Đại
Phương Quảng Phật
Hoa
Nghiêm Kinh
Phẩm
thứ mười một
Tịnh
Hạnh Phẩm
Phần 48
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp
sư Thích Tịnh Không
Địa điểm:
Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ
ngày mồng Bảy tháng Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và
Minh Tiến
Tập
1557
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống.
Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một, đoạn
thứ bảy trong phần Kệ Tụng, [tức phần]
“đáo thành khất thực thời
nguyện” (到城乞食時願, nguyện
khi đă đến thành thị, khất thực). Chúng ta
xem bài kệ thứ nhất:
(Kinh) Nhược kiến thành quách,
đương nguyện chúng sanh, đắc kiên cố thân,
tâm vô sở khuất.
(經)若見城郭。當願眾生。得堅固身。心無所屈。
(Kinh:
Nếu thấy thành quách, nguyện cho chúng sanh, được
thân kiên cố, tâm chẳng khuất lấp).
Đây là đến
chỗ khất thực. Đoạn lớn phía trước
gồm hai mươi bốn nguyện, đều là từ
trên đường trông thấy hết thảy người
và sự việc mà dẫn phát đại nguyện. Đă
đến đích, trong quá khứ, chúng ta đọc kinh đă
thấy: Thông thường, người xuất gia lập đạo
tràng ở ngoài thành. Thời đức Thế Tôn, chúng ta biết
trong đạo tràng hoàn toàn chẳng có pḥng ốc, chẳng
hề có. Các Ngài đều ở dưới cội cây, thật
sự là “giữa trưa ăn một bữa, đêm nghỉ
dưới cội cây”. V́ thế, chỗ nghỉ ngơi hằng ngày đều thay đổi! Đức Thế Tôn chẳng cho phép. Chẳng
hạn như cội đại thụ này rất to, quư vị
thấy bóng râm rất ưa thích, mỗi ngày đều
đến nơi đây để tĩnh tọa, hoặc
nghỉ ngơi. Đức Thế Tôn sợ quư vị nẩy
sanh ḷng lưu luyến đối với nơi đây; v́
thế, chỉ cho phép nghỉ lại một tối, đến
hôm sau, ắt phải chọn nơi khác để nghỉ
ngơi. Quư vị thấy trong thuở đó, đức Phật
đă ngăn ngừa cho các đệ tử, sợ sẽ dẫn khởi phiền năo nẩy sanh. Ái dục là phiền năo, ưa thích hoàn cảnh ấy
chính là phiền năo. Hết thảy đều phải dùng
cái tâm b́nh đạm, tâm b́nh thường để cư xử.
Sự thọ dụng trong tu học Phật pháp ở ngay
trong cuộc sống hằng ngày; nếu chẳng đạt
được sự thọ dụng trong cuộc sống
hằng ngày, chúng ta học Phật để làm ǵ cơ chứ?
Học để sử dụng, chớ nên không biết đạo
lư này!
Khất thực
cũng không cho phép quư vị hằng ngày chỉ tới khất
thực ở một nhà, chẳng được phép! Quy củ
là chỉ có thể khất thực bảy nhà. Nếu một
nhà cúng dường rất phong phú, quư vị đă đựng
đầy bát rồi, chẳng cần đến nhà thứ
hai. Nếu cảm thấy cơm chẳng đủ, quư vị
có thể xin tại nhà thứ hai, nhà thứ ba. Tới khi quư vị nghĩ là đủ rồi, sẽ
chẳng cần [đến xin những nhà sau đó nữa].
Nhưng nếu liên tục cả bảy nhà đều chẳng
xin được, chẳng thể lại đến nhà thứ
tám, hăy nhanh chóng quay về. Trở về th́ có cái để
ăn hay chăng? Có chứ! V́ khất thực chẳng phải
là một ḿnh ta ăn. Sau khi đă xin được cơm,
nhất định phải quay về đạo tràng; sau
đấy, mỗi người đem cơm xin được
trộn lẫn với nhau, lại chia ra. Do vậy, cơm ấy được gọi là “ca-sa phạn”. Ngạn ngữ
Trung Hoa thường nói “nhất
bát thiên gia phạn” (một bát cơm ngàn nhà), chẳng giả!
Quư vị thấy các đệ tử thường tùy của
đức Thế Tôn là một ngàn hai trăm năm
mươi lăm vị, mỗi vị khất thực, chẳng
phải là cơm ngàn nhà ư? Trộn lẫn lại rồi chia ra, xét theo bản
thân quư vị cần nhiều hay ít mà chia, xác thực là “một bát cơm ngàn nhà”. Đấy
là thật sự đạt đến công bằng, chẳng
có đối xử trọng hậu hay bạc bẽo.
Đối với Lục Ḥa Kính như nhà Phật đă nói,
đấy mới là thật sự thực hiện Lợi
Ḥa Đồng Quân, ăn uống hoàn toàn như nhau! Chẳng
phải là quư vị xin cơm từ nhà này đồ ăn
ngon lành, nhà kia tệ hơn, [mà là] thảy đều trộn
lẫn với nhau. Quư vị thấy cuộc sống của
Tăng đoàn công bằng như thế đó!
Nơi Tăng đoàn
tụ tập cách biệt thành thị hoặc hương
trấn, [thành thị hoặc hương trấn] là chỗ
khất thực, chẳng thể cách biệt quá xa. Theo kinh
điển ghi chép, thông thường gần như là khoảng
ba, bốn dặm. Ba, bốn dặm thời cổ chẳng hơn hai cây số
trong hiện thời. Quư vị đi và về gần như
là đi bốn cây số. Khoảng cách ấy chẳng thể coi là dài,
sẽ không làm quư vị mất nhiều thời gian. Không giống
đạo tràng của Phật giáo Trung Hoa! Đạo tràng
của Phật giáo Trung Hoa chẳng cần khất thực.
Đạo tràng [tại Trung Hoa] đều xây dựng theo
kiểu cung điện, có pḥng ốc, chẳng phải là
qua đêm dưới cội cây. Đạo tràng như vậy
thường kiến lập trong núi sâu, cách đô thị khá
xa, [v́] họ chẳng cần khất thực.
Kinh tế của
tự viện Trung Hoa dựa vào ǵ? Dựa vào sự bố
thí của tín chúng. Bố thí không coi trọng tiền tài;
trong quá khứ, người ta thí xả toàn là đất đai trong vùng núi,
ruộng nương, bố thí cho tự viện. V́ thế,
tự viện có ruộng, có núi. Ruộng và núi đều
để cho nông dân cày cấy, ruộng của tự viện
chẳng phải nạp tô cho chánh quyền. Cày cấy ruộng
nương của tự viện th́ khi thâu hoạch phải
chia một phần cho tự viện, cho thường trụ.
Do đó, thâu nhập kinh tế của tự viện khá ổn
định, chẳng cần dựa vào sự quyên mộ hóa duyên tín chúng từng lúc, chẳng cần thiết! Cũng
có những đạo tràng do quốc gia kiến lập, [chánh
quyền] nhất định sẽ cắt ra một vùng
đất hoặc núi rừng giao cho đạo tràng. Đấy
là thâu nhập kinh tế của nhà chùa. Về sau, người
xuất gia cũng tự ḿnh cày cấy; chuyện
này do Bách Trượng đại sư lăo nhân gia đề
xướng, gọi là “nhất
nhật bất tác, nhất nhật bất thực” (một
ngày không làm, suốt ngày đó chẳng ăn). Trồng lương
thực, trồng hoa quả, trồng rau dưa, người
xuất gia tự ḿnh gieo trồng, nhưng đa số vẫn
là thuê nông dân cày cấy. Đấy là thâu nhập kinh tế,
chẳng giống như Ấn Độ vào thời cổ.
[Tăng đoàn ở]
Ấn Độ vào thời cổ khất thực, [do đó, đạo tràng] chẳng
thể cách biệt thôn trấn, thành thị quá xa!
Trước kia có
thành, có quách[1],
hiện thời chẳng có. Hiện thời, tôi nghe nói thành
Tây An ở Trung Hoa vẫn c̣n, dường như tường thành ở
các thành thị khác đều bị triệt hạ. Trước
kia th́ có, khi chúng tôi c̣n bé, ở quê nhà, thuở đó, thông
thường là huyện thành đều có tường thành.
Sau khi đă phá đi, có thể là trong thời chiến tranh
chống Nhật, v́ những tường thành chẳng chống
nổi hỏa pháo hiện đại, nhằm giúp mọi người
thuận tiện tản cư, tránh né chiến tranh mà có những
nơi phá hủy các tường thành ấy, chuyện này rất
đáng tiếc. “Thành quách” xưa
kia là pḥng lũy bảo vệ, nói theo ư nghĩa kiên cố của
nó. Do vậy, [Bồ
Tát] phát đại nguyện, “đắc kiên cố thân, tâm vô sở
khuất” (được thân kiên cố, tâm chẳng khuất
lấp).
Thân như thế
nào mới là “kiên cố thân”?
Chuyện này ắt cần
phải xét theo giáo pháp Đại Thừa,
chẳng phải là bảo quư vị hằng ngày rèn luyện
thân thể, rèn luyện công phu, chẳng phải là ư nghĩa
ấy. Trong Phật pháp, xác thực là “đắc đạo” th́ tấm thân sẽ kiên cố!
Quư vị đọc kinh Văng Sanh thấy nói: Sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ đạt
được tấm thân kiên cố thật sự, “tử ma chân kim sắc thân”
(thân có màu như vàng tía được trau giồi sáng bóng),
trọn đủ tướng hảo, chẳng phải [chỉ
là] ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo.
Ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo
là [thân tướng
của đức Phật] trong
thế giới Sa Bà, ở trên quả địa cầu này!
Thân tướng trong thế giới Cực Lạc xác thực
là “thân có vô lượng tướng,
mỗi tướng có vô lượng hảo!” Các đồng
học học Phật phải biết, đấy chính là mục
tiêu tu học thật sự của chúng ta. Chớ nên tham
luyến thế giới này. Hễ tham luyến thế gian
này, sẽ chẳng đến thế giới Cực Lạc
được! Nếu chẳng thể đến thế
giới Cực Lạc, ở trong thế gian này, nói thật
ra, vẫn là thân kiên cố. Thân kiên cố là như thế
nào? Tôi nghĩ mấy bữa nay, các đồng học nghe cư sĩ
Chung Mậu Sâm nói về chuyện luân hồi nhân quả ở
phương Tây đă được họ (người Âu
Tây) dùng phương pháp khoa học chứng minh. Các vị
nghe rồi [sẽ biết] ông ta kể không ít trường hợp, đều là chân thật!
Người ngoại
quốc dùng phương pháp thôi miên để cho người
ấy (người
được thôi miên) trở
lại đời quá khứ, tự thuật trạng huống
sinh hoạt trong đời quá khứ của chính ḿnh. Nghiễm
nhiên là có người có thể nhớ hơn một ngàn năm, luân hồi
trong lục đạo mấy chục lần, chẳng phải
là một lần. Trong khi được thôi miên, có lúc có các vị thần linh thừa cơ hội ấy để
tiết lộ rất nhiều tin tức, các vị đều
đă nghe cả rồi! Trong các tin tức ấy, có mấy điều rất quan trọng. Tôi nghe băng thâu âm,
điều quan trọng nhất là cho người đời
biết: Sanh mạng là vĩnh hằng, chẳng có sanh tử. [Đă
là] vĩnh hằng, chẳng có sanh tử, th́ phải là tấm
thân thật sự kiên cố. Thân thể này có sanh tử, chẳng
phải là linh tánh của quư vị có sanh tử. Linh tánh chẳng
có sanh tử, quư vị có thể hết sức yên ḷng! Nhưng
trong phương diện này, quư vị cũng phải nghĩ
có chuyện rất phiền phức. Trong lục đạo, con người xả thân, thọ
thân giống như chúng ta thay quần áo. Quư vị thấy
hằng ngày tối thiểu phải thay quần áo một lần.
Buổi tối đi ngủ bèn cởi ra, sáng hôm sau thức
dậy phải thay đổi, lại mặc quần áo. Cởi
ra giống như chết, nói theo phương diện quần
áo th́ giống như chết, sáng hôm sau lại mặc tức
là lại sanh. Nếu đổi một bộ quần áo mới,
cái cũ chết đi, cái mới lại sanh ra, là chuyện như thế đó. Thật
sự hiểu rơ đạo lư này, sẽ chẳng có ư niệm tham sống sợ
chết! Trong hội Lăng Nghiêm, Thích Ca Mâu Ni Phật
đă giảng chuyện này rất cặn kẽ! Vua Ba
Tư Nặc nghe xong, hiểu rơ, hết sức hoan hỷ,
v́ vua ngỡ là có sanh tử. Đức Phật dạy “chẳng có sanh tử”, thân có sanh
tử, tánh chẳng có sanh tử.
Ngài dạy trong thân
thể quư vị, sanh diệt và bất sanh diệt ḥa hợp. Sanh
diệt là ǵ? Thân thể. Bất sanh diệt là ǵ? Nay chúng
ta nói là tinh thần của quư vị. Đức Phật
đă dạy rất rơ ràng, bất sanh bất diệt là ǵ?
Căn tánh trong lục căn. Mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân và ư là lục căn. Căn tánh của lục căn bất
sanh bất diệt, đấy mới là chính ḿnh thật sự.
Giáo pháp Đại Thừa nói “minh
tâm kiến tánh”, khẳng định tâm tánh là chính ḿnh, nhục
thân chẳng phải là chính ḿnh, ư thức cũng chẳng
phải là chính ḿnh, mà là “một bộ phận tinh thần” như chúng
ta nói trong hiện thời. Nhục thể đương
nhiên chẳng phải là chính ḿnh, mà một bộ phận của tinh thần, tức vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước cũng chẳng phải là chính
ḿnh. Nếu quư vị t́m được chính ḿnh thật sự,
khẳng định, nhận thức nó, sẽ được
gọi là thánh nhân, chuyển phàm thành thánh. Ai có thể chứng
đắc? A La Hán, Bồ Tát, Phật Đà, những vị
ấy đă thật sự t́m được, đă t́m ra
chân ngă, bất sanh bất diệt.
Vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước th́ vẫn có sanh diệt,
chúng ta có thể lư giải điều này. Suốt ngày từ
sáng đến tối, chúng ta dấy vọng tưởng, chẳng
phải là chỉ nghĩ đến một chuyện, chẳng
biết đă nghĩ
tưởng bao nhiêu chuyện! Niệm trước đă diệt,
niệm sau lại sanh, suy nghĩ loạn xạ. Do đó, ư
niệm là có sanh diệt, chẳng phải là thường
trụ. Nhưng căn tánh nơi sáu căn, mắt có thể
thấy, tánh Thấy bất sanh bất diệt. Tai có thể
nghe, tánh Nghe bất sanh bất diệt. Âm thanh có sanh diệt,
sắc tướng có sanh diệt; phân biệt,
chấp trước có sanh diệt. Tánh Thấy, tánh Nghe, tánh
Ngửi, tánh Nếm chẳng có sanh diệt. Chẳng có sanh
diệt chính là “thân kiên cố”.
V́ thế, đối với những tánh ấy, nói theo kiểu
hiện thời, sẽ chẳng phải là vật chất,
cũng chẳng phải là tinh thần. V́ sao? Người
hiện thời nói đến tinh thần, nói thật ra, đó
chính là Kiến Phần của tám thức như Pháp Tướng
Tông đă nói. Kiến Phần là tinh thần, Tướng Phần
là vật chất, những thứ này đều chẳng
thật. Ǵ là thật? Cái chân thật là Tự Chứng Phần,
đó là thật! Kiến Phần và Tướng Phần do
đâu mà có? Đều do Tự Chứng Phần biến hiện;
đấy mới là thật. Đấy mới là “kim cang bất hoại thân”, c̣n
gọi là chân tâm, c̣n gọi là bản tánh.
Nhà Phật nói
đến cái tâm th́ tâm có chân và vọng khác nhau. Tám thức
là vọng tâm, tự tánh là chân tâm. Nhưng trước khi
thấy chân tâm, quư vị ở trong lục đạo luân hồi,
trong lục đạo luân hồi th́ có vọng tâm. Nếu
chẳng có vọng tâm, sẽ chẳng có luân hồi. Nhưng
vọng tâm chẳng phải là vật chất; do vậy, nó
chẳng có sự sanh tử nơi nhục thân, chẳng có sự
sanh tử ấy, chúng ta thường gọi nó là “linh hồn”. Nó có thể đi
đầu thai, lại t́m một thân thể khác. Thần
linh cũng đă tiết lộ, những kẻ đầu
thai vào thế gian này, v́ sao có thể đến đầu
thai? Họ nói chẳng ngoài hai loại nguyên nhân, một loại
là đến trả nợ, loại kia là “đến làm phận
sự”. Họ nói là “phận sự”,
có ư nghĩa như thế đó! [So với cách nói mơ hồ
của thần linh], đức Phật nói rất rơ ràng! Phật
pháp dạy người ta sanh vào thế gian này, luân hồi trong
lục đạo, thật sự có hai loại:
1) Một loại
là do nghiệp lực. Nghiệp lực chủ tể sự
luân hồi. Nghiệp lực là ǵ? Báo ân, báo oán, đ̣i nợ,
trả nợ, vĩnh viễn làm những chuyện ấy,
vĩnh viễn làm chẳng xong! V́ thế, Phật pháp nói ví
von là “sanh tử b́ lao” (生死疲勞, sanh tử
nhọc nhằn, mệt mỏi), mệt chết luôn! Quư vị
chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi th́ sẽ
là hiện tượng này.
2) Loại người
thứ hai là ǵ? Chính là Phật, Bồ Tát thị hiện. Chúng
sanh có cảm, Phật, Bồ Tát sẽ ứng. Đó là “thừa nguyện tái lai” (乘願再來, nương
theo nguyện mà trở lại), các Ngài chẳng do nghiệp
lực. Các Ngài đến để làm ǵ? Các Ngài đến
giúp đỡ chúng sanh khổ nạn. Thần linh th́ nói là họ
đến phục vụ, đến làm phận sự, chẳng
phải là đến trả nợ. V́ thế, có hai loại
người.
Chúng ta đến thế
gian này, cớ sao mà đến? Chư vị nhất định phải hiểu,
chúng ta do nghiệp lực mà đến. Hễ là phàm phu, [sẽ
là] do nghiệp lực mà đến. Rất may mắn là
đời này gặp gỡ Phật pháp; do gặp gỡ Phật
pháp, hăy nên chuyển nghiệp lực thành nguyện lực. Tôi
đă nói lời này mấy chục năm, chuyển bằng
cách nào? Đời này chúng ta đă hiểu rơ, giác ngộ, nguyện
lực của ta vượt trỗi nghiệp lực, sẽ
chuyển biến. Thừa nguyện tái lai, chẳng cần
nói đến chuyện ta đă sanh sang thế giới Cực
Lạc rồi mới quay lại. Đó là thừa nguyện
tái lai. Trong hiện thời là nâng cao nguyện lực, khiến cho nguyện lực của chúng ta to hơn nghiệp lực,
thân này sẽ chuyển, thật sự chuyển. V́ sao? Thân
này có thọ lượng.
Quư vị thấy
tiên sinh Liễu Phàm được Khổng tiên sinh đoán
mạng, đoán chuẩn xác! Hiện thời, tôi nghe nói gần
đây có phát hành một bộ đĩa CD, mỗi vị
đồng học đều có thể thỉnh một bộ
về nhà. Bộ phim ấy chỉ có hai đĩa, chính là giáo
dục nhân quả. Tôi luôn hy vọng các đồng học
sẽ lấy về, hằng ngày coi đó như công khóa
để thực hiện, mỗi ngày nghe một lần. Quư
vị nghe hai đĩa ấy hai tiếng đồng hồ,
mỗi ngày thực hiện công khóa ấy hai tiếng đồng
hồ, mỗi ngày đều chẳng gián đoạn. Nếu
nghe hơn ba trăm lần, sẽ nẩy sanh hiệu quả.
Hiệu quả ấy có
thể hữu ích cho quư vị, chuyển
biến nghiệp lực của quư vị thành nguyện lực,
quư vị sẽ sanh tử tự tại. Quư vị thấy
thọ mạng của tiên sinh Liễu Phàm là năm
mươi ba tuổi, suốt đời ông ta nghiêm túc nỗ
lực đoạn ác tu thiện, thay đổi quan niệm
của chính ḿnh, nguyện lực to hơn nghiệp lực,
ông ta sống đến bảy mươi bốn tuổi,
sống lâu thêm hai mươi năm. Ông ta c̣n có thể sống
lâu hơn nữa hay không? Có thể chứ! Nếu nguyện
lực to hơn nữa. [Nguyện lực của] ông ta c̣n
chưa đủ lớn, [nếu đủ lớn], sẽ
chuyển được!
Khởi tâm động
niệm chẳng v́ chính ḿnh, mà v́ chúng sanh. Tiên sinh Liễu
Phàm khởi tâm động niệm v́ chính ḿnh, v́ chúng sanh, vẫn
chẳng quên mất chính ḿnh, [thế mà] đă chuyển.
Chuyện này là một tấm gương rất hay cho chúng
ta. Tôi đă thưa tŕnh cùng các đồng học, giảng
kinh trong nhiều năm qua, chẳng biết đă thưa
tŕnh bao nhiêu lần! Lúc tôi c̣n trẻ, có rất nhiều người
đoán mạng cho tôi, ngay cả Cam Châu Hoạt Phật cũng
nói tôi đoản mạng: Thọ mạng của tôi chỉ có
bốn mươi lăm tuổi. Năm nay, tôi đă tám
mươi tuổi, sống lâu hơn ba mươi lăm
năm, vượt trỗi tiên sinh Liễu Phàm. Tiên sinh Liễu
Phàm sống thêm hai mươi năm, tôi hơn cụ mười
lăm năm, chuyển biến đấy! Trước khi
tṛn tám mươi tuổi, có lúc c̣n nghĩ ngợi v́ chính
ḿnh, thỉnh thoảng c̣n nghĩ. Sau tám mươi tuổi,
chẳng c̣n nghĩ đến chuyện của chính ḿnh, niệm
nào cũng [nghĩ tưởng] v́ chúng sanh khổ nạn làm
thêm một ít chuyện. Đấy là như thần linh đă
nói.
Do vậy, làm như
thế nào để chuyển nghiệp lực của chính
ḿnh thành nguyện lực, phải hiểu đạo lư này!
Nếu chẳng hiểu đạo lư này, quư vị đă phí
công học Phật rồi! Quư vị có thể thật sự
y giáo phụng hành, thật thà thực hiện, vun quén vững
bền ba căn cội trong nền văn hóa truyền thống, tôi tin
là từ ba năm đến năm năm, nguyện lực
của quư vị sẽ vượt trỗi nghiệp lực.
V́ sao chẳng làm? Ba căn cội ấy, căn cội nhà Phật
là Thập Thiện Nghiệp Đạo, phải nghiêm túc học
tập; căn cội của Nho là Đệ Tử Quy, căn
cội của Đạo là Cảm Ứng Thiên. Cả ba căn
cội ấy tiên sinh Liễu Phàm đều có, tuy có căn
bản về Nho, chẳng chuyển được. Ông ta học
Nho, là người tốt, tôi tin là những điều Đệ
Tử Quy đă dạy, chắc chắn ông ta đều làm
được. Trước khi gặp thiền sư Vân Cốc,
trong hai mươi năm, vận mạng hằng năm của
ông ta đều hoàn toàn đúng như Khổng tiên sinh đă đoán định,
chẳng biến hóa mảy may nào, chuẩn xác tột bậc!
Gặp gỡ thiền sư Vân Cốc, thiền sư Vân Cốc
đă dạy ông ta căn cội của Phật và Đạo.
Đạo là ǵ? Công
Quá Cách là Đạo. Những điều mục trong Công
Quá Cách chính là [nội dung của] Cảm Ứng Thiên. Đối
với Thập Thiện, Tam Quy, Ngũ Giới, Lục
Độ, Tứ Nhiếp trong nhà Phật, tôi tin là thiền
sư Vân Cốc chắc chắn truyền dạy ông ta những
khoa mục cơ bản nhất ấy. Ông ta rất khó có, hết
sức nghiêm túc, hết sức nỗ lực, ông ta làm
được, vận mạng biến đổi toàn bộ! Trong mạng của ông ta chẳng có công danh. “Chẳng có công danh” tức là
trong mạng chẳng có Cử Nhân, chẳng có Tiến
Sĩ, bằng cấp của ông ta chỉ có thể đạt
đến Tú Tài, đến Cống Sanh, chẳng có Cử
Nhân, chẳng có Tiến Sĩ. Nay chúng ta gọi “công danh” là “học
lịch” (bằng cấp). Đến cuối cùng, ông ta thi đỗ Cử
Nhân, cũng đỗ Tiến Sĩ. Trong mạng của ông
ta vốn chẳng có những thứ ấy! Trong mạng chẳng
có con cái; về sau, ông ta cầu con cái, thật sự sanh
được một đứa con, đều là trong mạng
chẳng có! Về sau, ông ta làm tri huyện Bảo Tŕ, trong mạng
cũng chẳng có! Đó là một huyện lớn. Mạng
của ông ta có thể làm Tri Huyện, nhưng thời gian cũng
chẳng dài, chỉ có ba năm, lại c̣n là một huyện
rất nhỏ, là một huyện rất nhỏ ở ven tỉnh
Tứ Xuyên. Bảo Tŕ là một huyện lớn thuộc về
kinh thành.
Đấy là nguyện
lực vượt trỗi nghiệp lực, đấy mới
thật sự là “đắc kiên
cố thân” (đạt được thân kiên cố). Mạng
của quư vị bất hảo, thường xuyên bị bệnh
tật, khổ nạn vấn vít, nếu nguyện lực
lớn hơn nghiệp lực, những thứ ấy thảy
đều chẳng có. Quư vị có thể chẳng ngă bệnh,
cần đến tấm thân khỏe mạnh, v́ sao? Quư vị v́ chúng
sanh khổ nạn phục vụ. Để phục vụ,
chẳng có thân thể sẽ không được. Thân thể
là công cụ, đều đă sửa
đổi.
Chúng ta thấy một
cụ già, suốt đời phát nguyện, đúng là nguyện
lực vượt trỗi nghiệp lực, là một khuôn mẫu
rất tốt, tức là cư sĩ Hứa Triết ở
Tân Gia Ba. H́nh như mấy hôm nay bà ta sang Thượng Hải.
Năm nay đă một trăm lẻ tám tuổi, vẫn phục
vụ xă hội. Thân thể bà rất khỏe, hằng ngày ăn
một bữa, cuộc sống hết sức đơn giản,
tai mắt thông tỏ. Khi bà một trăm lẻ một tuổi,
đă đến chỗ tôi xin quy y. Tôi truyền Tam Quy, Ngũ
Giới cho bà cụ. Năm nay cụ đă một trăm lẻ
tám tuổi. Hằng ngày, cụ phải chăm sóc hơn hai
mươi nhà. Hơn hai mươi nhà ấy đều hết
sức nghèo khổ, đều đă già, ông già, bà cả, chẳng có con cái chăm sóc, cuộc sống hết
sức gian nan, bà cụ chăm sóc họ. Bà cụ đă một
trăm lẻ tám tuổi, chiếu cố người già bảy, tám mươi
tuổi, tai mắt thông tỏ, hành động nhanh nhẹn.
Hằng ngày biếu gạo, biếu đồ ăn, biếu
dầu cho hơn hai mươi nhà ấy.
Bà cụ đi khắp nơi t́m những đồng tham đạo
hữu để quyên một ít tiền, bà cụ sẽ
lo liệu. Tôi ở Tân Gia Ba, cũng thường giúp đỡ
bà, bản thân bà không cần [tiêu xài ǵ], [sở dĩ bà quyên
mộ tiền bạc là] để chăm sóc những
người nghèo nàn đáng thương ấy. Bản thân bà chưa hề
mua một bộ quần áo nào, từ đâu mà có quần áo
để mặc? Lượm từ thùng rác! Người
khác vứt đi, chẳng cần đến, bà nhặt về.
Vừa vặn th́ mặc, chẳng vừa th́ sửa lại.
Bản thân bà cũng sống cuộc đời nghèo hèn nhất.
Bà bảo tôi: “Nếu tôi chẳng sống như vậy, ở
chung với những người nghèo khổ ấy, [họ
thấy tôi] là kẻ có tiền, có thế, là kẻ phú quư, sẽ
tránh xa, chẳng dám tiếp cận”. V́ thế, muốn biến
thành bạn bè, biến thành tri giao của họ, nhất
định phải nghèo như họ, khổ như họ,
họ sẽ rất hoan hỷ tiếp nhận. Đấy
là thật sự đại từ đại bi. Những ǵ bà ta đă
học thảy đều thực hiện trong cuộc
sống, [thực hiện] lâu dài chẳng suy giảm! Đấy
chính là tấm gương tốt đẹp, là khuôn mẫu tốt đẹp về “đắc kiên cố thân, tâm vô sở
khuất” (được thân kiên cố, tâm chẳng khuất
lấp).
Lại
nghĩ những ǵ bà ta đă có thể làm, chúng ta có thể
làm được hay không? Đương nhiên là có thể.
V́ sao? Đó là nguyện lực, chẳng phải là nghiệp lực. Nghiệp lực của mỗi người
chúng ta khác nhau. Trong đời quá khứ, quư vị tu
phước, tích lũy công đức, đời này quư vị
sanh trong thế gian này để hưởng phước.
Phước báo của quư vị là
do đă tu tập
trong đời quá khứ. Đời này, trong thế gian này,
hứng chịu rất nhiều khổ nạn, nghèo túng, trắc
trở, là do đời quá khứ đă tạo nghiệp bất
thiện, chẳng có cách nào sửa đổi điều ấy! Do vậy, gọi là “nghiệp
lực”. Trong đời này, chúng ta học Phật đă
hiểu rơ, biết số
mạng là có, nhưng vận mạng
chẳng phải là đă h́nh thành sẽ bất biến. Bởi lẽ, trong số mạng có định số và có biến
số. Trước khi tiên sinh Liễu Phàm gặp gỡ thiền
sư Vân Cốc, đó là định số, v́ sao? Chính ông
ta cũng chẳng tạo ác, nhưng cũng chẳng tu thiện,
cho nên vận mạng mỗi năm được Khổng
tiên sinh tiên đoán chuẩn xác dường ấy. Thiền
sư Vân Cốc đă nói rất rơ ràng! Biến số là ǵ?
Quư vị tạo ác, phước báo trong mạng quư vị bị
hao tổn, bị biến hóa. Ví như Khổng tiên sinh đoán ông Liễu
Phàm đậu hạng nhất, nhưng khi quư vị đi
thi, đậu hạng ba, hoặc đậu hạng
năm, thoái chuyển rồi, đó là ǵ? Quư vị đă tạo
tác bất thiện. Nếu quư vị tạo điều thiện,
tu thiện, trong mạng quư vị đáng lẽ đậu
hạng ba, đột nhiên năm nay quư vị đỗ hạng
nhất, đấy là đă tiến cao hơn!
Do vậy, biến
số là cộng, trừ, nhân, chia. Hằng ngày chúng ta khởi
tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, thiện th́
cộng, ác th́ trừ, hằng ngày đều có cộng, trừ,
nhân, chia! Nhưng mức độ cộng, trừ, nhân, chia
chẳng lớn. Do vậy, tiên đoán vẫn rất chuẩn
xác. Đại khái là chẳng sai lệch. Nếu là đại
thiện hay đại ác, sẽ sai biệt rất lớn.
Đại thiện bèn nhân lên, đại ác bèn chia ra, biến
hóa hết sức to lớn. Ví như trong mạng quư vị
đáng lẽ sống đến tám mươi tuổi, nhưng
sáu mươi tuổi đă chết, thọ mạng bị
hụt mất hai mươi năm, khuyết giảm! Nếu
quư vị tích lũy đại thiện, thọ mạng là tám
mươi năm, quư vị có thể sống đến trăm
tuổi, tức là cộng thêm hai mươi năm. V́ thế,
từ trong khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo
tác mà có cộng, trừ, nhân, chia. Thiện là ǵ? Ác là ǵ? Phàm
những ǵ lợi ích chúng sanh, lợi ích xă hội th́ là thiện.
Lợi ích chính ḿnh, tổn hại xă hội
th́ là ác. Do vậy, nhất định phải hiểu: Tổn
người lợi ḿnh, chắc chắn là ác; bỏ ḿnh
v́ người chắc chắn là thiện. Đoạn ác hành
thiện th́ mới là thật sự đạt được
thân kiên cố!
V́ chính ḿnh, ví
như trong mạng của quư vị, tức trong vận số
của con người, các nhà tướng số đều
biết cứ mỗi năm năm sẽ chuyển biến
một lần, tức là mạng cứ năm năm chuyển
biến một lần. Trong một đời này, quư vị
có năm năm rất tốt đẹp, và có năm năm
rất tồi tệ. Đấy là cứ lấy mỗi năm năm trong suốt một đời quư vị
để so sánh, nhất định là có [t́nh trạng như
vậy]. Nhưng phước báo của mỗi cá nhân khác
nhau, năm năm tốt nhất của Giáp có thể thua năm
năm tốt nhất của Ất, Thậm chí năm năm
kém cỏi nhất của Ất vẫn c̣n tốt đẹp hơn năm
năm tốt nhất của Giáp. Đấy là v́ trong đời
quá khứ đă tu tập khác nhau. Người phương
Đông nhấn mạnh chuyện này! Nay quư vị xem báo cáo
của cư sĩ Chung Mậu Sâm, [sẽ thấy] người
phương Tây cũng đă nêu ra [nhận định ấy].
Hơn nữa, c̣n từ thôi miên mà nh́n lại đời
quá khứ, c̣n có kẻ đến từ súc sanh đạo,
rất nhiều! C̣n có kẻ đến từ ngoài hành tinh,
túc thế tiền sanh, họ sống tại tinh cầu khác,
sau khi đă chết từ bên đó, linh hồn của họ
“bay” tới địa cầu, đến địa cầu
lại t́m kiếm thân thể. Kiếm thân thể chính là
đầu thai, đến chỗ này!
Do vậy có thể
biết, linh tánh vĩnh viễn chẳng sanh diệt của
chúng ta có không gian hoạt động rất lớn, không chỉ
hạn cuộc nơi địa cầu, cũng chẳng hạn
chế trong Thái Dương Hệ, cũng chẳng hạn
chế trong thế giới Sa Bà. Thế giới Sa Bà có
mười ức hệ Ngân Hà, đều là phạm vi sống
của chúng ta. Nếu quư vị nói đến chuyện niệm
Phật văng sanh thế giới Cực Lạc; thế giới
Cực Lạc là một đại thế giới khác, càng
xa hơn! V́ thế, đức Phật đă dạy rất
hay, hết thảy các cơi Phật trong khắp pháp giới, hư không giới đều là chỗ để chúng
ta xả thân, thọ thân. “Xả
thân” là chúng ta ĺa khỏi nơi đây; “thọ thân” là chúng ta đến chỗ kia, lại
t́m một thân thể, linh tánh vĩnh viễn bất diệt.
V́ thế, đă hiểu rơ, đă giác ngộ, phải làm một
người tự do tự tại, Phật pháp nói là giải
thoát. “Giải thoát” là ǵ? Giải
thoát từ trong nghiệp lực, tự do tự tại là
nguyện lực, [hay cũng có thể nói] “nguyện lực là tự do tự tại”. Thật
sự mong phát khởi Tứ Hoằng Thệ Nguyện của
chư Phật, Bồ Tát, “chúng
sanh vô biên thệ nguyện độ”. Nói theo kiểu hiện
thời, “độ” (度) là giúp đỡ, hiệp trợ vô lượng vô
biên chúng sanh trọn khắp pháp giới hư không giới.
Chúng sanh khổ nạn
nhiều lắm! Nói thật thà, không chỉ là thế giới
này của chúng ta, mà thế giới nơi phương khác
cũng thế, kẻ làm ác nhiều, làm lành ít, quyết
định là thiện ác hỗn tạp. V́ sao? Thế giới
mới có thể tồn tại. Nếu trong thế giới
này, chúng tôi nói là “tinh cầu”
cho mọi người dễ hiểu, chúng sanh trong tinh cầu
này hoàn toàn đều làm ác, chẳng làm lành, tinh cầu này sẽ bùng nổ, sẽ bị
hủy diệt, chẳng thể duy tŕ, đạo lư ở chỗ
này! Phàm là tinh cầu này c̣n
có thể tồn tại, nhất định là thiện ác xen
lẫn. Dẫu thiện ít, ác nhiều cũng chẳng sao,
nó vẫn có thể tồn tại.
Đến khi thiện quá
ít so với ác, chắc chắn là nó sẽ
bị hủy diệt, chúng ta gọi chuyện này là “ngày tàn của thế
giới”. Lư và Sự đều phải hiểu rơ ràng, minh
bạch. Trong phẩm Thế Giới Thành Tựu và Hoa Tạng
Thế Giới thuộc phần đầu kinh Hoa Nghiêm đă
nói rất cặn kẽ, nói rất nhiều. Có thế
giới thuần thiện hay không? Có chứ! Nó vĩnh viễn
tồn tại. Thế giới Cực Lạc vĩnh viễn
tồn tại, thuần thiện, chẳng ác. Thế giới
Hoa Tạng là thuần thiện, là cơi Thật Báo của Tỳ
Lô Giá Na Phật, thuần thiện! Thế giới thuần
thiện như thế giới Cực Lạc th́ trong vũ
trụ cũng chẳng ít. Khi nào chúng ta có thể đến
chơi, đến thăm những thế giới ấy? Quư vị hội đủ điều
kiện th́ được, điều kiện là ǵ? Kiến tánh, [tức] minh tâm kiến
tánh. Minh tâm kiến tánh th́ quư vị mới đắc đại
tự tại. Minh tâm kiến tánh bằng cách nào?
Học Phật và Phật
học là hai chuyện [khác nhau]. Cũng
có đại học ở ngoại quốc đến
t́m tôi, nhưng tôi không đi. V́ sao không đi? [Họ theo đuổi]
Phật học, tức là coi Phật học như một thứ học vấn để nghiên cứu, chẳng nói
đến chuyện y giáo tu hành. Quư vị thấy những
người đó thường được gọi là Phật
học gia, là tiến sĩ Phật học, hoặc chuyên
gia Phật học, nói đến nỗi hoa trời rơi
lả tả, đạo lư rành rẽ, có nghe nói người
nào trong số ấy khi lâm chung sẽ có thụy tướng
hay chăng? Chưa từng nghe! Học Phật là y giáo phụng
hành, khi văng sanh, tướng lành ǵ cũng đều có, thật
sự thành tựu! Nói theo Lư, phàm phu thành Phật ngay trong một
niệm, nơi Sự cũng là như thế, chỉ là quư
vị chưa chuyển được ư niệm.
Buông xuống vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, quư vị vốn đă thành Phật. Quư vị
thấy đơn giản lắm! Chẳng buông xuống vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, quư vị là
phàm phu, sẽ xả thân, thọ thân trong lục đạo,
hoàn toàn do nghiệp lực chi phối quư vị. Nay chúng ta hy
vọng nguyện lực sẽ lớn hơn nghiệp lực,
vượt trỗi nghiệp lực trên một mức độ
lớn. Trong một đời hiện tại này, hăy toàn
tâm toàn lực giúp đỡ chúng sanh khổ nạn, đời
sau quyết định sanh về Tịnh Độ. Đấy
là học Phật, chẳng phải là Phật học. Đấy
là thật sự “đắc kiên
cố thân”, thật sự “tâm
vô sở khuất”. “Tâm vô sở khuất” chính là tâm
tưởng sự thành, mọi chuyện như ư. Nay đă
hết thời gian rồi, chúng tôi nói bài kệ này tới đây!
***
Chư vị pháp
sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi
xuống. Xin xem tiếp bài kệ thứ hai:
(Kinh) Nhược kiến
vương đô, đương nguyện chúng sanh, công
đức cộng tụ, tâm hằng hỷ lạc.
(經)若見王都。當願眾生。功德共聚。心恆喜樂。
(Kinh: Nếu thấy
kinh đô, nguyện cho chúng sanh, công đức cùng nhóm, tâm
luôn hỷ lạc).
“Vương đô” (王都) là thành thị nơi quốc vương và chư hầu
cư trụ. Trong phần trước
là thành quách thông thường. Ở đây,
kinh nói rơ là “vương đô”,
tức là chỗ cư trụ của quốc vương
hoặc chư hầu. Dẫn phát đại nguyện “đương nguyện chúng sanh,
công đức cộng tụ, tâm hằng hỷ lạc” (nguyện
cho chúng sanh, công đức cùng nhóm, tâm luôn vui sướng). V́
đô thành, vào thời cổ gọi là “kinh sư” (京師) hoặc “kinh thành” (京城). “Kinh”
(京) có nghĩa là “lớn”. Đô thị lớn, thành thị lớn
được gọi là “kinh
thành”. Tất nhiên là chỗ con người và văn hóa hội tụ, là chỗ tinh hoa của một
quốc gia. Nó không chỉ là trung tâm chánh trị, mà nhất
định c̣n là trung tâm công thương, mậu dịch, nhất
định là trung tâm học thuật. Từ xưa tới
nay, Trung Hoa coi trọng học thuật nhất. Ngạn ngữ
có câu “cầu tài ư thị”,
“thị” (市) là chợ, là chỗ thị trường buôn bán. [Câu
nói ấy có nghĩa là] nếu quư vị muốn cầu tiền
tài, nhất định là phải cầu ở chỗ mà nay ta gọi
là “đô thị công thương nghiệp”. “Cầu
danh tại triều”, “triều” (朝) là vương đô. Đấy là nói học thuật
và đức hạnh của quư vị ở chỗ ấy
mới có thể so sánh với người khác, mới
vượt trỗi người khác được! Đấy
là nơi tập hợp nhân tài cả nước. V́ thế,
dẫn phát “công đức cộng
tụ” (công đức cùng nhóm họp) trong lời đại
nguyện.
Từ hai câu hoằng
nguyện này, chúng ta biết điều trọng yếu nhất trong hết thảy các pháp thế gian và xuất thế
gian chính là đức hạnh, tức là giáo dục như văn hóa
truyền thống của Trung Hoa đă nói. V́ thế, thủ
đô được gọi là “kinh
sư”, “sư” (師) có nghĩa là khuôn phép, học làm thầy người
khác! Nơi chốn hoặc thành thị đế vương
cư trụ chính là khuôn mẫu, là gương mẫu cho tất
cả các thành thị trong cả nước, nên gọi là “kinh sư”. Ở đấy,
nhân tài đông đảo, giáo dục tốt đẹp, dạy
dỗ tốt lành! Đấy chính là như trong năm ngàn năm
qua, [đă có quan niệm] “kiến
quốc, quân dân, giáo học vi tiên” (xây dựng đất
nước, cai trị nhân dân, dạy học làm đầu).
Tôi thêm vào câu trên đây một câu nữa, câu ấy cũng
do cổ nhân đă nói, từ hai câu, nay tôi nói thành ba câu: “Kiến quốc, quân dân, tu thân vi
bổn, giáo học vi tiên” (Xây dựng đất nước, cai
trị nhân dân, tu thân làm gốc, dạy học làm đầu).
Dạy học mà nếu chính ḿnh chẳng tu thân, lấy ǵ
để dạy? Tu thân là ǵ? Chính ḿnh làm được
trước đă. Chẳng làm được, chẳng cần
phải nói nữa. Nói
ra, chẳng có ai tin tưởng! V́ thế,
phải làm từ chính ḿnh trước đă! Khổng Mạnh
tự ḿnh làm được, nói cho kẻ khác nghe, dạy người
khác, người ta tin tưởng, bằng ḷng tiếp nhận,
bằng ḷng học tập theo. Thích Ca Mâu Ni Phật tự ḿnh
làm được, cho nên mới có nhiều người học
theo Ngài như vậy! Chính ḿnh chẳng làm được, không được rồi! Lời nói và việc làm của quư vị chẳng giống
Phật, nói một đằng, làm một nẻo, ai tin tưởng
quư vị? Nói khó nghe một tí, ai tôn trọng quư vị? Ai
coi trọng quư vị?
V́ thế, thầy
luôn được gọi là “phạm”
(範, khuôn phép). Tư tưởng,
ngôn hạnh và cử chỉ của thầy là khuôn mẫu cho
học tṛ. Không chỉ là khuôn mẫu cho học tṛ, mà c̣n là khuôn mẫu cho
xă hội. Tuy thầy thanh bần, v́ chẳng theo đuổi
sự nghiệp sản xuất, quá nửa là lo dạy học.
Dạy học chính là Pháp Bố Thí. Bản thân Thích Ca Mâu Ni
Phật sau khi đă thành tựu đức hạnh và học
vấn, những nhu cầu trong cuộc sống đều
nhờ người khác cúng dường. Cúng dường chỉ
mong vừa đủ, trọn chẳng cầu quá lố.
V́ thế, đối với nhu cầu trong cuộc sống,
đức Phật đă nói rất rơ ràng, rất minh bạch,
thức ăn, quần áo, ngọa cụ (đêm ngủ phải
trải đệm), thuốc men khi ngă bệnh, bốn thứ
ấy được gọi là “tứ
sự cúng dường”. Chẳng mong cầu xa hoa, có ǵ
chẳng vừa ư? Ai chẳng hoan hỷ? Cuộc sống vật
chất hết sức đơn giản, rất dễ thỏa
măn. Tâm Ngài định, Định sanh Huệ, do Định
mới có thể khế nhập, chẳng có những nỗi
tư lự nào khác. Học vấn thế gian và xuất thế
gian thảy đều là như vậy, chúng ta phải hiểu
điều này!
Do vậy, đại
chúng trong xă hội cúng dường Ngài, Ngài có cống hiến
ǵ cho xă hội? Cống hiến rất to lớn! Kẻ b́nh
phàm chẳng biết, nhưng đế vương biết.
Kẻ b́nh phàm chẳng biết tôn kính, đế
vương tôn kính, đế vương tôn Ngài làm thầy,
gọi Ngài là “quốc sư”. V́ sao? Ngài là tấm gương cho
nhân dân cả nước, ai nấy đều có thể học
tập theo Ngài, [ngơ hầu] có đạo đức giống
như Ngài. Nay chúng ta nói là “học tập luân lư, đạo
đức, nhân quả, trí huệ”, Ngài là tiêu chuẩn. Ở
chỗ này, từ thời cổ đă có câu ngạn ngữ:
“Hiền nhân, quốc chi bảo”
(Hiền nhân là của báu của đất nước).
Tuy cuộc sống vật chất của Ngài thanh bần,
[nhưng Ngài là] quốc bảo! Quốc vương hy vọng
xă hội an định, hy vọng thiên hạ thái b́nh, công tác
ấy phải do ai thực hiện? Công tác ấy dành cho thầy.
Đấy mới thật sự thấu hiểu giáo huấn
cổ xưa, “kiến quốc,
quân dân, giáo học vi tiên” (kiến thiết đất nước, cai trị
nhân dân, giáo học làm đầu).
Tại Trung Hoa, mấy
ngàn năm qua, có đế vương nào chẳng biết?
Đế vương nào chẳng tuân hành? Nếu ông ta chẳng
tuân theo, sẽ mất chánh quyền, sẽ bị kẻ khác
thay thế. Quư vị thấy tại Trung Hoa, các hoàng đế
cuối mỗi triều đại cũng hiểu rơ, nhưng
họ chẳng tôn trọng, cứ tùy thuận tập khí
phiền năo của chính ḿnh, tham cầu hưởng thụ,
chẳng tôn trọng luân lư, đạo đức. Kết
quả là chánh quyền ấy bị người khác lật
đổ, bị người khác thay thế. Nếu tôn trọng,
chư vị phải hiểu, nhân dân chẳng muốn tạo
phản. Tạo phản là chuyện rất khổ. Tạo
phản là do bị ép buộc bất đắc dĩ mới
làm chuyện ấy! Tuy nhà vua chẳng tốt, chỉ cần
miễn cưỡng
có thể chịu đựng
được, th́ sẽ có thể duy tŕ an định. Đối
với những người theo đuổi công việc dạy
học, quư vị có thể tôn trọng họ ba phần, họ
cũng rất hài ḷng, xă hội bèn có thể an định,
có thể ḥa b́nh. Nếu quư vị có tám phần, chín phần
tôn trọng học thuật, tôn trọng những người
có học thức, thiên hạ sẽ đại trị, khẳng
định [là như thế]! V́ thế, cội nguồn b́nh
trị hay loạn lạc ở ngay chỗ này, quư vị có
coi trọng giáo dục luân lư, đạo đức, nhân quả
hay không?
Biểu hiện rơ
rệt nhất là tại thủ đô, tại kinh sư. “Vương
đô” là kinh
sư, ở đấy, biểu hiện rơ rệt nhất: Nhà vua tôn
sư trọng đạo! Trong cổ lễ Trung Hoa, do lănh
thổ rộng lớn, dân cư đông đúc, trong quá khứ
là mấy ức, hiện thời là mười mấy ức.
Trong khu vực châu Á, chẳng nước nào sánh bằng
Trung Hoa; v́ thế, từ xưa, Trung Hoa xưng là “thiên triều”. Tuy là nói tự
tôn tự đại, nhưng nó có giáo học luân lư, đạo
đức. Tuy là thiên triều, nhưng chẳng dám khinh
thường những tiểu quốc láng giềng ở bốn
phía. Những nước nhỏ láng giềng đến
Trung Hoa triều cống, tức là triều cống hoàng
đế, hoàng đế đối xử với họ lễ
độ có thừa, chẳng lơ là, khinh mạn, toàn là
đối xử theo đúng lễ giữa chủ và khách.
Các nước nhỏ biếu một chút cống phẩm,
hiện thời gọi cống phẩm (貢品) là lễ vật, nhưng đế
vương Trung Hoa tỏ ra phong độ của đại
quốc, lễ vật tặng
lại nhất định phải
ban tặng nhiều hơn đồ tiến cống. Cũng
có nghĩa là quyết định chẳng thể chiếm đôi chút tiện
nghi của kẻ khác, phải đối đăi trọng
hậu đối với tân khách. Đấy là ǵ? Đấy
là thực hiện giáo dục luân lư, đạo đức.
V́ thế, [kinh đô] chính là chỗ văn vật tụ hội.
Trong các huyện thị
trên cả nước, thực hiện các biện pháp chánh
trị đều học tập theo vương đô, phỏng
theo phương thức thi hành chánh trị ở vương
đô. Do vậy, tại vương đô có trường
Thái Học (太學), tại
các huyện thị có huyện học (縣學, trường
huyện). Tiệc tùng chánh thức, chỗ ngồi trong yến
tiệc có tôn ty. Đại khái là những ghế hàng đầu
nhất định dành cho người đọc sách, dành
cho thầy. Do đó, đối với địa vị trong xă hội xưa kia, người đọc sách rất
nghèo, nhưng rất có địa vị trong xă hội, sĩ,
nông, công, thương, “sĩ”
(士) là người
đọc sách. “Học nhi
ưu tắc sĩ” (Học vấn ưu tú bèn làm quan).
[Chữ Sĩ (仕, quan lại)] là chữ Sĩ (士) thêm chữ Nhân (人) vào bên cạnh, có nghĩa là “tùng chánh” (從政, ra làm quan). Cũng có nghĩa là những cán bộ
trong chánh quyền của nước nhà được chọn
lựa từ nơi đâu? Từ những ai học thuật,
luân lư, đạo đức, nhân quả, trí huệ đều
trọn đủ, chọn lựa từ những người
ấy, tuyển chọn, đề bạt nhân tài! Nhà trường
là nơi để dạy dỗ bồi dưỡng cán bộ
cho nước nhà, đó gọi là “học vấn ưu tú bèn
được quốc gia chọn lựa, phân phối công
việc cho quư vị”.
Nhưng trong thành tích chánh trị, Trung Hoa lại chẳng giống
ngoại quốc. Quư vị làm quan ở địa phương
này, điều quan trọng nhất nhà vua đ̣i hỏi quư
vị là tuyển chọn, đề bạt nhân tài cho
nước nhà. Do vậy, nhân tài tại Trung Hoa là tuyển
cử. Sự tuyển cử ấy chẳng phải do dân
chúng bỏ phiếu, chẳng phải vậy! Tất nhiên là
do quan viên địa phương ngấm ngầm điều
tra, chọn lựa phương thức ấy. “Ngấm ngầm
điều tra” là v́ những
quan viên ấy dân chúng b́nh phàm hoàn toàn chẳng nhận biết,
chẳng như hiện thời có báo chí, có TV, có thể
trông thấy họ thường xuyên, trước kia chẳng có. Nếu họ mặc quan phục, quư
vị sẽ biết người đó là quan. Nếu họ
ăn mặc như b́nh dân, về căn bản là quư vị
sẽ chẳng nhận biết. V́ thế, “ngấm ngầm điều tra” là mặc quần
áo b́nh dân, đi xem xét, nghe ngóng các nơi. Tuyển chọn,
đề bạt có tiêu chuẩn. Tiêu chuẩn gồm hai điều
kiện, tức là hiếu và liêm. Nghe ngóng những thanh thiếu niên ở
nơi ấy có hiếu thuận với cha mẹ hay không, đặc
biệt rơ ràng là hiếu thuận đối với cha mẹ. Lại
nghe ngóng coi kẻ đó có liêm khiết, trọn chẳng
khinh thường, dễ dăi tiếp nhận đồ
biếu tặng hoặc cúng dường
của kẻ khác, chẳng tiếp nhận
[cúng dường hay không]?
Đối với hai điều kiện
ấy, điều kiện thứ nhất là kẻ đó có
thể hiếu thuận với cha mẹ, sẽ có thể
tận trung với nước nhà, sẽ có thể yêu thương,
che chở nhân dân. Liêm khiết th́ sẽ chẳng tham ô. V́ thế,
điều kiện để quốc gia chọn lựa, đề
bạt cán bộ là hai điều ấy. Hai điều kiện
ấy chính là điều kiện cơ bản. Quư vị thấy
từ xưa tới nay, từ đời Hán đă quy định
cử Hiếu Liêm. Chế độ ấy từ đời
Hán măi cho đến đời Thanh vẫn tuân theo thể lệ
ấy. Quan viên địa phương thường đi khắp
nơi nghe ngóng, nơi đây có hiếu tử, biết liêm
khiết, sẽ đề bạt lên chánh phủ, tâu lên hoàng
thượng để đưa kẻ ấy về vương
đô học hành trong trường Thái Học. Đấy là
vinh dự hết sức cao. V́ vào học trong trường
Thái Học toàn là do nhà nước chi trả, trước kia
nói là “quan phí” (官費), chính ḿnh chẳng cần đóng tiền, quốc
gia bồi dưỡng quư vị.
Trên thực tế,
ở huyện, trong trường huyện đă là quan phí.
Trường học ở huyện cũng là tuyển chọn
[những sĩ tử] phù hợp hai điều kiện hiếu
và liêm ấy. Trước hết là tuyển vào học tại trường huyện, có thành tích ưu tú, khác lạ tại
trường huyện, sẽ cử đến học
trường Thái Học ở kinh sư. Trong danh sách hạn
định sĩ tử đi học, có thể là một huyện chỉ có
thể cử một người, lại c̣n chẳng phải
là hằng năm. [Nếu cử] hằng năm, Trung Hoa có
đến mấy ngàn huyện, nhà trường (trường Thái Học) sẽ không thể chứa nổi! Do vậy, thông
thường dường như là ba năm, cứ ba năm
có thể cử một người. Hằng năm, tại trường huyện đều mở khoa thi, người
nào luôn đỗ đầu, điều quan trọng
nhất trong khảo thí chính là phẩm đức và học
thuật của quư vị đều xếp hàng đầu
suốt ba năm, quư vị sẽ có thể được chọn
vào trường Thái Học [là chỗ] nhân tài tụ tập.
Trong Phật pháp, chúng
ta phải hiểu sách vở của chúng ta là kinh Phật,
chẳng thể quên mất Phật pháp. Phật pháp chọn
lựa nhân tài theo tiêu chuẩn nào? Trong giáo pháp Đại
Thừa đă nói quá nhiều, “phát Bồ
Đề tâm”, đấy là tiêu chuẩn. Phát Bồ
Đề tâm, nói thông thường là Tứ Hoằng Thệ
Nguyện, thứ nhất là “chúng
sanh vô biên thệ nguyện độ”, đấy là Vô Thượng
Bồ Đề tâm. Quư vị phải phát nguyện độ
các chúng sanh khổ nạn. Nói theo kiểu hiện thời, “độ” chính là dạy học.
V́ sao người ta có khổ? Khổ do mê mà có; mê hoặc,
điên đảo, đối với hết thảy các pháp
thế gian và xuất thế gian đều nghĩ sai, nh́n
sai, nói sai, làm sai, chuốc lấy ác báo. Đấy là nhân quả
báo ứng! Phải giúp họ ĺa khổ được vui
bằng cách nào? Giúp họ giác ngộ, giác là cái nhân của lạc.
Lạc là cái quả của giác. Giống như vậy, cái
nhân của khổ là mê, quả của mê là khổ. Do lẽ
này, đức Phật giúp chúng sanh ĺa khổ được
vui bằng phương pháp nào? Sử dụng giáo học,
giáo học được gọi là Pháp Bố Thí.
Trong kinh Đại
Thừa, đức Phật thường nói đến chuyện
“giảo lượng bố
thí” (較量布施, so lường
sự bố thí), “giảo”
(較) là so sánh. Kinh Kim Cang mọi người quen
thuộc nhất, đọc phổ biến nhất, trong kinh đă nói [về chuyện giảo lượng
công đức bố thí] rất nhiều! Bố thí bảy
báu đầy khắp đại thiên thế giới, đấy
là nói tỷ dụ, chẳng tuyệt vời lắm ư? Đó
là phước báo to cỡ nào! Bố thí bảy báu đầy
ắp đại thiên thế giới chẳng sánh bằng người
nói bốn câu kệ, công đức của Pháp Bố Thí to
lớn. Đấy là đạo lư ǵ vậy? Bảy báu trọn
khắp đại thiên thế giới là vật chất, vật
chất có thể giải quyết những thiếu hụt
nghèo túng trong cuộc sống vật chất của quư vị,
có thể giúp đỡ về phương diện ấy,
nhưng chẳng thể giúp quư vị liễu sanh tử, chẳng
thể giúp quư vị thoát tam giới. Quư vị chỉ có thể
hưởng thụ trong đời này, chẳng thể giúp
cho đời sau được. V́ thế, bố thí bảy
báu trong đại thiên thế giới là có hạn lượng.
Nhưng đối với bốn câu kệ trong kinh Phật,
nếu người ấy thật sự nghe hiểu, nghe minh
bạch, lập tức khai ngộ, công đức ấy quá
to! Hễ khai ngộ th́ sao? Người ấy không
chỉ là vượt thoát lục đạo, mà c̣n vượt
thoát mười pháp giới, những nỗi khổ trong lục
đạo và mười pháp giới người ấy thảy đều vượt thoát. Có những trường hợp
nào giống như vậy hay không?
Trong kinh giáo, những trường
hợp như vậy quá nhiều!
Tại Trung Hoa, nổi tiếng nhất là chuyện Thiền Tông Lục Tổ Huệ Năng đại
sư, rất nhiều người biết vị này. Tại
Bắc Kinh, có một vị đồng tu trong Phật môn là
Cao cư sĩ, ông ta “thuyết
thư”[2]
hết sức hay, đă ghi âm thành bộ đĩa chuyên môn
kể chuyện về Lục Tổ Huệ Năng. Đại
khái là hai, ba tháng nữa, bộ băng ấy có thể hoàn thành. Trong tương
lai, sau khi nhận được, ở đây có thể phát
sóng, hăy nghe những câu chuyện về Huệ Năng đại
sư.
Thật vậy, Ngũ
Tổ đă v́ Ngài nói bốn câu kệ, Ngài khai ngộ! Chuyện
này chứng tỏ Pháp Bố Thí, Pháp Cúng Dường vượt
trỗi Tài Bố Thí, Tài Cúng Dường chẳng thể sánh
bằng, không thể sánh bằng được! V́ thế, chúng ta cũng
biết, học Phật là tích lũy công đức. Phải
chú ư điều này, công đức! Công đức chứ
không phải là phước đức đâu nhé! Tu Tài Bố
Thí là phước đức. Công đức là ǵ? Công (功) là công phu. Công phu tăng tấn, tăng cao hơn th́
quư vị sẽ đạt được. Ví như hiện
thời mọi người học Đệ Tử Quy, trong Đệ
Tử Quy có tất cả một trăm mười ba chuyện,
quư vị thảy đều làm được, thực hiện
được, đó là công đức của quư vị viên
măn, quư vị đă làm được! Nếu nói “ta chỉ
làm được một nửa, c̣n một nửa chưa
làm được”, vậy th́ quư vị có được một
nửa công đức, công đức của quư vị chẳng
viên măn. Đấy là công đức.
Do vậy, công
đức chẳng có cách nào cho người khác, mà cũng chẳng
có cách nào tu thay cho người khác. Người nào tu, người nấy đắc, đấy là công đức. Phước
đức th́ chính ḿnh tu được nhiều,
phước của ta có thể cho người khác chung
hưởng, có thể chia sẻ cho người khác hưởng.
Phước đức có thể thí, công đức chẳng
thể! Nếu có thể thí công đức, chúng ta chẳng
cần phải tu hành! Công đức của Thích Ca Mâu Ni Phật rất
lớn, Ngài chia một tí cho chúng ta chẳng phải là đủ
rồi hay sao? Bởi lẽ, công đức chẳng có cách
nào [chia sẻ]. Thích Ca Mâu Ni Phật thật sự chia sẻ
phước đức cho chúng ta hưởng. Trong phần
trước, chúng ta đă đọc về chuyện này. Ví
như người xuất gia trong hiện thời, nói thật
ra, người xuất gia bất luận đức hạnh
hay bất cứ phương diện nào vẫn đều
là chẳng đủ, nhưng họ tiếp nhận mười
phương cúng dường. V́ sao người trong mười
phương cúng dường? Người trong mười
phương thấy quư vị là đệ tử đức
Phật; cho nên tín đồ Phật giáo đều vui ḷng cúng
dường quư vị. Do phước đức của Thích
Ca Mâu Ni Phật [mà được cúng dường như thế],
chẳng phải là do chính ḿnh có phước, mà là hưởng
phước của đức Phật, chớ nên không biết
điều này! Quư vị có biết th́ mới sẽ cảm
ân đức Phật, hăy nên nghiêm túc khéo y giáo tu hành, chẳng cô
phụ Thích Ca Mâu Ni Phật. Chẳng cô phụ th́ chính ḿnh trong
tương lai sẽ có
thành tựu, thành tựu nơi đạo
nghiệp, xứng đáng với các tín chúng đă cúng dường. Nếu
chính ḿnh chẳng thành tựu, lẽ nào chẳng có lỗi với
họ? Trong tương lai, nếu chẳng như pháp, sẽ
phải đọa lạc. Đọa lạc th́ trong tương
lai phải trả nợ. Phật môn có một câu nói cũ
mèm: “Kim sanh bất liễu
đạo, phi mao đới giác hoàn” (Đời
này chẳng liễu đạo, mang lông, đội sừng
đền). Chính là bốn câu kệ: “Thí chủ nhất lạp mễ, đại như
Tu Di sơn, kim sanh bất liễu đạo, phi mao, đới
giác hoàn” (Một hạt gạo thí chủ, to như núi Tu Di, kiếp
này chẳng liễu đạo, đeo lông, đội sừng
đền). Nếu quư vị chẳng thể thành tựu, [chẳng]
thành tựu tức là nếu quư vị chẳng thể thoát
ĺa lục đạo luân hồi, do hiện thời quư vị tiếp nhận những thứ cúng dường
của mười phương cho nên sẽ bị mắc nợ, trong tương
lai, quư vị sẽ phải trả nợ!
Xuất gia và tại
gia chẳng khác nhau. Người tại gia tu hành có thể
tiếp nhận sự cúng dường của người
khác hay chăng? Có thể! Nếu họ thật sự cúng
dường quư vị, quư vị thật sự niệm Phật
văng sanh, họ cũng có phước. Văng sanh là thành Phật,
hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng
Cư đều là thành tựu viên măn ngay trong một đời, chẳng
thể nghĩ bàn! Chẳng có duyên phận xuất gia, dùng
thân phận tại gia bế quan tu hành, có thể tiếp nhận
cúng dường hay không? Có thể! Có thí chủ bằng ḷng
giúp cho quư vị thành tựu, quư vị hăy khéo tu hành, thật
sự thành tựu để báo đáp. Xưa nay, trong ngoài
nước, những trường hợp như thế rất
nhiều. Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, cư
sĩ Duy Ma là hàng tại gia. Thích Ca Mâu Ni Phật có một
nhóm học tṛ, cư sĩ Duy Ma cũng có một nhóm học
tṛ. Do vậy, nói tứ chúng đệ tử tại gia và
xuất gia, đều có Tài Bố Thí, đều có Pháp Bố
Thí, Phật pháp mới có thể hưng vượng, chúng
sanh mới có thể đắc độ. “Đắc độ” th́ chúng sanh mới có thể
ĺa khổ được vui, mới có thể phá mê khai ngộ,
chớ nên không biết [điều này]!
Vậy th́ đối
với người xuất gia, nếu chúng ta hỏi, Thích
Ca Mâu Ni Phật ba y một bát, trước kia người xuất
gia chắc chắn chẳng thể cầm tiền bạc,
họ dùng ǵ để bố thí? Họ dùng nội tài để
bố thí. “Nội tài” (內財) là thân thể, giống như hiện thời nói là
“làm công quả”. Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời “làm
công quả”, Ngài v́ hết thảy chúng sanh. Nói theo cách hiện
thời, [sẽ là] “mở lớp dạy học, chẳng thâu học phí”. Dạy học có phải hao tốn thể
lực hay không? Có phải vận dụng tinh thần hay không?
Thể lực và tinh thần là nội tài. Trong Tài Bố Thí,
công đức của Nội Tài Bố Thí c̣n thù thắng hơn
Ngoại Tài Bố Thí. Ngoại tài th́ sao? Vật
ngoài thân dẫu quư vị bố thí nhiều đến mấy
đi nữa, vẫn chẳng bằng chính ḿnh hao công tốn
sức. Đấy gọi là Nội Tài. Phước báo của
Nội Tài vượt trỗi Ngoại Tài. V́ thế, những
vị xuất gia cũng có Tài Bố Thí. Rời khỏi thân
thể này, rời khỏi tinh thần và trí huệ, quư vị
dùng ǵ để bố thí cơ chứ? Do đó, bố thí
có phạm vi hết sức rộng!
Trong tứ chúng
đệ tử th́ có vị xuất gia, có vị là tại
gia. Học tṛ nói đến cúng dường th́ cũng có Tài
Cúng Dường, và cũng có Pháp Cúng Dường. Sử dụng
tài lực th́ là Tài Cúng Dường, vật chất cũng
là Tài Cúng Dường. Dùng thân thể, nay nói là “làm công quả”,
đến phục vụ những việc nhọc nhằn
th́ là Nội Tài Cúng Dường. Giúp sức hoằng pháp, công
tác hoằng pháp có rất nhiều chuyện vụn vặt,
chư vị đều biết chuyện này, cũng thuộc
về Pháp Cúng Dường, như trong hiện thời hết
sức phổ biến. Trước kia, Pháp Cúng Dường
là ǵ? Quư vị nghe buổi giảng này, nghe thật sự có
tâm đắc, nghe hoan hỷ, quư vị đi khắp nơi
nói với người khác. Đấy là Pháp Cúng Dường.
Hiện thời th́ sao? Hiện thời chúng ta có băng thâu
h́nh, băng thâu âm, có sách vở, tuy chính ḿnh chẳng có tiền,
chẳng sao cả! Có rất nhiều người đă làm
rất nhiều [những loại băng và sách ấy], quư
vị lấy nhiều một tí, đến khắp nơi
chia cho những người quư vị quen biết. Người
nào có thể tiếp nhận th́ giới thiệu cho họ;
đấy là Pháp Cúng Dường.
Tuy quư vị chẳng
có tiền, “tôi lấy mấy đĩa từ trong đạo
tràng này”, quư vị cầm lấy để giới thiệu,
dùng thân thể của chính ḿnh. V́ thế, đấy là quư vị
đă Nội Tài Cúng Dường. Cầm những sách vở,
đĩa CD giới thiệu cho thân bằng hảo hữu,
đấy là Pháp Cúng Dường. Chớ nên không hiểu! Sau
khi đă hiểu, quư vị mới thật sự thực
hiện. Phật pháp sống động, chẳng chết
cứng! Đă học th́ phải học thông đạt, thông
suốt chẳng trở ngại. Đấy là quư vị thật
sự có ngộ xứ. Quư vị chẳng học những
thứ chết cứng, chẳng chết cứng nơi văn
tự! Ấn Quang đại sư đă làm mẫu, đă
khải thị cho chúng ta, chúng ta phải chú tâm thấu hiểu.
Suốt đời lăo nhân gia do mối quan hệ ngôn ngữ,
Ngài là người phương Bắc, giọng địa
phương chẳng đổi, người phía Nam nghe không
hiểu Ngài nói ǵ. V́ thế, Ngài chẳng có cách nào giảng
kinh. Nhưng Ngài có một phương pháp khác, Ngài dùng
văn tự. V́ thế, suốt đời tổ Ấn
Quang dùng văn tự hoằng pháp. Ấn Quang Đại Sư
Văn Sao độ vô lượng chúng sanh!
Ngài đă v́ chúng ta
thị hiện, “tu thân làm gốc, giáo học làm đầu”. Quư vị thấy trước khi lăo nhân gia bảy mươi
tuổi, Ngài tu thân, chẳng hoằng pháp, mà cũng chẳng
giảng, cũng chẳng viết lách. Bảy mươi tuổi,
Tổ bị kẻ khác phát hiện. Thời đầu Dân
Quốc, có mấy vị đại đức cư sĩ học
Phật, là hàng tại gia, tức tại gia cư sĩ. Họ
triều bái Phổ Đà sơn lễ Quán Âm Bồ Tát, gặp
Tổ tại Tàng Kinh Lâu của Phổ Đà sơn, thấy
vị pháp sư này cử chỉ bất phàm. Họ vừa
gặp liền biết vị này có tu hành, rất có đạo
hạnh. Hướng về Tổ thỉnh giáo, những lời
của Tổ đă nói xác thực chấn động ḷng người,
khiến cho người ta nghe xong bội phục năm vóc
sát đất! Sau khi những người ấy trở về
Thượng Hải, đă giới thiệu Ngài với các
bạn bè: “Phổ Đà sơn có một vị cao tăng, các
vị có thể đến đó bái phỏng, có thắc mắc
ǵ có thể đến đó hỏi Ngài”. Như vậy, dần
dần người biết đến Ngài nhiều hơn.
Thuở ấy, dùng
thư từ trao đổi, nói chung là giao thông chẳng thuận
tiện, thư từ trao đổi là gởi thư qua lại,
trả lời. Về sau, các bức thư trả
lời được đăng lên báo hoặc tạp chí.
Về sau, càng nhiều hơn, tập hợp lại, biến
thành Văn Sao, dùng phương pháp này. Lăo nhân gia tám
mươi tuổi văng sanh, thời gian hoằng pháp là mười
năm. Mười năm ấy là mười năm trong
tuổi già của Ngài. Lúc tuổi già, đạo nghiệp thật
sự thành tựu. Đức hạnh và đạo nghiệp
thuần thục. V́ vậy, văn tự do Ngài viết hay
dường ấy, tinh vi, khéo léo dường ấy. Đấy
chính là v́ Ngài ở Tàng Kinh Lâu ba mươi năm, quản
lư Đại Tạng Kinh, đọc sách tại đó. Những
thứ của ba nhà Nho, Thích, Đạo Ngài đều đọc,
đọc suốt ba mươi năm. Văn Sao chính là báo
cáo tâm đắc trong việc học Phật và đọc sách của Ngài. Quư vị
thấy tác phẩm ấy hay khéo lắm!
Tôi theo thầy Lư học
Phật, thầy Lư rất khiêm hư. Thầy nói: “Năng lực
của tôi chỉ có thể dạy anh năm năm. Tôi ắt
phải giới thiệu cho anh một vị thầy khác!”
Ai vậy? Chính là thầy của Ngài, tức Ấn Quang
đại sư. Tuy Ấn Quang đại sư đă khuất
bóng, Văn Sao hăy c̣n. Thầy bảo tôi đọc Văn
Sao, dạy tôi học theo Ấn Quang đại sư. Chánh
xác! Ba mươi năm trước, lần đầu tiên
tôi đến Hương Cảng giảng kinh, trông thấy
hành động đặc biệt, lạ lùng của Ấn
Quang đại sư, tức là Hoằng Hóa Xă. Về sau, Ngài
suốt đời in sách. Tiền cúng dường của mười
phương dùng để làm một chuyện, Ngài chẳng
làm ǵ khác. Chuyện khác đă có kẻ khác làm, ấn tống kinh sách chẳng có ai làm, Ngài chuyên môn làm chuyện này.
Nhưng trong những kinh luận và thiện thư đă ấn
hành, số lượng lớn nhất là Liễu Phàm Tứ
Huấn, Cảm Ứng Thiên Vựng Biên, và An Sĩ Toàn Thư.
Tôi hết sức kinh ngạc, kinh điển nhà Phật hay
như vậy, Ngài đều in với số lượng ít,
ba thứ ấy lại được ấn tống với số lượng lớn.
Khi đó, từ trang
bản quyền, tôi phỏng tính, đại khái là có ba trăm vạn
bản. Con số này rất đáng kinh hăi! Vào thời đại ấy,
kỹ thuật ấn loát vẫn chưa phát triển cho lắm,
phí tổn rất cao, v́ sao Ngài làm như vậy? Chẳng
nghĩ ra! V́ sao chẳng dốc sức hoằng
dương Phật pháp, mà làm chuyện này? Liễu Phàm Tứ
Huấn có thể miễn cưỡng nói là Nho, Cảm Ứng
Thiên là Đạo, An Sĩ Toàn Thư là thể loại hỗn
hợp Đạo và Nho. V́ sao Ngài làm chuyện này? Tôi suy nghĩ
vài tuần mới bỗng dưng hiểu rơ: “Đại từ
đại bi, cứu khổ cứu nạn!” Xă hội hiện
thời rối loạn, Nho dẫu tốt đẹp, cứu
không kịp. Phật dẫu tốt đẹp, cũng chẳng
cứu kịp. Chỉ có làm bằng cách nào? Nhân quả. Nếu
mọi người thật sự hiểu nhân quả, tin
tưởng “thiện có thiện
quả, ác có ác báo”, như vậy th́ quư vị khởi
tâm động niệm sẽ thâu liễm đôi chút. Điều này sẽ hữu ích
to lớn cho xă hội. Tôi mới hiểu rơ
Ngài làm cách ấy nhằm cứu độ xă hội trong hiện
thời.
Ngài là người
thuộc thế kỷ trước, đầu thế kỷ,
cách chúng ta hiện thời cũng gần một thế kỷ.
Thế kỷ hiện
thời so với thế kỷ trước, xă hội cũng không chỉ rối loạn hơn
trước gấp trăm lần, chẳng phải là
mười lần, mà là vượt hơn gấp trăm lần.
Hiện thời, người ta khổ lắm! Dùng phương
pháp ǵ để giúp đỡ? Ngoài nhân quả ra, chẳng
có phương pháp thứ hai tốt đẹp nào! V́ thế,
chúng tôi mới làm phim truyền h́nh Liễu Phàm Tứ Huấn,
cũng sắp ra mắt trong một thời gian ngắn nữa. Phim truyền h́nh nhằm tuyên truyền, tôi giới
thiệu cùng chư vị hai đĩa, đấy là phiên bản
được quay sớm nhất do Mă Lai thực hiện.
Đấy là công khóa. Tuyên truyền cần thiết, công khóa
càng quan trọng hơn! Do tuyên truyền nên mọi người
đă biết, sau đấy mới nghĩ phải học
như thế nào? Hai đĩa phim ấy là tinh hoa, hai đĩa
phim ấy quư vị hăy khéo học, nhằm sửa đổi
vận mạng của quư vị, dụng ư ở chỗ này!
Hiện thời, Sơn Tây Tiểu Viện và V́ Sao Chẳng
Thể Ăn Chúng Nó là nhân quả trong hiện thời, những nhân vật [trong ấy] hăy c̣n đó, người lẫn sự việc đều
là chuyện thành tựu trong hiện tại, c̣n có hiệu
quả hơn những thứ do pháp sư Ấn Quang đề
xướng! V́ thế, phải dốc sức đề
xướng những thứ ấy, tuyên dương khắp
thế giới ḥng cứu văn thế giới. A! Chúng tôi giảng
bài kệ này đến đây.
Tập 1558
Chư vị pháp
sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi
xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười
một, đoạn lớn thứ bảy trong phần Kệ
Tụng, xin xem bài kệ thứ ba:
(Kinh) Kiến xử lâm tẩu,
đương nguyện chúng sanh, ưng vị thiên nhân, chi
sở thán ngưỡng.
(經)見處林藪。當願眾生。應為天人。之所歎仰。
(Kinh:
Thấy ở rừng rậm, nguyện cho chúng sanh, đáng
được trời người, tán thán, ngưỡng mộ).
Trong bài kệ này,
Thanh Lương đại sư đă giải thích rất
đơn giản bằng một câu nói:
(Sớ) Lâm tẩu, tắc
chúng đức du quy.
(疏)林藪,則眾德攸歸。
(Sớ: Rừng rậm
chính là chỗ các đức hướng về).
Đây
là khất thực tại thành thị, tại vương đô,
hoặc tại vùng ngoại thành. “Lâm tẩu” (林藪) thuộc về ngoại thành, là chỗ có nhiều cây
cối rậm rạp. Bồ Tát từ cảnh giới ấy,
dẫn phát đại nguyện xứng tánh. Phật pháp nói
“vạn đức trang nghiêm”
chính là ư nghĩa này. V́ thế, người ấy (người
khất thực) chẳng phải là đang đi đường,
mà đă tới gần đô thành, tới gần
vương đô, trông thấy [những cảnh vật] tại
đó. Trong vương đô, chắc chắn có những chỗ
chúng ta thường gọi là “hoa
viên”, tức chỗ có nhiều cây cối, hoa cỏ. Quá
nửa là chỗ để dạo chơi ngắm cảnh,
giống như công viên trong đô thị hiện tại. Nó
chẳng phải là vùng ngoại ô, chẳng phải là dă ngoại,
nơi ấy mới dẫn khởi vạn đức trang
nghiêm, v́ đến tụ hội ở đấy đều
là những bậc đức hạnh cao hơn những nơi
khác. Chẳng phải là nói những nơi khác không có cao nhân,
tuy có, nhưng chẳng nhiều như ở nơi
được gọi là “kinh
sư” (京師), tức là nơi đế vương cư trụ.
Nơi ấy chính là nơi văn vật tụ họp. V́
thế, sẽ nghĩ chính ḿnh phải nên dùng vạn đức
để trang nghiêm chính ḿnh. Do vậy, nguyện của người
ấy là “ưng vi thiên nhân, chi
sở tán ngưỡng” (đáng được trời người,
tán thán, ngưỡng mộ), “thán”
(歎) là tán thán, “ngưỡng” (仰) là ngưỡng vọng.
Bài kệ này nếu
nói theo truyền thống Trung Hoa sẽ là “kiến hiền tư tề” (見賢思齊, thấy người hiền mong được bằng).
Ở đây, chúng ta thấy người ta có đạo
đức, có học vấn, có sự tu luyện nhiều
ngần ấy, chính ḿnh nhất định phải nghĩ: Chúng ta phải hướng theo họ học tập, mong bằng họ. Đương nhiên, người
học Phật sẽ từ cảnh
giới ấy lập tức nghĩ tới chư Phật Như Lai, chư đại Bồ Tát; khẳng định
là sẽ nghĩ tới chúng hội của Như Lai. Đấy mới là “vạn đức trang nghiêm” danh xứng với thật! V́ lẽ này, học Phật th́ đến
đâu để học? Quư vị chẳng học theo Phật, sẽ đến nơi đâu để
có thể thành tựu? Lũ b́nh phàm chúng ta cầu học sẽ
đến nơi đâu? Nhất định là phải
đến trường học, là chỗ thầy tṛ nhóm họp,
là chỗ có hoàn cảnh học tập. V́ thế,
họ dễ dàng thành tựu!
Phật môn có câu ngạn
ngữ: “Y chúng, kháo chúng” (Nương tựa đại chúng, dựa vào đại
chúng). Một người tu học, nếu chẳng có thông
minh, trí huệ, nghị lực, chí hướng vượt trỗi kẻ khác, sẽ rất khó thành tựu. Do đó, khi xưa, tổ
sư nhằm khích lệ người đời sau, giúp cho
họ thành tựu đức hạnh và đạo nghiệp
mới kiến lập tùng lâm. Đối với tùng lâm, khi
xưa, tiên sinh Phương Đông Mỹ giới thiệu Phật
pháp cho tôi, lăo nhân gia đặc biệt coi trọng, và cũng
đặc biệt nhấn mạnh, Ngài nói: “Phật giáo Trung Hoa muốn hưng khởi, nhất
định phải phục hưng chế độ tùng
lâm”. Khi đó, tôi vừa mới vào Phật
môn, chẳng biết “chế
độ tùng lâm” là ǵ, nhưng nghe thầy nói vài lần,
ấn tượng cũng rất sâu. Sau này, khi xuất gia bèn rất lưu ư, thầy đă nhắc đến vấn
đề này, mới biết tùng lâm đạo tràng trên thực
tế là đại học Phật giáo!
Chúng ta nh́n vào chế
độ tùng lâm, [sẽ thấy] chủ tịch của tùng
lâm là Hiệu Trưởng, cũng thường gọi là Trụ Tŕ
hoặc Phương Trượng. Danh xưng rất nhiều,
nói theo kiểu hiện thời, vị ấy là Hiệu Trưởng của tùng lâm, tùng lâm là đại học. Dưới đó, chia
thành ba bộ phận, tức là xét theo cách tổ chức của nó, thứ nhất là Thủ Tọa (首座), tức Thủ Tọa ḥa thượng. Vị Thủ
Tọa quản trị giáo vụ. Quư vị thấy trong một
ngôi trường, giáo học được xếp hàng
đầu. Thủ Tọa ḥa thượng không chỉ là một
vị, chia ṭa để giảng kinh. Nếu tùng lâm ấy đông
người, hai, ba ngàn người ở, tức là học tṛ có đến
hai, ba ngàn người, sẽ mở rất nhiều môn
học, chẳng phải là một môn! Mỗi môn học đều phải thỉnh một vị thầy
đến dạy, cho nên gọi là “phân ṭa giảng kinh” (chia thành nhiều giảng ṭa
khác nhau để giảng kinh). “Phân
ṭa” (分座) nghĩa
là pḥng học khác nhau, hiện thời nói là “lớp học
khác nhau”. Quư vị thích học pháp môn nào, bèn vào pḥng học ấy
để nghiêm túc học tập.
Chế độ Phật
giáo chẳng có nhiều [quy định và cơ cấu phức tạp] như trường học trong hiện thời, cũng
chẳng nghiêm ngặt như vậy, mà có tánh chất giống
như các trường dành cho nghiên cứu sinh. Chẳng hạn
như Hoa Nghiêm, Hoa Nghiêm là một khoa mục, nhất định
có một vị Thủ Tọa ḥa thượng làm chủ
giảng. Phàm là người học Hoa Nghiêm, sẽ học
trong pḥng học ấy, trước kia gọi là “điện đường” (殿堂), nay gọi là “giáo thất”
(教室, pḥng học).
Học Pháp Hoa trong một pḥng học khác, học kinh Vô
Lượng Thọ lại là một pḥng học khác nữa.
Tùy thuộc quư vị có bao nhiêu học tṛ, học tṛ ưa
thích khoa mục nào, tùng lâm sẽ thỉnh pháp sư đến
giảng bộ kinh ấy. Có giảng ṭa dài hạn, giảng
ṭa dài hạn là một bộ kinh được giảng
viên măn, môn học ấy kết thúc, học tṛ tốt nghiệp. Chỉ
học một bộ kinh, cũng là “thâm nhập một môn, huân tu lâu dài”.
Dạy học
trong tùng lâm hoàn toàn không coi trọng việc nghiên cứu, thảo
luận kinh giáo, không coi trọng chuyện ấy, mà coi trọng
ngộ tánh. Đấy là thật sự học Phật, chẳng
phải là Phật học, xác thực là mong giúp cho quư vị
tăng tấn, khế nhập cảnh giới. Học Hoa
Nghiêm phải khế nhập cảnh giới Hoa Nghiêm, học
Pháp Hoa phải khế nhập cảnh giới Pháp Hoa, học
kinh Vô Lượng Thọ phải khế nhập cảnh
giới Tịnh Độ, đấy mới tính là thành tựu!
Đương nhiên là căn tánh của học nhân khác nhau,
khế nhập có cạn hay sâu khác nhau. Sâu th́ xác thực là minh
tâm kiến tánh, đấy thật sự là đạt đến
viên măn! Tông Môn, Giáo Hạ khác nhau nơi h́nh thức, khác nhau
về phương pháp, nhưng phương hướng và
mục tiêu hoàn toàn như nhau. Thiền Tông th́ phải minh
tâm kiến tánh, Giáo Hạ cũng phải [minh tâm kiến
tánh], nhưng không gọi là minh tâm kiến tánh, mà gọi là “đại khai viên giải” (大開圓解).
V́ thế, trong việc
dạy học, giảng kinh chính là dạy học, đối
với học tṛ hoàn toàn chẳng có khảo thí, thành tích của
học tṛ nh́n từ chỗ nào? Phức giảng (複講, giảng
lặp lại). Đại khái học tṛ cũng chẳng đông. Từ xưa tới nay, Trung Hoa theo phương pháp dạy
học này, chẳng thể nào một lớp có đến
mấy chục học tṛ, chẳng có lẽ ấy! Trước
kia, thầy Lư bảo chúng tôi, lớp học theo quy mô nhỏ,
một vị thầy tối đa chỉ có thể dạy
mười đứa
học tṛ. Đối với mỗi
tṛ, thầy sẽ có đủ tinh thần để dốc ḷng chú ư. Nếu học tṛ quá đông, thầy chẳng có
cách nào cả, sẽ chăm nom không xuể. Trong quá khứ,
chúng tôi ở dưới ṭa của thầy Lư ở Đài
Trung, thầy mở lớp học kinh chỉ có đến hai mươi mấy học tṛ, nhưng phương
pháp của thầy là cách dạy học trong trường tư
thục, mỗi cá nhân cũng
đều được chú ư. Nói
thật ra, thầy dạy học chỉ dạy hai người.
Hơn hai mươi người [cùng theo học],
nhưng [mỗi bộ
kinh] chỉ dạy hai người. Hai
người ấy ngồi đối diện với thầy,
tức là ngồi ở bàn đầu tiên, thầy dạy
hai người đó. Các đồng học khác ngồi
chung quanh, nói theo kiểu hiện thời sẽ là “dự
thính”. Thầy chẳng hỏi, các vị
chẳng thể lên tiếng, nhưng hai vị đồng
học ấy có thể chủ động nêu câu hỏi với
thầy, thỉnh giáo thầy, chúng tôi ở bên cạnh lắng
nghe. Có khi thầy nghe xong, cười x̣a, chẳng trả lời,
mà hỏi: “Trong các bạn học, ai có thể giải đáp?” Như
vậy th́ quư vị mới có thể đứng lên. Thầy
chẳng lên tiếng, các vị sẽ chẳng thể nói ǵ,
cứ dụng tâm lắng nghe.
Hai vị đồng
học ấy học một bộ kinh. Thầy dạy xong
bộ kinh ấy, hai đồng học ấy lui xuống
chỗ dự thính, lại có hai người khác [thế chỗ].
Thầy dựa theo thứ tự báo danh trước hay sau
để sắp xếp. Người học kế đó
nhất định là học một bộ kinh khác. Thầy
giảng, người ấy nghe, nghiêm túc học tập. Học
xong, trong ṿng bốn hay năm ngày sau, người ấy phải
phức giảng. Phức giảng gồm hai lượt giảng. Phức giảng lần đầu nói chung là bốn
ngày sau khi đă học tập, quư vị phải soạn bài
giảng. Khi phức giảng, cũng là các bạn học
và thầy cùng nghe quư vị lên bục giảng lại, giúp quư
vị sửa chữa sai lầm. Sau đấy, hôm sau lại
lên giảng đài,
giảng cho đại chúng. Thính chúng
cỡ chừng hơn một trăm người. Tại Đài
Trung Liên Xă, nữ chúng th́ ở Đài Trung Liên Xă, nam chúng th́
ở chùa Linh Sơn, chùa có giảng đường. V́ thế,
mỗi tuần đều giảng kinh, do bọn học tṛ
chúng tôi đến giảng, do thầy dạy dỗ, biện
pháp như thế đấy!
V́ vậy, dẫu
là hơn hai mươi người, trên thực tế, thầy
vẫn dạy rất dễ dàng, v́ thầy chỉ dạy
hai người. V́ sao dạy hai người? Giảng kinh
thuở ấy, một người dùng tiếng Phổ Thông
để nói, c̣n phải dịch sang tiếng Đài. V́ thế,
có hai người, một người nói tiếng Phổ
Thông, một người nói tiếng Mân Nam. Giống như
trên giảng đài có hai người, một người giảng,
một người phiên dịch. Thật ra, họ dùng cùng
một bài giảng, hai người cùng lên giảng đài
biểu diễn. Phương pháp này tuy rất vụng về,
đương nhiên
là vẫn có phần nào dáng dấp
của tùng lâm, nhưng dễ dăi hơn quy củ trong tùng lâm. Xét về mặt
tŕnh độ th́ cũng hạ thấp hơn rất nhiều.
Dẫu sao là hàng tại gia, là những kẻ trẻ tuổi
mới học, giống như học Tiểu Học trong Phật giáo,
tùng lâm là đại học Phật giáo, nhưng phải nên
biết là phương thức gần như chẳng khác
biệt cho mấy. V́ thế, một thầy chỉ hướng
dẫn mười mấy học tṛ, thầy mới có tinh
thần để có thể quan tâm trọn hết!
Lớp
học của chúng tôi khi đó là lớp sơ học,
chỉ cần giảng kinh tàm tạm, tức là nhắc lại
lời thầy giảng, không cho phép quư vị phát huy ư kiến
của chính ḿnh, chẳng thể được! Hoàn toàn là
phức giảng những ǵ thầy đă dạy, v́ bản
thân chúng tôi chẳng khế nhập cảnh giới. Phức
giảng mà giảng trật, đó là v́ thầy giảng trật,
chẳng phải là chúng tôi nói trật, thầy phải thay
chúng tôi gánh trách nhiệm. Chúng tôi học giảng kinh theo
phương pháp ấy, đấy là mở đầu. Học
tập kinh giáo, Giáo Hạ, mọi người đều
biết, mục tiêu là phải đại khai viên giải, chẳng nhằm
chú trọng phức giảng. Phức giảng nhằm dẫn
dắt quư vị thuở đầu. Sau khi đă đại
khai viên giải, mở kinh văn ra, quư vị có thể hiểu
ư nghĩa, c̣n cách giảng như thế nào chẳng nhất định,
Phật chẳng có pháp nhất định để có thể
nói! Cách giảng là nhất định phải
quán cơ, Cơ (機) là ǵ? [Cơ là căn cơ
của] thính chúng, cũng có nghĩa là [nhận
biết] nhu cầu bức thiết của thính chúng trong hiện
tiền, họ cần ǵ?
Nói theo nguyên tắc
b́nh thường, thính chúng cần “Tín, Giải, Hạnh, Chứng”, quư vị phải giúp đỡ họ những điều
này. Hễ c̣n có nghi hoặc, đối với pháp môn này hoặc
kinh bổn này, hay môn công khóa này, hễ c̣n có hoài nghi, quư vị
phải giúp họ kiến lập tín tâm. Quư vị có phương
hướng và mục tiêu giảng kinh, làm thế nào để
giúp họ tin tưởng, đoạn nghi sanh tín. Sau khi đă
tin lại nâng cao, phải giúp họ thâm nhập lư giải. Sau khi đă có thể
lư giải, lại giúp họ làm thế nào để vận
dụng những điều đă tin, đă hiểu vào trong cuộc sống, thực hiện trong công việc, thực
hiện trong xử sự, đăi người tiếp vật.
Học những thứ ấy hữu dụng, chẳng phải
là vô dụng! Cuối cùng càng cao hơn, mục tiêu chung cực
là khế nhập cảnh giới, đó là Chứng, tức
là chứng quả. Áp dụng trong cuộc sống hằng
ngày, đó là thực nghiệm. V́ vậy, học vấn Phật
pháp chẳng giả. Xưa kia, Phương tiên sinh giới
thiệu cho tôi, cụ đă nói đây là học vấn chân
thật trác tuyệt. Nó chẳng phải là nói suông, chẳng
phải là huyền học. Nó phải thông qua thực nghiệm.
Hiện thời, cái thông qua thực nghiệm được gọi là khoa học. V́ thế, các lư luận Phật học
nhất định phải được rèn luyện
trong cuộc sống!
Quư vị thấy
kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng là năm mươi ba lần
tham học của Thiện Tài đồng tử. Năm mươi
ba lần tham học chính là trải qua sự việc để
rèn luyện cái tâm. Luyện ǵ vậy? Luyện sao cho sáu căn
trong cảnh giới sáu trần chẳng khởi tâm, không động
niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước,
không sanh phiền năo, chỉ sanh trí huệ. Đấy là như
Huệ Năng đại sư gặp Ngũ Tổ đă
thưa: “Trong tâm đệ tử
thường sanh trí huệ”. Ngài chỉ nói một câu như
vậy, Ngũ Tổ biết ngay Ngài đă đạt đến
mức độ nào, đă đạt đến mức “trải
qua sự việc để rèn luyện cái tâm”, căn tánh quá nhạy
bén. [Lục Tổ là] học tṛ sơ học mà ngay lập
tức thuộc vào giai đoạn thứ tư (tức Chứng),
Tín, Giải và Hành đều chẳng cần bàn tới! Ngài nói về
chuyện “trải qua sự việc
để rèn luyện cái tâm”; [đó chính là Chứng]. V́
thế, thông thường, chúng ta học Phật gồm có
bốn giai đoạn (Tín, Giải, Hành, Chứng). Tông Hoa Nghiêm dùng bốn
giai đoạn để phán định bộ đại
kinh này!
Các vị hăy ngẫm
xem, Phật pháp có phải là khoa học hay không? Người
hiện thời tin tưởng khoa học, chẳng tin Phật
pháp, chẳng biết Phật pháp chính là khoa học, há chẳng
nực cười ư? V́ sao chẳng tin tưởng? Hiểu lầm! V́ phàm nhân thường nói “Phật giáo
là mê tín”. Do tôn giáo là mê tín, cho nên Phật giáo cũng là mê tín.
Chụp cho cái mũ mê tín, chẳng dụng tâm quan sát, chẳng
liễu giải, chẳng nhận thức Phật giáo. [Phật
pháp là] khoa học thù thắng nhất, thế mà lại vứt
bỏ, đó là môn khoa học có lợi ích nhất, trăm điều
lợi, chẳng có hại điều nào! Khoa học Âu Tây trong hiện thời có thể nói là
“lợi ít, hại nhiều!” Ba mươi năm trước,
tiến sĩ Thang Ân Tỷ (A. Toynbee) đă nói, khi ấy, tôi
cũng chưa được nghe nói, nay thấy trong sách của
ông ta có viết, người này có tầm nh́n xa: “Mỗi thứ phát minh khoa học
cố nhiên đem lại những tiện lợi cho chúng
ta, nhưng nhân loại phải trả giá đau đớn,
thê thảm!” Ông ta nói như vậy đấy! Quư vị
suy ngẫm, [sẽ thấy] đúng thế! Chẳng
sai tí nào!
Phát minh máy bay, tàu
thủy, du hành thuận tiện. Xe hơi là công cụ giao
thông hiện đại. Tôi nghĩ chúng ta đang phải trả
giá ǵ vậy? Loại t́nh cảm sâu đậm giữa con người
như xưa kia chẳng c̣n. T́nh thân thiết giữa con người
với nhau, t́nh cảm tôn trọng, yêu thương, chăm
sóc, quan tâm lẫn nhau, quan niệm hỗ trợ hợp tác
như xưa kia chẳng có! Trước kia, chẳng có những
thứ phát minh khoa học kỹ thuật ấy, lữ hành
là ǵ? Lữ hành bèn cưỡi ngựa, hoặc ngồi xe
ngựa, xe ḅ, một ngàn dặm đường gần như
phải đi mất mười ngày. Bạn bè lâu năm gặp
gỡ, đi đường xa như thế, đi mất
mười ngày mới đến, t́nh cảm khác hẳn! Hiện
thời, một ngàn dặm đường, máy bay mất một
giờ, ngồi xe th́ sáu, bảy tiếng đồng hồ,
loại nhiệt t́nh ấy chẳng có, cái giá phải trả
nói thật ra là “cái được
chẳng bù đắp nổi cái mất”. V́ thế, ông
ta (tiến sĩ Thang Ân Tỷ) nói, đối với mỗi
thứ phát minh th́ mỗi lần đều phải trả
giá rất lớn. Khoa học kỹ thuật phát triển
đến mức tột cùng cũng là ngày tàn của nhân loại.
V́ sao? Quư vị đă phải trả giá hết sạch, trả
hết ráo rồi. Trả hết ráo th́ nhân loại bị hủy diệt, các tôn giáo thường nói là “tận thế”. Trả giá bằng sanh mạng, bằng
toàn bộ sự sanh tồn của chúng ta, sẽ cùng chết ngủm với khoa
học kỹ thuật!
Nhưng khoa học
của nhà Phật sanh từ trí huệ, nó là chánh diện, chẳng
phải là phản diện! V́ sao khoa học kỹ thuật
phát triển đến cuối cùng sẽ có hiện tượng
bi thảm như vậy? V́ nó chẳng có ĺa khỏi vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, cũng có
nghĩa là nó chẳng ĺa khỏi tập khí phiền năo, chẳng
ĺa khỏi tham, sân, si, mạn, sự phát triển ấy sẽ
có những thói tệ, sẽ có tác dụng phụ! Đối
với Phật pháp, quư vị thấy kinh Kim Cang nói: “Vô ngă tướng, vô nhân tướng,
vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng”.
Kinh Hoa Nghiêm nói “xả vọng
tưởng, đoạn phân biệt, chấp trước”.
Trong ấy chẳng kèm theo phiền năo, chẳng có tập
khí, thuần chân vô vọng. V́ thế, quan sát cặn kẽ
trong ấy, [sẽ là] đầy đủ trí huệ viên măn; luân lư, đạo
đức viên măn, trời, người tán thán, trời, người
ngưỡng mộ, đạo lư ở chỗ này!
Chỗ Phật, Bồ
Tát giảng kinh thường gọi là “đạo tràng”, chúng ta nói là “nơi chốn”. Thuở
Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, phần lớn chỗ
giảng kinh là núi rừng, dưới cội cây, bên bờ
sông, nay nói là “dă ngoại”, chẳng
có bất cứ thiết bị ǵ. Ở nơi đó, có một
tảng đá lớn, đức Phật trải lên đó
một ít cỏ làm đệm, ngồi trên tảng đá ấy.
Khi chẳng có tảng đá th́ chỗ nào hơi cao hơn bèn
trải cỏ làm ṭa nơi đó, đức Phật ngồi
tại đó. Các đồng học vây quanh bốn phía, nghe
đức Phật giảng kinh, dạy học, chẳng có
bất cứ thiết bị ǵ! V́ thế, khi giảng kinh
th́ chỗ giảng kinh được gọi là “đạo tràng”. Thính chúng có lúc
mấy trăm người, có khi mấy ngàn người,
chẳng kể là đông! Nhưng quư vị phải biết,
trời, rồng, quỷ, thần, nhân phi nhân v.v… số
lượng chẳng biết là bao nhiêu. “Phật dĩ nhất âm nhi thuyết pháp, chúng sanh tùy
loại các đắc giải” (Đức Phật
dùng một âm thanh để thuyết pháp, chúng sanh tùy theo từng
loài mà đều hiểu). Những loài ấy (các chúng sanh
thuộc những chiều không gian khác nhau) trông thấy đạo
tràng ấy, đạo tràng ấy là ǵ? Các phẩm đức đều hội tụ!
Đức Phật
là bậc đại đức, mỗi vị thính chúng của
đức Phật cũng đều là bậc đại
đức; v́ thế, trời, người tán dương.
Quư vị nói xem, ai nh́n thấy? Đức Phật trông thấy.
Đức Phật là ngũ nhăn viên minh. Phật nhăn chẳng
bị chướng ngại bởi các chiều không gian, Ngài
đă đột phá toàn bộ. Mắt chúng ta rất tệ!
Các nhà khoa học nói, để mắt thịt của con người
có thể trông thấy, phải có ánh sáng th́ mới có thể
trông thấy. Không có ánh sáng, sẽ chẳng
thấy. [Nếu
như] ánh sáng của mặt trời,
mặt trăng hay đèn đều chẳng có, quư vị sẽ
không thấy ǵ hết. V́ thế, x̣e tay ra, chẳng thấy năm ngón tay. Chúng ta có thể
trông thấy là nhờ vào ánh sáng.
Mắt có thể thấy ánh sáng hết sức hạn hẹp.
Các nhà khoa học bảo: Đối với ánh sáng, chẳng hạn
như có một trăm loại ánh sáng khác nhau, nhục nhăn
chỉ có thể thấy hai phần trăm! Nói cách khác, c̣n
có chín mươi tám phần trăm chẳng trông thấy!
Phật nhăn rất nhạy bén, Ngài có thể thấy một
trăm phần trăm. Bồ Tát có thể thấy bảy
mươi, hoặc tám mươi phần trăm. A La Hán
cũng có thể thấy bốn mươi, năm mươi
phần trăm, năng lực mạnh hơn chúng ta quá nhiều.
Quư vị nói Dục Giới Thiên, Sắc Giới Thiên, A La Hán
đều có thể trông thấy. Sơ Quả Tu Đà Hoàn
có thể trông thấy ngạ quỷ, địa ngục, và chư
thiên Dục Giới. Mọi người cùng nhau học tập,
tin tức giảng kinh của đức Phật, tùy thuận
Tánh Đức của Phật, Bồ Tát, trong khoảng sát-na
sẽ trọn khắp pháp giới, quư vị biết thính
chúng đông cỡ nào!
Phật, Bồ Tát
chẳng trụ thế, A La Hán cũng chẳng trụ thế.
Đấy là ǵ? Đấy là do chúng sanh bạc phước,
thánh nhân không đến. Có phải là thánh nhân có ư nghĩ chẳng
đến hay chăng? Chẳng phải vậy! Ngài cũng
chẳng có ư nghĩ sẽ đến. Nói cách khác, hễ chúng
sanh có cảm th́ Ngài sẽ ứng. Thiện dấy lên cảm
ứng với thiện, ác cũng dấy cảm ứng với ác. Chúng
ta thường nói, “khí phận giống nhau, tự nhiên nẩy sanh cảm
ứng”. Tâm
hạnh của chư Phật, Bồ Tát thuần thiện. V́ thế, dân cư ở nơi đây có nhiều người
thiện tâm, thiện hạnh, tự nhiên là Phật, Bồ
Tát sẽ đến. Thiện tâm, thiện hạnh là cảm,
tự nhiên sẽ ứng. Giống như trong thí nghiệm
với nước của tiến sĩ Giang Bổn Thắng,
nước chẳng có tâm, chúng ta đối với nó bằng
thiện niệm, phản
ứng là h́nh mẫu kết tinh sẽ hết
sức đẹp đẽ. Chúng ta dùng tâm bất thiện
đối với nó, phản ứng của nó cũng rất
khó coi. Đạo lư là như thế đó!
Đại đa số
người trong thế gian hiện thời, chỉ sợ
là đến chín mươi mấy phần trăm, ai mà chẳng
có tâm tham? Ai chẳng có ngạo mạn? Ai không ngu si? Tâm là tham,
sân, si, mạn, nghi. Ai chẳng tham tài? Ai chẳng tham sắc?
Ai chẳng háo danh? Ai chẳng muốn quyền lực? Tranh
danh đoạt lợi! Tham lam đă thành tập tánh, khởi
tâm động niệm toàn là tổn người lợi
ḿnh. Những thứ này cũng cảm, cảm ǵ vậy? Cảm
các loài yêu ma quỷ quái, la-sát, Tu-la, cảm những thứ ấy
ṃ đến. Đấy là ǵ? Những thứ ấy đến
giúp quư vị làm loạn! V́ thế, bản thân chúng ta sống
trong thế gian này, vận mạng của chính ḿnh là do nghiệp
lực của chính ḿnh chiêu cảm. Vậy th́ nếu quư vị nói “tâm mọi người
bất thiện, tâm ta thiện, ta ở chung với mọi
người, cũng sẽ bị liên lụy hay sao?” Chẳng
phải vậy! Kinh Lăng Nghiêm đă dạy rất rơ ràng,
“nghiệp lực có đồng
phận vọng kiến, có biệt nghiệp vọng kiến”,
chúng ta thường nói là có cộng nghiệp và có bất cộng
nghiệp.
Cộng nghiệp
là ǵ? Mọi người đều có. Bất cộng nghiệp
là cá nhân riêng có. Chúng ta đă sanh vào
thế gian này, tức là có cộng
nghiệp với thế gian này, nhưng những sự gặp
gỡ trong suốt đời mỗi người sẽ khác
nhau! Trong đời này, thật khó có là chúng ta gặp gỡ
giáo huấn của thánh hiền, gặp gỡ giáo huấn
của Phật, Bồ Tát, y giáo phụng hành, vậy th́ biệt
nghiệp của chúng ta sẽ chẳng giống biệt
nghiệp của những kẻ b́nh phàm. Rất rơ rệt,
tâm kẻ khác bất thiện, tâm chúng ta là thiện. Kẻ khác suy nghĩ
bất thiện, chúng ta suy nghĩ những điều thiện.
Quyết định chẳng có ư niệm tổn thương,
làm hại chúng sanh, đối với muỗi, kiến
cũng chẳng nỡ ḷng tổn thương. Bị
người khác hủy báng, lăng nhục, chúng ta coi như
chẳng có chuyện ǵ, quyết định chẳng sanh ḷng
nóng giận, quyết định chẳng có ư niệm trả
đũa! Lại c̣n thương xót họ, thương xót
họ v́ lẽ ǵ? Tư tưởng, hành vi của họ có
lỗi lầm, lỗi lầm ǵ vậy? Trái nghịch Tánh
Đức của họ. Lỗi lầm ấy chẳng kết tội với
người khác, mà là [kết
tội] với chính bản thân họ, nhất
định phải hiểu đạo lư này!
V́ bản tánh của
mỗi người vốn lành, [những thứ như] tham, sân, si, mạn, bất thiện, thị phi, nhân ngă đều là bất thiện, [hay nói gọn là] tham, sân, si, mạn, trong tự tánh đều chẳng
có! Chúng ta thường nói đến ích kỷ, thị phi,
nhân ngă, ngũ dục, lục trần, trong tự tánh thảy
đều chẳng có. Những thứ ấy hoàn toàn trái
nghịch tự tánh. Hễ trái nghịch tự tánh, quư vị
sẽ đọa lạc, từ Nhất Chân pháp giới đọa
lạc vào mười pháp giới. Nếu quư vị chẳng
thể giác ngộ tập khí ấy, chẳng thể sửa
đổi nó, sẽ càng hăm sâu hơn, quư vị luân hồi trong
ấy, mỗi lần càng sâu hơn, chẳng thể giảm
bớt, mà sẽ càng sâu đậm hơn. Chuyện này rắc
rối to lớn! Do vậy, [đối với kẻ] tâm hạnh
bất thiện, người thật sự học Phật,
tức người thật sự học Phật được
thọ dụng, chắc chắn sẽ sanh khởi ḷng thương xót. Bản thân chúng ta đức hạnh
và trí huệ chẳng đủ, chẳng có cách nào giúp đỡ,
đúng là ḷng có thừa mà sức chẳng đủ!
Phật, Bồ Tát
chẳng đến, “chẳng đến” nghĩa là sao? Chúng ta chẳng có duyên
để cảm! Bản thân chúng ta cầu Phật, Bồ
Tát có cảm ứng, hướng dẫn đại chúng cầu
Phật, Bồ Tát chẳng được, để
hướng dẫn đại chúng th́ phải có đông người.
Nếu ở nơi đây chúng ta có mấy trăm người, mấy
ngàn người, đều có thể như pháp tu hành, sẽ
có cảm ứng. Sự cảm ứng ấy có thể cảm
Phật, Bồ Tát đến thế gian này dạy bảo chúng ta, đấy là người ở
nơi này đều có phước. Thật sự chí
đồng đạo hợp quá khó khăn! Tôi học Phật
năm mươi lăm năm, mong cầu một đạo
tràng đúng pháp mà chẳng cầu được! Quư vị
nói xem, một đạo tràng đúng pháp khó hay dễ? Nếu
quư vị nói chẳng khó, thật sự chẳng khó! Bốn
người cùng nhau tu hành, ai nấy đều tuân thủ
Lục Ḥa Kính, đấy là đạo tràng đúng pháp! Nếu
Hương Cảng có một đạo tràng như vậy,
toàn thể người Hoa, toàn thể người tại Đông
Nam Á đều có phước, tai nạn ǵ cũng đều
chẳng có. V́ sao? Được chư Phật hộ niệm,
được long thiên thiện thần che chở!
Nay quư vị hăy ngẫm
xem, quư vị có thể t́m được bốn người
hay chăng? Cổ nhân Trung
Hoa chẳng nói là bốn, mà nói là ba, “tam nhân đồng
tâm, kỳ lợi đoạn kim” (ba người đồng
ḷng, sắc bén cắt vàng). Chẳng t́m thấy người
đồng ḷng! Hiện thời, chẳng cần nói là ba
người, một ḿnh quư vị
phát tâm, quư vị có thể phát khởi cái tâm ấy hay không? Một chặp hoài nghi, một chặp
thoái chuyển, một chặp tập khí hiện tiền, bản
thân ta chẳng làm Lục Ḥa Kính được! Đức Phật nói bốn người, bốn người
thật sự thực hiện Lục Ḥa Kính. Chư vị
phải hiểu, nếu thật sự thực hiện Lục
Ḥa Kính, chúng tôi đă nghĩ, chắc chắn là Đệ Tử
Quy, Thập Thiện Nghiệp Đạo, Tam Quy, Ngũ Giới,
giới Sa Di, giới Bồ Tát thảy đều làm
được,
làm được một trăm phần
trăm! Khi ấy, Lục Ḥa Kính sẽ hiện tiền. V́ thế,
hiện thời chẳng t́m được bốn người!
Mấy ai thực hiện Đệ Tử Quy? Mấy ai thực
hiện Thập Thiện Nghiệp? Mấy ai thực hiện
Tam Quy, Ngũ Giới? Mấy ai thực hiện Sa Di Luật
Nghi, giới tỳ-kheo, giới Bồ Tát? Chẳng có! Một
người cũng chẳng có! Chính ḿnh cũng chẳng làm được! Nói cách khác, một đạo
tràng đúng pháp chẳng có, làm sao Phật, Bồ Tát có thể
đến cho được?
Chúng ta lại
thường nghe nói, nhà Phật nói: “Phật,
Bồ Tát đại từ đại bi, cứu khổ cứu
nạn, nơi nào có lắm người khổ sở, các
Ngài sẽ đến đó”. Chẳng sai! Xác thực
là Phật, Bồ Tát chẳng bỏ chúng sanh, nhưng như
thế nào? Các Ngài quyết định chẳng dùng thân phận
Phật, Bồ Tát để đến. Nếu dùng thân phận
Phật, Bồ Tát để xuất hiện, không chỉ là
chẳng thể tiêu nghiệp chướng cho chúng sanh,
ngược lại, c̣n đem lại tai nạn to hơn
cho chúng sanh! Đấy là đạo lư ǵ vậy? Quư vị
phải hiểu rơ, tâm hạnh và luồng sóng tư
tưởng bất thiện của quư vị sẽ chiêu cảm
khá nhiều yêu ma, quỷ quái. Phật, Bồ Tát đến
nơi đây, thật sự đến, yêu ma, quỷ
quái có thế lực rất lớn, chúng nó sẽ hủy
báng Tam Bảo. Quư vị sẽ nghe lời chúng nó, tin là thật.
Do v́ quư vị chẳng có năng lực, chẳng có trí huệ
phân biệt chân, vọng, tà, chánh, đúng, sai, chẳng có cách
nào phân biệt, sẽ bị chúng nó xúi giục mà hủy
báng, khinh nhục Tam Bảo, tội càng nặng hơn! V́ thế,
Phật đến là từ bi, không đến cũng là từ
bi, quyết định chẳng thể dùng thân phận Phật,
Bồ Tát!
Vậy th́ dùng thân phận
ǵ? Chẳng nhất định, quyết định là [thuận
theo từng] cá nhân. Bản thân quư vị có thiện tâm, có chân
tâm, sẽ có cảm ứng. Đối với sự cảm
ứng ấy, nếu tâm địa của quư vị rất
thanh tịnh, rất điềm tĩnh, chẳng bộp chộp,
xáo động, chúng ta nói là “rất b́nh lặng”, quư vị sẽ
cảm thấy phiền năo nhẹ nhàng, trí huệ tăng
trưởng. Phiền năo mỗi năm một ít hơn, trí
huệ mỗi năm một tăng thêm. Trong ấy, c̣n có Phật,
Bồ Tát gia tŕ quư vị. Hoặc là hiển nhiên, hoặc
ngấm ngầm, giúp đỡ, chiếu cố quư vị trong
ấy. Đúng là “trong cửa
nhà Phật, chẳng bỏ một ai”. Đó gọi là “biệt
nghiệp”, tức là sự báo ứng cá biệt.
Gặp những người chí đồng đạo hợp,
tụ tập lại, khéo
nghiêm túc học tập, nói theo hiện
thời th́ cũng là một đoàn thể khó có. Đoàn thể
ấy có phải là Lục Ḥa Kính hay chăng? Vẫn chưa
làm được! Hễ thực hiện Lục Ḥa Kính th́
tốt quá rồi!
Lục Ḥa Kính thật
sự là phải có bốn vị đại đức thật
sự phát tâm, bỏ ḿnh v́ người! Phải đạt
tới chuẩn mực vô tướng như kinh Kim Cang
đă dạy, thật sự làm được “vô ngă tướng, vô nhân tướng,
vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng”.
Khi ấy, ba căn cội như chúng ta đă nói là Đệ
Tử Quy, Thập Thiện Nghiệp Đạo và Cảm Ứng
Thiên của Đạo giáo, cũng như Tam Quy, Ngũ Giới, Sa Di Luật
Nghi đều làm được một trăm phần
trăm! Từ chỗ này, quư vị mới hiểu, hai món quan
trọng nhất
trong Lục Ḥa Kính là Kiến Ḥa
Đồng Giải và Giới Ḥa Đồng Tu mới có thể
làm được. Nếu quư vị vẫn c̣n chấp
tướng, tức là quư vị c̣n chấp trước,
c̣n có phân biệt, sẽ chẳng làm được! Đặc
biệt là chấp trước! Phải thật sự buông
xuống chấp trước, phiền năo phân biệt nhẹ
hơn th́ mới có thể khế nhập cảnh giới này,
mới có thể từ chỗ này dần dần tăng tấn,
thật sự là “vạn đức
trang nghiêm”. Do vậy có thể biết, cảnh giới
hiện tiền th́ phải hồi quang phản chiếu, phải
biết phát tâm tăng tấn chính ḿnh, đó là đúng. Chúng
tôi nói bài kệ này tới đây!
(Kinh) Nhập lư khất
thực, đương nguyện chúng sanh, nhập thâm pháp
giới, tâm vô chướng ngại.
(經)入里乞食。當願眾生。入深法界。心無障礙。
(Kinh:
Vào xóm khất thực, nguyện cho chúng sanh, nhập pháp giới
sâu, tâm không chướng ngại).
Đây là sau khi đă
tiến vào thành thị. “Lư” (里) nói theo hiện thời là “đường phố”. Đến
phố phường, cùng với bài kệ kế tiếp là
đến “môn hộ” (門戶) của người ta. Tới chỗ ấy, đại
nguyện xứng tánh của Bồ Tát sẽ tràn trề nẩy
sanh, nguyện cho hết thảy chúng sanh “nhập thâm pháp giới, tâm vô chướng ngại”
(nhập pháp giới sâu, tâm không chướng ngại). Trong
kinh Phật thường nói, nhu cầu trong đời sống
vật chất của đệ tử xuất gia nhà Phật
trông cậy đại chúng cúng dường. Nhu cầu của
họ rất hữu hạn, mỗi ngày là một bữa cơm,
nhu cầu chẳng nhiều! Trai chủ (người bố
thí) nếu gia cảnh giàu có đôi chút, cúng dường cho
họ một bát cơm, nhu cầu trong một ngày của họ
đă được thỏa măn. Rốt cuộc, trong xă hội
người giàu có ít ỏi, người nghèo khổ đông
đảo, từ xưa đến nay gần như chẳng
có ngoại lệ. Đô thành của đế vương
cũng chẳng phải là ngoại lệ, nghèo giàu chẳng
đều! Đấy là do nguyên nhân nào? Nhà Phật nói là nghiệp
lực, chúng ta chớ nên không biết điều này.
“Khất thực” nhằm duy tŕ
thân mạng, “khất pháp” nhằm
tăng tấn huệ mạng của chính ḿnh. Tỳ-kheo (Bhikṣu) là tiếng Phạn, dịch sang tiếng
Hán, ư nghĩa thứ nhất là Khất Sĩ. “Khất” (乞) là khất
thực, người Hoa nói là “xin
cơm, ăn xin”. Nhưng chữ tiếp theo hay lắm,
người xin xỏ này chẳng phải là thường
nhân, mà là Sĩ. Trong xă hội Trung Hoa vào thời cổ, Sĩ
có thân phận và địa vị cao nhất, ông ta là người
đọc sách, có học vấn, có đạo đức. Tuy có học
vấn, có đạo đức, ông ta sống đời khất
thực, xin đại chúng một bát cơm. Mỗi ngày xin
một bát cơm, đối với đức Phật th́
khất pháp, tức là mong tiếp nhận giáo huấn của
Phật Đà. Người ấy có hai cái mạng, thân thể này là thân mạng. Ngoài thân mạng ra, quan trọng hơn
là huệ mạng, tức “Pháp
Thân huệ mạng”. Quư vị thấy từ khất thực
để nuôi thân mạng, bèn nghĩ “nhập thâm pháp giới, tâm vô chướng ngại”
(nhập pháp giới sâu, tâm không chướng ngại).
Đấy là Pháp Thân huệ mạng, quan trọng hơn thân
mạng của chúng ta. [Bởi lẽ], thân mạng có sanh diệt,
huệ mạng chẳng có sanh diệt.
Gần đây, có các
đồng học nghe cư sĩ Chung Mậu Sâm báo cáo những
nghiên cứu về sanh mạng luân hồi của các học
giả phương Tây. Ông ta đọc chẳng ít, báo cáo với
chúng ta. Tôi nghe một đoạn, nói đến nước
Mỹ có một vị tiến sĩ là Ngụy Tư (Brian
L. Weiss)[3], trong bài báo
cáo của ông ta có một câu chuyện như thế này: Ông
ta vận dụng tâm lư trị liệu, giúp người khác
điều trị những nghi nan tạp chứng, hiện
thời hết sức phổ biến tại ngoại quốc.
Án lệ (hồ sơ bệnh
án) này là giúp người bệnh
dưới t́nh trạng thôi miên sâu, sẽ kể ra những
chuyện gặp gỡ trong kiếp trước ḥng t́m ra
nguyên nhân gây bệnh. Đồng thời, trong khi đó, sau
khi họ ngưng đối thoại, đột nhiên có âm
thanh. Âm thanh ấy chẳng thuộc vào nội dung tṛ chuyện
của hai người bọn họ, theo phán đoán th́ là
thần linh nhờ cơ duyên này để truyền đạt
tin tức cho nhân gian. Chuyện này phát sanh rất nhiều.
Câu chuyện này rất có nghĩa, có thể ấn chứng
cho những điều chúng tôi đă nói hôm nay.
Vị thần linh
ấy cho chúng ta biết, sanh mạng chẳng có ngằn hạn,
con người quyết định chẳng chết. Mọi
người nghe chuyện này cũng rất an ủi, các vị
cứ tưởng con người sẽ chết đi. Con
người không chết! Không chỉ là con người không
chết, mà trên thực tế, cũng chẳng có sanh ra! Điều
này rất gần với ư nghĩa trong giáo pháp Đại
Thừa. Đức Phật nói “bất sanh bất diệt”; bất
sanh bất diệt là nói đến Pháp Tánh. Nhưng vị
thần linh ấy chẳng thuộc tầng bậc cao như
đức Phật. Chúng ta quan sát kỹ lưỡng nội
dung của những điều ông ta nói, [sẽ biết] ông
ta chẳng thoát khỏi lục đạo. Không chỉ là chẳng
thoát khỏi lục đạo, có thể là ông ta chỉ thuộc
trong Dục Giới. Dục Giới cũng rất lớn.
Dục Giới kể từ Tha Hóa Tự Tại Thiên trở
xuống, có sáu tầng trời, có Tu La, loài người,
dưới đó là súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục,
phạm vi rất lớn, tối thiểu cũng có mười
mấy loại chiều không gian khác biệt. Các nhà khoa học
hiện thời đă đề cập, thừa nhận: “Trong vũ trụ, tối thiểu có mười một
loại chiều không gian khác nhau tồn tại”. Những
chiều không gian khác nhau ấy, theo cách nh́n của Phật pháp, được gọi là Dục Giới Thiên. Dục Giới Thiên gồm
sáu loại [chiều không
gian] bất đồng, tức là sáu tầng trời của Dục Giới, cộng với
nhân đạo, Tu La, ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục,
sáu cộng với năm chẳng phải là mười một
ư? Nói cách khác, hoàn toàn chưa đạt tới Sắc
Giới và Vô Sắc Giới!
Sắc Giới có
mười tám tầng trời, tức là mười tám chiều
không gian khác nhau. Vô Sắc Giới có bốn tầng trời,
lại là bốn chiều không gian khác nhau. Đấy là cách
nói của các nhà khoa học, chúng ta dùng Phật pháp để
đối chứng, th́ [khoa học chỉ biết đến]
Dục Giới. Trong Dục Giới có mười một loại
chiều không gian khác nhau, cũng rất đáng nể! Luân
hồi trong ấy, tức là luân hồi trong Dục Giới
chính là ǵ? Chúng ta thường nói là “linh hồn”. [Linh hồn] có sanh tử hay không? Chẳng
có! Nhưng quư vị xem những tin tức ấy, sẽ biết
những lời đức Phật dạy hoàn toàn chánh xác.
Vị thần linh ấy chỉ nói đến nhục thể
bất đồng hoặc những không gian đă trải
qua, vĩnh viễn chẳng có ngưng nghỉ. Đấy
là luân hồi! Thân có hư hoại, nhục thể hữu
hoại, có sanh diệt, linh hồn nương gá vào thân thể
này để sống một khoảng
thời gian. Tới khi thân thể hư hoại, nó lại
t́m một thân thể khác.
Khi linh hồn của một
người rời khỏi, thân thể ấy sẽ chết.
Thật ra, người ấy hoàn toàn chẳng chết, người ấy lại t́m một thân thể khác,
thay đổi thân thể, [cho nên] cũng chẳng có sanh! Giống
như chúng ta cởi rồi mặc quần áo. Quần áo đă
rách rưới, cũ kỹ, không ưa thích nữa, thay một
bộ khác, chính là như vậy. Nhưng câu sau đó quan trọng,
“vĩnh viễn chẳng có
ngưng nghỉ” tức là luân hồi không ngừng. Phật
pháp nói là “sanh tử b́ lao” (sống
chết nhọc nhằn), chẳng có ngưng dứt, đấy
là chân tướng sự thật. V́ thế, quư vị hiểu
ở đây có hai loại mạng. Nhục thể là thân mạng,
chúng ta khất thực nhằm nuôi thân mạng. Hướng
về Phật, Bồ Tát khất pháp, nhằm nâng cao linh tánh
chân thật của chính ḿnh. Đó là chính ḿnh thật sự,
nhưng đấy vẫn chẳng phải là thuần chân,
chỉ là chân thật hơn thân thể này. Nó luân hồi trong
lục đạo, chúng ta phải tăng tấn, tăng
cao hơn, chớ nên đọa lạc. Thân mạng là giả,
nâng cao linh tánh mới là thật. Đấy là người
thật sự thông minh, chẳng làm những thứ giả.
Thứ hai, v́ sao phải
luân hồi? V́ sao luân hồi trong lục đạo? Trước
hết, chúng ta dùng cách nói của các nhà khoa học. Cách nói về
luân hồi của các nhà khoa học chỉ giới hạn
trong Dục Giới, chẳng nói đến Sắc Giới
và Vô Sắc Giới. Họ chẳng đạt đến cảnh
giới ấy cũng là có đạo lư. V́ sao? [Để đạt đến] Sắc Giới và Vô Sắc Giới cần Thiền
Định, cần công phu định lực. Các nhà khoa học
chẳng có công phu định lực, chỉ dựa vào các
máy móc khoa học để quan sát, chẳng hề có công phu
định lực! V́ thế, tối đa là họ chỉ
có thể đạt tới tầng trời chót đỉnh
của Dục Giới Thiên, tức là Tha Hóa Tự Tại Thiên.
Dục Giới có sáu tầng trời, chúng ta phải ghi nhớ:
Từ nhân gian đi lên là Tứ Vương Thiên, lại lên cao hơn là Đao Lợi Thiên, người Hoa gọi
[chúa cơi trời Đao Lợi] là Ngọc Hoàng đại
đế, tức là Thượng Đế được
nói đến trong rất nhiều tôn giáo. Nếu lên cao hơn
nữa, cần phải có Thiền Định, chưa đắc
Định, tiểu định chẳng phải là đại
định, [sẽ là] Dạ Ma Thiên, Đâu Suất Thiên, Hóa
Lạc Thiên, và Tha Hóa Tự Tại Thiên. Trong phạm vi luân
hồi ấy đều có khổ lạc khác nhau, chưa đoạn
dục, bất quá chỉ là càng lên cao, dục vọng càng
thấp, càng nhẹ, người ấy càng tiến lên cao.
Dục vọng càng nghiêm trọng, sẽ càng đọa lạc
xuống dưới.
V́ sao con người
đến nhân gian? Tiến sĩ Ngụy Tư (Brian L. Weiss) đă từ lời kư thác của thần linh, cho biết
sở dĩ con người phải sanh vào trong nhân gian, dùng
h́nh thức nhục thể để tồn tại, là v́
phải làm việc, hoặc v́ trả nợ. Ông ta nói nhiều
ngần ấy, nếu chúng ta hỏi đức Phật về
vấn đề này: “Bạch Phật! Người thế
gian đông đảo ngần ấy, v́ sao họ sanh vào nơi
đây?” Đức Phật sẽ trả lời rất đơn
giản, “thù nghiệp” (酬業, đền trả nghiệp). Đời người
nhằm trả nghiệp, đền trả nghiệp báo của
quư vị, c̣n ông ta (Brian L. Weiss) nói là “trả nợ”. Một loại người khác là
“làm việc”, “làm việc” nói theo Phật pháp
sẽ là “độ sanh”, tức Phật, Bồ Tát thừa nguyện tái lai. Chúng sanh có
cảm, các Ngài sẽ đến. Các Ngài cũng đến thế
gian này, chẳng phải là để trả nợ, các Ngài
chẳng có nợ nần, đến để làm ǵ? Đến
giúp đỡ những chúng sanh khổ nạn; v́ thế, gọi là “thừa
nguyện tái lai”. Hai nguyên nhân ấy giống như đức
Phật nói. Trả nợ th́ có đền nợ mạng, có
đền nợ tiền, c̣n có đền nợ nhân t́nh. Nợ
quá nhiều!
Tiếp đó nói,
trong một đời, mỗi cá nhân chỉ nhớ
được những chuyện gặp gỡ trong một
đời này, quên bẵng những chuyện gặp gỡ
trong đời trước. Đấy là hiện tượng
rất phổ biến. Người có thể nhớ đời
trước tuy có, nhưng là thiểu số, rất ít.
Trong kinh Phật cũng có nói, một người sanh ra mà có
thể nhớ được chuyện đời trước
là chuyện như thế nào? Đoạt thai. Người ấy
chẳng nhớ chuyện đời trước là v́ ở
trong thai mẹ mười tháng, kinh Phật h́nh dung người
ấy ở trong tù ngục, nên gọi là “thai ngục” (胎獄). Mười tháng là thai ngục, sống một ngày
bằng một năm. Mẹ uống một chén nước
lạnh, con giống như đang ở trong địa ngục
Hàn Băng, rét chết luôn! [Mẹ]
uống một chén nước nóng, [con
cảm thấy] giống như đang ở trong địa ngục Bát Nhiệt bị lửa thiêu đốt, khổ chẳng thể nói nổi!
Do đau khổ quá lớn, quên sạch sành sanh những chuyện
trước kia!
Có thể nhớ
chuyện đời trước là chuyện như thế
nào? Khi mẹ có mang là [mang thai] người khác, người
ấy đến nhập thai, nhưng duyên của người
ấy với bà mẹ ấy chẳng sâu. Người ấy cũng đến đ̣i
nợ, khiến cho mẹ chịu tội mười tháng. Người
ấy cũng chẳng vui sướng ǵ, vừa sanh ra đă
chết, ra đi. Một linh hồn khác nương vào thân
thể ấy, nên liền sống lại, nhưng [linh hồn của] người sống đó chẳng phải là [linh hồn]
của người trước đó (người đến
đầu thai). Linh hồn ấy do chẳng phải chịu
đựng mười tháng thai nghén, chuyện đời
trước thảy đều biết, trong Phật pháp gọi
là “đoạt thai” (奪胎). Đầu thai thông thường th́ gọi là “tọa thai” (坐胎). Kẻ tọa thai sẽ chẳng nhớ [chuyện
trong đời trước], c̣n người đoạt
thai th́ ghi nhớ. V́ vậy, trong thế gian này, xác thực
là rất ít, rất ít người thật sự biết
chuyện đời trước. Trong báo cáo của tiến
sĩ Chung (Chung Mậu Sâm) cũng trích dẫn rất nhiều trường hợp,
quá nửa là trẻ nhỏ [ghi nhớ chuyện đời
trước]. Dựa theo những điều chúng nó nói để
điều tra th́ đều là thật, chẳng giả.
Đấy là các trường hợp đoạt thai!
Tiếp đó nói,
trong một đời, mỗi cá nhân đều có tập
khí bất hảo, những ham thích bất hảo, ví như
tham lam, háo sắc v.v… Tập khí bất hảo quá nhiều!
Thập Ác là tập khí bất hảo, sát sanh, trộm cắp,
tà dâm, nói dối, nói đôi chiều (khuấy động thị
phi), ác khẩu (thích chửi mắng người khác), nói thêu
dệt (hoa ngôn xảo ngữ gạt người), tham, sân,
si, mạn, ích kỷ, tổn người lợi ḿnh, đều
là những tập khí bất hảo. Ắt cần phải
khắc phục những tập khí ấy trong đời này. Nói cách
khác, người thật sự có phước báo, thật
sự thông minh đến thế gian này, đời này sẽ làm
ǵ? Làm chuyện này, đấy là tu hành. Khắc phục những
tập khí phiền năo của chính ḿnh, đoạn ác tu thiện.
Khắc phục sát sanh, thật sự biến thành không sát sanh. Khắc
phục trộm cắp, biến thành không trộm cắp. Khắc
phục Thập Ác, biến thành Thập Thiện.
Những lời dạy của thánh nhân toàn là Tánh Đức, đều là những
thứ vốn sẵn có trong tự tánh. Mê mất tự tánh,
tùy thuận tập khí bất hảo trong đời đời
kiếp kiếp, biến thành xấu xa. Tam Tự Kinh nói: “Tánh tương cận, tập
tương viễn, cẩu bất giáo, tánh năi thiên” (Tánh
gần giống như nhau, do huân tập mà khác xa nhau. Nếu
chẳng dạy, tánh sẽ biến đổi), chính là [nói về] đạo lư này!
Nếu quư vị chẳng sửa
đổi những tập khí ác ấy, họ nói, những
tập khí ác ấy sẽ mang qua đời sau. Đă thế,
trong đời sau sẽ càng nghiêm trọng hơn, phiền
phức lắm! Nói cách khác, đời kế tiếp sẽ
càng khó sống hơn đời này. Đấy là nói về ǵ? Tánh tội,
trái nghịch tự tánh; đó là lỗi lầm to lớn. Quư
vị vốn là Phật, cớ sao quư vị trở thành t́nh trạng này?
Lại nói tới ngoại
duyên, nợ nần cũng giống như vậy. Nợ nần
có nợ mạng, có nợ tiền, có nợ nhân t́nh, cũng
rất phức tạp! Đời trước chưa trả
sạch hết nợ nần, đời này phải trả,
khi trả, nhất định
c̣n phải trả thêm tiền lời. Nói chung, c̣n phải trả nhiều hơn món nợ đă thiếu
trong đời trước! Nếu đời này chẳng
trả xong, nhất định phải mang sang đời
vị lai. Đời sau sẽ
phải trả, nhất định
lại tăng nặng hơn đời này. V́ thế, chỉ
có trả xong trong đời này, phải có quan niệm này.
Quư vị phải biết, đời sau quư vị sẽ tự
tại, sẽ giải
thoát. Nợ mạng phải trả
xong, nợ nhân t́nh cũng phải trả cho xong. Nhân t́nh rất
khó xử, nếu quư vị có thể chịu đựng, đặc
biệt là nghịch cảnh, ác duyên, cam tâm t́nh nguyện chịu
đựng. V́ sao? Chúng ta phải nên trả nợ, chẳng
có mảy may tâm oán hận, chẳng có tâm báo thù, sẽ trả
xong xuôi. Nếu c̣n có ḷng oán hận, c̣n báo thù, đời sau
vẫn phải trả, chẳng hết, chẳng xong, chớ
nên làm!
Tiếp nhận ân
huệ của người khác, nhất định phải
báo ân, niệm niệm chớ quên điều tốt đẹp
của người khác. Người khác xử tệ với
ta, phải quên sạch sành sanh! Bố thí ân đức cho người
khác, chẳng đ̣i hỏi người ta đền đáp. Mong
được người ta đền đáp th́ sao? Đời
sau lại phải làm tới làm lui, chẳng hết, chẳng
xong! Bố thí cho người khác, chẳng mong được
đền đáp, tốt lắm! Khi có lỗi
với người khác, nhất định phải sám hối,
nhất định phải sửa đổi! Chiếm tiện
nghi của kẻ khác, phải biết là chẳng thể
chiếm tiện nghi được, hễ chiếm đoạt
sẽ đều là nợ nần! Nếu đời này đă
giác ngộ, đă hiểu rơ, hăy nhanh chóng đền trả,
chớ nên dính mắc mảy may! Nếu quư vị chiếm dụng
tài vật của quốc gia, sẽ càng nghiêm trọng hơn,
v́ sao? Chủ nợ quá nhiều! Tài vật của quốc
gia là do người dân đóng thuế. Nói cách khác, nếu quư
vị chiếm tiện nghi từ những thứ ấy, quư vị sẽ mắc nợ dân chúng cả nước, chuyện này phiền phức lắm!
Những tài vật
thuộc về thường trụ trong Phật môn càng chớ
nên chiếm đoạt, v́ sao? Trong kinh, đức Phật
đă dạy rơ ràng, tạo tội Ngũ Nghịch, Thập
Ác th́ Phật có thể cứu người ấy, chứ
trộm cắp đồ vật của thường trụ,
Phật chẳng thể cứu. V́ sao? Phật môn là đạo
tràng mười phương, tài vật của nó không chỉ
là sở hữu chung của những vị xuất gia trên địa
cầu, mà là trọn khắp pháp giới, hư không
giới, do mười phương ba đời tất cả
hết thảy những người xuất gia cùng sở
hữu. Nói cách khác, chẳng biết rơ con số chủ nợ!
V́ thế, Phật chẳng thể cứu. Nếu quư vị
thật sự thông hiểu, minh bạch, sẽ trả ngay
lập tức. Không chỉ là phải trả, mà c̣n có thể
[đền trả] nhiều hơn một tí, tu phước
báo nhiều hơn một chút. Tu phước trong Phật môn
dễ nhất, mà tạo tội cũng dễ nhất. Thật
sự tu phước trong Phật môn th́ là phước báo nhân
thiên. Tạo một chút tội nghiệp trong Phật môn, sẽ là
tam đồ địa ngục, nháy mắt quả báo sẽ
hiện tiền! Con người thọ mạng rất ngắn
ngủi, cần ǵ cứ phải làm chuyện này? V́ thế,
thảy đều trả xong, hiện tiền sẽ yên tâm
thoải mái, đời sau được đại tự
tại, chẳng nợ nần chúng sanh.
Quyết định
phải đoạn dứt ư niệm sát sanh, đoạn dứt
hành vi sát sanh, cư xử hoan hỷ với hết thảy
chúng sanh. Chớ nên nói “ta ghét cái này, ta thích cái kia”, chớ nên! Quư vị ưa thích, tức
là có cái duyên ưa thích, đời sau c̣n phải trở lại.
Quư vị chán ghét, đời sau kẻ ấy cũng chán ghét
quư vị, tự làm tự chịu. Tuyệt đối chẳng
phải là do Thượng Đế an bài, hay là vua Diêm La trừng
phạt, chẳng phải vậy, tự làm tự chịu!
Hiện thời, chúng ta cư xử với rất nhiều
người, sự, vật trong xă hội, trong ấy có rất
nhiều trường hợp rất hợp duyên. Đó là do
thiện duyên trong quá khứ. Có rất nhiều khi chẳng
hợp duyên, gặp mặt cũng chẳng mong gặp gỡ,
đó là ác duyên trong đời quá khứ. Hiện thời,
làm như thế nào? Hăy sửa đổi! Nhất định
phải sửa! Chẳng sửa đổi th́ sẽ ra sao?
Chẳng sửa th́ đến đời sau, vấn đề
ấy sẽ càng nghiêm trọng hơn. Chớ nên tích lũy
oán hận, nhất định phải hóa giải. Hóa giải
chẳng từ nơi đối phương, mà từ chính
ḿnh. Sau khi chính ḿnh đă hóa giải hết sạch, tuy
đối phương có [oán hận], [nỗi oán hận] của
người ấy cũng chẳng làm được ǵ. Giống
như đánh nhau, người ta đấm tới, quư vị
thu hồi nắm đấm của chính ḿnh, nắm đấm
của kẻ đó đánh vào khoảng không. Quyết định
chớ nên oan oan tương báo. Có như vậy th́ quư vị
mới có cơ hội thoát ly luân hồi, chẳng c̣n làm
chuyện ấy nữa. Chuyện ấy vất vả, vĩnh
viễn chẳng ngưng ngớt, quư vị nói xem có nhọc
nhằn lắm không!
Không chỉ là chúng
ta có thể chẳng c̣n luân hồi nữa, mà chúng ta c̣n phải tăng tấn. Tăng tấn cao hơn, thù thắng
nhất, ổn thỏa nhất, đáng tin cậy nhất,
nhanh chóng nhất, thật sự là niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ. Phải biết sau khi quư vị
đă thấy rơ ràng thế gian này, thần linh đă thấu
lộ tin tức cho chúng ta về trạng huống luân hồi trong lục đạo. Vị ấy bảo quư vị hăy trả hết nợ
trong đời này, chẳng nợ mạng, mà cũng chẳng
thiếu nợ. Chuyện này nói th́ dễ, thực hiện
th́ nói thật ra cũng chẳng phải là chuyện dễ!
Nếu quư vị chẳng thể thông đạt Phật
pháp, căn bản là quư vị chẳng làm được! Đă
thông đạt Phật pháp th́ được! Liễu Phàm
Tứ Huấn nói đến chuyện sửa lỗi, sám
hối, sửa lỗi đổi mới. Sách ấy nói có
ba loại sửa đổi, một là sửa nơi Sự,
hai là sửa từ Lư, ba là sửa từ tâm. Có thể sửa
đổi từ tâm, sẽ thật sự có thể hóa giải.
Chẳng [sửa đổi]
từ tâm hoặc từ lư th́ sẽ
đều chẳng rốt ráo. Nói cách khác, chẳng rốt ráo th́
sẽ chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi. V́
thế, Phật pháp nói đến tâm pháp, “tâm tịnh, cơi
nước tịnh; tâm b́nh, thiên hạ b́nh”. Tựa đề kinh Vô Lượng
Thọ dạy chúng ta “thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác”.
Câu nói cuối cùng
của thần linh rất hay, những gặp gỡ trong
sanh mạng đời sau của quư vị hoàn toàn do chính quư vị
tạo ra, gây tạo trong đời này. Đấy chính là
như trong Phật pháp thường nói: “Muốn biết cái nhân trong kiếp trước, những
ǵ phải hứng chịu trong đời này chính là nó. Muốn
biết cái quả trong đời sau, những ǵ đă làm
trong đời này chính là nó đấy”. Hễ khởi tâm động niệm, ngôn ngữ và tạo
tác của chúng ta trong đời này chính là cái nhân cho đời
sau. Đời sau nhất định có quả báo. Trong
đời này, quư vị khởi tâm động niệm là
thiện, ngôn ngữ và tạo tác là thiện, đời sau
quư vị nhất định là đại thiện báo.
Trong đời này, chúng ta xử sự, đăi người
tiếp vật, khởi tâm động niệm bất thiện,
ngôn ngữ, hành vi bất thiện, quả báo trong đời
sau quư vị chắc chắn là trong ba ác đạo. Tự
làm, tự chịu! Chớ nên không biết điều này!
Bồ Tát liễu
giải rất rơ ràng, rất minh bạch; v́ thế, khuyến
khích chúng ta, mong mỏi chúng ta “nhập
thâm pháp giới”. Khế nhập thâm pháp giới bằng
cách nào? Kinh Đại Thừa. Kinh Đại Thừa rất
nhiều, nhưng rốt ráo viên măn th́ không chi hơn Hoa Nghiêm.
Có thể khế nhập Hoa Nghiêm bằng cách nào? Khế nhập
như thế nào? Nay chúng ta c̣n chưa học xong; nói thật
ra, kinh Hoa Nghiêm có ba mươi chín phẩm, chúng ta mới học
được mười một phẩm, phía sau c̣n có mấy
phẩm kinh văn rất dài. Kinh có tất cả chín mươi
chín quyển, nay chúng ta đă đọc chưa đến
hai mươi quyển. Cuối cùng, phẩm
Nhập Pháp Giới chính là “nhập
thâm pháp giới”. Nhập thâm pháp giới chính là phẩm
Nhập Pháp Giới cuối kinh Hoa Nghiêm. Đó là pháp giới
sâu, tức thế giới Hoa Tạng. Điều này thật
sự chẳng dễ dàng!
Nhưng chúng ta quyết
định chớ quên tổng cương lănh tu hành trong giáo
pháp Đại Thừa. Tổng cương lănh là ǵ? “Buông xuống vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước”; đấy là tổng
cương lănh, phải thường nghĩ đến. Chúng
ta trong cuộc sống hằng ngày, đặc biệt là
trong công việc, xử sự, đăi người tiếp
vật, hễ một niệm chấp trước sanh khởi, hăy ngay lập tức hồi quang phản chiếu.
Chỉ cầu chuyện làm được viên măn, chớ nên
thật sự chấp trước. Thật sự có chấp
trước, sẽ hứng chịu thua thiệt to lớn.
Chớ nên phân biệt, chớ nên khởi tâm động niệm,
chúng tôi thường nhắc đến điều này! Những
lời này đều dựa theo lời đức Phật
đă dạy trong phẩm Xuất Hiện: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức
tướng của Như Lai, chỉ v́ vọng tưởng,
chấp trước mà chẳng thể chứng đắc”.
Từ câu giáo huấn này, chúng ta hiểu, đúng là như
kinh Hoa Nghiêm và Viên Giác đă dạy: “Hết thảy chúng sanh vốn đă thành Phật”. Quư vị
hiện thời có phải là Phật hay không? Phải! Trong
mắt Phật, chẳng giả tí nào, quư vị là Phật
thật sự! Bất quá, vấn đề hiện
thời của quư vị là ở chỗ nào? Vấn đề
ở chỗ trong chân tâm của quư vị dấy khởi vô
minh (vọng tưởng), phân biệt, chấp trước,
chuyện này phiền phức to lớn. Vọng tưởng
là vô minh, vọng tưởng là ǵ? Tôi thường nói rất
đơn giản, rất nông cạn, [vọng tưởng
chính là] khởi tâm động niệm. Điều này rất
khó, sáu căn của quư vị tiếp xúc cảnh giới sáu
trần, há có lẽ nào chẳng khởi tâm động niệm?
Hễ khởi tâm động niệm, vô minh liền sanh. Từ vô
minh, nhất định dấy lên phân biệt; từ phân biệt, nhất định dấy lên chấp
trước. Đấy là càng mê, càng sâu, càng tù hăm, càng khổ!
V́ thế, đối
với ba tầng cấp tu học trong Phật pháp, chúng ta mới
hiểu rơ. Chúng ta đoạn chấp trước, sẽ
thành Chánh Giác. Vốn là Chánh Giác, Chánh Giác là A La Hán. Buông xuống
phân biệt, chẳng c̣n nữa, sẽ là Bồ Tát, sẽ chứng Chánh Đẳng
Chánh Giác. Nếu thật sự có thể đạt đến
“chẳng khởi tâm, không động niệm”, sẽ
là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sẽ gọi là
Phật Đà. V́ thế, quư vị là Phật, vốn là Phật,
chỉ cần trong hết thảy các cảnh giới, chẳng
khởi tâm, không động niệm, quư vị vốn là Phật.
Khởi tâm động niệm, nhưng chẳng phân biệt,
quư vị là Bồ Tát. Khởi tâm động niệm, c̣n có
phân biệt, chẳng chấp trước, vậy th́ quư vị
là A La Hán. Nếu chấp trước cũng chẳng buông
xuống được, quư vị là lục đạo phàm
phu. Quư vị giống như vị thần linh ấy. Thần
linh cũng là lục đạo phàm phu, phải lưu chuyển
trong lục đạo, vĩnh viễn không ngưng ngớt,
khổ lắm! Kinh Phật gọi hiện tượng ấy
là “sanh tử b́ lao” (sống
chết nhọc nhằn), chẳng ngưng nghỉ! Sau khi
nhục thể hư hoại, quư vị vứt bỏ, bỏ
đi, ngay lập tức lại t́m một nhục thể khác! V́ thế,
bảo quư vị là “chẳng có chết, mà cũng chẳng có sanh”, bất
sanh, bất diệt!
V́ thế, cái
được thần linh nhắc đến chính là “thần thức” được nói trong
kinh Phật. Thần thức là ǵ? Là tự tánh bị mê hoặc,
điên đảo. Đă giác ngộ tự tánh, nhất
định sẽ buông xuống chấp trước, thành A
La Hán. Nếu tiến cao hơn một bậc, buông xuống
phân biệt, th́ là Bồ Tát. Nếu tiến cao hơn nữa,
sẽ là Phật. Nay chúng ta được làm thân người,
lần này đến nơi đây để mong làm chuyện
này. Trừ chuyện này ra, quư vị phải hiểu toàn là chuyện
luân hồi. Quư vị làm chuyện luân hồi, làm sao có thể
vượt thoát luân hồi cho được? Chỉ có triệt
để buông xuống chuyện luân hồi, quư vị mới
có thể vượt thoát luân hồi, như vậy th́ quư vị
mới có thể nhập thâm pháp giới. Nhập thâm pháp giới
như thế nào? Chính là phẩm cuối cùng, tức phẩm
Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện. Chư vị phải
biết, toàn văn phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh
Nguyện gồm bốn mươi quyển, những đồng
học học kinh Hoa Nghiêm gọi phần ấy là Tứ
Thập Hoa Nghiêm. Tứ Thập Hoa Nghiêm là một phẩm
trong kinh Đại Hoa Nghiêm. Kinh văn của phẩm ấy
dài nhất, trong ấy có năm mươi ba lần tham học
của Thiện Tài. Năm mươi ba lần tham học ấy
chính là nhập pháp giới.
Trong quá khứ, ở
nơi đây, khi đó c̣n chưa có đạo tràng này, chúng
tôi thuê gian pḥng lớn của Nhai Phường Phước
Lợi Hội ở phố Tiêm Sa Trớ (Tsim Sha Tsui)[4]. Khi đó, mỗi
tháng chúng tôi đến đây giảng năm ngày, giảng
phẩm Nhập Pháp Giới. Chọn lọc để giảng,
chẳng phải là giảng toàn bộ kinh văn. Đối
với mỗi cuộc tham học trong năm mươi ba
lần tham học, chọn ra một đoạn, tức đoạn
hay khéo nhất để giới thiệu với chư vị.
Nói đại ư, năm mươi ba lần tham học chính
là cuộc sống hằng ngày. Trong xă hội, có rất nhiều
nghề nghiệp, nam, nữ, già, trẻ, các nghề nghiệp,
Phật, Bồ Tát chia những
thứ ấy thành năm
mươi ba loại, quư vị từ sáng đến tối
đều có thể tiếp xúc. V́ thế, ở ngay trong cuộc
sống hằng ngày của quư vị, chẳng hề ĺa khỏi
cuộc sống. Trong cuộc sống hằng ngày, quư vị
chuyển cảnh giới của chính ḿnh như thế nào?
Đúng như kinh Lăng Nghiêm đă nói: “Nếu có thể chuyển vật, ắt giống Như
Lai”. Bọn phàm phu chúng ta chẳng biết chuyển, cớ
chẳng biết
chuyển th́ sao? Quư vị sẽ bị
cảnh giới xoay chuyển. Chẳng hạn như thấy
một người quư vị ưa thích, hễ trông thấy
cũng rất hoan hỷ, sẽ cười, sẽ rất vui
sướng, quư vị đă bị cảnh giới chuyển!
Trông thấy một kẻ quư vị căm ghét, tức oán
thân trái chủ hoặc oan gia đối đầu của quư
vị, vừa trông thấy, tâm sân khuể liền sanh khởi,
rất bực bội. Cái tâm của quư vị đă bị cảnh
giới xoay chuyển. Quư vị cũng nhập pháp giới,
nhưng nhập nhân pháp giới trong lục đạo! “Thâm pháp giới” là Phật
pháp giới, quư vị chẳng nhập Phật pháp giới.
Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật đều có thể
chuyển biến cảnh giới.
Chuyển bằng
cách nào? Đối với thuận cảnh, thiện duyên (những
cảnh giới ấy hết sức tốt đẹp, mối
quan hệ nhân sự cũng hết sức tốt đẹp,
toàn là thiện nhân), chẳng có tham luyến, hoàn toàn dùng trí huệ
để đối đăi, chớ nên dùng cảm t́nh. Cảm
t́nh là ǵ? Phân biệt, chấp trước là “t́nh”, được
gọi là “t́nh chấp”. Dùng
trí huệ, luôn hoan hỷ, luôn b́nh đẳng, xem như
nhau. “Phàm những ǵ có h́nh
tướng đều là hư vọng”, biết chân tướng sự thật này, những
điều thần linh đă nói chính là chân tướng sự
thật. Đối với nghịch cảnh, ác duyên, hoàn cảnh
bất hảo, chẳng hạn như phong khí xă hội bất
hảo, hoàn cảnh nhân sự bất hảo, làm ǵ cũng
đều có chướng ngại, luôn có kẻ kiếm chuyện làm phiền, thậm chí hủy báng,
hăm hại, ở trong hoàn cảnh ấy, chẳng sanh tâm sân
khuể, tuyệt đối chẳng có sân khuể, chẳng
báo thù, tâm địa vẫn b́nh thản.
Mấy năm
trước, tôi rời khỏi Tân Gia Ba, di dân sang Úc, đi theo
tôi có hơn hai mươi đồng học. Tôi viết
hai câu: “Xử nghịch cảnh,
tùy ác duyên, vô sân khuể, nghiệp chướng tận tiêu”
(Ở trong nghịch cảnh, tùy thuận ác duyên, chẳng
sân hận, nghiệp chướng tiêu hết). Trong nghịch
cảnh, trong ác duyên, không sanh ḷng sân khuể, chẳng trả
đũa, hoan hỷ, thuận chịu nghịch cảnh, nghiệp
chướng sẽ tiêu. Câu thứ hai: “Xử thuận cảnh, tùy thiện
duyên” (Ở trong thuận cảnh, tùy thuận thiện duyên), hết
thảy tốt đẹp, bất cứ thứ ǵ cũng
đều rất đẹp đẽ. “Vô tham si, phước đức
toàn hiện” (Không tham si, phước đức hiện toàn vẹn). Trong thuận
cảnh, chẳng tham ái, chẳng ngu si, cũng chớ nên chấp
trước, hết thảy đều tùy thuận, phước
báo hiện tiền. Đấy là ǵ? Năm mươi ba lần
tham học của Thiện Tài đồng tử dùng điều
này. Do đó, bất luận thuận cảnh hay nghịch cảnh,
thiện duyên hay ác duyên, người ấy thảy đều
được lợi ích, đạt được lợi
ích ǵ vậy? Mài sạch tham, sân, si! Quư vị chẳng rèn
luyện trong cảnh giới, làm sao quư vị biết đoạn
trừ tham, sân, si? Tham, sân, si, mạn, nghi là ǵ? Là chấp
trước, chấp trước nghiêm trọng. Ở đây,
Ngài không chỉ đoạn trừ chấp trước, mà
đồng thời cũng
đoạn trừ phân biệt, cuối
cùng nghiễm nhiên có thể đạt tới chẳng khởi
tâm, không động niệm. V́ thế, tham học năm mươi
ba lần viên măn, Ngài bèn viên măn thành Phật. Đấy là “nhập thâm pháp giới”, Ngài đă
nêu gương cho chúng ta thấy.
V́ thế, thuở
ấy, thầy Phương giới thiệu Phật pháp cho
tôi, đặc biệt giới thiệu kinh Hoa Nghiêm. Thầy
nói đây là khái luận triết học trong kinh Phật, thầy
coi kinh Phật như triết học, Hoa Nghiêm là triết học
khái luận trong kinh Phật! Hay lắm! Có lư luận, thật
sự là lư luận cao sâu, có phương pháp, phương
pháp xảo diệu. Sau đó lại kèm theo biểu diễn,
năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài là
biểu diễn, làm cho quư vị thấy. Thầy nói trong các sách triết
học trên cả thế giới, chẳng t́m thấy sách nào
hay như thế. Kinh có biểu diễn, làm cho quư vị thấy,
đấy mới là trí huệ chân chánh, trí huệ viên măn. Một
người có thể sống cuộc đời trí huệ,
chẳng có ǵ bất lợi, đạt được đại
tự tại! V́ thế, học Hoa Nghiêm, phải nhập cảnh
giới Hoa Nghiêm, pháp giới Hoa Nghiêm chính là “thâm pháp giới”. Hôm nay đă
hết thời gian rồi, chúng tôi nói tới chỗ này!
Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm
thứ mười một
Tịnh
Hạnh Phẩm, phần
48 hết
[1] Quách (郭), c̣n gọi
là “thành tường” (城墙), là lớp
tường thành bọc ngoài lớp tường thành chính
để tăng thêm tác dụng bảo vệ. Phía ngoài lớp
Quách thường có hệ thống hào sâu để ngăn
ngừa địch quân áp sát chân thành tấn công. Hệ thống
hào nước sâu này được gọi là “thành hào” (城濠), hoặc “hộ thành hà” (護城河). Trên
quách, thường có những chỗ xây lơm xuống gọi
là “đỏa khẩu” (垛口) để
cung thủ có chỗ bắn tên ra. Cứ cách một quăng lại
có “thành lâu” (城樓), tức
là tháp canh. Tháp canh ở bốn góc được gọi là
“giác lâu” (角樓). Cửa
thành ở mỗi mặt của Quách tương ứng với
cửa thành tại lớp tường thành chính.
[2] Thuyết Thư (說書), hay c̣n gọi là B́nh
Thư (评书) là một h́nh thức kể chuyện theo lối
giảng diễn rất thịnh hành vào thời cổ.
Riêng tại Quảng Đông, Hồ Bắc th́ gọi là Giảng
Cổ (kể chuyện xưa). H́nh thức này được
thành lập từ đời Tống. Các nhà “thuyết thư” chuyên nghiệp
thường là những người có học thức, có
tài ăn nói, kể lại các câu chuyện (thường
là những câu chuyện lịch sử) rất sinh động,
hùng hồn, khiến cho người nghe trầm trồ tán thưởng.
Người kể chuyện thường mặc trường
bào, ngồi trước một cái bàn nhỏ, tay cầm quạt phe phẩy. Họ
liên tục xếp quạt, mở quạt theo từng
diễn biến để tạo hiệu quả. Đôi khi họ
c̣n dùng tỉnh mộc, tức là khối gỗ nhỏ
để gơ xuống bàn tạo thành một tiếng
“cạch” rất lớn để gây chú ư. Họ luyện cách nói nhấn
nhá, biết ngừng đúng những chỗ cao trào, khiến
cho người nghe thắc
mắc, háo hức muốn nghe thêm. Đôi khi đến cao
trào họ ngưng ngang tại đó, sẽ hẹn ngày hôm
sau kể tiếp, khiến người nghe hôm sau lại ṃ
đến nghe. Có nhiều chuyện ai cũng biết
như Thủy Hử, nhưng với tài nghệ của
người Thuyết Thư, thính giả nghe đi nghe lại
chẳng chán. Bộ Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa và Thủy
Hử đă được biên soạn dựa theo những
câu chuyện lưu hành trong dân gian từ các nhà Thuyết
Thư, tức là những giai thoại không được
ghi chép trong chánh sử.
[3] Brian Leslie Weiss (sanh
năm 1944) là nhà phân tâm học và thôi miên học người
Mỹ. Ông là tác giả của nhiều đầu sách bán rất
chạy (best seller) về đề tài tiền kiếp. Ông
có nhiều báo cáo nghiên cứu về các đề tài tiền
kiếp, tái sanh, đời tương lai cũng như sự
tồn tại của linh hồn sau khi chết. Ông tốt
nghiệp từ trường y khoa thuộc viện đại
học Yale vào năm 1970. Làm bác sĩ nội trú tại Trung Tâm Y Tế
của viện đại học Nữu Ước, rồi
làm bác sĩ nội trú tại Yale. Ông trở thành trưởng
khoa Phân Tâm Học của Mount Sinai
Medical Center tại Miami, Florida. Ông nẩy sanh hứng thú
nghiên cứu về tiền kiếp khi chữa trị cho một
bệnh nhân được biết dưới bí danh là
Catherine. Trong những lần thôi miên, bà này đă kể nhiều
chuyện về kiếp trước. Kiểm chứng bằng
cách đối chiếu với những hồ sơ cũ
tại kho dữ liệu thành phố, dần dần ông bị
thuyết phục vào sự tái sanh. Tác phẩm bán chạy nhất
của ông là Only Love is Real.
[4] Tiêm Sa Trớ (尖沙咀) c̣n gọi là Tiêm Sa Chủy
(尖沙嘴) là một khu phố sầm
uất ở phía Nam khu Cửu Long (Kowloon) của
Hương Cảng, nh́n thẳng ra vịnh Victoria. Phần
lớn các viện bảo tàng và các trung tâm thương mại,
dịch vụ của Hương Cảng nằm ở khu
này.