hằng
ngày đều sửa lỗi. V́ thế, họ giảng một
bộ kinh mà luôn luôn mới mẻ, có thể sâu, có thể cạn,
có thể giảng dài, có thể giảng
ngắn, chẳng có thứ ǵ không
đặc sắc, không tinh vi. Đạo lư ở chỗ
này! Bản thân quư vị chẳng thật sự tu hành, [nói
đến] tu hành th́ chẳng có ǵ khác: Đoạn
phiền năo, chẳng cần cầu tăng trưởng
trí huệ. Hễ phiền năo đă đoạn, trí huệ sẽ
tự nhiên khai, đạo lư ở ngay chỗ này! V́ thế,
Phật pháp đúng là kẻ đă hiểu sẽ thấy chẳng
khó, kẻ thấy khó khăn tức là chẳng hiểu! Quư
vị cảm thấy rất khó, tức là quư vị chẳng
hiểu. Khi quư vị đă hiểu, sẽ chẳng khó!
Chúng ta phải sửa đổi tập khí
trong cuộc sống hằng ngày, đối với tập
khí trong công việc, tập khí trong cách đăi người
tiếp vật, nhất định phải sửa đổi.
Cư xử với người khác, nhất định phải
biết hằng thuận chúng sanh, giống như Phật,
Bồ Tát hằng thuận lục đạo chúng sanh. Trong
lục đạo càng xuống thấp hơn, càng khó tùy thuận.
Khó làm mà có thể làm, khó nhẫn mà có thể nhẫn. Tùy thuận
những đường cao hơn [tam đồ], sẽ dễ
dàng hơn. V́ sao? Họ thiện nhiều, ác ít. Tùy thuận
những đường dưới, do ác nhiều, thiện
ít, chẳng tùy thuận th́ làm sao được? Quư vị chẳng
tùy thuận, đúng là họ sẽ lắc đầu bỏ đi. Do đó,
tùy thuận là đức hạnh; do tùy thuận, người
thế gian sẽ nói là “xuôi lọt”. Chớ nên áp đặt
tiêu chuẩn của chính ḿnh làm tiêu chuẩn [chung cho mọi người].
Nhất định phải theo tiêu chuẩn của chúng sanh,
lấy tiêu chuẩn của họ làm tiêu chuẩn, họ sẽ
dễ dàng tiếp nhận, tiếp nhận ta làm bằng hữu,
làm bạn bè thuận thảo. Bản thân quư vị hành xử
chánh đáng, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo
tác đều có thể tương ứng Tánh Đức.
Lâu ngày chầy tháng, sẽ tự nhiên cảm hóa kẻ khác,
họ sẽ giác ngộ. Đă giác ngộ, sẽ tự
nhiên quay đầu, chẳng có ai không quay đầu! Họ
c̣n chưa quay đầu, phải biết là ta làm chẳng
đủ, ta cảm chẳng sâu, [khiến cho] họ c̣n
chưa thấu hiểu, vẫn chưa tỉnh ngộ. Ta
phải tiếp tục nỗ lực. Sửa hằng ngày,
luôn luôn sửa đổi v́ chính ḿnh mà cũng v́ chúng sanh.
Nói thật ra, Bồ Tát phát tâm v́ chính ḿnh th́
ít, mà v́ chúng sanh th́ nhiều, dũng mănh tinh tấn như vậy.
Nếu chúng ta chẳng khéo sửa đổi, chúng sanh thêm một
ngày mê hoặc, thêm một ngày tạo nghiệp, chịu khổ
thêm một ngày, sao Bồ Tát nhẫn tâm? Thấy chúng sanh nhiều
ngần ấy đang đọa trong tam đồ, thọ
khổ báo, làm thế nào để cứu họ? Chỉ có chính
ḿnh nêu gương tốt ḥng cảm hóa họ. Trừ cách ấy
ra, chẳng có biện pháp thứ hai! Giảng th́ họ chẳng
nghe, nhất định phải nêu gương. Có lúc chúng
tôi cũng từ những tay linh môi (medium) biết đôi
chút tin tức, nghe họ nói Quán Thế Âm Bồ Tát thường
đi vào ngạ quỷ, địa ngục đạo.
Chúng tôi nghe xong, hoan hỷ, tin tưởng, chẳng hoài
nghi. Ngài vào đó để làm ǵ? Nêu gương tu hành tốt
đẹp. Ngài hiện thân quỷ trong quỷ đạo,
trong địa ngục bèn hiện thân địa ngục,
trong súc sanh bèn hiện thân súc sanh th́ mới có thể giáo hóa
họ. Do đó, nhất định phải hiện thân
đồng loại, ngôn ngữ giống hệt, quư vị
mới có thể giúp họ, mới có thể giúp họ dần
dần tăng tấn, chuyện này chẳng thể vội
vàng được. Tăng cao tới cảnh giới trong
kinh Lăng Nghiêm, hoặc cảnh giới trong kinh Hoa Nghiêm,
sẽ chẳng phải là nhân thiên, c̣n cao hơn nhân thiên nữa!
Do vậy, đối với loại đại
kinh, đại luận như vậy, Thanh Lương
đại sư đă nói rất hay. Trong mười loại
đương cơ của Hoa Nghiêm, có một loại là phàm
phu. Phàm phu như thế nào? Đại tâm phàm phu. “Đại
tâm” là ǵ? Thấy kẻ khác chịu khổ,
trong tâm rất khổ sở, bèn nghĩ phải giúp đỡ
họ. Tuy chính ḿnh tâm có thừa mà sức chẳng đủ,
cái tâm thật sự có thừa, người ấy chính là
đại tâm phàm phu! Người ấy có thể nghe, có thể
thấu hiểu, có thể tiếp nhận, “tiếp nhận” là y giáo phụng hành. Chí nguyện
vĩnh viễn chẳng thay đổi, bất luận là
thuận cảnh, tôi thường nói: Đối với thuận
cảnh chẳng tham luyến, đối với nghịch
cảnh chẳng sân khuể, suốt đời tùy duyên, chẳng
phan duyên. Tùy duyên, sẽ chẳng có nơi nào không tốt, chẳng
có chuyện ǵ không tốt, chẳng có kẻ nào không tốt,
tùy duyên đấy! V́ sao? Người ấy chẳng phân biệt,
chẳng chấp trước, cho nên người ấy có
thể làm được! V́ sao chúng ta ở trong hoàn cảnh,
nhất là hoàn cảnh nhân sự, cứ phải kén cá chọn
canh? Đấy đều là phân biệt, đều là chấp
trước. Tập khí ấy đă dưỡng thành từ
vô lượng kiếp lâu xa, cho nên bất cứ lúc nào, bất
cứ chỗ nào, nó sẽ tự nhiên dấy lên hiện
hành, khiến cho chính ḿnh chẳng có cách nào khống chế.
Đấy gọi là tập khí phiền năo.
Làm như thế nào? Chẳng có cách nào khác, hễ
nhận biết bèn sửa. Giác là sửa, thường xuyên
giác ngộ, luôn luôn giác ngộ, giác ngộ mỗi ngày. Cổ
đại đức vận dụng Công Quá Cách, quư vị
ngẫm xem có hợp lư hay không? Liên Tŕ đại sư c̣n
viết sách về Công Quá Cách, hiện thời, trong toàn tập (tức Liên Tŕ Đại Sư Toàn
Tập) có [tác phẩm ấy], có tựa
đề là Tự Tri Lục. Ngài chẳng gọi là Công Quá
Cách, mà gọi là Tự Tri Lục. Mỗi ngày Ngài dùng mấy
điều ấy để phản tỉnh, cũng có đến mấy chục điều. Khởi
tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, trong một
ngày có thiện và có ác, thiện và ác đều phải ghi lại,
so sánh, ngày hôm nay ta thiện nhiều hay ác nhiều? Dùng
phương pháp này để kiên tŕ chí hạnh. Phương
pháp tuy vụng về, nhưng rất hữu hiệu, đặc
biệt là đối với người mới học,
đặc biệt là đối với người hiện
thời.
Bởi lẽ, muốn thật sự học
tập pháp thế gian và xuất thế gian mà có thành tựu,
chớ nên chần chừ, cẩu thả, [chần chừ,
cẩu thả] sẽ chẳng thể thành tựu. Phải
nghiêm túc, kiên tŕ! Phương hướng, mục tiêu chớ
nên sai chệch mảy may, chính ḿnh chánh đáng, kẻ khác tự
nhiên sẽ chánh theo. Thậm chí chẳng cần phải
nghĩ đến người khác, hễ thấy người
khác có lỗi, ngay lập tức kiểm điểm chính
ḿnh: Ta có lỗi lầm hay không? Hễ có bèn sửa đổi;
nếu không càng thêm cố gắng. Hạnh của ta chánh
đáng, sẽ ảnh hưởng người khác. Hạnh
của ta chẳng chánh đáng, cũng sẽ ảnh hưởng
người khác, người khác cũng chẳng chánh
đáng. V́ thế, vua Thang có một câu danh ngôn: “Thiên hạ hữu tội, tội
tại trẫm cung” (Thiên hạ có tội, tội bởi
nơi trẫm). Ngạn ngữ có câu: “Thượng lương bất chánh, hạ
lương oai” (Kèo trên chẳng ngay, kèo dưới lệch). V́ sao dân chúng
phạm tội? V́ sao bất thiện? [Nguyên nhân là do] bản
thân nhà vua có vấn đề! Cổ thánh tiên vương có
khác ǵ Phật, Bồ Tát? Há chẳng phải là như Quán Âm
Bồ Tát đă dạy: “Đáng
nên dùng thân quốc vương đắc độ, liền
hiện thân quốc vương ḥng thuyết pháp”. Có
đúng như thế hay không? Đúng vậy! Đáng nên dùng
thân tể quan đắc độ, liền hiện
thân tể quan để thuyết pháp. Nay chúng ta gọi “tể quan” (宰官) là người lănh đạo các cấp trong chánh phủ
như tỉnh trưởng, thị trưởng, huyện
trưởng, trấn trưởng, khu trưởng, lư trưởng
đều là tể quan. Nếu quư vị hành xử chánh
đáng, dân chúng sẽ chánh đáng. Quư vị hành xử chẳng chánh đáng, dân chúng sẽ đi theo đường
tà, đấy là đạo lư nhất định.
Chúng ta bất luận là thân phận ǵ, bất
luận cương vị ǵ, thảy đều là hành Bồ
Tát đạo, thảy đều hành Phật đạo. Trong
nhà quư vị là gia trưởng, nhà quư vị tăng trưởng
điều chánh, sẽ chẳng có người nào trong nhà
quư vị bất chánh. Hễ có người nhà bất chánh,
tức là ta làm gia trưởng chưa tốt. Chủ nhân của
công ty, hăng xưởng, hoặc cửa hiệu là người
lănh đạo; nếu ông ta chánh đáng, tất cả công
nhân viên chức đều chánh đáng. Bản thân ông ta bất
chánh, đương nhiên là công nhân, viên chức đều
tà. Chánh là ǵ? Tam giáo Nho, Thích, Đạo đều là Chánh,
đều có cái đáng để chọn lấy. Nho gia coi
trọng sự tướng, nói đến luân lư, thiên trọng
luân lư. Đạo giáo thiên trọng đạo đức.
Phật pháp giảng Trung Đạo, Trung Đạo Đệ
Nhất Nghĩa Đế. Nếu chúng ta hiểu rơ những
đạo lư ấy, nghiêm túc nỗ lực kiên tŕ chí nguyện
của chính ḿnh: “Chúng sanh vô biên
thệ nguyện độ, phiền năo vô tận thệ
nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện
học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện
thành”, đấy là đại nguyện từ xưa tới
nay của mười phương thế giới tất cả
chư Phật, Bồ Tát. Sau khi nguyện đă viên thành, nhất
định dùng sự hành tŕ của chính ḿnh để giúp
đỡ, phổ độ chúng sanh chẳng bỏ Phật
đạo. Nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học
tập bài kệ này tới đây!
Đại
Phương Quảng Phật
Hoa
Nghiêm Kinh
Phẩm
thứ mười một
Tịnh
Hạnh Phẩm
Phần 45 hết
[1]
Khải Thị Lục c̣n được gọi là sách Khải
Huyền, hoặc sách Khải Thị, là quyển cuối
cùng trong phần Tân Ước của kinh Thánh. Chữ Khải
Huyền dịch từ chữ Apokalypsis của tiếng Hy
Lạp. Do vậy, sách thường được gọi
là Book of Revelation, hoặc Apocalypse
of John. Người ta thường
tin sách này do Thánh Gioan Tông Đồ (John the
Apostle, Yohanan Shliha) biên soạn từ những mặc khải
của Thượng Đế. Tuy vậy, tác giả thật sự của thiên sách ấy
vẫn c̣n đang được các học giả tranh luận.
Nội dung sách bao gồm những lời tiên tri gởi
đến bảy giáo hội Thiên Chúa Giáo tiên khởi thời
đó (Ephesus, Smyma, Pergamum, Thyatira, Sardis, Philadelphia, và Laodicea). Sách bao gồm
nhiều ẩn dụ và cảnh tượng huyền bí
liên quan đến sự phán xét cuối cùng (Last Judgement) trong giáo
nghĩa Thiên Chúa Giáo.
[2]
Na Già thường được
dịch
là “long tượng”, tức
một loại voi to. Có thuyết giải thích từ ngữ
này nói về rồng và voi. Đây là một danh xưng nhằm
ca ngợi đức Phật cao quư, ổn trọng, luôn an
định.