Đại
Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm
Kinh
Phẩm
thứ mười một
Tịnh
Hạnh Phẩm
Phần 47
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp
sư Thích Tịnh Không
Địa điểm:
Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ
ngày mồng Bảy tháng Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và
Minh Tiến
Tập 1555
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười
một, tiểu đoạn thứ ba trong đoạn lớn
thứ sáu của phần Kệ Tụng, xem từ bài kệ
thứ hai mươi mốt:
(Kinh)
Nhược kiến ư
vương, đương nguyện chúng sanh, đắc
vi pháp vương, hằng chuyển chánh pháp.
(經)若見於王。當願眾生。得為法王。恆轉正法。
(Kinh: Nếu trông thấy vua, nguyện cho chúng sanh,
được làm pháp vương, luôn chuyển chánh pháp).
Đây là người xuất gia khất thực,
trên đường gặp quốc vương, hiện thời, chúng ta gọi
[quốc vương] là “người
lănh đạo đất nước”. [Chuyện này] dẫn phát đại nguyện của Bồ Tát, mong
mỏi vị vua ấy có thể làm “pháp vương”. “Pháp
vương” (法王) là Phật,
[“làm pháp vương” là] giống như Phật, dùng chánh pháp giáo hóa chúng sanh. [Đi
khất thực] ở ngoài, cũng có thể [gặp hạng
người này]. Trước kia, quốc vương đi
tuần; hiện thời, cơ hội [gặp gỡ] càng
nhiều hơn, nhưng quư vị trông thấy xe của ông
ta chạy qua, chẳng dễ ǵ gặp mặt ông ta
được! Nhưng cũng có duyên phận đặc
biệt, như trong hiện thời, do giao thông nhanh chóng và
tiện lợi, thông tin phát triển, giữa mọi người với nhau giao tiếp mật thiết, giữa các quốc gia,
giữa các dân tộc, cho đến giữa các tôn giáo, đều
qua lại hết sức mật thiết. Trong những dịp
gặp gỡ ấy, có rất nhiều trường hợp
có thể thật sự gặp mặt. Giống như vậy,
bất luận là người lănh đạo quốc gia, người
lănh đạo dân tộc, người lănh đạo tôn
giáo, cho đến người lănh đạo trong giới
xí nghiệp, hoặc giới công thương, đều có thể gọi
là Vương. Họ có nhiều thuộc hạ, giống
như các công ty đa quốc gia trong hiện thời, công
nhân viên chức đến mấy vạn người, hoặc
mấy chục vạn người, [người cầm đầu
những công ty ấy] xác thực là vua! Hiện
thời, xă hội động loạn, bất an. Nếu trông
thấy [vua hoặc người lănh đạo], đó là
[những người] có sức ảnh hưởng lớn
nhất, chúng ta có nghĩa vụ khuyến cáo họ.
Hiện thời, người trên cả cơi
đời quan tâm nhất, mong muốn bức thiết là ổn
định, chẳng mong động loạn. Những người
lănh đạo có thể làm được [điều ấy],
nhưng trên thực tế, họ cũng hằng ngày cầu
mong, dùng phương pháp ǵ để hóa giải xung đột.
Nhất là những người lănh đạo cao cấp, điều
họ bận tâm nhất chính là nỗi oán thán của người
dân. Dân chúng có niềm oán hận, có điều bất b́nh,
đấy là cội nguồn của các nỗi động loạn trong xă hội. Mọi người
chỉ chú ư tới chuyện giàu nghèo chênh lệch, ai có thể
khiến cho giàu nghèo đều nhau? Thưa cùng chư vị,
chẳng làm được! Cổ thánh tiên vương
cũng chẳng làm được, Thượng Đế
cũng chẳng làm được. Quư vị thấy các tín
đồ tôn giáo, tín đồ tôn giáo ngoại quốc đều
là con cái của Thượng Đế, [thế mà] họ
giàu nghèo vẫn chênh lệch, trí huệ cũng chẳng b́nh đẳng,
năng lực cũng chẳng đều nhau! V́ thế,
ngay cả Thượng Đế cũng chẳng làm
được! Phật, Bồ Tát cũng chẳng làm
được.
Làm thế nào để có thể khiến
cho ḷng người của đại chúng trong xă hội b́nh đẳng?
Đối với chuyện này, xét theo năm ngàn năm lịch
sử của Trung Hoa, quư vị thấy cổ thánh tiên
vương dùng phương pháp ǵ? Giáo dục! Giáo dục luân
lư, khiến cho mọi người liễu giải mối quan
hệ giữa con người với nhau, điều này rất
quan trọng! Cư xử tốt đẹp trong các mối
quan hệ như thế nào? Khoa mục thứ hai là đạo
đức. Đạo đức là biết thân phận, biết
bổn phận của chính ḿnh. Phải thực hiện tốt
đẹp chuyện thuộc về bổn phận của
chính ḿnh, phải phối hợp mật thiết với đại
chúng, sáng tạo một xă hội an định, ḥa b́nh. Điều
thứ ba rất trọng yếu, [tức là] giáo dục nhân
quả. V́ sao có bất b́nh? Mỗi người tạo cái
nhân khác nhau, làm sao đạt cái quả giống nhau cho
được? Nhân do ai tạo? Do chính
ḿnh tạo! Tại Trung Hoa, Nho, Thích, Đạo đều
nói đến nhân quả. Quư vị hăy chú tâm quan sát, đọc
tụng bộ Nhị Thập Tứ Sử, đó là một
bộ hồ sơ nhân quả! Biết nhân quả, mới
biết v́ sao xă hội bất b́nh? Hiểu rơ đạo
lư nhân quả, liễu giải chân tướng sự thật,
tâm sẽ b́nh. Phú quư th́ ở yên nơi phú quư, nghèo hèn an phận
nghèo hèn, xă hội sẽ an định, “an” rất quan trọng! Kẻ phú quư chớ nên lấn
hiếp kẻ nghèo hèn, đôi bên phải tôn trọng lẫn
nhau. Kẻ nghèo hèn phải tôn trọng kẻ phú quư, kẻ
phú quư cũng phải tôn trọng kẻ nghèo hèn, xă hội mới
có thể hài ḥa. Phải hỗ trợ, kẻ nghèo hèn giúp
đỡ kẻ phú quư, kẻ phú quư cũng phải bố
thí cho kẻ nghèo hèn. Như vậy th́ mới có thể điều
ḥa.
Phải biết tu phước như thế
nào, chớ nên tạo ra những nỗi oan nghiệt. V́ sao xă hội
hiện thời biến thành t́nh cảnh này? Chẳng có luân
lư, đạo đức! Người sống trong thế
gian này, chẳng biết mối quan hệ giữa con người
với nhau. Nói cách khác, chẳng có sự tôn nghiêm làm người!
Chẳng có đạo đức, chẳng biết bổn
phận phải nên trọn
hết của chính ḿnh! [Cứ tưởng] chẳng có nhân quả; v́ thế, oán trời, hờn người: “V́ sao kẻ
khác phú quư? V́ sao ta nghèo hèn?” Oán trời, hờn người
đấy! “Trời già cũng chẳng công bằng!” Vậy
th́ làm như thế nào? Làm cách mạng, tạo phản ḥng chiếm
đoạt sự phú quư của kẻ khác. Có làm được
hay không? Chẳng làm được! Nếu chúng ta có thể
đoạt được sự phú quư của người
khác, sẽ có thể lật
nhào định luật nhân quả,
chẳng có nhân quả! Chúng ta học Phật đă nhiều
năm ngần ấy, đối với những sự lư
này cũng có chút phần nhận biết, trong tâm hiểu rất
rơ ràng! Nhất là trong kinh giáo, đức Phật đă dạy chúng
ta: “Cầu phú quư được phú quư, cầu con cái
được con cái, cầu sống lâu được sống
lâu”. “Cầu con cái” là cầu
có con cái tốt lành. Từ An Sĩ Toàn Thư, quư vị
đă đọc thấy ông Châu An Sĩ cầu con cái tốt lành
bằng cách nào? “Trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng”, há có lẽ nào chẳng
cầu được?
Năm mươi năm trước, Chương
Gia đại sư đă chọn cho tôi hạnh nghiệp này,
hoằng pháp lợi sanh. Để chuyên môn theo đuổi
hạnh nghiệp này, ắt phải từ bỏ công việc
trong xă hội th́ mới có thể chuyên tâm. Tôi liền thỉnh
giáo đại sư: “Ngài chọn cho con hạnh nghiệp
xuất gia, con sẽ đến đâu để xuất
gia? Theo xuất gia với ai?” Lăo nhân gia bảo tôi: “Không chỉ
là chuyện này. Những chuyện lớn bé trong suốt
đời này của anh, đừng nên cầu
cạnh người khác. Cầu người ta, nếu họ
chẳng đáp ứng, trong ḷng anh sẽ khó chịu lắm!”
Tôi thưa: “Đúng như thế ạ! Trong tâm con sẽ rất
khó chịu, làm như thế nào đây?” [Đại sư dạy]:
“Hăy cầu Phật. Chúng sanh có cảm, Phật sẽ ứng”.
“Cầu” th́ hoàn toàn chẳng phải là dùng cảm t́nh để
cầu, chẳng phải vậy! Phải dùng lư trí, nghiêm túc
học tập. Đấy là thật sự cầu, đấy
là cảm ứng.
Thật sự học Phật th́ thật sự
học như thế nào? Thầy dạy tôi, dùng Ngũ Giới
để nói; khi đó, tôi vừa mới học Phật, vẫn
là kẻ tại gia trẻ tuổi, thầy bèn chỉ dạy: “Ví như
Ngũ Giới, anh có thể làm được một
điều, một điều ấy chính là thật sự
tŕ giới. Chẳng phải là thọ giới theo h́nh thức.
Thọ giới theo h́nh thức th́ Phật, Bồ Tát, hộ
pháp, long thiên, quỷ thần chẳng thừa nhận. Anh
thật sự làm được, y giáo phụng hành, các Ngài
sẽ thừa nhận”. Giới hạnh thuộc về giáo
dục đạo đức. Chúng ta hiểu đạo lư này,
thật sự làm, làm từng điều một. Hiện
thời, tôi giới thiệu Đệ Tử Quy với các
đồng học; đó là cơ sở của Nho gia, là cơ sở
của đức hạnh. Đối với Cảm Ứng
Thiên, Ấn Quang đại sư giới thiệu bộ
Vựng Biên. Trong ấy, có rất nhiều câu chuyện, có lư
luận, có sự thật, tác phẩm ấy thuộc loại
giáo dục nhân quả, [hay nói chánh xác hơn là] giáo dục
đạo đức và nhân quả, là căn cội của
Đạo gia. Trong Phật môn th́ là kinh Thập Thiện
Nghiệp Đạo. Nếu muốn xuất gia, đối với Sa Di Luật Nghi, hăy làm được
Sa Di Luật Nghi trước đă rồi mới xuất
gia. Xuất gia [th́ phải] thật sự làm được
bốn thứ ấy, tức Đệ Tử Quy, Cảm Ứng
Thiên, kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo và Sa Di Luật
Nghi. Bốn thứ ấy quư vị thảy đều làm
được, tự nhiên cảm ứng hiện tiền.
“Cảm ứng
hiện tiền” [trong trường hợp của tôi] là
chúng tôi có ư nghĩ xuất gia, có ư niệm ấy, Chương
Gia đại sư bảo tôi: “Thầy sẽ đến t́m
anh. Thầy t́m ta th́ sẽ dễ dàng, chứ ta t́m thầy
chẳng dễ!” Chương Gia đại sư dạy tôi
cách ấy, thật sự là “có
cầu ắt ứng”. Tôi thi hành bảy năm, duyên chín
muồi, thật sự có vị sư phụ xuất gia đến
t́m tôi, biết tôi có ư tưởng xuất gia. V́ thuở đó,
tôi cũng chẳng có nhà, ở Đài Loan một ḿnh, chẳng
vướng mắc bất cứ điều ǵ! Thầy
đến t́m tôi, tôi rất hoan hỷ, tôi thưa: “Con phải
suy nghĩ đă!” Trong ṿng hơn một tháng, thầy sai người
đến t́m tôi chín lần. Tôi thấy tâm thầy rất
chân thành, chẳng phải là hư ngụy, rất thích tôi xuất
gia, dùng thân phận xuất gia để giúp đỡ đạo
tràng ấy. V́ thế, tôi bèn đưa ra điều kiện
của tôi, thầy đồng ư, tôi cũng hoan hỷ. Thầy
không đồng ư th́ thôi, tôi lại chờ cơ hội khác!
Điều kiện của tôi là ǵ? Tôi xuất
gia phải học Giáo, v́ trong tự viện hiện thời
chẳng học Giáo. Tôi nói: “Con muốn học Giáo. Con xuất
gia chẳng mong làm kinh sám Phật sự, chẳng muốn làm
pháp hội. Thưa pháp sư, đạo tràng của quư Ngài
có thể chấp thuận hay không? Có thể rộng dung cho
điều kiện xuất gia này của con hay chăng?” Điều
kiện thứ ba là tôi đă theo thầy Lư nhiều năm,
tiếp nhận giáo huấn của thầy. Sau khi xuất
gia, mỗi tháng tôi sẽ tới Đài Trung ở lại một
tuần, tiếp tục theo học với thầy. Từ Đài
Bắc đến Đài Trung ngồi xe lửa, tôi chẳng
có món chi phí ấy, thường trụ phải mua vé xe đi
về cho tôi. Những điều kiện ấy thảy
đều được đáp ứng, tôi cũng rất
hoan hỷ. Do vị sư phụ ấy t́m tôi chín lần,
ba điều kiện do tôi đưa ra, thầy đều
đồng ư; cho nên tôi vừa xuất gia, bèn đến dạy
tại Phật Học Viện. Pháp sư Bạch Thánh mở
Tam Tạng Phật Học Viện, tôi dùng những kinh giáo đă
học được ở Đài Trung để giảng
dạy trong Phật Học
Viện. Có thể nói là vừa xuất gia
liền bắt đầu giảng kinh, giáo học, cho
đến nay đă bốn mươi tám năm. Tôi học
Phật bảy năm rồi mới xuất gia, đă có thể
lên đài giảng kinh.
V́ thế, thật sự phát tâm học giảng
kinh, theo kinh nghiệm của tôi qua nhiều năm như thế,
tôi thấy trạng huống trong Phật môn là trước
hết hăy học thành tựu rồi mới xuất gia, tốt
lắm! V́ sao? Chẳng có chướng ngại. Nếu quư vị
xuất gia rồi mới học, sẽ có chướng ngại.
Thường trụ đông đảo, nhiều người
lắm ư kiến, người đồng ư với quư vị,
giúp đỡ quư vị cầu học chẳng nhiều! Nhưng
quư vị xuất gia, họ luôn hy vọng quư vị sẽ
giúp thường trụ làm việc, làm kinh sám Phật sự,
làm pháp hội. Nói chung là muốn quư vị tham gia những việc ấy. V́ chúng
thường trụ trong tự, viện, am, đường
hiện thời dựa vào những chuyện ấy để
có thâu nhập, dùng món tiền thâu nhập ấy để
duy tŕ thường trụ. Chẳng như xưa kia,
thường trụ thuở trước (tức tự, viện,
am, đường) có tài sản, có núi non, có ruộng
nương để cho nông dân cấy rẽ[1]. Khi nông dân
thâu hoạch, sẽ nộp tô cho thường trụ. Do vậy,
thường trụ giống như địa chủ, họ (nông dân) phải nộp tô cho thường trụ. Do thường trụ
có món thâu nhập ấy, kinh tế và điều kiện sinh
hoạt của tự viện được bảo đảm,
có nguồn thâu nhập mà! V́ thế, tự, viện, am, đường xưa
kia chẳng dựa dẫm tín đồ. Nói cách khác, Phật
sự siêu độ cho người khác rất ít, pháp hội
cũng rất ít, một năm chỉ làm vài lần, chẳng
phải là hằng ngày coi đó là nghề nghiệp, chức
trách. Trong tự viện toàn là giảng kinh, niệm Phật,
tham Thiền, thật sự là “hữu
tu, hữu học”.
Hiện thời, chẳng có đạo tràng ấy,
làm như thế nào? Bản thân chúng ta học trước,
sau khi đă học khá rồi, lại cầu Phật, Bồ
Tát, cầu cảm ứng. Xuất gia như vậy, cơ
sở kinh giáo của quư vị đă được thành lập vững vàng. Đạo
tràng xuất gia của quư vị hoan nghênh quư vị giảng
kinh th́ rất tốt!
Đạo tràng xuất gia chẳng hoan
nghênh, cũng có thể đến giảng tại các đạo
tràng khác, hoặc cũng có thể đến dạy học
tại Phật Học Viện. Ngoài phương pháp ấy
ra, sẽ khó lắm. Điều này cho thấy “trong cửa nhà Phật, có cầu
ắt ứng”. Ta luôn cầu Phật, Bồ Tát, và thầy
dạy dỗ. Xuất gia th́ cầu Phật, Bồ Tát; thọ
giới cũng cầu Phật, Bồ Tát. V́ thế, tôi xuất
gia hai năm rồi mới thọ giới, v́ sao? Trong giới
đàn có người đến t́m tôi đi thọ giới.
Tôi toàn là bị động, chẳng phải là chủ động.
V́ khi đó, để thọ giới phải có lệ phí,
món chi phí ấy tôi chẳng kiếm đâu ra được;
nói theo phía người xuất gia chúng tôi, món tiền ấy
khá lớn. Khi tôi xuất gia, có một vị thầy tại
gia cũng là một vị Phật giáo đồ kiền thành,
nghe nói bên Cơ Long mở giới đàn, liền hỏi tôi:
“Thầy có đi thọ giới hay không?” Tôi nói: “Không! Tôi không
ghi danh”. “V́ sao?” Tôi nói: “Không có tiền!” Thầy nghe nói vậy,
bảo: “Chuyện ấy chẳng khó! Các đồng học
và thầy giáo ở nơi đây rất đông, tôi liên lạc
một chút, các đồng học sẽ lo giùm thầy món chi phí ấy”. Đấy là nhân duyên chín muồi.
Hiện thời, chúng ta nói đến lănh đạo,
các ngành nghề trong xă hội đều có người lănh
đạo, hy vọng những người ấy đều
có thể “đắc vi pháp
vương” (được làm pháp vương). “Pháp vương” là như thế
nào? Dùng Phật pháp giáo hóa công nhân, viên chức của quư vị.
Mấy năm trước, cư sĩ Đan Tư Lư (Tan
Sri)[2] Lư Kim Hữu
ở Cát Long Ba (Kuala Lumpur) mời tôi thực hiện hai lần
hoạt động với quy mô lớn, giảng hai chuyên
đề, thính chúng một vạn năm, sáu ngàn người.
Ông ta mở khách sạn, tôi đến ở trong khách sạn
của ông ta, công nhân, viên chức rất đông. Ông ta triệu
tập công nhân, viên chức, các cấp quản lư lẫn công
nhân, viên chức thảy đều được triệu tập, hơn một
trăm người để tôi khai thị cho họ. Tôi bảo
họ: “Quư vị kinh doanh sự nghiệp to tát như thế,
khách sạn là đạo tràng, ông chủ là pháp vương,
công nhân, viên chức là Bồ Tát. Khách ở trong khách sạn
của quư vị đều là chúng sanh. Quư vị hăy khéo độ
họ, giúp đỡ họ đoạn ác, tu thiện, phá
mê khai ngộ”. Họ nghe nói rất hoan hỷ, chẳng cần
dùng thân phận xuất gia!
[Nói theo phương diện] nhỏ th́ là gia
đ́nh. Quư vị đă học Phật, bản thân quư vị
có thể làm pháp vương, nêu gương tốt nhất
cho người nhà quư vị. Quư vị có thể thực hiện Tịnh Nghiệp
Tam Phước, thực hiện Thập Thiện Nghiệp
Đạo, thực hiện Lục Độ, Tứ Nhiếp,
thực hiện mười nguyện Phổ Hiền, gia đ́nh
của quư vị chính là đạo tràng, người trong một
nhà của quư vị đều đắc độ. V́ thế,
nhỏ là gia đ́nh, lớn là quốc gia. Trong giáo pháp Đại
Thừa, đức Phật đă nói rất nhiều, “nhân vương hộ quốc”,
đó là chuyên nói với quốc vương, dùng ǵ để
b́nh trị quốc gia? Dùng Thập Thiện Nghiệp Đạo.
V́ thế, nhân vương (仁王) là pháp vương, trên dưới
thảy đều có thể y giáo phụng hành.
Từ lời đề tựa cho kinh Vô
Lượng Thọ của lăo cư sĩ Mai Quang Hy, lời
tựa ấy rất dài; trong đó, có một đoạn
ghi chép về những năm đầu triều Thanh. Những
vị đế vương thuở ấy đều là
đệ tử kiền thành của đức Phật.
Thuận Trị, Khang Hy, Ung Chánh, Càn Long là những đệ
tử Phật kiền thành. Họ là đế
vương, đế vương thống trị quốc
gia. Quốc gia chẳng phải là [chỉ có] một tôn giáo,
quốc gia khi đó có tam giáo, tức Nho, Thích, Đạo, họ
đều học hết th́ mới có thể lănh đạo.
Chính họ học rất dụng công; v́ thế, thường lễ
thỉnh những bậc cao nhân trong tam giáo Nho, Thích, Đạo
vào cung đ́nh giảng kinh, giảng Nho học, giảng Đạo
học, giảng Phật học. Đến cung đ́nh giảng
kinh thật sự là những vị cao nhân, chẳng phải
là hạng tầm thường. V́ sao? Đế vương rất thông hiểu, chẳng
phải là kẻ tay mơ, quư vị chẳng thể nói sai được,
chẳng thể lừa gạt họ được. Họ
để cho những người ấy giáo hóa văn vơ bá
quan, quyến thuộc trong hoàng cung và thần dân. V́ lẽ đó, trong thời đại ấy, quốc vận hưng
thịnh, đúng là một đại quốc và cường
quốc bậc nhất trên thế giới, quốc gia hết
sức giàu mạnh. Ai nấy đều thiện lương, ai nấy đều tiếp nhận giáo hóa của
Nho, Thích, Đạo. Đấy là thông qua thí nghiệm đă
chứng thực hiệu quả của giáo học Nho, Thích,
Đạo có thể hóa giải hết thảy xung đột,
có thể đạt đến an định, hài ḥa. Đấy
là đă thật sự trải qua thí nghiệm.
Măi cho đến sau thời Càn Long, [những
vị vua như] Gia Khánh và Đạo Quang c̣n khá, bất quá
con cháu đời sau chẳng nghiêm túc thực hiện giống
như mấy đời hoàng đế trước đó! V́ thế, vận nước dần
dần suy vi. Tới thời Hàm Phong, Từ Hy thái hậu
xen vào chánh sự. Nói chung là những giáo huấn ấy bà ta
chẳng nghe lọt tai cho lắm, cho nên đă phế trừ
chế độ giảng kinh trong cung đ́nh. Thay vào đó,
Từ Hy mê tín, ưa thích cầu cơ, thích làm chuyện thần
thông cảm ứng, sai mất rồi! Do vậy, nhà Thanh mất
nước là do tà đạo, chẳng phải là chánh pháp. Chương Gia đại sư kể với
tôi những chuyện này.
V́ tôi lúc trẻ, lúc c̣n rất bé, mười hai, mười
ba tuổi, thuở đó, tôi ở Phước Kiến, người
Phước Kiến thích cầu cơ. Khi bé, chúng tôi thường đến xem, tôi rất tin tưởng.
V́ sao? Cơ bút do hai người nâng, hai người ấy
là ai vậy? Đại khái toàn là t́m ngoài đường phố những người bán củi, gánh nước, kéo
xe, họ chẳng biết chữ, là cu-li, t́m những người
ấy. Mời họ rửa tay, rửa chân, rửa ráy sạch
sẽ rồi đến nâng cơ bút. Chữ viết trên mâm cát rất
đẹp đẽ, ngay ngắn, chẳng có chữ viết tháu, những
đứa nhỏ như chúng tôi ở bên cạnh đều
có thể đọc được. Đại khái
là một tiếng đồng hồ có thể viết mấy
chục chữ, được ghi chép lại. Tôi rất
tin tưởng, tuyệt đối chẳng phải là giả
vờ, v́ hai người ấy đều không biết
chữ, chẳng phải là kẻ thao túng bàn cầu cơ.
Khi tôi hai mươi mấy tuổi, thấy
họ cầu cơ ở Đài Loan chẳng giống như
tại Phước Kiến. Đài Loan có cơ đồng (乩童, người pḥ cơ) chuyên nghiệp, chẳng phải
là ai cũng có thể vịn cơ bút, chẳng hề có, phải
là kẻ chuyên nghiệp! Hơn nữa, khi cơ bút chuyển
động, tốc độ rất nhanh, chữ viết
rất xẹo xọ, cẩu
thả. Tôi ở bên cạnh nh́n kỹ, nh́n
suốt một, hai tiếng đồng hồ, chẳng nhận biết
một chữ nào. Họ mỗi niệm đều viết
ra chữ, mỗi giờ viết mấy ngàn chữ. Tôi thưa
tŕnh chuyện này với Chương Gia đại sư, thỉnh
giáo lăo nhân gia, chuyện này rốt cuộc là thật hay giả? Chương Gia
đại sư mới kể cho tôi nghe chuyện trong cung đ́nh
nhà Thanh. Ngài nói cơ bút chẳng thật, đó là linh quỷ
giả mạo Phật, Bồ Tát, giả mạo thần
tiên, cũng là v́ muốn làm một chút chuyện tốt, tu một
chút công đức, quá nửa cũng đều là khuyên người
làm lành. Chuyện nhỏ, chuyện rất gần, họ nói
rất chuẩn xác, cho nên kẻ tin tưởng rất đông.
Chuyện lớn, chuyện trong tương lai xa, họ sẽ
nói nhăng nói cuội. Dẫu sao sau khi họ đă nói, [có nói sai be bét], quư vị cũng đâu t́m được họ! V́
thế, thầy kể cho tôi biết những chuyện ấy,
đệ tử Phật trong Phật môn chẳng cần làm
những chuyện ấy, chẳng cần qua lại với
quỷ thần! Đối với quỷ thần, hăy kính
nhi viễn chi. Nói thật ra, chúng ta tu tŕ đắc lực
đôi chút, quỷ thần sẽ t́m quư vị giúp đỡ
họ. Nói cách khác, họ chẳng thể giúp chúng ta, nhưng
chúng ta có thể giúp họ.
Học Phật đă nhiều năm ngần
ấy, bất luận các đồng học tại gia hay
xuất gia, tôi nghĩ sẽ thường gặp chuyện
sau đây, dẫu chẳng phát sanh nơi bản thân ta, nhưng từ các đồng tham đạo hữu, quư vị
có thể trông thấy. Đó là thật, chẳng giả. Bị
quỷ thần dựa thân, cũng có khi là quỷ thần báo
mộng, họ đến cầu xin quư vị, xin quư vị
tụng kinh, niệm Phật hồi hướng cho họ,
thật sự hữu dụng. Tin tức này do đâu mà có?
Từ những người bị dựa, tức là có quỷ
thần bám vào thân con người để yêu cầu siêu độ. Chúng ta giảng
kinh mà hồi hướng, công đức cũng rất lớn.
Niệm Phật, Tam Thời Hệ Niệm để làm Phật
sự siêu độ. Có khi đă làm xong, họ lại dựa
thân, chúng tôi hỏi họ: “Như thế nào? Chúng tôi tụng
kinh cho quư vị, khuyên quư vị đến nghe kinh, quư vị
có được lợi ích hay chăng?” Họ cho chúng tôi
biết, nói chung, họ được lợi ích một phần
ba!
Được lợi ích một phần ba,
đương nhiên là căn tánh của mỗi người
khác nhau, quỷ thần cũng giống như vậy. Thật
sự niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ th́ có, chẳng
phải là không có, [nhưng là] thiểu số! C̣n đa số th́ sao? Sanh thiên,
thoát ly ác đạo được sanh lên trời. Chúng ta
biết, họ sanh lên trời, quá nửa là trong Tứ
Vương Thiên và Đao Lợi Thiên. Có kẻ chuyển
sanh vào nhân đạo, có
kẻ chuyển đến súc sanh đạo. Chuyển vào
súc sanh đạo nhiều lắm. Chư bị phải biết,
từ địa ngục và ngạ quỷ chuyển vào súc sanh đạo chính là siêu sanh, chiếm tuyệt
đại đa số. C̣n có hai phần ba vẫn chẳng
đắc độ, tuyệt đối chẳng phải
là một lần sẽ độ rất nhiều người,
chẳng thể nào! Chúng ta hiểu đạo lư này. V́ thế,
chúng ta giảng kinh không gián đoạn, niệm Phật
không gián đoạn, mỗi tháng chúng ta làm Tam Thời Hệ
Niệm cũng chẳng gián đoạn, hằng ngày hồi
hướng cho họ, mỗi tháng hồi hướng cho họ.
Lần này họ chẳng được lợi ích th́ lần
tới hoặc lần sau nữa, họ sẽ được
lợi ích. V́ thế, đấy chính là chúng ta đă giúp
đỡ những chúng sanh ấy. Công phu tu hành của chính ḿnh đắc lực, chính
ḿnh có thể đạt thành tựu, và cũng giúp đỡ
rất nhiều chúng sanh.
Do đó, hồi hướng hết sức
quan trọng. Quư vị thấy điều cuối cùng trong
mười đại nguyện vương của Phổ
Hiền Bồ Tát là “phổ
giai hồi hướng”. Chúng ta phải có tâm lượng ấy,
niệm nào cũng đều chẳng bỏ một chúng
sanh nào! Nhất là oán thân trái chủ của chính ḿnh, suốt
một đời này, chúng ta chẳng kết oán với kẻ khác,
nhưng đời trước, đời quá khứ, quư vị
chẳng thể đoan quyết không kết
oán với kẻ khác. Chẳng kết oán với kẻ khác,
có kết oán với súc sanh hay không? Có giết hại chúng
sanh hay chăng? Có ăn thịt chúng sanh hay không? Quư vị
ăn thịt chúng sanh, giết hại chúng sanh. Muỗi, kiến,
ruồi nhặng, gián, quư vị có giết hại chúng nó hay
chăng? Chúng nó cũng là sanh mạng. Đừng nghĩ những
động vật ấy nhỏ bé rồi mặc t́nh giết
hại chúng nó, sai mất rồi, mỗi con vật ấy cũng
là một mạng! Hễ giết một mạng, quư vị
thiếu nợ một mạng. Quư vị chiếm một
chút tiện nghi của kẻ khác, cũng sẽ thiếu nợ
họ. Thiếu mạng phải đền mạng, thiếu
nợ phải đền tiền. Nhân quả thông ba đời,
khi nhân duyên hội ngộ, quả báo vẫn phải tự
chịu. Nếu hiểu đạo lư này, trong một đời
này, bất luận chúng ta có thân phận là ǵ, xử sự,
đăi người tiếp vật, chắc chắn chẳng
dám hại người.
Chính ḿnh có năng lực, có trí huệ, bèn toàn
tâm toàn lực giúp đỡ chúng sanh khổ nạn, đấy
mới là đúng. Những ai là chúng sanh khổ nạn? Những
kẻ chẳng vượt thoát luân hồi, thảy đều
là chúng sanh khổ nạn. Dẫu hiện thời đại
phú đại quư, sau khi đă hưởng xong phú quư, đời
sau c̣n có thể lại được hưởng phú quư hay
không? Chẳng dám chắc! Trong một vạn người,
sau khi chết đi, đời sau c̣n được hưởng
phước báo nhân thiên, sợ rằng chỉ
được mấy người, chênh lệch rất xa!
V́ sao? Đại đa số kẻ phú quư khi hưởng phước
chẳng biết tu phước, phước do họ tu chẳng
phải là phước điền thật sự! Đối
với chuyện này, chư vị đọc kỹ Liễu
Phàm Tứ Huấn sẽ hiểu rơ. Mấy năm trước,
Mă Lai đă làm hai đĩa phim dài hai tiếng đồng hồ.
Đối với người thật sự tu hành, hăy coi Liễu
Phàm Tứ Huấn như công khóa để thực hiện th́ sẽ hết sức thuận tiện,
v́ thời gian chỉ có hai tiếng đồng hồ. Mỗi
ngày dùng thời gian hai tiếng đồng hồ để
xem một lần, quư vị có thể coi suốt cả năm
chẳng gián đoạn. Coi đi coi lại ba trăm sáu mươi
lần, căn cội giáo dục nhân quả sẽ sanh khởi
trong tâm quư vị. Tôi tin là trong suốt đời này, quư vị
xử sự, đăi người tiếp vật, khởi
tâm động niệm, sẽ nghĩ đến nhân quả,
sẽ hữu ích rất lớn cho sự tu hành của quư vị.
Chớ nên sơ sót điều này!
Thuở tổ Ấn Quang tại thế, Ngài
suốt đời cực lực đề xướng;
đó là trí huệ chân thật, Ngài thấy rơ trạng huống
xă hội trong hiện tiền. Chúng tôi suy đoán, [do Tổ
thấy rơ] “dùng Nho để dạy sẽ chẳng kịp, dùng Phật
để dạy cũng chẳng kịp”, dùng phương
pháp ǵ sẽ có thể hữu hiệu? Nhân quả. Ai nấy
đều biết nhân quả báo ứng, quư vị khởi
tâm động niệm nhất định sẽ thâu liễm,
nhất định sẽ nghĩ chẳng thể làm chuyện
hại người, chẳng thể làm chuyện trái lương
tâm, quư vị sẽ có tâm cảnh giác. Chẳng thể làm
chuyện có lỗi với người khác, chẳng thể
làm chuyện có lỗi với xă hội, có lỗi với
nước nhà, th́ chuyện có lỗi với thế giới
sẽ càng chẳng thể làm nổi! Khởi tâm động
niệm, lợi người là tự lợi thật
sự. Người hiện thời khác hẳn, chẳng tin
tưởng nhân quả, không biết luân lư đạo đức,
khởi tâm động niệm đều là ích kỷ, khởi
tâm động niệm đều là tổn người lợi
ḿnh. Cứ tưởng tổn người có thể lợi
ḿnh; trên thực tế, tổn người là hại chính
ḿnh. Do vậy, kẻ ấy suốt đời hứng chịu
khổ nạn, [hứng chịu]
rất nhiều nỗi vùi dập,
bản thân kẻ ấy cũng chẳng biết do nguyên
nhân ǵ! Chỉ có người thông minh, trí huệ, có đại
phước đức, đó là Vương! Những người
ấy dễ hóa độ, quư vị vừa nói, kẻ ấy
bèn hiểu rơ, sẽ hiểu rành rẽ.
Bài kệ kế tiếp có mối quan hệ
liên quan với bài kệ này, những
ư chúng tôi chưa nói trọn hết,
đến giờ sau, chúng ta sẽ tiếp tục t́m hiểu
sâu hơn.
***
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem bài kệ tiếp theo
là bài kệ thứ hai mươi hai:
(Kinh) Nhược kiến vương tử, đương
nguyện chúng sanh, tùng pháp hóa sanh, nhi vi Phật tử.
(經)若見王子。當願眾生。從法化生。而為佛子。
(Kinh: Nếu thấy vương tử, nguyện
cho chúng sanh, từ pháp hóa sanh để làm Phật tử).
Chúng ta đọc bài kệ này, cũng
phải hiểu theo ư nghĩa mở rộng. “Vương tử” cũng có
sức ảnh hưởng nhất định trong xă hội.
Nếu họ có thể nêu gương tốt cho đại
chúng trong xă hội, ảnh hưởng sẽ càng lớn.
Nay chúng ta là đệ tử Phật, Phật là pháp vương,
Bồ Tát là pháp vương tử. Đă học Phật th́
đều là học tṛ đức Phật, cách xưng hô tại Ấn Độ
vào thời cổ là Bồ Tát. Bồ
Tát có các cấp bậc giống như học hành trong nhà
trường. Bồ Tát là học tṛ, đă tốt
nghiệp th́ là Phật.
Do Bồ Tát là học tṛ, có lớp Một, lớp
Hai, có Tiểu Học, Trung Học, Đại Học khác
nhau, nhưng đều là học tṛ. Nói theo Phật pháp, như
kinh Hoa Nghiêm đă dạy, Thập Tín chính là mười lớp
đầu tiên, giống như Tiểu Học. Cấp thứ
hai là Thập Trụ, tức mười lớp thuộc cấp
Hai, giống như Sơ Trung. Mười lớp thuộc
cấp ba là các vị Bồ Tát thuộc Thập Hạnh, giống
như Cao Trung. Mười lớp thuộc cấp thứ tư,
giống như Đại Học. Mười lớp thuộc
cấp thứ năm, giống như Cao Học. Do đó, Phật
pháp nói Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng, Thập Địa, năm mươi
mốt địa vị, trên đó c̣n có Đẳng Giác, [gộp
chung thành] năm mươi mốt tầng cấp. Nhưng
thời gian tu học dài hay ngắn khác nhau, hoàn toàn cậy vào công phu của mỗi cá nhân. Có những người ngay
trong một đời năm mươi mốt địa
vị đều hoàn thành, giống như người ấy
đă nắm được học vị Tiến Sĩ. Học
vị cao nhất trong Phật pháp là Phật Đà, học
vị thứ hai là Bồ Tát, học vị thấp nhất
là A La Hán, đều là thật sự đạt được
học vị. Tiểu Thừa có Tứ Quả và Tứ
Hướng là tám đẳng cấp.
Nay chúng ta “tùng
pháp hóa sanh, nhi vi Phật tử” (từ pháp hóa sanh, là Phật
tử), nhất định phải nương theo giáo huấn
của đức Phật để học tập. “Từ pháp hóa sanh”, ư nghĩa rất
sâu. Thân thể của
chúng ta do cha mẹ sanh ra chính là
nhục thân, ân đức rất lớn! Sanh ra chúng ta, nuôi
nấng, dạy dỗ chúng ta. Hiện thời, kẻ làm cha mẹ
sanh và dưỡng th́ được, c̣n “giáo” th́ sơ sót. Chúng ta tiếp nhận giáo dục
của đức Phật và giáo dục của bậc thánh
hiền nhằm mục đích biến hóa khí chất. Đấy
là như cổ thánh tiên hiền đă dạy: “Đọc sách nhằm cầu biến
hóa khí chất”. Cũng có nghĩa là “biến
ác thành thiện, biến mê thành ngộ, biến phàm thành
thánh”. [Ở đây], Biến
(變) là biến
hóa, đó là ǵ? Pháp Thân huệ mạng. Phật pháp nói chúng
ta có hai cái mạng: Thân mạng từ cha mẹ mà có, huệ mạng từ
thầy mà có. Phật là thầy, chư vị nhất định
phải hiểu rơ điều này!
Chúng ta gọi Thích Ca Mâu Ni Phật là ǵ? Bổn
Sư, nam-mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. “Nam-mô” nghĩa là ǵ? Tôn kính. Chúng
ta nói là “tôn kính”. Nếu dịch
sang nghĩa tiếng Hán, sẽ là “tôn kính vị thầy căn bản là Thích Ca Mâu Ni Phật”.
Phật là danh xưng học vị. Ngài đạt
được học vị cao nhất, giống như hiện
thời chúng ta nói Tiến Sĩ, đó là học vị cao
nhất. V́ thế, dịch nghĩa ra, quư vị sẽ biết
chẳng mê tín, Phật chẳng phải là thiên thần, Phật
chẳng phải là quỷ thần, Phật chẳng phải
là thần tiên! Phật là một bậc giác ngộ, hóa mê thành
ngộ, hóa phàm thành thánh. Ngài là một vị thánh nhân giác ngộ.
Chúng ta tuân theo giáo huấn của Ngài, nương theo giáo huấn
của Ngài để hành, để chuyển biến khí chất
của chúng ta. Đấy là đệ tử Phật thật
sự.
Nó có tiêu chuẩn, các đồng học chúng
ta cùng nhau chọn lựa Tịnh Độ Tông. Điều
quan trọng nhất trong Tịnh Độ Tông là tu tâm thanh
tịnh. Tâm tịnh ắt cơi Phật tịnh. [Đă là] thanh
tịnh, vậy th́ quư vị hăy nghĩ, tương phản
của thanh tịnh là ô nhiễm. Ô nhiễm là ǵ vậy? Phiền
năo là ô nhiễm, là ô nhiễm nghiêm trọng nhất. V́ thế,
đức Phật đă ban cho chúng ta một tiêu chuẩn,
[chính là] Thập Thiện Nghiệp Đạo! Kẻ mới
học Phật phải đổ công dốc sức từ
chỗ này. Điều đầu tiên trong Tịnh Nghiệp
Tam Phước là “hiếu
dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng,
từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp”, chúng ta vun quén căn cội từ
chỗ này, nhập môn từ chỗ này! Nói thật thà, người
hiện thời chẳng tiếp nhận giáo huấn của
thánh hiền, kể cả Phật pháp. Phật pháp là giáo huấn
của thánh hiền, chẳng biết hiếu thuận, hiếu
thuận là ǵ chẳng hiểu! Nhưng kẻ làm cha mẹ
trong hiện tại, v́ bản
thân họ cũng chẳng
tiếp nhận giáo dục của thánh hiền, họ cũng
chẳng hiểu hiếu thuận là ǵ! Do vậy, họ
sanh con đẻ cái, dạy dỗ con cái, bản thân họ
cũng chẳng biết hiếu thuận là ǵ, làm sao con cái
biết [hiếu thuận với cha mẹ] cho
được?
Tôi nghe báo cáo của trung tâm văn hóa Lư
Giang: Gần đây, có một đứa nhỏ, rất ương
ngạnh mà cũng rất thông minh, rất khó dạy. Sau khi
cả nhà nó học Đệ Tử Quy, cha mẹ nó biết
hiếu thuận với cha mẹ của chính ḿnh như thế
nào? Sáng thăm, tối viếng, trước kia chẳng
có, hiện thời đă biết. Sáng sớm và buổi tối
đều phải hỏi han cha mẹ, áo mặc có đủ
ấm hay không? Thường xuyên quan tâm, thức ăn có hợp
khẩu vị hay chăng? Chăm sóc rất chu đáo,
đứa nhỏ trông thấy, tự động học
theo. Học ǵ vậy? Chăm sóc cha mẹ của chính nó, đó
là đúng. Trông thấy cha mẹ hiếu thuận với ông
bà, nó ở bên cạnh bèn học theo. Do đó, giáo dục là
phải lấy thân làm gương. Bản thân quư vị chẳng
hiếu thuận đối với cha mẹ của chính
ḿnh, con cháu nh́n vào, quư vị làm con chẳng hiếu thuận, đ̣i hỏi
chúng nó hiếu thuận quư vị, có hợp lư hay chăng? Từ
bé, hằng ngày chúng nó đă thấy, cha mẹ là một tấm
gương, là gương mẫu tốt đẹp cho chúng
nó. V́ lẽ này, cha mẹ nếu mong con cái hiếu thuận
với chính ḿnh, phương pháp tốt nhất là quư vị
phải hiếu thuận với cha mẹ của chính ḿnh cho
chúng nó trông thấy, tự nhiên chúng nó sẽ học theo. Quư
vị phải tôn trọng thầy của chính ḿnh, khiến
cho con cái trông thấy, chúng nó sẽ học tôn sư trọng
đạo. Phải nên như vậy, chúng tôi đă nhắc
đến đạo lư này quá nhiều.
Tôn sư là tôn trọng “đạo”, thầy đại diện cho đạo
thống, truyền thống. Do vậy, có thể biết,
thầy làm khuôn phép, nêu gương cho đại chúng trong xă
hội. Thầy sống cuộc đời kham khổ nhất,
thời cổ thường nói là “cùng tú
tài” (窮秀才, chàng
tú tài nghèo kiết xác), v́ thầy chẳng theo đuổi sự
nghiệp sản xuất, chỉ dạy học. Dạy học
th́ trưởng bối của học tṛ biếu xén thầy
đôi chút. Gia đ́nh học tṛ giàu có sẽ biếu nhiều
hơn, gặp dịp lễ Tết, sẽ tặng quà nhiều
hơn để giúp đỡ thầy. [Nếu học tṛ]
gia cảnh thanh bần [th́ tặng thầy] rất ít. Thậm
chí c̣n có gia đ́nh hết sức nghèo khổ, ba bữa cơm
c̣n chưa thể no đủ; khi ấy, thầy c̣n phải
chăm sóc tṛ, c̣n phải giúp đỡ gia đ́nh học tṛ.
Do vậy, người làm thầy rất vất vả, nhưng
khởi tâm động niệm, lời lẽ, cử chỉ
đều nêu gương tốt cho xă hội. Luân lư, đạo
đức và nhân quả đều là tấm gương tốt
đẹp, thầy phải làm được.
Chúng ta hết sức hiểu rơ sự vất
vả của thầy, thầy có quả báo tốt đẹp.
Thường là quả báo chẳng thuộc trong một
đời này, quả báo thuộc về đời sau, hoặc
đời sau nữa. Do suốt đời tâm hạnh đoan
chánh, niệm nào cũng đều v́ thế hệ kế
tiếp, nêu gương tốt nhất cho đại chúng trong
xă hội và người đời sau, phước báo của
thầy thuộc về đời sau. Tuy chính ḿnh kham khổ,
vẫn có thể giúp đỡ người khác, đấy
chính là bố thí. V́ thế, thầy có Tài Bố Thí, có Pháp Bố
Thí, có Vô Úy Bố Thí. Nói cách khác, đời sau sẽ
được đại phú quư. Chúng ta biết những người
đại phú quư trong thế gian hiện thời, trong đời
trước hoặc đời quá khứ quá nửa là ǵ?
Quá nửa là những người thuộc loại tú tài nghèo
kiết xác, họ tu tập, tích lũy đức hạnh,
tu ba loại bố thí, cho nên trong đời này được
đại phú quư.
Chúng ta thấy rất rơ ràng, rất minh bạch,
cho nên đối với người phú quư, có hâm mộ hay
không? Chẳng hâm mộ! Đối với những vị
thầy dạy học kham khổ ấy, có tôn kính hay chăng?
Hết sức tôn kính, tôn kính tự đáy ḷng, họ là cội
nguồn của sự an định trong xă hội. Do vậy, thời cổ, đế vương,
đại thần, trưởng giả, chẳng có ai không
tôn kính người đọc sách. Tuy họ rất thanh bần,
nhưng hết sức thanh cao, thật sự làm được
“ư nhân vô tranh, ư thế
vô cầu” (chẳng tranh với người khác, chẳng
cầu nơi đời), cam tâm t́nh nguyện sống cuộc
đời kham khổ. Họ đọc sách, dạy học
đều vui sướng, vui thích ươm bồi anh tài
cho thiên hạ. Đấy là chuyện vui sướng lớn nhất trong đời người, họ có niềm
vui riêng của họ. “Học
nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ?” (Học rồi thường xuyên tập luyện, cũng
chẳng vui ư?), đó là niềm vui của thánh hiền. Quan niệm
về giá trị trong xă hội hiện thời đă chuyển
biến! Trước kia, người đọc sách có địa
vị cao nhất trong xă hội, được người
khác tôn kính nhất. Cách xếp hạng trong xă hội là sĩ,
nông, công, thương, “sĩ”
(士) là
người đọc sách, người đọc sách được
xếp hàng đầu. Hiện thời, quan niệm về giá
trị thay đổi, xă hội hiện tiền coi kẻ
giàu có đứng đầu, [cho nên] công và thương xếp
hàng đầu, người đọc sách nghèo túng, xếp
hạng bét trong hiện thời. Đấy là lư do v́ sao xă hội động loạn,
quư vị có tham cứu thấu triệt đạo lư này hay
không? Hễ xă hội coi trọng luân lư và đạo đức,
chắc chắn là cơi đời thái b́nh thịnh trị. Hễ
xă hội phế bỏ, chẳng cần đến, sơ sót luân lư và đạo đức, chẳng cần nữa, chắc chắn sẽ là đời loạn.
Nay chúng ta sống nhằm thời đại
có quan niệm về giá trị điên đảo, có c̣n muốn đọc
sách thánh hiền hay chăng? Hiện thời, có khá nhiều
người chủ gia đ́nh nói đọc những sách ấy
vô ích! Đọc những sách ấy, trong tương lai sẽ
chẳng t́m được việc làm trong
xă hội. Hiện thời,
học những ǵ? Học công thương, học khoa học
kỹ thuật. Đại khái, những
môn học được học tṛ ưa
thích nồng nhiệt nhất chính là computer, điện tử
và cơ giới, đó là những môn “nóng” nhất. V́ sao? Kiếm
việc rất thuận tiện, các công ty lớn đều
cần những nhân tài ấy. Nhân tài về luân lư đạo
đức vô dụng, những thứ ấy chẳng thể
kiếm tiền. Đúng thế! Chẳng thể kiếm tiền,
nhưng an định xă hội! Xă hội hiện nay động
loạn, xung đột nhiều ngần ấy, phải dựa
vào đâu? Phải dựa vào những thứ này để hóa
giải, phải dựa vào những thứ này để an
định. V́ vậy, chỉ có thiểu số thật sự
giác ngộ, xả thân v́ người khác. Hiện nay, làm chuyện
này rất vất vả, chẳng dễ dàng. Do đó, có những
đồng học bảo tôi: “Chuyện tốt khó làm, người
tốt khó làm”. Kẻ khác hiểu lầm quư vị, mọi người thấy quư vị đáng ghét! Quư vị làm người
tốt, họ sẽ chẳng nói quư vị là người tốt,
mà chê quư vị là đứa ngốc, ngu si, khờ khạo,
chẳng biết kiếm tiền, “sao ngươi
chẳng biết hưởng thụ?” Quư vị thật sự muốn làm một chuyện
tốt, chướng ngại quá nhiều, chẳng để cho quư vị làm. Quư vị làm chuyện
xấu, người giúp đỡ quư vị khá nhiều! Quư vị chẳng
tin ư? Tôi mở ṣng bạc, sẽ có rất nhiều người
đầu tư. V́ sao? Kiếm tiền được! Đó
là hại người, khiến cho người ta tan nhà nát cửa, tiêu sạch tài sản. V́ thế, xă hội hiện
thời là một xă hội điên đảo.
Chúng ta thật sự phát tâm làm, phải hiểu rơ quả
báo trong tương lai chẳng thể nghĩ bàn. Hiện
thời, có thể là quư vị phải trả giá bằng
bao nhiêu sự hy sinh, phải trả giá biết là bao nhiêu,
trong đời kế, hoặc đời sau nữa, sẽ được
đền bồi gấp trăm lần, đền bồi
gấp ngàn lần, phước đức chẳng thể
nghĩ bàn. V́ thế, nay chúng ta chẳng được
hưởng thụ chi hết, nay chúng ta làm ǵ vậy? Tài Bố
Thí, Pháp Bố Thí, Vô Úy Bố Thí. Chỉ nguyện bố thí,
chẳng mong được báo đền, chẳng có ư niệm
“sẽ được báo đền”. Nhưng
đối với chính ḿnh, tuy rất kham khổ, hễ c̣n
có thể sống được th́ tốt lắm, đă đủ
rồi! Ba bữa cơm có thể ăn no, quần áo có thể
mặc ấm, có một căn nhà nhỏ để tránh gió,
đụt mưa, đủ rồi! Nhu cầu sống của
chúng ta trong thế gian đă được thỏa măn, chẳng
cần cầu chi nữa. Nay quư vị cho tôi một căn
nhà to, tôi không cần. V́ sao? Mỗi ngày dọn dẹp rất
vất vả, một người th́ ở căn nhà to như
vậy để làm chi? Một gian nhà là đủ rồi,
dọn dẹp rất dễ dàng, sạch sẽ, ngăn nắp.
Quư vị nói xem, quư vị vui sướng dường ấy,
chẳng có phiền năo, chẳng phải lo âu, chẳng có vướng
mắc, chẳng hề sợ hăi!
Do vậy, tâm phải tịnh, phải buông
xuống ô nhiễm; hiện thời, ô nhiễm nghiêm trọng,
ai nấy đều biết. Đầu tiên là ở nơi
đâu? Buông xuống ô nhiễm trong cuộc sống. Mặc
quần áo th́ vẫn là mặc vải bông giữ ấm là được rồi! Quư vị mặc những thứ vải
nylon, the lượt, những thứ sợi tổng hợp,
chẳng tốt cho thân thể, tổn hại sức khỏe.
Đối với ăn uống th́ hiện thời ăn
thịt chắc chắn không tốt cho sức khỏe. Trừ
phi quư vị sống tại nông thôn, chứ mua thịt tại
siêu thị để ăn cũng không tốt cho sức khỏe.
Trong đó, có rất nhiều vi sinh tố hóa học. Thậm
chí ăn chay, rau dưa có thuốc trừ sâu, chứa thuốc
trừ sâu rất nghiêm trọng. Cho đến trà, tôi đă
đến thăm nông trường, đến thăm
vườn trà, nhà sản xuất trồng trà cũng dùng
thuốc trừ sâu, dùng phân hóa học. V́ thế, lá trà trông rất
đẹp, rất dễ ưa, nhưng không b́nh thường!
V́ lẽ ấy, ba mươi năm trước,
tiến sĩ Thang Ân Tỷ (Arnold Toynbee) đă nói: “Nếu nhân loại thật sự
biết giữ sức khỏe, biết phép vệ sinh, vẫn
phải khôi phục phương pháp gieo trồng, làm ruộng trong quá khứ”. Nó tự nhiên, khỏe mạnh. Súc vật
nuôi trong nhà, nhất định phải thả ra ngoài, chớ
nên nhốt chặt trong lồng. [Con vật] bị nhốt
cứng ngắc trong lồng, chắc chắn chẳng
khỏe mạnh. Lời ấy rất có lư. Người ngoại
quốc thích ăn thịt ḅ, thịt dê. Dê và ḅ được
nuôi tại mục trường. Quy mô của mục trường
hết sức to lớn. [Làm như thế là] chánh xác, chúng
chẳng bị nhốt chết cứng trong lồng. Chẳng
phải do chính ḿnh dùng phân hóa học cho chúng ăn, chúng nó tự
kiếm mồi. Điều này cho thấy xác thực là có
những người ngoại quốc ăn uống lành mạnh
hơn chúng ta. Hiện thời, những thứ từ biển
cũng chẳng thể ăn. V́ sao? Nước biển bị
ô nhiễm nghiêm trọng. Trước kia, thường nghĩ
như thế nào? Hải sản, cá trong sông nói chung là đỡ
hơn một chút. Hiện thời, chúng ta biết sông ng̣i,
biển cả bị ô nhiễm nghiêm trọng đều do con người
gây ra, đều là tự ḿnh hại ḿnh! Từ những chỗ
này, quư vị mới biết điều chỉnh cơm áo,
vệ sinh của chính ḿnh như thế nào để bảo
vệ t́nh trạng sinh lư của chính ḿnh.
Lại nói đến sự ô nhiễm nơi
tinh thần th́ càng nghiêm trọng hơn. Hằng ngày chúng ta tiếp
xúc, đại khái, hiện thời tiếp xúc nhiều nhất
là nhật báo, tạp chí, và TV, c̣n có computer, đó là những
thứ tiếp xúc nhiều nhất. Những thứ này gây
hại rất lớn cho sức khỏe của con người.
Nội dung trong ấy toàn là ô nhiễm tinh thần nghiêm trọng,
hằng ngày quư vị tiếp xúc chúng, chẳng có lợi ích
chi hết. V́ thế, sau khi tôi học Phật, hiểu những
đạo lư này, tối thiểu là tôi đă bốn
mươi năm đoạn tuyệt quan hệ với những
thứ ấy, không xem TV, không nghe radio, không xem nhật báo,
không đọc tạp chí, đoạn tuyệt bốn
mươi năm! Ngay cả điện thoại cũng rất
ít. Đă thế, trong hiện thời, cell phone có hại rất
lớn cho con người. Tôi đă thấy những
quảng cáo có đưa ra một số cảnh cáo, rất
có ư nghĩa. Chúng nói đến người sử dụng cell phone, hy vọng số lần sử dụng càng ít
càng tốt. Thời gian [sử dụng] tốt nhất là
đừng hơn một phút. Nói cách khác, hơn một phút,
sẽ gây hại, tổn thương cho thân thể quư vị.
V́ thế, phương tiện nhằm tạo thuận tiện
cho quư vị, nhưng quư vị phải trả giá. Cái giá mà quư vị
phải trả chẳng tỷ lệ thuận với sự
thuận tiện do chúng đem đến. Nói cách khác, v́ đôi
chút thuận tiện, phải trả giá thê thảm, đau
khổ, chẳng đáng!
Do vậy, đối với những chỗ
này, đệ tử Phật hăy nên hằng ngày tiếp nhận giáo huấn
của Phật, Bồ Tát. Giáo huấn của Phật, Bồ
Tát ở trong kinh điển, chúng ta nhất định phải
dành thời gian để đọc kinh sách cho nhiều, niệm
Phật cho nhiều. Con
đường chúng ta phải đi trong suốt một đời này là phải chuyển mê thành ngộ, chuyển phàm thành thánh,
đó là chánh xác. Phải nâng cao trí huệ, nâng cao đạo
đức, nâng cao linh tánh của chính ḿnh trên một mức
độ lớn, sẽ chẳng uổng công sống đời
này trên thế gian này, phương hướng và mục tiêu chánh xác. Phải
biết sống cuộc đời b́nh đạm, b́nh đạm
là khỏe khoắn nhất, là hạnh phúc nhất, là mỹ
măn nhất. Các đồng học và bạn bè chí đồng
đạo hợp vẫn là rất nhiều. Thật sự
có thể thấy thấu suốt, có thể buông xuống,
chúng ta có năm, sáu người, hoặc ba, bốn người,
đều chẳng coi là ít, cùng nhau cộng tu, mọi người nương
cậy đại chúng, khích lệ lẫn nhau. Không chỉ là
mỗi cá nhân chúng ta thật sự nêu gương tốt
cho đại chúng trong xă hội, mà đoàn thể nhỏ của
chúng ta cũng là gương tốt cho tất cả các đoàn
thể. V́ sao? Đoàn thể này tu Lục Ḥa Kính.
Ấn Quang đại sư dạy chúng ta, trong
trạng huống xă hội hiện tiền, đạo
tràng phải nhỏ. Ngài nói các đồng học cộng
tu chẳng vượt quá hai mươi người. Quư vị hăy
suy ngẫm, v́ sao tổ sư phải nói lời
ấy? V́ sao phải dạy chúng ta như vậy? Quư vị
có hiểu rơ hay chăng? Có hiểu thấu hay không? Do quan niệm
về giá trị trong xă hội hiện thời biến
đổi, phương thức sống thay đổi, chế
độ thay đổi. Nếu đạo tràng quá đông
người, sẽ chẳng thể tu hành! Số người
quá đông, chi phí quá lớn, ai có thể cung ứng cho quư vị?
Cung ứng không nổi th́ quư vị làm sao? Vậy
th́ chỉ có chính ḿnh nghĩ ra phương pháp, quư vị nhất
định sẽ nghĩ dùng cách nào? Theo phương thức
xí nghiệp! Như vậy th́ chẳng phải là lập đạo
tràng, mà đáng gọi là “mở tiệm Phật”! Pháp hội,
kinh sám Phật sự, làm đủ mọi hoạt động
để chèo kéo tín chúng, quư vị c̣n có thời gian nào
để tu hành nữa chứ? Tâm của quư vị loạn
động, ô nhiễm, chẳng thanh tịnh.
Nếu đạo tràng của quư vị thật
sự không vượt quá hai mươi người, trong xă hội hiện tiền,
hăy c̣n có những vị nhân sĩ thiện tâm, họ vui ḷng giúp
đỡ quư vị. Quư vị có thể sống cuộc
đời rất b́nh đạm, hai mươi người
rất dễ duy tŕ. Có thể làm được điều
ǵ? Làm đúng như pháp, tu hành như lư, như
pháp. Chẳng hướng ra ngoài phan duyên, chẳng có kinh sám
Phật sự, cũng chẳng có bất cứ pháp hội nào! Hai mươi người hằng ngày cùng nhau đọc
sách, giảng học. Một người giảng, mười
chín người nghe. Mỗi ngày mọi người thay phiên
nhau giảng, thay phiên nhau giảng sẽ ép quư vị phải
đọc sách. Một người học một bộ
kinh, hoặc hai người học một bộ kinh. Hai mươi
người, [giả sử là] hai người cùng học một
bộ kinh, sẽ là mười bộ kinh. Mỗi người
học có sự chuyên công riêng, tốt lắm! Hai mươi
người ở cùng một chỗ, mỗi ngày các đồng
học giảng cho nhau nghe, cùng nhau học tập. Tuy kinh tôi
học chẳng giống như kinh của quư vị học, tôi giảng cho quư vị nghe, quư vị giảng cho tôi
nghe, chúng ta đều có sự chuyên công, nhưng đối
với những kinh luận khác cũng đều có kiến
thức. V́ sao? Đă đều nghe rồi! Như thế
th́ mười năm, hai mươi năm chúng ta không ra khỏi
cửa, sẽ biến thành chuyên gia, học giả, tự
nhiên là toàn thể thế giới sẽ ưa thích, người
muốn nghe kinh ấy, sẽ đều mời quư vị.
V́ sao? Quư vị là chuyên gia!
Ví như tôi học kinh Di Đà, mười
năm, hai mươi năm, tôi chuyên học bộ kinh A Di
Đà, khẳng định trong tương lai, tôi sẽ biến
thành A Di Đà Phật. Quư vị học kinh Vô Lượng
Thọ, quư vị là Vô Lượng Thọ Phật. Quư vị
học kinh Kim Cang, sẽ là Kim Cang Bồ Tát. Quư vị học
kinh Địa Tạng, sẽ là Địa Tạng Bồ
Tát. Quư vị học phẩm Phổ Môn, quư vị sẽ là
Quán Âm Bồ Tát, chuyên gia mà! Người nào đối với
bộ kinh luận ấy đă dùng thời
gian dài như thế, công phu to như thế? Trên thế giới
này, hiện thời giao thông thuận tiện, người muốn
nghe kinh này ở mỗi địa phương nhất
định sẽ mời quư vị. Tâm nhất định
phải định, nhất định là thứ ǵ cũng
đều buông xuống, y giáo tu hành, đấy mới là Phật
tử thật sự. “Thâm nhập
một môn, huân tu lâu dài”, chẳng
thể học nhiều, cũng chớ nên học tạp.
Đồng học cùng nhau học tập, ví như tôi chuyên
dụng công nơi kinh Di Đà, tôi cũng nghe quư vị giảng
kinh, nghe những thứ ấy có thể giúp ích cho tôi, có thể
là trong khi tôi học tập, hoặc trong khi tôi giảng giải
sẽ trích dẫn. Mỗi cá nhân đều có sự tu tập
chủ yếu, có thể cùng nhau học tập, nghiên cứu,
thảo luận, ai nấy đều tăng tấn.
Mỗi ngày niệm Phật, nếu chú trọng
nghiên cứu giáo lư, chẳng thể niệm Phật ít hơn
bốn tiếng đồng hồ. Hằng ngày lạy Phật,
chẳng thể ít hơn một tiếng đồng hồ,
lẽ nào chẳng vui sướng, lẽ nào chẳng thành tựu?
Chẳng cần thiết treo chiêu bài Phật Học Viện chi đó, chẳng cần thiết! Một tinh xá nho nhỏ, một
Niệm Phật Đường be bé, đồng học chẳng
phân biệt tại gia hay xuất gia, đều được,
hai mươi người. Xuất gia có thể ở trong đạo
tràng, tại gia th́ hy vọng họ đến dự lớp.
Khi có lớp th́ có thể đến, khi tan học có thể
về nhà! Chuyên môn dụng công! Đấy là Phật tử
thật sự. Chúng ta thấy thuở Thích Ca Mâu Ni Phật
tại thế, từ kinh điển chúng ta thường
thấy, một ngàn hai trăm năm mươi lăm người,
những vị đồng học ấy đă theo sát Thích
Ca Mâu Ni Phật mấy chục năm chẳng rời. Họ
thật sự học đến nơi đến chốn,
học giống như Thích Ca Mâu Ni Phật, ba y một bát, ăn
một bữa giữa trưa, nghỉ dưới cội
cây, chẳng cần người khác chăm sóc. Đó là Tăng
đoàn thuở ban đầu.
Vào đầu thời Dân Quốc, lăo cư sĩ
Giang Vị Nông, vị này là một vị đại đức
tại gia rất có thành tựu, suốt đời chuyên
đổ công dốc sức nơi kinh Kim Cang. Đối với
bộ kinh ấy, cụ đă bỏ ra thời gian hơn hai
mươi năm, viết ra bộ Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa,
hiện thời là tác phẩm chú giải kinh Kim Cang có uy tín
nhất. C̣n có một vị là cư sĩ Châu Chỉ Am cũng
giống như thế, trong một đời, cụ
dùng thời gian hơn hai mươi năm chuyên dốc sức nơi Tâm
Kinh. Bát Nhă Tâm Kinh hai trăm sáu mươi chữ. Những
chú giải Tâm Kinh của các bậc đại đức
xuất gia lẫn tại
gia từ xưa tới nay, cụ đều
đọc qua, viết thành bộ Tâm Kinh Thuyên Chú, chính là bản
tập hợp hoàn thiện những tác phẩm chú
giải Tâm Kinh xưa nay, biến thành tác phẩm [chú giải Tâm Kinh]
có thẩm quyền nhất. Đấy là khuôn mẫu thành tựu
do “thâm nhập một môn, huân
tu lâu dài”. Nếu chúng ta muốn chính ḿnh thành tựu, quư
vị hăy dùng phương pháp này. Nếu quư vị tham nhiều,
tham tạp, trong tâm c̣n có vọng niệm, sẽ chẳng thể
thành công. Người thành công chắc chắn sẽ buông xuống
vạn duyên, tâm địa thanh tịnh. Thanh tịnh sẽ
tương ứng, tạp loạn th́ chẳng
tương ứng. V́ tiếng tăm, lợi dưỡng của
chính ḿnh th́ sẽ không tương ứng. V́ tiếp nối
huệ mạng của Phật, v́ phổ độ chúng sanh,
sẽ tương ứng. Hễ tương ứng bèn được
Tam Bảo gia tŕ.
V́ thế, “thời”
chẳng phân biệt xưa nay, “địa”
(nơi chốn) chẳng phân biệt trong ngoài nước; chỉ cần có tâm, chẳng có ai không thể thành tựu.
Ngạn ngữ Trung Hoa có câu: “Thiên
hạ vô nan sự, chỉ phạ hữu tâm nhân” (Trong thiên
hạ chẳng có chuyện ǵ khó, chỉ sợ [thiếu] người
có ḷng). Thật sự phát tâm mong làm, từ đầu đến
cuối chẳng thay đổi, chẳng có một ai không thành
công. Ngay cả thành Phật làm Tổ mà c̣n đều thực hiện được, những chuyện khác trong thế
gian chỉ là “lông gà, vỏ tỏi”
(vụn vặt, không đáng kể), là những việc nhỏ
nhặt, há có chuyện ǵ chẳng làm được! Chuyển
phàm thành thánh, phá mê khai ngộ, đấy là đại sự
bậc nhất. Kinh Pháp Hoa nói, [đức Phật v́] “một đại sự nhân
duyên mà xuất hiện trong cơi đời”, đức Thế
Tôn là như thế đó. Nếu chúng ta phát tâm học đ̣i
đức Thế Tôn th́ cũng phải như vậy. V́
sao chẳng phát tâm? V́ sao không thật sự làm? V́ sao chẳng làm đệ tử Phật
thật sự?
Hữu danh vô thực sẽ chẳng thể
thành tựu. Tuy gieo thiện căn trong Phật môn, nhưng
quư vị nhất định phải tiêu trừ nghiệp
chướng của chính ḿnh, nghiệp chướng tiêu trừ
từ chỗ nào? Do nghiệp chướng, sẽ phải
chịu rất nhiều khổ báo, chớ nên không biết
điều này. V́ thế, quư vị học chẳng đúng
lư, chẳng đúng pháp, sẽ tạo nghiệp ǵ? Phá hoại
h́nh tượng Phật pháp, khiến cho đại chúng
trong xă hội nẩy sanh hiểu lầm: “Học Phật là
như vậy th́ chẳng cần học Phật. Thứ đó
là mê tín, chẳng có ích ǵ cho xă hội”. Tạo thành nỗi
hiểu lầm ấy, do nỗi hiểu lầm ấy, sẽ là
tội rất nặng, sẽ mắc quả báo. Há có thể
nói “chẳng tạo nghiệp nhân, sẽ chẳng có quả
báo” ư? Chẳng có lẽ ấy! Nghiệp
nhân nhất định có quả báo; v́ thế, chẳng thể
không biết điều này.
Do đó, người xuất gia là như thế, kẻ tại gia cũng chẳng phải là ngoại lệ. Hàng
tại gia phải nêu gương tốt cho xă hội. Tôi kính
khuyên mọi người, chúng ta nhất định phải
thực hiện Thập Thiện Nghiệp, phải thực
hiện Tam Quy, Ngũ Giới, phải thực hiện Đệ
Tử Quy. Vẫn phải làm từ Đệ Tử Quy, sau
đấy th́ Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện Nghiệp
sẽ chẳng khó. Nếu chẳng làm được Đệ
Tử Quy, ba thứ sau sẽ rất khó. V́ thế, chúng ta
thấy các đồng học tại gia, chẳng làm
được Thập Thiện Nghiệp, chẳng làm
được Tam Quy, Ngũ Giới, đấy chẳng
phải là đệ tử Phật thật sự. Hàng xuất
gia chẳng làm được Sa Di Luật Nghi, sẽ chẳng
phải là đệ tử xuất gia thật sự. V́ sao chẳng
làm được? Chẳng có cơ sở Đệ Tử
Quy, đấy cũng là thiếu khuyết sự huấn
luyện cơ bản. Chúng ta đă hiểu rơ, hiểu rành
rẽ, đó gọi là “mất
dê mới lo sửa chuồng, vẫn chưa muộn”, vẫn
c̣n kịp!
Thật sự có tâm, dũng mănh tinh tấn, th́
có thể viên măn môn học Đệ Tử Quy này trong ba tháng,
có thể thực hiện được. Căn tánh chậm
lụt, tập khí phiền năo nặng nề, tốn thời
gian một năm cũng có thể thực hiện. Đă có
cơ sở này, quư vị lại nghiêm túc nỗ lực học
Thập Thiện Nghiệp, hy vọng cũng có thể dùng
thời gian ba tháng hoặc nửa năm để thực
hiện Thập Thiện Nghiệp, quư vị là Phật tử
thật sự. Sau đấy, bất luận quư vị tu pháp
môn nào, bất luận quư vị học bộ kinh điển
nào, thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, mười năm,
hai mươi năm, quư vị sẽ là đại đức,
tức là bậc đại đức trong Phật môn. Bất
luận tại gia hay xuất gia đều là đại
đức. Tại gia th́ như cụ Hạ Liên Cư, như
cụ Mai Quang Hy, như cụ Giang Vị Nông, thành tựu như thế đó. Xuất gia th́ sẽ là tổ sư. Thật sự tự
độ, độ tha, tiếp nối huệ mạng Phật,
hoằng pháp lợi sanh, là Phật tử thật sự. A!
Hôm nay thời gian đă hết rồi, chúng tôi giảng tới
chỗ này.
Tập
1556
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh
thứ mười một, tiểu đoạn thứ ba
trong đoạn lớn thứ sáu của phần Kệ Tụng,
xem từ bài kệ thứ hai mươi ba:
(Kinh) Nhược kiến trưởng giả, đương
nguyện chúng sanh, thiện năng minh đoán, bất hành
ác pháp.
(經)若見長者。當願眾生。善能明斷。不行惡法。
(Kinh: Nếu thấy trưởng giả, nguyện
cho chúng sanh, khéo hay phán đoán, chẳng hành ác pháp).
Người được gọi là “trưởng giả” (長者) trong Phật môn là người có đức hạnh,
có học vấn, có địa vị, có thân phận, có tài
sản, được quốc vương, đại thần
khen ngợi, nhân dân yêu mến, kính trọng, người như
vậy được gọi là “trưởng
giả”. Chúng ta thấy ư nghĩa được bao hàm
trong danh từ này bèn liễu giải, trưởng giả chắc
chắn sẽ ảnh hưởng một vùng. Ông ta là gương
mẫu cho đại chúng trong xă hội. Những người
này đa số có sự nghiệp thành tựu, tuổi tác đă
cao, nay chúng ta nói là “đă về hưu, dưỡng lăo”,
được người khác tôn trọng. Đi khất
thực, nếu trên đường gặp gỡ [bậc trưởng giả], hoặc nghe nói đến,
đều có thể dẫn phát đại nguyện của
Bồ Tát, “đương nguyện
chúng sanh, thiện năng minh đoán, bất hành ác pháp”
(nguyện cho chúng sanh khéo thông hiểu phán đoán, chẳng
hành ác pháp), tức là nguyện cho hết thảy chúng sanh trọn
khắp pháp giới, hư không giới đều học tập bậc
trưởng giả. Trưởng giả là bậc “thiện năng minh đoán, bất
hành ác pháp” (khéo thông hiểu phán đoán, chẳng hành ác pháp).
Trong câu này, chữ quan trọng nhất là “thiện” (善), nêu rơ trí huệ chân thật, kinh nghiệm phong
phú, và sự thông hiểu nhân t́nh của bậc trưởng
giả. Điều này rất khó, chúng ta nói là “học vấn chân thật”.
“Minh” (明) là hiểu rơ, “đoán”
(斷) là phán đoán. Do
vậy, đây chẳng phải là một kẻ tầm
thường. V́ trong xă hội, hoàn cảnh nhân sự hết
sức phức tạp, nhất là trong thời đại
hiện tại. Vào thời cổ, chúng ta phải biết,
kinh này do Thích Ca Mâu Ni Phật nói từ ba ngàn năm trước,
thuở ấy, dân cư trên thế giới chẳng nhiều
như vậy! Một đô thị mười vạn dân cư
là đại đô thị, chẳng nhiều lắm, tức là chẳng có nhiều đại đô thị
như vậy! Dân cư hiện thời đông đảo,
khoa học kỹ thuật phát triển, xă hội ba ngàn năm
trước chẳng có [những chuyện ấy]. Hơn nữa,
vào thời cổ, nhân dân trong thời đại ấy thuần
phác, quen thói vâng giữ pháp tắc, từ bé họ đă học
tập trong hoàn cảnh ấy, phổ biến là luôn có hiếu,
đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, trên cơ bản
[ai nấy] đều có [những phẩm đức ấy]!
Kính lăo, tôn hiền; ai nấy xác thực có tâm biết hổ
thẹn. Có tâm hổ thẹn, sẽ ngần ngại “hành ác pháp, tạo ác nạn”. Cũng có nghĩa là vào
thời cổ, quan niệm về giá trị nhân sinh chẳng
giống hiện thời. Hiện thời, quan niệm về
giá trị điên đảo.
Vào thời cổ, người trong thế
gian được đại chúng trong xă hội tôn kính chẳng
v́ họ có địa vị, cũng chẳng v́ của cải,
thậm chí cũng chẳng v́ họ tài hoa, mà là do đức
hạnh. Trong quan niệm về giá trị, đức hạnh
xếp hàng đầu. V́ thế, đối với sự,
đối với người, họ có trí huệ, có thể
biện định đúng, sai, thiện, ác, tà, chánh, lợi
hại, họ có năng lực biện định ấy.
Nhưng sự việc th́ sống động, biến hóa muôn ngàn; cho nên sự phán
đoán cũng biến hóa trong mỗi thời khắc. Ví
như kẻ ác, đại chúng đều ghét bỏ hắn,
hắn sửa lỗi, đổi mới, quay đầu là bờ, có những
người vẫn c̣n có thành kiến, sai mất rồi!
Trưởng giả có thể dẫn đầu, tôn trọng,
tán thán kẻ đó, đúng là “lăng
tử hồi đầu kim bất hoán” (lăng tử quay
đầu, vàng chẳng đổi được). Tâm trưởng
giả là tâm từ bi, giúp đỡ hết thảy mọi
người trong thế gian chuyển ác làm lành.
Từ xưa tới nay, có người nào chẳng
làm ác? Cổ thánh tiên hiền đă từng nói:
“Nhân phi thánh hiền, thục năng
vô quá” (Con người chẳng phải là thánh hiền, có ai
không có lỗi). Khổng Tử được đời
sau tôn là thánh nhân, Ngài chẳng dám xưng là “thánh hiền”, Ngài nói chính Ngài c̣n có
lầm lỗi. Đến khi về già, vẫn c̣n mong có thể
sống thêm mấy năm để học tập kinh Dịch,
hy vọng chính ḿnh ít phạm lầm lỗi trong xử sự,
đăi người tiếp vật. Thánh nhân đă nêu gương
cho chúng ta! Nghiêu, Thuấn là thánh nhân, nhưng chính ḿnh chẳng
dám xưng là thánh nhân, luôn tôn tiền nhân là thánh nhân, tức
là [luôn nhận thấy bản thân] chắc chắn có lỗi
lầm. Nói theo Đại Thừa Phật giáo, người
đạt đến mức chẳng có lầm lỗi chỉ
có một người, tức là đă thành Phật. Thành Phật mới là thật
sự chẳng có lầm lỗi. Nói cách khác, Bồ Tát c̣n có
lầm lỗi, Thanh Văn, Duyên Giác càng chẳng cần phải
nói nữa. Lục đạo phàm phu, Kiến Tư, Trần
Sa, một phẩm vô minh chẳng phá, làm sao chẳng có lầm
lỗi cho nổi? Làm sao chẳng có ác hạnh? Chúng ta phải
biết điều này. V́ thế, cổ thánh tiên hiền khuyên
lơn, khích lệ chúng ta, “quá
nhi năng cải, thiện mạc đại yên” (phạm
lỗi mà có thể sửa đổi, không chi tốt lành hơn).
V́ thế, đối với sự phán đoán rành rẽ,
chữ Thiện rất quan trọng.
“Thiện” là phương
tiện thiện xảo, chúng ta thường nói là “thông quyền đạt biến”.
“Thông” (通) là thông đạt quyền xảo biến hóa. Đối
với thiện ác, Liễu Phàm Tứ Huấn đă nói rất
rơ ràng, có chân và giả. Thiện có chân và giả, ác cũng có
chân và giả. Thiện có lớn nhỏ, ác cũng có lớn
nhỏ. Thiện có thiên lệch và viên măn, ác cũng có thiên lệch
và viên măn. Nếu quư vị chẳng chú tâm thấu hiểu,
làm sao có thể thông đạt cho được? Nếu quư
vị chẳng thông đạt, làm sao có thể phán đoán
rơ ràng? Do vậy, chữ Thiện hết sức quan trọng,
là chữ then chốt ở đây. Nhà Phật nói sống động,
nói sinh động, chẳng hạn như nhà Phật coi trọng
giới luật. Trong mỗi điều giới đều
có “khai, giá, tŕ, phạm”, quư vị phải hiểu rơ. Giới luật có khi
khai duyên, khai giới chẳng phải là phạm giới. Nếu
quư vị chấp trước “kẻ ấy phạm giới,
kẻ ấy có tội”, quư vị đă sai mất rồi,
chỉ sợ kẻ có tội chính là quư vị! V́ sao? Quư vị
chẳng hiểu khai, giá, tŕ, phạm, nẩy sanh hiểu lầm! Do hiểu
lầm mà hủy báng Tam Bảo, kết tội có nhẹ
hay nặng sai khác. Nếu quư vị hiểu lầm, ảnh
hưởng chẳng lớn. V́ sao? Quư vị nói người
xuất gia ấy phá giới, do người thân cận [của
vị xuất gia ấy] chẳng nhiều, sẽ ảnh
hưởng không lớn, tội ấy bèn nhỏ. Nếu quư
vị thốt ra lời ấy, gây ảnh hưởng rất
lớn, thời gian gây ảnh hưởng rất lâu, tội
sẽ rất nặng.
Chúng tôi
nêu lên một trường hợp, những trường hợp
ấy đều là sự
thật. Tôi có một người bạn, cũng là đồng
hương. Lúc tuổi trẻ, trong thời gian Kháng Nhật,
ông ta làm thuộc hạ của Đới Lạp[3]. Chư vị
đều biết trong thời gian Kháng Chiến, Đới
Lạp chuyên trách công tác đặc vụ, hiện thời
nói là “công tác ngầm”. Chiến
tranh chống Nhật, quá nửa là làm công tác t́nh báo. V́
thế, họ đều được phái đi thâu thập
tin tức t́nh báo trong những khu vực bị người
Nhật chiếm đóng. Họ có ba người bạn, đều
là đồng sự, có một ngày bị đội hiến
binh Nhật Bản phát hiện, hễ bị bắt sẽ
bị xử tử! Xử tử th́ tuyệt đối c̣n chẳng
để cho quư vị chết an ổn được! Họ
bỏ trốn, nơi ấy là Nam Kinh, Nam Kinh bị người
Nhật chiếm đóng. Họ chạy đến Vũ
Hoa Đài[4]
ở ngoài cửa Trung Hoa, nơi ấy có một ngôi chùa.
Đội hiến binh của Nhật đă đuổi tới,
đuổi tới tận đó, họ chạy vào chùa.
Trong chùa đang làm pháp hội, họ cầu cứu lăo ḥa
thượng, nói rơ t́nh h́nh. Lăo ḥa thượng rất thông
minh, ngay lập tức cho họ xuống tóc, cạo trọc
đầu, bảo họ mặc áo hải thanh, theo các pháp
sư làm pháp hội. Khi pháp hội cử hành th́ cho họ
đứng lẫn vào trong đó. Đội hiến binh Nhật
đến đó lục soát, chẳng t́m được, đành
bỏ cuộc. Ba người bọn họ đều cảm
kích ơn cứu mạng của lăo ḥa thượng.
Sau khi Kháng Chiến thắng lợi, họ vĩnh
viễn nhớ măi chuyện này. Trở lại Nam Kinh, lăo ḥa
thượng vẫn c̣n sống, họ đến gặp lăo
ḥa thượng, cảm tạ ơn cứu mạng lần
đó. Do vậy, bày một bàn tiệc trong khách sạn Nam
Kinh, mời lăo ḥa thượng dùng cơm. Lăo ḥa thượng
cũng rất hoan hỷ, thấy những người trẻ
tuổi ấy đă cống hiến tánh mạng cho quốc
gia. Kết quả là khi dùng bữa, lúc đó,
họ mới nghĩ: “Lăo ḥa thượng ăn chay, hôm nay
chúng ta mời Ngài, bày biện toàn là những món gà, vịt,
cá, thịt, khiến cho [lăo ḥa thượng] rất khó chịu
đựng”. Kết quả, lăo ḥa thượng đến đó, ngồi xuống: “Không sao đâu! Mọi người ngồi xuống đi”.
Thứ ǵ Ngài cũng đều ăn. Những người
ấy bội phục lăo ḥa thượng năm vóc sát đất,
lăo ḥa thượng tùy duyên. Họ chẳng phải là ác ư, mà
là thiện ư, cũng là do nhất thời sơ ư. Đấy
là ǵ? Đấy là khai duyên, chẳng phải là phá giới, chẳng
phải là phá trai. Lăo ḥa thượng hành xử như vậy,
khi dùng cơm toàn là tṛ chuyện Phật pháp với họ,
toàn là giáo huấn. Hành động ấy khiến cho họ
bội phục, khiến họ cảm kích, sau đấy Ngài dạy
bảo họ, họ mới nghe lọt tai được.
V́ thế, người bạn của tôi nói: “Phật giáo thật
là vĩ đại, thật sự rất tuyệt diệu”.
Đấy là “thiện năng
minh đoán” (khéo có thể phán đoán rơ ràng).
Nếu lúc đó, lăo ḥa thượng trông thấy
[cỗ bàn] liền nói “ta ăn chay, những thứ này không
hợp lẽ”, lập tức rời khỏi, trong ḷng những
người ấy sẽ khó chịu lắm. Lăo ḥa
thượng cũng bỏ sót cơ hội giáo hóa chúng sanh.
Đấy là “thiện năng
minh đoán”, hết thảy đều nhằm lợi
ích chúng sanh, chẳng phải v́ chính ḿnh. V́ lợi ích chúng sanh,
th́ quư vị phải nhận biết, phải nắm bắt
cơ hội tạo lợi ích cho chúng sanh. Có cơ hội ấy
th́ thường là có rất nhiều chuyện khai duyên, chớ
nên không biết điều này. Địa Tạng Bồ
Tát đă nói rất hay: “Ta chẳng
vào địa ngục, ai vào địa ngục”, vào
địa ngục để làm ǵ? Độ chúng sanh, chẳng
phải là Ngài vào địa ngục chịu tội.
Hủy báng Tam Bảo, phê b́nh đúng sai,
đều thuộc về ác pháp. Do vậy, trong Đàn Kinh,
Lục Tổ đă dạy mọi người: “Nếu ai thật tu đạo,
chẳng thấy lỗi thế gian”. Không chỉ là Lục
Tổ nói như vậy, trong kinh Hoa Nghiêm, Văn Thù Bồ
Tát dạy Thiện Tài, bảo Thiện Tài đi tham học,
tham học năm mươi ba lần. Rời khỏi thầy,
thầy là Văn Thù Bồ Tát, ĺa khỏi thầy đi tham
học, thầy dạy bảo Thiện Tài: “Chẳng thấy lỗi của thiện tri thức”,
đặc biệt nhắc nhở Ngài. V́ sao? Có lúc lỗi lầm
của thiện tri thức là giả, chẳng thật. Giống
như vị lăo ḥa thượng mà tôi vừa mới nhắc
đến, người ta mời Sư ăn mặn, Sư
cũng ăn luôn. Có phải là Sư phạm lỗi hay chăng?
Chẳng phải là Sư phạm lỗi, hăy hiểu là Sư
khai duyên, Sư nắm lấy cơ hội ấy để giáo hóa
chúng sanh. V́ những người ấy rất khó tiếp xúc
Phật pháp, chẳng có cơ hội, b́nh thường họ
cũng chẳng tin tưởng. Đến chơi chùa miếu,
tối đa là thắp một nén nhang, như thế là khá
quá rồi! Chẳng biết ǵ về Phật pháp, căn bản
là chẳng tiếp xúc kinh điển. Cơ hội tốt
đẹp, phải nắm bắt! Nhất là dùng
phương tiện thiện xảo như vậy khiến
cho họ bội phục năm vóc sát đất, ác pháp ở
chỗ nào? Nếu chúng ta nói lăo ḥa thượng làm quấy,
chê trách Ngài, chính chúng ta đă sai lầm! Đối với
mọi chuyện đều phải biết luận định
sự ảnh hưởng.
Trong kinh Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo đă nói rất nhiều,
nói rất cặn kẽ, đấy là một thí dụ rất
hay. Hai vị pháp sư giảng kinh, nói chung là giảng rất
khá, pháp duyên hết sức thù thắng, giống như nay
chúng ta nói là “người quy y với họ rất đông,
người cúng dường họ rất nhiều”, chuốc lấy những
kẻ khác cũng là người xuất gia dấy ḷng ganh
tỵ, họ liền bịa chuyện đặt điều,
nói “hai vị pháp sư ấy chỉ biết giảng kinh, là phường phá giới, làm rất nhiều chuyện ác”, tuyên dương
những chuyện đó trong thính chúng. Thính chúng nghe xong liền
khởi tâm hoài nghi, chẳng có tâm tôn trọng pháp sư, cũng
chẳng muốn đến nghe kinh. Về sau, thính chúng ngày
càng ít. Nếu chúng ta hỏi, những pháp sư bịa chuyện
đặt điều ấy có phạm lỗi hay không? Có
phạm lỗi! Đức Phật dạy, họ đọa
địa ngục, [tính theo] thời gian trong nhân gian là một
ngàn tám trăm vạn năm. Phải biết thời gian
trong nhân gian và thời gian trong ngạ quỷ, địa ngục khác nhau. Hiện thời mọi người
đều biết “thời
sai” (時差, chênh lệch thời gian), khác nhau!
Trong địa ngục, họ cảm nhận
chẳng biết là bao nhiêu kiếp! Chúng ta thường nói:
“Khi người đang đau khổ th́ sống một
ngày bằng một năm”. Khi một người đang đau
khổ, sẽ cảm thấy thời gian đặc biệt
dài. Người đang vui sướng, sẽ cảm nhận
thời gian đặc biệt ngắn. Do đó, thời
gian chẳng phải là pháp cố định. Trong kinh,
đức Phật đă dạy, thời gian họ đọa
địa ngục tính theo thời gian trong nhân gian là một
ngàn tám trăm vạn (18.000.000)
năm, đó là ǵ? V́ họ tạo ảnh
hưởng rất lớn, gây ảnh hưởng khiến
cho cơ hội nghe kinh của rất nhiều người
bị đoạn mất, kết tội họ từ chỗ
này. Họ có kết tội với pháp sư hay không? Phải
xét xem, nếu vị pháp sư ấy bị kẻ khác hủy
báng, Ngài chẳng tiếp nhận, nghe xong dường như
chẳng phải là kẻ đó hủy báng ta, mà là kẻ khác
bị hủy báng. Họ chỉ đích danh th́ người
trong thiên hạ trùng tên, trùng họ rất nhiều, làm sao
biết hắn chửi ta cho được? Nếu Ngài
không tiếp nhận, tức là do Ngài không tiếp nhận,
sẽ chẳng có tâm sân khuể, mà cũng chẳng có tâm báo
thù. Coi như chẳng có chuyện ấy, chẳng liên quan
đến pháp sư, sẽ chẳng kết tội với
pháp sư. Kết tội ở chỗ nào? Kết tội với
thính chúng! Trong đại chúng, quư vị đă tạo ảnh
hưởng khiến cho bao nhiêu người chẳng c̣n
nghe Phật pháp nữa, thời gian quư vị ảnh hưởng
dài bao lâu? Kết tội ở chỗ này.
V́ thế, trước kia, nói thật thà, tạo
những tội nghiệp ấy dẫu nặng nề
đến mấy, đều chẳng nặng bằng người
hiện thời tạo tội. V́ sao? Trước kia, tạo
tội rất nặng, quư vị nói là ảnh hưởng
đến rất nhiều người, nghe kinh cũng bất quá là mấy chục người, mấy trăm người
mà thôi. Đạo tràng có đến mấy trăm người
nghe kinh rất khó có. Thời gian ảnh hưởng cũng
không thể rất dài, dài nhất th́ cũng bất quá mấy
tháng, mấy năm, mọi người đều quên hết,
đều phai nhạt. Xưa kia c̣n có trường hợp
nghiêm trọng là nếu viết thành sách để hủy
báng, viết thành văn tự. Nhưng vẫn nhẹ hơn
hiện thời, v́ số lần quư vị in sẽ chẳng nhiều,
cho nên ảnh hưởng vẫn c̣n hữu hạn.
Chuyện này so với ngôn ngữ sẽ có ảnh
hưởng to hơn, v́ quư vị viết thành văn tự.
Ví như quư vị in hai trăm bản, ba trăm bản, chỉ
cần sách của quư vị c̣n một quyển trên thế
gian này, quư vị đọa địa ngục, chẳng rời
khỏi địa ngục, ắt phải cho đến
khi quyển sách ấy biến mất trên thế gian này.
Trước đây, số lượng ấn
loát không nhiều. Xưa kia, toàn là dùng khắc ván để in, rất tốn
công, chi phí cũng cao, chẳng dễ dàng. Quá nửa là ǵ? Chính
ḿnh biên chép. Biên chép th́ hữu hạn, rất khó [biên chép]
nhiều hơn một trăm bản. Nếu cách biệt
chừng mười năm, hai mươi năm, rất dễ
dàng là sẽ chẳng c̣n nữa, chẳng tạo ảnh
hưởng to lớn. Nhưng hiện thời phiền phức
lắm, hiện thời ngành ấn loát tiến bộ, phí tổn
thấp. Nếu chúng ta tạo sách hủy báng Tam Bảo, nếu
in ra mấy ngàn bản, [chẳng hạn] một ngàn bản,
hai ngàn bản, [cho đến] mấy ngàn bản, rất phiền
phức. V́ số lượng lớn như thế, chỉ
cần c̣n có một bản tồn tại trong thế gian này, sẽ
là ǵ? Đấy chính là chứng cớ tội lỗi của
quư vị, quư vị sẽ đọa địa ngục,
chẳng thoát ra được! Quư vị yêu cầu người
khác tiêu hủy giùm quư vị, cầu bằng cách nào đây?
Huống hồ hiện thời c̣n có băng thâu âm, băng
thâu h́nh, CD, nếu quư vị làm rất nhiều để lưu
thông, hủy báng, chuyện này sẽ phiền phức lắm!
Nếu vị pháp sư ấy có ḷng oán hận
quư vị, quư vị phá hoại thính chúng, phá hoại đạo
tràng của ông ta, nếu ông ta ôm ḷng oán
hận, nỗi oán hận ấy sẽ là oan oan tương
báo, chẳng hết, chẳng xong! Nếu đời này quư
vị tu được phước báo, trong tương
lai, khi đang hưởng phước, họ sẽ đến
trả thù, cũng sẽ phá hoại sự nghiệp của quư vị, thậm
chí phá hoại gia đ́nh của quư vị. Quư vị cũng
chẳng cam ḷng, mối oan oan tương báo ấy mỗi
đời một nghiêm trọng hơn! Khi nào quư vị mới
có thể quay đầu? Quay đầu th́ cần phải
có hai bên. Có một bên quay đầu thôi, kể như hết
chuyện, chẳng c̣n báo thù nữa, chịu đựng oan
uổng chi nữa cũng coi như xong, mối nợ ấy
mới thanh toán xong xuôi. Nếu cả hai phía đều chẳng
chịu nín nhịn, Phật cũng chẳng thể giải quyết
chuyện này, chẳng có cách nào điều đ́nh với quư
vị. Quư vị nói xem, phiền phức to cỡ nào?
Tội ấy, một đằng là tánh tội,
trong kinh Phật đă nói rơ ràng. “Tánh
tội” là ǵ? Trái nghịch tự tánh. V́ tự tánh của
quư vị vốn lành. Quư vị thấy Tam Tự Kinh đă
nói: “Nhân chi sơ, tánh bổn
thiện” (Con người thoạt đầu tánh vốn lành). Tạo
tác hết thảy các ác pháp đều là trái nghịch tự tánh. Quư vị
thấy đó, trong kinh đức Phật đă nêu ra mười
thí dụ. Thập Thiện là tự tánh, là cái mà quư vị vốn
sẵn có. Thập Ác là
trái nghịch tự tánh. Hễ trái
nghịch tự tánh th́ gọi là “tánh
tội”, sẽ có tội. Khi quư vị tạo tác tội
ấy, sẽ hứng chịu quả báo. V́ thế, ở đây
nói, quả báo nặng nề như thế nào? Thời gian
dài cỡ nào? Hoàn toàn tùy thuộc sức ảnh hưởng của quư vị,
tức là sức ảnh hưởng của nghiệp Thập Ác [do quư
vị đă tạo]. Phạm
vi ảnh hưởng càng lớn, người
bị ảnh hưởng càng đông, thời gian ảnh hưởng càng dài, tội của quư vị rất nặng, quư vị
chịu khổ cũng
lớn, thời gian quư vị chịu khổ
cũng dài. Đạo lư là như thế đó! Phạm vi ảnh hưởng rất nhỏ, thời gian ảnh
hưởng rất ngắn, th́ thời gian chịu khổ
của quư vị sẽ ngắn, chịu khổ cũng nhẹ!
Đấy chính là “thiện
năng minh đoán” (khéo có thể phán đoán sáng suốt).
Ác là như thế, mà thiện cũng là như
thế, chúng ta phải hiểu rơ ràng điều này! Thiện
pháp là ǵ? Thiện pháp là tuyên dương Phật pháp, tuyên
dương hết thảy các thiện pháp thế gian. Phổ
Hiền Bồ Tát dạy chúng ta, “lễ
kính chư Phật, xưng tán Như Lai”, phải hiểu
câu này. Như Lai là ǵ? Như Lai là Tánh Đức. Hễ tương
ứng với Tánh Đức th́ nhất định phải
xưng tán (稱讚, ca ngợi).
Thập Thiện tương ứng với Tánh Đức,
phải xưng tán. Người này chẳng sát sanh, không trộm
cắp, không tà dâm, chẳng nói dối, chẳng nói đôi
chiều, chẳng nói lời thô ác, chẳng nói thêu dệt,
chẳng tham, chẳng sân, chẳng si th́ phải tán dương,
thời thời khắc khắc phải biểu
dương kẻ ấy, nhằm ảnh hưởng
người khác. Người khác sau khi nghe thấy, [sẽ
nghĩ] kẻ ấy là thiện nhân, nghe xong trong tâm rất
hoan hỷ, cảm động, nhất định sẽ học
tập theo kẻ ấy. V́ sao người ta khởi tâm
động niệm, ngôn ngữ, tạo tác có thể tương
ứng với Tánh Đức, có thể phát huy rạng rỡ Tánh Đức?
Đấy là chuyện tốt đẹp! Sau khi chúng ta
đă thấy, chớ nên ganh tỵ, phải tán thán! Tán thán có
ảnh hưởng to lớn, người bị ảnh
hưởng rất nhiều, phước báo của quư vị
sẽ to lớn, thời gian ảnh
hưởng rất dài lâu, thời gian quư vị hưởng
phước cũng sẽ rất dài lâu, đạo lư như thế đó!
Nay chúng ta thấy người khác làm lành, hăy toàn
tâm toàn lực khuếch đại việc lành ấy. Tôi xem sáu đĩa CD của bộ Sơn Tây Tiểu
Viện, cũng rất cảm động. Tôi cảm động
sâu đậm hơn người khác, do đạo lư nào? Ba
mươi năm trước, lần đầu tiên tôi
đến Hương Cảng giảng kinh, thấy trong thư
viện của pháp sư Sướng Hoài lưu trữ kinh
luận và thiện thư của Hoằng Hóa Xă do Ấn
Quang đại sư xuất bản, mới biết lăo pháp
sư suốt đời làm chuyện tốt đẹp ấy,
Pháp Bố Thí! Suốt đời làm một chuyện ấy,
mười phương cúng dường thảy đều
dùng để in kinh. V́ thế, chính Ngài có Hoằng Hóa Xă ở
chùa Báo Quốc tại Tô Châu. Tôi xem những
sách ấy, phát hiện:
Trong cả một đời, vị
lăo pháp sư ấy đă in Liễu Phàm Tứ Huấn, in Cảm
Ứng Thiên Vựng Biên, in An Sĩ Toàn Thư với phân
lượng lớn nhất. Từ trang bản quyền, tôi
tính toán đại lược th́ thấy số lượng bản in của
ba loại sách ấy đại khái
gần ba trăm
vạn bản, tôi rất rúng động.
Ba thứ ấy chẳng phải là kinh điển Phật
giáo, v́ sao in lắm như vậy?
Hằng ngày, tôi ghim điều nghi vấn ấy
trong ḷng, v́ sao Ngài làm kiểu ấy? Sau hai, ba tuần,
tôi mới hiểu rơ một chút, lănh hội tấm ḷng từ
bi cứu đời của lăo pháp sư. Thế giới đă loạn, dùng Nho để dạy, hoặc dùng Phật pháp
để dạy, sẽ chẳng kịp! Trong xă hội hiện
thời, chẳng có ai tin tưởng Nho và Phật. Dùng biện
pháp ǵ để giúp đỡ họ? Nhân quả! Ba thứ
ấy đều là nhân quả. Nếu dùng nhân quả báo ứng
để dạy dỗ, họ nghe xong sẽ có thể thật
sự hiểu rơ, khởi tâm động niệm tự
nhiên sẽ có thể kiềm chế chính ḿnh. V́ sao? Làm ác sẽ
mắc ác báo, làm lành sẽ có quả lành! Như thế th́ mới giúp cho mọi người đoạn
ác tu thiện, tránh dữ, hướng lành, tôi lănh hội ư tưởng của lăo pháp sư. Do vậy, thuở ấy,
sau khi quay về Đài Loan, tôi cũng lưu thông [những
tác phẩm ấy] với số lượng lớn. Ngay lập
tức in năm vạn bộ. Ba loại sách ấy tính gộp
chung là năm vạn bộ, lại c̣n bắt đầu đi
giảng khắp nơi.
Tôi xem Sơn Tây Tiểu Viện, do nỗi cảm
xúc về sự giáo dục nhân quả cứu đời của tổ Ấn Quang, tôi hiểu đạo lư sau đây: Sơn Tây Tiểu Viện chính
là nhân quả báo ứng. C̣n có bộ V́ Sao Chẳng Thể Ăn
Chúng Nó hay lắm! C̣n hay hơn ba thứ do pháp sư Ấn
Quang đề xướng. V́ sao? Đây là chuyện trong hiện
tiền. Liễu Phàm Tứ Huấn là chuyện của người
sống vào đời Minh, cách hiện thời năm trăm
năm, chưa chắc người ta đă tin là thật!
Chuyện trong Cảm Ứng Thiên càng xa hơn nữa; v́ thế,
nhân quả báo ứng trước mắt sẽ tốt hơn
bất cứ thứ ǵ khác. Những người ấy
đều c̣n sống, [tức là] bốn mươi người
[được nhắc tới] trong bộ Sơn Tây Tiểu
Viện nay đều c̣n sống, quư vị có thể đến
đó phỏng vấn. Nhân quả sống sờ sờ bày ra trước mặt chúng ta, ta hăy coi nó như là tài
liệu giảng dạy về giáo dục nhân quả do tổ
Ấn Quang đề xướng. Đấy là tài liệu
giảng dạy tốt nhất trong hiện tiền, chắc
chắn sẽ có ảnh hưởng vượt trỗi ba
loại sách của tổ Ấn Quang. V́ thế, chúng ta phải
dốc hết sức tuyên dương, dốc hết sức
tán thán. Người biết đến càng đông càng hay, phước
báo càng to. Thời gian lưu truyền càng dài, thời gian
hưởng phước của quư vị cũng càng dài. Chư
vị phải hiểu đạo lư như thế đó.
V́ thế, bậc trưởng giả thật
sự sẽ có thể “thiện
năng minh đoán”. Năm 1977, tôi giảng kinh ở Hương
Cảng, trong thính chúng có không ít pháp sư, có đến
mười mấy vị. Hiện thời, hai phần ba [các
vị ấy] đă đều qua đời, đều đă
văng sanh; trong số đó, c̣n có những vị trẻ tuổi,
bốn, năm mươi tuổi đă ra đi. Tôi nhớ
năm tôi đến nơi đây giảng kinh, dường
như tôi bốn mươi chín tuổi, đă ba mươi
năm rồi! Có một vị trưởng giả là pháp
sư Thánh Nhất, Ngài cũng là thính chúng. Vị thính chúng này
chẳng giống những vị thính chúng khác. Những vị
pháp sư khác nghe kinh cũng rất tán thán, cũng rất hoan
hỷ, nhưng pháp sư Thánh Nhất nghe xong bèn khuyên tín
đồ của Ngài phải tới thư viện nghe giảng
kinh. Khi đó, chúng tôi giảng tại Trung Hoa Phật Giáo Đồ
Thư Quán (thư viện Phật
giáo Trung Hoa) trên phố Giới Hạn (Boundary Street). Chỉ có ḿnh Ngài bảo tín đồ: “Hễ có thời
gian, nhất định phải đến nghe”. Có đồng
học kể cho tôi nghe, tôi biết chuyện rất cảm
động! Bản thân pháp sư Thánh Nhất cũng là một
pháp sư giảng kinh, đúng như cổ nhân đă nói: “Nhược yếu Phật pháp
hưng, duy hữu Tăng tán Tăng” (Nếu muốn cho
Phật pháp hưng thịnh, chỉ có Tăng khen ngợi Tăng).
Tán thán mà có thể đối trước tín đồ tán thán,
sẽ có công đức lớn nhất! Khiến cho tín
đồ của Ngài đến đạo tràng làm Ảnh
Hưởng Chúng, đương nhiên là tôi cũng hết sức
tôn kính pháp sư Thánh Nhất. Ngài mời tôi đến thăm
đạo tràng của Ngài, giảng khai thị cho các học
tṛ trong Thiền Đường của Ngài. Trong đời
tôi, trông thấy một đạo tràng tu hành đúng pháp là
chùa Bảo Lâm thời ấy, tức đạo tràng của
pháp sư Thánh Nhất. Đó là đạo tràng Thiền Tông,
hằng ngày vẫn có thời gian nhất định để
tọa hương, tham Thiền. Năm ấy, tôi giảng
kinh Lăng Nghiêm tại nơi đây!
Thiện th́ phải tán dương, ác đừng
nên nhớ, chớ nên ghim trong ḷng, đấy là chánh xác.
Thường xuyên ghi nhớ điều ác, sai mất rồi!
Một kẻ thông minh, kẻ có trí huệ, quư vị hăy ngẫm
xem, làm sao có thể chịu
dùng lương tâm xét theo bản tánh vốn
lành của chính ḿnh như thùng rác để chứa đựng
tội ác của người khác cho được? Há chẳng
phải là sai lầm đặc biệt to lớn ư?
Người thông minh phải ghim thiện hạnh, thiện
sự của người khác trong tâm của chính ḿnh, khiến
cho tâm t́nh của chính ḿnh thuần tịnh, thuần thiện.
Trong kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, đức Phật
đă dạy chúng ta rất hay. Chúng ta chẳng thể nhớ hết toàn bộ bản kinh, nhưng mấy câu sau đây nhất định phải
ghi nhớ. Nhớ mấy câu ấy, tinh hoa của toàn thể
bản kinh đều được bao gồm. Đấy là đức
Phật dạy long vương: “Bồ
Tát có một pháp có thể đoạn hết thảy nỗi
khổ trong các ác đạo”. Tuyệt vời thay, có thể
đoạn hết thảy các nỗi khổ trong ác đạo.
Pháp ấy chính là ǵ? “Thường
niệm thiện pháp” (Thường nghĩ đến pháp
lành). “Thiện pháp” là Thập
Thiện Nghiệp, thiện tâm, tâm quư vị luôn là thiện.
“Tư duy thiện pháp”, tư
tưởng thiện. “Quan sát
thiện pháp”, hành vi thiện. Đó gọi là “thiện pháp niệm niệm tăng
trưởng”, “chẳng dung
mảy may bất thiện xen tạp”. Người ấy
là ai? Người ấy chính là Bồ Tát!
Há có nên ghim điều bất thiện của
kẻ khác trong tâm ta, ghim trong tư tưởng của ta,
ghim nơi miệng ta? Đấy là sai lầm đặc biệt
to tát! Dẫu kẻ khác bất hảo đến mấy đi
nữa, chúng ta trọn chẳng quan tâm, nh́n mà chẳng thấy,
nghe mà chẳng lọt tai, mà cũng chắc chắn là chẳng
ghim trong ḷng! V́ ghim trong ḷng chính là đă xen tạp bất
thiện, sai mất rồi, làm sao chúng ta có thể thành tựu
trong một đời này cho được? Muốn thành tựu,
nhất định phải y giáo phụng hành, chính ḿnh phải “thiện năng minh đoán, bất
hành ác pháp” (khéo có thể phán đoán sáng suốt, chẳng
hành ác pháp). Có cơ sở như vậy, bất luận tu
pháp nhân thiên trong thế gian, hay tu pháp tam thừa xuất thế
gian, chẳng có ai không thành tựu; đấy mới là một
vị trưởng giả thật sự. Hy vọng các
đồng học chúng ta phải ghi nhớ, phải có thể
biện định, trong cuộc sống và công việc, xử
sự, đăi người tiếp vật, phải
tiếp nhận hết thảy các điều thiện, cự
tuyệt hết thảy các điều ác của người
khác. Hết thảy các điều ác chúng ta chớ nên ghim
trong ḷng, trong tâm nhất định phải ghim giữ hết
thảy thiện pháp, đấy là đúng. Nay thời gian đă
hết rồi, chúng tôi nói tới chỗ này!
***
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Chúng ta xem tiếp bài kệ
cuối cùng trong tiểu đoạn này, bài kệ thứ
hai mươi bốn:
(Kinh) Nhược kiến đại thần, đương
nguyện chúng sanh, hằng thủ chánh niệm, tập hành
chúng thiện.
(經)若見大臣。當願眾生。恆守正念。習行眾善。
(Kinh: Nếu thấy đại thần, nguyện
cho chúng sanh, luôn giữ chánh niệm, tu tập các thiện).
Trong phần Chú Giải, Thanh Lương đại
sư đă nói:
(Sớ) Thủ vương chánh pháp, thỉ viết
đại thần.
(疏)守王正法,始曰大臣。
(Sớ:
Giữ chánh pháp của vua th́ mới gọi là “đại
thần”).
Nói theo thuật ngữ hiện thời, “đại thần” (大臣) là người
được phân công quản lư một phần sự vụ
trong cả nước. Chẳng hạn như các Bộ
Trưởng trong Quốc Vụ Viện[5] đều
là đại thần. Bộ Nội Chánh cai quản việc
nội chánh, cai quản cả nước. Bộ Giáo Dục
cai quản chuyện giáo dục, bộ Tài Chánh quản lư tài
chánh, bộ Ngoại Giao trông việc ngoại giao. Quản lư
tôn giáo trong cả nước tuy là cục tôn giáo, nhưng người
ấy (cục trưởng cục tôn giáo) cũng là đại
thần, v́ sao? Ông ta quản trị cả nước.
Điều quan trọng nhất của đại thần
là “thủ vương chánh pháp” (giữ chánh pháp của
vua). “Vương” là quốc
gia, [“vương chánh pháp”] là
hiến pháp của quốc gia. Hiến pháp là căn bản
đại pháp, nhất định phải tuân thủ. Quốc
gia có “thiện chánh” (善政, sự
cai trị tốt lành), sẽ lợi ích nhân dân, lợi ích
thế giới. Như trong hiện thời, người lănh
đạo đất nước Trung Hoa đă đề
ra tổng phương hướng và tổng nguyên tắc “xă hội hài ḥa, thế giới hài
ḥa”. Cục trưởng cục tôn giáo quốc gia là đại
thần, tháng trước đă tổ chức luận đàn
Phật Giáo Thế Giới tại Hàng Châu, đấy là “thiện chánh”. Không chỉ là thúc đẩy tiến hành “thiện
chánh” trong toàn quốc, mà c̣n ảnh hưởng
cả thế giới. Kế đó, chúng tôi lại nghe nói
nước nhà sắp chánh thức mở trường
đại học Phật giáo, đều là chuyện tốt.
Quốc gia thừa nhận năm tôn giáo. Tôn giáo được quốc gia thừa nhận th́ nhất định là “thiện giáo”.
Trung Hoa từ xưa tới nay, ai nấy
đều biết, đối với giáo dục tôn giáo,
chúng ta có thể nói hoàng đế Ung Chánh là một tấm
gương tốt nhất. Nay chúng ta nói “đa
nguyên văn hóa, tôn giáo một nhà”, thỉ tổ của đa nguyên văn hóa phải
là hoàng đế Ung Chánh. Thuở ấy, nhà vua đă nói “tam giáo là một nhà”, mà Trung
Hoa từ hơn hai ngàn năm qua, một mực tiếp nhận
sự giáo dục của tam giáo, tức Nho, Thích, Đạo.
Hán Vũ Đế
coi giáo dục Nho gia như nền
giáo dục chánh quy của nước nhà để dạy dỗ nhân
dân. Do vậy, học thuyết Khổng Mạnh ảnh
hưởng Trung Hoa hai ngàn năm. Măi cho đến hiện
thời, tuy đă suy vi so với quá khứ, nhưng dường
như trong mấy năm gần đây, lại có dấu hiệu
hưng khởi. Đạo và Phật bổ trợ cho nền
giáo học của Nho gia. Trọng điểm trong giáo học
Nho gia là luân lư, đạo đức, và tài nghệ.
Sự bổ sung
quan trọng nhất của giáo
dục Đạo gia là nhân quả. Sự bổ sung rơ rệt nhất của
giáo dục nhà Phật là trí huệ!
Chư vị phải biết, Phật pháp theo
đuổi trí huệ cao nhất, trí huệ rốt ráo viên măn
nhất. Trong kinh Phật, có một thuật ngữ là A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Anuttarā-samyak-saṃbodhi). Từ ngữ này có thể dịch được, v́ sao không
dịch? Đó là do “tôn trọng
bất phiên” (v́ tôn trọng nên không dịch ra). Tổng phương
hướng, tổng mục tiêu của giáo dục nhà Phật,
bất luận là Đại Thừa, Tiểu Thừa, Hiển
giáo, Mật giáo, Tông Môn, hay Giáo Hạ, đều lấy điều
này làm mục tiêu. Trong nghĩa tiếng Hán, câu này có nghĩa
là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; do vậy, điều này là mục tiêu. Câu Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác có ba giai đoạn, tức là Chánh Giác,
Chánh Đẳng Chánh Giác và Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, ba giai đoạn ấy. Đối với Chánh
Giác, người đắc Chánh Giác được nhà Phật gọi là A La Hán. Người đắc Chánh Đẳng Chánh Giác
được gọi là Bồ Tát. Lại cao hơn
nữa là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chính là Phật,
chúng ta phải biết điều này!
Tuy chúng ta mới học kinh Hoa Nghiêm đến
phẩm mười một, nhưng chúng ta cũng đă học
tập hơn ba ngàn giờ, ít nhiều th́ cũng dần dần
hiểu rơ đại
ư, kinh Hoa Nghiêm là trí huệ! Kinh Hoa
Nghiêm cho biết điều kiện của Chánh Giác là ǵ? Chính
là buông xuống sự chấp trước của chúng ta đối
với các pháp thế gian và xuất thế gian, hết thảy
người, hết thảy sự, hết thảy vật.
Hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian chẳng
ra ngoài ba loại lớn là người, sự, vật. Vĩnh viễn chẳng c̣n chấp trước nữa, người ấy là Chánh Giác. Nói cách khác, hễ c̣n
có chấp trước, chẳng được coi là Chánh
Giác. Có được coi là giác hay không? Giác chứ, nhưng
chẳng thể coi là Chánh Giác. Đối với chiêu bài chữ
Chánh của nhà Phật th́ có điều kiện, tức là
chẳng chấp trước hết thảy các pháp th́ mới
coi là Chánh Giác. Tuy giác, quư vị thấy các nhà khoa học hiện
thời giác ngộ, các nhà triết học cũng giác, thật
sự có trí huệ, rất nhiều nhà tôn giáo cũng giác! Nói
theo Phật pháp, th́ đối với Bà La Môn giáo, chuyện
này được nói trong kinh điển, công phu Thiền Định
của họ có thể đột phá các chiều không gian và
thời gian, có thể đích thân trông thấy trạng huống
luân hồi trong lục đạo, trên là đến hai
mươi tám tầng trời, dưới là đến địa
ngục A Tỳ, rành mạch, rơ ràng, giác đấy chứ!
Nhưng họ chẳng buông xuống chấp trước;
do đó, chẳng thể xưng là A La Hán.
Giác trong Phật pháp là phải đoạn phiền
năo, có nghĩa là giác vốn sẵn có trong tự tánh. Đức
Phật dạy: “Hết thảy
chúng sanh đều có Phật Tánh”. Phật Tánh là tự tánh. Trong tự
tánh có trí huệ viên măn, có đức năng viên măn, có
tướng hảo viên măn, hết thảy trọn đủ.
V́ sao quư vị đánh mất vô lượng vô biên đức
tướng trong tự tánh, hiện thời biến thành nông
nỗi này? V́ quư vị đă dấy lên vô minh, Trần Sa, Kiến
Tư phiền năo, kinh Hoa Nghiêm nói là “vọng tưởng, phân biệt, chấp trước”.
Quư vị dấy lên những thứ ấy, vô lượng
vô biên đức năng trong tự tánh bị mất đi.
“Mất đi” chẳng phải
là thật sự mất hẳn, nhà Phật nói là “mê mất”. Quư vị đă mê th́
chẳng nhận biết, cho nên nói là “mê mất”. Khi nào th́ quư vị mới có thể giác
ngộ? Hễ quư vị buông xuống vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước th́ sẽ liền khôi phục.
Trí huệ khôi phục, đức năng khôi phục, tướng
hảo khôi phục; người thế gian chúng ta gọi
tướng hảo là “phước
báo”. Chúng sẽ khôi phục.
Do vậy, nhà Phật trừ khử những
chướng ngại ấy, trừ khử tập khí phiền
năo, lấy đó làm mục tiêu. Tất cả công phu tu hành
đều khẳng định ở chỗ này, trọn chẳng phải nói là quư vị đọc bao nhiêu sách,
quư vị ghi nhớ bao nhiêu! Chẳng phải là những điều
ấy, tuyệt đối chẳng phải là cái học kư
vấn (記問, học
do hỏi han, ghi nhớ), mà là hoàn toàn phải khôi phục Tánh
Đức, chớ nên không biết chuyện này! V́ sao phàm
phu chẳng thành Phật? Do chẳng buông xuống được!
V́ sao Bồ Tát có thể thành Phật? Chẳng có chi khác, chính
là do có thể buông xuống. V́ thế, buông xuống chấp
trước bèn chứng A La Hán, tức Chánh Giác. Lại buông
xuống phân biệt, sẽ là Chánh Đẳng Chánh Giác, quư
vị là Bồ Tát. Lại buông xuống vọng tưởng,
vọng tưởng là khởi tâm động niệm, buông
xuống thứ này, quư vị là Phật. Đấy thật
sự là Phật pháp thuần chân vô vọng, là Phật pháp
viên măn rốt ráo! Đức Phật bảo, đối với
thế giới bên ngoài, nếu quư vị buông xuống chấp
trước, sẽ thành Chánh Giác, chứng quả A La Hán, lục
đạo luân hồi sẽ chẳng có, sẽ vượt
thoát lục đạo. Buông xuống phân biệt, chứng Chánh
Đẳng Chánh Giác, mười pháp giới sẽ chẳng
có. Nếu đối với hết thảy các pháp chẳng
khởi tâm, không động niệm, tức là buông xuống
vọng tưởng, sẽ chứng Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác, quư vị bèn trở về Nhất Chân pháp giới.
Trong kinh Hoa Nghiêm, người trở lại
Nhất Chân pháp giới là ai? Phật, người ấy là
Phật! Kinh Hoa Nghiêm nói Sơ Trụ Bồ Tát, Sơ Trụ Bồ Tát thành Phật,
phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, là
chân Phật, chẳng phải là giả Phật. Ngài ứng
hóa trong mười pháp giới. Chúng sanh có cảm, Ngài bèn ứng:
Đáng nên dùng thân Phật để đắc độ, bèn
hiện thân Phật. Đáng nên dùng thân Bồ Tát đắc
độ, bèn hiện thân Bồ Tát. Đáng nên dùng thân Thanh
Văn để đắc độ, bèn hiện thân Thanh
Văn. Chẳng có thân tướng, có thể thuận theo cái
tâm của chúng sanh để ứng với khả năng
nhận biết của họ. V́ thế, Phật, Bồ
Tát thị hiện h́nh tướng chẳng do ư nghĩ của
Phật, Bồ Tát, mà là ǵ? Do tâm chúng sanh biến hiện,
đúng như kinh Đại Thừa thường nói: “Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng”. Tướng của Phật, Bồ Tát cũng
sanh từ tâm tưởng của chúng ta, hay khéo đến
cùng cực! Chư vị phải biết Phật chẳng
có tướng, Bồ Tát cũng chẳng có tướng, A
La Hán cũng chẳng có tướng. V́ sao? Trong kinh Kim Cang
đă có dạy: “Vô ngă tướng,
vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả
tướng”. Bốn tướng ấy đều đă phá, phá bằng
cách nào? Buông xuống! Nay v́ sao chúng ta chẳng thể phá
được? Chúng ta chấp trước, có ngă tướng,
có nhân tướng, có chúng sanh tướng, có thọ giả
tướng, đấy là lục đạo phàm phu. Nếu
quư vị buông xuống những chấp trước ấy,
sẽ là A La Hán. Nếu tiến cao hơn một bước,
ngă kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến
chính là phân biệt. Buông xuống phân biệt th́ là Bồ
Tát. Chuyện này quan trọng hơn bất cứ thứ ǵ
khác. Chớ nên không hiểu rơ ràng, chớ nên không minh bạch.
Quư vị tu ǵ? Chính là tu những thứ ấy.
V́ thế, tôi cảm kích thầy tôi. Ngày đầu tiên gặp
mặt, thầy đă dạy tôi phương pháp tu hành: “Thấy thấu suốt, buông xuống
được”. Buông xuống Kiến Tư phiền
năo, buông xuống chấp trước, sẽ thành
Chánh Giác, chứng quả A La Hán. Vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước thảy đều buông xuống, sẽ thành
Phật. Phàm phu thành Phật ngay trong một niệm. Quư vị
thật sự buông xuống ư niệm, sẽ ngay lập tức
thành Phật, thật ư? Thật đấy! Quư vị có
thấy hay chăng? Huệ Năng đại sư như trong
Đàn Kinh đă ghi chép là một thí dụ tốt đẹp.
Ngài gặp Ngũ Tổ [lúc Ngài mới] hai
mươi bốn tuổi. Ngũ Tổ giảng kinh Kim
Cang cho Huệ Năng nghe, đại khái là giảng được
một phần ba, Tổ nói đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (chớ nên
trụ vào nơi đâu để sanh khởi cái tâm), ngài Huệ
Năng đă triệt để buông xuống. Vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước thảy đều buông xuống,
vừa buông xuống liền thành Phật. Do vậy, Ngũ
Tổ truyền y bát cho Ngài. V́ sao Ngũ Tổ không truyền
y bát cho Thần Tú? Thần Tú chẳng buông xuống! Thần
Tú vẫn là “thân thị Bồ
Đề thụ, tâm như minh kính đài, thời thời
cần phất thức, vật sử nhạ trần ai” (thân là cội Bồ Đề, tâm như đài gương
sáng, luôn luôn siêng quét dọn, chớ để bám bụi trần), chẳng buông xuống! Huệ Năng đại sư đă buông xuống.
Nay chúng ta thật sự mong thành tựu, chẳng có ǵ khác!
Nếu quư vị không chịu buông xuống, dẫu quư vị
tu hành ba trăm năm, vẫn là phàm phu! Dẫu tu ba
đại A-tăng-kỳ kiếp, vẫn là phàm phu. Do đó,
nếu muốn thật sự thành tựu, chẳng thể
không buông xuống!
Đại thần có sức ảnh hưởng
rất to. Ông ta muốn làm ác hay làm lành, đúng là dễ như
lật bàn tay! Quư vị xem Liễu Phàm Tứ Huấn,
khi tiên sinh Liễu Phàm c̣n đang là Tú Tài, phát nguyện làm ba
ngàn việc thiện, mười năm mới viên măn! Sau đấy,
ông ta làm Tri Huyện của huyện Bảo Tŕ, tức huyện
trưởng như trong hiện thời, phát nguyện mong
làm một vạn điều thiện, do một ư niệm
bèn viên măn. Đấy là ǵ? Ông ta có quyền. Việc thiện
của ông ta là ǵ? Giảm tô! Nông dân huyện Bảo Tŕ phải
nộp tô rất nặng. Ông cho giảm một nửa, nông
dân trong cả huyện đều được lợi ích,
đều có lợi, mà nông dân trong huyện không phải chỉ
là một vạn người. Quư vị thấy do một mạng lệnh, một văn kiện mà một vạn
điều thiện được viên măn. Nếu ông ta chẳng
làm Tri Huyện, có thể là một vạn thiện sự ông
ta làm suốt đời không xong! Quư vị thấy, mở
đầu là ba ngàn việc thiện, mười năm mới
hoàn thành. Lần thứ hai, lại hứa nguyện, làm ba
ngàn điều thiện để cầu công danh, cả nhà
cùng nhau làm, bốn năm hoàn thành. Có lúc một ngày làm
được mười mấy việc thiện. Chẳng
có ngày nào không hành thiện sự! V́ thế, đại thần
muốn làm th́ quá đơn giản. Một chánh sách, một động
tác của ông ta là thiện, sẽ ảnh hưởng cả
nước. Quư vị nói xem, chuyện này dễ dàng lắm
hay không? Nếu tạo ác th́ cũng là như thế,
cũng to tát ngần ấy. Một chánh sách bất thiện,
người trong cả nước đều mắc hại,
tội lỗi to lớn. Chúng ta chớ nên không biết điều
này!
Trước kia, đối với người
đọc sách, đường tiến thân duy nhất của
người đọc sách là làm quan. Người thật sự
có đức hạnh, làm quan nhằm mục đích nào? Tích
đức tu thiện dễ dàng! Tại Trung Hoa, nhân vật
điển h́nh được Ấn Quang đại sư
luôn tán thán, tôn sùng là tiên sinh Phạm Trọng Yêm. Ông ta là người
đời Tống, làm đến Tể Tướng, làm
nguyên soái, hằng ngày làm việc thiện, ảnh hưởng
quá to lớn. Măi cho đến hiện thời, gia đạo
[họ Phạm] chẳng suy, đời đời đều
có hiền nhân, tổ tông có đức. Đức là ǵ? Giáo
hóa. Đối với giáo huấn của tổ tông, người
đời sau đời đời kiếp kiếp đều
có thể tuân thủ,
hành theo. Từ chỗ này, chúng ta có thể
lănh hội giáo dục. Trong giáo dục, quan trọng nhất
là gia giáo. Trong gia giáo, quan trọng nhất là thân giáo, [tức
là] tự ḿnh lấy thân làm gương, con cái của quư vị
nh́n vào, đều học theo. Con cái làm giống như quư vị, thế
hệ con cháu kế đó sẽ học theo, đời
đời kiếp kiếp đều tuân theo, chẳng dám biến đổi. V́ thế, đấy là một tấm gương tốt
nhất cho hàng đại thần, niệm nào cũng v́
nước nhà mà suy nghĩ, nghĩ đến nhân dân, chẳng
có niệm nào v́ chính ḿnh!
Nói thật ra, Phạm Trọng Yêm là người
thiện căn sâu dầy, nhà cửa chẳng giàu có, cũng
rất nghèo nàn, là chàng tú tài nghèo kiết xác! Thuở niên thiếu,
ông gặp một thầy bói, mấy người [bạn học]
cùng nhau kiếm một thầy bói để tiên đoán số mạng. Trọng Yêm hỏi thầy bói: “Thầy hăy tính xem,
trong tương lai, tôi có thể làm Tể Tướng hay
không?” Thầy bói nghe xong
cười rộ: “Khẩu khí của
anh thật chẳng nhỏ!” Bị thầy tướng số
cười, Trọng Yêm lập tức sửa giọng, hỏi: “Vậy th́ thầy tính giùm tôi, tôi có thể
làm thầy thuốc hay không?” Thầy bói cảm thấy rất
lạ lùng: “Sao anh lại từ Tể Tướng ngay lập tức rơi tuột xuống thành thầy lang, nghĩa là
sao?” Ông ta bèn thưa: “Chỉ có Tể Tướng và thầy
lang là có thể cứu người khác”. Thầy bói nghe
xong, đáp: “Anh là một vị Tể Tướng thật
sự”, bị cảm động hết sức. Do đó,
có thể biết, [Phạm Trọng Yêm] từ thuở bé đă
khởi tâm động niệm lợi ích chúng sanh, chẳng
v́ chính ḿnh. Về sau, ông ta thật sự làm Tể Tướng,
là tấm gương cho những vị đại thần.
Cứu quốc gia, cứu dân tộc, hiện thời nói “cứu
toàn thể thế giới”, cần nhờ vào ǵ? Kinh tế,
công thương nghiệp, khoa học kỹ thuật có được
hay chăng? Hiện thời, liều mạng phát triển
theo các phương hướng ấy, khiến cho toàn cầu
rối động, bất an. Đại thần có tầm
nh́n xa, có trí huệ, sẽ thấy rơ ràng.
Ba mươi năm trước, tiến sĩ
Thang Ân Tỷ (Toynbee) đă có nói, ông nói câu ấy chẳng
bao lâu bèn qua đời. Khi đó, ông đă tám mươi
lăm tuổi, h́nh như ông ta qua đời lúc tám
mươi sáu tuổi. Ông nói “khoa
học kỹ thuật hiện thời đă đạt
đến tột đỉnh”, chẳng biết ba
mươi năm sau, khoa học kỹ thuật tăng tấn
mạnh mẽ; nhưng ông đă nói một câu: “Mỗi lần tiến bộ
đều phải trả giá đau đớn, thê thảm!”
Sáng hôm nay, có một đồng học kể với tôi, người
phát minh cell phone (hiện thời mọi người đều
dùng cell phone) đă nghiêm trọng cảnh cáo: Thường
mang cell phone trên người, thường xuyên sử dụng nó, sẽ hết
sức bất lợi cho sức khỏe. Thường xuyên
dùng cell phone, năm năm th́ toàn thể thần kinh sẽ
bị tê liệt, lại c̣n dễ dẫn đến bệnh
ung thư. Ông ta khuyên tốt nhất là đừng đeo trên
người. Phụ nữ đựng trong bóp xách tay, nam giới
th́ tốt nhất là
đặt trong túi đựng hồ
sơ, đừng đeo trên người. Thứ này phát sóng
rất mạnh, thường xuyên đeo trên người sẽ
quấy nhiễu nội tạng của quư vị. Đă thế,
tốt nhất là đừng sử dụng hơn một
phút. Đúng là khi bất đắc dĩ, quư vị mới
sử dụng nó. Lâu hơn một phút, sẽ gây tổn thương
cho tế bào nơi thân quư vị. Tôi cảm thấy đó là
lương tâm của người sáng chế cell phone đă
phát hiện!
Quư vị thấy, đó là khoa học tiến
bộ, chúng ta nghĩ đến lời tiến sĩ Thang
Ân Tỷ đă nói: “Trả giá
đớn đau, thê thảm”. Kẻ thường dùng
cell phone đoản mạng! Lẽ ra quư vị vốn có thể
sống đến chín mươi tuổi, có thể là sáu mươi
tuổi quư vị đă xong đời, phải trả giá bằng
ba mươi năm sanh mạng, cái được chẳng
bù nổi cái mất! Bởi lẽ, đối với mỗi thứ
được phát minh trong hiện thời, nhân loại
đều phải trả giá bằng sự hy sinh đau
đớn, thê thảm. Giống như hiện thời công
nghiệp phát triển, không khí bị ô nhiễm khiến cho con người
chẳng trông thấy trời xanh, mây trắng. Hằng ngày
sống trong bầu không khí ô nhiễm, thảy đều bị
giảm thiểu thọ mạng, đó là cội nguồn đem
lại bệnh tật nghiêm trọng. Có thể giải quyết
vấn đề này hay không? [Các
thứ phát minh trong hiện thời] tạo ra vấn đề! Công thương nghiệp, khoa học kỹ thuật
hằng ngày tạo ra vấn đề cho nhân loại. Tạo ra những vấn đề ǵ vậy? Tạo
thành vấn đề thúc đẩy chuyện tận thế
xảy đến nhanh hơn, những điều này toàn là
do các nhà khoa học nói, do tiến sĩ Thang Ân Tỷ nói, nhân
loại trên địa cầu sẽ bị tiêu diệt hoàn
toàn, phải trả bằng cái giá ấy! V́ thế, đấy
chẳng phải là thiện, mà là ác. Người hiện thời
coi ác là thiện, coi thiện là ác, điên đảo! Người
có đại trí huệ mới có thể nh́n ra, mới có thể
thấy rơ ràng, minh bạch! Thật sự thiện là ǵ? Giáo
dục. Nội dung của giáo dục là ǵ? Luân lư, đạo
đức, nhân quả, trí huệ. Đấy là chân thiện,
đấy là thuần thiện.
Người trong quá khứ làm như vậy,
họ sống trong chân thiện và thuần thiện. Trong ấy
có chân lạc, có sự hưởng thụ chân thật. Một
người làm th́ một người đạt được,
hai người làm th́ hai người đạt được.
Người một nhà làm th́ người một nhà đạt
được. Người trong một nước làm
được th́ người trong một nước đạt
được. Các đồng học mỗi ngày đến
nghe kinh Hoa Nghiêm, v́ sao phải đến nghe? Thiện pháp. Xác
thực là từng câu từng chữ của Hoa Nghiêm đều
trọn đủ luân lư, đạo đức, nhân quả,
trí huệ. Có đồng học đă nói với tôi, nghe
kinh hữu dụng lắm! Có thể dùng vào cuộc sống
hằng ngày, có thể dùng trong công việc, rất có thọ
dụng! Thật sự có thể thọ dụng, [tức
là] quư vị chẳng uổng công nghe! Hằng ngày chúng ta học
tập, tiên sinh Phương Đông Mỹ trước kia đă
dạy tôi điều này: “Học
Phật là sự hưởng thụ cao nhất trong đời
người”. Tôi đă đạt được, dẫu
một ngày cũng chẳng thể lơi lỏng. V́ sao? Lạc
thọ! Khổng Tử bảo: “Học
nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ?” (Học rồi thường xuyên tập luyện, cũng
chẳng vui sao?) Sự hỷ duyệt từ trong nội tâm tuôn ra, chẳng
đến từ bên ngoài. Đấy là Tánh Đức từ
trong tự tánh tự nhiên lưu lộ. Đồng thời
cũng có thể giúp đỡ người khác, tự hành vốn
là hóa tha, tự hành và hóa tha là một, chẳng hai!
Thứ tốt đẹp như thế, nói
thật thà, người thế gian chẳng nhận biết.
Tôi thuở đầu cũng không nhận biết, thầy Phương nhận
biết, thầy giới thiệu, tôi mới hiểu ra. Chương
Gia đại sư đă nhận biết, mới dạy
cho tôi phương pháp tu học, phương pháp khế nhập.
Đây là thiện thư bậc nhất trong thiên hạ, là
thiện pháp bậc nhất trong thiên hạ! Tại Trung Hoa,
lịch đại đế vương tôn sùng, lịch
đại đế vương hoằng dương; do đó,
phước báo của họ to ngần ấy, lâu dài ngần
ấy. Nếu đến đời hoàng đế nào phản
đối, chẳng cần thứ này, chánh quyền của
ông ta sẽ bị kết thúc. Nếu chư vị nh́n vào lịch
sử, sẽ thấy các đế vương cuối mỗi
triều đại, đều chẳng cần đến
luân lư, đạo đức, nhân quả, trí huệ, họ
muốn làm chuyện ǵ? Theo chủ nghĩa hưởng lạc,
hoàn toàn trái nghịch Tánh Đức, vương triều của
họ sẽ bị kẻ khác đoạt mất, thay thế.
Lịch sử có thể làm chứng! Nói theo quy mô nhỏ hơn
th́ là trong một nhà. Gia đ́nh quư vị hưng thịnh hay suy bại tùy thuộc người trong nhà quư vị đối với sự giáo dục
này [như thế nào]. Có thể
nói giáo dục truyền thống của Trung Hoa là luân lư,
đạo đức, nhân quả, trí huệ. Trí huệ là Phật
giáo, nay chúng ta cũng có thể nói là tôn giáo, tôn giáo là giáo dục
trí huệ. Trong ấy, đương nhiên là có luân lư, đạo
đức, nhân quả được gộp vào đó. Hăy
khéo học tập, y giáo phụng hành, gia ḥa vạn sự
hưng. Đại thần đề xướng sẽ tích
tập vô lượng phước. Nếu đại thần
chướng ngại, sẽ là vô lượng lầm lỗi!
Chướng ngại giáo học, chướng
ngại chánh pháp lưu thông, quả báo là ǵ? Trong giới
kinh đă dạy rơ ràng. Trừ quả báo bất thiện
ra, tức là ngoài quả báo trong tam đồ ra, sẽ là
đời đời kiếp kiếp ngu si. Ngu si th́ bất
luận ở trong đường nào, sẽ đều phải
chịu khổ, chịu nạn, chẳng có trí huệ! Chúng
ta chớ nên không cảnh giác điều này! Trong phần
trước, chúng tôi đă nêu ra chuyện được nói
trong kinh Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo: Chướng
ngại hoằng pháp, phá hoại đạo tràng hoằng
pháp, quả báo ở trong địa ngục. Sau khi ĺa khỏi
địa ngục, sẽ sanh vào ngạ quỷ đạo,
sanh vào súc sanh đạo, rồi sanh vào nhân đạo, thảy
đều là ngu si, chẳng có trí huệ. Đấy là ǵ?
Dư báo. Dẫu được tiếp xúc chánh pháp, người
ấy chẳng có năng lực tiếp nhận. Quư vị
nghĩ xem, phải huân tập thời gian dài lâu ngần ấy,
người ấy mới dần dần hiểu minh bạch,
mới có thể hiểu nổi, chẳng phải là chuyện
dễ dàng! Khi quư vị tạo tác ác nghiệp th́ rất đơn
giản, rất dễ dàng, thực hiện dễ ợt! Quả
báo hiện tiền sẽ kinh khủng lắm!
Do vậy, đối với nghiệp nhân quả
báo thiện ác, nhất định phải hiểu rơ ràng, nhất
định phải hiểu rành rẽ, quư vị sẽ có
thể thực hiện rất nghiêm túc, rất nghiêm túc nỗ
lực tu phước, quư vị tận tâm tận lực
giới thiệu những thiện pháp ấy cho người
khác. Thời đại hiện tại khó khăn hơn xưa
kia. Tuy khó, chớ sợ! Chỉ cần người ta có thể
nghe lọt tai, có thể tiếp nhận, bèn giới thiệu.
Họ chẳng thể tiếp nhận, chớ nên miễn
cưỡng. Nói chung, khiến cho kẻ khác sanh tâm hoan hỷ.
Họ có thể tiếp nhận điều ǵ, quư vị sẽ
giới thiệu điều ấy. [Điều ǵ] họ
chẳng thể tiếp nhận, đừng nói với họ.
Cư xử cùng hết thảy chúng sanh đều đại
hoan hỷ. Tâm của chính ḿnh ngày càng thanh tịnh, trí huệ
ngày càng sáng suốt, sáng suốt đến mức có thể
thấy thấu suốt đời trước, kiếp
sau, lẽ nào quư vị chẳng vui sướng?
Nói thật ra, con người chớ nên có tâm
tham. Người sống trong thế gian, nhu cầu trong một
đời rất hữu hạn. Nhu cầu trong một
ngày cũng rất hữu hạn, quư vị một ngày có thể
ăn bao nhiêu? Quư vị có thể hưởng thụ bao
nhiêu? Nói thật thà, về phương diện vật chất
cũng bất quá ngày ăn ba bữa, đêm nằm [chiếm chỗ] sáu thước!
Dẫu giường to đến mấy
đi nữa, cũng chẳng hơn sáu thước dài, hai
thước rộng, quư vị c̣n có thể phóng to thân thể
hơn nữa chăng? Chẳng thể nào có chuyện đó!
V́ thế, chỉ cần thật sự hiểu rơ ràng, hiểu
minh bạch, quư vị mới biết cuộc sống càng đơn
giản càng khỏe mạnh, cuộc sống càng đơn
giản càng sung sướng. Trong một đời người, thật sự đạt đến “chẳng
có phiền năo, chẳng có lo âu, chẳng có vướng mắc,
chẳng có sức ép”, quư vị nói xem, có vui sướng lắm hay không?
Đừng thấy những kẻ phú quư [rồi ham chuộng],
tuy họ phú quư, chẳng vui sướng. Phú quư mà chẳng
vui sướng, chẳng bằng nghèo nàn mà sung
sướng! Điều này rất hiện thực. Bần cùng
mà sung sướng, thứ ǵ cũng đều chẳng có,
suốt đời sống rất hạnh phúc, rất sung
sướng, đấy là rất mỹ măn. Tuyệt đối
chẳng phải là do có địa vị, quyền thế,
của cải, chẳng liên quan đến những thứ
đó!
Thật sự vui sướng là đọc
sách. Đối với kẻ chẳng đọc sách, niềm
vui do đọc sách th́ họ có nằm mộng vẫn chẳng
mơ được. Quư vị nói với họ kiểu nào
đi nữa, họ vẫn nghe chẳng hiểu. V́ sao? Họ
chưa từng đọc sách, chẳng biết đến
niềm vui do đọc sách. Một khi đă nếm niềm
vui đọc sách rồi, thứ ǵ cũng đều buông
xuống. Giống như Thích Ca Mâu Ni Phật, [ngôi vị]
đế vương cũng chẳng màng. Ngài An Thế Cao
làm hoàng đế nửa năm, chẳng muốn làm nữa, xuất gia. V́ sao? So với sự vui sướng ấy, [xuất gia mới là] thật sự hưởng thụ. Thầy
Phương nói “sự hưởng
thụ cao nhất trong đời người”, chẳng
phải là đế vương, chẳng phải là của
cải, chẳng phải là quyền thế. Sự hưởng
thụ cao nhất trong đời người là đọc
sách, trí huệ.
Nói rộng ra, sẽ là
luân lư, đạo đức, nhân quả, trí huệ. Đấy
là sự hưởng thụ cao nhất trong đời người.
Chẳng khế nhập cảnh giới th́ sẽ không
được!
Trong Luận Ngữ, phu tử đă nói hay lắm:
“Học nhi thời tập chi,
bất diệc duyệt hồ?” (Học rồi thường xuyên tập luyện,
cũng chẳng vui sao?) Đấy là tự ḿnh hưởng thụ, tức
là sự hưởng thụ cao nhất trong đời người
như Phương tiên sinh đă nói. “Hữu bằng tự viễn phương lai, bất
diệc lạc hồ?” (Có bạn từ phương xa đến,
cũng chẳng vui sao?), sự hưởng thụ ấy khá lớn, ta cùng
hưởng sự hưởng thụ cao nhất với các
bạn bè chí đồng đạo hợp. Đương
nhiên kẻ chí đồng đạo hợp chẳng nhiều!
Chẳng nhiều, không sao hết! Ba người, năm người,
mười người, tám người đủ rồi!
Một người trong một đời gặp gỡ kẻ
tri kỷ, cổ nhân nói là quư vị đă chẳng sống
uổng phí, sanh mạng của quư vị có giá trị,
có ư nghĩa. Nếu suốt đời chẳng gặp tri
kỷ nào, người ấy rất cô đơn, rất đáng
thương, đấy đều là lời thật.
Chúng ta hiểu đạo lư này, trông thấy
đại thần, biết đại thần tu phước
hết sức thuận tiện. Nay chúng ta tuy chẳng thuộc
địa vị đại thần, nhưng trong hiện
tại, khoa học kỹ thuật phát triển, thông tin phát
triển, chúng ta tu phước, tu đại phước dễ
hơn người xưa quá nhiều! V́ thế, tôi thường
khuyên người khác, dạy họ, tốt nhất là làm đĩa
CD. Giống như trong hiện thời, tôi thường
khuyên lơn người khác, Đệ Tử Quy, Thập
Thiện Nghiệp Đạo, Liễu Phàm Tứ Huấn, Cảm
Ứng Thiên, chúng ta có thể làm được hay không? Có
thể! Chúng ta đọc tụng, làm thành CD, có âm thanh, chẳng
cần phải có h́nh tượng con người, có chữ
hiện lên màn h́nh, đấy là “sách nói”, hướng dẫn
người khác niệm, [đấy là] chuyện
tốt đẹp! Chuyện này phí tổn rất thấp,
in một quyển sách phải
tốn không ít tiền. Làm một đĩa
CD rất rẻ! Ta có thể làm mười đĩa, làm một
trăm đĩa, làm một ngàn đĩa để lưu
thông khắp nơi tặng cho kẻ khác. Đấy
là “tập hành chúng thiện”,
dễ dàng, v́ sao chẳng làm?
Hiện thời, làm kiểu này thuận tiện
nhất, v́ người hiện thời chẳng thích đọc
sách, mà thích xem TV. Xem người trong TV chẳng có ư nghĩa
chi hết, không bằng xem văn tự. Có âm thanh, có văn
tự, chính ḿnh có thể đọc theo, người một
nhà có thể đọc theo. Trong công ty, hăng xưởng, cửa
hiệu của quư vị, công nhân viên chức của quư vị
có thể đọc theo. Lúc làm việc chẳng thể đọc,
chẳng hạn như lúc ăn cơm, trong nhà ăn có thể
phát ra để đọc theo, lúc nghỉ ngơi có thể
đọc theo. Buổi tối, khi về nhà, đừng
xem TV, TV là ô nhiễm, hăy mở đĩa CD ấy để
đọc, tăng tấn đức hạnh, tăng
trưởng trí huệ của chính ḿnh, hữu ích rất lớn
trong việc tiêu trừ tập khí phiền năo. Hăy suy ngẫm
chuyện này, đó có
phải là “đại thần” đang thực hiện hay không? Đúng thế! Chúng ta cũng có thể làm. A!
Nay đă hết thời gian rồi, hôm nay chúng tôi nói đến
chỗ này!
Đại
Phương Quảng Phật
Hoa
Nghiêm Kinh
Phẩm
thứ mười một
Tịnh
Hạnh Phẩm
Phần 47 hết
[1]
Cấy rẽ: Thuê ruộng để cày
cấy. Khi thâu hoạch, tá điền sẽ nộp một
phần hoa lợi cho chủ ruộng theo sự thỏa thuận
từ trước.
[2]
Đan-tư-lư (Tan Sri) là một tước hiệu vinh dự
của Mă Lai để gọi những người
được tặng thưởng Darjah Yang Mulia Pangkuan
Negara (Đệ Nhị Đẳng Hộ Quốc Hữu
Công Huân Chương) và Panglima Setia Mahkota (Hoàng Triều Tinh
Trung Huân Chương). Những huân chương này do hoàng gia Mă Lai ban tặng
cho những người có thành tựu đóng góp lớn lao
cho sự phát triển phồn vinh của đất nước.
[3]
Đới Lạp (1897-1946), vốn tên là Đới Xuân
Phong, tự Vũ Nông, bí danh là Kim Thủy, đứng đầu
cục t́nh báo của Trung Hoa Dân Quốc. Ông là người
huyện Giang Sơn, tỉnh Chiết Giang. Ông tốt nghiệp
trường sư phạm số 1 của tỉnh Chiết Giang,
theo học trường quân sự Hoàng Phố vào khóa thứ
sáu, chuyên đặc trách công tác đặc công và gián điệp,
sáng lập Quốc Dân Chánh Phủ Quân Sự Ủy Viên
Điều Tra Thống Kê Cục và Trung Mỹ Đặc
Chủng Kỹ Thuật Hợp Tác Sở. Ông bị mất
v́ tai nạn phi cơ vào năm 1946.
[4]
Vũ Hoa Đài là một thắng cảnh của Nam Kinh.
Nơi này là ngọn núi nhỏ cao độ 60m tính từ mặt
biển, nằm ở phía Nam của cửa Trung Hoa thành Nam
Kinh. Vào thời Lương Vũ Đế, pháp sư Vân
Quang xây đài giảng kinh trên ḥn núi nhỏ này. Do Sư thuyết pháp chí
thành, trời tuôn mưa hoa, nên có tên là Vũ Hoa Đài.
Vũ Hoa Đài đă được xếp vào trong Kim
Lăng Thập Bát Cảnh (mười tám cảnh đẹp
của Kim Lăng).
[5]
Quốc Vụ Viện tương
đương với Nội Các của chánh phủ, là
cơ quan hành chánh tối cao. Theo quy chế của Trung Hoa
Dân Quốc từ năm 1911, người đứng đầu
Quốc Vụ Viện được gọi là Tổng Lư
(tức Thủ Tướng). Các Bộ Trưởng trực
thuộc quyền cai quản của Thủ Tướng. Về
sau, tại Đài Loan, Quốc Vụ Viện bị thay thế
bởi cơ cấu Hành Chánh Viện. Hành Chánh Viện Viện
Trưởng chính là Thủ Tướng, nhưng quyền lực
của Hành Chánh Viện tại Đài Loan chủ yếu là
quản trị nội vụ và tài chánh, các vấn đề
quân sự và ngoại giao lại trực thuộc phủ Tổng
Thống tuy Hành Chánh Viện vẫn có bộ Quốc Pḥng và
bộ Ngoại Giao.