Đại
Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm
Kinh
Phẩm
thứ mười một
Tịnh
Hạnh Phẩm
Phần 49
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp
sư Thích Tịnh Không
Địa điểm:
Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ
ngày mồng Bảy tháng Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và
Minh Tiến
Tập 1559
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười
một, đoạn thứ bảy trong phần Kệ Tụng,
xem từ bài kệ thứ năm:
(Kinh) Đáo
nhân môn hộ, đương nguyện chúng sanh, nhập
ư nhất thiết, Phật pháp chi môn.
(經)到人門戶。當願眾生。入於一切。佛法之門。
(Kinh: Đến cửa người ta, nguyện
cho chúng sanh, vào trong hết thảy các môn Phật pháp).
Đây là khất thực. Nói thông thường,
chúng ta đến cửa nhà trai chủ, phải
nên hiểu những lễ tiết, quy củ này! Người
xuất gia là gương mẫu khuôn phép cho trời,
người noi theo, nay chúng ta nói là “học vi nhân sư, hành vi thế phạm” (học
làm thầy người, hạnh làm khuôn mẫu cho cơi đời).
Nhất cử nhất động đều phải nêu
gương tốt đẹp cho đại chúng trong xă hội.
Chẳng thể gơ cửa, gơ cửa rất vô lễ! Hiện
thời chẳng giống xưa kia, hiện nay đến
nhà người ta, thường là có chuông điện. Thích
đáng nhất là liên lạc trước bằng điện
thoại, nói rơ “khi nào tôi sẽ đến nhà quư vị thăm viếng”. Chủ nhân đă đồng ư, sẽ theo đúng giờ
[đă ước hẹn] mà tới. Có khi phải xét tới
thân phận và địa vị của chủ nhân, chúng ta
đến thăm người ấy, có chuyện
ǵ, cần bao nhiêu thời gian, đều phải ước
định sẵn. V́ khách khứa mỗi ngày của
người ấy không chỉ một ḿnh chúng ta! Đặc
biệt là những nhân vật chánh trị trong xă hội, cuộc
sống hằng ngày của họ phải tiếp khách hết
sức bận rộn, nhất định phải ước
định thời gian vừa khéo. Chẳng hạn như
nửa tiếng, một giờ, thậm chí ngắn ngủi
mười lăm phút, nhất định phải khống
chế thời gian cho khéo. V́ sao? Trước đó, người
ấy có khách, mà sau đó, người ấy cũng có
khách!
Đây là khất thực vào thời cổ,
đương nhiên là chẳng như hiện thời, công
việc bận rộn dường ấy. Đến cửa
nhà người ta bèn rung tích trượng. Người xuất
gia ra khỏi cửa đi khất thực đều cầm
theo tích trượng. Trong phần trước, chúng ta
đă đọc [điều này]; v́ thế, rung tích trượng
ngoài cửa. Tích trượng cũng chỉ có thể rung
ba lượt, chẳng thể rung quá nhiều lần. [Rung
tích trượng] ba lượt mà chẳng có ai mở cửa,
họ ở bên trong chẳng nghe thấy, vậy th́ sang nhà
thứ hai. Những điều này đều thuộc về
lễ tiết. Thông thường, quư vị rung ba lượt,
họ nhất định sẽ mở cửa, biết là
có người xuất gia đến khất thực, họ
đă chuẩn bị sẵn sàng. “Đáo nhân môn hộ” (Đến cửa nhà người
ta), trông thấy cánh cửa ấy. Loại cửa có hai cánh
gọi là Môn (門), loại một cánh gọi là Hộ (戶). Thông thường, hễ nói đến Môn th́ là
Đại Môn (大門, cổng chánh), c̣n các cửa pḥng khác th́ đều
coi là Hộ, đều chỉ có một cánh. Trông thấy
Môn Hộ bèn dẫn phát đại nguyện, “nhập ư nhất thiết,
Phật pháp chi môn” (vào trong hết thảy các môn Phật
pháp).
Phật pháp gọi là “pháp môn”, Môn (門) có nghĩa là “thông đạt”.
Do từ cửa nẻo này mà có thể thông đạt Phật
pháp. Có bao nhiêu? Trong kinh giáo, đức Phật thường
nói là “tám vạn bốn ngàn pháp
môn”, thật sự có con số ấy. Nói theo nghĩa rộng,
[sẽ là] vô lượng pháp môn. Quư vị xem Tứ Hoằng
Thệ Nguyện, sẽ đọc thấy câu:“Pháp môn vô lượng thệ nguyện
học”. Trong phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa
Nghiêm, Thiện Tài đồng tử đă nêu gương khế
nhập Phật pháp như thế nào. Nhưng trong phẩm
Ly Thế Gian, bộ kinh này có bốn đoạn lớn là
Tín, Giải, Hành, Chứng; Hành chỉ có một phẩm
kinh, nhưng phẩm kinh ấy cũng rất dài, tức là
phẩm Ly Thế Gian. Trong ấy đă nói hai ngàn pháp môn;
đấy là nói đại lược. [Kinh] Hoa Nghiêm [trong
hiện thời] chính là lược bổn Hoa Nghiêm, bản
dịch tiếng Hán của kinh này vẫn chưa phải là
hạ bổn. Hạ bổn [trong nguyên văn tiếng Phạn]
có mười vạn kệ, bản dịch tiếng Hán đại
khái chỉ có khoảng hơn năm vạn bài kệ, tức
là một nửa, [mới được] một nửa của
hạ bổn!
Bộ kinh này quá to! Phàm là đối với
những bộ kinh điển lớn, chúng ta đều có
kiến thức thông thường này: Rất dễ
bị thất lạc. Sau khi đă thất lạc, phần
c̣n sót lại bị tàn khuyết, chẳng hoàn chỉnh. V́
thế, kinh Hoa Nghiêm được truyền đến
Trung Hoa chẳng phải là toàn bộ kinh văn, chỉ là một
nửa của toàn văn mà thôi. Lại c̣n được
truyền đến trong ba đợt thời gian khác nhau!
Tuy là nửa bộ, đă có thể nh́n thấy rơ ràng giáo
nghĩa của kinh Hoa Nghiêm, hết sức khó có. Hiện thời,
đại khái là bản dịch tiếng Hán của kinh này có phân
lượng được bảo tồn nhiều nhất, nguyên bản bằng tiếng Phạn
đă sớm thất truyền! Nghe nói bản tiếng Phạn
của Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm hăy c̣n, được cất giữ ở nơi nào chúng ta không biết, chỉ biết bản
dịch hoàn chỉnh nhất là bản bằng tiếng
Hán.
Trong đại kinh, chúng ta biết những
điều được nói trong kinh văn mang ư nghĩa
biểu thị pháp nhiều lắm, cũng có nghĩa là chỗ
nào cũng đều nhằm chỉ dạy, khải thị
cho chúng ta! Chúng ta khất thực, đến cửa nhà
người ta, phải suy nghĩ, thời thời khắc
khắc, niệm nào cũng đều cảnh tỉnh:
Trong một đời này của chúng ta, điều quan trọng
nhất là “nhập Phật
môn”. Nói cách khác, bất luận ở chỗ nào, chỉ
cần trông thấy cửa, quư vị có thể nghĩ “ta phải nhập Phật môn”.
Ư nghĩa trọng yếu nhất trong bài kệ này là ở
chỗ này! Hết thảy các pháp thế gian và xuất thế
gian vô lượng vô biên. Trong kinh Đại Thừa, đức
Phật nói mười pháp giới, chúng ta dùng ngay chuyện
này làm tỷ dụ. Mười pháp giới là mười
môn, chúng ta nhận biết rơ ràng môn nào mới là Phật môn.
Nhập bằng cách nào? Nhập từ chỗ nào? Chớ
nên không biết!
Nói thật ra, Phật ở chỗ nào? Phật
là ǵ? Ai là Phật? Trước hết, quư vị phải hiểu
rơ điều này! Phật là chính ḿnh! Phật chẳng ở
bên ngoài, Phật là chân tâm của chính ḿnh, Phật là bản
tánh của chính ḿnh! Đă mê mất chân tâm, mê mất bản
tánh, mới nẩy sanh khá nhiều huyễn môn hư vọng
chẳng thật, chẳng phải là thật, mà là hư huyễn!
Nhưng nếu quư vị chẳng có năng lực phân biệt,
những môn hư huyễn ấy sẽ khiến cho quư vị
bị mê mất. Môn ấy là ǵ vậy? Chín pháp giới! Ngoài Phật
pháp giới là chín pháp giới. Nghiêm trọng nhất,
hoàn toàn mê mất trong chín pháp giới, điên đảo một
trăm tám mươi độ là lục đạo! Sáu môn
thuộc về sáu pháp giới hoàn toàn sai lầm, có mấy
ai biết? Có thể nói: Từ vô thỉ kiếp tới nay,
chúng ta đă vào sai cửa, mê đă lâu, mê quá sâu, chẳng
quay đầu được, nghiêm trọng đến mức
độ ấy!
Trước hết, chúng ta phải nhận
biết chữ Phật. Phật là ǵ? Chữ Phật là do từ
tiếng Phạn của Ấn Độ dịch ra. Văn
tự thời cổ chẳng nhiều cho mấy, khi phiên dịch
kinh Phật, [các nhà dịch kinh] bèn tạo ra một số
chữ mới để phiên dịch thuận tiện. Trong
chữ Phật (佛), chữ Phất (弗) không có chữ Nhân (人) bên cạnh
là một chữ cổ, chữ này th́ có, Trung Hoa có chữ
này. Nhưng chữ Phật Đà Da (Buddhaya) trong tiếng Phạn
chẳng t́m thấy chữ có ư nghĩa tương đồng tại Trung Hoa để phiên dịch. V́ thế, sử dụng cách
phiên âm: Dùng âm đọc
của chữ Phất cổ xưa trong tiếng Hán, thêm vào chữ Nhân, v́ Phật là người. Chư vị
phải biết, phải thấy rơ ràng điều
này: Phật chẳng phải là thần, Phật là người. Người
như thế nào? Người giác ngộ, người quay
đầu, là người phản phác quy chân (反璞歸真, quay trở
về cái chất phác chân thật). Do vậy, dùng lối
phiên âm để dịch chữ này, kèm thêm chú giải, quư vị
sẽ hiểu nó có nghĩa là ǵ!
“Phật” có
hai ư nghĩa; [xét theo hai phương diện] Thể và Dụng
th́ có Thể và Dụng. Thể là Trí, Dụng là Giác. [Sẽ
có kẻ chất vấn]: “Chẳng phải là chúng ta dùng Trí
và Giác [để dịch chữ Phật] là được
rồi hay sao? Dùng hai chữ ấy để dịch
nghĩa chữ Phật chẳng phải là ổn thỏa
hay sao?” Vẫn chưa được! V́ sao không được?
Đối với ư nghĩa Trí, chữ Trí của Trung Hoa vẫn
chẳng thể bao hàm [ư nghĩa thật sự của chữ
Phật trong tiếng Phạn], ư nghĩa Giác cũng chẳng
có cách nào bao hàm! Trong Trí có ba ư nghĩa, trong Pháp cũng có ba ư
nghĩa, thật sự chẳng t́m được chữ
Hán [tương ứng], chỉ đành phải dùng lối
phiên âm. Trí có ba ư nghĩa là Nhất Thiết Trí, Đạo
Chủng Trí, và Nhất Thiết Chủng Trí, hết thảy
chúng sanh đều vốn sẵn có [ba loại trí ấy]. Phải
giải thích thêm về ba loại Trí ấy. Nhất Thiết
Trí là ǵ? Biết cái Thể của hết thảy các pháp
trong vũ trụ; nói theo Triết Học là “bản thể”. Biết điều ấy th́ gọi
là Nhất Thiết Trí. Thể là ǵ? Thể là Không,
nhưng Không chẳng phải là Vô. Nếu chúng ta hiểu
Không có nghĩa là “thứ ǵ cũng đều chẳng có”,
sai mất rồi. Nó có! Đă có, v́ sao nói nó là Không? Nó chẳng
phải là vật chất, mà cũng chẳng phải là tinh
thần, sáu căn của chúng ta đều chẳng thể
duyên nổi. Mắt chẳng trông thấy, tai chẳng nghe
thấy, mũi cũng chẳng ngửi thấy, lưỡi
cũng chẳng nếm thấy, thân cũng chẳng có cách
nào tiếp xúc, cho đến nghĩ ngợi cũng nghĩ
chẳng ra. Sáu căn chẳng thể tiếp xúc, bèn bất
đắc dĩ bảo nó là Không. Tâm Kinh nói: “Sắc tức là Không, Không tức
là Sắc. Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc”.
Không là nói đến Thể, Sắc là nói về h́nh tướng.
Do vậy, Thể là Không. Phật pháp thường nói “Tứ Đại giai Không, vạn
pháp giai Không” (Tứ Đại đều là Không, muôn
pháp đều là Không), chính là nói theo Thể.
Ai nhận biết? Chúng ta có nhận biết
hay không? Chẳng nhận biết! V́ sao nói là “không nhận biết”? Nếu
đă nhận biết, quư vị c̣n chấp trước hết
thảy các pháp nữa hay chăng? Muôn pháp đều Không,
chắc chắn là quư vị sẽ không chấp trước!
Quư vị cũng sẽ chẳng phân biệt, giải thoát từ
trong hết thảy muôn pháp. Hễ giải thoát, sẽ tiến
nhập Phật môn. V́ thế, hết thảy các hiện
tượng là “Tướng có,
Thể không”. Kinh Kim Cang đă dạy: “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng, huyễn,
bào, ảnh” (Hết thảy pháp hữu vi, như mộng,
huyễn, bọt, bóng). Lại nói: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”
(Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng).
Kinh Đại Bát Nhă dạy: “Nhất
thiết pháp vô sở hữu, tất cánh không, bất khả
đắc” (Hết thảy các pháp chẳng sở hữu, rốt
ráo không, chẳng thể được). Đấy là ǵ? Đấy
là nghĩa Không của Phật, là trí, tức là trí huệ thật
sự.
Ư nghĩa thứ hai là nói đến Giác. Giác
cũng có ba loại: Tự Giác, Giác Tha, và Giác Hạnh Viên
Măn. V́ thế, ư nghĩa này rất nhiều. Chính ḿnh giác ngộ,
hiểu rơ, tức là đối với ba loại Trí của
Phật quư vị đều hiểu rơ. Trong phần trước,
chúng ta đă nói loại thứ nhất là Nhất Thiết
Trí. Loại thứ hai là Đạo Chủng Trí, Đạo
(道) là đạo lư,
Chủng (種) là các thứ. Vạn sự vạn vật trong
vũ trụ quá nhiều, đủ mọi thứ! “Chủng chủng pháp” là hết
thảy các pháp. Lư, Sự và hiện tượng của hết
thảy các pháp, quư vị đều hiểu rơ, đó là
Đạo Chủng Trí. Thứ ba là Nhất Thiết Chủng
Trí. Thể, Tướng, Dụng là một, chẳng hai, một
tức là ba, ba tức là một, bất tức, bất ly (不即不離, chẳng
phải chính là, chẳng ĺa). Nhất Thiết Chủng Trí nói
về Dụng. Trong trí huệ có ba ư nghĩa, Thể, Tướng,
Dụng, Nhất Thiết Trí là Thể, Đạo Chủng
Trí là hiện tướng, Nhất Thiết Chủng Trí là ứng
dụng.
Bản thân quư vị đă giác ngộ, là Tự
Giác. Sau khi đă giác ngộ, quư vị phải giúp đỡ
người khác, phải dạy bảo người khác,
đó là Giác Tha. Cuối cùng là Giác Hạnh Viên Măn. Tự Giác
là A La Hán; Giác Tha là Bồ Tát; Giác Hạnh Viên Măn chính là tự
hành và hóa tha (化他, hóa độ người khác) viên măn. Trong Tự
Giác và Giác Tha, quư vị đoạn trừ tập khí vô thỉ
vô minh. Trong phần trước đă nói rất rơ ràng,
đoạn hết tập khí vô thỉ vô minh sẽ viên măn.
Giác Hạnh Viên Măn chính là Phật viên măn rốt ráo như
trong giáo pháp Đại Thừa đă nói. Đấy là ai?
Chính ḿnh! Do đó, đức Phật bảo: “Hết thảy chúng sanh đều
có Phật Tánh”. Phật Tánh là tự tánh. Phật Tánh là chân
tâm, tức là chân tâm của chính ḿnh, là diện mạo vốn
sẵn có của chính ḿnh. Khi nào quư vị có thể quay
đầu, khi nào có thể kiến đạo? Hễ kiến
đạo, sẽ chứng đạo. Ai đă chứng
đạo? Trong kinh Hoa Nghiêm, Hoa Nghiêm là Viên Giáo, địa
vị Sơ Trụ đă chứng đạo. Điều
này cho thấy địa vị Sơ Trụ đă nhập
Phật môn. “Một nhập, hết
thảy nhập”. Tuy là tám vạn bốn ngàn pháp môn, nhưng
giống như ǵ? Giống như một căn nhà lớn,
phía ngoài căn nhà ấy có tường vây quanh. Nơi
tường vây có tám vạn bốn ngàn pháp môn. Tùy tiện
vào từ cửa nào cũng đều như nhau, chẳng
có ǵ khác! Chẳng tiến nhập, [sẽ cảm thấy] các
pháp môn khác nhau. Đă tiến nhập, thảy đều giống
hệt nhau! V́ thế, phải nhận thức rơ ràng chữ
Phật này!
Hết thảy chúng sanh trong chín pháp giới chẳng
có chi khác, chỉ có một mục tiêu, một phương
hướng: “Nhập nhất
thiết Phật pháp chi môn” (Vào hết thảy các môn trong Phật
pháp). Chớ nên không biết điều này! Nếu chẳng
biết điều này, đáng thương quá, khổ lắm,
sẽ làm ǵ? Luân hồi trong lục đạo! Luân hồi
trong lục đạo vĩnh viễn chẳng ngưng ngớt,
đời đời kiếp kiếp. V́ sao phải luân hồi
trong lục đạo? Do tự tánh đă bị mê mất bèn biến
hiện các huyễn tướng. Giống như nằm mộng,
tuy mộng chẳng phải là thật, nhưng nếu quư vị
chẳng tỉnh giấc, ngỡ nó là thật, trong ấy sẽ
có nỗi khổ thật sự. Nói cách khác, thật sự
hứng chịu! Chớ nên không biết sự thật này!
Sau khi đă mê mất tự tánh, quư vị thấy tự tánh,
những điều được nói trong chữ Phật
chính là hết thảy vạn sự vạn pháp trong vũ
trụ [đều là] “tướng
có, Thể không”. Thể đă là Không, đương
nhiên là “tướng có” sẽ chẳng thật sự có! V́ thế, Tướng
được gọi là Diệu Hữu. V́ sao nói là Diệu?
Diệu là quư vị chẳng thể nói nó là có, mà cũng chẳng
thể nói nó là không có!
V́ thế, đức Phật dùng mộng làm
tỷ dụ, chúng ta lănh hội dễ dàng. Mộng là Diệu
Hữu. Trong khi quư vị đang nằm mộng, nó là thật sự có, chẳng thể nói là “không có”. Nhưng sau khi
đă tỉnh giấc, mộng đi về đâu? Lại
cũng chẳng thể t́m thấy! Nếu ở trong mộng
mà quư vị lập tức giác ngộ, “nay ta đang nằm
mộng”, tôi tin là quư vị rất sung sướng. V́ sao? Quư
vị sẽ chẳng bị cảnh mộng trói buộc.
Trong cảnh mộng, mơ thấy cọp sắp ăn thịt
quư vị, quư vị sẽ rất khẳng khái, v́ sao? Đấy
là cảnh mộng, giả trất, chẳng thật! Ta
cũng giống như đức Phật xả thân cho cọp
ăn! Quư vị rất hoan hỷ, bố thí thân thể của
chính ḿnh cho cọp ăn, chẳng sợ hăi tí nào! V́ sao? Quư
vị biết đấy chẳng phải là thật! V́ sao
trong mộng trông thấy cọp mà sợ đến nỗi
toàn thân mướt mồ hôi lạnh, sợ đến nỗi
tỉnh giấc? Quư vị chẳng biết đó là cảnh
trong mộng, chẳng biết là giả, mà cũng chẳng
biết chân tướng sự thật, ngỡ là thật. Cảnh
giới ấy hiện tiền, tập khí phiền năo dấy
lên hiện hành, tham sống sợ chết, do ích kỷ mà
sanh khởi những tập khí phiền năo ấy! V́ sao Bồ
Tát có thể làm được? Bồ Tát biết là đang
ở trong mộng, “mộng lư
minh minh hữu lục thú” (trong mộng rành rành phô sáu nẻo)!
Không chỉ là lục đạo ở trong mộng, mà tứ
thánh pháp giới cũng chẳng ở bên ngoài, cũng
đang ở trong mộng!
Thật sự tỉnh giấc, không chỉ
là chẳng có lục đạo, mà mười pháp giới
cũng chẳng có. Khi ấy bèn nhập Phật môn. Phật
môn là Nhất Chân pháp giới, Phật môn là thế giới
Cực Lạc, Phật môn là báo độ của hết thảy
chư Phật, là cơi Thật Báo Trang Nghiêm, là cơi Tịnh
Độ chân thật do Báo Thân Phật hiện ra. Cơi Tịnh
Độ mà A La Hán, Bích Chi Phật, Quyền Giáo Bồ Tát cư
trụ trong ấy chẳng phải là thuần tịnh, được
gọi là cơi Phương Tiện Hữu Dư. Quư vị thấy
đó là phương tiện quyền xảo, chẳng rốt
ráo! Hữu dư, “dư” (餘) là ǵ? C̣n sót lại tập khí phiền năo chẳng đoạn.
Đă đoạn phiền năo, chẳng đoạn tập
khí, chẳng kiến tánh. Phật giống như có ba cái cửa,
tiến vào cửa lớn, trong ấy c̣n có hai cửa nữa,
tức là có ba tầng cửa. A La Hán, Bích Chi Phật vào cửa
thứ nhất, tức là vào đại môn, chưa vào tầng
cửa thứ hai. Bồ Tát vào tầng cửa thứ hai, tầng
cửa thứ ba sau đó chưa vào! Phá một phẩm vô
minh, chứng một phần Pháp Thân, mới vào tầng cửa
thứ ba. Tầng cửa thứ ba là Phật môn thật sự,
vào trong ấy, sẽ thấy Phật. Thấy ǵ vậy? Thấy
tự tánh, trong Thiền Tông nói là “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”. Do
đó, thấy Phật là kiến tánh. Kiến tánh là thấy
chân tướng của vạn hữu trong vũ trụ. “Chư pháp Thật Tướng”
như kinh Bát Nhă đă nói chính là tướng chân thật của
hết thảy các pháp, quư vị thảy đều liễu
giải. Đó là Kiến Tánh, đó là “thấy Phật”.
Trong Phật pháp chẳng có mê tín. Phật
pháp là trí huệ chân thật. Thông thường, chúng ta
thường đọc thấy từ ngữ A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Anuttarā-samyak-saṃbodhi)
trong đại kinh. Đấy
cũng là tiếng Phạn. Câu tiếng Phạn ấy chẳng
được dịch ra, chẳng phải là không thể
phiên dịch! Có thể dịch! V́ sao có thể phiên dịch
mà chẳng dịch? Do tôn trọng nên chẳng dịch.
Đấy là mục tiêu chung cực của sự tu học
trong Phật môn. Phật pháp mong cầu ǵ? Chính là cầu
điều này. Do vậy, chẳng dịch câu này mà phiên âm. Thật
ra, có thể dịch ư nghĩa của nó, tức là Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác, từ ngữ này thuộc loại
“do tôn trọng nên không dịch”.
[Điều này] có ư nghĩa khác với chữ Phật, chữ Phật
do bao hàm nhiều nghĩa nên không phiên dịch. [Chữ Phật
có] quá nhiều ư nghĩa, tại Trung Hoa chẳng t́m thấy
từ vựng [tương ứng], chẳng t́m được,
cho nên phải tạo ra một chữ mới. Trong Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác có ba ư nghĩa. Chánh
Giác là nói về tầng cửa thứ nhất, tức cổng
ngoài của Phật pháp. Chánh Đẳng Chánh Giác là tầng
cửa thứ hai trong Phật pháp. Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác là tầng cửa thứ ba của Phật
pháp, chẳng dễ dàng!
Vào cửa lớn, đoạn hết Kiến
Tư phiền năo, chúng ta thường nói là “buông xuống”. Tức là chẳng chấp trước,
thật sự buông xuống hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian. V́ sao không chấp trước? Hiểu
“Tướng có, Tánh không, Sự
có, Lư không”; v́ thế, chẳng chấp trước sự
tướng. Chẳng chấp trước ác, mà cũng chẳng
chấp trước thiện. Chúng ta có c̣n phải đoạn
ác tu thiện hay không? Phải! V́ sao vẫn phải? C̣n có
khá nhiều chúng sanh chưa giác ngộ, phải nêu
gương cho họ thấy, đó là đại từ
đại bi. V́ sao? Quư vị tạo ác, ắt đọa
vào ác đạo. Quư vị tu thiện, sẽ đạt được
phước báo nhân thiên. Nói cách khác, thấy đông đảo
chúng sanh chẳng thoát khỏi tam giới, mê hoặc, điên
đảo, ta ở nơi đây, phải nên biểu hiện dáng vẻ
tốt đẹp, dẫn dắt mọi người ĺa khổ
được vui. “Ĺa khổ”
là ĺa ba ác đạo, “được
vui” là đạt được ba thiện đạo,
được sanh trong đường trời người.
Sự từ bi là biểu hiện, biểu hiện cho mọi
người thấy, chẳng phải là thật. Tuy là biểu
hiện, lũ phàm phu chúng ta chắc chắn chẳng nh́n
ra, bọn phàm phu chúng ta luôn tưởng người ấy
giống hệt như chúng ta. Bất quá thấy [người
ấy] rất khó có, người ấy chẳng tạo ác,
quư vị thấy người ấy toàn làm việc thiện.
Đó là ǵ? Đó là đại từ đại bi.
Trong phần trước, chúng ta đă học
về báo ân Phật, học trong phần “kiến báo ân nhân” (thấy người báo ân). Thanh
Lương đại sư đă chú giải rất tỉ
mỉ, nêu đại lược mười loại ân
đức của Phật đối với chúng sanh. Thật
vậy, chẳng giả, đấy là ân đức vô tận.
Ngài đă v́ chúng ta thị hiện, giúp đỡ chúng ta t́m
được Phật môn, giúp đỡ chúng ta tu học, giúp
đỡ chúng ta trở về Phật môn. Trở về Phật
môn chính là giúp chúng ta minh tâm kiến tánh; ân đức ấy
quá lớn! Ngài v́ chúng ta thị hiện đoạn ác, tu thiện;
đấy chính là dạy chúng ta trong lục đạo ĺa
khổ được vui bằng cách nào. Đến nơi
đâu để t́m ân đức ấy? Chớ nên không biết!
Bất luận ở nơi đâu, hễ trông thấy cửa,
hoặc chúng ta sắp vào cửa, hoặc sắp ra khỏi
cửa, đều phải nghĩ đến. “Vào cửa” là chứng quả, chứng A La Hán, chứng Bồ
Tát, chứng Phật quả. “Ra khỏi
cửa” là
hóa độ chúng sanh. Chúng sanh có cảm, Phật sẽ ứng.
Từ sự tướng này, quư vị thấy chính ḿnh mỗi
ngày vào cửa, ra khỏi cửa bao nhiêu lượt, quư vị
có ư niệm ấy hay không? Vào cửa kiến tánh, ra khỏi
cửa độ sanh. Ra khỏi cửa, nêu gương tốt
nhất cho người thế gian.
Căn tánh của chúng sanh khác nhau, Phật, Bồ
Tát thị hiện cũng khác biệt. Phật pháp sống
động, linh hoạt, chẳng phải là đă h́nh thành
bèn bất biến, mà là biến hóa muôn ngàn! Kẻ chẳng
khế nhập, làm sao có thể biết nổi? Chúng ta chớ
nên không biết. Tŕnh độ của chúng sanh chẳng
ngang nhau, tập nhiễm bất đồng! Bồ Tát thị
hiện, giáo học, nhất định là “ứng cơ thí giáo” (應機施教, ban bố
giáo pháp tương ứng với căn cơ). Tŕnh độ
nông cạn, dạy tiểu pháp. Tŕnh độ cao, dạy đại
pháp. V́ thế, đức Phật dạy chúng sanh có ba thừa,
hoặc năm thừa. Năm thừa là người, trời,
Thanh Văn, Duyên Giác, và Bồ Tát. Do căn tánh bất đồng,
cách dạy bất đồng, do có sự tập nhiễm
bất đồng, bèn thị hiện bất đồng.
Nói chung, người đă giác ngộ, tức là từ A La
Hán trở lên, đến ứng hóa trong lục đạo,
bất luận là ứng thân hay hóa thân, hành vi và ngôn hạnh
chỉ nhằm một mục tiêu: Giúp cho chúng sanh giác ngộ.
Nhưng phương pháp để giúp chúng sanh giác ngộ
vô lượng vô biên, thường nói là “tám vạn bốn ngàn pháp môn”, thiên biến vạn
hóa. Có phải là chúng sanh đều có thể giác ngộ hay
chăng? Không nhất định! Sử dụng hết tám
vạn bốn ngàn phương pháp, chúng sanh vẫn chẳng
giác ngộ! Có t́nh h́nh ấy hay chăng? Có chứ! Quá nhiều!
V́ sao? Tập khí phiền năo quá nặng.
V́ sao đức Phật vẫn phải thị
hiện như thế? Có dụng ư, tức là muốn giúp
cho một chúng sanh giác ngộ quay đầu, chẳng phải
là trong thời gian ngắn ngủi, chẳng phải là một,
hai lần. Do vậy, Phật, Bồ Tát v́ chúng sanh thị
hiện, có thể sẽ làm hơn một ngàn lần, vạn
lần, vô số lần, chúng sanh mới hoảng nhiên đại
ngộ, mới giác ngộ. Đấy là ân đức của
Phật, Bồ Tát; đấy là ḷng từ bi của Phật,
Bồ Tát, con người chẳng làm được! Khổng
lăo phu tử dạy học, “cử
nhất ngung, nhi bất dĩ tam ngung phản giả”
(nêu lên một góc mà chẳng suy ra ba góc kia), lăo phu tử
sẽ không dạy quư vị. V́ sao? Quư vị quá đần
độn, chẳng dạy, quư vị dự thính là
được rồi! Phật, Bồ Tát chẳng vậy.
Đừng nói là Phật, Bồ Tát dạy quư vị ba lần,
quư vị chẳng khai ngộ, các Ngài có thể dạy ba mươi lần,
có thể dạy ba trăm lần, có thể dạy ba ngàn lần,
có thể dạy ba vạn lần. Bọn phàm nhân chúng ta
nghe thấy, trông thấy, [sẽ cảm thấy] chẳng
thể nghĩ bàn! “Trong cửa
nhà Phật, chẳng bỏ một ai”! Có phải là Phật, Bồ Tát đối với
chúng ta như thế hay không? Đúng là như vậy. Đời
này chúng ta chẳng thể tiếp nhận, không sao cả, sẽ
c̣n có đời sau. Đời sau chẳng thể tiếp
nhận, c̣n có đời sau nữa. Dẫu là trải qua vô
lượng kiếp
sau, đức Phật
cũng chẳng buông bỏ quư vị, thường nhắc nhở quư vị. Đấy chính là như chúng tôi thường
nói “thâm nhập một môn, huân
tu lâu dài”. Nếu chẳng phải huân tu lâu dài như vậy,
làm sao quư vị có thể giác ngộ cho được?
Nay chúng ta học Phật, hiểu rất rơ
ràng, rất minh bạch, xác thực là thời thời khắc
khắc Phật, Bồ Tát đều ở bên cạnh nhắc
nhở chúng ta. V́ sao chúng ta chẳng giác ngộ? Vẫn là do
thời gian chúng ta huân tập c̣n chưa đủ! V́ thế,
tuy chúng ta biết tập khí phiền năo chẳng phải là
thứ tốt đẹp, chúng là giả, nhưng hiện
thời vẫn không chịu buông xuống. Đạo lư ở
chỗ này! Thật sự hiểu rơ ràng, thật sự minh
bạch, há có lẽ nào chẳng buông xuống! Đó gọi
là “phóng hạ đồ
đao, lập địa thành Phật” (buông dao đồ
tể xuống, ngay lập tức thành Phật), chuyển
phàm nhập thánh ngay trong một niệm. [Trở ngại] là
do niệm tâm ấy chẳng phát khởi được,
khó khăn như vậy đó! Khi nghe nói th́ dường
như là đă giác ngộ, trong sát-na lại mê, lại khôi
phục t́nh trạng như cũ, phàm phu gặp phiền phức
ở chỗ này. Thánh nhân thế gian chẳng có ḷng kiên nhẫn
như vậy, họ sẽ chẳng nhẫn nại! Phật,
Bồ Tát th́ được, Phật, Bồ Tát vĩ đại,
rất lỗi lạc! Chúng ta phải cảm ơn. Có lẽ
sẽ có đồng tu muốn hỏi: “Phải làm như
thế nào để chúng ta có thể [thành tựu] mau chóng
hơn, tốt nhất là
chẳng cần phải chờ
đến đời kế
hoặc đời sau, đời
này chúng ta có thể tiến nhập hay không?” Nói theo lư luận
th́ có thể, khẳng định. Vậy th́ phải làm
như thế nào? Nói thật ra, quư vị thật sự
nghe hiểu giáo huấn của Phật, đă nghe hiểu,
Ngài có một câu nói là “y giáo phụng hành”,
sẽ có thể tăng tấn rất nhanh chóng! Chúng ta
cũng biết y giáo phụng hành, nhưng chẳng làm
được, chẳng y giáo, mà cũng chẳng phụng
hành. Chúng ta vẫn nương theo tập khí phiền năo của
chính ḿnh, vẫn phụng hành ư nghĩ của chính ḿnh, [vậy
là] chẳng có cách nào hết!
Quư vị thấy trong kinh Hoa Nghiêm, đức
Phật dạy chúng ta buông xuống chấp trước.
Đó là buông xuống Kiến Tư phiền năo, quư vị sẽ
vào tầng cửa thứ nhất, trí huệ mở mang,
đạt đến Chánh Giác, thế nhưng quư vị chẳng
buông xuống chấp trước được! Điều
đầu tiên trong chấp trước là ǵ? Ở đây, chúng tôi nói
phương tiện, đó là “thành kiến”, tức là cách nh́n, cách nghĩ, kiến giải của
ta. Điều này rất ư là thô, [thế mà] chẳng
buông xuống được! Do vậy, nếu quư vị
nói buông xuống từ chỗ nào ư? Buông từ ngay chỗ này! Chẳng thể buông xuống điều
này, sẽ chẳng thể tùy duyên. Trong cuộc sống,
trong tu học, quư vị sẽ chẳng được tự
tại, chẳng đạt được pháp hỷ. Phu tử
nói: “Học nhi thời tập
chi, bất diệc duyệt hồ?” (Học rồi
thường xuyên tập luyện, há chẳng vui ư?) Quư
vị chẳng đạt được! Quư vị có thể
buông xuống điều ấy, sẽ đạt
được pháp hỷ; chúng tôi thường nói: “Trong thế gian này, người
nào cũng là người tốt, chuyện nào cũng là chuyện
tốt”. Quư vị mới thật sự thấu hiểu
hai câu nói ấy. Quư vị đă hiểu, sẽ đạt
được pháp hỷ, cuộc sống hằng ngày của
quư vị sẽ rất vui sướng. Quư vị chẳng
chịu buông xuống, chẳng có cách nào hết!
Quư vị buông xuống càng nhiều, đó gọi
là “phiền năo nhẹ nhàng, trí
huệ tăng trưởng”. Chẳng chịu đoạn
trừ tập khí phiền năo, trí huệ vĩnh viễn chẳng
thể hiện tiền, làm sao quư vị có thể nhập môn
cho được? Lại nói cụ thể, quư vị thật
sự mong nhập môn, lại chẳng thể khắc phục
tập khí phiền năo của chính ḿnh. Đệ Tử Quy,
Thập Thiện Nghiệp Đạo, lại thêm Cảm Ứng
Thiên của Đạo giáo, tôi thường nói ba bộ sách
ấy là ba căn cội của Nho, Thích, Đạo. Quư vị
nắm lấy ba căn cội ấy, dùng thời gian một
năm để thực hiện chúng, trong đời này,
quư vị mới có thể nhập môn hết thảy Phật
pháp. Nếu chẳng có ba căn cội ấy, không chỉ
là chẳng thể nhập môn, mà môn nào quư vị cũng chẳng
hiểu, chẳng nhập bất cứ môn nào! Nay chúng ta
nh́n vào bài kệ này, phải nên hiểu điều này, tuyệt
đối chẳng phải là ư nghĩa “nay chúng ta do khất
thực bèn đến cửa nhà người ta”. Tất cả
hết thảy các môn đều có thể kích phát nguyện
tâm của chính ḿnh, từ chỗ này mà đạt được
sự khải thị, chúng ta đă thật sự học Hoa
Nghiêm. Nay đă hết thời gian rồi!
***
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem bài kệ kế tiếp
là bài thứ sáu:
(Kinh) Nhập kỳ gia dĩ, đương nguyện
chúng sanh, đắc nhập Phật Thừa, tam thế b́nh
đẳng.
(經)入其家已。當願眾生。得入佛乘。三世平等。
(Kinh: Đă vào nhà ấy, nguyện cho chúng sanh,
được nhập Phật Thừa, ba đời b́nh
đẳng).
Trong phần chú giải, tuy Thanh Lương
đại sư chẳng nói nhiều, nhưng đă nói rất
rơ ràng.
(Sớ) Vị nhập, tắc chư gia sai biệt.
Nhập dĩ, duy nhất vô đa, như nhập Phật
Thừa, vô nhị tam dă.
(疏)未入,則諸家差別,入已,唯一無多,如入佛乘,無二三也。
(Sớ: Chưa vào th́ các nhà sai khác. Đă vào, chỉ
là một, chẳng nhiều, như nhập Phật Thừa, chẳng
có hai, ba).
Đấy chính là như kinh Pháp Hoa đă dạy:
“Duy hữu nhất Phật Thừa,
vô nhị, diệc vô tam, trừ Phật phương tiện
thuyết” (Chỉ có một Phật Thừa, không hai, cũng chẳng
ba. Trừ Phật nói phương tiện). Do vậy có thể
biết, hai thừa, ba thừa, năm thừa, cho đến
tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, đều
là đức Phật nói phương tiện. Thực tế
là Nhất Thừa, Nhất Thừa là Phật Thừa, nhất
Phật Thừa. “Nhập kỳ
gia dĩ” (Đă vào nhà ấy): Trong bài kệ trước là ở ngoài
cửa, bước vào cửa, c̣n bài kệ này là đă vào
trong nhà người ta. Đấy là chúng ta đối với
nhà của chính ḿnh, nhà của người khác, đạo
tràng cũng là nhà, vào vào ra ra. Hy vọng chúng ta trong hoàn cảnh
ấy, cũng có thể phát khởi hoằng nguyện (弘願, nguyện rộng sâu), phát đại Bồ Đề
tâm, viên thành Phật đạo ngay trong đời này. Nay chúng ta mong
thật sự phát tâm viên thành Phật đạo, chư Phật
Như Lai, tổ sư đại đức đă truyền
cho chúng ta một diệu pháp chính là “niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ”. Chỉ
có một pháp này, chẳng c̣n pháp thứ hai, ổn thỏa,
thích đáng!
Nếu quư vị thật sự mong thành tựu,
bí quyết là quư vị có thể buông xuống được. Đấy
là bí quyết thật sự. Quư vị không buông xuống
được, sẽ chẳng thể thành tựu. Quư vị
buông xuống, chắc chắn thành tựu. Quư vị chẳng
muốn buông xuống, có nghĩa là “ta chẳng muốn thành
tựu”. Đúng như vậy đấy! Buông xuống khởi
đầu từ chỗ nào? Kinh Vô Lượng Thọ đă
nói hay lắm, thực hiện buông xuống từ khẩu
nghiệp. “Thiện hộ khẩu
nghiệp, bất cơ tha quá” (Khéo giữ
ǵn khẩu nghiệp, chẳng chê bai lỗi của người
khác). Do vậy, Phật môn có phương tiện tối
sơ là “chỉ ngữ” (止語), [tức là] không nói năng, trong mười hai thời,
tức là suốt ngày từ sáng đến tối, Phật
hiệu không gián đoạn. Chỉ cần văng sanh là
được nhập Phật Thừa. Dẫu là hạ hạ
phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư cũng nhập
Phật Thừa. Lại nói, dẫu sanh vào biên địa
nghi thành của Tây Phương Cực Lạc thế giới,
vẫn là nhập Phật Thừa. Đúng như cổ
đại đức đă nói: “Đản
đắc kiến Di Đà, hà sầu bất khai ngộ”
(Chỉ được thấy Di Đà, lo ǵ chẳng
khai ngộ), “khai ngộ” ở đây là minh tâm kiến tánh. [Ở trong]
nghi thành, tuy chẳng thấy Phật, chẳng phải là vĩnh
viễn không thấy, [mà là] kẻ ấy lỡ làng thời gian, [thời gian] dài
nhất là năm trăm năm trong thế gian này của chúng ta. Chúng ta cảm
thấy thời gian năm trăm năm trong thế gian này rất
dài, nhưng trong thế giới Cực Lạc, sẽ chẳng
cảm thấy là dài. Thế giới Cực Lạc vô lượng
thọ, cũng chỉ là chậm trễ một tí thời
gian. Thời gian ở nơi ấy là năm trăm năm,
nhất định sẽ đoạn nghi sanh tín. Đoạn
hết mối nghi hoặc ấy, sẽ lập tức thấy
Phật, thấy Phật trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư!
Có người thời gian ở trong nghi
thành rất ngắn. Trong khoảng thời gian rất ngắn,
người ấy đă hiểu rơ ràng, chẳng c̣n hoài nghi nữa. Có người thời gian dài hơn đôi chút,
nhưng sẽ chẳng vượt quá năm trăm năm
trong thế gian này, sẽ nhất định quay đầu.
Giống như trong kinh, đức Phật đă nói, tuy A
La Hán là Tiểu Thừa, có thể chuyển Tiểu thành
Đại hay chăng?
Có thể! Phải tốn thời gian bao lâu?
Hai vạn kiếp. Bích Chi Phật phải mất một vạn
kiếp, đấy là thời gian dài nhất. Mỗi vị
A La Hán hoặc Bích Chi Phật có thiện căn khác nhau. Có vị
một kiếp hoặc hai kiếp sẽ quay đầu,
dài nhất chẳng hơn hai vạn kiếp. Do vậy, nhất
định sẽ quay đầu.
Chúng ta nhất định phải khăng
khăng một dạ nơi câu A Di Đà Phật. Những
thứ khác trong thế gian này toàn là giả, chẳng thật,
đừng nên ngỡ là thật, chớ nên chấp trước,
thậm chí cũng chẳng cần
phân biệt [những chuyện ấy]. Người khác lừa dối, gạt gẫm ta, hết
thảy đều tùy thuận họ. Tốt nhất là học
theo gương pháp sư Đạo An, Ngài đă ban cho tôi một
sự khải thị rất lớn. Tôi đă thấy một
chuyện nơi Ngài. Có một gă tín đồ gạt Ngài,
thật sự lường gạt Ngài, chẳng giả. Ngài vẫn
đưa cho! Lường gạt rất nhiều lần,
Ngài biết hết, chẳng phải là không biết. Có một
lần tôi đă chạm trán hắn. Tôi đến thăm lăo
nhân gia, gă cư sĩ ấy họ Tưởng, tôi chẳng
nhớ tên là ǵ, gă ấy tôi cũng rất quen thuộc. Tôi
đến chùa Tùng Sơn, chạm mặt hắn ta ngay tại
cửa, hắn rời đi, tôi tiến vào, chúng tôi chào
nhau. Tôi vào gặp lăo ḥa thượng. Lăo ḥa thượng hỏi
tôi: “Cái gă Tưởng cư sĩ vừa mới đi ra,
thầy có thấy hắn hay không?” Tôi thưa: “Thấy ạ!
Ở cửa có chào hỏi nhau”. Ngài nói: “Hôm nay hắn lại
đến lường gạt tôi!” Tôi nói: “Sao ạ? Ngài có
cho hắn hay không?” “Cho chớ!” Tôi bội phục lăo ḥa
thượng năm vóc sát đất!
Đó là ǵ? Chính là tự tại tùy duyên, thứ
ǵ trong thế gian này cũng chẳng phải là của chính
ḿnh. V́ sao để cho hắn lừa? Giáo dục đấy! Trung Hoa có một câu ngạn
ngữ: “Phóng trường tuyến
điếu đại ngư” (Thả
dây dài câu cá to), Phật độ chúng sanh là “tiên dĩ lợi dục câu, hậu
linh nhập Phật trí” (trước
hết dùng lợi dục để lôi kéo, sau làm cho nhập
Phật trí). Hắn cùng lăo ḥa thượng kết giao, vẫn
là có thiện căn, chỉ
là mê hoặc, điên đảo,
lường gạt lăo ḥa thượng, gạt tiền, chính
ḿnh cứ tưởng lăo ḥa thượng không biết. Nếu
ngày nào đó, hắn hiểu ra, lăo ḥa thượng vốn
biết hết! Cái tâm hổ thẹn sẽ sanh khởi, mới
biết ḷng từ bi của lăo ḥa thượng, hắn sẽ ngay lập tức
tiến cao hơn. V́ thế, để giúp đỡ một
chúng sanh, mỗi người dùng phương pháp khác nhau,
cách của Ngài cũng là một phương pháp. Quư vị
thấy phương pháp ấy của Ngài, chúng tôi đă gặp,
đạt được lợi ích, cũng học theo lăo
ḥa thượng. Nếu lại c̣n thâm nhập kinh tạng,
liễu giải nhân quả ba đời, quư vị có c̣n chấp
trước ǵ nữa hay chăng? Có c̣n phân biệt ǵ nữa
hay chăng?
Sau khi chúng tôi hiểu rơ chuyện này, trong các
buổi giảng, chúng tôi đă nói rất nhiều lần: “Người
sống trên đời, quư vị nói kẻ nào đó chiếm
tiện nghi, kẻ nào đó thua thiệt, bị lừa gạt,
chẳng có chuyện ấy đâu nhé! Nhân quả thông ba
đời mà!” Hôm qua, tôi đă nhắc đến bác sĩ Ngụy Tư (Brian L. Weiss), ông ta là một người chuyên môn
nghiên cứu tâm linh của nước Mỹ, và cũng là một bác sĩ, bác sĩ tâm
lư. Ông ta dùng phương thức thôi miên để chữa
trị bệnh nhân. Trong quá tŕnh ấy, phát hiện có thần
linh dựa vào người ấy, bệnh nhân bị thôi
miên rất sâu. Ông ta dùng thuật thôi
miên, [thần linh] bèn nhờ vào miệng của bệnh
nhân để nói năng ḥng tiết lộ tin tức. Tin tức ấy rất quư báu,
trong đó có nói đến chuyện nợ nần. V́ sao con
người đến thế gian này? Để trả nợ!
Giữa con người với nhau luôn có nợ nần. Nếu
chẳng có nợ nần, dẫu đối diện vẫn
không gặp gỡ! Phàm là kẻ quen biết, [dẫu] cả
đời gặp mặt một lần, chào hỏi một
lần, đều là có nợ nần! V́ sao người ấy
chẳng chào hỏi kẻ khác? Trong nợ nần có nợ
mạng, thiếu mạng phải đền mạng, có nợ
nần về tiền tài, thiếu nợ phải trả tiền,
có món nợ nhân t́nh, rất phức tạp.
Gă đó gạt tiền lăo ḥa thượng, lăo
ḥa thượng biết, vẫn đưa cho hắn. Nói
theo nhân quả ba đời, lăo ḥa thượng do bi nguyện,
hy vọng sau khi thành Phật, sẽ phổ độ chúng sanh
giống như Phật. Những kẻ bất luận là
đ̣i nợ, thiếu nợ, đ̣i mạng, đền mạng,
đều là kẻ hữu duyên. Phật chẳng độ
kẻ vô duyên, mà độ kẻ hữu duyên. Hễ có duyên, sẽ đều là hiện tượng người
ấy sẽ đắc độ. Kẻ thiếu tiền
th́ trong tương lai nhất định sẽ đến
cúng dường pháp sư, sẽ đến cúng dường
Tam Bảo để trả nợ. Đạo lư như thế
đó! Nếu kẻ ấy chẳng thiếu nợ, sẽ
chẳng có hành vi ấy. Thiếu nhiều, sẽ trả
nhiều, cúng dường nhiều. Thiếu ít, trả ít, cúng
dường ít, là chuyện như vậy đó! Hễ nhân
quả ba đời được vạch trần, tâm quư
vị liền b́nh lặng. Tâm đă b́nh lặng, quư vị
sẽ giống như lăo pháp sư Đạo An. V́ sao? Cho
gă đó nhiều hơn chút nữa! Đời sau, lúc quư vị
hoằng pháp, gă đó sẽ làm hộ pháp cho quư vị, sẽ
toàn tâm toàn lực giúp đỡ quư vị, chuyện như
thế đó! “Muốn biết
cái nhân đời trước, những ǵ hứng chịu
trong đời này chính là nó”. Chúng ta và hết thảy
người, sự, vật, “muốn
biết cái quả trong đời sau, những ǵ đă làm
trong đời này chính là nó”.
Đời quá khứ chúng ta đă làm, quên bẵng
mất rồi, chẳng biết, đă bị mê khi cách ấm!
Nay ta hiểu đạo lư này, đời này phải làm cho
tốt đẹp. Kẻ khác có nhu cầu, bất luận
dùng phương thức ǵ, ngay cả dùng cách lừa gạt,
luôn hoan hỷ cho họ. Đời sau, khi trả lại, sẽ
là hoan hỷ cúng dường, sẽ chẳng có mảy may
miễn cưỡng nào! Đúng là “một hớp uống, một miếng ăn, không
ǵ chẳng định trước”. Quư vị mong vứt
bỏ, cũng chẳng vứt được! Quư vị
mong chiếm tiện nghi của kẻ khác, sẽ chiếm
chẳng được! Giáo dục nhân quả hết sức
trọng yếu. Quư vị đă hiểu rơ giáo dục nhân
quả, sau đấy mới thật sự liễu giải
“ba đời b́nh đẳng”.
Trong Phật pháp giới là b́nh đẳng, mà trong chín pháp giới
vẫn là b́nh đẳng. V́ thế, chính ḿnh khắc khổ,
nhẫn nại, giúp đỡ người khác, chắc chắn
sẽ có lợi! Trong đời này là ǵ? Tâm địa thanh
tịnh, phải buông xuống ư niệm thí xả, đó gọi
là “tam luân thể không”, chẳng
chấp trước ta là người thí, mà cũng chẳng
chấp trước kẻ khác là người được
ta bố thí, và cũng chẳng chấp trước tướng
của tài vật được thí xả trong ấy, hoàn
toàn buông xuống. Trong tâm chỉ giữ [một niệm] A
Di Đà Phật. Ngoài A Di Đà Phật ra, trong tâm thứ ǵ
cũng đều chẳng có, người ấy chắc
chắn thành Phật, văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới, hoa nở thấy Phật.
“Nhập kỳ
gia dĩ” (Đă vào nhà ấy): Đấy là đă nhập Phật
môn. Nói thông thường th́ nhập Phật môn là ǵ? Thọ
Tam Quy, Ngũ Giới chính là “nhập
Phật môn”. Nhưng quư vị phải thật sự
thông hiểu Tam Quy, Ngũ Giới; phải là có thể thật
sự thực hiện, quư vị mới thật sự nhập
Phật môn. Nếu không, thọ Tam Quy, Ngũ Giới trên
h́nh thức, thật ra, quư vị chẳng nhập môn. Tam
Quy, Ngũ Giới giống như tấm vé vào cửa; quư vị
mua tấm vé ấy, chẳng bước vào, rất đáng
tiếc! Kẻ như vậy đông lắm! Tam Quy là ǵ? Chẳng
biết, cứ thọ. Lăo ḥa thượng cũng trao
điệp quy y, nhưng Tam Quy là ǵ chẳng biết. Tam Quy
có nghĩa là “giác chứ không
mê, chánh chứ không tà, tịnh chứ chẳng nhiễm”,
đấy là Tam Quy thật sự. Trong cuộc sống hằng
ngày, trong công việc, đăi người tiếp vật,
đều là niệm nào cũng “giác
chứ không mê, chánh chứ không tà, tịnh chứ chẳng
nhiễm”, quư vị đă thật sự quy y. Giác, Chánh,
Tịnh là Tam Bảo, tức Phật, Pháp, Tăng. Nếu chúng
ta khởi tâm động niệm, đăi người tiếp
vật vẫn là “mê chứ chẳng
giác, tà chứ chẳng chánh, nhiễm chứ chẳng tịnh”,
Tam Quy của quư vị là hữu danh vô thực, như tôi vừa
mới nói tỷ dụ: Quư vị mua vé vào cửa mà chẳng
bước vào!
Sau khi đă vào cửa, Ngũ Giới nhất
định thanh tịnh, chẳng có ǵ không thanh tịnh. V́
trước khi vào cửa, quư vị đă là thiện nam tử,
thiện nữ nhân. Đó là ǵ? Quư vị đă làm được
Thập Thiện Nghiệp Đạo. Phải học Thập
Thiện Nghiệp Đạo trước khi thọ Tam Quy,
đó là cơ sở. Dựa vào ǵ để tiếp nhận
Tam Quy? Dựa vào Thập Thiện Nghiệp Đạo. Nay
chúng ta chẳng cần nói đến hàng đệ tử tại
gia, tứ chúng xuất gia có thể làm được Thập
Thiện Nghiệp hay không? Nêu ra vấn đề này,
đúng là có vấn đề! [Nếu như] chẳng làm
được Thập Thiện Nghiệp, [vậy th́] Tam
Quy, Ngũ Giới chẳng cần phải nói nữa! Đều
là ở ngoài cửa, chẳng nhập môn! Tam Quy, Ngũ Giới,
thậm chí giới tỳ-kheo, giới Bồ Tát đều
chẳng thật, hữu danh vô thực! Nguyên nhân ở chỗ
nào? Chẳng học giáo dục cơ sở! Phật giáo Trung
Hoa là Đại Thừa, Đại Thừa Phật giáo của
Trung Hoa chẳng dựa vào Tiểu Thừa. Nguyên lai, học
Phật th́ phải là học Tiểu Thừa trước,
sau đó học Đại Thừa. Đại Thừa Phật
giáo của Trung Hoa chẳng học Tiểu Thừa, nhưng
có cái để thay thế, thay thế bằng ǵ vậy?
Nho và Đạo. Phải coi trọng điều này, căn cội của Nho là Đệ Tử Quy, căn
cội của Đạo gia là Cảm Ứng Thiên.
Nói cách khác, chúng ta có làm được Đệ
Tử Quy và Cảm Ứng Thiên
hay không? Chẳng học, vậy th́ khó trách, do lẽ đó,
quư vị chẳng làm được Thập Thiện Nghiệp
Đạo. Nếu quư vị có Đệ Tử Quy, có Cảm
Ứng Thiên th́ đối với quư vị, Thập Thiện
Nghiệp Đạo chẳng khó khăn tí nào! Chư vị
phải ghi nhớ, ba tác phẩm nhỏ ấy chính là
căn bản của Nho, Thích, Đạo, là khóa tŕnh bắt
buộc phải tu. Đệ Tử Quy của Nho gia, Cảm
Ứng Thiên của Đạo gia, Thập Thiện Nghiệp
của Phật gia, ba thứ ấy là căn bản. Có ba
món căn bản ấy, Tam Quy, Ngũ Giới của quư vị
sẽ được thực hiện, là thật, chẳng
giả! Nếu quư vị xuất gia, chắc chắn là Sa
Di Luật Nghi chẳng có vấn đề ǵ, thực hiện dễ dàng! Do đó, chư vị phải hiểu,
giáo học của ba nhà, Khổng Tử, Lăo Tử, Thích Ca
Mâu Ni Phật, đều coi đức hạnh là bậc nhất.
Giáo học cơ sở của cả ba nhà đều là
căn bản của đức hạnh, kiến lập Phật
pháp từ chỗ này th́ mới có thể tăng tấn từng
giai đoạn một, chớ nên không làm, chớ nên không hiểu!
Nếu chúng ta vứt bỏ ba thứ ấy,
hâm mộ Đại Thừa, hâm mộ Hoa Nghiêm, tuy nghe Hoa
Nghiêm, chẳng được lợi ích! V́ sao? Chẳng làm
được! Quư vị thấy phẩm Tịnh Hạnh
có tất cả một trăm bốn mươi mốt
nguyện, hôm nay chúng ta học tới nguyện thứ một
trăm lẻ bảy trong tổng số [tất cả các
lời nguyện]. Trong đoạn này là bài kệ thứ
sáu, nhưng nói theo toàn thể, th́ là bài kệ thứ một
trăm lẻ bảy. Một trăm bốn mươi mốt
nguyện thảy đều làm được, đấy
là ǵ? Pháp Thân Bồ Tát. Lũ phàm phu chúng ta học Hoa Nghiêm,
có thể học hay không? Có thể chứ. Trong mười
loại đương cơ [như đă nói] trong phần
trước, loại cuối cùng là phàm phu, tức đại
tâm phàm phu, tức là phàm phu đă phát đại Bồ Đề
tâm. Tuy chẳng thể thâm nhập giống như Pháp Thân Bồ
Tát, nhưng người ấy cũng có thể làm
được một trăm bốn mươi mốt
nguyện này. Người ấy có thể làm đến mức
độ nào? Tương tự! Thật sự có ư niệm
ấy, trong cuộc sống hằng ngày, trong tất cả
hết thảy sự tướng, hết thảy người,
sự, vật, hễ sáu căn tiếp xúc, đều có thể
dẫn phát hoằng nguyện của người ấy.
Người ấy có thể làm mấy phần, chẳng
sao hết, người ấy có thể phát khởi, [đấy
mới là điều quan trọng]! Nay chúng ta niệm
như thế nào? Niệm suốt ngày từ sáng đến
tối, tuy gặp [các t́nh huống] đều chẳng phát
khởi [hoằng nguyện] được! Kinh là kinh, ta là
ta, lúc niệm th́ dường như có loại ấn tượng
đó, nhưng sau khi niệm xong, chẳng hề có. Đấy
chẳng phải là đương cơ của Hoa Nghiêm! V́
sao chẳng có? Tôi vừa mới nói đấy thôi, chúng ta
chẳng học kỹ càng, chẳng học căn cội, chẳng học giáo dục cơ sở đàng hoàng; do vậy,
làm thế nào cũng đều chẳng tăng tấn được!
Tất cả hết thảy các kinh giáo Đại Thừa
đều là tiến cao hơn, quư vị chẳng có cơ
sở hạ tầng, nâng cao hơn bằng cách nào đây?
Toàn bộ đều xôi hỏng bỏng không, chớ nên
không biết đạo lư và chân tướng sự thật
này!
Nếu chúng ta hỏi, chúng ta nhất tâm nhất ư chuyên tu Tịnh Độ, nghe kinh Hoa Nghiêm có trở
ngại ǵ chăng? Chẳng bị trở ngại! Kinh Hoa
Nghiêm chính là thực hiện kinh Vô Lượng Thọ và
kinh A Di Đà, có lợi, chẳng có hại. Thực hiện
kinh Vô Lượng Thọ và kinh Di Đà trong cuộc sống
như thế nào? Thực hiện trong xử sự, đăi
người tiếp vật như thế nào? Có thể học
từ Hoa Nghiêm! Cổ đại đức nói Hoa Nghiêm là
đại bổn của kinh Vô Lượng Thọ, kinh Vô
Lượng Thọ là trung bổn của kinh Hoa Nghiêm. V́ sao
là trung bổn? V́ kinh A Di Đà được xem như tiểu
bổn của kinh Hoa Nghiêm. Ba bộ kinh ấy là một bộ
kinh, có nghĩa là nói giản lược, hay nói tỉ mỉ.
Nói tỉ mỉ là Hoa Nghiêm, nói giản lược là kinh A
Di Đà. Nói hay quá! Lịch đại tổ sư đều
khẳng định, đều đồng ư với cách
nói này. Do vậy có thể biết, chắc chắn là chẳng
thể phế trừ Sự, v́ Lư và Sự chẳng hai. Nếu
phế trừ Sự th́ Lư sẽ chẳng có! Lư nương
vào Sự, Sự cũng phải nương vào Lư. Lư và Sự
bất nhị, Tánh và Tướng như một.
Pháp môn Tịnh Tông, đây là nói về tất
cả các môn, vô lượng pháp môn được quy nạp
đến cuối cùng, sẽ thành ba môn. Ba môn ấy là ba
môn Giác, Chánh, Tịnh, là Tam Bảo. Cuối cùng là ba môn ấy!
Tiến nhập, ba sẽ biến thành một, ba môn chẳng
c̣n nữa. Ba đă chẳng có, nói thật thà, một
cũng chẳng có; sau khi đă tiến nhập, sẽ
chẳng có. Chẳng tiến nhập, nh́n từ bên ngoài, sẽ
có ba môn. Một chính là ba, ba chính là một, bất luận
tiến vào từ môn nào! Tánh Tông và Thiền Tông là từ Giác
Môn; đó gọi là “đại
triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh”. Như Hoa
Nghiêm, Pháp Hoa, Pháp Tướng, Bát Nhă thuộc về Giáo, những
Giáo ấy tiến nhập từ Chánh Môn, tức là chánh tri
chánh kiến, Phật tri Phật kiến. Hoa Nghiêm và Pháp Hoa
đều thuộc về Giáo, hễ đại khai viên giải
sẽ tiến nhập. Hai tông phái Tịnh Độ Tông và Mật Tông
tiến nhập bằng Tịnh Môn, tức là tâm thanh tịnh,
nhất tâm bất loạn. Lư nhất tâm bất loạn bèn nhập Phật
Thừa, Sự nhất tâm bất loạn nhập Bồ
Tát Thừa. Sự nhất tâm bất loạn là Bồ Tát,
Lư nhất tâm bất loạn là thành Phật. Do đó, [chỉ là] các danh từ khác nhau, quư vị thấy minh tâm kiến
tánh, đại khai viên giải, Lư nhất tâm bất loạn,
tên gọi khác nhau, trên thực tế là cùng một chuyện,
là “đắc nhập Phật
Thừa”.
Tịnh Tông đă là từ cái tâm thanh tịnh
[mà tiến nhập], vậy th́ thử hỏi, tâm chúng ta có thanh
tịnh hay không? Tâm có chấp trước th́ chẳng thanh
tịnh. Tâm có phân biệt, chẳng thanh tịnh! Chúng ta
không nói đến khởi tâm động niệm, chỉ
nói đến hai hiện tượng ấy (phân biệt và
chấp trước). Tâm có nghi hoặc, chẳng thanh tịnh,
hăy đoạn nghi sanh tín. Nhất định phải buông
xuống phân biệt và chấp trước, quư vị mới
đạt được cái tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh
tương ứng với A Di Đà tương ứng với
Tịnh Độ. Dùng tâm thanh tịnh để niệm Phật,
kinh nói như thế này, mà cổ đại đức
cũng nói giống như thế: “Một niệm tương ứng một niệm Phật,
niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”.
“Tương ứng” là ǵ? Hễ
thanh tịnh sẽ tương ứng; chẳng thanh tịnh
sẽ không tương ứng. Hăy nhớ: Nghi hoặc, phân
biệt, chấp trước th́ chẳng thanh tịnh. Tối
thiểu là khi chúng ta đang niệm Phật, mỗi ngày quư
vị bỏ ra một tiếng đồng hồ để
niệm Phật, hoặc là dùng hai tiếng đồng hồ
để niệm Phật, chẳng gián đoạn ngày nào,
công phu đắc lực. Do vậy, tổ sư ấn
định công khóa sáng tối, sáng tối đều chẳng
gián đoạn. Khi niệm Phật th́ nghi hoặc, phân biệt,
chấp trước thảy đều buông xuống, nhất
tâm xưng niệm, sẽ tương ứng. Công đức
ấy chẳng thể nghĩ bàn! V́ vậy, quư vị niệm
một tiếng đồng hồ là tu tâm thanh tịnh một
tiếng đồng hồ. Niệm hai tiếng đồng
hồ là tu tâm thanh tịnh hai tiếng đồng hồ. Tâm
thanh tịnh, tự nhiên là có giác và chánh trong ấy. Nó là một
mà ba, tuy ba mà một.
Nếu chúng ta một mặt niệm Phật,
[mặt khác] vẫn dấy vọng tưởng, chẳng
thể nói là không có công đức, nhưng công đức rất
bé! Ví như dùng tâm thanh tịnh để niệm th́ công
đức là một trăm phần trăm, nhưng trong
đó xen tạp vọng tưởng, xen tạp phân biệt,
công đức của quư vị chỉ được một
phần ba. Tùy thuộc quư vị xen tạp bao nhiêu, xen tạp
rất nhiều, có thể công đức chỉ là ba phần
trăm hoặc năm phần trăm. Xen tạp càng ít, công
đức càng to. Chẳng có xen tạp, công đức viên măn,
đạo lư là như thế đó. Chúng sanh đời Mạt
Pháp dùng phương pháp này để nhập Phật Thừa
là thuận tiện nhất. Trong một đời có năng
lực, tâm chân thành, tâm từ bi giúp đỡ hết thảy
chúng sanh, niệm niệm công đức viên măn. Kinh Lăng
Nghiêm nói “phát ư viên thành”, công
đức viên măn. [Có nghĩa là] ta phát tâm, nhưng ta chẳng
có năng lực thực hiện, cái tâm ta là chân tâm, công
đức sẽ viên măn. Chúng ta xem tin tức trong hai ngày
nay, động đất ở Ấn Nê (Indonesia) là một
tai nạn lớn ngần ấy, chúng ta thật sự phát
tâm cầu nguyện cho họ, công đức sẽ viên măn.
Tôi chẳng có sức giúp đỡ họ, nếu tôi có sức,
nhất định sẽ giúp họ. Chẳng có sức,
tôi có tấm ḷng này, chớ nên không biết! Đều là
trong cuộc sống hằng ngày, thấy, nghe đều
vui vẻ giúp đỡ.
Từ Liễu Phàm Tứ Huấn, chúng ta thấy
có một bà cụ hằng ngày làm rất nhiều bánh mạn
đầu. Nay chúng ta gọi là “mạn
đầu” (饅頭, màn thầu, bánh bao không nhân), trong sách vở chép là “phấn đoàn” (粉團) để thí xả cho người nghèo, chẳng mệt,
chẳng chán! Gia cảnh của bà cụ rất khá, hằng
ngày đều làm cả đống để thí cho người
nghèo, làm nhiều năm chẳng mệt! Bất luận ai
đến xin, bà đều hoan hỷ, cung kính đưa
cho. Cảm động một vị tiên nhân, vị tiên ấy
c̣n đến khảo nghiệm bà cụ, xem bà cụ là thật
tâm hay giả vờ. Mỗi ngày đều đến chỗ
bà cụ xin xỏ. Khi người khác xin, chỉ một, hai cái là
có thể ăn no rồi, vị tiên ấy luôn xin sáu, bảy
cái, nhiều hơn người khác, nhiều gấp
đôi, lại c̣n xin lâu ngày nữa, suốt ba năm! Khi cho
bánh, bà cụ chưa hề tiếc rẻ, lại
c̣n luôn hoan hỷ trao cho: “Không sao đâu! Cầm lấy
đi mà!” Sau ba năm, vị tiên thấy bà cụ xác thực
là thành ư, bèn bảo cụ: “Trong nhà bà có một cuộc
đất Phong Thủy quư báu, sau khi chết, hăy chôn vào
đó. Con cháu đời sau sẽ có đứa làm quan số
lượng nhiều như một thưng mè”. Chính cụ sanh lên trời, phước báo do chính
ḿnh sanh lên trời đem ban cho con cháu c̣n được nhiều
ngần ấy. Thành tâm tích đức tu phước. Để
tu phước th́ thí tài chẳng cần biết là nhiều
hay ít, tâm chân thành hết sức đáng quư!
C̣n có một câu chuyện nữa. Một cô
gái nghèo túng, ở trong chùa lễ Phật, trên thân chỉ có
hai đồng bèn cúng thí hai đồng. Lăo ḥa thượng
hồi hướng cho cô. Về sau, đúng là do phước
ấy khiến cho cô được tuyển làm phi tử của
hoàng đế, làm quư nhân[1]. Cô lại
đến dâng hương trong ngôi chùa ấy để hoàn nguyện,
cúng dường ngàn lạng. Lăo ḥa thượng bảo
đồ đệ của Ngài hồi hướng cho cô
ta. Cô ta hết sức lấy làm lạ: “Thuở trẻ,
tôi bố thí hai đồng, lăo nhân gia hồi hướng
cho tôi. Nay v́ sao tôi bố thí nhiều ngần ấy, Ngài chỉ
sai đồ đệ hồi hướng cho tôi?” Lăo ḥa
thượng hết sức chẳng khách sáo, bảo
cô ta: “Trong quá khứ, bà bố thí hai đồng, tấm
ḷng bà chân thành, toàn bộ tài sản của bà chỉ có chừng
ấy, bỏ ra hết. Nay bà phát tài, bố thí ngàn lạng
tức là một sợi lông của chín con trâu! Thái độ
của bà chẳng thành khẩn như trước kia, đồ
đệ của tôi hồi hướng cho bà là được
rồi!” Chuyện này nói lên điều ǵ? Vật bố thí
chẳng quan trọng là nhiều hay ít, quư ở cái tâm. Tâm
chân thành, bố thí ít, công đức to tát. Tâm địa chẳng
chân thành như vậy, dẫu bố thí nhiều, công đức
nhỏ nhoi, đạo lư ở chỗ này.
Đối với Liễu Phàm Tứ Huấn,
Mă Lai đă làm hai đĩa phim, dài hai tiếng đồng
hồ, làm khá lắm. Chúng ta hăy nên coi nó như công khóa để học
tập. Tôi thường giới thiệu cùng mọi người
thứ này, hy vọng quư vị có thể nghe ba trăm lần.
Mỗi ngày quư vị nghe một lần coi như công khóa
để học tập. Sau khi đă học ba trăm lần,
quư vị biết tu phước, thật sự hiểu rơ
đoạn ác tu thiện như thế nào, làm như thế
nào để thành tựu công đức thù thắng của
chính ḿnh ngay trong một đời. Dùng công đức ấy
để niệm Phật hồi hướng, há lẽ nào
chẳng văng sanh? Dẫu quư vị chẳng buông xuống chấp
trước, sẽ văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng
Cư, có phần trong ba phẩm thượng, chẳng phải
là bậc trung hoặc bậc hạ, mà thuộc vào bậc
thượng. Đấy là chuyện mỗi cá nhân chúng ta có
thể làm được trong một đời này. V́ thế,
muốn khai trí huệ, phải hiểu rơ chân tướng sự
thật, nhân quả ba đời, chân tướng của
pháp thế gian và xuất thế gian, dùng cái tâm chân thành để
xử sự, đăi người tiếp vật. Làm chuyện
tốt, đừng nghĩ “ta không có tiền sẽ chẳng
thể làm”, một đồng cũng có thể làm! Một đồng, hai đồng,
công đức viên măn. Thành ư chẳng đủ th́ bố
thí ngàn vàng vẫn chỉ là công đức nửa vời,
chẳng viên măn. Do vậy, thiện có măn thiện (滿善, thiện
viên măn), bán thiện (半善, thiện
không viên măn), khác nhau! Có chân thiện và giả thiện, có trọn
vẹn và thiên lệch, có lớn, có nhỏ. Tiên sinh Liễu
Phàm đă nói tám loại [thiện], chớ nên không biết.
Hoa Nghiêm toàn là nói về cuộc sống hằng
ngày. Trong cuộc sống hằng ngày, quư vị nói xem, có thứ
ǵ chẳng nhằm khơi gợi chúng ta? Phàm những thứ
có thể khơi gợi, toàn là do Phật, Bồ Tát thị
hiện, do Phật, Bồ Tát ứng hóa. Nếu không, làm sao
quư vị có thể hoát
nhiên khai ngộ cho nổi? “Buông dao đồ tể xuống,
ngay lập tức thành Phật”. Dao đồ tể là
ǵ vậy? Phải nên biết, dao đồ tể chính là tập
khí phiền năo, kinh Hoa Nghiêm gọi nó là “vọng tưởng, phân biệt, chấp trước”.
Đấy là dao đồ tể! Quư vị chẳng buông xuống,
sẽ vĩnh viễn sanh tử luân hồi. Quư vị buông xuống,
nhất tâm niệm Phật, sanh sang thế giới Cực
Lạc, sẽ thành Phật. Chúng tôi học Phật cho tới
hiện thời, trong mấy chục năm ngắn ngủi
ấy, thấy người niệm Phật, nghe kể
người niệm Phật khi văng sanh biết trước
lúc mất, có vị đứng mất, có vị ngồi tịch,
thật sự văng sanh! Chẳng giả!
Mấy năm trước, tôi ở Tân Gia
Ba, thấy lâm trưởng của Cư Sĩ Lâm là cư
sĩ Trần Quang Biệt, cụ đă học Phật nhiều
năm, nhưng chẳng hiểu Phật pháp. Chính ḿnh là một
ngân hàng gia tại Tân Gia Ba, là một tay thương nghiệp cự
phách, làm đổng sự trưởng (Chairman of the Board) của bao nhiêu công ty, chẳng có thời gian nghe kinh,
mà cũng chẳng có thời gian niệm Phật. Đến
lúc tuổi già, ngă bệnh. Do ngă bệnh nên chẳng thể
đi làm, chẳng thể làm việc, hằng ngày nằm
trên giường chẳng thể làm việc được!
V́ thế, cụ bảo ông Lư Mộc Nguyên, Lư Mộc Nguyên trông coi Tổng Vụ của Cư Sĩ Lâm. Ông ta nói: “Pháp sư giảng kinh ở
bên này, các vị đều có thâu thành CD, có thể đem CD
cho tôi coi hay không?” Lư cư sĩ bèn đem mấy bộ kinh
như kinh Vô Lượng Thọ, kinh Kim Cang, kinh Di Đà
đến nhà ông ta.
Mỗi ngày, ông ta xem tám tiếng đồng
hồ. TV đặt dựa
vào chân giường, ông ta mở mắt ra
là có thể xem. Mỗi ngày xem tám tiếng đồng hồ,
suốt hai năm chẳng gián đoạn. Người nhà
ông ta kể với chúng tôi như vậy. Ngoài việc nghe
kinh ra, ông ta bèn niệm Phật, trong hai năm ấy
được thọ dụng to lớn. Ông ta biết
trước lúc mất, bảo Lư cư sĩ: “Tôi sắp
đi rồi!” Lư cư sĩ nói với ông ta: “Không
được! Về phương diện nhân sự,
Cư Sĩ Lâm không ổn định. Chỉ cần ông c̣n
sống, [Cư Sĩ Lâm] sẽ b́nh an vô sự, ông c̣n phải trông nom”. Ông Trần
nói “được!” Lại đợi hai năm nữa, công khóa của ông
ta là bốn năm. Ba ngày trước khi văng sanh, [cho người]
t́m tôi đến truyền quy y để thọ Tam Quy. [Ông ta đă] thọ Tam Quy trên giường bệnh, ba hôm sau văng
sanh. Ba tháng trước đó, ông ta đă viết sẵn thời
hạn [văng sanh] trên một tờ giấy, [viết] từ
ba tháng trước “ngày hôm ấy sẽ văng sanh”. Ông ta biết trước ba tháng! Về sau, thông qua linh môi (medium), [chúng tôi] được
biết: “Ông ta thật sự văng sanh, chẳng giả!”
Buông xuống muôn duyên, nhất tâm niệm Phật. Hôm nay
chúng tôi nói tới chỗ này!
Tập
1560
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh
thứ mười một, đoạn lớn thứ bảy
trong phần Kệ Tụng, xem từ bài kệ thứ bảy:
(Kinh) Kiến bất xả
nhân, đương nguyện chúng sanh, thường bất
xả ly, thắng công đức pháp.
(經)見不捨人。當願眾生。常不捨離。勝功德法。
(Kinh: Thấy người chẳng xả, nguyện
cho chúng sanh, thường chẳng ĺa bỏ, công đức
thù thắng).
Đoạn này có tất cả tám bài kệ,
từ bài thứ bảy cho đến bài thứ mười
bốn là “khất thực
đắc phủ” (乞食得否, có khất thực được hay không). Tức
là quư vị đi khất thực, trai chủ có cúng dường
hay chăng? Quư vị có thể xin được thức
ăn hay không? Chuyện này chẳng thể biết chắc!
Bài kệ đầu tiên là quư vị khất thực,
người ta không chịu thí xả. Thông thường, chẳng
chịu thí xả, họ sẽ không mở cửa. Quư vị
khất thực ở cửa, trong phần trước, tôi
đă thưa cùng quư vị, người xuất gia chẳng thể tùy tiện gơ
cửa nhà người ta. Khi khất thực, chúng ta cầm
theo tích trượng. Rung nhẹ tích trượng một
lượt, tích trượng phát ra tiếng. Người
bên trong cửa nghe thấy, nếu phát tâm cúng dường, họ sẽ
mở cửa, đem món ăn đưa đến tận
cửa. Hoặc là mở cửa, để cho quư vị tiến
vào. Các thứ t́nh h́nh đều có, đều chẳng nhất
định. Thông thường, kẻ chẳng xả sẽ
không mở cửa, họ chẳng quan tâm. Trong phần
trước, chúng tôi đă có nói về tích trượng, chỉ
có thể rung ba lượt, ba lượt mà không có ai ra,
chúng ta phải đổi sang nhà thứ hai. Chẳng thể
khất thực ở nhà ấy, bèn đổi sang nhà khác. Đấy
là gặp kẻ không chịu xả, hôm nay chẳng thể cúng
dường.
Chúng ta biết xă hội Ấn Độ vào
thời cổ cũng chẳng khác xă hội Trung Hoa cho mấy.
Ít kẻ giàu có, lắm người bần cùng! V́ thế,
đức Phật cho phép hàng tỳ-kheo xuất gia khất
thực có thể xin tới bảy nhà. Một bát cơm do
bảy nhà cúng dường, mỗi nhà chỉ cúng dường
một chút. Bảy nhà gộp lại thành một bát, đủ
cho quư vị dùng một bữa. Khi đó, chỉ ăn một
bữa trưa, một bữa cơm đủ rồi.
Người xuất gia mỗi ngày chỉ ăn một bữa.
Do vậy, nói: “Giữa trưa
ăn một bữa, đêm nghỉ dưới cội
cây”. Đức Thế Tôn đă nêu gương tốt nhất
cho chúng ta. Người xuất gia hành tŕ kiểu ấy
cũng nhằm giáo hóa chúng sanh. Chúng ta biết v́ sao chúng sanh
đọa lạc trong luân hồi nhiều kiếp dài lâu,
do nguyên nhân ǵ vậy? Tuy có rất nhiều nguyên nhân,
nhưng quan trọng nhất là tham: Tham tài, tham sắc, tham
danh, tham lợi. Tâm tham chẳng trừ, chẳng thoát khỏi
cơi trần. “Cơi trần”
tượng trưng cho lục đạo, đức Phật
nói câu này trong kinh Lăng Nghiêm. Do đó, đức Phật
làm rất triệt để, nêu gương cho tất cả
những người xuất gia, giữa trưa ăn một
bữa, tối nghỉ dưới cội cây, chẳng
tham! Tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục
trần, thảy đều buông xuống!
Đức Phật có sống vui sướng
hay chăng? Hết sức vui sướng! Niềm vui của
Ngài là ǵ? Niềm vui là đạo! Nho gia nói Lạc là học,
học cũng là đạo. Sách Luận Ngữ có câu: “Học nhi thời tập chi, bất
diệc duyệt hồ?” (Học rồi thường
xuyên tập luyện, cũng chẳng vui sao?) Quư vị
đem những điều
đă học, “tập”
(習) là thực hiện
toàn bộ, ta thực hiện những ǵ đă học trong cuộc
sống, thực hiện trong công việc, thực hiện
trong xử sự, đăi người tiếp vật, hết
sức vui sướng. Thuở đức Thế Tôn tại
thế, chính Ngài đă thực hiện viên măn. Nhóm học
tṛ theo Ngài, trong các học tṛ có Thường Tùy Chúng, trong
kinh chúng ta thường đọc thấy một ngàn hai
trăm năm mươi lăm người; đấy là
Thường Tùy Chúng. Trong số ấy, có khá nhiều vị
Bồ Tát, đại A La Hán. Ngoài những vị ấy ra,
kinh điển thường tỉnh lược, không ghi
chép những vị học tṛ tại gia. Học tṛ tại
gia chẳng theo đức Phật suốt năm, họ
đến đến, đi đi.
Chúng ta ắt cần phải biết
điều này, nhất là các đồng học xuất
gia. Phật là ǵ? Các vị học Phật, Phật là ǵ? Bồ
Tát là ǵ? Quư vị có trông thấy hay không? Chúng tôi đă gặp
những người hỏi chúng tôi vấn đề này.
Phật là thầy, Bồ Tát là học tṛ. Chuyện này
đă chỉ rơ, Phật, Bồ Tát chẳng phải là thần,
tiên, Phật, Bồ Tát là người. Danh xưng Phật
và Bồ Tát là từ tiếng Phạn của Cổ Ấn
Độ, là phiên âm tiếng Phạn. Phật Đà (Buddha) dịch
sang nghĩa tiếng Hán là Giác Giả, tức là một người có
trí huệ, có giác ngộ, Ngài là thầy. Bồ Tát (Bodhisattva) là người cầu giác ngộ, cầu trí huệ,
là học tṛ, vẫn chưa đạt đến viên măn
như đức Phật, người ấy c̣n đang cầu
học. Nếu nói theo kiểu hiện thời, Phật là hạng
người nào? Phật là Học Giả. Chữ Học (學) trong tiếng
Hán c̣n có nghĩa là Giác
(覺). Nhưng danh xưng “học
giả” trong hiện thời có ư nghĩa khác với Phật,
sai biệt quá to. Chúng ta có thể nói Phật là bậc học
giả viên măn rốt ráo; nay chúng ta gọi học giả là
“chuyên gia”. Trong Phật môn
th́ ngay cả A La Hán vẫn chẳng thể sánh bằng. A
La Hán là mới giác ngộ, thấp hơn A La Hán th́ vẫn
chưa giác ngộ!
Chư vị đều biết một danh
từ Phật học, đấy là mục tiêu cao nhất
trong sự cầu học của chúng ta, tức là A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Anuttarā-samyak-saṃbodhi). Câu này cũng là tiếng Phạn, dịch sang
nghĩa tiếng Hán là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác. A La Hán là Chánh Giác
(Saṃbodhi); học giả, chuyên gia trong thế gian hiện thời
đều chẳng đạt đến tiêu chuẩn này!
V́ sao? Tiêu chuẩn ấy chính là đoạn phiền năo. Các học
giả và chuyên gia trong hiện thời chẳng đoạn
phiền năo. Chẳng đoạn phiền năo, sẽ chẳng
phải là A La Hán. A La Hán đă đoạn Kiến Tư phiền
năo, vượt thoát lục đạo luân hồi. V́ sao có lục
đạo luân hồi? Do quư vị có Kiến Tư phiền
năo. Kinh Hoa Nghiêm gọi Kiến Tư phiền năo là chấp
trước. Quư vị chấp trước hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian, chẳng buông xuống
chấp trước! Nếu xác thực là chẳng chấp
trước hết thảy các pháp thế gian và xuất thế
gian, đă đều buông xuống, quư vị bèn chứng quả
A La Hán. Chấp trước là phiền năo, chấp trước
là Kiến Tư. Nói đến Kiến Tư th́ Kiến (見) là kiến giải, sai lầm, Tư (思) là tư tưởng, nghĩ sai, thấy trật, chẳng biết chân tướng sự thật.
Như vậy th́ mới tạo thành lục đạo luân
hồi.
Nếu kiến giải và tư duy của
quư vị chánh xác, sẽ chẳng có lục đạo luân hồi,
quư vị vượt thoát lục đạo. A La Hán đă
vượt thoát lục đạo. Đấy là giai đoạn
thứ nhất trong Phật pháp, giống như ba cấp học
trong nhà trường. Quư vị đă tốt nghiệp cấp
học thứ nhất, th́ là A La Hán. Tốt nghiệp cấp
học thứ hai, th́ là Bồ Tát. Tốt nghiệp cấp
học cuối cùng, sẽ là Phật
Đà. V́ thế, Bồ Tát là Chánh Đẳng Chánh Giác, Phật
Đà là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Phật được
gọi là Học Giả, Bồ Tát và A La Hán cũng đều gọi là học giả, cao
hơn những bậc học giả trong thế gian rất nhiều. Học giả thế gian chẳng
đoạn tập khí phiền năo. Nói cách khác, họ chẳng
thoát khỏi luân hồi, chẳng thật sự hiểu rơ
chân tướng sự thật! Bất quá, khoa học hiện thời kể ra cũng khá lắm,
cũng rất khó có, nghiễm nhiên phát hiện thế gian
này xác thực là tồn tại mười một loại
chiều không gian bất đồng. Phát hiện ấy cũng
rất lỗi lạc! Mười một chiều không gian
bất đồng là ǵ? Nói theo Phật pháp, sẽ là Dục
Giới, họ biết có chuyện này!
Đối với Dục Giới, quư vị
thấy mười một loại không gian bất đồng. Từ
nhân gian trở lên th́ Dục Giới có sáu tầng trời; sáu tầng
trời là sáu chiều không gian bất đồng. Trong
đó c̣n có A Tu La, người, súc sanh, ngạ quỷ, địa
ngục; do vậy, hợp thành mười một chiều
không gian khác nhau. [Họ] c̣n chưa phát hiện Sắc Giới
và Vô Sắc Giới. Sắc Giới có mười tám tầng
trời, tức là mười tám loại chiều không gian khác nhau. Vô
Sắc Giới có bốn tầng trời. Tổng cộng
là hai mươi tám tầng trời[2]. Hơn nữa,
dưới đó là năm đường, [tính gộp lại
là] ba mươi ba. Do vậy, trong lục đạo, có tổng
cộng tối thiểu là ba mươi ba loại chiều
không gian bất đồng. Nay họ đă biết mười
một loại, rất khó có. Đột phá bằng cách nào?
Làm thế nào để có thể qua lại với các chiều
không gian khác nhau? Các nhà khoa học cũng đang mong cầu
trong mộng mị, chẳng biết dùng phương pháp ǵ!
Trong Phật pháp th́ có, Phật pháp dùng phương pháp ǵ vậy?
Thiền Định. Thiền Định có thể đột
phá các chiều không gian và thời gian. Thiền Định càng
sâu, phương diện đột phá càng rộng, thời
gian đột phá càng dài. V́ thế, nhà Phật dùng công phu Thiền
Định; trong các buổi giảng, chúng tôi cũng đă
thưa tŕnh chuyện này quá nhiều lần!
Ở đây, Bồ Tát trông thấy có hiện
tượng như thế này: Kẻ đó chẳng thể xả. Chẳng thể xả
th́ đương nhiên là có rất nhiều nhân tố. Một
loại là về căn bản, [kẻ ấy] chẳng có ư
nguyện đó. Loại khác là muốn xả, nhưng
chẳng có năng lực. Chính người ấy ăn chẳng
đủ no, làm sao có cách nào để cúng dường quư vị?
Do vậy, có đủ mọi nguyên nhân. Bất luận là
loại nguyên nhân nào, chúng ta chẳng cần bận tâm, cũng
chẳng cần phải t́m hiểu. Hễ thấy hiện
tượng này, bèn nghĩ “đương
nguyện chúng sanh”. Cảnh giới trong câu này sâu rộng
vô lượng. “Chúng sanh” ở
đây là hết thảy chúng sanh trong khắp pháp giới, hư không
giới. “Thường bất
xả ly, thắng công đức pháp” (thường
chẳng ĺa bỏ pháp công đức thù thắng), “thắng” (勝) là thù thắng. Chớ nên bỏ ĺa điều này!
Công đức thù thắng. Công đức thù thắng là ǵ?
Đạo thành Phật, cũng chớ nên bỏ điều này!
Trong đạo thành Phật, phương
pháp quá nhiều! Trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện đă
nói, “pháp môn vô lượng thệ
nguyện học”, vô lượng pháp môn đều có thể
thành Phật. V́ thế, kinh Kim Cang đă nói rất hay: “Pháp môn b́nh đẳng, chẳng
có cao thấp”. V́ sao? Pháp môn nào cũng đều có thể
thành Phật. Nói cách khác, vô lượng pháp môn, tám vạn bốn
ngàn pháp môn, phương pháp khác nhau, đường nẻo
khác nhau, nhưng phương hướng và mục tiêu nhất
trí. Do đó, đều có thể thành tựu công đức
thù thắng. V́ sao đức Phật mở ra lắm pháp
môn ngần ấy? Thưa cùng chư vị, đấy chẳng
phải là do đức Phật mở ra, mà là do Tánh Đức
“pháp nhĩ như thị”,
[nghĩa là] vốn sẵn là như vậy! Chư Phật, Bồ
Tát giáo hóa chúng sanh, nói với chúng ta [nhiều pháp môn ngần
ấy] là v́ căn tánh của chúng sanh khác nhau. Đối với
hết thảy chúng sanh, Phật, Bồ Tát ban bố giáo pháp
tương ứng căn cơ, họ thành tựu dễ dàng! “Cơ” được thành tựu như
thế nào? Chúng ta gọi Cơ là “căn tánh”. Thành tựu căn tánh bằng cách nào?
Căn tánh liên quan đến đời
quá khứ. Trước kia, quư vị đă từng học
pháp môn này, trong A Lại Da đă chứa
đựng chủng tử tập khí của pháp môn này, nay gặp
lại, quư vị học rất dễ dàng, học rất
nhanh chóng. Một pháp môn khác, trong đời quá khứ
chưa hề tiếp xúc, nay quư vị học tập sẽ
khá khó khăn, hết sức xa lạ. V́ thế, chẳng
ăn khớp với nhau, có t́nh h́nh như thế đó!
Phật, Bồ Tát, A La Hán đều khéo quan
sát căn cơ. Nói cách khác, tâm các Ngài định, có thể
thấy nhân duyên trong đời quá khứ của quư vị.
Trong kinh, đức Phật đă dạy, A La Hán có thể thấy
năm trăm đời quá khứ, năm trăm đời
vị lai. Đấy là năng lực nhỏ nhất. Bồ
Tát thấy nhiều hơn, ngàn đời, vạn đời,
cho đến bao nhiêu kiếp số trong quá khứ của
quư vị. Như Lai thấy rốt ráo viên măn, vô lượng
kiếp trong quá khứ, vô lượng kiếp trong vị
lai, đức Phật vừa nh́n liền biết ngay. V́ thế,
Ngài giáo hóa rất dễ dàng, v́ biết căn cơ của
quư vị, trong một khoảng thời gian rất ngắn, có thể
giúp cho quư vị ngộ nhập. Nếu chúng ta hỏi, khi
nào Phật sẽ đến giúp chúng ta? Vấn đề
này chẳng phải là vấn đề nơi Phật, mà
là vấn đề của chính ḿnh! Khi nào chúng ta vui ḷng tiếp
nhận, khi ấy Phật liền đến. Hiện thời, ta rất
vui ḷng tiếp nhận, cớ sao Phật chẳng đến?
Phải biết: Sự vui ḷng của chúng ta chẳng thật,
giả trất!
Hai ngày nay, có người tặng tôi mấy
đĩa CD, tức là bộ Du Tịnh Ư Công Ngộ Táo Thần
Kư. Chúng ta rất quen thuộc thiên sách này; trong quá khứ,
tôi cũng đă giảng hai lần. Nay họ quay thành phim
nhiều tập, tất cả là tám đĩa. Tôi tin là rất
nhiều đồng học đă xem bài văn Du Tịnh Ư
rồi, đại khái là được in kèm vào sau quyển
Liễu Phàm Tứ Huấn. Trạng huống hiện thời
của chúng ta giống như tiên sinh Du Tịnh Ư, cứ ngỡ
chính ḿnh là thiện nhân, tự cho là ḿnh đă làm rất nhiều
chuyện tốt đẹp, nào có biết [khi được]
ông Táo phê b́nh, phân tích, [mới vỡ lẽ] chẳng có thứ
ǵ nên hồn, khắp thân đầy tội nghiệp! Bởi
lẽ, cái tâm của chúng ta là vọng tâm, chẳng phải là chân tâm. Chân
tâm th́ ngoại duyên quư vị đáng nên buông xuống; quư vị
vẫn chưa buông xuống được. Đấy là giả
tâm, hư t́nh giả ư,
tự ḿnh cứ ngỡ là chân tâm!
V́ thế, chúng ta chẳng khởi cảm ứng cùng Phật,
Bồ Tát được! Hư t́nh giả ư sẽ khởi
cảm ứng với hạng người nào? Với yêu ma
quỷ quái. V́ những
loài ấy đều là hư t́nh giả ư, sẽ
dấy khởi cảm ứng với chúng nó. Sự cảm
ứng ấy là dụ dỗ, mê hoặc. Tiếng tăm, lợi
dưỡng dụ hoặc, ngũ dục lục trần dụ
hoặc, tham, sân, si, mạn dụ dỗ, mê hoặc. Trong
tương lai, những thứ dụ dỗ, mê hoặc ấy
sẽ lôi quư vị vào địa ngục, ngạ quỷ,
súc sanh, hướng dẫn quư vị tiến vào tam đồ, là ác nhân
duyên, chúng ta phải biết điều này!
Do vậy, Du Tịnh Ư Công Ngộ Táo Thần
Kư là một khải thị rất tốt, là sự cảnh
tỉnh to lớn cho chúng ta, chúng ta phải nên học tập.
Chính ḿnh phải nghiêm túc phản tỉnh, khắp thân đầy
lầm lỗi, tất cả hết thảy những ư niệm
bất thiện thảy đều có, làm sao quư vị có thể
dấy lên cảm ứng với Phật, Bồ Tát cho được?
Chúng tôi nêu một chuyện đơn giản nhất: Pháp
căn bản để tu hành trong nhà Phật là Thập Thiện
Nghiệp Đạo. Chư vị phải hiểu, Thập
Thiện Nghiệp Đạo vẫn chưa nhập Phật
môn, Thập Thiện Nghiệp Đạo là thiện pháp của
nhân thiên. Nếu quư vị muốn thọ Tam Quy, Ngũ Giới,
tiến nhập Phật môn, ắt cần phải
có cơ sở ấy. Chẳng có cơ sở ấy, quư vị
chẳng có tư cách nhập Phật môn.
Chúng ta hăy ngẫm xem, không sát sanh, có làm
được điều này hay chăng? Muỗi đốt
chúng ta, đập bốp một phát cho nó chết
tươi, đấy là sát sanh. Khi đi lại chẳng cẩn
thận, quư vị đạp chết bao nhiêu kiến và côn
trùng nhỏ. Lại c̣n nơi ư niệm, khởi tâm động
niệm cũng là đối đăi hết thảy chúng sanh
bằng ác ư. Những điều ấy đều thuộc
về sát nghiệp. Hễ c̣n oán hận kẻ khác, sai mất
rồi, đều thuộc loại sát nghiệp! Có trộm
cắp hay chăng? Khởi tâm động niệm mong chiếm
đôi chút tiện nghi nhỏ
nhặt từ kẻ khác, đó là cái tâm trộm
cắp, chẳng đoạn ư niệm ấy. Dẫu chẳng
có chuyện dâm dục, nhưng khởi tâm động niệm,
tâm dâm chẳng đoạn! Nói dối, nói đôi chiều, nói lời thô ác, nói
thêu dệt, tham, sân, si, quư vị hăy ngẫm xem, có hay không?
Có, có hết! Những thứ ấy đều có, sẽ
chướng ngại quư vị cảm ứng với Phật, Bồ
Tát, sẽ cắt đứt con đường thông với
Phật, Bồ Tát, sẽ chuyển thành con đường
thông sang yêu ma quỷ quái. Chúng ta chớ nên không biết
điều này!
V́ thế, tôi thường nói, người
Hoa từ xưa tới nay, tu hành trong ba nhà Nho, Thích, Đạo,
kẻ thật sự có thành tựu là do đă vun quén căn
cội vững chắc! Căn cội của nhà Phật là
Thập Thiện Nghiệp Đạo, căn cội của
Đạo giáo là Cảm Ứng Thiên, căn cội của
Nho gia là Đệ Tử Quy. Làm được ba thứ ấy
một trăm phần trăm, quư vị là “thiện nam tử, thiện nữ nhân” như trong
kinh đă nói, quư vị có tư cách học Phật. Có
nghĩa là quư vị có tư cách thọ Tam Quy, Ngũ Giới,
chư vị chớ nên không biết. Trong kinh Quán Vô Lượng
Thọ Phật, đức Thế Tôn đă nói Tịnh
Nghiệp Tam Phước, đó là nguyên tắc chỉ đạo
cao nhất dành cho các học tṛ, bất luận tại gia
hay xuất gia. Thuở trước, tôi tiếp nhận lời
phó chúc của lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, thành lập
Tịnh Tông Học Hội ở rất nhiều nơi. Danh xưng Tịnh Tông Học Hội là do thầy của cụ
Hoàng là ngài Hạ Liên Cư đề xuất. Tuy do cụ Hạ
đề xuất, nhưng hoàn toàn chẳng chánh thức
thành lập tại Trung Quốc. Nghe nói hiện thời
đă có, chứ thuở ấy không có. Sau khi cụ Hoàng gặp
tôi, hy vọng tôi ở ngoại quốc, hễ đến
chỗ nào giảng kinh, sẽ giúp cho nơi ấy thành lập
một Tịnh Tông Học Hội, tôi cũng làm theo. V́ thế,
hiện thời, ở các nơi trên thế giới, đại
khái có một, hai trăm Tịnh Tông Học Hội. Nguyên tắc
chỉ đạo tu học của Tịnh Tông Học Hội
là nương theo Tịnh Nghiệp Tam Phước.
Điều đầu tiên trong Tịnh Nghiệp
Tam Phước là “hiếu dưỡng
phụ mẫu, phụng sự sư trưởng”, thực
hiện hai câu này như thế nào? Thưa cùng chư vị,
hai câu ấy chính là Đệ Tử Quy của Nho gia. Thực
hiện Đệ Tử Quy một trăm phần trăm,
sẽ làm được hai câu ấy. “Từ tâm chẳng giết”, thực hiện câu
này bằng cách nào? Dùng Cảm Ứng Thiên của Đạo
gia để thực hiện. Cảm Ứng Thiên của
Đạo gia chính là giáo dục nhân quả. Câu sau đó là “tu Thập Thiện Nghiệp”,
thực hiện kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo của
Phật môn. V́ thế, bốn câu trong điều này
được thực hiện bằng Đệ Tử
Quy, Cảm Ứng Thiên, và Thập Thiện Nghiệp, chúng
ta phải thực hiện được. Thật sự
làm được điều này, mới tiến lên cao
hơn là điều thứ hai. Điều thứ hai là đă
nhập Phật môn. “Thọ tŕ
Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm
oai nghi”, đấy là Phật giáo, là giáo pháp Tiểu Thừa,
sơ học! Đă có căn cơ Tiểu Thừa, lại
tiến lên Đại Thừa. Điều thứ ba là “phát Bồ Đề tâm, tin sâu
nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến
tấn hành giả”. Các vị hăy ngẫm xem, tổng nguyên tắc chỉ đạo [là như thế
đó]. Cuối cùng, đức Phật nói, ba điều ấy
chính là “chánh nhân Tịnh nghiệp
của ba đời chư Phật”, “ba đời” là quá khứ, hiện tại, vị
lai. Tất cả sự tu hành thành Phật đều chẳng
thể ĺa khỏi nguyên tắc này. Bởi lẽ, đây là tổng nguyên tắc chỉ đạo,
chúng ta chẳng nghiêm túc nỗ lực học tập th́ làm
sao được?
Đấy là ǵ? Chính là “thắng công đức pháp” trong hiện tiền!
Nói theo Phật pháp th́ tŕnh độ của chúng ta trong hiện thời là
học tṛ Tiểu Học trong Phật pháp. Học tṛ Tiểu
Học ắt cần phải vun đắp kỹ càng cơ sở ấy. Có
rất nhiều đồng học đến hỏi tôi “học
Giáo bằng cách nào?” Tôi nói, trước hết hăy vun quén căn cội.
Chẳng vun quén kỹ càng căn cội, Giáo sẽ là rỗng
tuếch, quư vị chẳng có cách nào thực hiện. Quư vị
học cả ba trăm năm cũng uổng công! V́ sao? Chẳng
chế phục tập khí phiền năo, Giáo biến thành nói
suông, chẳng sanh khởi mối liên quan ǵ với sự
tăng tấn linh tánh và liễu sanh tử, thoát tam giới!
Do vậy, trong Tứ Y Pháp, đức Phật đă dạy
chúng ta: “Y liễu nghĩa, chẳng
y bất liễu nghĩa”. “Liễu
nghĩa” là ǵ? Liễu nghĩa chẳng có tiêu chuẩn!
Được thọ dụng ngay trong hiện tiền th́
gọi là “liễu nghĩa”.
Chẳng được thọ dụng trong hiện tiền
th́ gọi là “bất liễu
nghĩa”. Hiện tiền, nếu chúng ta có thể thực
hiện Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập
Thiện Nghiệp trong thời gian từ một năm
đến hai năm, làm được một trăm phần
trăm, liễu nghĩa đấy! Ta đă có cơ sở
ấy, sau đó, bất luận tu học tông nào, phái nào,
pháp môn nào, đều có thể thành tựu.
Cũng đừng quên lời khai thị của
đức Phật trong kinh Đại Tập. Kinh Đại
Tập chép, pháp vận của đức Thế Tôn có ba
giai đoạn: Có thời kỳ Chánh Pháp, có thời kỳ
Tượng Pháp, và có thời kỳ Mạt Pháp. Chánh Pháp một
ngàn năm, Tượng Pháp một ngàn năm, Mạt Pháp một
vạn năm. Nói thật ra, chẳng phải là Phật
pháp có ba thời kỳ, Phật pháp chẳng hề có. Do
căn tánh của chúng sanh có hơn kém khác nhau, nên chia thành ba
thời kỳ! Thời Chánh Pháp, ḷng người thuần
phác; cho nên tŕ giới có thể thành tựu, có thể chứng
quả A La Hán. Nói đến thành tựu, hạn độ
thấp nhất là nếu quư vị có thể vượt
thoát lục đạo luân hồi, mới coi như thành tựu.
Chẳng thể liễu thoát sanh tử, chẳng thể vượt
thoát lục đạo luân hồi, không xem là thành tựu. Học
như thế nào mà quư vị chẳng ĺa khỏi lục
đạo, sai mất rồi! V́ thế, nhà Phật nói thành
tựu hay không, điều thứ nhất là thoát ly lục
đạo luân hồi; nếu lên cao hơn nữa, sẽ là thoát ly
mười pháp giới. Thoát ly mười pháp giới là thật
sự thành tựu. Thoát ly lục đạo sanh tử chính
là thành tựu phương tiện, chẳng phải là thành
tựu rốt ráo! Thành tựu rốt ráo th́ nhất định
phải thoát ly mười pháp giới.
Chúng ta hăy ngẫm xem, chúng ta tu hành có thể
liễu thoát sanh tử hay chăng? Có thể thoát ly lục
đạo luân hồi hay chăng? Lục đạo luân hồi
là như thế nào, chúng ta có hiểu rơ hay chăng? Cớ
sao có lục đạo luân hồi? Làm thế nào th́ mới
có thể thoát ly rốt ráo? Quư vị thảy đều phải
hiểu rành mạch, rơ ràng. Đấy là trí huệ, đấy
là Phật pháp! Phật pháp là thật sự hiểu rơ, thật
sự giác ngộ. Nếu ngay chuyện này mà chẳng hiểu
rơ ràng, chẳng hiểu minh bạch, không được rồi!
Chúng ta nhập Phật môn, theo một vị thầy, nếu
thầy chẳng nói rơ ràng, nói minh bạch với chúng ta những
điều này, giúp chúng ta thật sự giác ngộ, thật
sự hiểu rơ, [vị thầy ấy] sẽ chẳng phải
là một vị thầy tốt. Do đó, đấy là
đại học vấn thế gian và xuất thế gian,
là trí huệ chân thật.
May là trong kinh đức Phật đă dạy
rất rơ ràng: “Hết thảy
chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai”. Đấy là nói về trí huệ và năng lực.
“Đức” là năng lực,
vạn đức vạn năng, “tướng” là tướng hảo. Trí huệ,
năng lực và tướng hảo, hết thảy chúng sanh
và chư Phật Như Lai b́nh đẳng, đều có. V́
sao chúng ta đánh mất toàn bộ trí huệ, năng lực,
và tướng hảo, hiện thời biến thành nông nỗi
này? Đức Phật nói rất hay, một lời đă
nói toạc ra: “Chỉ v́ vọng
tưởng, chấp trước mà chẳng thể chứng
đắc”. Nói cách khác, v́ quư vị có vọng tưởng,
có phân biệt, có chấp trước, cho nên quư vị tuy có
trí huệ, có năng lực, có tướng hảo, nhưng
thảy đều chẳng đạt được, do bị
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước
chướng ngại. Giống hệt như vầng mặt
trời nhằm ngày quang đăng, ánh sáng chiếu trọn khắp.
Mấy hôm nay, Hương Cảng ngày nào cũng mưa, trời
âm u, mây dầy đặc che khuất mặt trời. Chẳng
phải là không có [mặt trời], v́ nó bị che khuất nên không thấy! Mây dầy ví
như vọng tưởng, phân biệt, chấp trước; có những thứ ấy, sẽ hoàn toàn chẳng thấy
trí huệ, đức năng và tướng hảo trong tự
tánh. Tu hành là tu ǵ? Tu hành chẳng phải là tu trí huệ, đức
năng, tướng hảo, chẳng phải vậy, chúng
vốn sẵn có. Tu hành là trừ khử chướng ngại,
đức năng trong tự tánh sẽ hoàn toàn thấu lộ.
V́ thế, tu hành chẳng có chi khác, chính là phải buông xuống!
Kinh Phật đă dạy xả ly, quư vị phải xả
trừ những thứ ấy, phải ĺa khỏi! Ĺa khỏi
ǵ vậy? Ĺa khỏi phiền năo, ĺa khỏi tập khí, ĺa
khỏi chấp trước, ĺa khỏi phân biệt, ĺa khỏi
vọng tưởng, vấn đề được giải
quyết, quư vị vốn đă thành Phật. Quư vị chẳng
chịu buông xuống, vậy là không có cách nào hết!
V́ thế, quư vị xem nguyện này, thấy
“người chẳng xả”,
tức người không chịu buông xuống, khiến cho
chúng ta [dẫn khởi hoằng nguyện] “đừng buông xuống pháp công đức thù thắng”.
Chớ nên buông xuống pháp ấy. Đấy là hết thảy
phương pháp tu học trong Phật pháp, phải nắm
thật chắc điều này! Trong lời nguyện tiếp
theo, quư vị thấy “kiến
năng xả nhân” là [trông thấy] người có thể
bỏ, vậy th́ quư vị thật sự phải buông xuống.
Buông xuống những ǵ? Buông xuống tập khí phiền
năo, buông xuống nỗi khổ trong ba ác đạo, buông xuống
lục đạo luân hồi, buông xuống mười pháp
giới, đấy là đúng! Đức Phật dạy chúng
ta những phương pháp, nguyên lư, nguyên tắc, và tầng
lớp tu học này, cảnh giới bất đồng, chúng
ta phải học, chúng ta phải hiểu rơ. Tuy phải hiểu
rơ, cũng đừng nên chấp trước, v́ sao? Chấp
trước th́ sẽ chẳng thể tăng tấn. Đấy
là như trong kinh Kim Cang, đức Phật đă dạy: “Pháp thượng ưng xả,
hà huống phi pháp” (Pháp c̣n nên bỏ, huống hồ phi
pháp). “Xả” chẳng phải
là thật sự vứt bỏ, chẳng cần! [Nếu hiểu
là thật sự vứt bỏ] th́ sai mất rồi!
Giống như chúng ta xây cao ốc. Tại
Hương Cảng, các vị đều có thể trông thấy
toàn là những ṭa cao ốc, hoặc các ṭa nhà lớn. Muốn xây cao ốc th́ phải xây từ đâu? Xây nền
móng. Sau khi đă xây móng chắc chắn, mới xây tầng
thứ nhất. Xây tầng thứ nhất xong xuôi mới xây tầng thứ hai. Chuyện này giống
như điều ǵ? Nền móng đă xây kỹ càng, chúng ta
lại tiến cao hơn một tầng, [tức là] xây tầng
thứ nhất. Có cần nền móng hay không? Vẫn xây cất
trên nền móng. Nền móng c̣n đó, chẳng vứt bỏ!
Ta xây tầng thứ hai, quư vị phải bỏ tầng thứ
nhất, buông xuống! Chẳng buông xuống tầng
thứ nhất, quư vị sẽ chẳng thể xây tầng
thứ hai. Nhưng xây tầng thứ hai, tầng thứ nhất
có c̣n hay không? Vẫn c̣n, ở dưới. Đă hiểu ư
nghĩa “buông xuống” hay chưa? Nói cách khác, không chấp
trước! Nếu cơ sở của ta đă thành lập
rất tốt, ta bèn chấp trước “như vậy là đủ rồi”, ta rất hoan hỷ, như vậy
th́ ư niệm xây tầng thứ nhất sẽ chẳng có!
Có tồn tại hay không? Tồn tại! Trong tâm chẳng có
ư niệm ấy, tăng tấn măi! Ư nghĩa là như vậy
đó. Đấy gọi là “thắng
công đức pháp”, từng
tầng một không ngừng tiến
cao hơn.
Kinh Hoa Nghiêm dạy chúng ta, địa vị
Bồ Tát gồm có năm mươi mốt địa vị,
tức Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng, Thập Địa, trên đó c̣n có
Đẳng Giác, Diệu Giác, tổng cộng là năm
mươi hai địa vị, giống như một ṭa
cao ốc có năm mươi hai tầng! Đạt tới
đỉnh điểm, tức tầng thứ năm
mươi hai, thử hỏi nền móng có tồn tại
hay chăng? Tồn tại chứ! Vậy th́ nói xem, có vứt
bỏ Thập Thiện Nghiệp Đạo hay không? Chẳng
có! Thảy đều kiến lập trên cơ sở Thập
Thiện Nghiệp Đạo. Trong kinh Thập Thiện Nghiệp
Đạo đă nói về chuyện này rất rơ ràng: Pháp
nhân thiên, Thanh Văn Bồ Đề, Duyên Giác Bồ Đề,
cho đến Vô Thượng Bồ Đề, đều
lấy điều này làm cơ sở, đều lấy
điều này làm căn bản. Chúng ta chẳng đổ
công dốc sức nơi căn bản, chẳng thực hiện
căn bản một trăm phần trăm, quư vị sẽ
chẳng thể kiến lập Phật pháp. Cho đến
pháp nhân thiên, quư vị cũng chẳng có, v́ pháp nhân thiên
cũng lấy điều ấy làm cơ sở. Chẳng
có pháp nhân thiên, rắc rối to! Sau khi chết đi, sẽ
là ngạ quỷ, địa ngục, súc sanh, rơi vào ba ác
đạo! Nếu quư vị mong đời sau lại
được làm thân người, nhất định phải
tu Thập Thiện Nghiệp. Thập Thiện Nghiệp là pháp
nhân thiên. V́ thế, Phật pháp được kiến lập
trên cơ sở làm người. Thập Thiện Nghiệp
là làm người. Làm người chẳng nên hồn, làm
sao quư vị có thể làm Phật cho nổi? Làm sao quư vị
làm Bồ Tát cho được? Há có lẽ ấy!
Nay chúng ta học tập điều này, tôi
đặc biệt nhấn mạnh căn cội của Nho,
Thích, Đạo để giới thiệu Đệ Tử
Quy, Cảm Ứng Thiên, và Thập Thiện Nghiệp với
mọi người. Công Quá Cách được nói trong Liễu
Phàm Tứ Huấn chính là Cảm Ứng Thiên. Quư vị phải
biết, trong thời đại của tiên sinh Liễu
Phàm, từ bé đă học Đệ Tử Quy. Vân Cốc
đại sư rất từ bi, giới thiệu Cảm Ứng
Thiên cho ông ta. [Tiên sinh Liễu Phàm] hằng ngày nương
theo Công Quá Cách để sửa lỗi, đổi mới.
Sau khi đă có cơ sở ấy, mới có thể học
Thập Thiện Nghiệp. Về sau, ông ta cũng quy y Tam Bảo,
cũng là đệ tử Tam Bảo! V́ thế, chúng ta học
Phật, bất luận tu học tông phái nào, pháp môn nào, bất
luận quư vị là Hiển Tông, Mật Tông, Tông Môn, Giáo Hạ,
Đại Thừa, Tiểu Thừa, ba cơ sở ấy
là căn cội, tức căn cội của Nho, Thích,
Đạo.
Chúng ta học Phật, v́ sao c̣n phải học
Nho, học Đạo? Trong kinh Phật Tạng, đức
Phật đă dạy: “Đệ
tử Phật không trước học Tiểu Thừa, sau
học Đại Thừa, chẳng phải là đệ tử
Phật”. Nói cách khác, đức Phật chẳng chấp
thuận chúng ta vượt cấp, đức Phật dạy
chúng ta lần lượt học tập theo thứ tự.
Đại Thừa lấy Tiểu Thừa làm cơ sở,
quư vị chẳng có Tiểu Thừa, học Đại Thừa
sao được? Tịnh Độ là Đại Thừa,
Đại Thừa được kiến lập trên
cơ sở Tiểu Thừa. Tại Trung Hoa, kinh Tiểu Thừa
đă được phiên dịch rất đầy đủ.
Tứ A Hàm trong Đại Tạng Kinh là Tiểu Thừa.
Nhưng Phật giáo Trung Hoa từ giữa đời
Đường trở đi không học Tiểu Thừa nữa.
V́ sao chẳng học Tiểu Thừa? Dùng Nho và Đạo
để thay thế, càng thích hợp với khẩu vị
của người Hoa. Từ [những lời dạy của]
thiền sư Vân Cốc và Trung Phong đại sư, trong
Liễu Phàm Tứ Huấn có trích dẫn, quư vị thấy
rất rơ tam giáo, Phật pháp dùng Nho và Đạo làm cơ sở.
Đấy là vun quén căn cội, sau đấy lại thêm
Thập Thiện Nghiệp. Ba căn cội Nho, Thích, Đạo
đều vun quén vững vàng. V́ thế, trải các đời,
bất luận tại gia hay xuất gia, tổ sư đại
đức nhân tài luôn xuất hiện, vượt trỗi Ấn
Độ, do nguyên nhân nào? Vun quén căn cội sâu dầy.
Nay chúng ta mong thành tựu, không vun quén căn cội ấy,
sai mất rồi, lầm lỡ cả đời!
Căn cội ấy cần thời gian bao
lâu [để vun quén]? Vào thời xưa là năm năm. Nếu
hiện thời chúng ta thật sự dũng mănh, tinh tấn,
một năm là được rồi! Trong một năm,
thực hiện cả ba thứ ấy một trăm phần
trăm. Một năm chẳng được th́ hai
năm, hai năm chẳng được th́ ba năm. Nếu
chẳng vun quén căn cội ấy, chẳng cần học
chi khác. V́ sao? Học những thứ khác vô dụng! Giống
như đi học, ta học lớp Một không ra ǵ, chẳng
cần học lớp Hai, lớp Ba nữa, chắc chắn
là chẳng thể thành công. Nhất định phải
đạt tiêu chuẩn của lớp Một, ta mới có
thể vào lớp Hai. Đạt tiêu chuẩn lớp Hai, mới
có thể vào lớp Ba. Học lớp Một không đạt, sẽ
chẳng thể học lớp Hai, đạo lư này chẳng
khó hiểu! Hy vọng các đồng học chúng ta, nếu
căn cơ của chính ḿnh chẳng vun quén vững vàng, hăy
dùng thời gian một, hai năm để vun quén căn cội. Nếu hỏi:
“Chúng ta hy vọng cầu sanh Tịnh Độ, có cần
phải niệm kinh Vô Lượng Thọ, kinh Di Đà hay
không?” Có thể niệm, mỗi ngày niệm một biến,
hai biến, nhưng ba thứ căn cội ấy hết sức
trọng yếu, đối với kinh luận của Tịnh
Tông, chúng ta đọc, không quên là được rồi,
vun quén căn cội là chuyện khẩn yếu! Sau khi quư vị
đă vun quén căn cội, đối với kinh luận Tịnh
Độ, sẽ được thọ dụng. Sự thọ
dụng ấy thường nói là “quư vị có ngộ xứ, có pháp hỷ”. A! Nay
đă hết thời gian rồi, buổi học này chúng tôi
nói tới đây!
***
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Chúng ta xem bài kệ kế
tiếp là bài kệ thứ tám:
(Kinh) Kiến năng xả nhân, đương nguyện
chúng sanh, vĩnh đắc xả ly, tam ác đạo khổ.
(經)見能捨人。當願眾生。永得捨離。三惡道苦。
(Kinh: Thấy người xả được,
nguyện cho chúng sanh, vĩnh viễn bỏ ĺa khổ tam ác
đạo).
Đây là trong lúc khất thực, trông thấy
người có thể xả, hoan hỷ thí xả, Bồ
Tát tự nhiên dẫn phát đại nguyện, “đương nguyện chúng sanh,
vĩnh đắc xả ly, tam ác đạo khổ”
(nguyện cho chúng sanh, vĩnh viễn ĺa bỏ nỗi khổ
trong ba đường ác). Tam ác đạo là quả báo, chỗ
này chúng ta phải nên hiểu rơ, Nho, Thích, Đạo đều
nói đến nhân quả, nói đến báo ứng, nhưng
Đạo và Phật nói nhiều hơn, [tức là] nói nhiều
hơn Nho gia. Phật nói thấu triệt nhất, chớ
nên không biết điều này, chớ nên không nghiêm túc học
tập. Khi quả báo hiện tiền, sẽ chẳng có
cách nào hết, chẳng thoát ĺa được, nhất
định phải hứng chịu. Đức Phật dạy
chúng ta xả ly ác đạo, tức là xả nơi cái
nhân. Nghiệp nhân của tam ác đạo là ǵ? Chớ nên
không biết điều này, nghiệp nhân là mười ác
nghiệp. Trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật
đă v́ chúng ta giảng giải, chuyện thế gian (chúng
ta chẳng bàn tới xuất thế gian) dẫu là chuyện
nhỏ nhặt, ngạn ngữ có câu “một hớp uống, một miếng ăn, không
ǵ chẳng được định sẵn”. Nói cách
khác, đều được định sẵn. Ai định
sẵn cho quư vị? Cái nhân định sẵn cho quư vị.
Quư vị có nghiệp nhân ấy, nay duyên đầy đủ,
quả báo liền hiện tiền. Nho nói như vậy, mà Đạo
cũng nói như vậy, Phật cũng nói như vậy! Các tôn giáo khác cũng nói như vậy. Chúng ta xem kinh
Cổ Lan (Qur’ān) của
Y Tư Lan giáo (Islam, đạo Hồi), trong sáu tín điều
cơ bản, có một điều là “tin vào tiền định”, “tiền” (前) là đời trước. Đời trước tạo
nhân, đời này quư vị chẳng thể không chịu báo!
Hôm trước, tôi đă có đề cập,
tức là một nhà khoa học của Mỹ, ông ta cũng
là một tiến sĩ y khoa. V́ chữa bệnh cho kẻ
khác, lâm vào cảnh bế tắc, chẳng t́m thấy nguyên
nhân gây ra bệnh, không giải quyết được! Ông
dùng thuật thôi miên để thí nghiệm, nghiễm nhiên
thí nghiệm thành công. Trong khi thôi miên, cho bệnh nhân nói ra
đời trước và đời trước đó nữa,
t́m ngược về trước, đời đời
kiếp kiếp, t́m ra nguyên nhân gây bệnh. Để chính
người ấy nói ra, thâu âm lại. Chờ cho người
ấy trở lại b́nh thường sau cơn thôi miên, sẽ
mở cho người ấy nghe, người ấy tâm khai
ư giải, bệnh được chữa khỏi rất dễ
dàng! Phương pháp ấy đă được sử dụng
ở Mỹ gần nửa thế kỷ, hiệu suất
rất cao. V́ thế, hiện thời có rất nhiều bác
sĩ dùng phương pháp này!
Trong số ấy, có mấy vị giáo sư
rất nổi tiếng, trong đó có ông Ngụy Tư (Brian
L. Weiss), người Mỹ. Có lần ông ta thôi miên một bệnh
nhân rất sâu, khi chấm dứt đối thoại, đột
nhiên người ấy nói năng. Âm thanh nói chuyện chẳng
phải là của người ấy, giọng điệu
cũng chẳng phải là giọng điệu b́nh thường
của người ấy, nội dung đàm thoại
vượt ngoài kiến thức của người ấy,
người ấy chẳng có tŕnh độ cao như vậy.
Kết quả, phát hiện người đang nói là thần
linh. Thần linh dựa vào bệnh nhân ấy để truyền
đạt, nay chúng ta nói là “tin tức từ một chiều
không gian khác”. Họ thấy tin tức ấy rất thần
kỳ, nhưng chúng ta thấy [vị thần linh ấy] là
một vị trời thuộc Dục Giới, chẳng cao
cho lắm, rất khó có! Dục Giới Thiên, rốt cuộc
là Đao Lợi Thiên, Dạ Ma Thiên hay Đâu Suất Thiên,
chẳng biết, nhưng chắc chắn là vị ấy
thuộc thiên giới, từ Đao Lợi trở lên!
Cho chúng ta biết tin ǵ vậy? Cho chúng ta biết:
Sanh mạng chẳng có ngằn hạn. Nói cách khác, con
người chắc chắn chẳng chết, mà cũng chẳng
có cái gọi là sanh. Nhà Phật nói là “chẳng có sanh tử”. Sanh tử là chuyện
như thế nào? Người Hoa nói là “linh hồn”, nhà Phật gọi là “thần thức”, người ngoại quốc
nói là “linh thể” (spirit). Thứ
này bất sanh bất diệt. Nó đến đầu thai,
bất quá là t́m một thân thể đó thôi. Ngày nào thân thể
ấy hư hoại, nó ĺa khỏi, lại t́m một thân thể khác. V́ thế, nói theo phía “linh
hồn”, sẽ là chẳng có sanh tử. Hiện tượng
sanh tử là ǵ? Là nhục thể. Nhục thể không quan
trọng! Nhục thể không đáng kể. Nếu chuyện
này được nói tại Trung Hoa hay tại Ấn Độ
th́ quá đỗi tầm thường, chẳng hiếm hoi, lạ lùng tí nào, nhưng đối với người ngoại
quốc th́ rất hiếm lạ. V́ sao? Chưa hề có một trường hợp
rơ rệt như vậy! Linh thể t́m thân thể, trụ
trong không gian này một khoảng thời gian, sau đấy,
nó lại t́m một thân thể khác. Đó chính là luân hồi.
Chúng ta phải hiểu đạo lư là như vậy đó!
Trong lục đạo, khổ lạc bất
đồng. T́m thân thể, chẳng phải là tùy tiện
thuận theo ư nghĩ của quư vị để t́m đâu
nhé! Quư vị chẳng được tự do dường
ấy! Sức mạnh nào chủ tể việc t́m thân thể
của quư vị? Nghiệp lực, thứ này quan trọng!
V́ thế, vị thần linh ấy cũng tiết lộ
đôi chút tin tức. V́ sao con người có thể dùng h́nh
thức nhục thể để tồn tại trong thế
gian này? Vị ấy nói chẳng ngoài hai nhân tố, một
nhân tố là đến làm việc, nhân tố khác là đến
trả nợ. Chuyện này nói theo Phật pháp lại là
tương đồng! Phật pháp nói chúng sanh trong lục
đạo có hai loại người: Một loại
người là thừa nguyện tái lai nhằm độ sanh,
loại khác là thọ báo, trả nghiệp. Nói theo danh từ
nhà Phật là “nhân sanh thù nghiệp”
(đời người đền trả nghiệp), “thù” (酬) là báo
đáp, hoặc báo đền. Trong đời quá khứ,
quư vị làm thiện nghiệp, quư vị đến hưởng
phước. Trong đời quá khứ, quư vị tạo ác
nghiệp, vậy th́ nay quư vị đến chịu khổ.
Do đó, đời này, quư vị hưởng phước hay
chịu khổ là do nghiệp báo của quư vị. Chẳng
phải do ông trời ban cho, cũng chẳng do Thượng
Đế ban cho, cũng chẳng phải do Diêm Vương
trao cho, mà là tự làm, tự chịu!
V́ thế, vị thần linh ấy nói hay lắm.
Linh giới đă lộ ra tin tức ấy hay lắm. Những
ǵ chúng ta hứng chịu trong đời này là do đă gây tạo
trong đời quá khứ. Những ǵ đă gây tạo trong đời
này, đời sau phải hứng chịu quả báo. Linh giới
hé lộ tin tức ấy tại ngoại quốc, truyền đến Trung Hoa th́ chúng
ta thảy đều hiểu rơ ràng, c̣n liễu giải sâu
hơn họ, liễu giải nhiều hơn họ. Do vậy,
có thể thấy chuyện này là thật, chẳng giả.
Nếu quư vị liễu giải chân tướng sự thật
này, quư vị khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo
tác sẽ cẩn thận. Một ư niệm bất thiện,
một ngôn hạnh bất thiện, sẽ chuốc lấy
khổ báo trong đời sau. Một thiện niệm, một
thiện hạnh sẽ chiêu cảm phước báo trong
đời sau, khác hẳn!
Do vậy, bài kệ này dạy chúng ta, “vĩnh đắc xả ly, tam
ác đạo khổ” (vĩnh viễn ĺa bỏ nỗi
khổ trong ba đường ác). Ba ác đạo do Thập
Ác nghiệp chiêu cảm. Cũng là như trong Đàn Kinh, Huệ
Năng đại sư đă nói đến Thập Ác, Bát
Tà, c̣n có khá nhiều tập khí bất thiện. Có phải bỏ
hay không? Phải bỏ. Nếu quư vị chẳng bỏ,
không chỉ là nó sẽ chướng ngại quư vị khai
ngộ, mà c̣n chướng ngại quư vị tu hành chứng
quả, thậm chí chướng ngại quư vị đời
sau chẳng được làm thân người. Quư vị
nói xem chuyện này phiền phức quá! Đời sau chẳng
được làm thân người, sẽ vào trong ba ác đạo!
Ngạn ngữ có câu: “Trước
cửa địa ngục, Tăng, đạo đông”.
Chúng ta suy ngẫm, [sẽ thấy] lời ấy chẳng phải là vô lư! V́ sao Tăng,
đạo đông? Tăng, đạo là người tu hành.
Tăng, đạo tiếp nhận mười
phương cúng dường. Phật môn có một câu nói: “Một hạt gạo thí chủ,
to như núi Tu Di, đời này chẳng liễu đạo,
mang lông, đội sừng đền”. Lời này là lời
thật, chẳng nói quá lố! Nay chúng ta hưởng thụ
mười phương cúng dường, nếu đạo
nghiệp của chính ḿnh chẳng thể thành tựu, đời
sau, ngay cả thân người quư vị chẳng làm
được! “Mang lông, đội
sừng” là súc sanh, phải trả nợ! Hiện thời,
hưởng thụ dễ dàng, trong tương lai trả nợ, sẽ
khổ sở lắm đấy!
Tôi từ lúc trẻ, hai mươi sáu tuổi
tiếp xúc Phật pháp, đă nghe bậc trưởng bối,
tiền bối thường nhắc nhở, căn dặn,
dặn ḍ như vậy. V́ thế, hoằng pháp nhiều
năm ngần ấy, mười phương cúng dường cũng rất nhiều,
quư vị chẳng thể không tiếp nhận. Không tiếp
nhận, sẽ có lỗi với người ta. Người
ta đến cửa Tam Bảo gieo phước, quư vị
chẳng cho họ gieo phước, như vậy là quá tàn
nhẫn. Đă là gieo phước, hăy ngẫm xem ta có phải
là phước điền hay không? Người ấy đến
cúng dường ta, thật sự sẽ được phước
ư? Phải tự xét ḷng về chuyện này, phải phản
tỉnh! Ta chẳng có phước ấy th́ làm như thế
nào? Tôi thấy Ấn Quang đại sư, phương
pháp của Ngài rất hay. Thuở Ấn Quang đại sư tại thế, mười phương cúng dường rất nhiều,
chính Ngài chẳng dùng một đồng nào, chẳng hề
cải thiện cuộc sống, chẳng may một
bộ quần áo mới, vẫn sống cuộc đời
thanh bần theo đúng bổn phận. Ngài dùng món tiền
do mười phương cúng dường để làm một
chuyện là in kinh bố thí. Ngài dùng món thu nhập ấy
để thành lập Hoằng Hóa Xă tại chùa Báo Quốc ở
Tô Châu. Hoằng Hóa Xă là Phật Kinh Lưu Thông Xứ, chuyên
môn in kinh Phật và thiện thư. Ngoài kinh Phật ra, Ngài
cũng in thiện thư, khuyến thiện, cúng dường
mười phương!
Cách này hay lắm! Quư vị cúng dường
tôi, tôi đều in thành sách để cúng dường
mười phương! Muôn một trong tương lai, tôi
chẳng thể đắc đạo, tôi phải trả nợ,
sẽ có những người đó thay tôi trả nợ, tốt
lắm! Tôi cảm thấy cách làm này của tổ Ấn
Quang đă ban cho chúng tôi một khải thị rất lớn;
v́ thế, những món cúng dường tôi nhận được
trong một đời này, thảy đều dùng để
in sách. Trong mười mấy, hai mươi năm gần
đây, v́ chúng tôi sử dụng TV để dạy học;
trong quá khứ, chúng tôi tặng băng thâu âm, băng thâu
h́nh, hiện thời tặng CD gởi khắp thế giới.
Nếu quư vị nói đến số lượng, chúng tôi
chẳng tính đếm. Nếu cộng tất cả lại,
tính theo từng thứ một, chắc chắn đă
hơn ngàn vạn, chắc chắn
không chỉ là một ngàn vạn, mà là mỗi thứ tính ra,
không chỉ là một ngàn vạn. Chúng ta tặng Đại Tạng Kinh, đấy là
thứ lớn nhất, là thứ to nhất, chúng tôi cũng
tặng Đại Tạng Kinh đă nhiều năm ngần
ấy, gần như là sáu ngàn năm trăm bộ, càng làm, [các ấn
bản] càng đẹp đẽ. V́ thế, chẳng dám
dùng bừa băi tiền của thí chủ. Bản thân chúng ta chẳng
dùng, hăy thay họ làm chuyện tốt. Sự nghiệp từ
thiện cứu tế chúng ta cũng làm, nhưng chẳng phải
là chủ yếu! Như mấy năm trước, trong
nước bị tai nạn lớn, chúng tôi cũng quyên tặng
một số tiền; khi các nơi trên thế giới gặp
đại tai nạn, t́m đến chúng ta, chúng ta cũng
làm. Lần này,
Ấn Độ
Nê Tây Á (Indonesia) bị tai nạn lớn, ngày hôm qua
có đồng học đă cho biết: Đă tử vong
hơn năm ngàn người. Tôi đă đến nơi ấy,
rất thân thuộc, những chuyện như vậy chúng
ta phải x̣e tay giúp đỡ. Giúp đỡ hết thảy
chúng sanh khổ nạn, phải sử dụng trong phương
diện này. [Sử dụng tiền cúng dường cho] bản
thân chúng ta th́ chẳng được, sẽ phải lănh
trách nhiệm nhân quả!
Bỏ ba ác đạo là bỏ tham, sân, si. Trong
kinh giáo, đức Phật thường dạy điều
này, [Ngài thường
dạy về] cái nhân của
mười pháp giới. Các nhân duyên ấy đương
nhiên hết sức phức tạp. Trong các nhân duyên phức
tạp ấy, cái nhân thứ nhất là ǵ? Cái nhân trọng yếu
nhất là ǵ? Đức Phật bảo, trong phần
trước, chúng tôi đă từng đề cập, thành
Phật th́ cái nhân để thành Phật là tâm b́nh đẳng,
Phật tâm b́nh đẳng. Tựa đề kinh Vô Lượng
Thọ nói “thanh tịnh, b́nh
đẳng, giác”, đấy chính là Phật tâm. Quư vị
thật sự tu đạt được “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, sẽ văng sanh
thành Phật. Bồ Tát là Lục Ba La Mật, Lục Độ.
Nghiệp nhân thứ nhất của Bồ Tát là chẳng bỏ
Lục Độ. Nếu muốn thành Phật, chẳng thể
bỏ b́nh đẳng, phải buông xuống bất b́nh
đẳng, phải buông xuống không thanh tịnh, phải
buông xuống mê hoặc, điên đảo; giác chứ không
mê! Chẳng bỏ “thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác”, phải bỏ nhiễm ô, bất
b́nh, mê hoặc, phải bỏ những thứ ấy. Bích
Chi Phật là mười hai nhân duyên, A La Hán là Tứ Đế.
Thiên đạo là Thập Thiện Nghiệp, c̣n cộng
thêm từ, bi, hỷ, xả, [tu các món ấy sẽ là]
chư thiên. Nhân đạo là Ngũ Giới, súc sanh đạo
là ngu si, ngạ quỷ đạo là tham lam, địa ngục
đạo là sân khuể, quư vị hiểu rơ những
điều này!
“Vĩnh viễn
ĺa bỏ nỗi khổ trong ba đường ác”, tham
lam, ngu si, sân khuể nhất định phải trừ bỏ.
Nói chung, trong kinh luận thường nói “bỏ Thập Ác, tu Thập Thiện”, như vậy
th́ mới có thể ĺa nỗi khổ trong ba đường
ác. Nếu quư vị không nghiêm túc đoạn Thập Ác, tu Thập
Thiện, tu bất cứ pháp môn nào, quư vị vẫn tạo
Thập Ác Nghiệp, quả báo vẫn là trong tam đồ.
Đấy gọi là “trước
cửa địa ngục, tăng đạo đông”,
nguyên nhân ở chỗ này, chúng ta chớ nên không biết.
Nói theo kinh giáo Đại Thừa, thiện
là Tánh Đức, Thập Thiện vốn sẵn có trong tự
tánh, có khó tu hay chăng? Chẳng khó! Ngay cả Nho gia
cũng biết. Quư vị thấy Tam Tự Kinh là sách dạy
vỡ ḷng cho trẻ nhỏ của Trung Hoa, Tam Tự Kinh
được mở đầu bằng câu “nhân chi sơ, tánh bổn thiện”,
chỉ rơ tánh con người vốn lành. Nói theo Phật
pháp, “thiện” chính là Thập
Thiện. Thập Thiện là bản tánh của quư vị,
há khó khăn chi? Chẳng khó tí nào! V́ sao hiện thời quư
vị biến thành t́nh trạng này? Do quư vị mê mất tự
tánh, chẳng thấy tự tánh vốn lành, tập khí ác hiện
tiền. Tiếp đó, Tam Tự Kinh nói “tánh tương cận”, [nghĩa là] hầu
như là tánh của hết thảy chúng sanh như nhau, b́nh
đẳng. “Tập
tương viễn”, “tập”
(習) là ǵ? Thói
quen, tập khí. V́ sao biến thành như vậy? Tiếp
đó, sách nêu rơ nguyên nhân: “Cẩu
bất giáo, tánh năi thiên” (Nếu chẳng dạy, tánh sẽ
đổi dời), có nghĩa là giáo dục quan trọng lắm!
Quư vị chẳng khéo dạy dỗ nó, nó sẽ nhiễm phải
những tập khí bất lương, mê mất bản
tánh, nhuốm phải những tập khí xấu xa! Tập
khí xấu xa được gọi là “tập tánh” (習性). Tập tánh bất thiện, bản tánh thiện! Hiểu
rơ đạo lư này, chúng ta sẽ có tín tâm đối với
chuyện sửa lỗi tu thiện!
Đúng
như trong Khởi Tín Luận, Mă
Minh Bồ Tát đă nói, hết thảy chúng sanh “Bổn Giác vốn có, bất giác
vốn không”. Bất giác là mê, bất thiện. Bổn
Giác là thiện, Bổn Giác vốn có, bất giác vốn không!
“Vốn có” th́ chắc chắn có thể khôi phục, “vốn
không” th́ nhất định là có thể đoạn trừ.
Từ chỗ này, chúng ta kiến lập tín tâm, tăng
trưởng tín tâm. Há lẽ nào ác chẳng thể đoạn?
Há lẽ nào thiện chẳng thể viên măn? Điều mấu
chốt ở đây là quư vị phải học, học với
ai? Học theo Phật. Phật là vị thầy tốt nhất,
là tấm gương tốt nhất trong thế gian. Chúng
ta học Phật th́ phải học theo Phật, Phật là
Bổn Sư của chúng ta. Đức Phật chẳng tại
thế, di giáo của đức Phật c̣n đó. Vừa mới
tiếp xúc, chúng ta xem di giáo không hiểu, chẳng biết
nghĩa là ǵ? Di giáo hết sức phong phú, quư vị phải
biết nhập môn từ chỗ nào, học tập như
thế nào, điều này rất trọng yếu. Chuyện
này ắt cần phải có thiện tri thức d́u dắt. Những vị
thiện tri thức là các vị tổ sư đại
đức các đời, chúng ta dựa vào sự hướng
dẫn của các Ngài. Các Ngài cũng chẳng c̣n tại thế, nhưng hăy c̣n có chú giải, chú giải sẽ hướng dẫn
chúng ta.
Như nay chúng ta đang học Hoa Nghiêm,
để học [kinh này], chúng ta dựa vào người nào
hướng dẫn? Nay chúng ta chọn bộ sách Sớ Sao
của Thanh Lương đại sư làm sách giáo khoa, Thanh
Lương đại sư hướng dẫn chúng ta.
Chúng ta c̣n nương theo bộ Hợp Luận của Lư
trưởng giả, đúng là một Tăng, một tục.
Lư trưởng giả là một vị tại gia cư
sĩ. Hai vị đều là bậc đại đức
của Hoa Nghiêm, chúng ta đọc chú giải của họ,
chiếu theo sự chỉ dẫn của họ, lại c̣n
chính ḿnh có công phu tu hành, sẽ có thể khế nhập.
Công phu là ǵ? Chẳng có ǵ khác! Công phu là buông xuống, ở
đây nói công phu là “xả ly”.
Quư vị bỏ được càng nhiều, trí huệ càng
tăng trưởng. Tôi tin là rất nhiều vị đồng
học biết chuyện này, trong Phật môn thường
nói là “phiền năo nhẹ nhàng, trí
huệ tăng trưởng”. Phiền năo là mây mù, trí huệ
là vầng thái dương. Mây mù ít hơn, ánh mặt trời
bèn lộ ra nhiều hơn, đạo lư là như thế
đó!
Kinh Hoa Nghiêm dạy
chúng ta, chướng ngại có ba thứ là vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước. Nay chúng ta chẳng chấp
trước hết thảy các pháp thế gian và xuất thế
gian, bỏ ĺa chấp trước, trí huệ của quư vị
sẽ thấu lộ một phần ba, một phần ba
này sẽ rất hữu dụng. Một phần ba là ǵ? Là
A La Hán, chẳng c̣n chấp trước. Không c̣n chấp
trước thân này là ta nữa, cũng chẳng c̣n chấp
trước vật ngoài thân là thứ của ta nữa, tâm
khai ư giải. Khi ấy, thân nhẹ nhàng, thuật ngữ
nhà Phật là “tự tại,
khinh an”. Quư vị đạt được sự khinh
an, tự tại, buông gánh nặng xuống. Lại buông xuống
phân biệt, quư vị sẽ thành Bồ Tát. Lại buông xuống
vọng tưởng, quư vị sẽ thành Phật. Buông xuống,
ở đây nói là “xả ly”.
V́ thế, buông xuống từ chỗ nào? Trước hết,
buông xuống từ ba ác đạo; sau đấy,
ba thiện đạo cũng buông xuống. Buông xuống ba
thiện đạo, sẽ vượt thoát lục đạo
luân hồi. [Buông xuống] ba thiện đạo là nói
phước báo nhân thiên phải buông xuống!
Ai có thể buông xuống? Chẳng phải
là Thích Ca Mâu Ni Phật đă nêu gương cho chúng ta ư? Lăo
nhân gia sanh trong nhà đế vương, cha của Ngài là quốc
vương, Ngài là trưởng tử. Nếu Ngài không xuất
gia, sẽ kế thừa vương vị. Đấy là
buông xuống phú quư nhân thiên, Ngài đă nêu gương cho
chúng ta thấy. Có nghĩa là Ngài đă buông xuống lục
đạo. Suốt đời, khởi tâm động niệm
chẳng có một ác niệm, niệm niệm đều thanh
tịnh, niệm nào cũng đều là thiện lương, thật sự thuần
tịnh thuần thiện. Niệm nào cũng đều giúp đỡ chúng sanh ĺa khổ được
vui, giúp đỡ chúng sanh phá mê khai ngộ. Tam đồ, lục
đạo, mười pháp giới do đâu mà có? Do mê mà có, mê
cạn hay sâu. Mê càng sâu, càng đọa lạc xuống dưới; mê càng cạn, càng siêu thoát lên cao hơn. V́ thế, tứ
thánh pháp giới mê cạn, lục đạo mê nặng nề.
Trong lục đạo, ba thiện đạo mê nông cạn,
ba ác đạo mê nặng nề. Đức Phật dạy
chúng ta ĺa khổ được vui. “Ĺa khổ,
được vui” là quả, đối với quả chẳng có cách
nào [thay đổi], phải [sửa đổi] từ cái nhân. Nhân là phá
mê khai ngộ. Chúng ta có thể trừ bỏ Thập Ác, sẽ
vĩnh viễn ĺa khỏi ba ác đạo. Thập Thiện
cần thiết, nhưng đừng chấp trước,
sẽ vượt thoát lục đạo luân hồi.
Từ A La Hán trở lên, trong sự cảm
nhận của chúng ta, chính là đại thiện nhân, chẳng
có ác niệm, chẳng có ác ngôn, càng chẳng có hành vi ác, thuần
tịnh, thuần thiện, vượt thoát lục đạo.
Người như vậy văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới, sanh vào cơi Phương Tiện Hữu
Dư. Bồ Tát văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Bọn lục
đạo phàm phu chúng ta chẳng có năng lực vượt
thoát lục đạo, cũng có nghĩa là chẳng đoạn
hết Thập Ác. Đấy là đới nghiệp văng
sanh, sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư trong Tây Phương
Cực Lạc thế giới cũng là khá lắm.
Được oai thần từ bốn mươi tám nguyện
của A Di Đà Phật gia tŕ, sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới, chứng trọn vẹn ba món Bất
Thoái. Đấy là chỗ thù thắng khôn sánh của pháp môn
này. Người ấy có thể đới nghiệp văng sanh,
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn
chứng ba món Bất Thoái. Trong hết thảy các kinh giáo do
đức Thế Tôn đă nói trong bốn mươi chín
năm đều chẳng có điều này, chỉ riêng thế
giới Cực Lạc là đặc thù. V́ lẽ này, mười
phương chư Phật đều khuyên chúng ta tu pháp môn
này.
Nhưng trong kinh Đại Tập, đức
Thế Tôn đă giống như thọ kư cho chúng ta; đấy
là chỗ từ bi tột bậc của Như Lai. Kinh
Đại Tập dạy: Chúng sanh đời Mạt Pháp chẳng
có trí huệ, chẳng có năng lực tuyển chọn
pháp môn, đức Phật đă chọn lựa giùm chúng ta.
Đức Phật nói thời kỳ Chánh Pháp, giới luật
thành tựu, tŕ giới có thể chứng quả A La Hán.
Người trong thời kỳ Tượng Pháp, chẳng
thuần hậu như thời Chánh Pháp, căn tánh đă suy
kém, phải tu Định, [cho nên] Thiền Định thành
tựu. Thời kỳ Mạt Pháp, tâm người tán loạn,
nay chúng ta nói là hời hợt, bộp chộp, chẳng
Định được, làm như thế nào? Tịnh
Độ thành tựu, khuyên quư vị tu pháp môn Niệm Phật,
đới nghiệp văng sanh. Đới nghiệp văng sanh
th́ chư vị phải ghi nhớ, mang theo cựu nghiệp,
chứ không mang theo tân nghiệp. Nghiệp đă tạo
trước khi học Phật là cựu nghiệp. Sau khi đă
học Phật, phải y giáo phụng hành, chẳng thể
tái phạm lầm lỗi. Nếu tái phạm lầm lỗi,
sẽ chẳng thể văng sanh, [chỉ là] kết thiện
duyên với A Di Đà Phật.
V́ thế, quư vị phải hiểu, phàm là
người đời này niệm Phật văng sanh, thiện
căn của người ấy chẳng phải là gieo
trong đời này, mà là thiện căn tích lũy trong đời
đời kiếp kiếp, [nay] đă chín muồi trong
đời này, đạo lư là như thế đó. Bản
thân chúng ta hăy ngẫm xem, thiện căn, phước đức,
nhân duyên trong đời quá khứ của chúng ta có thể
chín muồi trong đời này hay không? Chính ḿnh biết, biết
rất rơ ràng. Nếu cảm thấy c̣n kém một chút, kém một
chút chẳng sao cả. Đời này nỗ lực, dũng
mănh tinh tấn để bổ túc. Bổ túc bằng cách nào? Thật sự buông xuống, đó là bổ túc. Chư
vị hăy nghĩ đến đồ đệ của lăo
ḥa thượng Đế Nhàn, Ngài có một người
đồ đệ làm thợ vá nồi. Năm xưa, tôi
nghe lăo pháp sư Đàm Hư đă giảng. Tôi chưa từng
gặp mặt lăo nhân gia! Ba mươi năm trước, tôi
giảng kinh ở Hương Cảng, địa điểm
là Trung Hoa Phật Giáo Đồ Thư Quán ở phố Giới
Hạn (Boundary Street). Đạo tràng ấy do lăo pháp sư Đàm Hư kiến
lập. Khi tôi đến Hương Cảng, lăo nhân gia
đă văng sanh, tôi nghe băng thâu âm của Ngài. Ngài khai thị
trong một kỳ Phật Thất, có nhắc đến
chuyện này.
Lăo ḥa thượng Đế Nhàn là thầy của Ngài (pháp sư Đàm Hư).
Người thợ vá nồi ấy
là sư huynh sư đệ của ngài Đàm Hư, chẳng
biết chữ, đần độn khôn sánh, tuổi tác lại
cao! Hơn bốn mươi tuổi mới xuất gia, thứ
ǵ cũng chẳng biết, thứ ǵ cũng chẳng học
nổi, nhưng người ấy có mối quan hệ rất
sâu với cụ Đế Nhàn: Là người cùng một
thôn trang, là bạn chơi đùa với nhau từ bé, chẳng
thể bỏ mặc người bạn ấy được!
V́ thế, sau khi t́m được Sư, [người ấy
do] khổ sở chẳng thể nói nổi, bèn tha thiết cầu xin xuất gia. Cụ Đế Nhàn chỉ nêu
ra một điều kiện: “Nếu anh chấp nhận,
tôi sẽ thâu nhận anh. Nếu anh không chấp nhận, chẳng
có cách nào hết”. Vị ấy hỏi: “Điều kiện
ǵ vậy?” “Anh phải nghe lời!” “Chẳng có vấn
đề ǵ, tôi đă coi thầy là sư phụ, thầy
nói ǵ tôi cũng đều nghe theo”. Cụ Đế Nhàn cho vị ấy
xuống tóc. Sau khi đă xuống
tóc, chẳng cho vị ấy ở
trong chùa, [bởi lẽ], ngũ đường công khóa trong chùa
người ấy không biết. Khi đó, ở vùng nông thôn
của thành phố Ninh Ba tỉnh Chiết Giang, Sư t́m một
ngôi chùa nát, chẳng có ai ở, để cho vị ấy sống
một ḿnh tại đó. Ngài dạy vị ấy một
câu “nam-mô A Di Đà Phật”,
vị ấy có thể niệm câu này, thứ ǵ khác đều chẳng biết.
Cụ Đế Nhàn bảo vị ấy: “Ông niệm hằng ngày, hễ niệm mệt bèn nghỉ
ngơi. Nghỉ khỏe khoắn rồi lại niệm tiếp,
trong tương lai, chắc chắn có lợi
ích”.
Vị ấy thật sự nghe lời, tức
là đối với một câu Phật hiệu, thật sự
là niệm mệt bèn nghỉ ngơi, nghỉ đă khỏe
khoắn bèn niệm tiếp. Niệm ba năm, đứng văng
sanh, vị ấy biết trước lúc mất. Sau khi
đă văng sanh, người địa phương báo tin cho
cụ Đế Nhàn, vừa đi vừa về mất ba
ngày, vị ấy đứng sững ba ngày, chờ pháp
sư Đế Nhàn lo liệu hậu sự cho ḿnh. Cụ
Đế Nhàn thường tán thán, người ấy thành
công, biết trước lúc mất, đứng văng sanh, chẳng
ngă bệnh. Cụ Đế Nhàn khen ngợi: “Bậc phương trượng
trụ tŕ trong các ngôi chùa báu nơi các quả núi nổi
danh, các bậc pháp sư nghiên cứu giáo pháp đều chẳng
bằng ông ta”. Thật vậy, chẳng giả! Ba
năm công phu, một câu Phật hiệu, vị ấy
cũng chưa hề nghe kinh, cũng chẳng hiểu Giáo,
thứ ǵ cũng đều chẳng biết. Đấy là
tấm gương tốt nhất trong thời kỳ Mạt
Pháp.
Hôm nay có một đồng học từ
phương Bắc đến, lăo pháp sư Đàm Hư kiến
lập rất nhiều đạo tràng ở phương Bắc,
chùa Cực Lạc ở Cáp Nhĩ Tân do Ngài dựng. Sau khi
chùa Cực Lạc xây xong, Sư phát khởi tam đàn đại
giới, khai giới, thỉnh cụ Đế Nhàn làm Đắc Giới
Ḥa Thượng. Có một vị là pháp sư Tu Vô cũng chẳng
biết chữ, trước khi xuất gia là thợ ngơa (thợ
nề), làm lụng cực nhọc. Sau khi xuất gia, Sư ở
trong chùa toàn làm việc nặng. Những chuyện kẻ
khác chẳng muốn làm, Sư đều làm, cũng là suốt
đời niệm một câu A Di Đà Phật. Lúc khai giới,
Sư đến chùa Cực Lạc, xin được giao
việc. Khi đó, pháp sư Định Tây làm
đương gia sư, bèn hỏi: “Thầy có thể làm
ǵ?” Sư thưa: “Tôi muốn chăm sóc bệnh nhân”.
Được! Giao công việc ấy cho Sư. V́ khi
đó, thời gian thọ giới là hai tháng, khó tránh sẽ có
những người bị trúng gió, cảm mạo, Sư sẽ
chăm sóc họ.
Chẳng được bao lâu, Sư liền
thưa với pháp sư Đàm Hư và pháp sư Định
Tây xin nghỉ. Cụ Đàm Hư có tu dưỡng, chứ
pháp sư Định Tây không nhịn nổi, bèn chê trách
Sư: “Ông phát tâm đến nơi đây phục vụ
chăm sóc giới đàn. Giới tử của giới
đàn này c̣n chưa báo
danh, ông đă muốn bỏ đi, quá thiếu
cái tâm thường hằng”. Quở trách Sư! Kết quả
là pháp sư Tu Vô thưa: “Chẳng phải là tôi đi
nơi khác mà là sắp về thế giới Cực Lạc,
tôi sắp văng sanh”. Hai vị pháp sư vừa nghe, chẳng
phải tuyệt diệu lắm ư? Đại sự
đấy nhé! “Chừng nào?” “Chẳng quá mười ngày”. Xin
thường trụ sắp sẵn cho Sư hai trăm cân củi
đă chẻ để chuẩn bị hỏa táng. Hai vị
pháp sư đều rất nghiêm túc, nói: “Được! Chúng tôi sẽ
lo liệu cho thầy”. Đến hôm sau, pháp sư Tu Vô lại
tới t́m họ, nói như thế nào? Pháp sư Tu Vô nói:
“Ngày mai tôi sẽ ra đi”. Họ vội vă chuẩn bị
cho Sư. Thật vậy, đến ngày hôm sau Sư ra
đi.
V́ thế, ngàn muôn phần chúng ta đừng
nên xem thường những vị xuất gia làm việc nặng,
thậm chí cư sĩ. Họ chẳng biết chữ, thứ
ǵ cũng chẳng biết, nhưng có thể do một câu
Phật hiệu công phu đắc lực, biết trước
lúc mất, chẳng ngă bệnh, nói đi là đi. Đấy
là chẳng phí công học Phật, thật sự thành tựu.
Người ấy không chỉ là vĩnh viễn xả ĺa
ba ác đạo, mà c̣n vĩnh viễn ĺa bỏ thế giới
Sa Bà, đến thế giới Cực Lạc. Nói cách khác, lục
đạo, tam đồ, mười pháp giới trong thế
giới Sa Bà, người ấy thảy đều ĺa bỏ.
Đấy là ǵ? Thật sự có thể xả, triệt
để buông xuống. Nếu chúng ta hỏi v́ sao người
ấy có năng lực đó? Chúng ta phải học bằng
cách nào? Rất đơn giản, chính là buông xuống. Chúng
ta không bằng họ ở chỗ không buông xuống được.
Khá nhiều đồng học trong đạo tràng chúng ta
thường nêu ra, nay chúng ta chẳng thể đột phá
cửa ải đầu tiên, cho nên chẳng đạt
được lợi ích trong Phật pháp. Cửa ải
đầu tiên là ǵ? Tôi thường nói mười sáu chữ,
“tự tư tự lợi, tiếng
tăm, lợi dưỡng phải buông xuống, ngũ dục
lục trần phải buông xuống, tham, sân, si, mạn phải
buông xuống”, mười sáu chữ ấy!
Mười sáu chữ ấy, quư vị thảy
đều buông xuống, sẽ chẳng có chướng ngại.
Nói cách khác, sự thành tựu như người thợ vá
nồi, như pháp sư Tu Vô, quư vị sẽ có thể
đạt được! Họ chẳng có chi khác, buông xuống
mười sáu chữ ấy! V́ thế, ba năm, năm
năm bèn thành công. V́ sao chẳng buông xuống? Chẳng
buông xuống, hâm mộ người khác vô dụng! Thật
sự thành tựu, văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, thưa cùng chư vị, họ đới nghiệp
văng sanh, sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư, tuyệt đối
chẳng phải là bậc hạ. Văng sanh mà biết
trước lúc ra đi, nh́n thông thường th́ rất có thể đều
là bậc thượng, thuộc về ba phẩm thượng, tức thượng phẩm
thượng sanh, thượng phẩm trung sanh, và thượng
phẩm hạ sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Phải
buông xuống, triệt để buông xuống, thế gian này
là giả, chẳng thật! Nếu là thật, chẳng
buông xuống th́ cũng c̣n châm
chế được, nhưng nó giả trất! “Phàm những
ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng. Hết thảy
pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, cần ǵ phải chấp trước? Chấp
trước sẽ nẩy sanh chướng ngại nghiêm trọng
đối với chính ḿnh. Chướng ngại ǵ vậy?
Đời này chẳng thể văng sanh. Nếu đời
này chẳng văng sanh, chắc chắn sẽ luân hồi. Luân
hồi th́ hoàn toàn bị nghiệp lực làm chủ tể,
rất đáng sợ! A! Nay đă hết thời gian rồi!
Chúng tôi nói tới đây.
Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm
thứ mười một,
Tịnh
Hạnh Phẩm
Phần 49 hết
[1]
Chữ Quư Nhân ở đây có thể hiểu
theo hai nghĩa, một là người phú quư, hai là một cấp
bậc trong các phi tần của hoàng đế. Theo quy chế
từ thời Hán Vũ Đế, vợ vua được
chia thành các cấp: Hoàng hậu, quư nhân, mỹ nhân, cung nhân,
thái nữ (thể nữ). Trong các cấp bậc Mỹ
Nhân, Cung Nhân c̣n chia thành nhiều cấp nhỏ hơn.
Nhưng càng về sau, Quư Nhân càng thấp hơn hoàng hậu,
tuy vẫn thuộc địa vị đứng đầu
trong các phi tần. Chẳng hạn thời Ngụy Tấn
cho đến đời Tống, sau hoàng hậu là quư phi,
quư tần rồi mới đến quư nhân. Ba địa vị
này được gọi chung là Tam Phu Nhân. Đến đời
Thanh, quư nhân trở thành địa vị thứ sáu theo thứ
tự: Hoàng hậu, hoàng quư phi, quư phi, phi, tần, quư nhân,
thường tại, đáp ứng.
[2]
Do câu này dễ hiểu lầm, xin mạn
phép chú thích như sau: Dục Giới có sáu tầng trời,
Sắc Giới có mười tám tầng trời, Vô Sắc
Giới có bốn tầng trời. Như vậy, tính chung cả
tam giới sẽ là 6+18+4 thành hai mươi tám tầng trời.