Đại
Phương Quảng Phật
Hoa
Nghiêm Kinh
Phẩm
thứ mười một
Tịnh
Hạnh Phẩm
Phần 52
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp
sư Thích Tịnh Không
Địa điểm:
Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ
ngày mồng Bảy tháng Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và
Minh Tiến
Tập 1565
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười
một, đoạn lớn thứ bảy trong phần Kệ
Tụng, xem từ bài kệ thứ mười bảy:
(Kinh)
Đắc
nhu nhuyễn thực, đương nguyện chúng sanh,
đại bi sở huân, tâm ư nhu nhuyễn.
(經)得柔軟食。當願眾生。大悲所熏。心意柔軟。
(Kinh: Được món ăn mềm, nguyện cho
chúng sanh, đại bi hun đúc, tâm ư mềm mỏng).
Hai bài kệ mười bảy và mười
tám cũng đều là nói đến thức ăn xin
được khi khất thực. Hai bài kệ trong phần
trước nói đến đồ ăn ngon và đồ
ăn dở. Đồ ăn ngon và đồ ăn “nhu nhuyễn” có ǵ sai khác? Có thể
nói đều là do sự ưa chuộng của mọi
người. Nhu nhuyễn và thô tháp có thể nói là phẩm
chất của thức ăn có tinh tế hay không? Nh́n từ
chỗ này! Do đó, nó cũng có những sai khác. Thô tháp th́
khá khó ăn, tại nông thôn thường gọi là “thô lương” (粗糧). Nói thật ra, đối với
người đă quen sống tại đô thị, thỉnh
thoảng ăn thô lương th́ cũng có phong vị đặc
biệt, nhưng chẳng thể ăn trong một thời
gian dài. Ăn lâu ngày, sẽ chẳng dễ tiêu hóa. Do
phương Nam và phương Bắc khác nhau, tức là mỗi
nơi khác nhau; do đó, nói “những
thứ sản xuất ở nơi nào, sẽ nhằm nuôi
người sống nơi đó”. Họ đă sống
từ bé ở nơi ấy, cuộc sống đă quen thuộc,
quen với thức ăn tại địa phương, những
thức ăn ấy [đối với họ] là bổ
dưỡng nhất. Nếu đổi sang nơi khác, sẽ
không quen nước, quen cái! Chúng ta thường nghe người
b́nh phàm nói kiểu này: “Chẳng
hợp thủy thổ”, có nghĩa là người ấy
chẳng quen với các món ăn sản xuất tại
nơi đó. Phương Nam và phương Bắc cách biệt
rất lớn. Khi phương Đông và phương Tây cách
xa nhau th́ cũng có sai biệt, ắt cần phải biết
những điều này. Ăn những thứ khác nhau, nhiệt
độ cũng khác nhau, thời gian chênh lệch cũng
khác nhau, thời gian làm việc và nghỉ ngơi cũng chẳng
giống nhau. Chẳng rời khỏi quả địa cầu
này, [thế mà] ở những chỗ khác nhau trên địa
cầu c̣n có sự biến hóa khác biệt to lớn ngần
ấy!
Chúng ta vừa thấy chữ “nhu nhuyễn” (柔軟) bèn hiểu
là món ăn ấy tinh tế, rất dễ tiêu hóa, và
cũng rất bổ dưỡng. Bồ Tát có được
món ăn ấy, bèn dẫn phát đại nguyện: “Đương nguyện chúng sanh,
đại bi sở huân, tâm ư nhu nhuyễn” (Nguyện
cho chúng sanh, đại bi hun đúc, tâm ư mềm mỏng). Nguyện
này đều là tự nhiên sanh khởi; bởi lẽ, khi Căn tiếp
xúc Trần, bi nguyện xứng tánh sẽ có thể sanh
khởi. Chúng ta xem một trăm bốn mươi mốt
nguyện trong phẩm Tịnh Hạnh, nếu trong cuộc
sống hằng ngày, chúng ta không cần suy tư, trăn trở,
tức là không cần “tác ư”, tự nhiên là trong cuộc sống từ
sáng đến tối, đối với những món ăn
trong ba bữa cơm, đối với những thức
ăn quư vị rất ưa thích hoặc không ưa thích,
đều có thể tự nhiên sanh khởi nguyện vọng
giống như Bồ Tát, vậy th́ chúc mừng quư vị,
công phu của quư vị đă đắc
lực! Nói “công phu đắc lực”
[tức là] quư vị có năng lực (chúng ta nói theo kiểu
hiện thời) khống chế t́nh tự của quư vị.
Đấy chính là “đại
bi sở huân” trong nguyện này!
Chư vị phải biết, nhà Phật nói
“từ bi”, người thế
gian nói “ái tâm”. Truyền thống
Trung Hoa nói là “nhân ái”, người
phương Tây nói là “ái tâm”
(ḷng yêu thương), ư nghĩa đều rất gần
gũi, nhưng từ bi, nhân ái, và ái tâm vẫn có một
chút sai biệt. Cảnh giới của từ bi cao hơn,
cao ở chỗ nào? Kể từ t́nh yêu thương cho
đến ḷng nhân ái của người thế gian, đều
là vẫn y như cũ chẳng ĺa khỏi t́nh chấp, trong
từ bi chẳng có t́nh chấp. T́nh (情) là ǵ? Thất t́nh. “Chấp”
(執) là chấp trước. Chấp trước là Kiến
Tư phiền năo. T́nh tự rất phức tạp, cổ
đại đức quy nạp nó thành bảy loại lớn,
tức là “mừng, giận, buồn,
vui, yêu, ghét, dục”. Bảy chữ ấy gọi là “thất t́nh”. Người Hoa
nói là “thất t́nh, ngũ dục”.
Chữ cuối trong thất t́nh là Dục (欲), tức
ngũ dục. Trong ngũ dục, bao gồm tài, sắc,
danh vọng, ăn uống, ngủ nghê, đấy là ngũ
dục. V́ thế, người thế gian yêu ghét đều
chẳng có cách nào ĺa khỏi thất t́nh, ngũ dục, nhưng từ
bi là buông xuống thất t́nh, ngũ dục. Thông thường,
để giới thiệu với mọi người, tôi chỉ
dùng những câu chữ đơn giản nhất, họ lư
giải rất dễ dàng! Từ bi là Ái trong lư tánh, hoặc [nói cách khác] là yêu thương theo lư trí. Người thế gian
nói đến Ái, trong ấy có cảm t́nh, khác hẳn! C̣n
như đại bi, [hoặc nói đầy đủ là] “đại
từ đại bi”, chính là yêu thương vô điều kiện, chẳng
kèm thêm bất cứ điều kiện nào. Nói theo Phật
pháp, sẽ là “xứng tánh ái”
(ḷng yêu thương tương ứng với tánh). Đấy
là Tánh Đức. Hết thảy chúng sanh đều có Phật
Tánh; do vậy, từ bi là Tánh Đức. Quư vị thấy
chúng ta trong cuộc sống hằng ngày, “đắc nhu nhuyễn thực” (được
cơm mềm mại), có thể hiểu theo nghĩa mở
rộng là trong một ngày, hễ gặp thuận cảnh,
thiện duyên, [những t́nh huống]
đó đều là “thông”, tức là có thể thông suốt. Trong thuận cảnh, thiện
duyên, những kẻ b́nh phàm thường sanh khởi tâm yêu
mến, trong ḷng yêu mến ấy có tâm tham, tham là phiền
năo. V́ thế, nhà Phật không nói là Ái, mà nói là “từ bi”. Trong từ bi chẳng
có phiền năo, chẳng có t́nh chấp.
“Tâm ư nhu nhuyễn”,
phải hiểu đạo lư này, chúng ta mới thật sự
biết dưỡng sanh. Rất khó có, trong những năm
qua, tiến sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật Bản
đă làm thí nghiệm với nước, chứng tỏ vạn
vật trong trời đất nẩy sanh biến hóa thuận
theo tâm niệm của chúng ta. Chúng ta biết nước là khoáng
vật, thực phẩm đặt trong bát cơm của quư
vị cũng có thể nói là “khoáng
vật”, tức là ăn thịt th́ nay nó cũng biến
thành một loại khoáng vật. Nó có thể chuyển biến
thuận theo tâm niệm của chúng ta. Chúng ta dùng ái tâm đối
đăi nó, nó sẽ phản ứng hết sức đẹp
đẽ. Chúng ta dùng tâm sân hận, tâm ghét bỏ, tâm chẳng
vui thích đối với nó, đúng là sắc, hương,
vị của nó đều giảm đi, thấp hẳn
xuống. Nếu chúng ta dùng tâm từ bi, tâm yêu thương
đối với nó, sắc, hương, vị đều
tăng cao, đều tốt hơn. Từ thức ăn của
chính ḿnh, chúng ta có thể làm thí nghiệm ấy. V́ thế, tiến sĩ Giang Bổn
Thắng bảo tôi, ông ta nói tín đồ tin tưởng tôn
giáo trước khi dùng cơm phải cầu nguyện, phải
chúc nguyện. Ông ta nói hết sức có lư, v́ sao? Chúng ta đă đem
năng lượng của thức ăn [nâng cao], ăn uống
nhằm bổ sung năng lượng, [cầu nguyện nhằm]
nâng cao năng lượng. Người Hoa nói là “sắc, hương, vị”,
tăng cao sắc, hương, vị! Tăng lên bao nhiêu? Mỗi
người mỗi khác! Ai nấy đều có ư niệm, ư
niệm có mạnh hay yếu khác nhau. Ư niệm rất mạnh, sẽ
tăng lên rất cao. Ư niệm rất b́nh thường
cũng có thể tăng lên, nhưng tăng lên với biên
độ không lớn!
Do vậy có thể biết, một người
thật sự tu hành, niệm nào cũng đều đối
đăi hết thảy vạn vật, hết thảy người,
sự, vật bằng tâm yêu thương chân thành. Do đó,
nếu người ấy cầu phước giống như
chúng ta, sẽ có sức mạnh to hơn chúng ta. Do nguyên nhân
nào? Tâm lượng của người ấy to lớn, tâm
từ bi to lớn. Tâm lượng của chúng ta chẳng
to như người ấy, khởi tâm động niệm
chỉ nghĩ đến chính ḿnh, chẳng nghĩ đến
người khác. Nếu khởi tâm động niệm có
thể nghĩ đến hết thảy chúng sanh, niệm
nào cũng đều giúp đỡ hết thảy chúng sanh,
niệm nào cũng đều giác ngộ hết thảy
chúng sanh, khởi tâm động niệm của người
ấy chẳng giống chúng ta. Phải hiểu đạo
lư này. Tụng kinh có công đức khác nhau, niệm Phật
có công đức khác hẳn, chúc phước có sức mạnh khác hẳn, hồi
hướng lợi ích chúng sanh cũng có sức mạnh
khác hẳn, phải cậy vào ǵ? Công phu tu dưỡng cơ bản trong
lúc b́nh thường khác nhau, bất đồng ở chỗ
này! Chúng ta hiểu rơ đạo lư này, liễu giải chân
tướng sự thật, chính ḿnh chẳng thể không nghiêm
túc nỗ lực. Hễ có lợi ích cho hết thảy
chúng sanh th́ sẽ thật sự lợi ích chính ḿnh. Chỉ
biết tự lợi, chẳng biết lợi ích chúng sanh,
sai mất rồi, chính ḿnh đạt được lợi
ích cũng rất hữu hạn. Trong giáo pháp Đại Thừa
thường dạy chúng ta, “tự
tha bất nhị”; do đó, lợi người mới
là thật sự lợi ḿnh! Nhất là khi người
khác gặp khó khăn, lúc người khác gặp tai nạn,
khi người khác bị
đau khổ, bức thiết cần
được kẻ khác giúp đỡ, chúng ta trông thấy,
nghe thấy, xác thực là người đă tu hành nhiều
năm trong Phật pháp (có một khoảng thời gian [tu
hành]), đă huân tập trong một khoảng thời gian như vậy, người
ấy trông thấy, nghe thấy, tâm từ bi của người
ấy sẽ có thể bị xúc động, sẽ tự
nhiên ch́a tay giúp đỡ người khác!
Giúp đỡ người khác, chớ nên
mong mỏi kẻ khác biết tới, mà cũng chẳng
mong được đền đáp. Điều này thuộc
về Tánh Đức. Nếu giúp đỡ người
khác mà hy vọng có kẻ sẽ biểu dương ta, hy vọng
được đền đáp; nói thật ra, biểu dương
cũng là đền đáp! Người khác khen ngợi quư
vị cũng là đền đáp. Đấy là phước
đức, chẳng tương ứng với Tánh Đức,
phải biết điều này. Tánh Đức không tiếng,
không mùi, là tự nhiên. Kinh Phật nói là “pháp nhĩ như thị” (法爾如是,pháp vốn là như vậy).
Tương ứng viên măn, về căn bản là chẳng có
khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước.
Hễ lục căn tiếp xúc, sẽ thực hiện rất
viên măn, tâm ư vĩnh viễn ǵn giữ sự nhu nhuyễn.
Tương phản với nhu nhuyễn là ương ngạnh.
Kinh Địa Tạng thường nói: “Chúng sanh trong cơi Diêm Phù Đề ương ngạnh,
khó giáo hóa”. V́ sao? Thành kiến rất sâu, phiền năo rất
nặng, chẳng biết “nhu nhuyễn là Tánh Đức, ương
ngạnh là phiền năo”. Do mê mất tự tánh, đă biến
sự nhu nhuyễn trong tự tánh thành ương ngạnh.
Ương ngạnh và nhu nhuyễn (mềm mỏng) là một Thể. Người giác ngộ th́
ương ngạnh liền biến thành mềm mỏng. Kẻ
mê hoặc th́ nhu nhuyễn biến thành ương ngạnh. Do vậy, chúng là một, chẳng hai! Liễu giải
chân tướng sự thật này, sẽ đều hiểu
rơ, đều buông xuống, bèn gọi là Trung Đạo, tức là nhập pháp môn Bất Nhị. Ư nghĩa này khá sâu,
quư vị phải chú tâm lănh hội.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta chỉ
cần gặp thuận cảnh, gặp thiện duyên, phải
nên dấy khởi ư nguyện này, thời thời khắc
khắc đừng quên bẵng tâm từ bi.
Đương nhiên, tốt nhất là đại từ, đại
bi, hy vọng hết thảy chúng sanh tiêu tai, miễn nạn.
Hiện thời, trong thế gian này, chư vị phải
thường chú tâm lắng ḷng quan sát. Cách quan sát như thế
nào? Quan sát bằng cách so sánh, sẽ dễ dàng giác ngộ. Ở ngay Hương Cảng
này, so sánh giữa mười năm
trước và mười năm sau của hiện thời,
so sánh giữa hai mươi năm trước và hiện
thời, so sánh giữa ba mươi năm trước và hiện tại.
Người Hoa nói ba mươi năm là một đời.
Do đó, cách viết chữ Thế (世) [trong tiếng Hán] là ba chữ Thập (十), [hàm nghĩa] ba mươi năm là một đời! Lần
đầu tiên tôi đến giảng kinh tại
Hương Cảng là năm 1977. Năm nay vừa vặn
ba mươi năm, là một đời rồi! Nghĩ lại
lúc vừa đến Hương Cảng, hoàn toàn khác hẳn
hiện tại! Thuở ấy, Hương Cảng đă
là một đại đô thị, tức là một đô thị
lớn của châu Á, là hải cảng tự
do, nhưng ḷng người nồng hậu hơn hiện
thời quá nhiều! Cư dân cũng chẳng đông
đúc như hiện thời. Thuở ấy, tôi đến
Hương Cảng, cao ốc cao nhất ở Hương
Cảng là năm mươi tầng, dường như
[cao ốc ấy] ở Tiêm Sa Trớ (Tsim Sha Tsui)[1], tôi nhớ nơi tầng cao nhất, cửa
sổ tṛn xoe. C̣n nhà ở b́nh thường th́ tôi đă thấy
[những ṭa nhà] mười mấy tầng, hai mươi
tầng. Đấy là những ṭa
nhà thông thường, chứ [cao ốc] ba, bốn
mươi tầng không nhiều lắm, chẳng giống
như hiện thời. Thuở ấy, thật sự c̣n có
thể thấy non xanh, nước biếc, h́nh như c̣n chưa
có công tŕnh lấp biển. Khoảng cách giữa Hương Cảng và
Cửu Long c̣n khá xa. Thuở ấy, c̣n dùng tàu thủy vượt
biển, chẳng có đường hầm dưới
đáy biển, mà cũng chẳng có xe điện ngầm!
Do vậy, so sánh, chúng ta sẽ hiểu cổ
nhân nói “thói đời ngày một
tệ”, dẫu khoa học kỹ thuật hiện thời
tiến bộ hơn xưa kia rất nhiều! Quư vị thấy
xưa kia chẳng có điện thoại cầm tay (cell
phone). Khi đó, tôi không có cell phone, chi phí điện thoại
quốc tế cũng rất cao, người b́nh phàm chẳng
thể sử dụng. Lúc ấy, điện báo (điện
tín) vẫn c̣n lưu hành. Điện tín thời đó giống
như tin nhắn ngắn (text message, short message service - SMS)
trong hiện thời, đúng là rất thuận tiện, rẻ
hơn điện thoại. Nghĩ lại cuộc sống
thời đó, t́nh người thuở đó nồng
đượm, hiện thời chẳng có, thua kém rất
ư là xa! Quư vị hỏi do nguyên nhân nào ư? Nguyên nhân nói
chung chẳng ngoài giáo dục. Trong giáo dục th́ đặc
biệt là giáo dục xă hội, [tức là nền giáo dục
giữa] gia đ́nh, nhà trường và xă hội, giáo dục
nhân quả thuở ấy vẫn c̣n rất rơ rệt, chứ
hiện thời chẳng có, mơ hồ!
Khi ấy, có TV, tôi nhớ TV thời ấy
dường như TV đen trắng th́ nhiều; về sau
mới có TV màu, đă là một thứ xa xỉ phẩm, chẳng
phải là nhà nào cũng đều có. Đó là chuyện của
ba mươi năm trước. Ba mươi năm đă
trôi qua, các đồng học và đạo hữu chúng ta gần
như đă khuất núi hai phần ba. Đương nhiên
là trong ấy bao gồm những
người di dân sang ngoại quốc,
số ấy cũng chẳng ít. Trước khi
[Hương Cảng] được trả lại [cho
Trung Quốc], không ít người đă di dân sang ngoại quốc.
Lúc đó, tôi khuyên họ đừng nên rời khỏi
Hương Cảng, họ chẳng nghe theo. Kết quả
là sau khi di dân, ở ngoại quốc, chúng tôi cũng thường
gặp gỡ, họ đều cảm thán nói: “Tôi chẳng
nghe lời thầy!” Nói thật ra, cuộc sống ở
nước ngoài chẳng thể tốt đẹp hơn sống
tại Hương Cảng, thật đấy. Chúng tôi có
kinh nghiệm là v́ đă ở ngoại quốc một thời
gian dài, đi khắp nơi, cho nên liễu giải nhiều
điều. Sai biệt lớn nhất là sai biệt văn
hóa. Bởi lẽ, nếu sang một quốc gia khác tức là đă thay đổi
hoàn toàn thành một hoàn cảnh văn hóa bất đồng,
sẽ tương đối khó thể thích ứng
được! Quư vị là người Hương Cảng,
sanh trưởng tại cuộc đất này, thân thích bằng
hữu đều ở bên này, đi sang ngoại quốc sẽ
chẳng có, hoàn toàn trật vuột!
Người sống trong thế gian này rốt
cuộc là v́ lẽ ǵ? Đấy là đại phương
hướng, đại mục tiêu, nói chung là phải chánh
xác, nhất là học Phật. Kẻ chẳng học Phật,
sẽ không có cái tâm cảnh giác này; kẻ học Phật phải
nên có. Nếu phương hướng và mục tiêu của
chúng ta trong suốt một đời này là vĩnh hằng,
bất biến, chắc chắn sẽ có thành tựu.
Bất quá, trong quá khứ, xác thực là tuy chúng tôi cũng đă học Phật mười mấy năm, nói thật
ra, vẫn chẳng đủ, chẳng thể nói là “không có
giác ngộ”, [tuy có, nhưng là] tiểu giác ngộ, chẳng thấu triệt, chúng
tôi thường nói là “công
phu không đủ, trí huệ cũng không đủ, đức
hạnh cũng không đủ”. C̣n may là nghiên cứu giáo
pháp, đọc kinh, từ đầu đến cuối dạy
học chẳng gián đoạn, chỉ cần là chẳng gián đoạn th́ nói chung
sẽ có tiến bộ. Dẫu tiến bộ
chậm chạp, nhưng do có thời gian tích lũy dài như
thế, dần dần tự nhiên cũng đáng kể. Từ
thuở ấy cho đến hiện thời, chúng tôi lại tích lũy ba mươi năm, ba
mươi năm ấy hết sức đáng quư. Cầu học,
tu đạo, càng đến lúc tuổi già, tiến bộ càng
nhanh chóng. Đấy là do tích lũy, kinh nghiệm phong phú; đó
là tu học chẳng ngừng. Nhà Phật dạy chúng ta
không ngừng buông xuống, buông xuống tập khí vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, phiền năo,
trí huệ sẽ dần dần mở mang, đối với
hết thảy người, sự, vật càng ngày càng hiểu
rơ, càng ngày càng minh bạch, càng nh́n càng biết rành rẽ.
Chúng tôi xác thực là kẻ căn tánh trung hạ, chẳng
phải là bậc thượng thượng căn. Bậc
thượng thượng căn tiếp xúc không lâu, sẽ
có thể triệt để buông xuống. Tuy thầy
đă dạy cho tôi cương lănh tu học, tôi là căn
tánh tiệm tu, chẳng phải là đốn căn, cứ
thuận theo thời gian bèn có tiến bộ. Nay mới hiểu
rơ, hiểu minh bạch, “triệt
để buông xuống chính là lợi ích lớn nhất”.
Tâm đại từ bi vốn sẵn trọn đủ trong tự tánh của hết thảy
chúng sanh. “Tâm ư nhu nhuyễn” cũng
là Tánh Đức, cũng là thứ vốn sẵn có trong tâm
tánh của chính ḿnh, chẳng đến từ bên ngoài! V́ thế,
nói chung, quư vị chỉ cần buông xuống tập khí phiền
năo. Phật pháp ở chỗ nào? Phật pháp sẽ tự
nhiên hiện tiền. Trước kia, thầy thỉnh thoảng
cũng nhắc đến, nhưng chúng tôi chẳng chú ư, chẳng
thể thấu hiểu! Đến khi chính ḿnh đă từng
bước tiến lên, khế nhập cảnh giới kha
khá, mới hoảng nhiên đại ngộ, mới hiểu
minh bạch, mới thấu hiểu những điều thầy
đă nhắc nhở,
chỉ dạy trước kia, mới
có thể lănh hội sự thị hiện của các bậc
đại đức xưa kia, mới có thể hiểu biết. Khi ấy, pháp hỷ hiện tiền, mới hiểu
câu nói “học nhi thời tập
chi, bất diệc duyệt hồ?” (học rồi thường xuyên tập luyện cũng
chẳng vui sao?) trong sách Luận Ngữ. Nói theo Phật pháp, sẽ là
“pháp hỷ sung măn, thường
sanh tâm hoan hỷ”.
Nh́n
ra xă hội và toàn thể thế giới trong hiện
thời, xác thực là giống như “tận thế” như các tôn giáo phương Tây
đă nói. “Tận thế” là
tai nạn, khẳng định là có tai nạn. Có phải là
sẽ thật sự tận thế hay không? Nếu nói theo
Phật pháp th́ sẽ chẳng hoàn toàn đúng như vậy!
V́ sao? Đức Thế Tôn đă nói, pháp vận của Thích
Ca Mâu Ni Phật là một vạn hai ngàn năm. Có tận thế
th́ cũng phải sau một vạn hai ngàn năm, cũng chẳng
thể thuộc trong một vạn hai ngàn năm này. Chư
vị đều biết pháp vận của Phật bao gồm
Chánh Pháp, Tượng Pháp, và Mạt Pháp. Chánh Pháp một ngàn
năm, Tượng Pháp một ngàn năm, Mạt Pháp một
vạn năm. Chánh Pháp và Tượng Pháp đă qua, nay
đang là thời Mạt Pháp. Theo cách nói của người
phương Tây, Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ cho
đến nay là hai ngàn năm trăm năm, c̣n như theo cổ
nhân Trung Hoa ghi chép, [cho đến năm nay] đức Phật
đă diệt độ ba ngàn lẻ ba mươi bốn
năm, sai khác hơn năm trăm năm. Rốt cuộc,
cách tính nào là thật, cách nào là giả, chúng ta chẳng cần
bàn tới! Tối thiểu Thích Ca Mâu Ni Phật đă cách biệt chúng ta cũng là chuyện
từ hai ngàn năm trăm năm trước.
Nếu tuân theo cách tính của Trung Hoa, thời đại hiện
tại của chúng ta nhằm lúc mở đầu một ngàn năm thứ
hai trong thời Mạt Pháp. Nếu theo cách nói của người
phương Tây, nay chúng ta vẫn c̣n đang thuộc năm
trăm đầu tiên của thời kỳ Mạt Pháp, Mạt
Pháp dài một vạn năm. Năm nay mới là năm
mươi năm; do đó, bất luận nói theo kiểu
nào, trong Phật pháp chẳng nói đến “tận thế”.
Nhưng pháp vận trong thời kỳ Mạt
Pháp có hưng và suy. Năm xưa, Chương Gia đại
sư đă dạy tôi chuyện này. V́ chúng tôi cảm thấy
pháp vận của Phật pháp suy vi đến tột cùng,
đại sư đă khuyên lơn, khích lệ chúng tôi đừng
nên nguội lạnh cơi
ḷng: “Phật
pháp sẽ c̣n có lúc hưng vượng. Thời kỳ Mạt
Pháp có lúc hưng, lúc suy”. Chúng tôi tin tưởng
lời thầy. V́ thế, chỉ cần chính ḿnh nghiêm túc, nỗ
lực. Thấy Phật pháp suy vi, chúng ta càng phải nên nghiêm túc nỗ
lực. V́ sao? Có một loại cảm giác sứ mạng, cảm giác trách nhiệm.
Tôi cũng thường khuyến khích các đồng học,
[cũng như] khích lệ chính ḿnh, cầu người khác chẳng
bằng cầu nơi chính ḿnh! Cầu người khác khó
khăn! Cổ nhân thường nói: “Chuyện khó khăn trong thiên hạ, cầu cạnh
người khác sẽ khó khăn, lên trời khó khăn”.
Đúng quá! V́ thế, từ xưa tới nay, những bậc
thánh nhân, đại đức từ thời cổ đă
dạy mọi người: “Hành
hữu bất đắc, phản cầu chư kỷ” (Có chuyện
ǵ chẳng làm được, hăy xét lại ḿnh). Đấy
là dạy quư vị đừng cầu cạnh người
khác, hăy cầu chính ḿnh, đúng như Phật pháp đă dạy.
Phật pháp gọi là Nội Học. Sự thành tựu của
Quán Thế Âm là “phản văn
văn tự tánh, tánh thành vô thượng đạo”
(xoay cái Nghe lại để nghe nơi tánh Nghe, tánh trở
thành vô thượng đạo). Quay lại cầu chính
ḿnh, cầu chính ḿnh th́ mới có thể thành tựu. Cầu
người khác là trật rồi, hăy cầu chính ḿnh. Chính
ḿnh thật sự được gọi là “đắc đạo”, đắc đạo là
ǵ? Hoàn toàn thực hiện những ǵ chính ḿnh đă tin,
đă hiểu trong cuộc sống của chính ḿnh; đấy
là “đắc đạo”,
đấy là “thật sự tu
hành”. Mọi người đều biết nhà Phật
coi trọng thực tiễn, hoàn toàn chẳng chú trọng giải
thuyết. Quư vị thấy ngài Thanh Lương phán định
Hoa Nghiêm gồm có bốn phần là Tín, Giải, Hành, Chứng,
trọng điểm ở hai phần sau (Hành và Chứng). Quư vị đă tin tưởng, đă lư giải
th́ phải thực hiện nó, thực hiện chính là “chứng
đạo”. Quư vị có thể làm được một phần,
sẽ đắc một phần. Quư vị có thể làm được
hai phần, sẽ đắc hai phần!
Đương nhiên, phẩm Tịnh Hạnh
là công khóa tu hành của bậc đại Bồ Tát. Nếu
chúng tôi dùng nhà trường để tỷ dụ, [phẩm kinh này] tối thiểu
là chương tŕnh học của Đại Học.
Trước môn học của Đại Học c̣n có
chương tŕnh Trung Học và chương tŕnh Tiểu Học.
Nay chúng ta đọc một trăm bốn mươi mốt
nguyện này, có thể làm được hay không? Ngẫu
nhiên ghi nhớ mấy điều, lại c̣n chẳng làm
triệt để, đấy là do nguyên nhân ǵ? Chẳng vun
đắp cơ sở tốt đẹp! Do
đó, nếu muốn thật sự khế nhập cảnh
giới này, chư vị hăy ngẫm xem, có phải là trước
hết phải thi hành từ Đệ Tử Quy, thi hành từ
Thập Thiện Nghiệp Đạo hay không? Chẳng sai! Khẳng
định là theo thứ tự như vậy! Trước
kia, chúng ta chẳng học th́ làm như thế nào đây? Học
bổ sung, ngay lập tức bổ sung. Quư vị phải
hiểu căn cội rất quan trọng. Đó là cơ sở
của phẩm Tịnh Hạnh.
Tôi lại nói rơ ràng hơn một chút. Cơ
sở của phẩm Tịnh Hạnh là giới Bồ Tát,
là giới tỳ-kheo, là giới sa-di, mà cơ sở của
giới sa-di lại là Tam Quy Ngũ Giới. Cơ sở của
Tam Quy Ngũ Giới lại là Thập Thiện Nghiệp
Đạo. Cơ sở của Thập Thiện Nghiệp
Đạo là Đệ Tử Quy và Cảm Ứng Thiên. Do
đó, pháp sư Ấn Quang, vị này là tổ sư, suốt
đời đề xướng Cảm Ứng Thiên chẳng
tiếc sức thừa! V́ sao Ngài chẳng đề xướng
Đệ Tử Quy? V́ sao Tổ đề xướng Cảm
Ứng Thiên, đề xướng An Sĩ Toàn Thư,
đề xướng Liễu Phàm Tứ Huấn? V́ sao? Quư
vị hăy suy ngẫm thời đại của lăo nhân gia: Trước
thời Kháng Chiến, nhằm thời đầu Dân Quốc.
Vào thời đó, có thể nói là trẻ nhỏ trong gia đ́nh đều có gia giáo rất tốt đẹp. Gia
giáo là Đệ Tử Quy, chẳng thiếu môn học này.
Ngài đặc biệt nhấn mạnh giáo dục nhân quả,
v́ sao? Đấy là do văn hóa phương Tây tấn công,
văn minh vật chất tiến nhập [Trung Hoa], khẳng
định sẽ khiến cho người Hoa tăng
trưởng tham, sân, si, mạn, luân lư đạo đức
dần dần bị nhạt nḥa, mất đi. V́ thế, lăo
nhân gia đặc biệt đề xướng giáo dục
nhân quả, bảo mọi người “thiện có thiện quả, ác có ác báo”. Đúng là
dốc trọn nỗi khổ tâm, đấy là đại
từ đại bi. Nay chúng ta thấy quá rơ ràng, quá minh bạch!
V́ sao những người ấy tham lam chẳng
chán, khởi tâm động niệm không ǵ chẳng là tổn
người lợi ḿnh? Chuyện này nghiêm trọng lắm!
Nếu quư vị hiểu sẽ có báo ứng trong ấy, quư
vị sẽ chẳng dám làm! Nếu quư vị biết: “Một hớp uống, một
miếng ăn, không ǵ chẳng định trước”,
quư vị cũng sẽ chẳng làm. Cầu có phương
pháp, có đạo lư, đúng lư, đúng pháp để cầu,
sẽ chẳng có ǵ không đạt được! Nhà Phật
nói hay lắm: “Trong cửa nhà
Phật, có cầu ắt ứng”. Quư vị phải
đúng lư, đúng pháp mà cầu. Nếu quư vị trái nghịch
đạo lư ấy, trái nghịch phương pháp chánh đáng, dùng thủ đoạn chẳng chánh đáng để
giành được, đại khái là điều quư vị
mong cầu c̣n chưa đạt được, họa hại
đă đưa tới. Nhỏ th́ là thân bại, danh liệt;
lớn th́ là thân chết, nhà tan! Chúng ta hăy lắng ḷng xem xét
chuyện này, hăy quan sát cẩn thận từ nhật báo, tạp
chí, tin tức hoặc radio, gần như mỗi ngày đều
có, nhân quả báo ứng ở ngay trước mắt, cớ
sao quư vị chẳng thấy? Cớ sao quư vị chẳng
cảnh giác? Đấy là ǵ? Đọc sách về giáo dục
nhân quả quá ít! Nếu đọc nhiều, chắc chắn
là quư vị sẽ phản tỉnh. Đấy là ḷng đại
từ đại bi của tổ sư, chúng ta phải hiểu
rơ, hiểu minh bạch, phải nghiêm túc học tập cách
nào để tiêu tai miễn nạn, tự cầu nhiều
phước trong xă hội hiện tiền này! Nay đă hết
thời gian rồi, hăy nghỉ ngơi mấy phút!
***
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem tiếp bài kệ kế
tiếp bài thứ mười tám:
(Kinh) Đắc thô sáp thực, đương nguyện
chúng sanh, tâm vô nhiễm trước, tuyệt thế tham ái.
(經)得粗澀食。當願眾生。心無染著。絕世貪愛。
(Kinh: Được món thô tháp, nguyện cho chúng
sanh, tâm chẳng nhiễm đắm, dứt hết tham ái).
Bài kệ này có thể mở rộng ư
nghĩa thành nghịch cảnh, ác duyên. V́ thế, đúng là phải
học theo Bồ Tát. Bồ Tát là bậc giác ngộ, thật
sự quá khó có. V́ sao? Sáu căn tiếp xúc cảnh giới lục
trần, Ngài đều có thể quay đầu, đều
có thể xoay chuyển cảnh giới, giống như trong kinh
Lăng Nghiêm đă nói: “Nếu
có thể chuyển cảnh giới, sẽ giống Như
Lai”. Chúng ta phải nên học theo bản lănh ấy.
Đă học được bản lănh ấy, sẽ là
như trong Phật pháp thường nói: “Giờ nào cũng là giờ tốt, ngày nào cũng là
ngày tốt”. Chẳng giả tí nào! Năm xưa, tôi
cũng nối tiếp thêm hai câu: “Người nào cũng là người tốt, chuyện
nào cũng là chuyện tốt”. Quư vị nói cuộc sống
ấy hạnh phúc lắm, mỹ măn lắm! Hóa giải
đối địch từ trong nội tâm.
Chúng ta thấy cổ nhân thường nói “nhân giả vô địch”, [nghĩa là] người nhân từ chẳng có địch thủ.
V́ sao chẳng có địch thủ? Chẳng phải là nói
bên ngoài không có, mà là trong nội tâm của người ấy chẳng có địch thủ, nội tâm chỉ có từ
bi, chẳng có đối lập. Do v́ trong xă hội
hiện thời, xung đột rất phổ biến, thậm chí c̣n
nói đến phần tử khủng bố, giải quyết
vấn đề này như thế nào? Hăy nên hóa giải từ
trong nội tâm của chính ḿnh. Hóa giải sự đối
lập giữa ta và hết thảy mọi người,
đối lập giữa ta và hết thảy các sự,
đối lập giữa ta và hết thảy vạn vật.
Có đối lập th́ có mâu thuẫn, có xung đột. V́
thế, chẳng thể [hóa giải] ở ngoài, mà là trong nội
tâm của chính ḿnh. Nếu ta đă hóa giải ở nơi
đây, [những xung đột] từ bên ngoài cũng tự
nhiên tiêu mất. Đó gọi là “một
bàn tay chẳng vỗ ra tiếng”. Nhất định phải
có ứng. [Bàn tay] bên này của
chính ḿnh chẳng có, bàn tay kia sẽ chẳng
vỗ ra tiếng được! Đạo lư này của cổ
đại đức rất sâu, chúng ta phải lănh hội,
phải học tập từ chỗ này!
V́ thế, thành Phật, quư vị thấy
như trong Phật pháp đă nói, như thế nào th́ mới
thành Phật? Trong ư nghĩa của chữ Phật, có ư
nghĩa Giác, có ư nghĩa Trí. Trong giác có ba loại là tự giác, giác tha, giác hạnh
viên măn. Tự giác là A La Hán, giác tha là Bồ Tát, giác hạnh
viên măn bèn thành Phật. Vậy th́ chúng ta phải nghĩ xem,
Thích Ca Mâu Ni Phật giác tha có viên măn hay không? Có một
năm, tôi giảng kinh tại Cát Long Ba (Kuala Lumpur) ở Mă Lai, có
một vị pháp sư Tiểu Thừa người Thái Lan đến
gặp tôi, nêu ra một câu hỏi về vấn đề
này: “Đức Phật nói giác hạnh viên măn th́ mới có
thể thành Phật, tức là tự giác và giác tha viên măn mới
có thể thành Phật, tôi c̣n chưa giác ngộ, làm sao Thích
Ca Mâu Ni Phật có thể thành Phật cho được?” Vị
pháp sư ấy tâm tánh bộc trực, trong ḷng rất bất
b́nh: “Thích Ca Mâu Ni Phật giác tha, [thế mà] tôi vẫn chẳng
được Ngài giác ngộ!” Ư Sư cho rằng: “Nói ‘tự
giác’ th́ cũng c̣n chấp nhận được, chứ giác tha Ngài vẫn chưa thực
hiện viên măn. C̣n chúng sanh nhiều ngần ấy chưa
thành Phật, làm sao Ngài có thể thành Phật cho được?”
Có ư nghĩ như vậy th́ đă sai mất rồi!
Giác hạnh viên măn phải hiểu theo cách
nào? Chính là tự giác và giác tha đă viên măn; trong ấy, khó
hiểu nhất là giác tha được viên măn bằng cách
nào? Chẳng biết giác tha chính là tự giác. Trong tâm ta c̣n có
ngă tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ
giả tướng, đấy là phàm phu. Tứ Tướng
đều chẳng có, [đó là] tự giác. Giác tha là tự
giác được nâng cao hơn, nâng cao tới cảnh giới nào? Nâng
cao tới mức như phần sau kinh Kim Cang đă nói: Ngă kiến,
nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến
cũng buông xuống. Trước tiên là buông xuống Tứ Tướng, cuối cùng là buông xuống Tứ Kiến.
Chẳng có Tứ Kiến, sẽ thành Phật. Có thể thấy, thành Phật
độ chúng sanh chẳng phải là độ chúng sanh bên
ngoài. Tứ Hoằng Thệ Nguyện nói đến cuối
cùng, “tự tánh chúng sanh thệ
nguyện độ, tự tánh phiền năo thệ nguyện
đoạn, tự tánh pháp môn thệ nguyện học, tự
tánh Phật đạo thệ nguyện thành” th́ mới
có thể thành Phật. Đấy là nói rành mạch, rơ ràng,
chúng ta chớ nên hiểu lầm ư nghĩa. Hiểu lầm
ư nghĩa, [sẽ chấp] có ngă tướng, Thích Ca Mâu Ni Phật
là nhân tướng, [tức
là] có tướng của Thích Ca Mâu Ni Phật, có đông đảo chúng sanh tức là chúng sanh tướng,
có thọ giả tướng thời gian dài hay ngắn, quư
vị thảy đều chấp Tứ Tướng, làm sao có thể đắc độ cho được?
Thật sự thành Phật, làm Tổ, trong
Đàn Kinh, Huệ Năng đại sư đă nói hay lắm.
Quư vị thấy khi Ngũ Tổ tiễn Ngài về
phương Nam lánh nạn. Ngũ Tổ đưa tiễn Ngài, Huệ
Năng đại sư đă thưa
cùng thầy hai câu, Đàn Kinh có ghi chép: “Khi chưa ngộ th́ thầy độ, sau khi đă
ngộ th́ tự độ”. Hai câu ấy nói hay quá, thầy
giúp đỡ quư vị là giúp quư vị khai ngộ. Sau khi
đă khai ngộ bèn tự độ, người khác độ
ở chỗ nào? Quư vị c̣n có tự và tha, sẽ là hạng
phàm phu chánh cống, chẳng giác ngộ. Sau khi đă giác ngộ,
sẽ chẳng có tự và tha. Có tự và tha tức là quư vị
chẳng đoạn Tứ
Tướng! Kinh Kim Cang đă dạy rơ ràng: “Nếu Bồ Tát có ngă tướng,
nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng,
sẽ chẳng phải là Bồ Tát”, kẻ ấy chẳng
phải là Bồ Tát. Nói cách khác, Bồ Tát chẳng có Tứ Tướng!
V́ sao Bồ Tát chẳng có Tứ Tướng? Địa vị Sơ Tín Bồ Tát trong kinh Hoa
Nghiêm đă phá Tứ Tướng, [thuộc về] Đại
Thừa Viên Giáo; do vậy, Ngài là thánh nhân. Tuy vậy, vẫn
chẳng có năng lực vượt thoát tam giới, v́
sao? Ngài chưa đoạn Kiến Tư phiền năo,
nhưng chắc chắn chẳng đọa tam đồ. Công
phu đoạn chứng của Ngài và Tu Đà Hoàn bằng
nhau, [Tu Đà Hoàn là] Tiểu Thừa Sơ Quả. Trước
kia, chúng tôi học Phật, một là do chúng tôi trẻ tuổi,
hai là do thầy cũng không nói rơ ràng với chúng tôi, chúng tôi không hiểu, cứ tưởng phá Tứ
Tướng th́ là Pháp Thân Bồ Tát. Chẳng ngờ hàng Bồ
Tát phá Tứ Tướng thuộc địa vị Sơ
Tín, chẳng ngờ
tới! Trong bộ Kim Cang Kinh Giảng
Nghĩa, cư sĩ Giang Vị Nông đă nói rơ ràng, chúng tôi
mới hiểu chuyện này!
Trong Kiến Tư phiền năo, đă đoạn
Kiến phiền năo, [tức là] đoạn tám mươi
tám phẩm Kiến Hoặc, đă phá Tứ Tướng.
Trong Kiến Hoặc, các thứ Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến
Thủ Kiến, Giới Thủ Kiến, Tà Kiến, những
thứ ấy đều chẳng có. Chẳng đoạn
Tư Hoặc. Đối với Tư Hoặc, chẳng đoạn
tham, sân, si, mạn, không thoát khỏi tam giới, nhưng chắc
chắn chẳng đọa tam đồ. Khi đó gọi
là Vị Bất Thoái. Chứng đến địa vị
ấy, sẽ chẳng c̣n đọa xuống phàm phu, tuyệt
đối sẽ chẳng c̣n thoái chuyển vào tam đồ.
Do vậy, sẽ qua lại bảy lần trong cơi trời
và nhân gian ([đây là] nói khi đức Phật chẳng xuất
thế) bèn đoạn Tư Hoặc. Khi chẳng có Phật
xuất thế bèn gọi là Độc Giác, khi có Phật xuất
thế th́ gọi là Thanh Văn, nhưng quả vị đều
gọi là A La Hán. Độc Giác càng thông minh hơn, đó là
bậc Bích Chi Phật.
Sau khi chúng ta đă hiểu rơ, bèn biết cách
tu như thế nào, đoạn Hoặc, chứng Chân. V́ thế,
ở trong hoàn cảnh ấy, trong thuận cảnh, đoạn
tham ái; trong nghịch cảnh, đoạn sân khuể. Do vậy,
thuận cảnh, nghịch cảnh, thiện duyên, ác duyên toàn
là đạo tràng tu hành của Bồ Tát, đó gọi là “học xứ” của Bồ Tát. Có chỗ nào chẳng phải là học
xứ của Bồ Tát? Bất cứ nơi đâu đều
mài giũa quư vị.
Nếu tập khí phiền năo của quư vị thảy đều bị mài sạch, quư vị sẽ thoát ra, sẽ thoát
ly tam giới. Do vậy, nhất định phải hiểu
điều này: Trong thuận cảnh, quư vị dấy ḷng
tham ái, phải mài sạch tham ái bằng cách nào, [ngơ hầu]
trong thuận cảnh chẳng sanh tham ái. Trong nghịch cảnh
sanh sân khuể, nổi nóng, quư vị làm thế nào để
mài sạch những thứ phiền năo
ấy trong nghịch cảnh. V́ lẽ này, có cần nghịch
cảnh hay không? Cần chứ! Khi không cần, sẽ
vĩnh viễn chẳng thể mài sạch hết! Nhất
là hiện thời, chúng tôi có đọc một số báo
cáo y học, đối chiếu với Phật pháp. Trước
kia, chúng tôi chỉ nghe nói kẻ tức giận chính là dần
dần tự sát, đă từng nghe nói kiểu ấy. Nay
xem rất nhiều báo cáo y học, [mới biết chuyện này] là thật, chẳng giả! Sân khuể tổn
thương thân thể nhiều nhất. Phật môn nói là “một niệm sân tâm khởi,
trăm vạn cửa chướng mở”.
Trong quá khứ, khi tôi cầu học ở
Đài Trung, thầy đă giảng về mức lợi hại
của sân khuể. Thầy bảo, mẹ cho trẻ nhỏ
bú sữa, sau khi nổi giận đùng đùng bèn cho trẻ
bú, chẳng đầy vài hôm sau, đứa trẻ chết
mất, chẳng biết do nguyên nhân ǵ. Về sau, lại
nuôi con thơ, hai, ba lần mang thai đều là như vậy, đều
chẳng biết. Sau khi nổi nóng, toàn thân đều biến
thành độc tố, trẻ nhỏ bú sữa bị trúng
độc, kẻ làm mẹ đâu có biết! Sau này, tôi
đọc Ấn Quang Đại Sư Văn Sao, trong
Văn Sao có ghi chép [chuyện này], tôi tin tưởng lời
thầy, [những điều ấy] đều đă
được nói trong Văn Sao, liền bảo những
bà mẹ có con nhỏ, sau khi đă nổi nóng, tối thiểu
là phải sau một tiếng đồng hồ, tâm đă
b́nh lặng, một, hai giờ sau mới có thể cho con bú sữa.
Nếu chúng ta nghe cư sĩ Hứa Triết
nói, tôi nghĩ bà Hứa Triết năm nay đă một
trăm lẻ sáu tuổi. Vài hôm trước tôi mới biết
(hai hôm gần đây bà qua thăm Thượng Hải), bà
đă một trăm lẻ tám tuổi! Bà quy y lúc một
trăm lẻ một tuổi, thời gian trôi qua thật mau, chớp mắt đă tám năm rồi. Bà bảo
tôi, con người sau khi nổi nóng một trận, để
khôi phục b́nh thường, cần đến ba ngày, ba
ngày mới có thể khôi phục b́nh thường. Nổi
nóng trong thời gian bao lâu? Năm phút! Năm phút mà phải
mất ba ngày th́ mới có thể khôi phục; v́ thế, nổi
nóng tổn thương thân thể nhất. Theo báo cáo của
một bác sĩ, ông ta nói có một người bị ung
thư, bảo người ấy phải thường ǵn
giữ tâm t́nh vui sướng, chớ nên có một tí phiền
năo nào, phải thoải mái. Như vậy th́ ông ta sẽ
có thể khống chế toàn thể căn bệnh ung
thư. Suốt mười năm, hai mươi năm, [ông
ta] chưa hề vi phạm, thân thể đă rất b́nh
thường. Đến khi về hưu, đại khái là
tiền lương hưu thiếu một chút, ông ta
rất bực bội, rất cáu kỉnh, vừa nổi
nóng một phen, hai tháng sau bèn qua đời, căn bệnh
cũ lại phát ra. Những trường hợp như vậy
nhiều lắm!
V́ thế, chúng ta nh́n vào thí nghiệm của
tiến sĩ Giang Bổn Thắng, quư vị thấy trong
thí nghiệm với nước, quư vị dùng tâm oán hận
đối đăi nó, “tao chán ghét mày, tao hận mày”, vẫn
chưa phải là rất cáu kỉnh, làm thí nghiệm, xem kết
tinh của nước dưới kính hiển vi. Ông ta chụp
ảnh cho quư vị thấy, [kết tinh của nước]
rất khó coi, rất xấu xí. Thay đổi ư niệm,
“ta ưa thích ngươi, ta yêu ngươi”, kết tinh của
nước hết sức đẹp đẽ. Chúng ta biết
thân thể loài người chúng ta bảy mươi lăm
phần trăm là nước, nếu quư vị dùng tâm yêu
thương, dùng tâm từ bi để dưỡng sanh, thân
thể quư vị sẽ khỏe mạnh, bệnh tật ǵ
cũng đều chẳng có, quư vị cũng chẳng bị
lây nhiễm bệnh tật. V́ sao? Quư vị có năng lực
đề kháng, thứ ǵ đề kháng? Tâm yêu
thương, tâm từ bi.
V́ thế, năm xưa, chúng tôi học Phật
bèn biết: Tâm thanh tịnh là bí quyết dưỡng sanh, tâm
từ bi có thể giải độc, chẳng cần dùng thuốc
men ǵ để giải độc, tâm từ bi có thể giải
độc. V́ sao thân thể Phật, Bồ Tát tốt đẹp
dường ấy, chẳng dễ bị lăo hóa? Chẳng
có ǵ khác, thường sanh tâm hoan hỷ, pháp hỷ sung măn, đạo
lư là như thế đó! Chúng ta ắt cần phải học điều này,
đấy là quư vị học Phật đạt được
lợi ích ngay trong hiện tiền, lợi ích ấy có thể
tự hành, hóa tha. Tự hành là chính ḿnh đạt được
lợi ích. Hóa tha là người khác và quư vị ở cùng một
chỗ, họ trông thấy thân thể và dung mạo của
quư vị rạng rỡ, họ sẽ khâm phục, tự
nhiên sẽ hướng về
quư vị thỉnh giáo. Tôi tham dự rất
nhiều hội nghị quốc tế, gần như mỗi
lần đều gặp chuyện này, không chỉ là một
người hỏi tôi: “Thưa pháp sư, thầy bảo
dưỡng thân thể như thế nào?” Chúng tôi liền
giảng Phật pháp cho kẻ ấy: “Tâm thanh tịnh, tâm từ
bi, tâm yêu thương, quyết định chớ nên có tâm oán hận. Ăn uống, sinh hoạt, cuộc sống
hằng ngày có quy tắc”. Họ biết chúng tôi ăn chay,
ăn ít. Lại bảo họ, thức ăn chính là nguồn
bổ sung năng lượng cho thân thể này!
Đối với chuyện tiêu hao thể lực
và tiêu hao năng lượng, trong quá khứ, tôi đă từng
thảo luận với thầy Lư về vấn đề
này. Tôi tŕnh lên thầy: “Con nhận thấy tiêu hao thể lực
th́ chín mươi phần trăm trở lên là bị tiêu hao
bởi vọng niệm, chứ lao tâm lẫn lao lực
đều [tiêu hao năng lượng] rất hữu hạn”.
Đấy là v́ tôi ở Đài Trung suốt mười
năm, quan sát thầy Lư, [nhận thấy] lượng công
việc của lăo nhân gia gấp năm lần kẻ b́nh
phàm chúng ta, có nghĩa là thầy làm việc của năm
người, rất vất vả. Thông thường, ai muốn gặp thầy, phải hẹn trước
một tuần, chứ tùy tiện hẹn gặp,
thầy chẳng có thời gian. Thời gian của thầy
thảy đều sắp xếp kín mít rồi! Nhất định
là phải hẹn trước một tuần, thầy sẽ
sắp xếp thời gian cho quư vị. Quư vị biết
thầy bận bịu công việc [như thế đó], nhưng
thầy ăn rất ít, mỗi ngày ăn một bữa, mỗi
bữa ăn một chén cơm nhỏ. Thầy là người
Sơn Đông, thích ăn thực phẩm làm bằng bột
ḿ: Một chén ḿ nhỏ, hoặc một cái mạn đầu
là được rồi. Thuở ấy, tôi học theo thầy,
nhưng trước đó, tôi đă có cơ sở. Tôi học
Phật, hai mươi sáu tuổi học Phật, nửa
năm sau vào lúc hai mươi sáu tuổi, tôi bắt đầu
luyện tập không ăn bữa tối. Buổi tối
chẳng ăn ǵ, chỉ ăn bữa sáng và bữa
trưa, đă ngưng ăn tối. V́ thế, đến Đài
Trung, gần như tôi đă trải qua bốn, năm
năm, tập thành thói quen, bỏ bữa sáng sẽ chẳng
khó. Do vậy, ăn một bữa.
Khi đó trẻ tuổi, ăn một bữa,
thông thường là giống như một chén cơm tôi ăn
trong hiện thời, [khi đó], mỗi bữa cơm tôi
ăn ba chén. Thuở ấy, ăn bữa sáng gần như
cũng là ba chén cháo, buổi trưa cũng ba chén, buổi tối
cũng là ba chén. [Sau khi] đă thôi ăn sáng và ăn tối,
một bữa ăn giữa trưa là ba chén. V́ thế, b́nh
thường! Thầy Lư ăn cơm, tôi ăn ba chén, thầy
ăn một chén. Tôi phải ăn hai cái mạn đầu,
thầy một cái đă đủ rồi, chẳng có cách
nào sánh bằng thầy! V́ thế, tôi suy nghĩ rất lâu,
phát hiện đúng là phải nên như vậy. Tiêu hao thể
lực th́ quư vị nhất định phải bổ sung.
Quư vị chẳng bổ sung, thể lực sẽ chẳng
đủ dùng. Do đó, tôi cũng ăn một bữa,
nhưng ăn nhiều hơn thầy, mỗi bữa thầy
ăn ít hơn tôi, khối lượng công việc của
thầy nhiều hơn tôi. V́ thế, tôi thưa rơ cùng lăo
nhân gia, tôi nói: “Phải là như vậy, tiêu hao năng
lượng chắc chắn là do tiêu hao nơi vọng niệm,
chứ tiêu hao v́ lao tâm hay lao lực sẽ chẳng nhiều”.
Thầy đồng ư với cách nh́n ấy của tôi, chẳng
sai! Chẳng sai tí nào cả!
V́ vậy, chúng ta nghĩ đến điều
ǵ? Nghĩ đến thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế,
đoàn thể của Ngài ăn một bữa giữa
trưa. Lại thấy kinh nói A La Hán bảy ngày ăn một
bữa, Bích Chi Phật nửa tháng ăn một bữa. Do
vậy có thể biết, tâm địa càng thanh tịnh, vọng
niệm càng ít, tiêu hao năng lượng sẽ ít đi,
đương nhiên là chẳng cần phải bổ sung
nhiều dường ấy. Chúng ta biết A La Hán đă
đoạn Kiến Tư phiền năo, Bích Chi Phật đă
đoạn tập khí Kiến Tư phiền năo. Quư vị
thấy người đă đoạn Kiến Tư phiền
năo, mỗi tuần ăn một bữa là đủ rồi.
Đă đoạn tập khí Kiến Tư phiền năo, nửa
tháng ăn một bữa là đủ. Từ chỗ này,
chúng ta có được kết luận này.
V́ lẽ ấy, vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước của quư vị rất nhiều, sẽ
chẳng thể học đ̣i mỗi ngày ăn một bữa.
V́ sao? Thân thể quư vị chịu không nổi! Quư vị
tiêu hao nhiều ngần ấy, chẳng bổ sung đầy
đủ, sẽ ngă bệnh! Thật sự mong học [theo lối ăn một bữa mỗi
ngày] th́ phải đoạn trừ phiền
năo, trong thuận cảnh chẳng có tham ái, trong nghịch cảnh
chẳng có sân khuể, thật sự khiến cho cái tâm trở về thanh tịnh, b́nh đẳng, trở về từ bi, tự nhiên chẳng cần [ăn nhiều
như thế nữa]. Cớ sao biết là không cần? Quư
vị chẳng cảm thấy đói, sẽ chẳng cần
ăn. Nếu cảm thấy đói th́ cần [ăn uống].
Do vậy, đức Phật dạy chúng ta, hăy tùy duyên,
đừng phan duyên. Phan duyên là có tâm học theo kiểu ấy,
miễn cưỡng học theo, chớ nên! Phải tùy
duyên. Quư vị thấy lăo ḥa thượng Đế Nhàn dạy
người thợ vá nồi, tùy duyên, chẳng có một tí
hạn chế nào! Sư dạy người ấy niệm
A Di Đà Phật, niệm mệt mỏi bèn nghỉ
ngơi. Nghỉ khỏe khoắn xong bèn niệm tiếp. Quư
vị thấy phương pháp ấy tự tại lắm!
Nói cách khác, đến khi quư vị tâm địa thanh tịnh
vẫn tùy duyên. Hễ đói, quư vị sẽ ăn đôi
chút. Không đói bèn chẳng ăn. Đó là tùy duyên, đó là chẳng
miễn cưỡng. Do đó, chắc chắn là tâm địa
thanh tịnh th́ quư vị mới có năng lượng, bảo
tŕ năng lượng, thân thể khỏe mạnh, tinh thần
sung măn. Vậy th́ quư vị bèn hiểu, phân biệt, chấp
trước, thất t́nh, ngũ dục, những thứ ấy
tiêu hao năng lượng. Người có thất t́nh, ngũ
dục mà chẳng thể khống chế, tự nhiên sẽ
cần tiêu hao năng lượng to lớn, mỗi ngày
ăn ba bữa rồi c̣n phải ăn điểm tâm, buổi
tối c̣n phải ăn khuya. Do nguyên nhân nào? Lượng
tiêu hao to lớn, [nếu] chẳng bổ sung, người ấy sẽ chịu
không nổi! Tâm địa càng thanh tịnh, lượng tiêu
hao càng ít, càng giảm bớt việc!
V́ vậy, nguyện này cũng rất hay, “tâm chẳng nhiễm trước,
đoạn tuyệt sự tham ái trong thế gian”. Nhiễm
trước, tham ái sẽ tiêu hao năng lượng to lớn
nơi thân thể. “Nhiễm”
(染) là nhiễm
ô. Nhiễm ô nghiêm trọng nhất là nhiễm ô nơi tinh
thần. “Trước” (著) là chấp trước. V́ thế, phải buông xuống
chấp trước, phải cự tuyệt nhiễm ô. Hiện
thời, ở bên ngoài, nhiễm ô nghiêm trọng nhất, nói
thông thường, nói theo phía đại đa số mọi
người, chính là nhiễm ô bởi TV. Văn nghệ
trong hiện thời toàn là nhiễm ô. Phim ảnh, ca múa,
Internet, phàm là hết thảy những món giải trí, quư vị
chú tâm lắng ḷng quan sát, [sẽ thấy] chẳng có thứ ǵ không phải là nhiễm ô nghiêm trọng! Nếu nói
những món giải trí ấy khiến cho chúng ta rất vui
sướng, sự vui sướng ấy giống như
hít thuốc phiện, chơi morphine! Vui sướng theo kiểu
như vậy, quư vị phải trả giá cỡ nào? Đến
cuối cùng, dâng luôn cái mạng, chớ nên không biết
điều này!
Từ xưa tới nay, các tiết mục văn
nghệ giải trí truyền thống của Trung Hoa đều
biết tuân thủ một nguyên tắc chỉ đạo tối
cao của Khổng lăo phu tử là “tư vô tà” (思無邪, không suy
nghĩ tà vạy). Do đó, nội dung biểu diễn nói
chung chẳng tách ĺa luân lư, đạo đức, “thiện có thiện quả, ác có
ác báo”, đấy là giáo dục. V́ thế, từ giải
trí trước kia, quư vị có thể tiếp nhận giáo dục, biết
lư luận và phương pháp làm người, làm việc. Sự
giáo dục ấy đă sử dụng phương pháp văn
nghệ để biểu hiện. Hiện thời, chẳng
phải vậy! Trong hiện thời, chẳng có giáo dục trong ấy. Nếu nói đến giáo dục th́ hoàn toàn là phản
diện. Nói chung, nội dung của nó chẳng rời khỏi
giết, trộm, dâm, dối, t́nh dục, bạo lực. Nói
chung là chẳng ĺa khỏi những thứ ấy! Hằng
ngày xem những thứ ấy cho nhiều, người ta làm sao có
thể khỏe mạnh cho nổi? Làm sao vui sướng cho
nổi? V́ thế, khi chúng tôi c̣n trẻ, thầy đă khuyên
dạy chúng tôi nhất định phải bỏ những
thứ ấy. Do đó, tối thiểu là hơn bốn
mươi năm, tôi giảng kinh, dạy học bốn
mươi tám năm, mấy năm đầu mới học
Phật có lúc c̣n xem, xem tin tức, xem ǵ vậy? Tôi chọn
mấy tiết mục, phim khoa học kỹ thuật, xem
những thứ động vật kỳ lạ, xem những
thứ ấy, chẳng xem người ta biểu diễn.
Về sau, hoàn toàn đoạn tuyệt. Hoàn toàn đoạn
tuyệt tối thiểu là bốn mươi lăm
năm, cho nên chẳng bị ô nhiễm bởi những thứ
ấy. Không chỉ là TV không xem, radio không nghe, mà nhật báo,
tạp chí cũng không xem, dùng thời gian ấy để
đọc kinh, đọc những trước tác của
cổ nhân, đối với sự khỏe mạnh nơi
thân tâm của chính ḿnh hữu ích rất lớn!
Chúng ta chẳng xung đột với người
thế gian, những thứ người thế gian tham ái
chúng ta chẳng cần. Chúng ta cần những thứ người thế gian
chẳng cần. Chẳng có xung đột!
V́ thế, chúng ta chung sống rất tốt đẹp. Thời
gian lâu dài, những kẻ thường xuyên lui
tới sẽ dần dần giác ngộ. Họ nh́n vào cuộc
sống của chúng ta, thấy dường như rất
kham khổ: “Cớ sao chẳng ăn thịt? Hơn nữa,
những thứ rau xanh đều chẳng phải là thứ
ngon lành”. Cũng chẳng thỏa măn khẩu vị của họ! Chúng
ta nghiễm nhiên có thể dựa vào những thứ ấy
qua ngày, nhưng thân thể của chúng ta mạnh khỏe
hơn họ, cuộc sống của chúng ta vui sướng,
hạnh phúc hơn họ. V́ thế, từ những chỗ
này, cũng có thể khiến cho rất nhiều người
giác ngộ. Lúc trẻ chẳng nhận biết, đến
nay đă ngoài bảy mươi tuổi th́ biết. Chúng tôi
đứng cùng một chỗ với
những người từ bảy
mươi tuổi trở lên, họ thua tôi quá nhiều. Họ
chú trọng dinh dưỡng, thấy tôi dinh dưỡng kém cỏi, chẳng đủ chất dinh dưỡng, kết
quả là thân thể chúng tôi khỏe mạnh hơn họ!
Những điều này đều do từ
giáo huấn của cổ thánh tiên hiền mà có. Để
biến đổi vận mạng của chính ḿnh, phải
sửa đổi từ khởi tâm động niệm, sửa
đổi từ ngôn ngữ, tạo tác, phải sửa
đổi từ trong hoàn cảnh sống, quư vị mới có thể thật
sự sửa được. Nhất là từ tuổi
trung niên trở đi, phải có sự cảnh giác cao độ! Người
đến tuổi trung niên là đă đạt tới đỉnh
điểm; càng về sau, sẽ càng suy dần. Đỉnh
điểm phải là năm mươi tuổi. Sau năm
mươi tuổi, đúng là mỗi năm một kém
hơn, quư vị phải cảnh giác, phải nắm lấy
cơ hội sửa đổi phương thức sống,
tận hết sức buông xuống tập khí phiền năo, quư
vị mới có thể đạt được một
tuổi già thật sự hạnh phúc, khỏe mạnh.
Nhất là trong thời đại hiện tại,
dẫu quư vị có con cái, con cái bất hiếu nhiều lắm,
con cái hiếu thuận chẳng nhiều, nếu quư vị
hỏi do nguyên nhân nào ư? Quan sát từ góc độ Phật
pháp, quư vị rất dễ thấu hiểu nguyên nhân! “Tiên thiên” (先天), đấy là nói về nhân quả, [“tiên thiên” là] cái
nhân trong đời quá khứ. Đức Phật nói quan hệ
giữa con người với nhau, quan hệ giữa người
trong một nhà, đức Phật đă nói rất hay, [không
ngoài] báo ân, báo oán, đ̣i nợ, trả nợ. Nói cách khác, b́nh
thường, quư vị đối đăi với người
khác là ân huệ nhiều, hay là xử sự tùy tiện nhiều,
chẳng biết bố thí ân đức, quư vị há có con
cháu báo ân được sao? Nếu quư vị đối xử
khắc bạc với người khác, đăi người
tiếp vật mà chính ḿnh kiêu căng, ngă mạn, khi con cái của
quư vị sanh ra, sẽ là báo oán. Khẳng khái, hào phóng, hoan hỷ
tài bố thí, tương lai sẽ có kẻ trả nợ.
Nếu keo kiệt, thấy người khác gặp khó
khăn chẳng chịu giúp đỡ, con cháu sẽ là kẻ đến đ̣i nợ. Đ̣i nợ th́ là những đứa con khiến
cho gia đ́nh suy bại. Trong xă hội
hiện thời, chúng ta lắng ḷng quan sát, [sẽ thấy]
những kẻ trẻ tuổi đến thế gian để
đ̣i nợ nhiều, báo oán nhiều, chứ báo ân hoặc
trả nợ rất ít. Đấy là ǵ? Đấy là nhân,
tức cái nhân đă gieo trong đời quá khứ. “Hậu thiên” (後天) là trong đời này, con cái của quư vị sau khi
sanh ra, quư vị có dạy dỗ nó đàng hoàng hay không, quư vị
dạy nó như thế nào. Đấy là duyên! Dẫu là
đứa con đến báo oán, đ̣i nợ, nhưng nếu như hậu
thiên được dạy dỗ tốt đẹp, dạy
nó biết ân, nó sẽ biết báo ân, chẳng báo oán, nó sẽ
phụng dưỡng cha mẹ. V́ thế, giáo dục hậu
thiên quan trọng lắm!
Đối với chuyện ân oán này, ngoại
trừ sự giáo dục của thánh hiền, chẳng có
cách nào hóa giải. Giáo huấn thánh hiền dạy con người
giác ngộ. Đời quá khứ đă qua, chớ nên có oán
hận nữa. Nếu từ đầu đến cuối
chẳng thể buông xuống nỗi oán hận ấy, quả
báo sẽ là đời đời kiếp kiếp chẳng
hết, chẳng xong, đôi bên đều đau khổ, chẳng
phải là một phía, mà là đôi bên đều khổ, sao
cứ phải như vậy? Đă giác ngộ, hăy buông xuống.
Ân lẫn oán thảy đều buông xuống, đôi bên đối
đăi với nhau bằng ḷng chân thành, dùng tâm yêu
thương để đối đăi, đôi bên cùng tốt
đẹp. Tôn trọng lẫn nhau, kính yêu lẫn nhau, hỗ
trợ hợp tác. Đấy sẽ là mỹ măn lắm!
Chúng ta hăy ngẫm xem, cái nhân trong quá khứ
chẳng tốt, giáo dục trong hiện tại lại chẳng
tốt đẹp, vậy th́ khó trách được. Do đó, có khá nhiều
gia đ́nh con cái chẳng dễ dạy, tôi gặp khá nhiều kẻ làm thầy kêu
ca học tṛ khó dạy. Tôi đă biết, tôi nói toạc nhân
và duyên với mọi người, họ cũng gật
đầu, vậy th́ làm như thế nào đây? Nhẫn nại!
Phải có ḷng nhẫn nại rất lớn, phải thực
hiện từ chính ḿnh. Chính ḿnh đă chánh đáng, trẻ
nhỏ không nói ǵ được nữa. Thầy chánh
đáng, học tṛ cũng chẳng nói ǵ được!
Chính ḿnh phải làm khuôn phép, gương mẫu cho lũ trẻ
tuổi. Giáo dục trong hiện thời, quan trọng nhất
là giáo dục bằng sự cảm hóa, chớ nên xử phạt.
Phải dùng sự cảm hóa, phải dùng đức hạnh
của chính ḿnh để làm gương cho kẻ khác, phải
tốn thời gian lâu dài. Tôi học hành trong nhà trường,
thầy chủ nhiệm huấn đạo trong trường
cũng là thầy dạy ở lớp tôi, đă đề
xướng giáo dục “thâm
hóa” trong nhà trường, rất hữu lư! “Hóa” (化) là cảm hóa, [“thâm
hóa” là] cảm hóa rất sâu. Bản thân thầy
chẳng nêu gương tốt, làm sao có thể khiến cho
học tṛ khâm phục, tôn trọng cho được?
Tôi đến Đài Loan lúc hai mươi mấy
tuổi, theo học Triết Học với tiên sinh
Phương Đông Mỹ. Cuộc sống của chúng tôi
hết sức gian khổ, một thân trơ trọi tại
Đài Loan, chẳng có ai thân thích, dựa vào công việc của
chính ḿnh chỉ có thể sống qua ngày, chẳng có năng
lực đi học, rất muốn học, mong có thể
dự thính lớp của thầy. Nhưng thầy Phương
bảo tôi, thầy nói: “Trường
học trong hiện tại, thầy chẳng ra thầy, tṛ
chẳng ra tṛ, anh đến trường học nghe giảng,
sẽ thất vọng rất lớn”. Thầy nói lời
chân thật, nhưng khi ấy, chúng tôi rất khó lư giải,
tưởng thầy nói lời ấy để cự tuyệt:
“Chẳng thể đến nhà trường nghe giảng”.
Tôi cứ nghĩ thầy cự tuyệt, nào ngờ rất
khó có, thầy muốn tôi mỗi Chủ Nhật đến
nhà thầy, thầy sẽ dạy tôi. V́ thế, tôi theo học
với thầy tại chiếc bàn tṛn nhỏ trong pḥng khách
nhỏ nhà thầy, một thầy, một tṛ, mỗi tuần
học hai tiếng đồng hồ. Học như vậy
đó! Về sau, tôi cũng vào đại học để
giảng diễn hoặc giảng dạy, mới phát hiện
[những điều thầy đă nói] là thật, chẳng
giả. Thuở ấy, quư vị thấy tôi học Phật
năm mươi lăm năm. Năm mươi lăm
năm trước, nửa thế kỷ trước mà
trường học đă là như vậy, hiện thời
lại hơn nửa thế kỷ đă trôi qua, đúng là khó thể
tưởng tượng được! V́ vậy, nếu
chính ḿnh chẳng nghiêm túc nỗ lực, trước hết
là cứu chính ḿnh rồi sẽ độ người khác.
Chính ḿnh cứu chính ḿnh chẳng được, sẽ chẳng
có năng lực ảnh hưởng người khác, chẳng
có năng lực cảm hóa người khác. A! Chúng tôi giảng
bài kệ này đến đây!
Tập
1566
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
tu, xin hăy ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ
mười một, đoạn lớn thứ bảy trong
phần Kệ Tụng, xem từ bài kệ thứ mười
chín:
(Kinh) Nhược phạn thực thời, đương
nguyện chúng sanh, Thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung
măn.
(經)若飯食時。當願眾生。禪悅為食。法喜充滿。
(Kinh: Nếu khi ăn cơm, nguyện cho chúng sanh,
ăn món Thiền duyệt, pháp hỷ ngập tràn).
Đây là lúc thọ trai sau khi khất thực
trở về, cũng chính là Quá Đường (過堂)[2] trong tập
tục Trung Hoa, tức là mọi người cùng nhau dùng cơm.
Khất thực cũng giống như thế! Sau khi khất
thực trở về, phải cùng ăn với nhau, hoàn toàn
chẳng phải là khất thực xong bèn tùy tiện ở
chỗ nào cũng ăn được! Làm như thế sẽ đánh mất oai nghi. Ngôn hạnh và cử chỉ của đệ
tử Phật không ǵ chẳng nhằm nêu gương mẫu
tốt đẹp cho đại chúng trong xă hội, cũng
như chúng ta thường nói là “có
quy củ”, dạy đại chúng trong xă hội nhất
định phải tuân theo pháp tắc, phải tuân thủ quy củ. Chúng ta thường nói “quy củ” là pháp lệnh, quy định
của quốc gia, là phong tục tập quán trong xă hội,
thảy đều phải tuân thủ. Ngạn ngữ Trung
Hoa thường nói “nhà có gia
quy, nước có quốc pháp”. Sách Lễ Kư dạy mọi người “nhập môn
nhi vấn húy”, tức là đến nhà người
ta, trước hết phải hỏi trong nhà có chuyện ǵ
kiêng kỵ, chuyện này mỗi nhà khác nhau. V́ thế, chớ
nên ăn nói sai lầm. Đấy là quy củ vào thời cổ.
Hiện thời, những quy củ này chẳng c̣n nữa.
Lễ cũng chẳng có, quy cũ cũng chẳng có; do đó,
gọi là “đời loạn”.
Rất nhiều đồng học cảm
thán con cái khó dạy, do nguyên nhân nào? Chẳng có quy củ, dạy
bằng cách nào đây? Trong trường, thầy bảo học
tṛ khó dạy, [đó là v́] nhà trường cũng chẳng
có quy củ. Tuy ấn định một số quy củ,
mọi người đều chẳng tuân thủ. Phật
môn trong hiện thời cũng chẳng phải là ngoại
lệ. Nói thật ra, quy củ trong Phật môn hết sức
nghiêm ngặt; hiện thời, cũng chẳng có ai tuân thủ!
Thế gian đă loạn, trong Phật môn cũng loạn, chúng
ta ắt phải biết hiện tượng ấy. Vậy
th́ làm như thế nào? Họ loạn, ta chẳng loạn;
họ chẳng tuân thủ quy củ, ta phải giữ quy củ.
Giữ quy củ th́ tâm mới an. Ngạn ngữ có câu “tâm an lư đắc”, [nghĩa là] đă hiểu rơ đạo lư bèn an tâm, chính ḿnh thực hiện [vâng giữ quy củ]
cho chính ḿnh. Điều quan trọng nhất chính
là “mục tiêu suốt đời của mỗi người
sống trong thế gian là phải tăng tấn chính
ḿnh”!
Hôm qua, các đồng tu của chúng
ta cộng tu trong nội bộ, chúng tôi đă trích dẫn pháp thế gian và Phật pháp, những người thật sự có
trí huệ, có kiến thức, có đạo hạnh đều
bảo chúng ta: “Con người
chẳng có sanh tử”. Thật đấy, chẳng giả!
Con người bất quá là mượn nhục thể này trong một
khoảng thời gian và không gian. Thời gian và không gian ấy
đều rất ngắn ngủi, tạm bợ, sống
hết một đời này mà thôi! C̣n như v́ sao phải đến
(phải sanh vào cơi này)? Đức Phật đă nói rất
hay, sanh trong thế gian này là do hai loại nguyên nhân.
1) Một loại nguyên nhân là do nghiệp lực
của chúng sanh trong lục đạo chiêu cảm. Do nghiệp
lực mà đến thọ sanh. Trong đời quá khứ,
quư vị tạo thiện nghiệp, quư vị đến
hưởng phước, đời này quư vị sẽ sống
rất sung sướng. Nếu trong đời quá khứ
đă tạo nhiều ác nghiệp, vậy th́ quư vị
đến chịu khổ trong đời này. Do vậy, cùng
là người như nhau, nhưng trong đời này, [mỗi
người] gặp gỡ những cảnh ngộ khác nhau!
Phú quư, nghèo hèn, cát hung, họa phước khác nhau, đấy
là do nghiệp lực.
2) Loại thứ hai là chúng sanh có cảm, vị
ấy bèn đến ứng hóa, đấy là Phật, Bồ
Tát. Các Ngài đến để làm ǵ? Các Ngài đến giúp
đỡ chúng sanh khổ nạn, chẳng phải là nghiệp
lực, cũng chẳng xả
thân, thọ thân, [thời gian] sống trong thế gian lâu hay mau cũng khác nhau. Đó là ǵ? Duyên. Nói cách khác, do sức cảm
của chúng sanh. Sức cảm mạnh mẽ th́ Ngài sẽ
đến; khi sức cảm mỏng manh, yếu ớt, Ngài sẽ ra đi. Ngài chẳng phải do nghiệp lực,
mà là nguyện lực. Quư vị thấy mỗi người
tu hành từ Sơ Phát Tâm cho đến địa vị Như
Lai, hằng ngày đều phát nguyện: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Hằng
ngày đều phát nguyện. Do đó, chúng sanh có cảm, các
Ngài đương nhiên phải tới.
Trừ hai nguyên nhân ấy ra, chẳng có loại
thứ ba, chúng ta phải biết điều này. V́ thế,
xả thân, thọ thân trong lục đạo.
Thân có sanh tử, linh tánh chẳng có sanh tử,
phải hiểu điều này. Linh tánh mới là chính ḿnh thật
sự. V́ thế, đức Phật nói hết thảy chúng
sanh, dẫu ở trong lục đạo hay tam đồ, đều là bất sanh bất diệt.
V́ vậy, “bất sanh bất
diệt” là nói đến linh tánh, c̣n “sanh diệt” là nói về thân thể, nói đến
sắc thân, nhất định phải hiểu điều
này. V́ lẽ đó, sắc thân chẳng đáng lưu luyến,
chúng sanh tạo nghiệp là v́ lẽ nào? Đều là do sắc
thân gây tạo, đời đời kiếp kiếp, chẳng
có đời nào không tạo nghiệp. Nói theo phía người
tu hành, đời đời kiếp kiếp đều đang
tu hành, tu ở chỗ nào? Ở chỗ lục căn tiếp
xúc cảnh giới lục trần, không lúc nào, không chỗ
nào chẳng đang
tu hành. Quư vị thấy một
trăm bốn mươi mốt nguyện này, đây là khi ăn
cơm. Các vị tổ sư đại đức thường
nói: “Ăn cơm, bưng bát cơm lên, quư vị có biết ăn
hay không?” Quư vị nói: “Có ai mà chẳng biết ăn?” Ư nghĩa
chẳng phải ở chỗ đó. Biết ăn th́ ăn
cơm cũng là tu hành. Ăn cơm cũng là đang dụng
công, công phu chẳng bị gián đoạn. Đó là biết
ăn. Chẳng biết ăn, trong khi ăn, bèn dấy lên tham,
sân, si, mạn, dấy động thất t́nh, ngũ dục,
đấy là tạo nghiệp! Tâm luân hồi chắc chắn
sẽ tạo nghiệp luân hồi. Nếu là tâm Bồ
Đề th́ chắc chắn là tu hành. Có thể thấy, về
mặt Sự th́ chẳng khác ǵ nhau. Đấy gọi là Sự
Sự vô ngại; vấn đề là quư vị có biết [tu
hành] hay không?
Ăn cơm th́ tu hành bằng cách nào? Quư vị
hăy nh́n vào lúc [cử hành nghi
thức] Quá Đường trong Phật môn.
Vị thầy duy-na niệm “thực
tồn ngũ quán”, tức là trong khi ăn cơm bèn có năm
vấn đề quư vị phải suy tưởng:
1) Thứ nhất là “kế công đa thiểu, lượng bỉ lai xứ” (xét chính ḿnh có công đức nhiều
hay ít, hăy suy lường những vật thực ấy do đâu
mà có),“kế” (計) là quư vị hăy suy nghĩ. Quư vị có bao nhiêu công
đức, hăy nghĩ xem chính ḿnh có bao nhiêu công đức.
Hăy nghĩ xem bữa cơm này do đâu mà có? Trong phần trước,
chúng tôi cũng đă nói, khi [giảng về phần] khất thực
cũng đă đề cập. Khất thực là quư vị
xin được bát cơm này, có được bát cơm
này chẳng dễ dàng! Bao nhiêu người đă nhọc nhằn
cúng dường, qua bữa ăn này, chúng ta mới có thể hưởng
thụ bát cơm này. Khi ăn cơm, có suy ngẫm [điều
ấy] hay chăng? Thường nghĩ như vậy, sẽ
biết báo ân chúng sanh. Để báo ân th́ nhất định
phải tri ân; chẳng biết ân, cái tâm báo ân làm sao có thể
sanh khởi cho được? Nếu có thể thường
quán như vậy, đối với tất cả hết
thảy chúng sanh, quư vị nhất định sẽ tôn kính,
nhất định sẽ có tâm yêu thương, khi hết
thảy chúng sanh cần giúp đỡ, quư vị nhất
định sẽ toàn tâm toàn lực x̣e tay giúp đỡ. V́
sao? Đôi bên có ân với nhau!
Đối với bát cơm ấy, nói gần
gũi th́ người nấu cơm có ân. Nếu là trong tự
viện, am, đường, người cộng tu đông
đảo, người nấu cơm trong bếp không chỉ
là một người. Có người thái rau, có kẻ xào
rau; bếp ḷ xưa kia phải nhóm lửa, có người
chuyên trách đốt lửa, chẳng phải là một người!
Chẳng có những người ấy chung sức hợp
tác, cơm và thức ăn lấy đâu ra? Những người
làm việc trong nhà bếp thảy đều có ân đức!
Nếu nghĩ xa hơn, gạo do đâu mà có? Thức ăn
do đâu mà có? Dầu từ đâu mà có? Muối từ
đâu mà có? Càng suy, sẽ càng rộng! Nông dân cày ruộng, nông
dân gặt lúa, nông dân giă gạo, nông dân trồng rau. Quư vị
hăy ngẫm xem, c̣n có kẻ chuyên chở, quư vị sẽ biết
là có bao nhiêu người đă phục vụ cho quư vị,
lẽ nào chẳng có ân đức ư? Thiếu một mắt
xích, sẽ chẳng có cơm và đồ ăn! Sau đấy,
quư vị mới nghĩ con người sống trong thế
gian, xác thực là như Phật pháp đă nói: “Nương
vào đại chúng, dựa vào đại chúng”. Chúng ta sanh tồn,
ăn uống, sinh hoạt hằng ngày đều phải nương cậy quảng đại quần chúng, ai nấy đều v́ ta, ta có v́ mọi người hay chăng? Có nghĩ
đến vấn đề này hay không? Quư vị có nghĩ
đến những điều này, sẽ biết ân. Sau đấy,
quư vị mới biết: Ta trong cương vị của chính
ḿnh, phải biết thực hiện tốt công việc thuộc
về cương vị của chính ḿnh ḥng báo đáp họ.
Đó gọi là báo ân.
Đệ tử của đức Phật đă
xuất gia, chẳng theo đuổi sự nghiệp sản
xuất. Trong xă hội, kẻ làm những nghề chẳng
trực tiếp sản xuất cũng rất nhiều;
trong xă hội chẳng thể thiếu khuyết những
nghề nghiệp ấy. Nghề nghiệp của đệ
tử Phật là ǵ, quư vị phải hiểu rơ ràng, phải
hiểu minh bạch, chính là dạy học. Học Phật,
Phật là Thích Ca Mâu Ni, quư vị phải ngẫm xem thuở
Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, suốt đời Ngài làm
ǵ? Dạy học, [nói chi tiết hơn sẽ là] cầu học
và dạy học. Mười chín tuổi, Ngài ĺa bỏ gia đ́nh,
vứt bỏ hết thảy để cầu học. Ba mươi
tuổi thành đạo, chúng ta nói là “tốt nghiệp”. Từ
mười chín tuổi đến ba mươi tuổi, người
Hoa tính cả đầu lẫn đuôi là mười hai
năm. Trong mười hai năm ấy, Ngài tầm sư
phỏng đạo, đạo nghiệp thành tựu. Sau
khi đă thành tựu, suốt một đời từ ba mươi
tuổi cho đến bảy mươi chín tuổi, lăo nhân
gia bảy mươi chín tuổi viên tịch, bốn mươi
chín năm theo đuổi công tác dạy học, công tác giáo
dục. Giáo dục có trọng yếu hay không? Trọng yếu!
Do v́ thầy chẳng theo đuổi sự
nghiệp sản xuất, học tṛ phải chiếu cố
cuộc sống của thầy, chắc chắn là có nghĩa
vụ phải chiếu cố. Trong kinh, đức Phật
đă dạy chúng ta điều này: Nhục thân của
chúng ta do cha mẹ mà có, cho nên phải hiếu thuận đối
với cha mẹ. Cha mẹ nuôi nấng chúng ta; khi cha mẹ
đă già, chúng ta phải chăm sóc, phải báo đáp cha mẹ.
Ngoài thân mạng ra, chúng ta c̣n có huệ mạng; trí huệ, kiến thức thông thường và năng
lực của chúng ta do đâu mà có? Từ thầy mà đạt
được! V́ thế, đối với thầy, phải
hiếu thuận, phải chăm sóc thầy. Thầy chăm
sóc cả nhà chúng ta, cả nhà chúng ta phải chăm sóc thầy.
V́ sao? Đôi bên có ân đức với nhau! V́ thế, trước khi có thành tựu, hăy nghiêm
túc học tập, đó là đúng. Sau khi đă học thành
công, bèn giáo hóa chúng sanh. Trước hết, phải nghĩ
đến điều này!
2) Điều thứ hai là phải nghĩ đến
đức hạnh của chính ḿnh. Ta có bao nhiêu đức
hạnh để tiếp nhận cúng dường? Có thể
nghĩ đến chỗ này, tâm khiêm hư cung kính của
ta sẽ tự nhiên sanh khởi. Đức Thế Tôn đă
nêu gương tốt nhất cho chúng ta: Đức Thế
Tôn thật sự là bậc đại đức, đại
năng, nhưng hằng ngày, Ngài tiếp nhận tín đồ
tại gia cúng dường một bát cơm mà thôi, chẳng
tiếp nhận nhiều. Nay chúng ta ngoài tiếp nhận tứ
sự cúng dường của tín đồ ra, tức y phục,
đồ trải nằm, thuốc men, hiện thời c̣n
có nhà cửa, c̣n có tài vật. Đức Phật chắc chắn
chẳng cho phép những thứ ấy, phải hiểu điều
này. Đức Phật chẳng cho phép th́ làm như thế
nào? Chúng ta tiếp nhận rồi dùng nó để làm Phật
sự th́ là chánh xác, chớ nên để chính ḿnh hưởng
thụ. Tự ḿnh hưởng thụ là phạm lỗi lầm,
quư vị sẽ có lỗi với Thích Ca Mâu Ni Phật, có lỗi
với lịch đại tổ sư đại đức,
có lỗi với Phật giáo, mà cũng có lỗi với chúng
sanh!
“Phật sự”
là ǵ? Phật sự trong hiện thời chẳng ngoài hai
chuyện, một là hoằng pháp lợi sanh, hai là bồi dưỡng
nhân tài kế thừa sự
nghiệp hoằng pháp. Hai chuyện này là đại
sự! Đức Phật thường nói “đại sự nhân duyên”. Cơ sở của
hai chuyện này là một chuyện quan trọng nhất, đó
là ǵ? Chính ḿnh trong đời này xác thực có năng lực
vượt thoát lục đạo luân hồi. Chúng ta tu Tịnh
Tông, thù thắng hơn đôi chút, chướng ngại ít hơn
một chút, đới nghiệp văng sanh. Ngẫu Ích đại
sư đă nói hết sức hay: Có thể hạ hạ phẩm
văng sanh, sẽ xứng đáng với Thích Ca Mâu Ni Phật, xứng đáng với cha mẹ, xứng đáng
với tổ tông, xứng đáng với trai chủ. Trai chủ đến cúng dường nhằm
tu phước, quư vị thật sự văng sanh, hồi
hướng phước báo ấy cho họ, họ sẽ thật
sự có thể tu phước được.
Thử hỏi bản thân chúng ta trong đời
này có nắm chắc văng sanh hay không? Trong các buổi giảng,
chúng tôi đă nói về vấn đề này quá nhiều! Người
nào sẽ nắm chắc văng sanh? Thân, tâm, thế giới, hết
thảy buông xuống, chẳng lưu luyến thứ ǵ
trong thế gian này, nhất tâm hướng Phật, [người như vậy] chắc chắn sẽ được văng sanh. Những điều kinh Vô Lượng Thọ dạy chúng ta, phải đọc
tụng, phải lư giải, phải y giáo phụng hành. Chính
ḿnh đă nắm chắc chuyện này, sau đấy, quư vị mới làm chuyện hoằng pháp lợi sanh,
lại làm chuyện bồi dưỡng nhân tài. Đó là chuyện
đáng nên làm, sau
khi đă tự độ sẽ độ người
khác. Chính ḿnh chẳng đắc độ, vậy th́ là ǵ?
Giảng kinh, thuyết pháp nhằm luyện tập. Luyện
tập th́ trong quá khứ thầy dạy chúng tôi, chỉ cho
phép [giảng diễn] trong nhà, chẳng thể ra ngoài, [chỉ cho phép] luyện tập ở nhà! Thầy tôi là cư sĩ tại
gia, là hàng tại gia, có hai đạo tràng, một là Từ
Quang Đồ Thư Quán, hai là Đài Trung Liên Xă; khi ấy,
tôi ở Từ Quang Đồ Thư Quán. Chẳng cho phép ra
ngoài giảng kinh, chẳng thể!
Học đến mức cũng gần như có thể ra ngoài giảng kinh, thầy hạn
chế, chẳng hơn bốn mươi tuổi sẽ không
được. Tuổi quá trẻ, sức dụ dỗ, mê hoặc
từ bên ngoài quá to, sợ quư vị
chẳng chống nổi sự dụ dỗ, mê hoặc. Hễ tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, quư vị sẽ ngă ḷng. T́nh h́nh này từ xưa đến nay
luôn có; do vậy, chúng ta phải hiểu: Trước kia là
hoàn cảnh ǵ, hiện thời là hoàn cảnh ǵ. Tôi theo học
với thầy từ năm mươi năm trước;
năm mươi năm sau, sức dụ dỗ, mê hoặc
trong xă hội hiện thời so với sức dụ dỗ,
mê hoặc trong xă hội thuở ấy th́ tối thiểu
phải là tăng trưởng gấp mười lần.
Hiện thời, người từ bốn mươi tuổi
trở lên đi ra ngoài [giảng
kinh] được chưa? Rất dễ
bị mê hoặc, vậy th́ làm như thế nào? Lại phải nâng cao hơn,
năm mươi tuổi, ước chừng như vậy
đó.
Chúng ta hăy nghĩ tới quốc sư Ngộ
Đạt đời Đường. Quốc sư mấy
tuổi đă giảng kinh? Truyện kư ghi chép Ngài đi
giảng kinh lúc mười bốn tuổi, [c̣n là] sa-di. Sa-di
giảng kinh cho hàng tỳ-kheo nghe. Ngài thông minh tuyệt đỉnh;
đấy là quốc sư của cả một thời đại,
chúng ta nói là “thiên tài nhi đồng”
của Phật pháp, cũng là thật sự có phước
báo. Quư vị thấy Huệ Năng đại sư hai mươi
bốn tuổi khai ngộ, c̣n phải tới ẩn náu
trong đội thợ săn, ẩn náu mười lăm
năm mới ra. V́ thế, khi Huệ Năng đại
sư ra giảng kinh, Ngài đă bốn mươi tuổi. Đó
là bậc đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh. Quư vị thấy các Ngài đă thị hiện như thế
ấy, chúng ta chớ nên không biết. Chẳng cần nói là
thời cổ, xă hội trong một trăm năm trước
thuần phác hơn xă hội hiện thời rất nhiều,
tôi thường cảm thán, chuyện này các vị đồng
tu đă lâu đều rất quen thuộc. Ba mươi năm
trước, lần đầu tiên tôi đến Hương
Cảng, người Hương Cảng thuở ấy ăn
ở nồng hậu hơn hiện thời nhiều lắm, thuần
phác hơn quá nhiều!
Do vậy, chúng ta suy gẫm quá khứ, rồi
chú tâm quan sát hiện thời, trong tâm của chính ḿnh phải
hiểu rơ: Bên trong là tập khí tham, sân, si rất nghiêm trọng,
sức dụ dỗ, mê hoặc bên ngoài mạnh mẽ dường ấy. Chính ḿnh phải ước thúc chính ḿnh, ta không
chống nổi sự dụ hoặc, sẽ chẳng ra ngoài,
đó là đúng. Lục
căn ở trong cảnh giới lục trần
mà như như bất động th́ được, vậy
th́ phải nên làm công tác hoằng pháp lợi sanh. Chỗ nào
mời cũng đều có thể đến đó, nêu gương
tốt nhất cho người ta.
Tấm gương tốt nhất là
ǵ vậy? Chắc chắn là chẳng có tiếng tăm, lợi
dưỡng. Giảng kinh, thuyết pháp th́ phải luôn tôn
trọng, phải cung kính người khác, thông thường
là chẳng thâu nhận kẻ quy y, không tiếp nhận cúng
dường. Tín đồ yêu cầu truyền trao Tam Quy, bèn
thỉnh vị trụ tŕ hoặc phương trượng của đạo tràng, thỉnh vị ấy chủ tŕ lễ
Tam Quy, pháp sư giảng kinh chẳng làm chuyện này.
Tất cả những món cúng dường
đều phải đem cúng dường cho thường
trụ, chẳng lấy một xu nào. Thường trụ
cúng dường pháp sư tối đa là chi phí đi lại.
Đối với chi phí đi lại, thông thường là chúng
ta đều chẳng nhận tiền tài. Ngồi xe th́ quư
vị mua vé khứ hồi, ngồi thuyền th́ mua vé thuyền
đi và về, thế là được rồi! Như vậy th́ quư vị mới có thể nêu gương tốt cho người
khác, pháp duyên của quư vị sẽ rất thù thắng, mỗi
nơi đều rất vui thích mời quư vị. Nếu quư
vị đi khắp nơi truyền quy y, ở khắp nơi
đều tiếp nhận cúng dường, những đạo
tràng đă mời quư vị lần sau chẳng dám mời quư
vị nữa. V́ sao? Mời quư vị th́ tín đồ của
tôi bị quư vị kéo đi hết, tiền cúng dường
bị quư vị ôm đi rồi, chẳng thỉnh quư vị
nữa! Phải hiểu đạo lư! Ở chỗ nào cũng
đều nêu gương tốt đẹp. Hăy ngẫm xem
Thích Ca Mâu Ni Phật làm như thế nào, ta cũng sẽ học
đ̣i làm giống như Ngài!
Thuở đức Thế Tôn tại thế
cũng là khắp nơi đều có người mời
Ngài đến giảng kinh, dấu chân Ngài in khắp năm
xứ Ấn Độ. V́ thời đức Phật, giao
thông toàn là đi bộ. V́ thế, tiếp nhận những
món cúng dường là thức ăn, quần áo, đồ
trải nằm, và thuốc men khi bệnh tật. Trừ những
món này ra, nhất loạt chẳng có ǵ hết. Chúng ta nhất
định phải hiểu rơ, phải hiểu minh bạch,
phải học theo Thích Ca Mâu Ni Phật, y giáo phụng hành. Hiện
thời, tuy tiếp nhận cúng dường nhiều hơn,
nhất định phải thường nghĩ chúng ta có đức
hạnh này hay không, có thể gánh nổi hay chăng? “Một hạt gạo thí chủ, to như núi Tu Di,
đời này chẳng liễu đạo, mang lông đội
sừng đền!”, phải luôn nhớ nhé!
3) Thứ ba là “pḥng
tâm ly quá, tham đẳng vi tông” (chú trọng ngăn ngừa cái tâm đừng
phạm lỗi, tham lam v.v..).
Khi khất thực, nay chúng ta không khất thực, mỗi
ngày tiếp nhận cúng dường, khi dùng cơm, chớ
nên tăng trưởng tâm tham, thích ăn món này, ưa ăn
món nọ, chớ nên! Nay chúng ta dùng cơm cũng phải làm
ǵ? Phải tưởng như do khất thực [mà có chén cơm
ấy], ba bữa cơm mỗi ngày đều phải tưởng
như khất thực. Khất thực là người ta
cho ǵ ăn nấy, chẳng chọn lựa. Từ trong ấy,
sẽ sanh tâm thanh tịnh, sanh tâm b́nh đẳng, sanh tâm cảm
ân th́ là đúng.
4) Điều thứ tư, tức là nói quư
vị phải nên tiếp nhận [như thế nào]. V́ sao?
Đây là chuyện chánh đáng, đây là lương dược
(良藥, thuốc
thang tốt lành). Bản thân chúng ta tu học cần thân thể
này, chúng ta dùng nó để làm Phật sự. Chư vị
phải nhớ, Phật sự, trong kinh Phật thường
nhắc đến “Phật sự”,
chẳng phải là làm kinh sám, chẳng phải là làm pháp hội.
Hiện thời, hễ nói đến Phật sự, [bèn hiểu
là] làm kinh sám, làm pháp hội. Thuở đức Phật tại
thế, Phật sự là giảng kinh, là dạy học, Ngài
chẳng làm chuyện ǵ khác! Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại
thế, chẳng hề có chuyện làm kinh sám siêu độ,
chẳng có! V́ sao? Ngạ quỷ đạo cần siêu độ,
đức Phật sẽ
hiện thân ngạ quỷ vào trong đường
ấy để giáo hóa, đáng nên dùng thân ǵ để độ
họ, bèn hiện thân ấy. Hiện thân người trong
nhân đạo, nhằm độ con người. Chẳng
thể dùng thân người để độ quỷ. Muốn
độ súc sanh, nhất định hiện thân súc sanh, sống
cùng với súc sanh. Chư Phật, Bồ Tát thảy đều
là như vậy. Con người cũng chẳng thể độ súc sanh,
hiện thân người th́ chắc chắn là để độ
con người. Chớ nên không hiểu rơ chuyện này. V́ thế,
Phật sự là tự ḿnh học tập, đấy là Phật
sự. Chính ḿnh học tập là tự giác, dạy học
là giác tha.
Nói thật ra, Phật giáo cùng giáo dục trong
nhà trường hiện thời hoàn toàn giống nhau! Cả
một đời, những ǵ đức Thế Tôn đă làm
trong suốt bốn mươi chín năm là dạy học,
giảng kinh hơn ba trăm hội. Nay chúng nói là “tổ chức
các hoạt động”. Tổ chức hoạt động dạy học, “hội” như đă nói chính là
tổ chức hoạt động. Suốt đời, Ngài
đă làm hơn ba trăm lần; trong bốn mươi chín năm, Ngài đă làm hơn ba trăm lần, mỗi năm làm rất nhiều
lần. Quy mô các hoạt động ấy có lớn hay nhỏ,
thời gian có dài hay ngắn chẳng nhất định.
Nay từ Đại Tạng Kinh, chúng ta thấy các hoạt
động lớn thời gian rất dài, cũng chẳng nhất
định là ở một nơi nào. Quư vị thấy như
kinh Hoa Nghiêm chẳng hạn, kinh Hoa Nghiêm là “bảy xứ, chín hội”, nơi chốn khác
nhau, ở bảy nơi, thay đổi bảy nơi, thực
hiện chín lần, kết hợp lại. Đấy là một
đơn vị lớn. Một đơn vị lớn như
vậy chia thành nhiều đoạn nhỏ ngần ấy,
tức là ba mươi chín phẩm. Nếu nói theo phương
diện nhỏ hơn, mỗi phẩm chính là một hội!
Như kinh Đại Bảo Tích, chư vị
biết kinh Đại Bảo Tích có tất cả bốn mươi
chín bộ kinh. Quư vị bèn biết là trong một đơn
vị ấy, có tối thiểu bốn mươi chín lần
giảng ṭa, cũng chẳng phải là ở một chỗ,
cũng chẳng phải là đồng thời. Trong kinh Đại
Tập có mười bảy bộ kinh, quư vị biết đó
là mười bảy hội, mười bảy lần, thời
gian và địa điểm cũng bất đồng. Đó
là một đơn vị lớn. Đơn vị nhỏ
th́ như trong A Hàm, có một hội, tổ chức một
lần, [trong thời gian] một ngày, hoặc càng nhỏ hơn
nữa, nửa ngày. Chúng ta phải biết điều này. Đức
Phật mở lớp dạy học là v́ người, v́ sự,
v́ thời mà ấn định, hoàn toàn chẳng cố định.
Giống như trong hiện thời, các đồng tu từ
các nơi bên ngoài t́m đến, hễ có những vấn
đề chẳng thể giải quyết, chúng ta đặc
biệt mở lớp cho họ, giảng cho họ một
buổi trong hai tiếng đồng hồ, giúp họ giải
quyết vấn đề. V́ sao? V́ vấn đề của
họ có tánh chất chung, c̣n có khá nhiều người cũng có vấn
đề tương tự. Đấy là lư do phải mở lớp, quư vị bèn
hiểu nguyên nhân. Đức Phật từ bi, dạy dỗ
chẳng phân biệt, bất luận vấn đề nghi
nan ǵ quư vị xin Ngài dạy cho, Ngài sẽ đều giảng giải cho quư vị. Lại
c̣n giảng giải công khai, có rất nhiều người
nghe, v́ trong thế gian này, quư vị có vấn đề ấy
th́ người khác cũng có.
Bởi lẽ đó, chúng ta coi chuyện này là
chuyện chánh yếu, v́ sự cầu học của chính
ḿnh, v́ chính ḿnh trong tương lai sẽ giáo hóa chúng sanh, phải
nên tiếp nhận một bát cơm này. Quư vị chẳng
có thân thể, sẽ chẳng thể thành tựu “tự hành,
hóa độ người khác” được! Chúng ta v́ muốn
thành tựu đạo nghiệp của chính ḿnh, muốn giáo
hóa chúng sanh; do vậy, phải nên tiếp nhận sự cúng
dường này. Khi ăn cơm, phải nghĩ đến điều
này. Từ bài kệ này, chúng ta mở rộng ư nghĩa, hiện
thời, nhất định phải hiểu: Phàm là tiếp
nhận cúng dường, đều phải nên nghĩ tưởng:
“Ta có nên tiếp nhận sự cúng dường này hay chăng?
Ta có hội đủ điều kiện để tiếp
nhận sự cúng dường này hay chăng?” Nhất định
phải suy nghĩ! Đồ cúng dường ấy rất
khó tiêu hóa, chúng ta nói là “tiêu thụ”.
Rất khó tiêu thụ! Thật sự nhằm thành tựu
đạo nghiệp của chính ḿnh, v́ chánh pháp tồn tại
lâu dài, v́ hoằng pháp lợi sanh, sẽ chẳng có vấn
đề, nhất định phải tiếp nhận món
[cúng dường] ấy!
“Thành tựu đạo
nghiệp”, phải ghi nhớ câu này. Trong đạo nghiệp,
chẳng có ích kỷ, chẳng có tiếng tăm, lợi dưỡng,
chẳng có ngũ dục, lục trần, chẳng có tham,
sân, si, mạn. Đấy là đạo. Hễ xen tạp những
thứ ấy, những quan niệm ấy nói theo Phật pháp,
sẽ là tâm luân hồi. Phàm là tâm luân hồi làm chủ, bất
luận làm sự nghiệp ǵ, đều gọi là “nghiệp luân hồi”. Ta hằng
ngày đọc kinh, hằng ngày niệm Phật, hằng ngày
giáo hóa chúng sanh, v́ người khác diễn nói, nhưng mục
đích của ta là ích kỷ, v́ cầu tiếng tăm, lợi
dưỡng, ta chẳng đoạn tham, sân, si, mạn; đấy
vẫn là tâm luân hồi. Thực hiện sự nghiệp Phật
giáo, giáo hóa chúng sanh, khá lắm, rất tốt, cũng là tự
hành, hóa độ người khác, nhưng trong ấy vẫn
là thật sự có người tiếp nhận sự giáo
hóa, vậy th́ người ấy thật sự đắc
độ, nhưng chính ḿnh chẳng đắc độ. Chính ḿnh nghiệp
chướng tập khí rất nặng, chính ḿnh vẫn y như
cũ tạo nghiệp luân hồi, có thể thoát ĺa lục
đạo hay chăng? Chẳng thể! Có thể văng sanh hay
không? Cũng chẳng thể! Quả báo của những
nghiệp ta đă gây tạo ở chỗ nào? Quả báo là phước
báo trong đời sau!
Do vậy, trong thế gian này, quư vị nh́n vào
Phật giáo sử Trung Hoa, hăy xem Cao Tăng Truyện, xem Cư
Sĩ Truyện, xem các điều được ghi chép
trong những bộ sơn chí, [sẽ thấy] có rất nhiều
đế vương, quan chức quư nhân hiển đạt
đời trước đều là người tu hành. V́
sao họ chẳng ĺa khỏi lục đạo? V́ sao chẳng
văng sanh? Đời trước đă tu tập rất khá,
[thế mà] vẫn luân hồi trong lục đạo, hưởng
phước trong lục đạo. Chúng ta thấy những
quan chức, quư nhân hiển đạt trong thế gian, có địa
vị xă hội rất cao, có của cải rất lớn, tu từ nơi đâu? Toàn là do đời
trước đă tu trong Phật môn. Nhưng hiện thời
trong số những người tu hành, xác thực là có những
kẻ tu hành hoàn toàn chẳng nhằm mục đích mong thoát
ly lục đạo luân hồi, cũng chẳng thật sự
mong văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Họ
mong đời sau làm quan to, giàu sụ, có thể đạt
được hay không? Có thể đạt được,
nhưng đạt được lợi ích quá ư nhỏ bé!
Quư vị làm quan to, giàu sụ, có thể tiếp
tục tu nữa hay không? Nếu chẳng thể tu tiếp, phước
của quư vị hễ hưởng xong sẽ chẳng c̣n!
Thử hỏi, quư vị làm quan, phát tài, có tạo nghiệp
hay không? Hễ nghĩ đến chỗ này, sẽ đáng
sợ lắm. Hưởng hết phước báo rồi,
nghiệp lực lại hiện tiền, đời thứ
ba th́ sao? Đời thứ ba bèn đọa trong tam
đồ. Trong kinh, đức Phật đă dạy điều
này rất rơ ràng. Phật môn gọi là “tam thế oán”. Đời này, quư vị xuất
gia tu hành rất khá, nhưng chẳng đoạn tập khí
phiền năo, chẳng đoạn ḷng ích kỷ, vẫn hâm mộ
tiếng tăm, lợi dưỡng, hy vọng đời
sau có thể đạt được. Đời sau sẽ đạt được, [hóa ra] tu hành suốt cả
đời này nhằm [đổi lấy] phú quư trong đời sau!
Kẻ phú quư tạo nghiệp dễ hơn kẻ bần cùng. Quư vị xem Liễu Phàm Tứ Huấn,
[sẽ thấy] tiên sinh Viên Liễu Phàm làm tri huyện Bảo
Tŕ. Ông ta làm quan, Bảo Tŕ là một huyện lớn, làm thiện,
tạo ác đều dễ dàng. Ông ta tạo điều thiện.
Ông ta có quyền bèn giảm miễn tiền địa tô của
nông dân trong cả huyện. Ông ta nói địa tô quá cao, do
quốc gia thâu thuế rất nhiều, bèn giảm nhẹ
tiền thuế. Quư vị thấy nông dân cả huyện thảy
đều được phước, ông ta dễ dàng làm như
vậy, chuyện này đúng là “vạn
dân chịu ân huệ”, dễ dàng! Nếu ông ta tạo tác
tội nghiệp, cũng rất dễ dàng. Ông ta nói “tiền
thuế quá nhẹ, hăy tăng thêm một chút”. Hễ tăng thêm
một chút, ngàn vạn nông dân sẽ bị tăng thêm gánh nặng!
Làm thiện hay tạo ác đều dễ dàng. V́ vậy, xưa kia,
Chương Gia đại sư bảo tôi: “Nếu anh làm quan, một chánh sách sai lầm sẽ
gây hại cho bao nhiêu người, tăng thêm gánh nặng
cho bao nhiêu người. Nhân quả ấy phải gánh, chớ
nên không biết điều này! Do đó, hưởng xong
phước, nghiệp báo sẽ hiện tiền, đến
đời thứ ba, nhất định đọa trong tam
đồ, chẳng được làm thân người. V́
thế, gọi là “tam thế oán”, [nghĩa là] đời thứ
nhất tu phước, đời thứ nh́ hưởng
phước, đời thứ ba đọa lạc, sai lầm
mất rồi!”
Khi Bồ Tát ăn cơm, quư vị thấy
Ngài phát nguyện, “Thiền duyệt
vi thực, pháp hỷ sung măn” (niềm vui Thiền Định làm thức ăn, niềm
vui nơi pháp tràn ngập). Nói cách
khác, khi Ngài xin được bát cơm, chẳng nghĩ cơm
ấy là thơm ngon, hay là không ngon, là nhu nhuyễn hay thô tháp. Ngài chẳng
có ư niệm ấy. khi ăn chỉ biết cho khỏi đói,
chỉ biết là ta hấp thụ món dưỡng chất
này để thân thể được khỏe mạnh, khéo
tu tập. Ngài chỉ nghĩ tưởng điều này; do
vậy, ư niệm vừa chuyển, sẽ giống như một
người thật sự đắc đạo. Thật
sự đắc đạo, chẳng cần ăn uống,
đến khi nào? Đối với Sắc Giới th́ Dục
Giới có ăn uống. Dục Giới có sáu tầng trời,
càng lên cao hơn, [ngũ dục] càng mỏng; Sắc
Giới Thiên chẳng có ăn uống, ngũ dục, lục
trần đều đoạn hết. Sắc Giới chẳng
cần ăn uống, chẳng cần ngủ nghỉ; tài,
sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ đều chẳng
có. Nay đă hết thời gian rồi, chúng ta nghỉ ngơi
mấy phút!
***
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem bài kệ tiếp
theo:
(Kinh) Nhược thọ vị thời, đương
nguyện chúng sanh, đắc Phật thượng vị,
cam lộ măn túc.
(經)若受味時。當願眾生。得佛上味。甘露滿足。
(Kinh: Nếu khi nếm vị, nguyện cho chúng
sanh, được thượng vị của
Phật, cam lộ trọn đủ).
Chúng ta là phàm phu, chẳng đoạn vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước. Bồ Tát tuy
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước
đều đă
đoạn, tập khí vẫn chưa
đoạn. V́ thế, đôi khi c̣n có sự nhận biết
vị, đấy là tập khí. Đúng như trong thí nghiệm
của tiến sĩ Giang Bổn Thắng, chúng ta biết nước
là khoáng vật, chắc chắn là nó chẳng có vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, quyết
định chẳng có. V́ sao nó có thể dấy lên phản
ứng đối với ư niệm thiện hay ác của
con người? Từ chỗ này, chúng ta có thể dần dần
lănh hội “thọ vị thời”
(khi cảm nhận vị). Phản ứng của nó là thấy,
nghe, hay, biết. Sự “thấy,
nghe, hay, biết” ấy hoàn toàn chẳng giống sự
thấy, nghe, hay, biết của chúng ta. Chúng ta là phiền
năo thô nặng, c̣n nó (nước) là tập khí. Nếu chẳng
có tập khí, làm sao nó có thể có phản ứng như vậy
cho được?
Từ chỗ này, chúng ta mới thật sự
hiểu điều kinh Hoa Nghiêm đă nói: “T́nh và vô t́nh, cùng viên thành Chủng Trí”. “T́nh” (情) là hữu t́nh chúng sanh, tức động vật, “vô t́nh” là thực vật và khoáng
vật, cùng viên thành Chủng Trí. V́ sao? Cùng chung một Pháp
Thân, cùng một Pháp Tánh, mà Pháp Tánh vốn trọn đủ
“thấy, nghe, hay, biết, trí huệ, đức tướng”.
Chẳng có sanh diệt, chẳng có đến, đi; chẳng
có một, khác! Trung Quán dùng Bát Bất (八不) để
h́nh dung nó (Pháp Tánh). Chỉ cần có sắc tướng, sẽ
là cùng một Pháp Tánh. Đă là Tánh, chắc chắn có có trọn
đủ Tánh Đức. “Thấy, nghe, hay, biết, sắc,
thanh, hương, vị” là Tánh Đức. Chẳng cảm
nó, nó chẳng dấy lên hiện hành. Có cảm, nó sẽ khởi tác
dụng, cảm ứng đạo giao. Chuyện là như
thế đó. Ngay cả đối với những khoáng vật,
chúng ta khởi tâm động niệm đều là có cảm.
Há lẽ nào chư Phật, Bồ Tát, Pháp Thân đại
sĩ chẳng cảm ứng? Phải hiểu đạo
lư này.
Chúng ta dùng tâm thanh tịnh, tâm chân thành, sẽ
khởi cảm ứng. Ngược lại, giống như
thí nghiệm với nước, chúng ta dùng tâm hạnh bất
thiện, phản ứng [kết tinh của nước] sẽ rất xấu xí. Xấu xí là ǵ? Xấu xí là cảnh
giới ma, tốt đẹp là cảnh giới Phật. V́
thế, thiện tâm, thiện nguyện bèn cảm Phật, ác
niệm sẽ cảm ma. Ma chắc chắn sẽ vùi dập
quư vị, chớ nên không biết điều này. Vùi dập
quư vị là ǵ vậy? Sanh phiền năo, tham, sân, si, mạn, giống
như trong Đàn Kinh, Lục Tổ đại sư đă
nói, hết thảy các ư niệm bất thiện, ư niệm tà
mê, ư niệm tổn hại chúng sanh, ư niệm kiêu căng,
ngă mạn, những ư niệm ấy đều sanh khởi.
Đàn Kinh đă nêu ra rất nhiều ví dụ. Đúng là
trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, quư vị thấy
[lỗi lầm của] người khác, hăy quay lại nh́n chính
ḿnh, chính ḿnh có [những lỗi lầm ấy] hay không? Có chứ,
thật sự có!
Phàm là có những ư niệm ấy dấy lên,
quư vị nhất định phải cảnh giác, những
ư niệm ấy là ǵ? Những ư niệm ấy là tâm luân hồi.
Ở trong luân hồi để làm ǵ? Chúng ta tu học Phật
pháp đă nhiều năm ngần ấy, đă hiểu rất
rơ ràng, rất minh bạch: Ở trong luân hồi để báo
ân, báo oán, đ̣i nợ, trả nợ. Chúng ta hăy ngẫm
xem, trong đời này, chúng ta đối xử với hết
thảy chúng sanh là ân nhiều hay oán nhiều? Là hoàn trả
nhiều hay thâu tóm nhiều? Thâu tóm nhiều sẽ phải trả
nợ, oán hận nhiều th́ quư vị phải hứng chịu
người khác đ̣i mạng, khá nhiều hăm hại
chướng ngại, khiến cho quư vị trong một đời
này chuyện ǵ cũng chẳng vừa ư, chướng duyên
lắm nỗi! Kẻ ấy gặp gỡ những quả
báo đó, quư vị hăy nghĩ xem, đau khổ quá! Liễu
giải chân tướng sự thật, phải từ nội
tâm của chính ḿnh mà phản tỉnh, sửa lỗi đổi
mới.
Du Tịnh Ư Công Ngộ Táo Thần Kư hiện
thời đă được quay thành phim nhiều tập,
chẳng dài, h́nh như chỉ có tám tiếng đồng hồ,
hy vọng mọi người sẽ nghiêm túc xem. Đó là một
người đọc sách, tập khí rất sâu, rất nặng,
chính ḿnh chẳng biết, vẫn tưởng chính ḿnh rất
chánh trực, quang minh lỗi lạc, chẳng làm chuyện
thiếu suy xét. Táo thần nói toạc từng chuyện ra, ông
ta (Du Tịnh Ư) mới thật sự giác ngộ: Nguyên lai khởi
tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, đúng hệt
như kinh Địa Tạng đă dạy: “Không ǵ chẳng phải là tội, không ǵ chẳng phải
là nghiệp”. V́ thế, suốt đời lận đận,
nhà tan, người mất. Ông ta c̣n đôi chút thiện tâm,
c̣n biết cảm thấy hổ thẹn. V́ thế, mới
cảm thiện thần. Táo thần là thiện thần, đến
chỉ điểm, hóa độ, dạy ông ta phải thật
sự phản tỉnh, thật sự sửa lỗi, đổi
mới, v́ những thứ ông ta đă gặp phải đều
là nghiệp báo, chẳng thể oán trời hờn người!
Ông ta tiếp nhận lời khuyến cáo của
Táo thần, hằng ngày phản tỉnh, hằng ngày sửa
đổi. Cái tâm sửa đổi của ông ta vượt
trỗi Viên Liễu Phàm. Ông ta đạt được quả
báo cũng vượt trỗi tiên sinh Liễu Phàm. Bộ Tứ
Huấn của tiên sinh Liễu Phàm được lưu
truyền; ông ta (Du Tịnh Ư) cũng có viết, nhưng chẳng
được lưu truyền. Hiện thời, được
lưu truyền là một bài văn chương do đồng
hương của ông ta là La tiên sinh ghi chép, giống như
truyện kư, ông La viết một bài về kinh nghiệm sửa
lỗi đổi mới của ông Du, cũng
viết rất hay. Ông Du sống cùng thời với tiên sinh
Liễu Phàm, tiên sinh Liễu Phàm nhỏ hơn ông ta mười
tuổi, nhưng tiên sinh Liễu Phàm cũng kéo dài tuổi
thọ. Ông Viên mất lúc bảy mươi bốn tuổi.
Khi tiên sinh Liễu Phàm đă mất, ông Du Tịnh Ư c̣n sống
trên thế gian. Khi mất, Du Tịnh Ư đă tám mươi
tám tuổi. Do đó, thọ mạng của ông ta kéo dài hơn
tiên sinh Liễu Phàm. Đúng là “làm
thiện có thiện báo, làm ác có ác báo, nhân quả báo ứng
chẳng sai suyển mảy may!” Những điều này
đều thuộc về giáo dục nhân quả, chớ nên không biết,
chớ nên không nghiêm túc học tập.
V́ thế, khi tiếp nhận mùi vị, c̣n có
tập khí tiếp nhận mùi vị này, sẽ dẫn phát
hoằng nguyện của Bồ Tát, “đắc Phật thượng vị, cam lộ măn
túc” (được vị thượng diệu của Phật,
cam lộ trọn đủ). Vị của
Phật là khi đạt đến rốt ráo viên măn, nếu
chúng ta hỏi “thượng vị”
là ǵ ư? “Cam lộ” (Amṛta) là tỷ dụ, cam lộ là ǵ? Nhân gian chẳng có, tôi nói một câu cho mọi
người dễ hiểu đôi chút, [cam lộ] là thức
uống ngon nhất của chư thiên, ở trên trời,
chứ trong cơi phàm chẳng có, giống như “nước tám công đức”
(bát công đức thủy) trong thế giới Cực Lạc.
Nhưng nước tám công đức trong cơi Tây
Phương Cực Lạc thế giới vượt trỗi
cam lộ. Chúng ta có thể nói nước tám công đức
trong ao bảy báu nơi thế giới Cực Lạc là “Phật thượng vị”.
Đối với chữ Phật ở đây, chúng ta lư giải
là Phần Chứng Tức Phật, [tức là những vị đă] phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp
Thân trở lên. Nhưng trong
thế giới Tây Phương th́ thù thắng,
v́ sao? Hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng
Cư bèn đạt được Phật thượng vị.
Nếu tu những pháp môn khác, nhất định phải đạt
đến tŕnh độ nào? Phá một phẩm vô minh, chứng
một phần Pháp Thân, mới là “đắc Phật thượng vị, cam lộ măn
túc”. Trong kinh Hoa Nghiêm,
[người như vậy] được gọi là Pháp Thân Bồ Tát, không thuộc trong mười pháp giới, trong mười pháp giới
chẳng có, [các Ngài thuộc vào] Nhất Chân pháp giới. V́
thế, chỉ có thế giới Cực Lạc hoặc thế
giới Hoa Tạng là có thượng vị.
V́ vậy, cảnh giới trong bài kệ này
cao hơn bài kệ trước. Bài kệ trước chỉ
là “Thiền
duyệt vi thực, pháp hỷ sung măn”. Đều để cho chúng ta tham khảo, tham khảo
th́ chúng ta phải nghĩ tới. Đă nghĩ tới bèn
sanh tâm hổ thẹn. V́ trong kinh, đức Phật nhắc
đến tài, sắc, danh vọng, ăn uống, nghỉ
ngơi; đấy là ngũ dục, tức năm thứ dục
vọng. Trong Phật pháp cũng có Ngũ Cái[3]. Cái (蓋) có nghĩa là ǵ? Che đậy Tánh Đức của
chúng ta, [khiến cho] Tánh Đức chẳng thể hiện
tiền. Chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi,
vẫn có thể bỏ năm thứ ấy. Người đă
thoát lục đạo, đương nhiên là chẳng có
[những thứ ấy]. Chúng chẳng thật, là giả.
Trong Sắc Giới Thiên chẳng có [ngũ dục]. Nói cách
khác, quư vị đạt đến Sơ Thiền, tu Thiền
Định đạt được Sơ Thiền, sẽ
chẳng có những thứ ấy, chẳng cần ăn uống,
mà cũng chẳng cần ngủ nghê!
Ngủ nghê là hôn trầm; do đó, chư vị
phải hiểu, thuở tại thế, Thích Ca Mâu Ni Phật
quy định người xuất gia ngủ bốn tiếng
đồng hồ, trung dạ là thời gian để ngủ.
Trung dạ là khi nào? Từ mười giờ tối cho đến
hai giờ sáng. Đó là trung dạ. Từ sáu giờ chiều
đến mười giờ tối là sơ dạ phần,
từ mười giờ tối đến hai giờ sáng
là trung dạ phần, từ hai giờ sáng đến sáu giờ
sáng là hậu dạ phần. Đức Phật dạy mọi
người phải dụng công tu đạo, phải mến
tiếc thời gian. V́ thế, đức Phật dạy mọi
người đi ngủ vào mười giờ, hai giờ
sáng phải thức dậy. Hiện tại là thời kỳ
Mạt Pháp, thể lực của chúng sanh thua sút cổ nhân
quá nhiều. Thật vậy. V́ sao? Hiện thời, thế
giới này ô nhiễm hết sức nghiêm trọng, tạo
thành sự tổn thương rất lớn cho thân thể,
thể lực chẳng bằng cổ nhân. V́ thế, tổ
sư đại đức dạy chúng ta kéo dài thời
gian ngủ ra.
Trong tự miếu, thông thường, thời
gian ngủ nghê đại khái là từ chín rưỡi tối
cho đến ba giờ sáng bèn thức dậy, đấy là
năm mươi năm trước. Khi đó, tôi vừa mới
xuất gia, thời gian nghỉ ngơi trong tự miếu
của chúng tôi là chín giờ rưỡi tối bèn ngủ,
ba giờ sáng thức dậy, rửa ráy. Ba giờ rưỡi
bèn tụng khóa sáng. Khóa sáng đại khái là một tiếng
rưỡi. Tụng xong khóa sáng th́ là bữa sáng. Ăn sáng
xong bèn quét dọn, dọn dẹp vệ sinh. Chúng ta hăy suy ngẫm
về nếp sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày
hiện thời, năm mươi năm trước và năm
mươi năm sau, hoàn cảnh nẩy sanh biến hóa rất
lớn, thường nói là “văn
minh vật chất tiến bộ”. Nhưng sự tiến
bộ ấy như tiến sĩ Thang Ân Tỷ đă nói, mỗi
lần văn minh vật chất tiến bộ, nhân loại
phải trả giá đau đớn, thê thảm, đúng là
chẳng sai tí nào! Người có học vấn, có trí huệ
trong thế gian sẽ thấy rất rơ ràng.
V́ thế, hiện thời thật sự nói
đến tu hành, nói đến thành tựu, v́ sao thời cổ,
tổ sư đại đức dựng
đạo tràng, nhất định phải tạo dựng
A Lan Nhă? A Lan Nhă (Araṇya) là tiếng Phạn, có nghĩa là “nơi thanh tịnh”.
Tạo dựng đạo tràng, “thanh
tịnh” là cách ly xă hội, chẳng bị ô nhiễm bởi xă hội. V́ thế, trước
kia tự miếu đều dựng trong núi sâu, chẳng có
phương tiện giao thông. Theo đường dưới
chân núi đi lên tự viện, khoảng cách ấy cũng phải đi mất một
ngày, hoặc đi cả bảy, tám tiếng đồng
hồ mới đến nơi. V́ thế nói “vô sự bất đăng Tam Bảo
điện” (không có chuyện ǵ, chẳng lên điện
Tam Bảo). Ai muốn hứng chịu nỗi vất vả
ấy? Huống chi dưới chân núi c̣n cách biệt đô
thị hoặc thôn trấn một khoảng xa. V́ sao phải
dựng ở những nơi ấy? Hiếm dấu chân người
lui tới, kẻ b́nh phàm sẽ không ṃ tới, quư vị mới
thanh tịnh.
Nhưng hiện thời phiền phức! Hiện
tại, đường núi đă mở thành quốc lộ,
xe hơi có thể lên xuống. Phiền toái to lớn! Du khách
đến viếng nhiều, hằng ngày tiếp đăi du
khách, há có thời gian để tu hành? Chắc chắn là tâm
t́nh của quư vị bị các du khách nhiễu loạn, chẳng
đạt được tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh
là Thiền. Từ trong tâm thanh tịnh, sanh ra sự hỷ
duyệt th́ gọi là “Thiền
duyệt”. V́ thế, người đắc Thiền Định
mới thật sự là “pháp hỷ
sung măn”. Người ấy chẳng cần ăn uống,
dùng thứ ǵ để nuôi thân thể? Pháp hỷ! Đấy mới là “đắc Phật thượng
vị, cam lộ măn túc”. Hai câu này rất gần nhau, nói
theo thuật ngữ Phật pháp, sẽ là Tương Tự
Tức. Thật sự đắc Phật thượng vị,
cam lộ măn túc, th́ phải vượt thoát lục đạo
luân hồi, ai có thể đạt được? A La Hán, Bích
Chi Phật, Bồ Tát, các vị ấy đạt được!
Chư vị hăy ngẫm xem, Sơ Thiền đă chẳng cần ăn
uống! A La Hán c̣n phải ăn ư? A Na Hàm c̣n phải ăn
ư? A Na Hàm là Tam Quả, các Ngài ở nơi đâu? Ở trong
Tứ Thiền Thiên, tức Ngũ Bất Hoàn Thiên trong Tứ
Thiền, đương nhiên là chẳng cần.
V́ sao A La Hán ở trong nhân gian cần ăn uống?
Các Ngài có thân thể. Các Ngài có cái thân xác thịt. Chư vị
phải hiểu, chư thiên chẳng phải là nhục thân,
nhưng nhục thân của chư thiên trong Dục Giới
Thiên cũng chẳng giống như chúng ta. Quư vị thấy
nhục thân của chúng ta quá thô, chẳng thể biến hóa, từ
trong kinh giáo, chư vị đă đọc thấy điều
này rất nhiều. Kinh điển Đạo gia cũng nói
rất nhiều. Chư thiên Dục Giới từ Tứ Vương
Thiên trở lên, có Ngũ Thông. Quỷ có Ngũ Thông; do vậy, thân quỷ cũng chẳng giống chúng
ta. Họ có thể biến hóa. Trong Ngũ Thông có Thần
Túc Thông. Thần Túc Thông là biến hóa. Họ có thể biến,
giống như bảy mươi hai phép biến hóa của
Tôn Ngộ Không trong Tây Du Kư. Nói thật ra, bảy mươi
hai phép biến hóa đem so với Dục Giới Thiên th́ quá
kém cỏi! Chư thiên Dục Giới không chỉ là bảy
mươi hai biến hóa, đó là do tiểu thuyết gia viết
ra. V́ lẽ đó, thân họ khác thân chúng ta.
Sự biến hóa ấy, nếu dùng nhăn quan
khoa học trong hiện thời để nói, sẽ là sự
chuyển biến giữa năng lượng và vật chất.
Chư thiên Dục Giới biết cách chuyển biến như
thế nào. Họ có thể biến thân thể thành năng
lượng, thân chẳng c̣n nữa! Cũng có thể khôi
phục năng lượng thành cái thân này, năng lượng
trở lại làm vật chất y như cũ, thân thể
này bèn hiện ra. Khi vật chất giải phóng thành năng
lượng, sẽ chẳng thấy
thân thể này nữa.
Hơn nữa, họ có thể biến, cũng chính là biến
thành thân tướng bất đồng. Thân thể loài người
chẳng có cách nào biến hóa, biến kiểu nào cũng đều
chẳng thể biến ra tướng thứ hai. Từ Tứ
Vương Thiên trở lên th́ có thể biến. V́ thế, chúng
ta hiểu lư này. Từ kinh Phật, chúng ta đă thấy tin
tức về sự biến hóa ấy. Sự biến hóa ấy
vẫn thuộc về Thiền Định. Tuy chư thiên
trong Dục Giới chẳng đắc Sơ Thiền, nhưng
họ có công phu tu hành, chúng ta kém xa họ, tâm họ thanh tịnh.
Do vậy có thể biết, điều quan
trọng nhất trong tu hành là ǵ? Là tâm thanh tịnh, đấy
là quan trọng nhất. V́ thế, kinh Kim Cang Bát Nhă nói: “Tín tâm thanh tịnh, bèn sanh Thật
Tướng”. Chúng ta biết Thật Tướng sanh từ
đại định. Tín tâm thanh tịnh là đại định.
Thật Tướng Bát Nhă là bản thể, lư thể của
tự tánh, nó khởi tác dụng là từ bi. Đó gọi là
“đại từ, đại
bi”. Từ chỗ này, chúng ta bèn hiểu, trong cuộc sống
hằng ngày, chúng ta phải nên học như thế nào? Học
thanh tịnh, học chân thành, học từ bi, học b́nh
đẳng, quư vị thật sự nắm được
cương mục của sự tu học Phật pháp.
Trong cuộc sống hằng ngày, xử sự, đăi người
tiếp vật phải biết buông xuống. Điều
thứ nhất trong Lục Ba La Mật của Bồ Tát là
Bố Thí, bố thí là buông xuống.
Phàm phu tu hành công phu chẳng đắc lực,
do nguyên nhân nào? Không chịu buông xuống, nguyên nhân thật
sự ở ngay chỗ này. V́ sao nó là một nhân tố quan
trọng như thế? Trong tự tánh, thứ ǵ cũng đều
chẳng có, Huệ Năng đại sư đă nói rất
thấu triệt, “vốn chẳng
có một vật”. Do đó, nếu quư vị chẳng buông
xuống, chướng ngại tự tánh, Tánh Đức của
quư vị chẳng thể hiện tiền. Trong Tánh Đức
có vô lượng trí huệ, trí huệ chẳng thể hiện
tiền, có vô lượng đức năng, đức năng
chẳng thể hiện tiền, có vô lượng tướng
hảo, tướng hảo chẳng thể hiện tiền.
Nguyên nhân là ǵ? Chẳng buông xuống! Huệ Năng đại
sư đă nói, “vốn chẳng
có một vật”, kinh Kim Cang dạy: “Phàm những ǵ có tướng, đều là hư vọng”.
Quư vị ngẫm xem có tương ứng với “vốn chẳng có một vật”
hay không? Kinh Đại Bát Nhă đă tổng kết: “Hết thảy các pháp vô sở hữu,
rốt ráo không, chẳng thể được”. Hết
thảy các pháp bao gồm thân thể của chúng ta; do đó, chấp
trước thân thể là sai lầm. Chúng ta ngẫm xem, có chúng
sanh nào trong lục đạo chẳng chấp trước
thân thể? Chấp trước nghiêm trọng nhất là [chấp trước] thân thể. V́ thế, chấp trước tạo thành
cái nhân cơ bản của sự luân hồi.
V́ sao quư vị luân hồi? Là do quư vị chấp
trước cái thân này là chính ḿnh, đó gọi là Ngă Chấp. Sau khi đă
phá trừ Ngă Chấp, chẳng có luân hồi nữa. V́ sao chúng
ta chấp trước thân thể này nghiêm trọng như vậy?
Chẳng liễu giải chân tướng sự thật,
tưởng nó là có thật, tưởng hết thảy hoàn
cảnh trong cuộc sống này là có thật, chẳng biết chúng là giả.
Vĩnh Gia đại sư nói hay lắm, đó là mộng cảnh!
Chúng ta không biết đấy là đang nằm mộng, giống
như đang nằm mộng, ngỡ mộng cảnh là chân
thật. Lục đạo phàm phu cũng giống như thế,
tưởng cảnh giới trước mắt đều
là chân thật, nẩy sanh chấp trước kiên cố.
Kiến giải sai lầm ấy tạo thành sự luân hồi
bao kiếp dài lâu! Thời gian ấy chẳng thể dùng ngày,
tháng, năm để tính toán, mà là dùng kiếp số để
tính toán. Quá khứ vô lượng kiếp, vị lai vô
lượng kiếp, khi nào quư vị sẽ có thể vượt
thoát luân hồi? Quư vị ắt phải thật sự thấy
thấu suốt chân tướng sự thật này! Thấy
thấu suốt là thật sự liễu giải minh bạch,
thật sự thấy thấu suốt.
Phải như thế nào th́ mới có thể
thật sự lư giải? Thấy thấu suốt là lư giải,
điều này cần đến trí huệ. Khi trí huệ chẳng khai
th́ cần đến thường thức, thường thức
do đâu mà có? Cội nguồn duy nhất là đọc sách
thánh hiền. Từ sách thánh hiền, sẽ hấp thụ
thường thức và tri thức phong phú, hấp thụ
giáo huấn, y giáo tu hành, sẽ có thể đạt được
trí huệ. Y giáo tu hành, nói chung, chẳng ngoài buông xuống, vị
đường chủ Niệm Phật Đường thường
dạy người khác: “Buông
xuống thân, tâm, thế giới, dấy khởi chánh niệm”. Chánh niệm là niệm Phật. Chỉ cần có thể
buông xuống hết thảy thân, tâm, thế giới, quư vị
sẽ đạt được cái tâm thanh tịnh. Tâm thanh
tịnh là Thiền Định. Thiền Định hiện
tiền, trí huệ, đức tướng vốn sẵn
có trong tự tánh bèn thấu lộ. Tùy thuộc công phu định
lực của quư vị cạn hay sâu, tiểu định
thấu lộ ít, thâm định thấu lộ nhiều.
Sau khi đă thấu lộ, pháp hỷ sung măn! Do đó, pháp hỷ
là Tánh Đức, “thượng
vị” là Tánh Đức, vốn sẵn có trong tự tánh.
Phải ghi nhớ điều này, chẳng có phân biệt,
chấp trước, vọng tưởng, chắc chắn
chẳng có những thứ ấy.
Vọng tưởng là vô minh, vô minh là mê, mê mất
tự tánh. Quư vị thấy đó, hễ chân tánh của ḿnh
bị mê, đức Phật liền đặt cho nó một
cái tên, đổi tên, gọi là A Lại Da. A Lại Da là tự
tánh dưới trạng huống mê. Nói cách khác, A Lại Da dưới
trạng huống giác ngộ sẽ gọi Pháp Tánh, hoặc
gọi là Phật Tánh. Pháp Tướng Tông nói A Lại Da là “chân vọng
ḥa hợp”. Hễ giác nó th́ là chân, c̣n mê nó th́ là
vọng. V́ thế, đă giác, chẳng gọi là A Lại Da,
Pháp Tướng Tông gọi nó là Tứ Trí Bồ Đề,
chữ Trí (智) trong từ ngữ trí huệ. Tướng Tông tu hành,
chuyển tám thức thành bốn trí, đấy là sự tu
hành của Pháp Tướng Tông. Trong Chuyển
th́ có nhân và quả, phải chuyển từ nơi nhân, chẳng
có cách nào chuyển nơi quả! Thức thứ sáu và thứ
bảy là nhân, năm thức trước và thức thứ tám là quả. V́ thế, chuyển từ
chỗ nào? Chuyển nơi thức thứ bảy và thức
thứ sáu. Thức thứ bảy chấp trước, thức
thứ sáu phân biệt.
Chuyển bằng cách nào? Lục căn tiếp
xúc cảnh giới lục trần chẳng c̣n chấp
trước nữa! Thứ ǵ ta cũng đều chẳng chấp trước,
ngay cả thân thể cũng chẳng chấp trước.
Chuyển Mạt Na Thức thành B́nh Đẳng Tánh Trí. Không
chấp trước, sẽ b́nh đẳng; hễ chấp
trước bèn bất b́nh đẳng. Lại chuyển thức
thứ sáu, thức thứ sáu là phân biệt, hết thảy
đều chẳng c̣n phân biệt nữa. Chẳng phân biệt,
sẽ chuyển thức thứ sáu thành Diệu Quan Sát Trí. Diệu
Quan Sát là ǵ? Tánh
Thấy thấy sắc tánh, [đó là] diệu quan sát. Tánh
Nghe nghe thanh tánh, tánh Ngửi ngửi hương tánh, chẳng
phải là sáu thức đối ứng lục trần, mà
là căn tánh của sáu căn đối ứng với trần
tánh của lục trần bên ngoài. Đấy là ǵ? Minh tâm
kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Hai thức ấy vừa chuyển, A Lại Da tự nhiên chuyển thành Đại Viên Kính
Trí, chuyển thành ǵ? Chuyển thành Phật Tánh, là trí huệ
vốn trọn đủ trong tự tánh. Trí huệ ấy chẳng
thể nghĩ bàn!
Chuyển năm thức trước, tức
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, được chuyển
thành Thành Sở Tác Trí. Thành Sở Tác Trí là hóa độ chúng
sanh; chúng sanh có cảm, người ấy sẽ dùng Ứng
Thân. Ứng Thân nhất định có mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân; đó là năm thức trước, thành tựu sự
nghiệp độ chúng sanh. V́ thế, thân của Thích Ca
Mâu Ni Phật, nói theo Pháp Tướng, mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân của Ngài chính là Thành Sở Tác Trí. Chuyển tám thức
thành bốn trí, Ngài thật sự chuyển được. Tướng
Tông dạy chúng ta, chúng ta luyện tập bằng cách nào?
Trong hết thảy các cảnh giới, nay chúng ta chẳng
làm được “không phân biệt”, không chấp trước
cũng chẳng làm được, làm như thế nào đây?
Tận hết sức giảm nhẹ phân biệt, chấp
trước. Tận hết sức làm nhạt chúng nó, sẽ
có tiến bộ. V́ thế, đối với buông xuống,
trước kia, Chương Gia đại sư dạy tôi:
“Phải buông xuống hằng
năm, phải buông xuống hằng tháng, phải buông xuống
hằng ngày, buông xuống phân biệt, chấp trước”.
Đấy là nói tổng quát. Nếu nói tách ra, sẽ là buông
xuống ích kỷ, buông xuống tiếng tăm, lợi
dưỡng, buông xuống ngũ dục, lục trần, buông
xuống tham, sân, si, mạn.
Pháp thế gian và Phật pháp, thứ ǵ cũng
đều buông xuống, quư vị sẽ thành tựu. V́ sao
phải buông xuống Phật pháp? Kinh Kim Cang đă nói rất
hay: “Pháp c̣n nên bỏ, huống
hồ phi pháp”. Chư vị phải biết, chẳng có
Phật pháp, vốn chẳng có Phật pháp! Phật pháp là
giả thiết (giả lập
ra). V́ quư vị mê, nhằm giúp đỡ
quư vị phá mê, khai ngộ, cho nên kiến lập Phật
pháp. Khi quư vị đă khai ngộ, Phật pháp sẽ chẳng
có. Khi nào Phật pháp chẳng có, quư vị mới là thật
sự khai ngộ. Đấy là ǵ? Pháp để chữa bệnh,
đă lành bệnh rồi, chẳng cần thuốc nữa.
Đă lành bệnh mà vẫn uống thuốc, quư vị lại
bị bệnh, chẳng thể lành mạnh được.
Đấy là: “Pháp c̣n nên bỏ,
huống hồ phi pháp”. Khi chúng ta bị bệnh, khi mê th́
chẳng thể không cần Phật pháp, Phật pháp là pháp
bảo. Ngày nào giác ngộ, đă đại
triệt đại ngộ, nếu vẫn nắm chặt Phật
pháp th́ lại hỏng bét,
đấy là lại bị bệnh mất rồi! Đến
khi nào buông bỏ Phật pháp? Đại triệt đại ngộ, Tông
Môn thường nói là “hoát nhiên đại
ngộ”. Hễ lúc nào ngộ th́ Phật pháp cũng phải
xả!
Xả, thưa cùng chư vị, xả trong
tâm, nơi sự tướng có xả hay không? Chẳng xả!
V́ sao? Nơi sự tướng phải làm cho khá nhiều kẻ
chưa giác ngộ nh́n vào. Đấy là Pháp Bảo, Phật Bảo, Tăng Bảo, Tam Bảo trọn
đủ, độ lục đạo chúng sanh. Đó gọi
là đại từ đại bi! Trong tâm chẳng vướng
mắc dấu vết ǵ, đó gọi là “tướng có, tánh không, sự có, lư không”; đó là
người khai ngộ. “Tướng
có, sự có” là chúng sanh có cảm, Bồ Tát có ứng. Khi
ấy, thân thể chẳng phải là thân nghiệp báo, mà là
Ứng Hóa Thân. Chư vị ngẫm xem, khi chẳng khai ngộ
th́ là nghiệp báo, khi đă khai ngộ th́ là ứng hóa, chúng ta thường
nói là “thân thừa nguyện tái
lai”. Có cần phải đến thế giới Cực
Lạc, đến thế giới Hoa Tạng, đến các
cơi Phật rồi trở về ứng hóa hay chăng? Chẳng
cần! Giống hệt như Phật, Bồ Tát ứng hóa
trong các cơi Phật nơi các thế giới phương khác.
Các Ngài muốn tới chỗ này, phải t́m một thân, nay
quư vị đă giác ngộ, cái thân đă hiện ra này vẫn c̣n, bèn dùng thân này, chẳng cần thay đổi.
V́ thế, hễ chuyển biến, sẽ là từ nghiệp
lực chuyển biến thành nguyện lực, thân nghiệp
báo chuyển biến thành thân ứng hóa, quư vị sẽ đắc
đại tự tại.
Khi ấy, cái thân ứng hóa này, trên h́nh thức
giống như mọi người, trên thực tế là khác
nhau. Trên thực tế là “Thiền
duyệt vi thực, pháp hỷ sung măn”, người ấy có cần ăn uống nữa
chăng? Cần chứ! Làm cho người khác thấy. Nếu
người ấy không ăn, người ta sẽ nói “người
ấy là thánh nhân, người ấy là thần, chúng ta chẳng
có cách nào học theo người ấy được”, chẳng
học được! Do vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật hằng
ngày cũng đều đi khất thực. Bảo rơ ràng cùng mọi
người: Phật là một người tu hành thành tựu.
“Ngài có thể hành, có thể
thành tựu, ta cũng có thể thành tựu”. Quư vị
thấy tín tâm của đại chúng được tăng
trưởng, khơi gợi nguyện tâm của đại
chúng. Chuyện này sẽ tiếp dẫn rất nhiều chúng
sanh căn cơ chín muồi, tiếp dẫn những căn cơ đă chín muồi! Người thiện căn chín muồi,
trong một đời gặp gỡ Phật, Bồ Tát thị
hiện, nhất định đắc độ. Nói theo Tịnh
Tông chúng ta, ắt sanh về Tịnh Độ. Sanh về Tịnh
Độ, sẽ thành Phật quả viên măn. Nay đă hết
thời gian rồi, chúng ta học tập bài kệ này tới
đây!
Đại
Phương Quảng Phật
Hoa
Nghiêm Kinh
Phẩm
thứ mười một
Tịnh
Hạnh Phẩm
Phần 52 hết
[1]
Tiêm Sa Trớ là một vùng thị tứ
nằm ở phía Nam lănh thổ Cửu Long của
Hương Cảng. Đây là một doi đất từ
bán đảo Cửu Long đâm ra vịnh Victoria. Đây là
một khu vực buôn bán rất thịnh vượng, thu
hút du khách rất lớn của Hương Cảng.
[2] Chữ Quá Đường có ư nghĩa gốc là
“vào nha môn chịu sự thẩm vấn”. Nhà Thiền dùng từ
ngữ này vào việc thọ
trai với dụng ư mỗi miếng
ăn, mỗi hớp uống đều phải chú tâm, quán
tưởng nghiêm mật giống như đang bị
quan trên thẩm vấn, luôn phải chú tâm, ǵn giữ oai
nghi, câu thúc ư niệm, suy nghĩ chánh đáng. Chế độ
tùng lâm tại Trung Hoa quy định Quá Đường là một công khóa trong Ngũ Đường Công
Khóa (khóa tụng kinh sáng, thọ trai sáng, thọ trai trưa,
tụng niệm khóa tối, và Mông Sơn). Bữa ăn tối
rất đạm bạc, thường gọi là Dược
Thạch, không sử dụng nghi thức Quá Đường.
Trước khi thọ trai, vị Tăng sĩ hoặc
cư sĩ trực nhật sẽ gơ một chiếc mơ lớn
có h́nh cá chép to (thường gọi là Bang) treo ngoài hành lang của
trai đường, đồng thời gơ Vân Bản (một
phiến kim loại có h́nh đám mây cách điệu).
Tăng chúng nghe tiếng Bang và tiếng Vân Bản bèn theo
đúng thứ tự của chức vị trong tự viện
mà tiến
nhập Trai Đường. Vị Trụ Tŕ sẽ ngồi
ở bàn chính giữa Trai Đường. Sau đó, theo hiệu
lệnh của vị duy-na hoặc chấp sự trong trai
đường, mọi người xướng tụng kệ
chú cúng dường Tam Bảo, quán tưởng năm điều
(tồn tâm ngũ quán), sau đó im lặng dùng bữa. Các vị
trực nhật sẽ đi từng bàn phân phối thức
ăn. Nếu muốn ăn thêm, bèn đẩy bát ra phía
trước, người trực nhật sẽ lấy
thêm thức ăn. Khi ăn phải đoan chánh, ngồi thẳng
lưng nhàn nhă ăn, không cúi gằm đầu, hay tư thế
ngả ngớn, bươi quậy thức ăn trong chén, không được tṛ chuyện. Khi ăn xong, đại chúng cùng nhau tụng kệ
Kết Trai rồi mới rời đi. Theo truyền thống,
trong Trai Đường thường thờ
tượng Giám Trai Bồ Tát, tức là một vị Khẩn
Na La Vương, tóc đỏ, thân vàng. Đôi khi nhà chùa tạc tượng Ngài có đầu ngựa, sừng
dài, ăn mặc theo lối vơ sĩ. Theo truyền thuyết,
vị này từng thị hiện làm người chuyên nhóm lửa
trong nhà bếp chùa Thiếu Lâm. Khi quân giặc xâm lấn
chùa Thiếu Lâm, vị này cầm thanh củi dài ba thước
đang cháy bừng bừng tấn công chúng, khiến bọn giặc bỏ chạy tán loạn. Do đó, đời
sau thờ Ngài như một vị hộ pháp của sơn
môn.
[3] Ngũ Cái (Pañca Nivāraṇa), c̣n gọi là Ngũ Chướng,
hoặc Ngũ Thoái Pháp, bao gồm tham dục, sân khuể,
thùy miên (ngủ nghê), trạo hối (thấp thỏm, bộp
chộp), và hoài nghi.