Đại Phương Quảng
Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 5
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng
Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh
Tiến
Tập
1471
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh, thứ mười
một. Đoạn lớn thứ năm là Thích Văn (釋文, giải thích kinh văn). Trong phần Thích Văn,
chia thành hai đoạn:
(Sớ)
Tiên Trí Thủ vấn, cử đức trưng nhân, hậu
Văn Thù đáp, tiêu đức hiển nhân.
(疏)先智首問,舉德徵因,後文殊答,標德顯因。
(Sớ:
Trước là ngài Trí Thủ hỏi, chính là nêu ra đức
để gạn cái nhân, sau là ngài Văn Thù đáp, nhằm
nêu lên đức để hiển lộ cái nhân).
Hai
câu này đă bao quát toàn bộ nội dung của phẩm này.
Trước hết, chúng ta học tập đoạn thứ
nhất.
(Sớ)
Kim sơ, diệc tiên tiêu vấn đáp chi nhân, hậu trần
sở nghi chi vấn.
(疏)今初,亦先標問答之人,後陳所疑之問。
(Sớ: Nay là phần thứ nhất, cũng là
trước hết, nêu ra người hỏi đáp, sau là
trần thuật những điều nghi vấn).
Đối
với phần [kinh văn chép] lời hỏi của ngài
Trí Thủ, chia thành hai tiểu đoạn. Đoạn thứ
nhất là trước hết giới thiệu người
vấn đáp. Chúng ta xem kinh văn:
(Kinh)
Nhĩ thời Trí Thủ Bồ Tát vấn Văn Thù Sư Lợi
Bồ Tát ngôn.
(Kinh: Khi ấy, Trí Thủ Bồ Tát hỏi Văn
Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng).
Câu
này nhằm giới thiệu hai vị tôn giả. Nói thật
ra, Trí Thủ Bồ Tát nêu câu hỏi thay cho chúng ta, Văn
Thù Bồ Tát giải đáp cho chúng ta. Kinh văn hoàn toàn chẳng
dài, nhưng nội dung hết sức phong phú. Chúng ta hăy xem lời
chú giải của Thanh Lương đại sư.
(Sớ)
Thử nhị Bồ Tát, vị hiển viên tu, lịch sự
xảo nguyện, tất trí vi đạo cố.
(疏)此二菩薩,為顯圓修,歷事巧願,必智為導故。
(Sớ: Hai vị Bồ Tát này, nhằm hiển thị
sự tu tập viên măn, nguyện hay khéo từng trải các
sự, ắt phải dùng trí để hướng dẫn).
Chúng
ta xem trước đoạn này. Giáo
pháp Đại Thừa, hai vị Bồ Tát [Trí Thủ và
Văn Thù] đều biểu thị trí huệ. Một vị
biểu thị Căn Bản Trí, chúng ta thường gọi
trí ấy là Thật Trí, tức là trí huệ chân thật. Một
vị biểu thị Quyền Trí, cũng gọi là Hậu
Đắc Trí, tức là trí huệ chân thật được
ứng dụng nơi sự tướng. Kinh Bát Nhă thường
nói: “Bát Nhă vô tri, không ǵ chẳng
biết”. “Vô tri” là Căn Bản Trí, “không ǵ chẳng biết” là nó khởi tác dụng.
Khi nó khởi tác dụng, sẽ là “không ǵ chẳng biết”; khi chẳng khởi tác dụng,
sẽ là “vô tri”.
Nói
thật ra, Định và Huệ là cùng một chuyện.
Trong kinh giáo Đại, Tiểu Thừa,
đức Thế Tôn thường nói: “Nhân Giới đắc Định, nhân Định
khai Huệ”, chỉ có trí huệ mới có thể hướng
dẫn hạnh! Hướng dẫn Bồ Tát phá mê khai ngộ,
chuyển phàm thành thánh, phải cậy vào trí huệ, chứ
Định chẳng được! Định là then chốt;
chẳng có Định, lấy đâu ra trí huệ? V́ thế,
Định và Huệ là một Thể, chúng làm Thể và Dụng
lẫn cho nhau. [Nghĩa là] Định là Thể, Huệ là tác
dụng; Huệ là Thể, Định là tác dụng. Dùng làm
Thể và Dụng lẫn nhau! Quư vị làm thế nào th́ mới
có thể đạt được trí huệ? Tŕ Giới,
bất luận là người thượng căn, trung
căn, hay hạ căn, hoặc bậc thượng
thượng căn! Trong Thiền Tông Trung Hoa, chúng ta thấy
Lục Tổ Huệ Năng đại sư xác thực là
bậc thượng thượng căn, trong vạn vạn
người khó t́m được một! Tại Trung Hoa (thầy
tôi rất từ bi, khi tôi mới học đă nói với
tôi), trước Huệ Năng đại sư, chẳng
thấy có người như vậy, mà sau Huệ Năng
đại sư, trong một ngàn ba, bốn trăm năm,
cũng chẳng thấy ai. Đó là bậc thượng
thượng căn. Chúng ta tôn kính, kính ngưỡng Ngài, nhưng
chẳng có cách nào học tập [theo Ngài], học chẳng
nổi! Chúng ta chẳng phải là căn cơ ấy!
Bậc
thượng thượng căn khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ và tạo tác tự nhiên tương ứng với
giới luật. Trong mười hai thời, xác thực là
người ấy chẳng sanh một vọng niệm. Vọng
niệm c̣n chẳng có, tà niệm càng chẳng có. Không khởi
niệm th́ thôi; hễ khởi niệm, sẽ là chánh niệm,
tương ứng viên măn với Tánh Đức. Đấy
là ǵ? Đấy là Định Cộng Giới, Đạo
Cộng Giới. Cao nhất là Đạo Cộng Giới,
[nghĩa là] trong Đạo, tự nhiên viên măn đầy đủ
các giới, chẳng thể trái phạm. Bậc thượng
thượng căn đắc đạo mà! Nay chúng ta chẳng
đắc đạo; chẳng đắc đạo th́
làm như thế nào? Tu đạo. Các Ngài đă đắc
đạo, chúng ta phải tu đạo. Tu đạo khởi
đầu từ nơi đâu? Khởi đầu từ
giới luật!
Thưa
cùng chư vị, phẩm kinh này thuộc loại giới
luật, là Đại Thừa Bồ Tát Giới. Nay chúng ta cùng
nhau học tập, rất hoan hỷ, có làm được hay
không? Quá khó! Phải bắt đầu làm từ đâu? Thưa
cùng chư vị đồng học, nhất định phải
bắt đầu học từ Đệ Tử Quy, dần
dần nâng cao th́ mới có thể khế nhập cảnh
giới tịnh hạnh. Do vậy, tôi khuyên lơn, khích lệ
các đồng học hăy dùng thời gian một năm, bất
luận pháp thế gian hay xuất thế gian đều nhấn
mạnh “chuyên”. Đối với
trẻ nhỏ học vỡ ḷng, sách giáo khoa vỡ ḷng là
Tam Tự Kinh có câu: “Giáo chi đạo,
quư dĩ chuyên” (Đường lối giáo dục chú trọng
nơi chuyên), đấy là giáo học. Đạo lư giáo học
chẳng có ǵ khác, chính là một chữ Chuyên. Chớ nên học
tạp, chớ nên học nhiều! Học tạp, học
nhiều, sẽ chẳng thể thành tựu! Vậy th́ làm
như thế nào? Thuở trẻ, chúng ta đă sơ sót, chẳng
vun quén căn cội. Hiện thời, tuổi đă cao, “mất dê mới lo sửa chuồng”
vẫn chẳng coi là trễ! Phải xem môn công khóa này giống
như một pháp môn chủ tu của chúng ta trong giai đoạn
hiện tiền, đấy mới là đúng. Kỳ hạn
một năm, trong thời gian một năm ấy, ta có thể
nghe kinh, có thể niệm Phật, chẳng trở ngại;
[nhưng đối với] khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ, tạo tác, hành vi trong cuộc sống, nhất
định phải dùng Đệ Tử Quy để làm khuôn
khổ cho chính ḿnh, nghiêm túc thực hiện. V́ vậy, thứ
này chẳng phải là để nói, chẳng phải là
để đọc thuộc ḷng, mà phải là thực hiện
từng chữ, từng câu! Quư vị thật sự có thể
làm được, quư vị c̣n có căn cội, c̣n có
cơ sở, giống như xây nhà, quư vị có nền tảng,
học Phật trên cơ sở này.
Học
Phật là học từ nơi đâu? Từ Thập Thiện
Nghiệp Đạo. Thập Thiện Nghiệp Đạo
là cội gốc của Phật pháp, Đệ Tử Quy là
cội gốc của Nho gia, là cội gốc của hiếu
đạo. Phật pháp là sư đạo, sư đạo
được kiến lập trên cơ sở hiếu
đạo, chúng ta chớ nên không biết điều này! Chẳng
có hiếu đạo, sẽ chẳng có sư đạo. V́
sao hiện thời người học Phật, tại gia
lẫn xuất gia, chẳng làm được Thập Thiện?
Chẳng có Thập Thiện, sẽ chẳng có Tam Quy,
Ngũ Giới, những thứ ấy đều là giả.
Quư vị thấy Tịnh Nghiệp Tam Phước là nguyên
tắc chỉ đạo cao nhất do đức Phật
đă dạy đối với sự học Phật của
chúng ta, quyết định chớ nên trái nghịch! Điều
thứ nhất là “hiếu
dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng,
từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp”,
đó là điều đầu tiên. Làm được
điều thứ nhất, sẽ có thể tiếp tục
học tập điều thứ hai. Quư vị thấy
điều thứ hai là “thọ
tŕ Tam Quy, trọn đủ các giới, chẳng phạm
oai nghi”. Tam Quy Ngũ Giới là điều thứ hai, dùng
Thập Thiện Nghiệp Đạo làm cơ sở. Thập
Thiện Nghiệp Đạo dùng Đệ Tử Quy làm
cơ sở. Đệ Tử Quy nói những ǵ? Hiếu
dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng,
chẳng thể không biết điều này. Khi quư vị
không biết, quư vị niệm kinh Hoa Nghiêm từ đầu
đến cuối nhuyễn nhừ, có thể đọc đảo
ngược lại làu làu, vô dụng! Quư vị chẳng nhập
cảnh giới ấy!
V́
vậy, học Phật, học Nho, chẳng thể không coi
trọng giới luật. Hễ có Giới, sẽ c̣n có Phật
giáo; có lễ, sẽ c̣n có Nho. Chẳng có lễ, Nho là giả,
sẽ là Nho học, chẳng phải là học Nho. Chẳng
có Giới, sẽ là Phật học, chẳng phải là học
Phật, khác hẳn! Hai vị Bồ Tát ấy chính là Nhất
Thừa Viên Giáo, c̣n cao hơn Đại Thừa. Đời
này, chúng ta có duyên, có thể tiếp xúc Hoa Nghiêm, cũng thật
sự là “bách thiên vạn kiếp
nan tao ngộ” (trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ)!
Bài kệ Khai Kinh là do Vũ Tắc Thiên đề tặng
kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm phiên dịch sang tiếng Hán, phiên dịch
xong, đưa cho bà ta xem. Bà liền viết bốn câu sau
đây trên b́a bộ kinh: “Vô
thượng thậm thâm vi diệu pháp, bách thiên vạn kiếp
nan tao ngộ, ngă kim kiến văn đắc thọ tŕ,
nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, viết
quá hay! “Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp” là nói về
kinh Hoa Nghiêm; hai vị Bồ Tát ấy thuộc về hội
Hoa Nghiêm.
“Vị hiển viên tu” (V́ hiển
thị sự tu tập viên măn), chuyện này là cao nhất,
thù thắng nhất trong tu hành. “Viên
tu” (圓修) là ǵ? Tu một pháp môn, mà hết thảy các pháp môn đều
chẳng sót, một chính là hết thảy, hết thảy
chính là một. Đó là “viên tu”.
Chúng ta biết chuyện này, rất hâm mộ, rất khao
khát, dần dần [sẽ đạt tới]. Nếu chúng
ta thật sự có thể nương theo giáo huấn của
Phật, Bồ Tát, nó (sự tu hành) có thứ tự, có công
phu mười năm, hoặc hai mươi năm, chúng ta
có thể từ Biệt đạt đến Viên, chẳng
phải là làm không được. Mở đầu kinh, Thanh
Lương đại sư đă nói rất hay: Kinh Hoa
Nghiêm có mười loại đương cơ, loại
cuối cùng là phàm phu. Phàm phu [đương cơ của
kinh Hoa Nghiêm] có điều kiện, điều kiện ǵ vậy?
Họ được gọi là “đại
tâm phàm phu”. Chúng ta hiểu theo ư nghĩa nông cạn, dễ
hiểu nhất, [đại tâm phàm phu] th́ tâm lượng
phải lớn! Tâm lượng nhỏ, chẳng phải là
đương cơ của Hoa Nghiêm! Tâm lượng phải
to lớn; đấy là hiểu theo nghĩa nông cạn, dễ
hiểu nhất. Theo tiêu chuẩn của Hoa Nghiêm, “đại tâm” là Bồ Đề
tâm. Người thật sự phát Bồ Đề tâm, tuy
là phàm phu, mà là bậc đương cơ của Hoa Nghiêm,
người ấy có điều kiện này!
Bồ
Đề tâm là ǵ? Chân thành tâm, thanh tịnh tâm, b́nh đẳng
tâm, chánh giác tâm, từ bi tâm. Chẳng khởi tâm động
niệm th́ thôi, hễ khởi tâm động niệm, nhất
định tương ứng với mười chữ ấy;
người ấy chính là bậc đương cơ của
Hoa Nghiêm. Nói cách khác, người ấy có tư cách học Hoa
Nghiêm. Mười chữ tạo thành năm câu ấy (“chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng,
chánh giác, từ bi”) hết sức trọng yếu! Để
văng sanh Tịnh Độ, cũng phải hội đủ
những điều kiện ấy. V́ thế, người
niệm Phật chúng ta ngàn muôn phần chớ nên sơ sót!
Kinh Vô Lượng Thọ đă giới thiệu Tây
Phương Cực Lạc thế giới, “tam bối văng sanh”, trung bối, thượng bối,
hạ bối đều nói “phát
Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”.
Nay chúng ta quên bẵng chuyện phát Bồ Đề tâm, chỉ
biết “nhất hướng
chuyên niệm”. Do vậy, người niệm Phật
đông đảo, người văng sanh ít ỏi.
Năm
xưa, khi tôi theo thầy Lư học Phật, thầy thường
nói: “Một vạn người
niệm Phật, thật sự văng sanh chỉ có hai, ba
người”. V́ sao ít như vậy? Họ chẳng có Bồ
Đề tâm. Có nghĩa là người ấy chẳng có “chân
thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi”, chẳng
hề có, chỉ có “nhất
hướng chuyên niệm”. V́ thế, chỉ là kết thiện duyên với thế giới
Tây Phương, đời này chẳng thể văng sanh. Ngày nào,
người đó phát cái tâm ấy, xác thực là trong cuộc
sống hằng ngày, xử sự, đăi người, tiếp
vật đều là cái tâm chân thành, chẳng có mảy may hư
ngụy, mà toàn là tâm thanh tịnh, chẳng có ô nhiễm,
đều là tâm b́nh đẳng, chẳng kiêu căng ngă mạn,
toàn là tâm trí huệ, chẳng mê hoặc, điên đảo,
đều là từ bi tâm, chẳng tự tư tự lợi,
người ấy quyết định văng sanh. Trong giáo pháp
Đại Thừa, Đại Thừa Bồ Tát đều
phát Bồ Đề tâm, tức là chân thành, thanh tịnh, b́nh
đẳng, chánh giác, từ bi đều trọn đủ,
nhưng các Ngài chẳng có “nhất
hướng chuyên niệm”, cho nên các Ngài cũng chẳng
thể đến thế giới Cực Lạc. V́ thế,
để văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới,
chúng ta phải biết là chẳng thể thiếu [những
điều kiện ấy]. Hai mươi chữ mà tôi
đă viết ấy quá trọng yếu! Nếu quư vị đều
có thể làm được hai mươi chữ ấy, chắc
chắn sẽ văng sanh trong đời này, chính ḿnh thực sự
nắm chắc.
Do
đó, chúng ta thấy hai vị Bồ Tát này, phải
nghĩ trí huệ là quan trọng. Trong ấy, có một câu
là “trí vi đạo cố” (dùng
trí để hướng dẫn), câu này quá quan trọng. Nhất
định là trí làm người dẫn đường,
trí ở đằng trước để lănh đạo
quư vị. “Lịch sự xảo nguyện” (Nguyện hay khéo
từng trải các sự). Đấy là “viên tu”, [tu tập] trong bất luận cảnh giới
nào. Trong phần sau, có một trăm bốn mươi mốt
nguyện, [đó chính là những phương pháp để
tu tập trong] thuận cảnh, nghịch cảnh, thiện
duyên, ác duyên. Quư vị thấy Bồ Tát gặp [những cảnh
ấy], Ngài chuyển biến ư niệm như thế nào,
chúng ta nói là “chuyển cảnh
giới”! Chuyển cảnh giới th́ mới thật sự
là chuyển mê thành ngộ, chuyển phàm thành thánh. Chẳng ĺa
khỏi quần chúng, chẳng ĺa khỏi xă hội, ḥa quang
đồng trần cùng hết thảy chúng sanh, khởi tâm
động niệm tương ứng với trí huệ,
chẳng tương ứng với phiền năo. Tương
ứng với phiền năo th́ sai mất rồi, phiền
năo là ǵ? Thất t́nh, ngũ dục, mừng, giận, buồn,
vui, yêu, ghét, ham muốn, Ngài chẳng có [những thứ ấy].
Quyết định chẳng tương ứng với
mười ác nghiệp. Mười ác nghiệp là thân giết,
trộm, dâm, miệng nói dối, nói đôi chiều, nói thêu
dệt, ác khẩu, ư th́ tham, sân, si, quyết định chẳng
có [những điều ấy]. Những thứ phiền
năo ấy đều sanh từ mê hoặc, trong trí huệ chẳng
có những thứ ấy.
(Sớ)
Sự cận, chỉ viễn, duy viên hạnh cố.
(疏)事近旨遠,唯圓行故。
(Sớ: Do sự gần gũi mà tông chỉ th́ xa
xôi, chỉ có hạnh là viên dung).
“Sự” (事)
là cuộc sống hằng ngày, cho nên rất gần gũi.
“Chỉ” (旨)
là tông chỉ (宗旨), ư nghĩa này quá sâu, quá rộng! Do vậy, biểu
hiện của Bồ Tát là viên hạnh, niệm nào cũng viên
măn, hạnh nào cũng viên măn. “Viên
măn” là hoàn toàn tương ứng với Tánh Đức. Kế
đó, nói rơ ràng cụ thể:
(Sớ)
Văn Thù tắc Bát Nhă quán Không, Trí Thủ tắc âu ḥa thiệp
sự.
(疏)文殊則般若觀空,智首則漚和涉事。
(Sớ: Văn Thù là Bát Nhă quán Không, Trí Thủ là ḥa quyện
cùng Sự).
“Âu ḥa” (漚和) là nhu
ḥa (揉和), [“âu ḥa”] có cùng ư nghĩa với chữ “nhu ḥa” (揉和, ṿ thành một khối). Văn Thù Bồ Tát biểu
thị Căn Bản Trí, biểu thị Thật Trí. Bát Nhă
quán Không, điều này rất quan trọng. Thật sự
có trí huệ chân thật, biết tất cả các hiện
tướng (現相, tướng được biến hiện),
vũ trụ, nhân sinh, sâm la vạn tượng là chuyện
như thế nào. Kinh Kim Cang nói rất hay: “Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư
vọng”. Bốn câu kệ trong phần sau kinh Kim Cang càng
nói minh bạch hơn: “Hết
thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt,
bóng, như sương, cũng như chớp, hăy nên quán
như vậy”. Đấy là Bát Nhă quán Không. Có trí huệ
như vậy, tiếp xúc những cảnh giới ấy,
người ấy có khởi tâm động niệm hay
không? Sẽ không! Khởi tâm động niệm c̣n chẳng
có, đương nhiên là chẳng có phân biệt,
đương nhiên là chẳng có chấp trước,
người như vậy là ai? [Chính là] Pháp Thân Bồ Tát. Ngài
không ở trong lục đạo, chẳng ở trong mười
pháp giới, ở nơi đâu? Ở trong Nhất Chân pháp
giới. Nhất Chân pháp giới ở chỗ nào? Trọn
khắp pháp giới hư không giới, không chỗ chẳng
phải [là Nhất Chân pháp giới].
Chúng
ta thường thảo luận những vấn đề
này, tôi dùng màn h́nh TV làm tỷ dụ. Màn h́nh TV là Nhất Chân
pháp giới, vĩnh hằng bất biến, trọn chẳng
thể ô nhiễm. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp
giới là ǵ? Là h́nh ảnh trong TV. Bất luận xuất
hiện h́nh ảnh như thế nào, là thiện, hay là ác, là
tà, hay là chánh, chúng có tiêm nhiễm màn h́nh TV hay chăng? Chẳng
có! Đúng là chẳng trở ngại giả tướng tỏ
lộ, giả tướng nhất định chẳng nhuốm
bẩn chân tánh. Từ màn h́nh, quư vị có thể thấu hiểu:
Trí huệ Văn Thù chính là “biết chân tướng sự
thật”. V́ lẽ đó, đối với chân tướng
của sự thật, chắc chắn không khởi tâm,
không động niệm, chẳng phân biệt, không chấp
trước. Trí Thủ Bồ Tát ứng hóa trong mười
pháp giới, ứng hóa trong lục đạo, đáng nên
dùng thân ǵ để đắc độ, bèn hiện thân ấy,
đáng nên dùng phương pháp ǵ để giúp đỡ
chúng sanh, bèn dùng phương pháp ấy, chẳng có pháp nhất
định, chẳng có một h́nh tướng
nhất định. “Âu ḥa thiệp
sự” (ḥa quyện cùng Sự): Tuy dính líu Sự,
nhưng chẳng trở ngại chân,
chân và vọng bất nhị. Nh́n từ chỗ nào? Nh́n từ
màn h́nh, bản thân cái màn h́nh là thật, tướng đă
hiện là vọng, tức là vọng tướng! “Phàm những ǵ có tướng
đều là hư vọng”, chân và vọng chẳng hai.
Chân và vọng chẳng trở ngại lẫn nhau!
Do
vậy, [có thể nói tỷ dụ], Văn Thù Bồ Tát tượng
trưng cho cái màn h́nh, Trí Thủ Bồ Tát tượng
trưng những tướng cảnh giới biến hiện
trên màn h́nh. Từ chỗ này, chúng ta chú tâm thấu hiểu,
sẽ có thể khế nhập chút phần. Dụng tâm của
Bồ Tát khi dấn ḿnh vào Sự là như thế đó. Phàm
phu th́ như thế nào? Phàm phu hễ dụng tâm, dính líu
đến sự, sẽ chấp tướng, ngỡ huyễn
tướng là thật, chẳng biết “phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng”,
họ chẳng biết. Chẳng biết “hết thảy các pháp hữu vi, như mộng, huyễn,
bọt, bóng”. Trong hiện thời, có thể nói là khoa học
kỹ thuật khá phát triển, một số ít các nhà khoa học
tiên phong đă phát hiện, nhận thấy: Tất cả hết
thảy các hiện tượng trong vũ trụ chẳng
phải là thật. Phát hiện ấy rất lỗi lạc!
Không chỉ là tất cả tướng đă biến hiện
chẳng phải là thật, mà thời gian chẳng thật,
không gian cũng chẳng thật! V́ thế, các nhà khoa học
chỉ thừa nhận: “Trong
vũ trụ, chỉ thật sự có “trường”[1] thật sự tồn
tại. Tất cả hết thảy các tướng đă
biến hiện đều là do trường biến hiện”.
Điều này rất gần gũi với những điều
đă nói trong Phật pháp. Phật pháp bảo muôn vàn h́nh
tượng do đâu mà có? “Duy
tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Chúng tôi
nghĩ “trường”
như các nhà khoa học đă nói chính là A Lại Da Thức,
chứ đối với tự tánh thật sự, họ
chẳng có cách nào, vẫn chưa t́m được. Thức
có thể biến, tánh có thể hiện.
Tuy
họ phát hiện, thử hỏi họ c̣n có khởi tâm
động niệm hay không? Họ c̣n có phân biệt hay
không? C̣n chấp trước hay không? Có! Vẫn có. Đấy
là chỗ khác với Bồ Tát! Bồ Tát khế nhập cảnh
giới, đúng là chẳng có chấp trước, thật
sự chẳng có phân biệt. V́ thế, Ngài lại có thể
tiến cao hơn, có thể kiến tánh, thật sự có
thể giải quyết vấn đề. Khoa học gia phải
nhờ vào công cụ, phải cậy vào máy móc. Nếu rời
khỏi những máy móc và công cụ ấy, họ bó tay chịu
chết! Đúng là chẳng giống người tu hành!
Người tu hành chẳng cần những thứ ấy.
Hiện thời, chúng ta thăm ḍ vũ trụ phải dùng
viễn vọng kính, trong Phật môn chẳng cần! Trong Phật
môn có Thiên Nhăn Thông, chẳng cần dùng viễn vọng kính.
Để trông thấy các vi sinh vật, chúng ta phải dùng
kính hiển vi; đó là công cụ. A La Hán thấy vi trần
bằng Thiên Nhăn. Thiên Nhăn có thể nh́n xa, mà cũng có thể
nh́n gần, có thể thấy lớn, mà cũng có thể thấy
nhỏ, chẳng cần sử dụng công cụ!
Thiên
Nhăn, Thiên Nhĩ, Tha Tâm, Túc Mạng, nhà Phật thường
nói đến sáu loại thần thông. Đức Phật
nói rất hay: Sáu loại thần thông ấy chính là bản
năng (năng lực sẵn có) của chúng ta, vốn sẵn
có trong tự tánh, chẳng phải đến từ bên
ngoài. V́ sao chúng ta đánh mất các năng lực vốn có
ấy? Chẳng phải là thật sự mất đi, [mà
là do] hiện tiền có chướng ngại, khiến cho năng
lực của quư vị chẳng có cách nào phát huy, quư vị
có chướng ngại mà! Chướng ngại là ǵ? Phiền
năo, tập khí, Phật pháp chia nó thành ba loại lớn: Kiến
Tư phiền năo, Trần Sa phiền năo, và Vô Minh phiền
năo. Ba loại phiền năo ấy cộng thêm tập khí, [khiến
cho] trí huệ và đức năng vốn sẵn có trong tự
tánh thảy đều chẳng thể hiện tiền. Phật
pháp dạy người ta tu hành là tu ǵ vậy? Đoạn
phiền năo mà thôi! Dùng phương pháp ǵ để giúp quư vị
đoạn phiền năo? Giới luật. Nhất định
phải khởi đầu từ chỗ này! Giới luật
là Tánh Đức, xử sự, đăi người, tiếp
vật trong bản tánh vốn là như thế ấy. Sau
khi mê mất tự tánh, hết thảy đều do phiền
năo làm chủ, h́nh trạng ấy liền bị biến
đổi. Quư vị thấy Phật, Bồ Tát, nếu ghi
chép cuộc sống, công việc, cách xử sự, đăi
người, tiếp vật của các Ngài, [sẽ thấy]
là như thế này: Tùy thuận Tánh Đức, tùy thuận
tự nhiên. Chúng ta dùng những điều này làm trợ
duyên ḥng g̣ chính ḿnh vào khuôn khổ, dần dần khiến
cho chính ḿnh định lại, tâm chẳng c̣n rong ruổi bên
ngoài nữa. Đấy chính là như Mạnh Tử đă
nói: “Học vấn chi đạo
vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ” (Đạo học
vấn chẳng có ǵ khác, cốt sao t́m lại cái tâm đă mất
mà thôi)[2],
khiến cho cái tâm được thâu hồi. Đấy
chính là học vấn.
Phật
pháp nói “Định”, Định là ǵ? Định là thâu hồi
cái tâm. Kinh Kim Cang nói rất hay: “Bất
thủ ư tướng, như như bất động”
(Chẳng giữ lấy tướng, như như bất động).
Có tướng hay không? Có chứ! Có thể tiếp cận
tướng hay không? Có thể, chẳng trở ngại! “Bất thủ” (不取) là ǵ? Chớ nên chấp trước nó, chớ nên
phân biệt nó, chuyện ǵ cũng đều chẳng có! Quư
vị có thể thọ dụng, chớ nên chấp trước,
chớ nên phân biệt; người như vậy là bậc
giác ngộ. Người thật sự liễu giải chân
tướng sự thật, sẽ đắc đại tự
tại trong muôn h́nh tượng cũng như trong y báo và
chánh báo trang nghiêm của mười pháp giới. Kinh Hoa
Nghiêm dạy: “Lư Sự vô ngại,
Sự Sự vô ngại”, đắc đại tự tại.
V́ sao phàm phu đau khổ ngần ấy? Là v́ thứ ǵ
cũng đều phân biệt, thứ ǵ cũng đều
chấp trước, sai mất rồi! Theo Lư, chẳng có phân
biệt, chấp trước; nơi Sự, cũng chẳng
có phân biệt, chấp trước. Phân biệt, chấp
trước sanh từ vọng tưởng của quư vị,
hoàn toàn là hư vọng, chẳng phải là chân thật. Quư
vị có thể buông bỏ chúng, đó là đúng!
Do
vậy, ngài Văn Thù dạy chúng ta quan sát, hiểu rơ chân
tướng của vũ trụ và nhân sinh. Thuở Thích Ca
Mâu Ni Phật tại thế, Ngài giảng kinh, thuyết pháp
suốt bốn mươi chín năm. Trong bốn
mươi chín năm, đă giảng Bát Nhă. Giảng Bát Nhă
chính là nói về chân tướng của vũ trụ và nhân
sinh, tốn bao nhiêu thời gian? Hai mươi hai năm. [Đức
Phật giảng kinh] bốn mươi chín năm, [dành ra] hai
mươi hai năm để giảng Bát Nhă, gần
như chiếm một nửa thời gian giảng kinh giáo
học của lăo nhân gia. Từ chỗ này, quư vị có thể
thấu hiểu, đức Phật dạy mọi người,
Bát Nhă là một môn công khóa chủ yếu của Ngài.
Đối
với những ǵ đức Phật đă nói trong suốt một đời Ngài, nói theo kiểu
phân loại tổng quát th́ có Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương
Đẳng, Bát Nhă, Pháp Hoa, năm giai đoạn lớn.
Nay chúng ta nói là năm đại đơn vị, năm
đơn vị lớn. Hoa Nghiêm là Ngài đă thành đạo,
thành tựu vào năm ba mươi tuổi. Khổng Tử
nói “tam thập nhi lập”,
đạo đức và học vấn của Ngài đă thành
tựu. Thích Ca Mâu Ni Phật vào năm ba mươi tuổi
đă thị hiện thấu hiểu triệt để
chân tướng của nhân sinh và vũ trụ, đích thân
chứng nhập. Những ǵ Ngài đă hiểu đều được
giăi bày trọn hết, nhưng chẳng có ai hiểu! Do v́
Hoa Nghiêm được giảng trong Định, hiện
thời, Nam Truyền Tiểu Thừa chẳng thừa nhận.
Họ bảo kinh Hoa Nghiêm do Long Thọ
Bồ Tát tạo ra, chẳng phải là do đức Phật
nói, họ chẳng thừa nhận! Tiểu Thừa hoàn
toàn dùng sự để luận sự. Quư vị nói [kinh
Hoa Nghiêm] được giảng trong Định, ở
trên cơi trời, họ không tin tưởng. Người Tiểu
Thừa tin tưởng A Hàm. Sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật thị
hiện thành đạo, ở Lộc Dă Uyển, đă
độ năm vị tỳ-kheo, thâu nhận năm môn
đệ. Hằng ngày giảng dạy, thuyết pháp cho họ.
Về sau, học tṛ ngày càng nhiều, Thường Tùy Chúng có
tới một ngàn hai trăm năm mươi lăm vị.
Những chuyện này đều được ghi chép trong
kinh, hàng Tiểu Thừa tin tưởng sự thật ấy.
Quư vị nói kinh Hoa Nghiêm được giảng trong long
cung, thính chúng là bốn mươi mốt địa vị
Pháp Thân đại sĩ, họ chẳng thể tiếp nhận.
Những
kinh ấy truyền đến Trung Hoa, người Hoa có thể
tiếp nhận. Người Hoa xác thực là căn tánh
Đại Thừa. Người Hoa có thể ngộ nhập,
có thể nương theo lư luận và phương pháp trong
kinh điển để tu hành, thật sự khế nhập
cảnh giới. Khế nhập cảnh giới th́ sẽ
như tiên sinh Phương Đông Mỹ đă nói: “Sự hưởng thụ cao nhất
trong đời người”. V́ thế, trí huệ của
ngài Văn Thù hết sức trọng yếu! Do có Văn Thù
trí th́ mới có Trí Thủ. Ngài Trí Thủ đại diện
cho chúng ta trong hiện thực, bất luận là cuộc sống,
công việc, xử sự, hay đăi người, tiếp vật,
chẳng có ǵ không viên măn, viên hạnh mà! “Âu ḥa thiệp sự” (Ḥa quyện cùng sự): Dấn
ḿnh vào Sự mà chẳng mê Lư. “Thiệp
sự” (涉事) là trong cuộc sống hằng ngày, tại gia học
Phật th́ quư vị chẳng ĺa khỏi gia đ́nh, xuất
gia học Phật th́ quư vị chẳng ĺa khỏi Tăng
đoàn. Những điều ấy đều là Sự. Tại
gia học Phật, ngoài học Phật ra, c̣n có những
công việc khác, có những sự nghiệp khác. Xuất gia
học Phật, nhất định là phải thực hiện
tốt đẹp đạo đức và học vấn,
sau đấy mới có thể gánh vác sứ mạng giáo hóa
chúng sanh.
V́
lẽ đó, Phật giáo chính là sự giáo dục của Thích
Ca Mâu Ni Phật, chẳng phải là tôn giáo. Phải hiểu
rơ điều này! Nói theo cách hiện thời, Phật giáo
chính là giáo dục xă hội, giống như Khổng Tử
trong quá khứ vậy. Phạm vi của giáo học là đối
với nguồn gốc của học tṛ, chẳng phân biệt
quốc gia, chẳng phân biệt sắc tộc, chẳng
phân biệt tôn giáo. Chỉ cần quư vị đến học,
chịu học, Thích Ca Mâu Ni Phật đều hết sức
nhiệt tâm dạy dỗ.
(Sớ) Thiệp Sự bất mê ư Lư.
(疏)涉事不迷於理。
(Sớ: Hành nơi Sự mà chẳng mê Lư).
Giống như chúng ta xem TV, các h́nh ảnh trên TV là Sự.
Chúng ta thưởng thức những h́nh ảnh ấy,
[đó là] “thiệp Sự”. Chẳng
mê nơi Lư là ǵ? Những thứ ấy rỗng không, chẳng
phải là thật sự có, mà là huyễn hữu, diệu hữu.
Diệu Hữu là “có mà chẳng
phải là có, chẳng phải là có mà có”, nên gọi là Diệu
Hữu. Quư vị chẳng thể nói nó chẳng có, mà
cũng không thể nói nó là có. Quư vị bảo nó có, sai mất
rồi! “Đương thể
tức không, liễu bất khả đắc” (Bản
thể chính là Không, trọn chẳng thể được).
Quư vị nói “nó chẳng có” cũng sai, h́nh ảnh rành rành ở
ngay trước mặt mà! Biết Không và Hữu là một,
chẳng phải là hai. Chẳng mê nơi Lư, Lư chính là Không.
(Sớ)
Cố tuy nguyện nhi vô thủ.
(疏)故雖願而無取。
(Sớ: V́ thế, tuy nguyện mà chẳng giữ lấy).
Bồ
Tát luôn có nguyện. Quư vị thấy Tứ Hoằng Thệ
Nguyện, nguyện độ chúng sanh, “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền
năo vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng
thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng
thệ nguyện thành”. Có nguyện, tuy có nguyện,
nhưng “vô thủ” th́
đúng. Nguyện là ǵ? Thiệp sự (hành nơi Sự). “Vô thủ” (無取) là ǵ? Quán Không. Phải biết hết thảy các
pháp đều là “vô sở
đắc” (chẳng có ǵ để đạt
được). Bát Nhă Tâm Kinh đă nói rất hay. Đức
Thế Tôn nói Bát Nhă hai mươi hai năm. Trong các kinh
điển được dịch sang tiếng Hán, Bát Nhă
là bộ phận lớn nhất, gồm sáu trăm quyển,
tức kinh Đại Bát Nhă. Sau khi tôi xem một lượt,
cuối cùng, đă rút ra một kết luận: “Nhất thiết pháp vô sở hữu,
tất cánh không, bất khả đắc” (Hết thảy
các pháp chẳng sở hữu, rốt ráo là không, chẳng thể
đạt được). Không chỉ pháp thế gian là
như thế, mà Phật pháp cũng là như thế, đấy
mới là chân tướng sự thật. Quư vị tưởng
là “có đạt được”, sai mất rồi, mê mất
rồi. Quư vị chẳng biết chân tướng sự
thật. Chân tướng sự thật th́ hết thảy
đều rỗng không. “Vậy th́ ta điều ǵ cũng
đều chẳng cần làm, nguyện cũng chẳng cần
phát nữa”! Sai mất rồi! Quư vị đă đọa lạc
vào bên Không. Phàm phu đọa lạc nơi Có, ngỡ những
thứ ấy là thật sự có, mong giữ lấy. Ái Thủ
Hữu! Hàng Nhị Thừa nghe nói “hết thảy các pháp đều Không”, chuyện
ǵ họ cũng đều không làm, đọa vào Không!
Đọa Không và đọa Hữu đều là sai lầm.
V́ thế, Bồ Tát hành Trung Đạo, hai bên Không và Hữu
đều chẳng dính mắc. Do có nguyện, nên chẳng
phải là Không; do chẳng giữ lấy, nên chẳng phải
là Hữu, bất Không, bất Hữu!
Do
vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện, quư vị thấy
sau khi lăo nhân gia thành tựu, chẳng nghỉ ngơi ngày
nào. Nhiệt tâm dạy người khác như vậy
đó. Ở đâu có người thỉnh, Ngài bèn đến
đó, đồ chúng ngày càng nhiều. Một ngàn hai
trăm năm mươi lăm người là những vị
có thành tựu, giống như bảy mươi hai hiền
nhân của Khổng lăo phu tử. [Đó là những vị] có
thành tựu; những học tṛ chưa thành tựu chẳng
biết là bao nhiêu! Đă thành tựu là một ngàn hai
trăm năm mươi lăm vị, những vị ấy
giống như Thích Ca Mâu Ni Phật, giữa trưa ăn một
bữa, tối nghỉ dưới gốc cây. Cơm ăn
mỗi ngày là do đi khất thực từng nhà, đến
khất thực tại các thôn trang hoặc thành thị ở
bốn phía chung quanh. Khất thực có quy củ, có lễ
tiết, cho nên được mọi người tôn kính. Nhu
cầu sống có mức độ thấp nhất, thật
sự làm được “chẳng tranh với người,
chẳng cầu nơi đời”, một niềm từ
bi. V́ thế, phải có nguyện, đă có nguyện, lại
chẳng thể có Thủ. Hễ có Thủ th́ sai mất rồi!
Nay đă hết thời gian rồi, chúng ta nghỉ ngơi
mấy phút.
**
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Chúng ta xem phần Sớ Sao kế tiếp.
Đối với từ ngữ “âu
ḥa thiệp sự”, Thanh Lương đại sư có
chú giải. Trong phần chú giải, đă ghi:
(Sao) Âu ḥa thiệp sự giả, thử vân
phương tiện thiện xảo, tức Triệu công
Tông Bổn Luận văn.
(鈔) 漚和涉事者,此云方便善巧,即肇公宗本論文。
(Sao: “Ḥa quyện cùng Sự”
ở đây chính là nói về phương tiện thiện
xảo, tức là như đă giảng trong phần luận
văn thuộc bộ Tông Bổn Luận của ngài
Tăng Triệu).
Triệu
công là Tăng Triệu đại sư, Ngài là một trong bốn
vị đại đệ tử của đại sư
Cưu Ma La Thập. Ngài nói:
(Sao)
Âu ḥa Bát Nhă giả, đại huệ chi xưng dă.
(鈔)漚和般若者,大慧之稱也。
(Sao: “Ḥa lẫn cùng Bát Nhă” là nói đến đại
huệ).
Đấy
chính là đại trí huệ chân chánh. Đại trí huệ thực
hiện trong cuộc sống hằng ngày, thực hiện
trong khi đối trước sâm la vạn tượng, hiển
thị diệu dụng của trí huệ chân thật.
(Sao)
Chư pháp Thật Tướng, vị chi Bát Nhă, năng bất
h́nh chứng, âu ḥa công dă.
(鈔)諸法實相,謂之般若,能不形證,漚和功也。
(Sao: Thật Tướng của các pháp được
gọi là Bát Nhă, chẳng thể chứng bằng h́nh tướng,
đấy là công năng của sự ḥa quyện vậy).
Đối
với Thật Tướng của các pháp, “chứng” (證) là “minh tâm kiến tánh”
như trong Tông Môn đă nói. Người minh tâm kiến tánh
có [dính líu đến Sự] hay không? Có chứ! Nếu người
ấy chẳng dính líu đến Sự, chẳng muốn
liên quan đến Sự, người ấy bỏ đi,
rời khỏi mười pháp giới, sẽ đến
Nhất Chân pháp giới. Nhưng tuyệt đại đa
số Bồ Tát đă đạt tới cảnh giới
này, có ĺa khỏi mười pháp giới hay không? Các Ngài chẳng
ĺa khỏi, đó là công năng của sự ḥa lẫn (“âu ḥa”), [tức là] Ngài có thể
ḥa quang đồng trần. V́ sao? Trong cảnh giới, các Ngài
đă là “Lư Sự vô ngại, Sự
Sự vô ngại”. Trụ trong Nhất Chân, hay trụ
trong mười pháp giới, chẳng hai, chẳng khác,
cũng là như trong Giáo Hạ đă nói: Thật sự nhập
pháp môn Bất Nhị. Do vậy, đại nguyện của
Ngài đă được thực hiện, tức là cái nguyện
“độ chúng sanh” [đă
được thực hiện].
Nguyện
độ chúng sanh, nói theo kiểu hiện thời, sẽ
là v́ hết thảy chúng sanh phục vụ. “Độ” (度) có nghĩa là “phục
vụ, hiệp trợ, giúp đỡ”. Giúp chúng sanh chuyện
ǵ? Căn tánh của chúng sanh chẳng ngang nhau; do vậy,
quư vị nhất định phải có trí huệ chân thật,
phương tiện thiện xảo. Đối với kẻ
mê Lư và Sự nặng nề, cũng có nghĩa là kẻ có
tâm phân biệt, chấp trước đặc biệt nặng
nề, dùng phương pháp ǵ để giúp đỡ họ?
Dùng Lư, dùng Sự, dùng nhân, dùng quả, giúp họ đoạn
ác, tu thiện, đấy chính là giúp họ “ĺa khổ,
được vui”. Dạy họ! Dùng phương pháp Lư, Sự,
nhân, quả để dạy họ, [khiến cho họ] chẳng
đọa ác đạo, đời sau và đời đời
kiếp kiếp sẽ hưởng thụ phước báo
nhân thiên. Đó là đối với kẻ hạ căn. Đối
với người trung căn, có tŕnh độ khá cao,
cũng phải dùng Lư, Sự, nhân, quả, dùng Lư cho nhiều,
chứ đối với kẻ hạ căn, phải sử
dụng nhân quả cho nhiều th́ họ mới có thể tin
tưởng. Tu nhân như thế nào, sẽ đạt
được quả báo như thế đó. Tuyệt
đối chẳng phải là dùng những thủ đoạn
không chánh đáng để lừa lọc, cưỡng
đoạt, [nếu làm như vậy], sẽ là sai lầm!
Những ǵ quư vị đạt được thảy
đều là sẵn có trong mạng của quư vị. Trong mạng
chẳng có, sẽ chẳng thể đạt được!
Trong mạng đă có, nhưng v́ tư tưởng, ngôn luận,
và hành vi của quư vị không tốt; cho nên phước báo
trong mạng bị tước bớt, giảm trừ! Bản
thân quư vị vẫn cứ rất đắc ư, “ta dùng những
thủ đoạn hay khéo này, cho nên đă đoạt
được lắm thứ như thế đó!” Thật
ra, đă sai lầm mất rồi! Nếu quư vị dùng những
phương cách chánh đáng, những ǵ quư vị đạt
được c̣n nhiều hơn những ǵ đă có trong
hiện thời! Nhiều hơn quá nhiều!
Con
người quyết định chớ nên tạo tội
nghiệp, quyết định chớ nên tổn người,
lợi ḿnh. Đó là sai lầm đặc biệt to lớn!
Nếu chính ḿnh có thể tổn ḿnh, lợi người, phước
báo mai sau sẽ không ngừng tăng cao hơn! Sau khi đă
nói rơ ràng, nói minh bạch đạo lư này, thế gian sẽ
chẳng có tham quan. Tham quan ô lại sẽ
chẳng có, các thương nhân kinh doanh cũng giữ
đúng bổn phận. V́ sao? Họ thật sự có thể
đạt được lợi ích. Lợi ích trong mạng
của họ mỗi ngày một tăng trưởng, chẳng
đến nỗi hao bớt. Bất luận nghề nghiệp
nào cũng nhất định là nói đến đạo
đức, nói đến luân lư, sự nghiệp ấy mới
có thể lâu dài, lợi nhuận sẽ không ngừng
tăng lên. Hễ ư niệm sai lầm, cứ ngỡ “ta chẳng
lừa kẻ khác, ta không hăm hại kẻ khác, sẽ chẳng
thể kiếm tiền”. Sai mất rồi, sai toàn bộ,
sai lầm đặc biệt to tát! Đối với kẻ
hạ căn th́ nói những điều này, đối với
người trung căn th́ giúp họ phá mê khai ngộ, đối
với kẻ thượng căn th́ giúp họ chuyển
phàm thành thánh. Do vậy, đối với người hạ
căn, giáo dục nhân quả là thích hợp nhất. Đối
với người trung căn, giáo dục Nho gia hoặc
giáo dục Tiểu Thừa trong Phật pháp sẽ rất
thích đáng. Đối với bậc thượng căn,
pháp Nhất Thừa, pháp Đại Thừa, pháp thượng
thượng thừa sẽ hữu dụng, giúp họ thật
sự thoát ly lục đạo luân hồi, thoát ly mười
pháp giới.
Bồ
Tát đạt đến cảnh giới ấy, chẳng
chứng Bát Niết Bàn, nói theo giáo pháp Đại Thừa, sẽ
là “chẳng trụ sanh tử,
chẳng trụ Niết Bàn”. Đối với chứng
đắc của người như vậy (bậc
thượng căn), Phật pháp có một danh từ là Vô
Trụ Niết Bàn. Vị ấy thật sự trụ trong
cảnh giới Bát Niết Bàn, nhưng chẳng chứng!
Hai bên Niết Bàn và sanh tử đều chẳng vướng
mắc; do vậy, nói là “chẳng
trụ sanh tử, chẳng trụ Niết Bàn”. Do chẳng
trụ sanh tử, nên chẳng phải là phàm phu. Do chẳng
trụ Niết Bàn, chẳng phải là Như Lai. Vị ấy
dùng thân phận Bồ Tát du hóa trong mười pháp giới.
Chỗ nào có cảm, Ngài sẽ ứng nơi đó, chẳng
có sắc tướng nhất định. Đáng nên dùng
thân ǵ để độ, bèn hiện thân ấy. Quan sát
căn cơ của chúng sanh, đáng nên thuyết pháp nào, bèn
thuyết pháp ấy cho họ. Đó gọi là “phương tiện thiện xảo”.
Đó gọi là “âu ḥa Bát Nhă”.
Thật sự là đại trí huệ, đại Bát Nhă.
Tiếp
đó, giải thích rất hay:
(Sao)
Thích hóa chúng sanh, vị chi âu ḥa.
(鈔)適化眾生,謂之漚和。
(Sao: Giáo hóa chúng sanh thích đáng th́ gọi là “âu
ḥa”).
“Thích” (適) là hết sức thích hợp, chúng ta nói là “khế cơ, khế Lư”. Do
căn tánh của chúng sanh khác nhau, phương pháp giáo học
của quư vị sẽ không giống nhau, nhưng quyết
định là khiến cho họ đạt được
lợi ích trong hiện tiền, trong tương lai đạt
được lợi ích. Điều này rất trọng yếu!
[Nếu] hiện tiền đạt được lợi
ích, trong tương lai chẳng đạt được
lợi ích, sai mất rồi! Ví như dạy quư vị rất
nhiều phương pháp chẳng chánh đáng, quư vị thu
được mối lợi to lớn, thu được
của cải, đạt được địa vị,
đều là do dùng những thủ đoạn không chánh
đáng, hiện tiền đạt được lợi
ích, sau khi đă chết, sẽ đọa địa ngục;
đấy chẳng phải là lợi ích! Lợi ích trong hiện
tiền ngắn ngủi, khổ báo đọa trong địa
ngục khôn cùng! Thời gian ấy quá dài; v́ thế, [tạo
lợi ích] kiểu đó là sai lầm! Phật pháp dạy
người ta, [có thể là] hiện tiền chẳng đạt
được lợi ích, nhưng trong tương lai, sẽ
được lợi ích. Đấy là chánh xác. Hiện tiền
đạt được lợi ích, trong tương lai
cũng có lợi ích, đương nhiên là càng tốt
hơn, có ai mà chẳng mong mỏi! Quyết định là
chẳng thể khiến cho [chúng sanh] trong đời sau chẳng
đạt được lợi ích. [Nếu đời
sau chẳng đạt được lợi ích], hỏng
rồi, sai mất rồi!
“Âu ḥa” (漚和) là danh
từ Bát Nhă, [hàm ư] người ấy có thể [vận dụng]
phương tiện thiện xảo để giáo hóa chúng sanh.
Trong thế giới hiện thời, chúng ta nhất định
phải khẳng định tánh con người vốn
lành, “nhân chi sơ, tánh bổn
thiện” (con người thoạt đầu tánh vốn
lành), nhất định phải khẳng định
điều này. V́ sao biến thành bất thiện? Bị dạy
hư! V́ thế, Phật, Bồ Tát là do được dạy
thành, thánh hiền cũng là do được dạy thành.
Ác nhân cũng là do được dạy thành, yêu ma quỷ
quái vẫn là do được dạy thành. Tùy thuộc quư
vị dạy những ǵ? Thánh hiền dùng chánh đạo
để dạy người khác, chẳng dạy tà đạo,
mà là dạy người ta bằng chánh đạo.
Tương ứng với tự tánh, tương ứng với
Tánh Đức, tương ứng với pháp tắc vận
hành của thiên nhiên, đó là “thánh
đạo”, là trí huệ chân thật. Tiếp đó [lời
Sao] viết:
(Sao)
Bất nhiễm trần lụy, Bát Nhă lực dă.
(鈔)不染塵累,般若力也。
(Sao: Chẳng nhiễm trần lụy là do sức
Bát Nhă).
Câu
này rất quan trọng. Chư vị phải biết: Bồ
Tát ở trong thế gian, chẳng phải là thần tiên.
Trong Phật môn, [những vị] được gọi là
Phật hoặc Bồ Tát chẳng liên quan ǵ đến thần
tiên! Trong các buổi giảng, chúng tôi đă nói chuyện này
rất nhiều lần. Bồ Tát, Phật, A La Hán là những
danh xưng học vị trong Phật giáo, giống như các
học vị (degree) trong trường đại học hiện
thời. Cao nhất là Tiến Sĩ, trong Phật pháp gọi
là Phật Đà. Phật Đà là Tiến Sĩ, Bồ Tát
là Thạc Sĩ, A La Hán là Học Sĩ (Cử Nhân), có những
học vị ấy. Ngoài ra, bất luận là tại gia
hay xuất gia đều chẳng đạt được
học vị. Đạt được học vị, tiêu
chuẩn của học vị là ǵ? Đoạn Hoặc, chứng
Chân; Hoặc (惑) là mê hoặc, phiền năo. Đối với ba loại
đại phiền năo, đoạn Kiến Tư phiền
năo, quư vị được gọi là A La Hán. Đoạn Trần
Sa phiền năo, quư vị được gọi là Bồ Tát.
Đoạn vô minh phiền năo, quư vị được gọi
là Phật Đà.
Trong
Phật môn, Phật, Bồ Tát, La Hán quá ư là nhiều! Phật
giáo chẳng giống các tôn giáo khác. Trong tôn giáo, thần chỉ
có một, chẳng thể có hai vị! Thượng Đế
chỉ có một, chẳng thể có rất nhiều. Trong Phật
giáo, Phật rất nhiều. Đó là danh xưng của học
vị, chẳng biểu thị quyền lực. Phật chẳng
có quyền lực; Ngài tượng trưng cho trí huệ, tượng
trưng cho đức hạnh, [Phật là] đức hạnh
và trí huệ. V́ thế, Phật giáo là giáo dục. Giáo hóa
chúng sanh, đương nhiên là sẽ ở cùng một chỗ
với chúng sanh, nhưng chẳng nhiễm trần lụy.
Quư vị thấy đó, bọn phàm phu chúng ta ở trong thế
gian này lắm nỗi phiền năo, lắm thứ đèo bồng
không cần thiết, [những điều ấy] thường
gọi là “vướng mắc,
nghi ngại”, thân và tâm đều có áp lực. Nhưng Bồ
Tát ở trong thế gian này, chẳng có trần lụy, chẳng
có áp lực. V́ sao? Các Ngài biết “phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư
vọng”; tuy rất nỗ lực làm việc, nhưng chẳng
có phiền lụy. V́ sao? “Làm mà
không làm, không làm mà làm”, chẳng có phiền lụy. Làm việc
cũng có khi thành công, cũng có lúc thất bại. Thành công
là ǵ? Chúng sanh có phước, chẳng kể công. Tâm thanh tịnh,
tuyệt đối không nghĩ “ta đă v́ chúng sanh làm bao
nhiêu chuyện tốt đẹp”. Chẳng có! Chẳng có ư
niệm nào! Chuyện chẳng làm thành công, chúng sanh chẳng
có phước, ta chẳng có lầm lỗi, chẳng nhiễm
trần lụy. Đó là ǵ? Đấy chính là trí huệ Bát
Nhă.
Chẳng
có trí huệ Bát Nhă, trong công việc hằng ngày, sẽ tính
toán, so đo chi ly, đă bỏ ra bao nhiêu công sức th́ nhất
định phải được đền bù bấy
nhiêu, chẳng giống như Bồ Tát. Nói theo cách nói của phàm phu, Bồ Tát chỉ
có bỏ ra, tuyệt đối chẳng có ư niệm thu về,
chẳng có ư niệm ấy. Nếu là Bồ Tát thuộc
địa vị cao hơn đôi chút, hằng ngày chịu
khổ chịu khó làm lụng, ngay cả ư niệm siêng khổ
làm việc cũng chẳng có. Đấy là “làm mà không làm, không làm mà làm”; v́ thế, Ngài chẳng
có phiền lụy, tâm khai ư giải. Mặt trời chiếu
trọn khắp đại địa, mặt trời có kể
công hay chăng? Ta đối với quư vị có ân đức
to lớn ngần ấy, hằng ngày chiếu cố các vị,
mỗi ngày tặng nguồn năng lượng cho quư vị.
Chẳng có! Chẳng hề kể công, tự nhiên! Từ chư
Phật, Bồ Tát, A La Hán trở lên, các Ngài ứng hóa trong
thế gian, v́ hết thảy chúng sanh phục vụ, tuyệt
đối chẳng có ư niệm kể công! V́ sao phải
làm? V́ thực hiện bổn nguyện, lúc mới học
Phật đă phát nguyện: “Chúng
sanh vô biên thệ nguyện độ”. Hiện tại,
có đức năng ấy, có năng lực ấy, có
đạo đức ấy, có học thuật ấy, nếu
quư vị chẳng chịu phục vụ chúng sanh, chẳng
phải là quư vị đă phát nguyện ấy rỗng tuếch
hay sao? Nói rồi chẳng làm, há có lẽ ấy! V́ thế,
tự nhiên là phải thực hiện!
Đă
chứng đắc A La Hán, chứng đắc Bồ Tát,
chứng đắc quả vị Phật, có phải tŕ giới
hay không? Phải! Nói thật ra, các Ngài giới hạnh viên
măn, [vẫn tŕ giới nhằm] mong nêu gương cho
người khác thấy. Nếu không nêu gương tốt,
dạy kẻ khác tŕ giới, nhưng chính ḿnh chẳng tŕ giới,
người ta sẽ không tin tưởng. Chính ḿnh phải nêu
gương cho người ta thấy, mọi người
trông thấy chẳng bàn ra tán vào được nữa, đă
tin tưởng! V́ thế, tŕ giới là v́ người khác;
đấy là giáo học, thân giáo, lấy chính ḿnh làm
gương. Trước là có thân giáo, sau đó có ngôn giáo, mọi
người mới tin tưởng, mới tiếp nhận.
Do vậy, phải đoạn phiền năo, phải học
pháp môn; thật ra, có pháp môn nào các Ngài chẳng trọn đủ?
Vẫn là rất nghiêm túc từ cạn đến sâu, học
dần dần từ bộ kinh nhỏ đến bộ
kinh lớn, chẳng có điều ǵ không nhằm làm cho
người khác trông thấy! Trong kinh Phạm Vơng, Thích Ca
Mâu Ni Phật đă nói lời thật, chúng ta mới biết
lăo nhân gia đă thành Phật từ nhiều kiếp lâu xa. Lần
này, Ngài đến địa cầu nhằm biểu diễn
một phen. Ngài bảo lần này là lần thứ tám ngàn
Ngài đến đây! Mỗi lần đến đều
giống như diễn tuồng, đều là làm từ
đầu, nêu gương cho kẻ khác thấy.
Trước
hết, dạy chúng ta buông xuống. Tôi học Phật, ngày
đầu tiên gặp mặt Chương Gia đại
sư. Vị này là người xuất gia, đấy là lần
đầu tiên tôi gặp một người xuất gia
trong đời này. Tôi bèn thỉnh giáo lăo nhân gia, Ngài dạy
tôi sáu chữ “khán đắc phá,
phóng đắc hạ” (nh́n thấu suốt, buông xuống).
Về sau, chúng tôi thâm nhập kinh tạng, thấy Thích Ca
Mâu Ni Phật biểu diễn, đúng là “thấy thấu suốt, buông xuống”. Ngài là
vương tử, chẳng cần đến ngôi vua, từ
bỏ, vinh hoa, phú quư, vợ con đều từ bỏ, xuất
gia tu đạo, sống cuộc đời của một
vị Tăng khổ hạnh. V́ sao phải làm như vậy?
Làm cho chúng ta nh́n vào! Trong tâm chúng ta, niệm nào cũng đều
truy cầu vinh hoa, phú quư, truy cầu địa vị, truy
cầu quyền lực, truy cầu ngũ dục, lục trần,
lăo nhân gia biểu diễn buông xuống toàn bộ cho chúng ta
thấy, khiến cho chúng ta trông thấy một chiêu ấy,
sẽ nghiêm túc suy nghĩ cặn kẽ, v́ sao Ngài làm như
vậy? Chính là bảo cho quư vị biết: Những ǵ quư vị
mong cầu, vướng mắc, suy nghĩ, toàn là giả trất,
chẳng thật! Con người sống trên cơi đời,
điều ǵ quan trọng nhất? Chân thật mới là
quan trọng nhất, chứ hư giả sẽ chẳng
quan trọng! Trong phần trước, chúng tôi đă nói về
những cái giả, chính là lợi ích trước mắt,
c̣n Chân là ǵ? Lợi ích đời đời kiếp kiếp
mai sau, thời gian lâu dài.
Lợi
ích chân thật là nâng cao linh tánh. Nói cụ thể hơn một
chút, Tam Học Giới, Định, Huệ được
tăng cao. Giới là chẳng tham, Định là chẳng
sân, Huệ là chẳng si. Tương phản của Giới,
Định, Huệ là tham, sân, si. Thích Ca Mâu Ni Phật thị
hiện, buông xuống tham, sân, si, hiện ra Giới, Định,
Huệ, những thứ này quư vị có thể mang theo được!
Chúng ta phải mang theo Giới, Định, Huệ, đừng
nên đem theo tham, sân, si. Mang theo tham, sân, si chính là đi vào ba
ác đạo, mang theo Giới, Định, Huệ chính là
đại pháp nhân thiên. Nếu Giới, Định, Huệ
chẳng ngừng tăng cao, quư vị sẽ vượt
thoát lục đạo luân hồi, sẽ thành Thanh Văn, Duyên
Giác, Bồ Tát. Tăng cao hơn nữa, sẽ vượt
thoát mười pháp giới, quư vị gia nhập câu lạc
bộ của chư Phật Như Lai. Thật đấy!
Chẳng giả đâu nhé! Đạt tới cảnh giới
ấy, chẳng cần nói tới Nhất Chân pháp giới,
chỉ cần quư vị có thể đạt tới tứ
thánh pháp giới, quả A La Hán là học vị trong Phật
môn, là học vị thấp nhất mà quư vị thật sự
đạt được, sẽ có năng lực đến
thị hiện trong lục đạo, đáng nên dùng thân ǵ
để độ, bèn hiện thân ấy. A La Hán có thể
làm được [chuyện này].
Trong
A La Hán, có Tiểu Thừa và Đại Thừa. Đại
Thừa A La Hán là Bồ Tát, tức là Thập Tín Bồ Tát
trong kinh Hoa Nghiêm. Trong phần trước, chúng tôi đă nói
rất nhiều, nói rất rơ ràng. Địa vị Sơ
Tín bằng Tu Đà Hoàn, Tu Đà Hoàn của Tiểu Thừa.
Địa vị Thất Tín bằng Tiểu Thừa A La
Hán, địa vị Bát Tín bằng Bích Chi Phật, địa
vị Cửu Tín bằng Bồ Tát trong mười pháp giới.
Địa vị Thập Tín là Phật trong mười pháp
giới, Thập Tín Bồ Tát đấy nhé! Lên cao hơn sẽ
là Sơ Trụ, phá một phẩm vô minh, chứng một
phần Pháp Thân, vị ấy là Pháp Thân Như Lai. Trong Hoa
Nghiêm, các Ngài được gọi chung là “Pháp Thân đại sĩ”, kinh Kim Cang gọi các
Ngài là “chư Phật Như Lai”.
Sơ Trụ trong Viên Giáo thuộc địa vị chư Phật
Như Lai. Chúng ta phải hiểu rơ, phải thấu hiểu,
phải thật sự hiểu rơ, thật sự hiểu
minh bạch chân tướng sự thật này! Không chỉ
là quư vị sẽ chẳng làm chuyện xấu, mà những
ư niệm bất thiện, xấu ác đều
chẳng có! V́ sao? Dấy lên một ác niệm, sẽ gây hại
rất lớn đối với đức hạnh của
chính ḿnh. Hại người, người khác chẳng
bị thương tổn cho mấy, chính ḿnh bị tổn
hại quá nghiêm trọng. Quư vị khởi tâm động
niệm hại kẻ nào đó, người ta bị
thương tổn ba phần, chính ḿnh bị hại bảy
phần. Ai mong làm chuyện ấy, chẳng có ai muốn
làm!
Hiện
thời, chúng ta nh́n vào xă hội hiện tiền, quư vị
mới biết nền giáo dục của đức Phật
quan trọng dường ấy, nền giáo dục của
Khổng Mạnh quan trọng dường ấy, giáo dục
nhân quả trọng yếu dường ấy! Vứt bỏ
ba loại giáo dục ấy, mà mong thế giới khôi phục
sự an định, khôi phục ḥa b́nh, sẽ là như
xưa kia thầy Lư thường nói: “Chư Phật, Bồ Tát, thần tiên đều làm
không được!” Phương pháp duy nhất là nỗ
lực học tập sự giáo dục của thánh hiền,
học bắt đầu từ nơi đâu? Học khởi
đầu từ chính bản thân ta! Quư vị chớ nên
mong mỏi ai khác! Quư vị trông mong người khác th́ sai mất
rồi, hăy làm từ chính ḿnh, bắt đầu học từ
bản thân. Bản thân chúng ta học giống như vậy,
tự nhiên sẽ ảnh hưởng những người
chung quanh ta. Ta học càng giống, ảnh hưởng càng
to, thời gian ảnh hưởng cũng càng dài. Hăy thật sự làm, chẳng thể làm giả
vờ được! Trong kinh Phật thường nói “thân người khó được,
Phật pháp khó nghe”. Chúng ta được làm thân người,
nghe Phật pháp, cơ duyên ấy chính là trăm ngàn vạn
kiếp khó gặp gỡ. Đă được gặp gỡ,
chớ nên để luống uổng đời này, nhất
định là phải có thành tựu!
Thành
tựu lớn hay nhỏ là do sự nỗ lực của
chính ḿnh. Thật sự nỗ lực, chẳng ngừng
siêng năng tinh ṛng, quư vị sẽ có thành tựu rất lớn.
Giải đăi, lười nhác, tán loạn, thành tựu rất
hữu hạn. Trong xă hội này, sức dụ dỗ, mê hoặc
bên ngoài hết sức mạnh mẽ, to lớn; do đó, nếu
chính ḿnh chẳng thâm nhập kinh tạng, quư vị làm sao có
thể bảo vệ chính ḿnh? Quư vị làm sao có thể
không bị dụ dỗ, mê hoặc, chẳng bị quấy
nhiễu? Chẳng dễ dàng! Những điều này đều
là công năng của sự “ḥa quyện cùng Bát Nhă”, chẳng
nhiễm trần lụy. Thật sự là sức mạnh của
Bát Nhă. Bát Nhă nhất định là do Định mà có, Định
nhất định là do Giới mà có. V́ thế, chúng ta phải
mong có trí huệ như vậy, ḥng có thể chẳng bị
bên ngoài quấy nhiễu. Công phu sâu hơn, chúng ta c̣n có thể
cảm hóa người khác, c̣n có thể thay đổi phong
tục, có thể biến đổi hoàn cảnh, đều
phải cậy vào chính ḿnh thật tu, thật sự làm!
Sau
đấy, [lời Sao] viết:
(Sao)
Nhiên tắc Bát Nhă chi môn quán Không, âu ḥa chi môn thiệp Hữu.
Thiệp Hữu, vị thỉ mê hư, cố thường
xử Hữu nhi bất nhiễm. Bất yếm Hữu nhi
quán Không, cố quán Không nhi bất chứng. Thị vi nhất
niệm chi lực, Quyền Huệ cụ hỹ.
(鈔)然則般若之門觀空,漚和之門涉有,涉有未始迷虛,故常處有而不染,不厭有而觀空,故觀空而不證,是為一念之力,權慧具矣。
(Sao: Vậy th́ môn Bát Nhă là quán Không, môn “ḥa quyện”
dính líu Hữu. Dính líu Hữu mà chẳng mê nơi Hư, cho
nên thường ở trong Hữu mà chẳng nhiễm. Chẳng
chán Hữu mà quán Không, v́ thế, quán Không mà chẳng chứng.
Đấy là sức của nhất niệm, Quyền Huệ
trọn đủ).
Mấy
câu này rất quan trọng. Bát Nhă là triệt để hiểu
rơ chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. Quán Không
là chân tướng. “Không” chẳng
dễ hiểu cho lắm! V́ sao? “Không” chẳng phải là Vô
(không có ǵ); lũ b́nh phàm chúng ta hễ nói đến Không,
bèn nghĩ Không là Vô. Thứ ǵ cũng chẳng có, bèn gọi
là Không; đấy là sai lầm. Phật pháp nói Không th́ nó là
có, giống như nay chúng ta nh́n vào màn h́nh TV, trong ấy có sắc
tướng hiện ra, nhưng quư vị chẳng nắm bắt
sắc tướng ấy được! V́ thế, bản
thể của nó chính là Không. Kinh Bát Nhă đă tổng kết:
“Vô sở hữu, tất cánh
không, bất khả đắc” (Chẳng sở hữu ǵ,
rốt ráo là không, chẳng thể được). Đối
với kẻ sơ học như chúng ta, tốt nhất là
học chín chữ này từ TV! Đối trước TV, quư
vị thường dùng ba câu ấy để nhắc nhở,
“hết thảy các pháp chẳng
có sở hữu, rốt ráo là không, chẳng thể
được!” Xem hằng ngày, hằng ngày luôn nhắc
nhở, tôi nghĩ dăm ba năm, quư vị sẽ hoát nhiên
đại ngộ. Sau khi đă ngộ, sâm la vạn tượng
trước mắt chúng ta chẳng khác [những h́nh ảnh]
trong TV.
Do
vậy, trong Chứng Đạo Ca, ngài Vĩnh Gia đă nói
rất hay: “Mộng lư minh minh hữu
lục thú, giác hậu không không vô đại
thiên” (Trong mộng rành rành bày sáu nẻo, giác rồi ba cơi
rỗng toang hoang). Mộng là ǵ? Mê. Khi đă mê th́ dường
như là thật sự có. Sau khi giác ngộ, nó là huyễn hữu,
nó là Diệu Hữu, chẳng phải là thật sự có! Hữu
chẳng trở ngại Không, Không chẳng ngăn ngại
Hữu. Hữu là Không, Không là Hữu. Tâm Kinh nói: “Sắc chẳng khác Không, Không chẳng
khác Sắc, Sắc chính là Không, Không chính là Sắc”. Sắc
và Không là một, không hai. Quư vị thật sự hiểu
rơ điều này, Không và Hữu vô ngại. V́ thế, Bát Nhă
quán Không. “Âu ḥa chi môn thiệp Hữu.
Thiệp Hữu, vị thỉ mê hư” (Môn ḥa quyện
dính dáng với Hữu. Dính dáng với Hữu,
chẳng mê nơi Hư), “hư”
(虛) là ǵ? “Hư”
là hư vọng. “Phàm những
ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”. Dính líu
đến Hữu mà chẳng mê, biết nó là hư vọng. Biết nó là hư vọng, quư vị
đối với hết thảy Hữu, hết thảy các
hiện tượng, sẽ chẳng chấp trước, chẳng
phân biệt, đương nhiên là càng chẳng thể chiếm
hữu nó! Nếu quư vị mong đạt được
nó, chiếm hữu nó, [tức là] quư vị chẳng biết
bản thể của nó là Không, trọn chẳng thể
được!
Từ
Bồ Tát, A La Hán trở lên, sẽ có năng lực ấy,
lăn lộn trong Hữu mà chẳng mê, biết Thật
Tướng của các pháp là chuyện như thế nào! Ḥa
quang đồng trần cùng hết thảy chúng sanh; khi tôi
giảng kinh, thường nói: “Quyết
định chẳng dấy lên một ư niệm, chẳng thể
có ư niệm chiếm hữu”. Bọn phàm phu chúng ta khởi
tâm động niệm luôn mong chiếm lấy làm của ḿnh,
điều ấy sai mất rồi! Thân của chính ḿnh cũng
là hư vọng, cũng là chẳng thể được.
V́ lẽ đó, chẳng dấy lên ư niệm ấy, sẽ
chẳng chiếm hữu, chẳng mê mất tự tánh, biết
là do “tâm hiện, thức biến”, quyết định chẳng
có ư niệm khống chế. Chúng ta có khống chế, có chiếm
hữu, sai mất rồi! Đó là phàm phu, đối với
chân tướng sự thật, chẳng biết một chút
ǵ! Qua lại cùng hết thảy người, hết thảy
sự, hết thảy vật, thảy đều chẳng
có ư niệm chiếm hữu, phải hiểu điều
này! Chẳng có ư niệm khống chế, đấy là chính
ḿnh đang thật sự tu hành. Thật sự đang học
điều ǵ? Buông xuống. Thấy người khác làm
sai, bèn khuyên nhủ, dùng phương tiện thiện xảo
để khuyên dụ họ cải tà quy chánh. Thấy họ
làm đúng, bèn dùng phương tiện thiện xảo để
khích lệ họ. Bất luận là khích lệ hay khuyên dụ,
đều chẳng có vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, sẽ là hoàn toàn đúng. Chẳng khác ǵ chư
Phật, Bồ Tát ứng hóa trong thế gian. Đấy gọi
là thật sự học, là học xứ của Bồ Tát!
Trong
cuộc sống hằng ngày, đối với sự,
đối với người, đối với vật,
phải biết dùng khởi tâm động niệm làm cảnh
giới ḥng rèn luyện chính ḿnh. Một trăm bốn
mươi mốt nguyện ở đây nhằm dạy
chúng ta: Trong cảnh giới, trong hoàn cảnh nhân sự,
trong hoàn cảnh vật chất, thuận cảnh, nghịch
cảnh, thiện duyên, ác duyên, rèn luyện như thế
nào, mài sạch tập khí phiền năo của chính ḿnh, trí huệ
sẽ hiện tiền, sẽ giống như Bồ Tát
đă nói trong kinh: Phương tiện thiện xảo, dính
líu Sự mà chẳng nhiễm trần lụy, dính líu Hữu
mà chẳng mê Không. “Hư” là
Không, chẳng mê!
“Thường xử Hữu nhi bất
nhiễm, vô yếm Hữu nhi quán Không, cố quán Không nhi bất
chứng” (Thường ở trong Hữu mà chẳng nhiễm,
chẳng chán Hữu mà quán Không. V́ thế, quán Không mà chẳng
chứng). Nếu quán Không mà mong chứng, sẽ xuất hiện
phiền phức, sẽ biến thành Tiểu Thừa. Trong
giáo pháp Đại Thừa, đức Thế Tôn thường
nói là “đọa vô vi khanh”
(đọa trong hầm vô vi). Hàng Tiểu Thừa công phu chẳng
đến nơi đến chốn, dính líu Hữu sẽ
khó lắm! Nhất là chúng sanh trong Diêm Phù Đề,
ương ngạnh, khó hóa độ. Quư vị đối
với họ bằng một niềm chân thành, một niềm
từ bi, họ ngược ngạo đối xử quư vị
bằng ác ư, quư vị có thể chịu đựng hay
không? Chịu không nổi! Thôi đi, hạng người
đó chẳng có lương tâm, chẳng biết tốt xấu,
quên đi, mặc kệ họ. Đấy là [quan niệm]
của Tiểu Thừa.
Người
Đại Thừa chẳng có quan niệm như vậy.
Người Đại Thừa không khởi tâm, không động
niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước, bất
luận quư vị dùng thái độ ǵ đối xử với
tôi, hủy báng cũng thế, lăng nhục cũng thế,
hăm hại cũng thế, [tôi luôn] như như bất
động. Thấy quư vị có khổ nạn, vẫn giúp
đỡ quư vị. Quư vị có thể tiếp nhận,
bèn giúp đỡ hiển nhiên, giúp đỡ quư vị công
khai. Quư vị chẳng thể tiếp nhận, bèn ngấm
ngầm góp sức, âm thầm chăm sóc quư vị, âm thầm
chúc phước cho quư vị. Tinh thần ấy chẳng thể
nghĩ bàn, v́ sao? Thế gian chẳng có kẻ ác, hết thảy
chúng sanh bản tánh vốn lành! Sở dĩ có kẻ làm ác
là v́ đă mê mất tự tánh; người giác ngộ chớ
nên trách móc họ. Hễ trách họ, quư vị đă sai mất
rồi. Cớ sao quư vị lại dấy lên phân biệt, chấp
trước? Người giác ngộ chỉ có phương
tiện thiện xảo giúp họ quay đầu. Đời
này, họ chẳng tiếp nhận, [là do] duyên không đủ.
Chúng ta chớ nên đoạn duyên với họ, niệm niệm
luôn giúp đỡ họ. Chúng ta tụng kinh, tu tŕ, tu tập
tích lũy các công đức đều hồi hướng,
chúc phước cho họ. Đấy là mối quan hệ
vĩnh viễn chẳng dứt. Đời này mê hoặc, đời
sau có thể giác ngộ, quay đầu. Đời sau chẳng
giác ngộ, đời sau nữa sẽ giác ngộ,
được rồi! Bồ Tát có ḷng kiên nhẫn. Dẫu
cho vô lượng kiếp sau mới quay đầu, đều
bằng ḷng chờ đợi. Tinh thần ấy, nói theo
pháp thế gian sẽ là “chẳng thể nghĩ bàn”.
Ở
đây, Thanh Lương đại sư bảo:
(Sao) Cố quán Không nhi bất chứng, thị
vi nhất niệm chi lực, Quyền Huệ cụ hỹ.
Nhất niệm chi lực Quyền Huệ cụ hỹ, hảo
tư, lịch nhiên khả giải.
(鈔)故觀空而不證,是為一念之力,權慧具矣,一念之力權慧具矣,好思,歷然可解。
(Sao: V́ thế, quán Không mà chẳng chứng, đó
là do sức của nhất niệm, Quyền Huệ đầy đủ
vậy. Do sức của nhất niệm mà Quyền Huệ
đầy đủ, suy nghĩ kỹ càng, sẽ thấy
rành rành dễ hiểu).
“Hảo tư” (好思) nghĩa là quư vị hăy suy nghĩ kỹ càng, rành mạch,
rơ ràng, [sẽ thấy những điều đă nói] trọn
chẳng khó hiểu. Do vậy, niệm lực chẳng thể
nghĩ bàn, nhất là trong giáo pháp Đại Thừa, đức
Phật thường nói: “Hết
thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, niệm lực
chẳng thể nghĩ bàn! Thiện niệm
th́ Phong Thủy chẳng tốt đều biến thành tốt.
Ác niệm th́ Phong Thủy tốt liền biến thành
xấu. Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng mà!
Tâm tưởng có sức mạnh to lớn ngần ấy.
V́ sao chúng ta chẳng nghĩ thiện? V́ sao cứ nghĩ
ác? Từ nay về sau, nhất định phải hạ
quyết tâm, niệm niệm đều tương ứng
với thiện, chẳng để cho mảy may bất
thiện xen tạp. Đấy là đệ tử Phật
thật sự. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng
tôi giảng tới chỗ này!
Tập 1472
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh, thứ
mười một. Đoạn lớn thứ hai:
(Sớ)
Trần sở vấn trung, hữu nhị thập vân hà, tổng
thập nhất đoạn, đoạn các thập cú, thành
nhất bách nhất thập chủng đức.
(疏) 陳所問中,有二十云何,總十一段,段各十句,成一百一十種德。
(Sớ: Trong phần nêu bày những câu hỏi, có
hai mươi điều “như thế nào”? Tổng cộng
là mười một đoạn, mỗi đoạn có
mười câu, hợp thành một trăm mười thứ
đức).
Tiếp
đó, Thanh Lương đại sư đă giới thiệu
đơn giản về cương mục ấy.
(Sớ)
Đệ nhất đoạn, minh tam nghiệp ly quá thành
đức.
(疏) 第一段,明三業離過成德。
(Sớ:
Đoạn thứ nhất, chỉ ra ba nghiệp
ĺa lỗi sẽ trở thành đức).
Điều
này hết sức trọng yếu. “Tam nghiệp” là thân, ngữ, ư. Trong thế gian này,
thân, ngữ, ư của phàm phu đều là lầm lỗi.
Trong thời đại hiện tại, có thể nói là sai lầm
nghiêm trọng!
Học
Phật, chúng ta đều tin sâu nhân quả. Tuy chẳng phải
là như trong Tịnh Nghiệp Tam Phước đă nói, [“tin sâu nhân quả” trong ấy]
nhằm nói với hàng Bồ Tát. “Tin
sâu nhân quả” đối với các Ngài, sẽ đặc
biệt là “niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”.
Nói theo lũ người b́nh phàm chúng ta, [“tin sâu nhân quả” có nghĩa là] thiện tâm, thiện
hạnh, quyết định đắc thiện quả.
Quả báo có khi là ở trong đời này, có khi thuộc về
đời kế, hoặc đời sau nữa, quyết
định chẳng hư dối, thật đấy! V́ thế,
trước hết, chúng ta phải tin tưởng nhân quả
ba đời, phải tin con người có đời
trước, có đời sau. Trong xă hội hiện tại,
chúng ta thường nghe người ngoại quốc nói tới
nhân quyền. Có người đến hỏi tôi, thậm
chí trong hội nghị quốc tế, có người hỏi
tôi: “Thưa pháp sư! Thầy đối với vấn
đề nhân quyền có cách nh́n như thế nào?” Mọi
người đều hết sức coi trọng vấn
đề này. Con người có quyền ǵ vậy? Nếu
nói con người thật sự có quyền, tôi hy vọng
năm nào cũng là năm mười tám tuổi, có làm
được hay không? Chẳng làm được! Quư vị
mỗi năm một già nua hơn. Từ sáu mươi hoặc
bảy mươi tuổi trở đi, mỗi năm một
kém hơn, lấy đâu ra nhân quyền?
Có
người hỏi, đời người rốt cuộc
có ư nghĩa ǵ? Sống trên thế giới này, rốt cuộc
có giá trị ǵ? Khá nhiều mệnh đề trong triết
học thảo luận chuyện này! Nói theo Phật pháp, thảo
luận những vấn đề ấy đều chẳng
phù hợp khít khao với thực tế, chúng đều thuộc
loại Bất Tương Ứng Hành Pháp. Đức Phật
đă dạy về thực tế rất tuyệt. Đức
Phật bảo con người sanh vào thế gian để
làm ǵ? V́ sao sanh vào đây? Đức Phật dạy: “Nhân sanh thù nghiệp” (Đời
người nhằm đền trả nghiệp). Quư vị
thấy một câu nói gồm bốn chữ ấy đă giải
đáp rành mạch, rơ ràng: Đền trả nghiệp báo
trong đời quá khứ của quư vị! Trong đời
quá khứ, quư vị tu thiện tích đức, đời
này mới được làm thân người hưởng phước.
Trong quá khứ đă tu tập có phước báo [nên mới
được như vậy]. Nếu trong đời quá khứ
chẳng tu phước, sẽ phải chịu quả báo bần
tiện. V́ thế, cùng được làm thân người,
[mà có] giàu, nghèo, sang, hèn, yểu, thọ, thảy đều
chẳng giống nhau. Trong Phật pháp, đă nói rất rơ
ràng, cùng được làm thân người như nhau, tức
là dẫn nghiệp tương đồng, [nghiệp ấy]
dẫn dắt chúng ta đến thọ sanh trong loài người,
nghiệp ấy (dẫn nghiệp) giống như nhau, nhưng
măn nghiệp khác nhau. Măn nghiệp là nghiệp thiện hay
ác, tức là trong đời quá khứ đă tạo nghiệp
thiện hay ác khác nhau!
Hiểu
rơ chân tướng sự thật này, tự nhiên sẽ hiểu
rơ ư nghĩa của đời người là ǵ! Điều
quan trọng nhất trong đời người là tăng
cao đức hạnh của chính ḿnh, nâng cao trí huệ của
chính ḿnh, từng bước tiến cao hơn trong mười
pháp giới. Có ư nghĩa ấy! Đó là “có giá trị”. Quyết
định chớ nên ở trong thế gian này tranh giành tiếng
tăm, lợi dưỡng, tranh giành vinh hoa, phú quư. Thưa
cùng chư vị, sẽ tranh chẳng được. Trong
mạng có, quyết định sẽ có. Trong mạng chẳng
có, dùng phương pháp ǵ để tranh lấy, cũng
đều chẳng giành giật được! Do vậy,
nói rơ ràng, nói minh bạch chuyện này, vẫn là Phật pháp!
Đoạn
kinh văn này, nói đến chỗ rốt cùng, đức
Phật dạy chúng ta “tam nghiệp
ly quá” (ba nghiệp ĺa lỗi). Quư vị thấy trong kinh
Vô Lượng Thọ, đức Phật đă nói. Các
đồng học trong Tịnh Tông chúng ta niệm kinh Vô
Lượng Thọ nhiều nhất. Khá nhiều đồng
học dùng kinh ấy làm kinh nhật tụng, tốt lắm!
Trong kinh, đức Phật đă dạy chúng ta: “Thiện hộ khẩu nghiệp,
bất cơ tha quá” (Khéo giữ ǵn khẩu nghiệp, chẳng
chê bai lỗi lầm của người khác), xếp chuyện
này làm điều thứ nhất. Quư vị hăy ngẫm xem: Do
ư nghĩa ǵ vậy? Thông thường, trong kinh luận, hễ
nói tới ba nghiệp, đều là [nói theo thứ tự]
thân, khẩu, ư. Kinh Vô Lượng Thọ xếp khẩu
nghiệp làm đầu, thứ hai là nói tới thân, thứ
ba là nói tới ư. Đấy là chỉ rơ: Phàm phu dễ tạo
nghiệp nhất là khẩu nghiệp, hữu ư hay vô t́nh!
Phê phán, hủy báng người khác, bịa đặt đồn
thổi, những tội nghiệp ấy rất nặng!
Chẳng biết tự ḿnh phản tỉnh, chuyên môn làm khó dễ
người khác! V́ thế, đức Phật xếp
điều này làm điều đầu tiên. Ngài dạy
chúng ta “thiện hộ khẩu
nghiệp, bất cơ tha quá”. Người khác có lỗi
lầm, chớ nên nói! Thấy người khác phạm lỗi
lầm, quư vị thấy ngay cả Đệ Tử Quy cũng
dạy chúng ta như vậy, lập tức phải phản
tỉnh xem ta có phạm lỗi ấy hay không? “Hữu tắc cải chi, vô tắc
gia miễn” (Hễ có bèn sửa đổi, không có bèn càng
cố gắng hơn). Hễ có, ngay lập tức sửa
đổi; chẳng có th́ phải cổ vũ chính ḿnh, chớ
nên phạm lỗi lầm ấy!
Đặc
biệt là trong phẩm kinh này, tức phẩm Tịnh Hạnh,
làm thế nào để trong cảnh giới thuận hay nghịch,
trong duyên thiện hay ác, ba nghiệp ĺa lỗi để trở
thành đức? Ở đây, Phật, Bồ Tát chỉ dạy
chúng ta. Chúng ta phải thật sự mong học, thật sự
mong thành tựu, học bắt đầu từ chỗ
nào? Tôi đă nói rất nhiều, nhất định phải
học từ Đệ Tử Quy. Đệ Tử Quy có ba
trăm sáu mươi câu, mỗi câu gồm ba chữ, tổng
cộng là một ngàn lẻ tám mươi chữ. Phải
thực hiện từng câu, từng chữ, thật sự
làm được. Xác thực là mô tả giống hệt
cuộc sống, ngôn hạnh, hành vi, khởi tâm động
niệm của chúng ta, ghi chép lại đúng như vậy.
Người ấy đă trọn đủ cơ sở
để “thành đức”.
Đại thánh đại hiền thế gian và xuất thế
gian đều lấy những điều này làm cơ sở,
kiến lập Thập Thiện Nghiệp từ cơ sở
này. Chư vị nhất định phải biết: Nói
theo Phật pháp, Thập Thiện Nghiệp là pháp nhân thiên, Thượng
Phẩm Thập Thiện sanh lên trời, sanh vào Dục Giới
Thiên. Trung Phẩm Thập Thiện được làm thân
người. Hạ Phẩm Thập Thiện là A-tu-la,
la-sát, có phước báo. Phước báo do đâu mà có? Do tu từ
đời quá khứ, chúng ta chớ nên không biết điều
này!
Chẳng
có Đệ Tử Quy, Thập Thiện sẽ chẳng làm
được. Chẳng có Thập Thiện, Tam Quy, Ngũ Giới
sẽ làm không được. Chẳng có Tam Quy, Ngũ Giới,
các đồng học tại gia sẽ chẳng hành Bồ
Tát Giới được. Nói tới giới luật, chính
là nói tới đức hạnh. Cho nên chúng ta phải thật
sự làm, làm bắt đầu bằng Đệ Tử
Quy, nỗ lực dùng một năm hoặc nửa năm
để thực hiện. Đă có cơ sở Đệ
Tử Quy, niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh
Độ, sẽ có phần trong Phàm Thánh Đồng Cư
Độ, thật sự có thể sanh về đó
được. Nếu chúng ta ngay cả Đệ Tử
Quy cũng làm không được, dẫu niệm Phật
hiệu nhiều đến mấy, mỗi ngày niệm
mười vạn tiếng, hai mươi vạn tiếng,
sẽ như cổ nhân đă nói: “Gào toạc cổ họng vẫn uổng công”, chẳng
thể văng sanh! Nếu quư vị hỏi v́ sao ư? Đức
Thế Tôn giới thiệu Tây Phương Cực Lạc
thế giới, quư vị thấy ba kinh Tịnh Độ
nói “thiện nam tử, thiện
nữ nhân”, chữ “thiện”
ấy trọn đủ Thập Thiện. Đương
nhiên là Thượng Phẩm Thập Thiện, chẳng phải
là Trung Phẩm, v́ Tây Phương Cực Lạc thế giới
đều là “chư thượng
thiện nhân, câu hội nhất xứ” (các vị thượng
thiện nhân hợp lại cùng một chỗ). Thượng
Thiện: Dùng Đệ Tử Quy làm cơ sở để
tu Thập Thiện Nghiệp th́ là Thượng Thiện. Chẳng
có Thập Thiện Nghiệp Đạo, chỉ có Đệ
Tử Quy, trong Phật pháp có thể nói là Trung Phẩm Thiện,
hoặc Trung Hạ Thiện, chẳng phải là Thượng
Thiện. Nó (Đệ Tử Quy) kết hợp cùng Thập
Thiện Nghiệp, sẽ biến thành Thượng Thiện.
Quư vị nghĩ xem: Chuyện này quan trọng lắm, chúng
ta nhất định phải làm từ chỗ này!
Hiện
thời là thời kỳ Mạt Pháp, kinh Lăng Nghiêm đă
nói rất hay: “Tà sư thuyết
pháp như cát sông Hằng”. Chúng ta học Phật th́ học
ở nơi đâu? Ở đâu là đạo tràng Phật
thật sự? Thưa cùng chư vị, Phật, Bồ Tát
đại từ đại bi, đă sớm
trao môn phương tiện cho chúng ta. Chỉ cần
chúng ta thành tâm thành ư đoạn ác tu thiện, chỗ nào
cũng đều là đạo tràng. Phật pháp trọng
thực chất, chẳng trọng h́nh thức. Ví như Tam
Quy, Ngũ Giới, cho đến Bồ Tát Giới, chính
ḿnh có thể đối trước h́nh tượng của
Phật, Bồ Tát để phát thệ thọ giới, sẽ
có thể đạt được, nhưng đối với
giới xuất gia th́ không được! Giới xuất
gia nhất định phải là tam sư thất chứng,
tối thiểu phải có năm vị tỳ-kheo, hoặc
ba vị tỳ-kheo, hoặc hai vị tỳ-kheo chứng
minh. Viên măn là mười vị pháp sư truyền giới.
Tam sư thất chứng, tôn chứng A Xà Lê. Nhưng có t́m
được mười vị pháp sư hay chăng?
Đă chẳng t́m được từ lâu rồi! Lời
này do chính Ngẫu Ích đại sư đă nói vào đời
Minh. Ngẫu Ích đại sư nói: “Sau triều đại Nam Tống, Trung Hoa chẳng
có tỳ-kheo nữa!” Người xuất gia thọ giới
xuất gia là h́nh thức, có h́nh dáng tỳ-kheo, chẳng có
thực chất của tỳ-kheo! V́ sao? Chẳng hành tŕ giới
luật!
Ngẫu
Ích đại sư cũng là Phật, Bồ Tát tái lai, chẳng
phải là phàm nhân. Quư vị xem bản chú giải Di Đà
Kinh Yếu Giải của Ngài. Nói thật thà, một đời
này, quyển sách tôi thích đọc nhất là chính là cuốn
Yếu Giải của lăo nhân gia, đúng là viết hay quá, quá
viên măn! Trong quá khứ, tôi ở Mỹ, đă có người
từng hỏi tôi. Người ấy nói: “Thưa pháp
sư! Kinh điển trong Đại Tạng Kinh nhiều
ngần ấy, nếu chỉ cho thầy học một bộ
kinh, thầy sẽ chọn bộ nào?” Tôi chẳng có mảy
may đắn đo, [đáp] “tôi chọn Di Đà Kinh Yếu
Giải của Ngẫu Ích đại sư”. Tôi thích bộ
kinh ấy, tôi cũng rất ưa thích giảng bộ kinh ấy.
Trong một đời, giảng kinh nhiều ngần ấy,
đều là v́ người khác khải thỉnh, yêu cầu,
chẳng phải là do ư ḿnh. Nếu do ư ḿnh, suốt một
đời, tôi sẽ giảng Di Đà Kinh Yếu Giải.
[Tác phẩm ấy] hay đến mức độ nào? Ấn
Quang đại sư tán thán, quư vị thấy trong Văn
Sao, Ngài không chỉ nói một lần. Tổ Ấn Quang nói:
“Dẫu cổ Phật tái lai viết
chú giải cho kinh Di Đà, vẫn chẳng thể hay
hơn được”. Lời ấy tán thán đến
cùng cực! Phật đến viết chú giải cho kinh Di
Đà, đều chẳng có cách nào viết hay hơn tổ
Ngẫu Ích được! Chúng ta hăy nghĩ xem: Rất nhiều
người biết tổ Ấn Quang là Tây Phương Cực
Lạc thế giới Đại Thế Chí Bồ Tát hóa
thân tái lai. Lời ấy thốt từ miệng của
Đại Thế Chí Bồ Tát. Ngẫu Ích đại
sư là hạng người nào? Nếu Ngài chẳng phải
là A Di Đà Phật tái lai, khẳng định sẽ là Quán
Thế Âm Bồ Tát tái lai. Nếu không, sẽ chẳng viết
được, chẳng thể viết hay như thế
được! Chúng ta chớ nên không biết.
Do
vậy, học Giáo, tu hành quư ở chỗ thâm nhập một
môn, huân tu lâu dài. Nhưng trong thời kỳ Mạt Pháp, thật
ra, người có thể hiểu Yếu Giải cũng chẳng
nhiều lắm. Thuận tiện nhất vẫn là kinh Vô
Lượng Thọ do lăo cư sĩ Hạ Liên Cư hội
tập, dễ hiểu! Lại c̣n giới thiệu Tây
Phương Cực Lạc thế giới rất tường
tận. Bản kinh ấy là sách hướng dẫn về Tây
Phương Cực Lạc thế giới, là sách thuyết
minh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chúng ta phải
biết tôn trọng, phải nên nghiêm túc học tập. Bắt
đầu làm từ chỗ nào? Nhất định phải
thực hiện từ “tam nghiệp
ly quá thành đức”. Bước ban đầu,
phương tiện sơ khởi là Đệ Tử Quy, Thập
Thiện Nghiệp Đạo Kinh, đó là tại gia cư
sĩ; sau đấy mới thọ tŕ Tam Quy, Ngũ Giới,
niệm Phật thật sự sanh về Tịnh Độ.
Nếu là người xuất gia, c̣n phải thêm một bộ
Sa Di Luật Nghi, mười giới, hai mươi bốn
môn oai nghi. Ngẫu Ích đại sư nêu gương cho
chúng ta thấy. Ngài xuất gia, thọ giới tỳ-kheo,
thọ giới Bồ Tát. Sau khi đă thọ bèn thoái lui giới
tỳ-kheo. V́ sao? Giới tỳ-kheo chẳng làm được.
Hơn nữa, khi truyền pháp của giới tỳ-kheo, chẳng
có năm vị tỳ-kheo thật sự! Lăo nhân gia bảo,
ở Trung Hoa từ sau đời Nam Tống trở đi,
chẳng có tỳ-kheo thật sự, toàn là danh tự tỳ-kheo,
hữu danh vô thật! V́ thế, lăo nhân gia thoái lui tỳ-kheo
giới, suốt đời tự xưng là Bồ Tát Giới
sa-di, danh xứng với thật, đúng thật, chẳng giả.
Một
người đại tu hành như vậy, một người
tu hành thật sự có thành tựu như vậy thị hiện
như thế đó. Học tṛ của Ngài (học tṛ của
Ngẫu Ích đại sư) là Thành Thời, chúng ta thường
nói là “đồ đệ”.
Pháp sư Thành Thời cũng rất lỗi lạc. Sau khi Ngẫu
Ích đại sư viên tịch, đối với trước
tác trong suốt một đời của lăo nhân gia, pháp
sư Thành Thời đă thay Ngài chỉnh lư, thay Ngài khắc
ván lưu thông. Công lao ấy rất lớn! Do sư phụ
đă xưng là Bồ Tát Giới sa-di, chính pháp sư
cũng không dám xưng là sa-di. Ta thấy trong văn
chương của Ngài, cuối bài Ngài ghi là “Bồ Tát Giới xuất gia
ưu-bà-tắc”, tức là cư sĩ xuất gia.
Ưu-bà-tắc là tại gia cư sĩ, Ngài thêm vào hai chữ
“xuất gia”, thành “xuất gia ưu-bà-tắc”. Ngài là người
đầu tiên dùng chữ “Bồ
Tát Giới xuất gia ưu-bà-tắc”, quư vị thấy
cổ nhân [làm như vậy đó].
Vào
những năm đầu thời Dân Quốc, cũng có vị
đại đức dùng kiểu xưng hô ấy, chính là Hoằng
Nhất đại sư. Chư vị đều biết:
Hoằng Nhất đại sư nghiên cứu giới luật,
lăo nhân gia cũng tự xưng Bồ Tát Giới xuất
gia ưu-bà-tắc. Đều là thị hiện cho người
đời sau thấy, khiến cho người đời
sau biết hổ thẹn. Nhưng trên h́nh thức, có cần
phải thọ giới hay không? Phải thọ! Chẳng thọ,
sẽ có những kẻ hiềm nghi, hủy báng, họ tạo
tội nghiệp. V́ chẳng để cho họ tạo khẩu
nghiệp, chúng ta cũng thọ. Tuy thọ, nhưng chính
ḿnh nhất định phải hiểu rơ ràng, giống
như Ngẫu Ích đại sư đă nói, quyết định
chẳng thể đắc giới. Đấy là sự thật
trong hiện tiền, tôi nói cho các đồng học biết
như vậy.
Ngoài
ra, muốn thật sự thọ tŕ giới luật, lúc tôi
mới học Phật, [khi ấy tôi] hai mươi sáu tuổi,
Chương Gia đại sư dạy tôi, Ngũ Giới,
Thập Giới, Bồ Tát Giới, đều có thể
đối trước tượng Phật, tự ḿnh phát
nguyện thọ tŕ. Chương Gia đại sư bảo
tôi: “Anh phải thật sự
hành! Chẳng cần thọ toàn bộ, điều nào anh có
thể làm được, anh bèn thọ điều ấy.
Có thể hành được hai điều, anh bèn thọ
hai điều. Mọi người chẳng thừa nhận,
nhưng Phật, Bồ Tát thừa nhận, thần hộ
pháp thừa nhận”. Chương Gia đại sư dạy
tôi điều ấy. Lần đầu tiên, tôi nghe một
câu nói như thế này: “Phật
giáo trọng thực chất, không coi trọng h́nh thức”,
Chương Gia đại sư nói [như thế đó].
Sau này, ở Tân Gia Ba, tôi gặp tổng thống Nạp
Đan[3],
chúng tôi dùng cơm với nhau. Ông ta bảo tôi, ông ta theo Ấn
Độ giáo, nguyên quán cũng là người Ấn Độ.
Ông bảo: “Tôi phục Phật
giáo nhất. Phật giáo trọng thực chất, không coi
trọng h́nh thức”. Tôi nghe câu ấy mà rởn da gà, ông
ta là nội hành (tu tập ngấm ngầm bên trong), chẳng
phải là ngoại hành, thật sự thấu hiểu, nghiễm
nhiên nói cùng một câu với Chương Gia đại
sư!
Do
vậy, chúng ta phải hiểu học Phật th́ phải thật
sự hành, coi trọng thực chất, không coi trọng
h́nh thức. Bản thân ta thọ giới, cũng chẳng
cần phải bảo cho người khác biết. Đối
với Ngũ Giới, có thể làm được mấy
điều, bèn thọ mấy điều. Chính ḿnh đối
trước Phật, Bồ Tát tuyên thệ, quyết định
chẳng vi phạm! Người xuất gia cũng giống
như vậy, Sa Di Luật Nghi là cơ sở, có thể đối
trước Phật, Bồ Tát, tự ḿnh thọ. Giới
tỳ-kheo, giới tỳ-kheo-ni th́ không được, nhất
định là phải có tam sư thất chứng truyền
trao. Bồ Tát Giới th́ có thể, có thể đối
trước Phật, Bồ Tát, tự ḿnh tuyên thệ thực
hiện. Mười giới trọng, bốn mươi
tám giới khinh trong kinh Phạm Vơng Bồ Tát Giới vốn
dành cho người xuất gia thọ tŕ. Các đồng học
tại gia thọ Bồ Tát Giới quá nửa là chọn
hành theo kinh Anh Lạc. Anh Lạc Bồ Tát Giới gồm
sáu giới trọng, hai mươi tám giới khinh. Bởi
lẽ, giới điều ít hơn, gần như ít
hơn một nửa, gồm sáu điều trọng giới
và hai mươi tám điều khinh giới. Chúng ta đọc
giới bổn ấy, điều nào có thể thọ th́ chúng
ta đối trước Phật, Bồ Tát tuyên thệ
để thọ. Làm không được, chớ nên miễn
cưỡng. Làm không được, cứ miễn cưỡng
thọ, quư vị thường phạm giới, phá giới,
điều ấy không tốt! Đó là tội càng thêm tội!
Phải hiểu điều này. Bất luận quư vị là
tại gia hay xuất gia, giới luật cơ sở nhất
chính là Đệ Tử Quy. Chẳng thể không vun bồi
kỹ lưỡng cơ sở này!
Do
vậy, nói đến chuyện “ĺa
lỗi thành đức”, trong đức có trí huệ, có đức
năng, có tướng hảo, không ǵ chẳng trọn
đủ. Những thứ ấy vốn sẵn có trong tự
tánh, chúng sanh và Phật chẳng hai! Trong kinh Hoa Nghiêm, đức
Phật đă nói rất hay: “Hết
thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng
của Như Lai, chỉ v́ vọng tưởng và chấp
trước mà chẳng thể chứng đắc”. Vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước là lỗi, lầm
lỗi! Tam nghiệp ĺa lỗi, trí huệ và đức
năng trong tự tánh của chúng ta hiện tiền. V́ thế,
hai mươi điều vấn đáp là tổng vấn
(câu hỏi tổng quát), bao gồm mười câu. Chúng ta có
thể xem trong phần kinh văn tiếp theo.
Đoạn
thứ hai:
(Sớ)
Đắc kham truyền pháp khí.
(疏)得堪傳法器。
(Sớ: Đáng kham làm pháp khí truyền thừa).
Chuyện
này chẳng dễ dàng! Đây là nói về chuyện ǵ? Truyền
nhân của Phật! Phật pháp đời đời truyền
thừa, quư vị phải hội đủ điều kiện
để có thể tiếp nhận, truyền thừa. Phải
có đủ những điều kiện nào?
Đương nhiên là nhất định phải trọn
đủ “tam nghiệp ly quá”
trong đoạn thứ nhất. Để truyền thừa,
trừ điều này ra, điều quan trọng nhất
là trí huệ! Trí huệ đă khai. Trí huệ chẳng khai, sẽ
chẳng thể truyền pháp. Chúng ta thấy một thí dụ
rất hay trong Thiền Tông: Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn ở
Hoàng Mai nhiều năm, gặp Huệ Năng bèn đem y
bát truyền cho Huệ Năng. Thần Tú theo Tổ nhiều
năm, là đệ tử thượng thủ trong các
đệ tử của Tổ, thường thay Tổ giảng
kinh, thuyết pháp, giáo hóa chúng sanh. Y bát của Ngũ Tổ
chẳng truyền cho Ngài, mà truyền cho Huệ Năng, do
nguyên nhân nào? [Thần Tú] chẳng khai ngộ, chẳng kiến
tánh. V́ thế, tiêu chuẩn đáng kham làm pháp khí truyền thừa
chính là minh tâm kiến tánh; đó là Thiền Tông. Giáo Hạ
th́ đại khai viên giải, người ấy mới có
năng lực tiếp nhận và truyền thừa đại
pháp. Về sau, Lục Tổ chỉ truyền pháp, không truyền
y bát. Pháp là ǵ? Dùng tâm ấn tâm, chứng minh cho quư vị, chứng
minh quư vị thật sự khai ngộ!
Trong
thế giới hiện thời, c̣n có hạng người ấy
hay không? Chúng tôi chẳng dám nói. Lăo cư sĩ Hoàng Niệm
Tổ đă từng bàn với tôi về vấn đề
này. Cụ nói trong xă hội hiện tiền, so trong thời
kỳ Mạt Pháp dài một vạn năm, đă một
ngàn năm trôi qua. Hiện thời bắt đầu một
ngàn năm thứ hai của thời Mạt Pháp. Theo ghi chép
của người Hoa, [kể từ khi] Thích Ca Mâu Ni Phật
diệt độ, đến nay là ba ngàn lẻ ba
mươi ba năm. Chánh Pháp một ngàn năm, Tượng
Pháp một ngàn năm, Mạt Pháp một vạn năm. Một
ngàn năm thứ nhất của thời Mạt Pháp đă
qua, nay là năm thứ ba mươi ba trong một ngàn
năm thứ hai. Cụ Hoàng bảo tôi: “Bất luận là
Hiển Giáo hay Mật Giáo, đều chẳng có người
khai ngộ. Đắc Định th́ c̣n có thể có, chứ
khai ngộ chẳng có!” Đối với chuyện đắc
Định, phải biết: Có Thiền Định thế
gian và Thiền Định xuất thế gian khác nhau. Thiền
Định thế gian tu thành công sẽ đến nơi
đâu? Đến Sắc Giới Thiên. [Đắc] Tứ
Thiền Bát Định, sanh vào Sắc Giới hoặc Vô Sắc
Giới, chẳng thoát khỏi lục đạo. Để
thoát khỏi lục đạo, phải tu Thiền Định
xuất thế gian, chỉ sợ là hiện tiền
cũng chẳng có. Phải hiểu loại thường thức
ấy.
Có
rất nhiều người không biết, thấy kẻ
khác nhập Định, nhập Định suốt mười
ngày hoặc nửa tháng, hoặc một tháng, hai tháng.
Người ấy ngồi đó, như như bất
động, mà cũng chẳng ăn, chẳng uống. Chờ
đến khi người ấy xuất Định, cho biết:
“Cảm thấy dường như chỉ có mấy phút”. Trên
thực tế, đă là mười ngày, nửa tháng, người
ấy cảm thấy chỉ là mấy phút. Đó là nhập
vào một thời gian và không gian khác, chiều thời gian và
không gian khác nhau! Tưởng là người ấy đă
đắc đạo. Chẳng phải vậy, cách biệt
đắc đạo và chứng quả c̣n xa lắm! V́ thế,
nếu quư vị chẳng thông hiểu giáo lư trong Phật
pháp, sẽ tạo thành hiểu lầm hết sức dễ
dàng. Có những kẻ do tu thành công, có những
người là bẩm sinh, hiện thời, nói là “công năng đặc dị”.
Trong Phật pháp th́ gọi là “thần thông”. Thiên Nhăn Thông, Thiên Nhĩ thông, cao
hơn chút nữa là Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông. Người
có năng lực ấy có phải là đă chứng quả
hay không? Cũng chưa chắc! Quư vị không hiểu Phật
pháp, sẽ chẳng có cách nào phân biệt. Thấy những
người thần kỳ ấy, tưởng họ là Phật
sống tái lai. Sai mất rồi!
Phật
pháp, chư Phật, Bồ Tát, A La Hán đều có thần
thông, [nhưng đều] không dùng. V́ sao chẳng dùng thần
thông để truyền pháp? V́ đối với thần
thông, yêu ma quỷ quái đều có thần thông. Trừ Lậu
Tận Thông ra, [những món thần thông khác], bọn chúng
đều có. [Sử dụng thần thông] giống như
nhau, chánh pháp và tà pháp chẳng có cách nào phân biệt. V́ thế,
đức Phật dùng giảng kinh để dạy học,
yêu ma quỷ quái chẳng thể làm như vậy. Biến
hiện pháp thuật, biến hiện ma thuật th́ chúng nó
có thể làm, chứ giảng kinh, thuyết pháp, bọn chúng
chẳng thể. V́ lẽ này, đức Phật dùng
phương pháp ấy (thuyết pháp) để giáo hóa chúng
sanh, chẳng dùng thần thông. Ngẫu nhiên dùng thần thông
để bổ trợ th́ được, chẳng thể
dùng nó làm phương thức chủ yếu để giáo
học, chẳng thể được! Chúng ta chớ nên
không biết chuyện này!
Căn
bản nhất của việc truyền pháp là ǵ? Phải
nên biết điều này, cơ sở [căn bản] nhất
là trọn đủ Tam Học Giới, Định, Huệ,
tŕ Giới, tu Định, phát Bồ Đề tâm. Trong Tịnh
Tông chúng ta, thật sự “phát Bồ
Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”, đấy
là “đắc kham truyền pháp
khí”, hạng người ấy quyết định văng
sanh trong một đời này. Văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới, chẳng cần nghĩ phẩm vị
cao hay thấp, không cần! Ngẫu Ích đại sư đă
v́ chúng ta thị hiện, chúng ta phải ghi nhớ giáo huấn
của lăo nhân gia. Ngài thường nói: “Nếu tôi chỉ có thể hạ hạ phẩm văng
sanh trong Phàm Thánh Đồng Cư Độ, tôi đă rất
thỏa măn”. Ngẫu Ích đại sư thị hiện
[như vậy đó]. Câu nói ấy rất có ư nghĩa. Có cần
phải tranh giành phẩm vị hay không? Chẳng cần! Tự
nhiên tăng tấn. Trong Phật pháp, chớ nên có ư niệm
cạnh tranh. Nói cách khác, vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, quư vị thảy đều buông xuống.
Phật pháp là pháp b́nh đẳng, Tây Phương Cực Lạc
thế giới là một thế giới b́nh đẳng.
Tuy nó xác thực có ba bậc chín phẩm. Bốn cơi, ba bậc,
chín phẩm thật sự có, giống như thế giới
Hoa Tạng xác thực là có bốn mươi mốt địa
vị Pháp Thân đại sĩ, nhưng như thế nào? B́nh
đẳng! V́ sao b́nh đẳng? V́ họ chẳng có vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước. Do vậy,
chẳng thể nói những phẩm vị ấy là có, mà
cũng chẳng thể nói chúng chẳng có. Quư vị phải
liễu giải chân tướng sự thật. Đấy
là đoạn thứ hai. Đoạn thứ ba là nói:
(Sớ)
Thành tựu chúng huệ.
(疏)成就眾慧。
(Sớ: Thành tựu các trí huệ).
Điều
này rất trọng yếu. “Chúng
huệ” là vô lượng trí huệ. Chúng ta vừa thấy
câu này liền hiểu: Thành tựu viên măn Hậu Đắc
Trí, cũng là “phương tiện
thiện xảo” như giáo pháp Đại Thừa
thường nói. Căn Bản Trí là một, như nhau. Hậu
Đắc Trí vô lượng vô biên. Giống
như một cội đại thụ, Căn Bản Trí
là cội rễ của nó, Hậu Đắc Trí là ǵ? Là cành,
lá, hoa, quả của nó, vô lượng vô biên. Căn Bản
Trí do từ Thiền Định mà đắc. Định
sanh ra Huệ. Nhân Giới đắc Định, nhân Định
khai Huệ. Hậu Đắc Trí là Căn Bản Trí trong
các thứ cơ duyên sai khác bèn khởi tác dụng, phương
tiện thiện xảo. V́ thế, trí huệ mới có thể
giải quyết hết thảy vấn đề. Bất
cứ vấn đề phức tạp nào, hễ gặp
Bát Nhă đều giải khai, chẳng có ǵ không giải khai
được. Cuối Thập Ba La Mật của Văn
Thù Bồ Tát có Phương Tiện, Nguyện, Lực và
Trí, bốn thứ ấy hợp thành phương tiện
thiện xảo, là Quyền Trí, là Hậu Đắc Trí. Câu
thứ tư:
(Sớ)
Cụ đạo nhân duyên.
(疏)具道因緣。
(Sớ: Trọn đủ nhân duyên tu đạo).
“Cụ” (具) là trọn đủ, “đạo”
(道) là tu đạo. Trọn đủ
nhân duyên tu đạo, điều này hết sức trọng
yếu! Quư vị thấy trong kinh Di Đà, đức Phật
đă dạy: “Chẳng thể
do chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà
được sanh về cơi ấy”. Đối với
thiện căn, tôi đă giảng kinh như thế nhiều
năm, tôi nói khá rơ ràng, dễ hiểu. Thiện căn là ǵ?
Có thể tin, có thể hiểu, đó là thiện căn. Đă
tiếp xúc, ta tin tưởng, chẳng hoài nghi. Đọc
kinh, nghe kinh, ta có thể lư giải. Đó là thiện
căn. Phước đức là ǵ? Phước đức
là có thể hành, có thể chứng. Ta có thể đem những
điều ta tin, ta hiểu, áp dụng vào cuộc sống
hằng ngày, sử dụng trong công việc, dùng trong xử
sự, đăi người, tiếp vật, phước
đức đấy! Nhân duyên th́ quá nửa là nói tới tăng
thượng duyên và thân nhân duyên thảy đều có. Trong
nhân duyên, quan trọng nhất là thầy. Thầy có thể
gặp, chứ chẳng thể cầu. Thứ hai là đồng
học, thứ ba là đạo tràng. Nếu duyên thù thắng,
há có lẽ nào chẳng thành công? Khá nhiều người thật
sự trọn đủ thiện căn và có phước
đức, nhưng nhân duyên không trọn đủ, thường
thoái chuyển, công phu tu học bị gián đoạn nửa
chừng, hoặc là đổi sang học theo tôn giáo khác.
Chúng ta cũng thường thấy, thường tiếp
xúc chuyện này. Nay đă hết thời gian rồi! Chúng
tôi giảng tới chỗ này!
**
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Chúng ta lại tiếp tục xem phần
Sớ của Thanh Lương đại sư, tức
đoạn thứ năm trong mười một đoạn
[của phần Thích Văn].
(Sớ)
Ngũ, ư pháp thiện xảo.
(疏)五、於法善巧。
(Sớ: Năm, thiện xảo đối với
pháp).
Thiện
xảo là đại dụng của trí huệ. “Thiện” (善) là
chẳng có lầm lỗi, “xảo”
(巧) là rất hay
khéo, thành tựu viên măn. Pháp bao quát quá rộng. Bất luận
là pháp thế gian hay pháp xuất thế gian, thường
nói là “nghịch thuận giai
phương tiện” (nghịch hay thuận đều
là phương tiện). Đối với thuận cảnh,
nghịch cảnh, thiện duyên, ác duyên, trong ấy chỉ
cần có trí huệ Bát Nhă, sẽ đều có thể đạt
tới thiện xảo tột bậc. Đến phần
sau chúng ta sẽ thấy. Thứ sáu…
(Sớ)
Tu Niết Bàn nhân.
(疏)修涅槃因。
(Sớ: Tu cái nhân Niết Bàn).
Đây
là chính ḿnh tu hành đạt tới chỗ tột đỉnh,
đấy là nói về tự tánh. Niết Bàn (Nirvāṇa) là tiếng Phạn,
có rất nhiều cách dịch, chúng ta chớ nên không biết.
Cách dịch thường thấy nhất là Diệt. Trong Tứ
Đế “Khổ, Tập, Diệt, Đạo”, Diệt chính
là Niết Bàn. Cái nhân của Niết Bàn là tu cái nhân bất
sanh bất diệt. Nói theo nguyên tắc, nguyên lư tổng
quát, chính là “buông xuống vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước”; đấy
là cái nhân của Niết Bàn. Chuyện này nói th́ dễ, thực
hiện đúng là rất khó! Bởi lẽ, Niết Bàn có
Đại, Tiểu, [tức là] Tiểu Thừa Niết Bàn
và Đại Thừa Niết Bàn khác nhau. Tiểu Thừa Niết
Bàn chỉ đoạn Kiến Tư, tức là đoạn Kiến
Tư phiền năo. Kinh Hoa Nghiêm gọi Kiến Tư là chấp
trước, [đoạn Kiến Tư là] đối với
hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều
chẳng chấp trước. V́ sao không chấp trước?
Người ấy có trí huệ, thật sự hiểu rơ “vạn pháp đều Không, phàm
những ǵ có tướng đều là hư vọng”, cho
nên không chấp trước. Chấp trước là sai lầm,
kinh Bát Nhă đă nói: “Hết thảy
các pháp vô sở hữu, rốt ráo không, chẳng thể
được”.
Các
nhà khoa học hiện thời đă phát hiện vật chất
do đâu mà có? Từ trong Không sanh ra Có, sát-na chẳng ngừng.
Mấy năm trước, các nhà khoa học đă phát hiện
điều này. Phát hiện này rất tương ứng với
những điều đức Phật đă dạy trong
kinh Bát Nhă. Trong kinh, đức Phật chẳng dùng danh từ
“vật chất”, mà dùng ǵ?
Dùng chữ Sắc. Sắc là vật chất. Sắc tức
là Không, Không tức là Sắc, Sắc chẳng khác Không, Không
chẳng khác Sắc, Sắc và Không chẳng hai. Đấy
chính là như khoa học nói về Không, Hữu, Không và Hữu
chẳng hai, Hữu là từ trong Vô mà sanh Hữu. Vật chất
là từ trong Vô mà sanh Hữu, thời gian tồn tại của
nó quá ngắn, diệt mất trong sát-na, diệt rồi, nó lại
sanh khởi. V́ thế, những tướng mà chúng ta thấy
là tướng liên tục, giống như nay chúng ta đang
nh́n vào màn h́nh TV. Nếu quư vị hiểu rơ đạo lư
này, quư vị sẽ hiểu sắc tướng trong màn h́nh
là chuyện như thế nào, chính là vô số điểm hợp
thành tia, các tia hợp thành h́nh ảnh. Tốc độ quá
nhanh, hiện ra những h́nh ảnh ấy, chúng ta bị
chúng nó mê hoặc, tưởng chúng nó là thật, chẳng biết
căn bản là chúng nó chẳng tồn tại. Bốn câu ấy
của Tâm Kinh đặt thành một cặp câu đối
trước TV sẽ là hay nhất, không có ǵ hay hơn
được nữa! “Sắc
chính là Không, Không chính là Sắc, Sắc chẳng khác Không,
Không chẳng khác Sắc”. Đấy chính là chân tướng
của màn h́nh TV.
Các
tướng trong màn h́nh TV là như thế; sau đấy,
quư vị mới quay lại suy nghĩ: Sâm la vạn tượng
trong hiện tiền có bao giờ lại chẳng phải
là như thế? Nếu ai thật sự khế nhập cảnh
giới này, sẽ c̣n có ǵ chẳng buông xuống được!
Buông xuống chính là cái nhân của Niết Bàn. Tánh tịnh Niết
Bàn, Niết Bàn chẳng phải từ bên ngoài mà có, vốn sẵn
là như vậy. Hết thảy các pháp bất sanh bất
diệt, sanh diệt là duyên, chẳng phải là tánh, Pháp Tánh
bất sanh bất diệt. Do vậy, duyên sanh, duyên diệt,
duyên có sanh diệt. Tánh chẳng có sanh diệt. Sanh diệt
và bất sanh diệt là một, không hai, đấy mới
là thật sự khế nhập cảnh giới Niết
Bàn. Quư vị coi sanh diệt và chẳng sanh diệt như
hai chuyện; đó là phàm phu. Lục đạo phàm phu đều
có kiến giải này, đều có cách nh́n ấy, sai mất
rồi, đă thấy sai rồi!
Đoạn
thứ bảy:
(Sớ)
Măn Bồ Tát hạnh.
(疏)滿菩薩行。
(Sớ: Viên măn hạnh Bồ Tát).
Bồ
Tát tu lục độ vạn hạnh. Bồ Tát Hạnh vô
lượng vô biên, quy nạp lại sẽ không ngoài sáu loại
lớn ấy. Đó là chân tướng sự thật, chẳng
thể không nói rơ ràng, chẳng thể không nói minh bạch! Bồ
Tát hạnh là thật sự rốt ráo, trí huệ và phước
đức đều viên măn, nhưng phàm phu chẳng biết,
phàm phu đang mê, “khởi tâm
động niệm, không ǵ chẳng phải là tội”,
kinh Địa Tạng đă dạy như thế. Nhưng
người hiện thời chẳng đọc kinh Phật,
chẳng biết tới chân tướng của vũ trụ
và nhân sinh do những bậc đại thánh đại hiền,
chư Phật, Bồ Tát đă nói, họ không biết. Hoàn
toàn tùy thuận phiền năo và tập khí của chính ḿnh làm
chủ, há có lẽ nào chẳng tạo tội nghiệp? Người
thế gian dùng ǵ để làm tâm? Tham, sân, si, mạn. Tâm
tham (tham mà chẳng chán), sân khuể, ghen tỵ, ngu si, ngạo
mạn. Giáo pháp Đại Thừa gọi những điều
này là căn bản phiền năo. Phiền năo do đâu mà có?
Do mê mất tự tánh. Trong tự tánh vốn trọn đủ
viên măn Giới, Định, Huệ. Mê mất tự tánh, biến
Giới thành tham (xan tham), biến Định thành tán loạn,
biến Huệ thành ngu si, biến khiêm đức thành ngạo
mạn. V́ lẽ đó, trong giáo pháp Đại Thừa
thường nói: “Phiền năo chính
là Bồ Đề”, Thể của phiền năo và Bồ
Đề là một. Mê th́ gọi là phiền năo, tham, sân, si,
mạn, nghi; đă giác bèn gọi là trí huệ, đức hạnh,
Giới, Định, Huệ Tam Học.
Giáo
pháp Đại Thừa đă giảng rất rơ ràng, rất
minh bạch, chúng ta phải tin, phải giải, phải hành,
phải chứng. “Chứng”
có nghĩa là ǵ? “Chứng” là
như trước kia Phương tiên sinh đă nói: “Sự hưởng thụ cao nhất
trong đời người”, quư vị thật sự
đạt được. Ví như người trong thế
gian tham tài, bất luận là Trung Hoa hay ngoại quốc, cổ
nhân hay người hiện thời, có ai chẳng tham tài? Nhưng
chúng ta có tự hỏi chính ḿnh hay chăng? Của cải
có thể tham được hay không? Nếu có thể tham
được, do ai nấy đều có tâm tham, ai nấy
đều phát tài cả rồi! V́ sao có người phát
tài, có kẻ bần cùng? Có thể thấy: Của cải
chẳng do tham mà có. Dùng cái tâm tham, chắc chắn chẳng
đạt được của cải! Những ǵ quư vị
tham được vẫn y như cũ là những thứ
vốn có trong mạng. Người Hoa nói phải tin vào vận
mạng: “Một hớp uống,
một miếng ăn, không ǵ chẳng phải là tiền
định”. Kinh Cổ Lan (Q’uran) của đạo Y
Tư Lan (Islam) cũng nói “sáu niềm
tin”, trong ấy có một điều là “tin vào tiền định”. Chân Chúa (Allah) sẽ dựa
theo tiền định của mỗi người mà an bài
cho quư vị hưởng phước hay thọ tội. Nói
kiểu ấy hay lắm, nói rơ: Trong đời mỗi
người, hưởng phước cũng thế, mà chịu
tội cũng thế, đều do Allah an bài. Chẳng phải
do Allah yêu hay ghét quư vị, mà là thuận theo định nghiệp
trong đời trước của quư vị. Lời này nói
hay lắm!
Người
Hoa nói tới vận mạng, trong mạng của quư vị
có của cải, có thông minh, trí huệ, chức vị hay
không? Làm quan th́ trong mạng của quư vị có quan ấn
hay không, đều hết sức có lư! Đời trước
chẳng tu, đời này mong đạt được quyền
lực, quan chức, của cải, há có lẽ ấy?
Đạt được là do đă tu! Cách tu như thế
nào? Trong Lục Ba La Mật của Bồ Tát Hạnh, điều
thứ nhất là bố thí, tu bố thí. Bỏ ra của cải
[để bố thí], quư vị sẽ đạt được
của cải. Do vậy, người trong vận mạng
có tài sản sung túc, đó chính là quả báo đạt
được do kiếp trước tu tài bố thí. Trong
mạng có của cải to lớn, bất luận theo đuổi
nghề nghiệp ǵ, tài nguyên cuồn cuộn đưa tới.
Trong khá nhiều kinh luận, đức Phật đă
thường dạy, quư vị có thể tin tưởng hay
không? Quư vị có chịu bỏ ra của cải để
bố thí hay không? Người ta thường nói: Kiếm
được tiền rất khó khăn, chẳng muốn
thí xả. Hoặc là nghe trong Phật pháp có nói: “Bỏ một, được
báo cả vạn”, hay quá! Ta liền bỏ ra một
đồng, coi thử có phải là ngày mai sẽ có một
vạn đồng đưa lại hay không? Ôm ḷng hoài nghi,
ḷng cầu may, ḷng lươn lẹo chụp giựt, sẽ
chẳng đạt được phước báo đâu
nhé! Không chỉ là chẳng có công đức, mà phước
đức cũng chẳng có. Nhất định là phải
dùng cái tâm chân thành, phúc hậu! Ta bỏ ra tiền của,
chẳng cầu quả báo, mới đạt được
nhiều. Bỏ tiền của với hy vọng sẽ thu
được bao nhiêu quả báo, những ǵ quư vị có
được là những ǵ vốn có trong mạng, luôn luôn
là hữu hạn, chẳng phải là vô hạn. Chẳng có mong
cầu, sẽ là vô hạn; có mong cầu, bèn hữu hạn.
Do vậy, phải tin tưởng.
Do
pháp bố thí, đạt được thông minh, trí huệ.
Do vô úy bố thí, được khỏe mạnh, sống
lâu. Trong vô úy bố thí, đơn giản nhất, thuận
tiện nhất là ăn chay. Ta đă hiểu đạo lư
này, từ nay trở đi, chẳng ăn thịt chúng sanh
nữa, oán kết đối với chúng sanh mới có thể
hóa giải. Ăn thịt, sẽ vĩnh viễn kết
[oán thù], chẳng thể hóa giải được! Phải
biết những nỗi oán kết với chúng sanh sẽ là
oan oan tương báo chẳng xong, chẳng hết. Chuyện
này phiền toái lắm! Thật đấy, chẳng giả
tí nào! Chỉ có người thật sự giác ngộ, thật
sự hiểu rơ, sẽ sửa đổi từ nội
tâm của chính ḿnh, đem công đức do chính ḿnh đă tu
tập tích lũy trong một đời niệm niệm hồi
hướng cho oán thân trái chủ trong đời trước
và hiện tiền th́ mới có thể hóa giải tiêu trừ
được. Đại khái là có thể hóa giải, bảy
tám phần mười, c̣n có một ít chấp trước
hết sức kiên cố, khó lắm, chẳng dễ dàng!
Nhưng chính ḿnh phải hiểu: Đời đời kiếp
kiếp tu hành, đời đời kiếp kiếp chẳng
kết oán cùng chúng sanh, cũng phải mất một thời
gian mới có thể hóa giải vấn đề này, chẳng
phải là trong một đời này mà có thể hóa giải
hết được. Chuyện ấy chẳng làm
được đâu nhé!
Do
vậy, Bồ Tát tu hành đă đạt tới địa
vị cao, vẫn có ma chướng. Nói theo kinh này, chỉ
có một địa vị chẳng có ma chướng là Diệu
Giác. Diệu là quả, chẳng phải là địa vị
tu hành, người ấy (người đă chứng địa
vị ấy) chẳng có chướng ngại. Nói cách khác, từ
Đẳng Giác trở xuống (Đẳng Giác là địa
vị bốn mươi mốt [của hàng Pháp Thân đại
sĩ]) thảy đều có chướng. Nay chúng ta
đang ở trong địa vị phàm phu, nói theo giáo
nghĩa kinh Hoa Nghiêm, ngay cả địa vị Sơ Tín chúng
ta c̣n chưa đạt được. Chúng ta học từ
chỗ nào? Nhất định phải ghi nhớ, Nhẫn
Nhục Ba La Mật. Chuyện ǵ cũng đều phải
nhường nhịn, phải học chịu thua thiệt,
chẳng sợ bị lừa th́ mới có thể đào thải
hết sạch những phiền năo tập khí ấy, mới
có thể thành tựu đức hạnh của chính ḿnh.
Điều
khó có nhất trong đời này là chúng ta gặp pháp môn Tịnh
Độ. Pháp môn này được gọi là “Phật pháp đương sanh
thành tựu”. Chúng ta cũng chớ nên khinh dễ, sai sót;
“đương sanh thành tựu”
là thành công ngay trong một đời này! Công phu Lục Ba La
Mật không cần quá sâu, tức là có được một
hai phần. Chúng ta chia Ba La Mật thành một trăm phần,
đối với một trăm phần, chúng ta chỉ có
một, hai phần trăm là được rồi! Đừng
nói là một, hai phần [chẳng đáng kể], nó khởi
tác dụng sẽ có thể giúp quư vị văng sanh Tịnh
Độ, phải thật sự hành. Điều nào trong Lục Độ cũng đều
trọng yếu. Tài, pháp, vô úy trong bố thí đều thật
sự làm, chẳng c̣n tạo ác nghiệp nữa. Trong Tŕ Giới,
chúng ta nói tới giới điều cơ bản nhất,
nay chúng ta không chọn dùng Tiểu Thừa, mà dùng Đệ
Tử Quy của Nho gia để làm cơ sở. Hăy nghiêm
túc thực hiện Đệ Tử Quy, thực hiện Thập
Thiện Nghiệp.
Giáo huấn trọng yếu nhất
trong Thập Thiện Nghiệp chính là đức Phật dạy
chúng ta “thường niệm
thiện pháp”, tâm thiện; “tư
duy thiện pháp”, tư tưởng thiện; “quan sát thiện pháp” là hành vi
thiện, ba nghiệp đều chẳng bất thiện!
Sau đó, c̣n có một câu hết sức trọng yếu: “Chẳng để mảy may bất
thiện xen tạp”. Thượng Phẩm Thập Thiện
mà niệm Phật, há có lẽ nào chẳng văng sanh! Do vậy,
Tŕ Giới chẳng cần nói nhiều. Quư vị có Đệ
Tử Quy, có Thập Thiện, có Tam Quy, Ngũ Giới là được
rồi, đảm bảo quư vị được văng
sanh. Điều thứ tư là Nhẫn Nhục, hết sức
quan trọng. Nếu quư vị chẳng thể nhẫn, những
điều trước đó đều bị phá hoại.
Chính là như kinh Kim Cang đă nói: “Hết thảy các pháp do Nhẫn mà thành”. Người
ta thành tựu là do nhẫn nại; quư vị chẳng nhẫn,
sẽ bị phá hoại, sẽ chẳng thể thành tựu.
Có thể nhẫn th́ mới có tinh tấn, mới có Thiền
Định, mới có trí huệ. Do vậy, Nhẫn là then
chốt, nhất định phải coi trọng. Nói thông thường,
cương lănh của Bồ Tát hạnh là Lục Độ,
Tứ Vô Lượng Tâm, phải dưỡng! Tứ Vô Lượng
Tâm là từ bi hỷ xả. Từ bi hỷ xả chính là Tứ
Vô Lượng Tâm. Thứ tám:
(Sớ)
Đắc Thập Lực trí.
(疏)得十力智。
(Sớ: Đắc trí Thập Lực).
Đây
là đoạn thứ tám, “đắc
Thập Lực trí”. Thập Lực trí th́ có Thập Lực
nơi quả địa Như Lai, mà cũng có Bồ Tát tu
hành Thập Lực nơi nhân vị (địa vị tu
nhân). Thập Lực nơi quả địa Như Lai,
trong phần trước, chúng tôi đă nói vài lần rồi,
đương nhiên là hễ gặp [điều này] trong
kinh văn, vẫn phải giảng. V́ sao? Chẳng làm
được! Thậm chí đă đọc trong phần
trước rồi, đọc xong, quên tuốt! Đó là chỗ
khác biệt giữa giáo viên trong Phật pháp và giáo viên trong
thế gian. Đức Phật hết sức từ bi, chẳng
ngại phiền phức, cứ nói lặp đi lặp lại
với chúng ta. Thầy giáo trong thế gian chẳng từ
bi như Phật! Quư vị thấy Nho gia thường nói: “Cử nhất ngung, bất
dĩ tam ngung phản” (Nêu lên một góc mà chẳng suy ra
ba góc c̣n lại), chẳng muốn dạy quư vị, quư vị
đần quá! Nhưng đức Phật chẳng vậy,
đức Phật có thể chẳng ngán phiền phức
mà nói với quư vị vô số lần, đúng là từ bi
đến tột cùng! Trong cửa nhà Phật, chẳng bỏ
một ai; v́ thế, gọi là “đại
từ đại bi”.
Đối
với Thập Lực của Phật, chúng tôi nói
đơn giản một chút.
-
Thứ nhất là “thị xứ
phi xứ trí lực”. Năng lực này có nghĩa là nói
rơ nhân quả báo ứng. Quư vị hành thiện, nhất
định đắc thiện quả. Quư vị tạo
ác, nhất định mắc ác báo. Đó gọi là Thị
Xứ (是處), nhân
quả tương ứng! Nói một kẻ làm lành mắc
ác báo, tạo ác mà đắc thiện báo, đó là Phi Xứ
(非處),
[nghĩa là] chẳng có chuyện ấy! Nhưng rơ ràng là thấy
có [những trường hợp như vậy] trong thế
gian. Kẻ ấy là người ác, [thế mà] phước
báo rất lớn; một kẻ khác là thiện nhân, nghèo khổ,
rất đáng thương, áo cơm đều thiếu thốn.
Đó là do nguyên nhân nào? Người lành chẳng có hảo
báo! Trong kinh, đức Phật đă dạy chúng ta: Kẻ
ác làm ác, nhưng đời trước kẻ đó đă tu
phước rất lớn; do tạo tác ác nghiệp, đă
chiết giảm phước báo. Sau khi đă chiết giảm,
kẻ ấy vẫn c̣n có dư phước. Ví như trong
mạng kẻ ấy có tài sản đến một ức,
do không điều ác nào chẳng làm, đă tổn giảm
ǵ? Đă tổn giảm chín ngàn vạn, kẻ ấy hăy c̣n
có của cải một ngàn vạn. Người thế
gian chúng ta thấy kẻ làm ác vẫn đang hưởng
thụ. Đúng thế, đúng là kẻ đó [đang
hưởng thụ], nhưng quư vị phải hiểu: Tài
sản của kẻ đó đă bị chiết giảm
chín phần mười mà chính kẻ đó chẳng biết!
Nếu
kẻ ấy chẳng làm ác, sẽ tuyệt lắm, kẻ
đó sẽ hưởng của cải bao nhiêu đời
chẳng hết. Đời đời kiếp kiếp bao
nhiêu đời chẳng hưởng hết. Đáng tiếc
là kẻ ấy chẳng hiểu đạo lư, không điều
ác nào chẳng làm, cho nên thiện nhân tích lũy trong nhiều
đời nhiều kiếp quá khứ đều bị tiêu
hao sạch trong đời này! Hưởng hết phước
báo, đại nạn xảy tới, đời sau là tam
đồ, địa ngục. Nếu quư vị có thể
thấy nhân quả ba đời, sẽ gật đầu,
chẳng sai! Quư vị chớ nên chỉ nh́n một đời
hiện tại này, quư vị phải nh́n vào quá khứ, phải
nh́n vào đời vị lai. Người tốt suốt
đời làm lành, vẫn bị bần cùng, cuộc sống
hết sức khó khăn là do đời trước chẳng
tu. Đời này tuy rất nỗ lực tu tập, kẻ ấy
mới miễn cưỡng được no ấm. Nếu
kẻ ấy chẳng tu, sẽ c̣n khổ hơn hiện thời!
Phải hiểu đạo lư này. Tuyệt đối chẳng
phải là “làm lành mắc ác báo, tạo ác được thiện
báo”, chẳng có đạo lư ấy! Nhất định phải
hiểu rơ ràng, phải hiểu minh bạch.
Thứ
hai là “nghiệp trí lực”.
Hết thảy các nghiệp do chúng sanh đă tạo trong
đời đời kiếp kiếp, đức Phật
đều biết. V́ thế, đức Phật thuyết
pháp khế cơ. Trong mỗi điều của Thập Lực
đều có chữ Trí, quư vị mới hiểu căn
nguyên của lực là do đâu mà có? Trí huệ. Do có trí huệ,
quư vị mới có năng lực ấy. Chẳng có trí huệ,
sẽ chẳng có năng lực ấy.
Điều
thứ ba là “định trí lực”, điều thứ tư là “căn trí lực”, điều thứ năm là “dục trí lực”. Dục vọng:
Hết thảy chúng sanh đều có dục vọng, chẳng
có ǵ đức Phật không biết! Điều thứ sáu
là “giới trí lực”, giới
phân (界分, ranh giới).
Điều
thứ bảy là “chí xứ trí
lực”, “chí xứ” (至處) là ǵ? Hết thảy chúng sanh trong đời sau sẽ
đến thọ báo ở nơi đâu, họ đến
chỗ nào, [đức Phật đều biết] rơ ràng, rành
rẽ. Tuy chúng ta chẳng đạt đến năng lực
nơi quả địa của Phật, Bồ Tát như vậy,
nhưng đọc kinh Phật nhiều, cũng sẽ biết
rất rơ chính ḿnh trong tương lai sẽ đi về
đâu! Ngẫm lại chính ḿnh trong một đời này,
khởi tâm động niệm là thiện hay ác? Ngôn ngữ,
tạo tác là thiện hay ác? Đại khái sẽ biết.
Thiện mà nếu chẳng thoát khỏi lục đạo
luân hồi, quyết định sẽ là phước báo
nhân thiên. Thượng phẩm thiện sanh thiên, trung phẩm
thiện sanh trong nhân gian, hưởng phú quư. Nếu chúng ta
khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác bất
thiện, niệm nào cũng đều nghĩ tổn người
lợi ḿnh, quả báo đương nhiên là ở trong tam ác
đạo. Tâm bất thiện, tư tưởng bất
thiện, lời nói và việc làm bất thiện, thường
ôm ḷng tổn người lợi ḿnh, đối với hết
thảy người, sự, vật, có ư niệm khống
chế và chiếm hữu, đấy là bất thiện. Những
ư niệm ấy chiết giảm phước báo của
chính ḿnh, mê mất trí huệ của chính ḿnh, đi vào tam
đồ, chớ nên không biết điều này!
Thứ
tám là túc mạng, “túc mạng
trí lực”. Túc mạng (宿命) là biết đời quá khứ của hết thảy
chúng sanh. Đời đời kiếp kiếp quư vị ở
trong đường nào, có h́nh dạng như thế nào, tên
là ǵ, quư vị đă làm những chuyện ǵ trong một
đời, [đức Phật] đều hiểu hết.
V́ lẽ đó, Phật, Bồ Tát thuyết pháp khế cơ
chẳng phải là không có đạo lư. Các Ngài hiểu biết
quư vị quá rơ, chẳng phải là nh́n vào đời này của
quư vị, mà là đời đời kiếp kiếp.
Thứ
chín là “Thiên Nhăn trí lực”,
quá khứ, hiện tại, vị lai Ngài đều trông thấy,
chính mắt thấy.
Cuối
cùng là “Lậu Tận trí lực”,
Lậu (漏) là phiền năo. Trong hội Hoa Nghiêm, chúng tôi đă
nói: Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước,
thảy đều đoạn sạch. Đấy chính là
mười thứ trí lực nơi quả địa Như
Lai.
Nơi
nhân địa, Bồ Tát cũng tu Thập Lực, điều
này càng quan trọng. V́ sao? Đối với quả địa
Như Lai, chúng ta chỉ đành nghe. Khi nào, phá một phẩm
vô minh, chứng một phần Pháp Thân, quư vị mới có
thể chứng đắc. Do Bồ Tát c̣n đang thuộc
địa vị tu nhân, chúng ta c̣n có chỗ để thực
hiện. V́ thế, Thập Lực của Bồ Tát hết
sức đáng cho chúng ta tham khảo.
1)
Điều thứ nhất trong Thập Lực [của hàng
Bồ Tát] là “phát Nhất Thiết
Trí tâm kiên cố lực”, phải phát tâm, phát [tâm nguyện]
cầu Nhất Thiết Trí. Sau khi đă phát cái tâm ấy, chớ
nên thoái chuyển. Nói cách khác cho mọi người dễ hiểu,
điều này cũng rất giống như trong Nho gia nói
đến “cái tâm hiếu học”.
Quư vị thấy có đúng hay không? Hiếu học rất
gần với chuyện này! Chính Khổng phu tử thường
nói: So với kẻ khác, Ngài chẳng có cảm thấy chính
ḿnh có ưu điểm ǵ, chẳng cảm thấy chính ḿnh
khác mọi người. Nhưng Ngài thừa nhận một
điều, Ngài nói: Đối với chuyện hiếu học,
chỉ sợ có rất nhiều người không bằng
Ngài, hiếu học mà! Điều này quan trọng. V́ thế,
chúng tôi cho rằng: Chuyện rất hiếu học của
Nho gia rất giống, rất gần gũi với câu
đầu tiên trong Thập Lực của Bồ Tát.
2)
Thứ hai, “bất xả chúng
sanh đại từ lực”. Chính là đối với
hết thảy chúng sanh phải b́nh đẳng, phải giống
như Quán Thế Âm Bồ Tát, mắt trông thấy, tay bèn
vươn tới. Ta đă thấy, ta đă nghe, ta sẽ
dùng năng lực của chính ḿnh để giúp đỡ
họ. Năng lực chẳng làm được, th́ sẽ
như cổ nhân đă nói: “Tâm
có thừa, mà chẳng đủ sức”. Tôi chẳng
đủ sức giúp đỡ quư vị, tôi bèn niệm Phật
hồi hướng cho quư vị. Tôi tụng kinh hồi
hướng cho quư vị. Có thể làm được chuyện
này để chúc phước quư vị, giúp quư vị tiêu
nghiệp chướng. C̣n như có hiệu quả hay không,
đó là chuyện khác. Tâm chúng ta đă làm hết sức rồi,
đó là tâm từ bi!
3)
Thứ ba, “cụ túc đại
bi lực”. Từ là ban vui, Bi là cứu khổ. Thấy
chúng sanh khổ sở, bèn chẳng đắn đo, tận
tâm tận lực giúp đỡ họ, cứu khổ, cứu
nạn.
4)
Thứ tư, “tín nhất thiết
Phật pháp tinh tấn lực”. Đối với Phật
pháp, bèn tu học dũng mănh, tinh tấn, quyết định
chẳng thoái chuyển. Quư vị nhất định phải
tin tưởng “hết thảy Phật pháp là pháp b́nh đẳng”.
Trong kinh Kim Cang, đức Phật đă nói rất hay: “Các pháp b́nh đẳng, chẳng
có cao thấp”. V́ thế, phải tôn trọng hết thảy
các pháp. Trong hết thảy các pháp, chúng ta chỉ có thể
học một pháp, thâm nhập một môn, huân tu lâu dài.
Đấy là tinh tấn lực. Kinh Hoa Nghiêm nói rất hay: “Một chính là hết thảy, hết
thảy chính là một”. Do vậy, nhập một pháp,
pháp nào cũng sẽ nhập. Thông một pháp, các pháp đều
thông. Phải hiểu Lư và Sự này, chúng ta mới có thể
thật sự chọn lựa một pháp môn để suốt
một đời tinh tấn chẳng lười nhác, quyết
định sẽ có thành tựu.
5)
Thứ năm là “tư hành Thiền
Định lực” (思行禪定力). Ngàn muôn phần đừng hiểu lầm Thiền
Định, ngỡ là chúng ta cũng phải tham Thiền.
[Hiểu như vậy] là sai lầm mất rồi! Mọi
người đều biết: Phật pháp nói “tám vạn bốn ngàn pháp môn”,
có nghĩa là ǵ? Tám vạn bốn ngàn phương pháp để
tu Thiền Định, chẳng có pháp nào không phải là tu
Thiền Định. V́ sao? Không tu Định, chẳng khai
huệ! Mục tiêu chung cực của Phật pháp là dạy
quư vị khai huệ. V́ thế, tám vạn bốn ngàn pháp
môn đều nhằm tu Thiền Định. Đây chính là
“một tức là nhiều, nhiều
tức là một, một và nhiều chẳng hai”. Chúng ta
niệm Phật, có phải là tu Thiền Định hay
không? Phải! Trong kinh Đại Tập, đức Thế
Tôn đă nói: “Niệm Phật
là vô thượng thâm diệu Thiền”. Không chỉ là Thiền
Định, mà c̣n là Thiền Định hết sức cao
minh. Mục đích niệm Phật là như kinh Di Đà
đă nói rất hay: “Nhất
tâm bất loạn”. “Nhất tâm” là Thiền Định,
bất loạn, trí huệ mở mang, từ Định
khai Huệ, nhất định phải hiểu đạo
lư này. Chúng ta cầu Phật, Bồ Tát gia hộ; Phật, Bồ
Tát gia hộ như thế nào? Quư vị đắc nhất
tâm liền gia hộ. Quư vị bất loạn, trí huệ mở
mang, bất luận vấn đề ǵ, đưa đến
trước mặt quư vị, sẽ đều giải quyết.
6)
Thứ sáu, “trừ nhị biên
trí huệ lực”. Chúng ta gọi “nhị biên” là Biên Kiến, là đối lập.
Chỉ có trí huệ lực th́ mới có thể diệt trừ
nhị biên. Nay chúng tôi tham gia rất nhiều hội nghị
quốc tế, thảo luận làm thế nào để hóa
giải xung đột. Trong hội nghị, tôi thường
nói: “Hóa giải xung đột
từ nội tâm của chính ḿnh”. Nội tâm của chính
chúng ta đối lập với người khác, đối
lập với sự, đối lập với vật.
Đối lập là Nhị Biên. Phải hóa giải điều
này, khiến cho thân tâm của chúng ta hài ḥa; sau đấy,
chúng ta mới có thể giúp đỡ người khác hóa giải
xung đột. Quư vị không thực hiện từ chỗ
này, quư vị thực hiện từ chỗ nào?
7)
Thứ bảy, “thành tựu
chúng sanh lực”. Chẳng có lực này, th́ cũng phải
có nguyện này. Niệm niệm hy vọng chúng sanh thành tựu,
giúp đỡ chúng sanh thành tựu. Chúng sanh tu giỏi
hơn tôi, tôi càng vui sướng, càng hoan hỷ. V́ sao? Họ
thành Phật sẽ đến độ tôi!
Quyết định chẳng có tâm ganh tỵ, quyết
định chẳng có tâm chướng ngại kẻ khác,
có thể tu tùy hỷ công đức.
8)
Thứ tám, “quán pháp Thật Tướng
lực”. Trong hết thảy thời, hết thảy chỗ,
thường dấy lên công phu quán chiếu. Nói thật ra,
chúng ta đọc tụng kinh văn, thường nắm vững
mấy câu là được rồi. Trong Phật giáo Trung
Hoa, đại đa số là dùng kinh Kim Cang. “Phàm những ǵ có h́nh tướng
đều là hư vọng”,
“hết thảy các pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt,
bóng”. Thường nhắc nhở chính ḿnh, biết Thật
Tướng của các pháp, không mê, chẳng đến nỗi
mê hoặc, chẳng đến nỗi thấy sai!
9)
Thứ chín, “nhập tam giải
thoát môn lực”. Tam giải thoát môn là Không, Vô Tướng,
Vô Nguyện, phải khế nhập. Cửa vào của ba thứ
giải thoát ở đâu? Cửa vô môn quư vị làm thế
nào để có thể tiến vào?
10)
Câu cuối cùng, “vô ngại trí lực”,
là như trong kinh Hoa Nghiêm đă nói: “Lư vô ngại, sự vô ngại, Lư Sự vô ngại, Sự
Sự vô ngại”. Bồ Tát tu mười thứ trí lực,
chúng ta phải nên học tập. À! Hôm nay đă hết thời
gian rồi. Chúng tôi giảng tới chỗ này!
Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Tịnh
Hạnh Phẩm
Phần 5 hết
[1] Trường
(field) là một khái niệm vật lư rất phức tạp.
“Trường” là một thực
thể vật lư, có thể hiểu thô thiển như một
khoảng không gian mà mỗi điểm trong ấy đều
có giá trị riêng biệt cho không gian và thời gian. Một
thí dụ thông thường được nói là “trường
điện” (electric field), được coi là một khoảng
không gian có điều kiện phát sanh từ hiện tượng
tương tác điện. Khi một điện tử
được đặt trong trường điện ấy,
nó sẽ tăng vận tốc.
[2] Chúng tôi dịch
câu này theo cách diễn giải trong trang nhà Trung Hoa Cổ Tịch
Bạch Thoại Giải Tích Hệ Lệ Hợp Tập,
phần Mạnh Tử Thích Chú.
[3] Ông này có tên
đầy đủ là Sellapan Rama Nathan, thuộc sắc dân
Tamil, sinh năm 1924, sinh trưởng tại Tân Gia Ba. Ông là
Tổng Thống thứ sáu Tân Gia Ba, nhiệm kỳ
1999-2011, kế nhiệm tổng thống Ong Teng Cheong
(Vương Đỉnh Xương). Ông Nathan cũng là
người đầu tiên làm tổng thống hai nhiệm
kỳ của Tân Gia Ba.