Đại
Phương Quảng Phật
Hoa
Nghiêm Kinh
Phẩm
thứ mười một
Tịnh
Hạnh Phẩm
Phần 53
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp
sư Thích Tịnh Không
Địa điểm:
Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ
ngày mồng Bảy tháng Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và
Minh Tiến
Tập 1567
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười
một, xem từ đoạn thứ bảy trong phần Kệ
Tụng. Đoạn thứ bảy
có tổng cộng hai mươi hai bài kệ; hôm nay chúng ta
xem hai bài cuối cùng, xem từ bài thứ hai mươi mốt:
(Kinh)
Phạn thực dĩ ngật, đương
nguyện chúng sanh, sở tác giai biện, cụ chư Phật
pháp.
(經)飯食已訖。當願眾生。所作皆辦。具諸佛法。
(Kinh: Ăn cơm đă xong, nguyện cho chúng sanh,
việc làm đều xong, đủ các Phật pháp).
Từ bài kệ thứ mười lăm cho
đến bài kệ này đều là “khất thực, dùng cơm”. Dùng cơm trong tự viện, am đường hiện thời hăy c̣n
có nghi thức Quá Đường (過堂). Dùng cơm theo nghi thức Quá Đường th́ trước
hết vị duy-na sẽ nhắc nhở mọi người
“thực tồn ngũ quán”
(食存五觀, khi ăn, trong tâm quán tưởng năm điều),
và cũng nhắc nhở chúng ta khi thọ thực phải
biết tam đức lục vị. “Tam đức, lục vị” đều là nói theo
phương diện ẩm thực, có thể nói là đă
bao hàm tất cả chuyện ăn uống trong ấy. Đức thứ nhất trong Tam Đức
là quư vị ăn món ǵ mềm mại, nay chúng ta nói là “dễ tiêu hóa”, đấy là đức
thứ nhất. Đức thứ hai là “sạch sẽ”, nói
theo hiện thời là “vệ sinh”. Đức thứ ba là “như pháp”. Luôn chiếu
theo những quy củ do đức Phật đă dạy để
làm, chẳng trái nghịch giáo huấn của đức Phật;
đấy là “như pháp”.
“Lục vị”:
Người Hoa nói là “ngũ vị”,
tức chua, ngọt, đắng, cay, mặn, đấy là
ngũ vị. C̣n có một vị là nhạt; trong thực phẩm,
chẳng có các thành phần này. V́ thế, nói gộp chung lại
thành lục vị. Lục vị ḥa hợp, ngon lành khôn xiết.
Do vậy, nêm nếm là một môn học vấn rất lớn.
V́ thế, chỗ đáng quư của những đầu bếp
nổi tiếng là ǵ? Đáng quư ở chỗ họ có kinh
nghiệm nêm nếm hết sức phong phú. Trong nhà bếp,
những món gia vị thảy đều có, người Hoa
nói tách ra thành bảy chuyện
[phải lo toan hằng ngày] là “củi, gạo, dầu, muối,
tương, dấm, trà”, những món ấy thảy đều
có. Vấn đề là quư vị có thể nêm nếm [khéo léo]
hay không. Nêm nếm không khéo, cũng rất khó nuốt; nếu
nêm nếm khéo th́ mùi vị sẽ hết sức ngon lành.
Chúng ta biết phương diện ẩm thực
là một thứ ham muốn to lớn của con người.
Các vị thánh nhân xưa, nay, trong, ngoài nước cũng đều
nói như vậy. Trong các dục vọng của người
thế gian, dục vọng lớn nhất là hai chuyện,
thứ nhất là ăn uống, thứ hai là sắc, tức
nam sắc, nữ sắc. Đấy là dục vọng to lớn
của con người. Nếu nghiên cứu kỹ về phương
diện ẩm thực này th́ trong Phật pháp sẽ có thể
tiếp dẫn chúng sanh. Trong quá khứ, tôi ở Úc, tôi hết
sức bội phục sứ quán ngoại giao Trung Quốc
tại Úc. Đúng là có trí huệ, sứ quán mời một đầu
bếp nổi tiếng, chúng tôi dùng cơm tại sứ quán, họ hoàn toàn nấu món chay, khiến cho quư vị dùng cơm một lần, sẽ
suốt đời chẳng thể quên, vậy là đă thành công.
“Người nọ nấu thức
ăn ngon lắm”, chẳng có ai không khen ngợi. Đại
sứ từng nói với tôi: “Trong ngoại giao, chuyện ẩm
thực hết sức quan trọng. Họ ăn một lần,
hai lần, vẫn muốn quay lại, sẽ thường
t́m đến, t́nh bằng hữu sẽ kết chặt, làm
chuyện ǵ cũng thực hiện dễ dàng!”
Để tiếp dẫn đại chúng, trong
Phật môn cũng rất coi trọng chuyện này. Đương
nhiên là thuở đức Thế Tôn tại thế, người
xuất gia đều đi khất thực. Khất thực
là tu hành, bất luận [thí chủ] cho món ǵ, khi chúng ta niệm
chú Cúng Dường, vẫn là “tam
đức lục vị, cúng Phật cập Tăng, pháp giới
hữu t́nh, phổ đồng cúng dường” (ba đức,
sáu vị, cúng Phật và Tăng, pháp giới hữu t́nh, cúng
dường trọn khắp). Mỗi lần dùng cơm, đều
phải niệm điều này. Sáng sớm thường là
dùng cháo: “Chúc hữu thập lợi,
nhiêu ích hành nhân” (Cháo có mười điều lợi, hữu ích cho người
tu hành). Những điều ấy đều là đại
nguyện của đức Phổ Hiền, niệm niệm
chẳng quên. Ăn cơm cũng là tu hành. Đương
nhiên, người xuất gia tu hành chớ nên tham đắm
lục vị, đừng nên tham đắm! Nhưng quư vị
phải hiểu: Chuyện này là một loại phương
thức nhằm tiếp dẫn chúng sanh. Đấy là như
trong kinh đức Phật đă dạy: “Tiên dĩ dục câu khiên, hậu linh nhập Phật
trí” (Trước là dùng dục để lôi kéo, sau là khiến
cho [người được lôi kéo ấy sẽ] nhập
Phật trí). Trước hết, quư vị có phương
pháp khiến cho họ rất hoan hỷ tiến nhập Phật
môn; sau đấy, mới lại dần dần
dạy họ, lại
giúp họ khai ngộ. V́ thế, ẩm
thực là một phương pháp rất tốt.
Khi tôi mới học Phật, đến chùa
miếu, [tức là đến] mấy ngôi chùa tại thành phố Đài Bắc, có lúc cũng đến ăn cơm ở
chùa, cảm thấy những
món ăn của họ rất ngon lành, khéo léo. Về sau, xuất gia, dần dần thân cận lăo ḥa
thượng, thường có cơ hội cùng dùng
cơm với các vị lăo ḥa thượng, chẳng ăn
cùng đại chúng. Thức ăn trong tiểu trai đường
của lăo ḥa thượng hết sức ngon lành, khéo léo. Có
người kể với tôi, những vị đầu bếp
chính trong nhà bếp toàn là hạng nổi tiếng, đăi ngộ đều
rất cao, chẳng khác sự đăi ngộ trong khách sạn
cho mấy. V́ sao? Sau này tôi mới vỡ lẽ, [làm như vậy]
nhằm tiếp dẫn giới thượng lưu trong xă
hội! Trong xă hội này, giới thượng lưu là những
bậc trưởng giả có địa vị, có thân phận,
có tài sản. Có cần phải độ họ hay không? Có
phải giúp đỡ họ hay không? Đương nhiên là
phải, nhưng cuộc sống của họ chẳng phải
là cuộc sống của giới b́nh dân. Nếu họ đến
chùa miếu mà chẳng tiếp đăi rất trọng hậu, họ sẽ chẳng có hứng thú.
V́ thế, đây là một loại phương tiện thiện
xảo nhằm phổ độ chúng sanh, chẳng phải
là vị lăo ḥa thượng trong chùa miếu tham cầu những
thứ hưởng thụ ấy, chẳng phải vậy!
Trong tâm mục của Phật, Bồ Tát, đại
chúng trong xă hội, trong quá khứ là từ đế
vương cho đến thứ dân, đều được
nhất loạt hóa độ b́nh đẳng. Hóa độ b́nh đẳng
là nguyên tắc, là tâm thái, nhưng trên sự tướng th́
có sai biệt. Đó gọi là “phương
tiện”. Do đó, “phương
tiện có nhiều môn, về nguồn chẳng hai
đường”. Chúng ta phải hiểu điều này.
Nếu quư vị chẳng hiểu, sẽ chẳng có cách nào
hộ tŕ một đạo tràng, mà cũng chẳng có cách nào
hộ tŕ chánh pháp. Bởi lẽ, người hộ tŕ chánh
pháp hết sức quan trọng, các vị ấy (các vị
lăo ḥa thượng) hiểu đạo lư này, ba hạng người
thượng, trung, hạ thảy đều đắc
độ, tiến nhập Phật môn chẳng có ai không hoan
hỷ. Ẩm thực là một chuyện rất lớn.
Để tiếp dẫn chúng sanh, chúng ta thường
nói “h́nh tướng hết sức quan trọng”. [Có h́nh tướng tốt đẹp],
người thế gian sẽ vui
ḷng tiếp xúc
chúng ta. Quư vị thấy những kẻ được gọi
là “người phú quư”, họ có tướng phú quư! Tướng
cố nhiên là bẩm sanh, đối với túc mạng, sự tu dưỡng
và cuộc sống của người ấy, đều có
mối liên quan mật thiết. Tướng mạo đoan
trang, trang nghiêm, thân thể khỏe mạnh, trong Phật pháp, điều
này được gọi là “như
pháp”. Quư vị thấy Thích Ca Mâu Ni Phật có ba
mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo, h́nh
tướng [tốt đẹp] sẽ tiếp dẫn khá
nhiều chúng sanh. Từ kinh Lăng Nghiêm, chúng ta thấy v́
sao tôn giả A Nan xuất gia? Trong hội Lăng Nghiêm, đức
Thế Tôn đă
từng hỏi ngài A Nan: “V́ sao ông phát
tâm xuất gia?” Tôn giả rất thẳng thắn thưa
bày, Ngài thấy tướng hảo của Thích Ca Mâu Ni Phật,
tự nhủ: “Những tướng hảo ấy tuyệt đối chẳng phải
là do cha mẹ sanh ra liền có tướng tốt đẹp
dường ấy, nhất định là do có tu tŕ th́ mới đạt
được tướng tốt đẹp ngần ấy!”
Nói cách khác, Ngài do hâm mộ tướng hảo của Thích
Ca Mâu Ni Phật mà xuất gia.
Do vậy có thể biết, tướng hảo
có thể tiếp dẫn rất nhiều chúng sanh, khiến
cho những người chưa tiếp xúc Phật pháp, vừa
mới tiếp xúc Phật pháp trông thấy tướng hảo
của quư vị, sẽ sanh ḷng ngưỡng mộ, sanh ḷng
hoan hỷ. Do đó, sẽ tiếp dẫn họ nhập Phật
môn. Nếu người tu hành là một gă vêu vao, gầy đét đèn đẹt, chẳng có một tí phước tướng nào, người
ta trông thấy sẽ hoảng sợ, chạy mất! “Chớ
nên học theo vị Phật này, học Phật sẽ biến thành dáng vẻ ấy”.
Do vậy, quư vị thấy chư Phật, Bồ Tát, nay chúng
ta trông thấy tượng vẽ, tượng đắp,
đều là phước tướng. Quư vị lại nh́n
các vị tổ sư đại đức, tướng mạo
đều hết sức đoan trang. Nhà Phật nói là “trang nghiêm”, khiến
cho người khác trông thấy, sẽ sanh tâm hoan hỷ,
sanh tâm tôn trọng; chuyện này sẽ có thể tiếp dẫn
rất nhiều đại chúng. Trong kinh, đức Phật
đă dạy chúng ta, Bồ Tát tu hành công đức viên măn, muốn ứng hóa trong thế gian này để giáo
hóa chúng sanh, bèn đặc biệt dùng một khoảng thời
gian dài, kinh nói là một trăm kiếp, chúng ta chớ nên chấp
trước [từ ngữ] “một
trăm kiếp”, có thể nói là một khoảng thời
gian khá dài, chuyên tu tướng hảo, [tức là] tu phước!
Chẳng có phước, sẽ không thể độ chúng sanh,
v́ sao? Chúng sanh chẳng muốn tiếp cận quư vị!
Tuy quư vị có huệ, tuy có năng lực, nhưng quư vị
chẳng có phước báo. Do đó, phước rất trọng
yếu, chẳng tu th́ làm sao được?
Đức Phật thị hiện những điều
này cho bọn phàm phu chúng ta trong lục đạo trông thấy,
nhằm dạy bọn phàm phu trong lục đạo học
Phật th́ phải là phước huệ song tu. Quư vị thấy
đó, đặt phước ra trước, huệ xếp
thứ hai, điều này có nghĩa là ǵ? Phật pháp xác thực
là coi trọng huệ, hoàn toàn chẳng phải là coi trọng
phước! Coi trọng huệ, chẳng coi trọng phước,
tức là quư vị chính ḿnh tu hành thành tựu; c̣n coi trọng
phước, xếp huệ thành hạng nh́, đấy là Bồ
Tát tiếp dẫn chúng sanh. Bản thân quư vị chẳng tiếp
xúc đại chúng, có thể gạt phước báo qua một
bên, chẳng quan tâm tới nó, chuyên tu Định và Huệ.
Nếu quư vị là vị chủ tŕ một đạo tràng, hoằng pháp lợi
sanh, trong đạo tràng ấy, từ Trụ Tŕ, Đương
Gia, cho đến tất cả các nhân viên công tác cấp dưới,
trong tùng lâm xưa kia gọi là “một
trăm lẻ tám đan”, tức là các vị chấp sự,
nhân viên công tác, ai nấy đều có phước báo, đạo
tràng của quư vị chắc chắn sẽ hưng vượng,
khẳng định là như thế!
Nếu quư vị hiểu đạo lư này, tôi
cũng đă từng dạy chẳng ít đồng tu. Họ
làm việc trong ngành
công thương nghiệp, chính ḿnh có công
ty, là ông chủ, đôi khi thường nói “lănh đạo
viên chức, công nhân chẳng dễ dàng. Làm thế nào để
chọn lựa công nhân, viên chức?” Tôi bèn dạy họ một
phương pháp, tôi nói: - Khi quư vị gặp gỡ công nhân,
viên chức, hăy chú tâm quan sát [xem xét] kẻ ấy có phước
báo hay không, từ tướng mạo có thể nh́n ra. Người
được quư vị sử dụng đều có phước
tướng, khẳng định là sự nghiệp của
quư vị rất thuận lợi. Nếu quư vị dùng kẻ
chẳng có một tí phước báo nào, quư vị sẽ rất
vất vả, dẫu bản thân quư vị có phước báo, cấp dưới
của quư vị chẳng có phước. V́ thế, có lúc tại
Đài Loan đang bầu cử, có những đồng học
đến hỏi tôi, họ nói: “Thưa pháp sư, thầy
thấy chúng con nên bỏ phiếu cho ai?” Cá nhân
tôi rất công bằng, trọn chẳng
nói “kẻ này tốt, kẻ kia không tốt”, tôi bảo người
ấy: “Ông hăy nên quan sát kỹ lưỡng mấy người
ứng cử, ai có phước báo th́ ông bỏ phiếu cho
người ấy. Người có phước báo đắc
cử, mọi người sẽ được hưởng
phước của người ấy. Nếu quư vị bầu
cho kẻ chẳng có phước, mọi người sẽ
phải chịu tội v́ kẻ ấy”. Tôi chỉ dạy người ấy nguyên tắc này: Quư vị phải
tự ḿnh quan sát, như thế th́ sẽ rất tốt đẹp!
Trong pháp thế gian, phước được
xếp hàng đầu, nhưng muốn đạt tới địa vị thuộc tầng lớp lănh đạo trong thế gian th́ [phải
là] phước huệ song tu. Chẳng có trí huệ, quư vị
sẽ chẳng thể lănh đạo kẻ khác! Do đó,
phải có phước, phải có huệ. Tu phước
không dễ dàng! Kẻ chẳng có phước báo, dẫu có
cơ hội tu phước, kẻ ấy đều chẳng
thể tu. Chúng ta thấy trường hợp này rất ư
là nhiều! V́ thế, chúng tôi cũng thường cảm
khái: “Cơ duyên ở ngay trước mặt, [nhưng do] chẳng
có phước báo, bèn chẳng biết tu phước. Kẻ
biết tu phước lại buồn v́ chẳng có cơ hội!”
Chỉ là trong cuộc sống hằng ngày, tu một chút tiểu
phước, chứ đại phước báo th́ chẳng
có cơ hội. Do vậy, hiện thời nghĩ đến
chuyện ăn uống trong Phật môn, có tất cả sáu bài kệ; nay chúng
ta nói đến chuyện dùng cơm xong, [thường
gọi là] “kết trai” (結齋): “Phạn thực dĩ ngật,
đương nguyện chúng sanh, sở tác giai biện, cụ
chư Phật pháp” (Ăn cơm đă xong, nguyện cho
chúng sanh, việc làm đều xong,
đủ các Phật pháp).
Trong kinh giáo, đức Thế
Tôn đă dạy chúng ta, ẩm thực nhất định
phải [chú trọng] vệ sinh, nhất định phải
đơn giản. V́ thế, Phật môn đi
khất thực. Về sau, trong Phật giáo Trung
Hoa, cũng có một món ăn do khá nhiều món nấu chung
lại, được gọi là “đại oa thái” (大鍋菜), c̣n trong Phật môn th́ gọi là La Hán Trai (羅漢齋). La Hán Trai tức là “đại oa thái”. Đại oa thái có món nấu rất
khéo, đúng là tam đức lục vị. Năm xưa, tại
Hương Cảng có một nơi
là Trạm Sơn Tự, có lẽ rất nhiều đồng
học đều biết [ngôi chùa ấy]. Mỗi lần đến
Hương Cảng, tôi nhất định đến chỗ
họ dùng cơm. Trên thực tế, cơm chỉ ăn một
chén, c̣n đồ ăn th́ tối thiểu phải ăn
hai, ba chén! Đó là La Hán Trai. Họ nấu món La Hán Trai rất
khéo, khiến cho quư vị ăn xong một chén xong, vẫn
muốn ăn chén thứ hai. Ăn xong chén thứ hai, c̣n muốn ăn
chén thứ ba! Quư vị đă ăn no; do vậy, ăn một chút cơm thôi. Các vị lăo ḥa thượng tại Trạm Sơn
Tự [thuở ấy] hiện thời cũng đều đă
mất.
Chúng ta nghĩ đến chuyện ẩm thực
và sinh hoạt trong Phật môn, bữa sáng quá nửa là ăn
cháo. Đức Phật dạy cháo có mười điều
lợi ích, phải biết nấu
mới được. Nấu
nướng là đại học vấn. Tứ chúng đồng
tu trong Phật môn đều do mộ đạo mà đến,
nhưng thân thể khỏe mạnh vẫn là chuyện quan
trọng nhất. Nhà Phật thường nói “pháp luân chưa chuyển, thực
luân đă chuyển trước”; để hoằng pháp lợi sanh, nhất
định phải có thân thể rất khỏe mạnh. Ẩm
thực là một biện pháp điều dưỡng thân
thể quan trọng nhất. V́ thế, Phật môn nói điều
dưỡng ẩm thực là một thứ đại công
đức. Quư vị nuôi dưỡng sắc thân của người
ta tốt đẹp trước đă; sau đấy, người
ta mới có thể hành đạo. Chẳng có thể lực,
tu hành bằng cách nào? V́ thế, đối với cháo, cũng
có phương pháp nấu cháo. Đức Phật đă dạy lợi ích của cháo như sau:
1) Điều thứ nhất là “tư trợ” (資助, nuôi dưỡng, giúp đỡ). Nói theo kiểu hiện
thời, sẽ là [tư trợ] khí sắc của chúng ta.
2) Thứ hai là tư trợ thể lực.
3) Thứ ba là khỏe mạnh, sống lâu.
4) Thứ tư là an lạc.
5) Thứ năm là nhẹ nhàng, khoan khoái. Bất
luận là xét theo phong độ, nói theo Phật pháp là “oai nghi”, dáng vẻ lẫn thái độ thanh tú.
6) Đă thế, lại c̣n có thể đem lại
biện tài cho quư vị.
7) Dễ tiêu hóa.
8) Thứ tám là nó có thể trừ phong.
9) Nó có thể tiêu trừ nỗi đói khát.
10) Có thể tiêu hóa trược khí. Cháo giúp quư
vị hóa giải trược khí trong thân thể, nó cũng
có thể giúp quư vị bài trừ [trược khí]. Do vậy,
cháo có rất nhiều ưu điểm.
Người xuất gia ngă bệnh th́ trị
liệu bằng cách nào? Chính là đoạn thực (斷食, nhịn ăn),
dùng phương pháp đoạn thực để trị
liệu. Nay chúng ta xem Sơn Tây Tiểu Viện sẽ hiểu
ngay: Khi ngă bệnh, hoàn toàn chẳng cầu lành bệnh, mà là
niệm nào cũng đều cầu văng sanh, thân tâm thanh tịnh,
buông xuống muôn duyên, nhất tâm niệm Phật. Ẩm thực th́ chỉ
dùng một ít chất lỏng. Ăn một bữa, hai bữa,
hay ba bữa đều chẳng quan trọng. Khi ngă bệnh,
lăo ḥa thượng dạy chúng tôi ăn ít, ăn thành nhiều bữa, đừng nên ăn quá nhiều. Hăy ăn một chút,
giữ sao cho chẳng đói, chẳng no, phải hiểu đạo
lư này! Đấy chính là đường lối để thật
sự khỏe mạnh, chớ nên ăn quá no. Ngay như khi
dùng cơm trưa, ăn trưa th́ phải ăn cho no, ăn
trưa th́ cũng chỉ nên ăn [no bụng] bảy, tám phần là tốt nhất, đừng nên
ăn quá no. Ăn quá no, ruột và dạ dày của quư vị
tốn hao năng lượng để tiêu hóa quá lớn,
cũng có nghĩa là tăng thêm lượng công việc cho
chúng nó. Có khi chúng nó (ruột và dạ dày) chịu không nổi
th́ sẽ ngă bệnh, phải nghĩ đến điều này. Chẳng thể ép buộc mỗi khí quan trong thân thể quá tải, đấy là đường lối để
dưỡng sanh. Do đó, ăn uống chớ nên quá no, phải
giữ sao cho chẳng đói, chẳng no. Trong Phật pháp
thường nói, kẻ ăn quá no sẽ hôn trầm; nếu
đói bụng, kẻ ấy sẽ chẳng ổn định. Nói
theo danh từ trong Phật pháp, sẽ là “điệu cử” (掉舉, trạo cử, lao chao, xáo động); “điệu cử” tức là thân
tâm bất an. Hai t́nh huống ấy đều trở ngại
cho việc dụng công, bất luận tu pháp môn ǵ sẽ đều
nẩy sanh chướng ngại. Do đó, đối với
ẩm thực, phải nên chú trọng sao cho “chẳng
đói, chẳng no”. Khéo điều ḥa ẩm thực th́ cũng là hiểu
cách dưỡng sanh, quư vị sẽ biết điều dưỡng
như thế nào, sẽ hữu ích rất lớn cho đạo
nghiệp của chính ḿnh.
Sau khi chúng ta đă hiểu rơ những đạo
lư này, sẽ hiểu ư nghĩa lời đại nguyện
này của hàng Bồ Tát sau khi ăn cơm xong, “đương nguyện chúng sanh,
sở tác giai biện”. “Sở
tác” ở đây có tự
lợi và lợi tha. Nhất định phải nắm được
tổng nguyên tắc của tự lợi. Tổng nguyên tắc
là một câu: “Nhất định
phải biết nâng cao linh tánh của chính ḿnh, hằng ngày phải
nâng cao hơn”. Ngày nào
chẳng thể tăng tấn, chuyện này giống như
thuyền đi ngược gịng, không tiến ắt lùi. Ngày nào
quư vị chẳng có tiến bộ th́ ngày ấy sẽ thụt lùi, chuyện này là khẳng định.
V́ vậy, đức Phật dạy hàng Bồ Tát dũng mănh,
tinh tấn, đạo lư ở chỗ này! Nâng cao linh tánh được
thực hiện từ chỗ nào? Từ chỗ “phiền năo nhẹ bớt, trí huệ
sẽ tăng trưởng”. Nói thật ra, “linh tánh” chính là trí huệ. Trí
huệ là linh tánh chân thật. Trí huệ có thể đem
theo, phiền năo có thể đem theo. Có thể mang theo trí huệ,
trí huệ sẽ giúp quư vị tăng tấn, phiền năo giúp
quư vị đọa lạc. Thăng trầm trong mười
pháp giới chính là do nguyên lư này!
Chúng ta phải làm như thế nào th́ mới
thật sự khiến cho “phiền
năo nhẹ bớt, trí huệ tăng trưởng”? Đó
là thật sự tu hành, là công phu thật sự. Nay chúng ta hỏi,
làm như thế nào th́ mới có thể thực hiện được?
Chương Gia đại sư dạy tôi buông xuống, quư
vị có hiểu lời ấy hay chăng? Trong Tông Môn, lời
ấy có ư nghĩa càng sâu hơn, “hội
ma?” (會麼, hiểu
không) có ư nghĩa sâu xa, “hội”
là ǵ? “Hội” là buông xuống.
Thật sự thấu hiểu “phàm
những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”,
cũng như trong các buổi giảng, chúng tôi thường
nói: “Vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước, tuyệt đối phải
buông xuống”. Trong cuộc sống của người
tu hành, hăy ghi nhớ cương lănh do Phổ Hiền Bồ
Tát đă chỉ dạy: “Hằng thuận
chúng sanh, tùy hỷ công đức”, chúng tôi thường
nói điều này là “tùy duyên, chẳng
phan duyên”. Trong tâm quư vị chẳng sanh phiền năo, tức
là chẳng dấy lên phân biệt, chấp trước, vọng
niệm, khó lắm! Tạm thời, chúng ta không bàn đến
khởi tâm động niệm, trước hết, hăy nói đến
phân biệt và chấp trước; trong cuộc sống hằng ngày, hăy tùy
thuận, chỉ cần thấy nó chẳng gây trở ngại
to lớn, hết thảy quư vị đều phải nên buông
xuống, rèn luyện đấy nhé! Thứ ǵ cũng đều
phải buông xuống. V́ thế, tôi nói: “Ai nấy đều là người tốt, chuyện
nào cũng đều là chuyện tốt”. V́ sao? Những
người và việc ấy đều giúp chúng ta buông xuống!
Chúng ta rèn luyện công phu ở chỗ nào? Trước
hết, đối với những thứ chúng ta ưa thích, chẳng hạn như quần áo, thức ăn, hoặc sách vở của những người thích đọc
sách như chúng tôi, những món quư
vị yêu mến, người khác trông thấy
bèn lấy đi, chúng
ta luyện tập công phu từ ngay chỗ này, đó là tu
hành. Quư vị c̣n nên sanh phiền năo hay không? Quư vị sanh phiền năo bèn cảnh giác công phu [của chính ḿnh] chẳng đủ. Những thứ ấy là vật
ngoài thân, sanh ra chẳng mang theo đến, chết cũng chẳng
đem theo được, ghim giữ những chuyện ấy
trong tâm, sai mất rồi! Bất cứ ham mê ǵ cũng đều
phải buông xả, v́ sao? Đó là cái nhân luân hồi; nếu
chẳng bỏ những thứ ấy, quư vị sẽ chẳng
thoát khỏi lục đạo luân hồi! Do vậy, phải
buông xuống thất t́nh, ngũ dục, chúng tôi thường nói là “ích kỷ,
tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục
trần, tham, sân, si, mạn”, phải luyện tập trong
thuận cảnh, càng phải luyện tập trong nghịch
cảnh. Luyện đến mức thật sự chẳng
có phân biệt, chấp trước. Chỉ cần hết
thảy đều
chẳng chấp trước, thứ
ǵ cũng đều là tốt đẹp, đều có thể
tùy thuận chúng sanh, chúng ta niệm Phật sẽ nắm
chắc văng sanh. [Nếu] cứ nhất định phải là như thế này, phải là như thế nọ, đấy là chấp trước, [dùng] tâm thái ấy
để niệm Phật th́ sẽ chẳng nắm chắc văng sanh!
Đại sự là phải quyết định
văng sanh ngay trong một đời này. Chúng ta biết: Chúng ta chẳng
thể văng sanh th́ là kết pháp duyên với thế giới
Cực Lạc của A Di Đà Phật, đời sau có thể
được làm thân người hay không, có thể lại
gặp gỡ Phật pháp hay không; đó là một ẩn số.
Dẫu làm chuyện tốt nhiều cách mấy, chẳng nhất
định sẽ có thể được làm thân người;
chư vị chớ nên không biết điều này. Trong phần
trước, chúng tôi đă nhắc đến câu chuyện người
bạn học của ngài An Thế Cao, đấy là tấm
gương soi cho chúng ta. [Vị đồng học ấy
là] một vị xuất gia thông hiểu kinh điển, thích bố thí,
nói theo cách hiện thời sẽ là “một vị pháp
sư tốt lành”, vừa thông đạt kinh giáo, lại vừa ưa thích bố thí. Nhưng hằng
ngày đi khất thực bên ngoài, hễ xin phải đồ
ăn chẳng dễ nuốt, trong tâm Sư có chút khổ sở. Sư có
khuyết điểm nhỏ nhặt như thế, hiện
thời ta thấy chuyện này vặt vănh, chẳng đáng
kể. Sư chẳng ngờ nó chướng ngại Sư
khai ngộ, chướng ngại Sư tu hành. V́ thế, đời
kế tiếp là [hưởng thụ] phước báo. Thông
đạt kinh điển, chuộng bố thí, đó là phước
báo, đọa làm long vương trong thần
đạo!
V́ thế, quư vị hiểu, kẻ có phước
báo, kẻ hưởng phước trong lục đạo là
người có phước báo, đời trước đều
là người tu hành, nhưng chẳng đoạn tập
khí phiền năo, tu hành suốt một đời để đổi
lấy phước báo trong đời sau! Hưởng phước
sẽ mê hoặc; do đó, long vương suốt một đời
tạo rất nhiều nghiệp. Người ta cung kính, cúng
dường ông ta, ông ta sẽ phù hộ họ. Kẻ chẳng
cúng dường ông ta, ông ta bực bội, bèn chỉnh người
ta. V́ thế, chính ông
ta hiểu rất rơ, sau khi long vương
xả thọ, sau khi đă chết, sẽ đọa địa
ngục! Ngài An Thế Cao là một vị cao tăng
đắc đạo đă cứu ông ta, khiến cho ông ta quyên
tặng toàn bộ tài sản, xả tài tu phước, kiến
lập đạo tràng. Làm như vậy, ông ta vẫn rơi
vào thần đạo (thiên thần), sanh lên Đao Lợi Thiên.
Điều này thường là v́ chẳng có trí huệ, chẳng
có công phu định lực; do chẳng có trí huệ, hoàn toàn
cậy vào tu phước. Nhưng tu phước th́ quư vị
phải biết, xây dựng một ngôi chùa miếu, ngôi tự
viện ấy dành cho hàng xuất gia lẫn tại gia thật
sự tu hành, thật sự có kẻ tu hành thành tựu th́ mới
là phước báo. Nếu quư vị dựng đạo tràng,
người trong đạo tràng ấy đều là kẻ
tạo oan nghiệt, chẳng có ai thật sự tu hành; như
vậy là quư vị chẳng tu phước được,
mà c̣n giúp đỡ kẻ khác tạo nghiệp! Không chỉ
là chẳng có phước, mà quư vị c̣n tạo tội thêm một bậc, quư vị đọa lạc càng khổ sở hơn!
V́ thế, tu phước phải quan sát cẩn
thận, giống như gieo trồng. Đất đai
ở chỗ này có màu mỡ hay không, có thể trồng những thứ ǵ, quư vị
nhất định phải nghiên cứu trước. Nếu
chỗ này là đất nhiều cát, không thể trồng lương thực, quư vị gieo
hạt giống lương thực xuống sẽ chẳng
có thu hoạch. Do đó, quư vị phải nhận biết phước
điền, phước điền là ǵ? Quư vị nhận
sai phước điền, sẽ chẳng thể gieo phước
được! V́ vậy, tôi thường nói, “bản thân người gieo phước
và tu phước phải có phước báo”, v́ sao? Người
ấy mới thật sự t́m được phước
điền. Lúc tôi mới học Phật chẳng có trí huệ ấy, chẳng biết phước
điền thật sự là ǵ. V́ thế, thầy dạy tôi,
quyết định là phước điền, lớn hay
nhỏ khác nhau, phóng sanh là phước điền, tŕ trai và
phóng sanh là phước điền, bố thí thuốc men là
phước điền, in tặng kinh sách là phước
điền; trong ấy chắc chắn chẳng có lỗi
lầm!
Về sau, chúng tôi thấy Ấn Quang đại
sư suốt đời tiếp nhận cúng dường, tức
là tứ chúng đệ tử cúng dường, số lượng
ấy rất nhiều, nhưng Ngài chẳng tự ḿnh hưởng
thụ, mà dùng toàn bộ để ấn tống kinh sách.
Ngài lập Hoằng Hóa Xă, tức là một cơ sở lưu
thông kinh Phật. Tất cả hết thảy các món tiền
cúng dường đều làm tiền trang trải cho Hoằng Hóa Xă để ấn tống kinh, luận,
thiện thư. Vào thời đó, đấy là một biện
pháp rất hay, xác thực đă tiếp dẫn khá nhiều
phần tử trí thức tiến nhập Phật môn học
Phật, thành tựu cũng khá đáng kể! Trong quá khứ,
thầy Lư Bỉnh Nam ở Đài Trung là một người
trong số đó (những người được tổ
Ấn Quang tiếp độ), lăo nhân gia (tổ Ấn
Quang) chỉ dùng văn tự để độ chúng sanh.
Hiện thời, văn tự tốt đẹp, nhưng
hiện nay người xem văn tự càng ngày
càng ít, tŕnh độ [thông hiểu] Quốc Văn cũng thua
kém trước kia rất xa. Hiện thời, [để hoằng
pháp], quan trọng nhất là TV và đĩa DVD giảng kinh.
Người hiện thời chẳng có cách
nào đọc kinh sách, nay chúng ta có thể sử dụng phương
pháp TV, tức là sách nói, vừa có văn tự vừa có âm
thanh. Đấy là một phương pháp hay, phương
pháp này gần như tương đương với Hoằng
Hóa Xă khi Ấn Quang đại sư lăo nhân gia c̣n tại thế.
Chúng ta đọc kinh văn, kinh văn th́ dùng cách ghép chữ vào màn h́nh. Từ h́nh ảnh trên TV, quư vị có thể
trông thấy văn tự để đọc theo, như
vậy th́ người xem
sẽ đỡ tốn công. Kẻ
không biết chữ cũng chẳng cần phải tra tự
điển, họ sẽ rất hoan hỷ. Nếu là
người một nhà th́ người một nhà có thể
cùng nhau đọc, quư vị thấy đấy chẳng phải
là “sở tác giai biện, cụ
chư Phật pháp” (việc làm đều thực hiện xong, trọn đủ các Phật pháp) ư? Bản thân
chúng ta niệm bản kinh này rất thuần thục, miệng
niệm rất rơ ràng, chẳng đọc sai chữ, chẳng đọc
sót chữ, có thể thường xuyên sử dụng phương
pháp này.
Tôi cũng thường suy nghĩ, khi nào chúng
ta sẽ có thể có một bộ Đại Tạng Kinh
như thế, tức là Đại Tạng Kinh dưới
dạng DVD? Hiện thời th́ có, tức là có đĩa Đại
Tạng Kinh; tuy có đĩa
DVD, nhưng chẳng có ai đọc,
chẳng có âm thanh. Nếu lại có âm thanh th́ giá trị càng
cao! Nếu rất nhiều người đồng tâm hiệp
lực thực hiện, mỗi người đọc một
bộ kinh. Kinh nhỏ th́ niệm hai, ba bộ. Gộp chung
lại, trong tương lai, sẽ tạo thành một bộ Tam Tạng hữu thanh. Đại Tạng Kinh có tiếng
sẽ chẳng khác ǵ Hoằng Hóa Xă của tổ Ấn
Quang, [sẽ là] Hoằng Hóa Xă hiện đại, vô lượng vô
biên công đức! Có mấy đồng học có thể
nghĩ đến [điều này]? Ai sẽ có thể
thật sự thực hiện theo phương hướng
này? Chẳng cần giảng kinh, giảng kinh th́ sợ trí
huệ của chính ḿnh chưa đủ mức sẽ giảng
sai, ta bèn niệm kinh, đề xướng đọc tụng.
Thậm chí đối với Tứ Khố Toàn Thư, tập
hợp đại chúng th́
sẽ dễ thực hiện, làm một
bộ Tứ Khố Toàn Thư theo dạng sách nói, từ TV
có thể trông thấy văn tự, nghe âm thanh. Tôi tin là sau
này chắc chắn sẽ có người làm như vậy,
lợi dụng khoa học kỹ thuật hiện đại
để làm một bộ sách như vậy.
Hôm trước, có người hỏi tôi, nói là có
những nghề nghiệp không thỏa đáng cho lắm, [những
nghề ấy] gây nên oan nghiệt, phải nên làm những
nghề ǵ? Mở tiệm sách cũng là nghề rất tốt, có tiệm bán sách nói, chuyên môn kinh doanh sách nói, công
đức vô lượng! Trong ấy chẳng có lỗi lầm,
quư vị có thể mời người khác đọc tụng,
đọc một bộ sách mất bao nhiêu tiền, quư vị
làm thành một bộ đĩa DVD. Nếu quư vị muốn phổ
độ chúng sanh, quư vị là có thể làm theo kiểu “sở hữu bản quyền,
hoan nghênh lưu thông”, công đức ấy vô lượng.
Biện pháp tốt đẹp, đấy là nghề nghiệp
mới xuất hiện trong thời đại này. chúng tôi
chúc phước cho những đồng tu nào có thể nghĩ
đến, hướng theo mục tiêu ấy “sở tác giai biện, cụ
chư Phật pháp”. A! Nay đă hết thời gian rồi!
***
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem tiếp bài kệ cuối
cùng trong đoạn này, tức bài thứ hai mươi hai.
(Kinh) Nhược thuyết pháp thời, đương
nguyện chúng sanh, đắc vô tận biện, quảng
tuyên pháp yếu.
(經)若說法時。當願眾生。得無盡辯。廣宣法要。
(Kinh: Nếu lúc thuyết pháp, nguyện cho chúng sanh,
biện tài vô tận, rộng tuyên pháp yếu).
Đối với bài kệ này, Thanh Lương
đại sư đă chỉ bày đơn giản:
(Sớ) Hậu nhất thực ngật thuyết
pháp, diệc vị báo thí chủ chi ân dă.
(疏)後一食訖說法,亦為報施主之恩也。
(Sớ: Sau khi đă dùng bữa xong bèn thuyết pháp
cũng nhằm để báo ơn thí chủ).
Điều này rất quan trọng, chúng ta phải
ghi nhớ. Trong xă hội Trung Hoa hiện thời, đă không
c̣n khất thực, nhưng chúng ta phải hiểu tinh thần
của bài kệ này theo nghĩa rộng, tức là hễ tiếp
nhận hết thảy sự cúng dường của trai
chủ, đều phải thành khẩn thuyết pháp, chúc
nguyện cho người bố thí. Trong các tôn giáo thông thường,
chuyện này được gọi “kỳ đảo” (祈禱, cầu nguyện), đấy là báo ân. Trai chủ dùng
tài thí, đệ tử Phật phải nên có pháp thí đối
với trai chủ, dùng pháp thí để đền đáp, đó là đúng! Do vậy, trong quá khứ, đi khất
thực, chẳng hề có chuyện tiếp nhận cúng
dường xong bèn bỏ đi; chẳng có đạo lư ấy!
Nhất định là có thuyết pháp. Từ kinh Lăng
Nghiêm, chúng ta thấy Thích Ca Mâu Ni Phật vào đại thành
Xá Vệ khất thực, sau khi tiếp nhận sự cúng
dường của trai chủ, Ngài chẳng thuyết pháp mà
ngay lập tức quay về. V́ thế, những vị trai
chủ ấy cũng đi theo đức Phật. Đức Phật chẳng thuyết pháp
[trong lúc này], Ngài nhất định sẽ thuyết pháp [sau
đó]. Đức Phật quay về, chúng ta cùng theo Ngài trở
về để nghe Ngài thuyết
pháp, [đó là] phát khởi của kinh Lăng Nghiêm. Từ
chuyện này, chúng ta bèn liễu giải. Do vậy có thể
biết, [hiểu theo] ư nghĩa mở rộng, hễ tiếp
nhận cúng dường th́ đều phải
biết thuyết pháp, để thuyết pháp th́ phải biết
ứng cơ (應機, ứng hợp
căn cơ).
Khi chúng tôi học kinh giáo, thầy đă dạy
chúng tôi: Phật pháp cũng ắt cần phải chú trọng
hiện đại hóa. Nếu quư vị không biết hiện
đại hóa, sẽ chẳng thể độ chúng sanh trong
hiện đại. Đấy là khi tôi vừa mới xuất
gia, đă học những điều này từ chỗ thầy
Lư, biết đến [khái niệm] bản thổ hóa và hiện
đại hóa. Tôi lại suy tưởng khi Phật pháp từ
Ấn Độ truyền sang Trung Hoa, những vị cao
tăng đại đức thuở ấy đă hiểu
rơ [chuyện này]. V́ thế, chúng ta thấy các vị Ma Đằng
và Trúc Pháp Lan, đó là những vị [tăng sĩ] tiếp
nhận sự lễ thỉnh của Minh Đế đời
Hán mà đến Trung Hoa sớm nhất. Sau khi đă tới Trung
Hoa, [các Ngài] mặc quần áo của người Hoa, ở trong cung điện theo kiểu người
Hoa, tập quen với cách sống, cách ăn uống theo kiểu
Trung Hoa; [đấy là] bản thổ hóa. V́ thế, [Phật
pháp] mới được người
Hoa yêu mến, hoan nghênh. Sau đó, dựng đạo tràng, cất
tinh xá, hoàn toàn là Trung Hoa hóa, cho đến
về sau, tạc tượng, tạo tượng Phật,
tạo tượng Bồ Tát cũng đều có vẻ mặt
của người Hoa, đúng là tương ứng với
phẩm Phổ Môn đă nói “đáng
nên dùng thân ǵ để hóa độ được, bèn hiện
thân ấy”. Chúng ta phải nên
lănh hội giáo huấn này. Phật pháp chẳng phải là đă
h́nh thành th́ bất biến. Nguyên lư và nguyên tắc quyết định
bất biến, nhưng phương pháp và cách thức thiên
biến vạn hóa, quư vị mới có thể thích ứng với
chúng sanh trong thời đại và nơi chốn hiện thời,
họ mới có thể hoan nghênh quư vị.
Do vậy, giảng kinh th́ chẳng thể không
hiểu đạo lư này. Quư vị tham khảo chú giải của
cổ nhân, có hiểu đạo lư này th́ quư vị mới
có thể khai trí huệ. Mở tác phẩm chú sớ của
kinh bổn ra, cùng là một bản kinh như nhau, nhưng quư
vị thấy người đời Hán chú giải bèn nói
theo kiểu nào, người đời Đường chú
giải sẽ chẳng giống người đời Hán.
Nếu giống như nhau th́ không cần chú giải lần
nữa! Quư vị mới hiểu [chú giải] thời Hán thích
hợp với xă hội đời Hán, thích hợp với
cách đối nhân xử thế thời đó. Đời Đường
[t́nh thế xă hội, quan hệ nhân sự] đă khác, phải
giảng lại một lần nữa. Đời Tống
lại khác nữa! Nguyên, Minh, Thanh, mỗi triều đại
đều có cách nói theo triều đại ấy, tuy vẫn
là cùng một bộ kinh! Những bản chú sớ ấy đều
được lưu truyền cho hậu thế, chúng ta chú
tâm tham khảo bèn thấu hiểu, sau đấy sẽ suy
ra những điều mới, biết đối với xă
hội hiện đại th́ phải nói theo cách nào, quư vị
sẽ bèn hiểu rơ.
Trong khi dạy học, tôi thường dùng tỷ
dụ: Kinh Phật giống như một cội cây lâu đời
ngàn năm, cây có tuổi thọ là ba ngàn năm, nó vẫn sống.
Mỗi năm nó đều nẩy nhánh mới, mỗi năm
đều đơm bông mới, mỗi năm trổ quả
mới. Vẫn là một cội cây, năm nay chẳng giống
năm ngoái. Chúng tôi nghĩ năm sau đương nhiên sẽ
chẳng giống năm nay, sống động, chẳng
phải là chết cứng. Cái cây ấy là căn bản, giống
như kinh giáo và kinh điển. Kinh điển vĩnh viễn
bất biến, c̣n giảng theo kiểu nào, vận dụng
theo kiểu nào th́ có thể biến đổi. Nói cách khác,
nguyên lư và nguyên tắc bất biến, c̣n h́nh thức và phương
pháp th́ có thể biến thông. Đúng như trong kinh giáo, Phật,
Bồ Tát đă dạy, “đáng nên dùng thân ǵ để độ được, bèn hiện
thân ấy”. Đấy là nói “h́nh thức có thể
biến đổi”, đáng nên dùng h́nh thức ǵ bèn dùng h́nh
thức ấy.
Vào thời cổ, kiến trúc của tự
viện am đường thuở đó theo h́nh thức
cung điện, giống như hoàng cung, c̣n trong thời đại
hiện tại đă là dân chủ, chẳng có hoàng cung. Chúng
ta xây cất đạo tràng trong hiện thời, chẳng
cần xây dựng theo h́nh thức cung điện, [nếu cứ giữ
nguyên h́nh thức cung điện], đó là ǵ? Quư vị chẳng
biến đổi! Những
tự viện đă có từ trước được bảo tồn, đó là cổ
tích, có thể dùng làm nơi du lịch văn cảnh cho đại
chúng, hoặc để khảo cổ, như vậy th́ được,
chúng có giá trị lịch sử. V́ thế, phải nên bảo
tồn, phải nên trùng tu. Trùng tu th́ nhất định phải
căn cứ theo dáng vẻ vốn có, như người Nhật
đối với phương diện này đă làm rất
khá. Kiến trúc của tự viện am đường Nhật
Bản quá nửa là theo lối kiến trúc đời Đường.
Chúng ta có thể suy ra, vào đời Đường, Nhật
Bản và Cao Ly đă phái rất nhiều sinh viên đến
Trung Hoa du học. Sau khi quay về, họ đă hoàn toàn xây cất
[tự viện] phỏng theo các kiến trúc của Trung Hoa. V́ thế,
lối kiến trúc của Trung Hoa được truyền
đến Nhật Bản. Nay chúng ta thấy các kiến trúc
của Nhật Bản là kiến trúc thời Hán, thời Đường, khác hẳn phong cách thời Minh và
Thanh. Họ biết bảo tồn, nguyên lai là h́nh dạng
như thế nào, dẫu sửa chữa vẫn giữ nguyên
dáng vẻ ấy, vốn
dùng chất liệu ǵ, cho tới hiện thời, vẫn
chọn lựa chất liệu ấy, chẳng thay đổi!
V́ thế, chúng ta đến thăm chùa chiền Nhật Bản,
sẽ giống như quay lại thời đại Hán - Đường.
Thậm chí trang phục họ mặc cũng chẳng biến
đổi. Nhưng để tiếp dẫn người
thuộc thời đại hiện tại, sẽ chẳng
dùng h́nh thức ấy nữa, mà dùng h́nh thức như thế
nào? Dùng phương thức kiến trúc hiện đại
hóa của các trường học để xây cất, chẳng
cần dùng h́nh thức cung điện. Ở một khu vực
nào đó, nhất định sẽ dùng phong cách kiến trúc
thuộc địa phương ấy, người
địa phương sẽ hoan hỷ.
Thậm chí đối với tượng Phật,
năm xưa, khi tôi sống ở Mỹ, tôi thường nói
với các đồng tu Phật môn bên đó: “Phật giáo
chưa đến nước Mỹ”. Họ hỏi: “V́
sao? Chúng ta chẳng dựng chùa chiền ở đây hay sao?”
Tôi nói: “Quư vị xem đi, trong chùa chiền thờ tượng
Phật, có gương mặt của tượng Phật nào
giống người Mỹ hay không?” Mọi người mới
hoảng nhiên đại ngộ chuyện này! [Gương mặt
của tượng Phật, tượng Bồ Tát] chẳng
phải là người Hoa th́ là người Nhật, trong các
[tự viện] Tiểu Thừa th́ là người Thái, chẳng
phải là gương mặt của người Mỹ. Vậy
là không được rồi, người địa
phương sẽ không tiến nhập Phật môn. Họ
vừa thấy gương mặt của tượng Phật
chẳng phải là gương mặt của họ, [sẽ
nghĩ] chẳng phải là văn hóa của họ. H́nh thức
kiến trúc hoàn toàn dùng h́nh thức theo kiểu cung điện
Trung Hoa, khiến cho người ta trông thấy [bèn nghĩ]
đây là văn hóa ngoại quốc. Đấy là chẳng
biết hiện đại hóa và bản thổ hóa như nhà
Phật đă nói. Do những vị cao tăng đại
đức Ấn Độ thuở ấy thông hiểu, đến
Trung Hoa, các Ngài ngay lập tức Trung Quốc hóa, tức là
bản thổ hóa, tức là hiện đại hóa ngay trong
thuở ấy, [Phật giáo] hết sức được
người Hoa nhiệt liệt hoan nghênh, đạo lư ở
ngay chỗ này!
“Thuyết pháp”
th́ đương nhiên là phương thức biểu đạt
ngôn từ cũng phải hiện đại hóa. Đối
với giảng diễn, hiện thời, thông thường
giảng diễn quá nửa là đứng [diễn thuyết],
chúng ta có thể chọn phương thức ngồi, ngồi
cũng tỏ lộ sự đoan chánh, trang nghiêm. V́ “thuyết pháp” trong Phật pháp,
chúng ta nói tổng hợp lại th́ chẳng ngoài luân lư,
đạo đức, nhân quả, và trí huệ.
V́ thế, dùng phương thức đoan chánh, trang nghiêm để
biểu hiện, người hiện đại có thể
tiếp nhận. Dùng giảng đường theo phương
thức hiện đại, mọi người càng hoan hỷ,
phá trừ sự hiểu lầm của xă hội “Phật
pháp là mê tín”. Khi giảng kinh, trong quá khứ, tôi c̣n nghĩ đến
một phương pháp, trước kia tôi đă có nói rồi:
Trong giảng đường chẳng thờ tượng Phật,
trống rỗng, chẳng nhiễm mảy trần. Tới
khi giảng kinh, dùng máy chiếu ảnh rọi tượng
Phật lên màn ảnh. Phía sau bục giảng là một màn ảnh
lớn, giống như một tấm bảng đen lớn,
giảng kinh nào bèn chiếu h́nh tượng của vị Phật,
Bồ Tát [chủ tŕ bộ kinh ấy]. Giảng kinh xong, chúng
ta tắt nguồn điện, sẽ chẳng c̣n nữa.
Khi giảng kinh th́ Phật, Bồ Tát bèn hiện tiền,
nay chúng ta đă làm được!
Tại Trung Hoa có nhiều đạo tràng cổ,
tạc tượng hết sức trang nghiêm, [chúng ta chụp
h́nh] làm thành những tấm phim, hiện thời c̣n có thể
tiến bộ hơn, làm thành đĩa DVD. Giảng kinh Hoa
Nghiêm th́ phía sau là Hoa Nghiêm Tam Thánh, tức Tỳ Lô Giá Na Phật,
Văn Thù Bồ Tát, và Phổ Hiền Bồ Tát, những h́nh
tượng ấy sẽ hiện tiền. Xong buổi giảng
ấy, giống như lên lớp, xong buổi học bèn tắt
nguồn điện, [h́nh tượng] Phật chẳng c̣n
nữa, [h́nh ảnh] Phật, Bồ Tát đều chẳng
có, khiến cho khi quư vị chẳng phải là hoạt động
giảng kinh, sẽ chẳng thấy Phật, Bồ Tát ở nơi ấy. Giảng
kinh Địa Tạng, Địa Tạng Bồ Tát xuất
hiện; giảng kinh Di Đà, A Di Đà Phật xuất hiện;
giảng kinh Quán Thế Âm Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát
xuất hiện; giảng kinh Bát Nhă, Văn Thù Bồ Tát xuất
hiện, chuyện này có ư vị lắm! V́ thế, giảng đường
rỗng tuếch, chẳng nhiễm mảy trần. Đối
với chuyện này, trong tương lai, nếu có cơ duyên,
chúng ta vẫn phải dẫn đầu tiến hành, đấy
là tương ứng với sự biểu thị pháp của
đức Phật. Làm rất sống động, làm sao
khiến cho kẻ khác hoan hỷ, cũng sẽ có thể khơi
gợi, phát khởi rất lớn đối với họ.
Đương nhiên là đạo tràng có thể
lưu thông kinh sách, có thể lưu thông CD/DVD, có sách nói, tượng
Phật, toàn bộ tượng Phật đều làm thành
CD/DVD, chúng ta nói đến toàn thể tượng Phật.
[Tượng Phật] trong các đại đạo tràng, đặc
biệt có tánh chất lịch sử, thậm chí có thể
sưu tập [h́nh tượng Phật] trên toàn thể thế
giới, trong tương lai dùng để đáp ứng nhu cầu của đạo tràng trong thời đại mới.
Đạo tràng có cần phải dùng tượng vẽ, tượng
đắp hay không? Đều chẳng cần thiết, nhưng khi có một hoạt động Phật giáo
lớn, toàn bộ Phật, Bồ Tát đều xuất hiện
trong giảng đường ấy. V́ thế, cách này là thuận
theo thời đại, thích ứng thời đại, “hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ
công đức”.
Đại nguyện của Bồ Tát là nguyện
cho hết thảy chúng sanh “đắc
vô ngại biện tài, quảng tuyên pháp yếu” (đắc
biện tài vô ngại, rộng tuyên nói pháp yếu). Nói thật
ra, hai câu này chính là mục đích thuyết pháp. Đấy
là pháp bố thí; mục đích của pháp bố thí nhất
định là giúp chúng sanh phá mê khai ngộ. Mê là mê mất tự
tánh, ngộ là giác ngộ tự tánh. Khi mê bèn sanh phiền
năo; khi mê, Nhất Chân pháp giới bị vặn vẹo biến
thành lục đạo tam đồ. Khi giác ngộ, lục
đạo tam đồ lại phục hồi thành Nhất
Chân pháp giới. Do vậy, trong kinh luận cũng thường dùng tỷ dụ này: Lục đạo và
mười pháp giới giống như cảnh giới trong
mộng. Quư vị thấy kinh Kim Cang đă nói rất hay: “Hết thảy các pháp hữu vi,
như mộng, huyễn, bọt, bóng”. Pháp hữu vi là ǵ?
Mười pháp giới, lục đạo đều là pháp
hữu vi. Nay chúng ta nói “hữu
vi” là “có sanh, có diệt”, pháp vô vi là “bất sanh, bất diệt”, nhà Phật gọi nó là Nhất Chân pháp giới, chẳng
có biến đổi h́nh dáng, nhất chân mà!
Do đâu mà có Nhất Chân pháp giới? Nhất
tâm hiện! V́ thế, nói tóm lại, đức Phật
đă nói toạc bằng một câu: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”.
Khi trong tâm quư vị chẳng có ǵ hết, đó gọi là Nhất
Chân. V́ thế, Nhất trong Nhất Chân của Phật pháp chẳng
phải là một con số, chẳng phải là một trong
“một, hai”, bất đắc dĩ nói là Nhất, chứ
nhất trong “nhất nhị”
chính là có phân biệt, có chấp trước; đó là trong mười
pháp giới, trong lục đạo. Điều ǵ mới gọi
là Nhất? Nhất là như thế nào? Kinh Hoa Nghiêm nói: “Chẳng khởi tâm, không động
niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước”,
khi ấy gọi là Nhất. Khởi tâm động niệm
sẽ chẳng có Nhất, Nhất đă biến thành Nhị
mất rồi!
Cách nói này của đức Phật khá gần
với cách nói của Đạo gia Trung Hoa. Quư vị thấy
Đạo gia nói đến Thái Cực, Thái Cực rất
giống với “không khởi
tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, chẳng
chấp trước” như Phật pháp đă nói. Đấy
là Thái Cực. Hễ động, sẽ biến thành Âm, Dương; [tức là] hễ động
liền biến thành hai. Do vậy, Thái Cực sanh Lưỡng
Nghi. Khi đă mê th́ là Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh Tứ
Tượng, Tứ Tượng sanh Bát Quái, càng lúc càng phức
tạp. V́ thế, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười
pháp giới sanh từ tâm tưởng, tâm tưởng đă
đoạn th́ sẽ là Nhất Chân pháp giới. Đấy là bất
đắc dĩ đặt cho nó một danh xưng; nói thật
ra, trong ấy, ngay cả danh tướng cũng chẳng có! Quư vị
chẳng khởi tâm động niệm, lấy đâu ra
danh? Lấy đâu ra tướng? V́ thế, Lăo Tử nói: “Danh khả danh, phi thường
danh; đạo khả đạo, phi thường đạo”
(Cái danh mà có thể gọi ra th́ chẳng phải là danh
thường hằng; cái đạo mà có thể diễn tả được
th́ chẳng phải là đạo thường hằng), Ngài
đă nêu ra ư nghĩa này! Lăo Tử và Thích Ca Mâu Ni Phật
gần như sống cùng một thời đại, một
vị ở phương Đông, một vị ở Ấn
Độ, chẳng hề gặp gỡ, chẳng trao đổi
tin tức, nhưng sự quan sát và giảng giải về
vũ trụ và nhân sinh hết sức tương cận, cổ
nhân nói là “anh hùng sở kiến
đại lược tương đồng” (nói chung,
bậc anh hùng có cách nh́n giống nhau), thật sự có trí
huệ.
V́ thế, hết thảy chúng sanh, tức là
chúng ta nói về lục đạo, nỗi khổ luân hồi
trong lục đạo do đâu mà có? Do mê mất tự tánh
mà có. Làm thế nào để thoát ly sự khổ nạn
ấy? Chỉ có giác ngộ. Hễ giác, sẽ chẳng có
[nỗi khổ luân hồi trong lục đạo]; v́ nó chẳng
thật, mà là huyễn tướng. Nhà Phật nói là Diệu
Hữu, “Diệu Hữu phi hữu,
Chân Không bất không” (Diệu Hữu chẳng phải là có, Chân Không chẳng
phải là Không). V́ sao Chân Không bất
không? Chân Không có thể biến thành Diệu Hữu; do đó,
nó chẳng phải là Không. V́ sao Diệu Hữu bất hữu?
Nó là “tướng có, tánh không, Sự
có, Lư không”; xác thực là giống như cảnh giới
trong mộng. Quư vị hăy ngẫm xem, Hữu trong cảnh mộng
được Phật pháp gọi là Diệu Hữu; [bởi
lẽ], tuy có mà chẳng phải là có. Ngay khi chúng ta tỉnh
giấc, cảnh giới trong mộng bèn chẳng có. Tuy chẳng
có, quư vị vẫn có thể nằm mộng, đấy chính là “Chân Không bất không”. Quư vị
hăy từ những tỷ dụ này mà tư duy, quan sát, đối
với những đạo lư được nói trong Phật
pháp, sẽ dần dần có thể hiểu ít phần. Nếu giùi mài chẳng bỏ nơi chút phần,
nghiêm túc nỗ lực, y giáo tu hành, chút phần ấy sẽ
dần dần tăng trưởng. V́ thế, “tích tập tiểu ngộ thành đại
ngộ, tích tập đại ngộ thành triệt ngộ”.
Đạt đến triệt ngộ, không chỉ là vượt
thoát luân hồi, mà luân hồi chẳng có, lục đạo
chẳng có, mười pháp giới cũng chẳng có. Do đó,
giáo học của Phật pháp là trí huệ chân thật. Trí
huệ chân thật do đâu mà có? Là cái vốn sẵn có
trong tự tánh của hết thảy chúng sanh, chẳng đến
từ bên ngoài. Vốn sẵn có th́ quư vị phải nên có ḷng
tin để khôi phục. Do mê hoặc mà sanh khởi
phiền năo, đức Phật bảo “mê và phiền năo vốn là không”, trong tự tánh chẳng
có những thứ ấy. Biết chúng nó là chẳng có, [tức
là] trong tự tánh chẳng có [những thứ ấy], chúng
ta bèn có tín tâm “những thứ ấy có thể đoạn được”, sẽ thật
sự có thể đoạn được! Chư Phật
đă đoạn, các Ngài đă thành Phật. Bồ Tát
đă đoạn, cho nên Ngài có thể thành Bồ Tát. Chúng ta
chỉ cần có thể đoạn là được rồi,
kinh Hoa Nghiêm đă ban cho chúng ta ḷng tin khôn sánh!
Chúng ta sắp giảng xong phẩm kinh này rất nhanh,
phẩm kế tiếp là phẩm Hiền Thủ. Chư vị
sẽ thấy, phẩm Hiền Thủ nhằm khiến cho
hàng Bồ Tát tu hành đạt được thành tựu.
[Nói theo] danh từ Phật pháp [th́ thành tựu] là Quả Đức,
tu nhân chứng quả. Phẩm kế tiếp sẽ nêu rơ
Quả Đức, tức là [quả vị] Thập Tín Bồ
Tát. Một trăm bốn mươi mốt nguyện được
nói trong phẩm kinh này (phẩm Tịnh Hạnh) là nói về
diệu hạnh; nói theo kinh Hoa Nghiêm là “viên hạnh”, tu hành viên măn, nêu ra một trăm bốn
mươi mốt thí dụ. Ví như hiện thời chúng
tôi đề xướng mọi người hăy học tập
Đệ Tử Quy, trong Đệ Tử Quy có tất cả
một trăm mười ba chuyện, ở đây [phẩm
Tịnh Hạnh] nêu ra một trăm bốn mươi mốt
chuyện, toàn là cuộc sống hằng ngày từ sáng sớm
thức dậy cho đến tối đi ngủ, sáu căn
tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài, chẳng có điều
ǵ không thể khơi gợi chính ḿnh hăy trở về tự
tánh.
V́ vậy, câu đầu tiên trong bài kệ tụng
này là sự tướng, đều là từ sự tiếp
xúc trong cuộc sống hằng ngày, câu thứ hai là khơi
gợi, phát khởi, hai câu cuối là trở về Tánh
Đức. Như vậy th́ Bồ Tát minh tâm kiến tánh như
thế nào? Vốn là dùng phương pháp này để tu. Những
sự việc này rất b́nh thường, rất phổ
thông, Bồ Tát gặp gỡ chúng hằng ngày, nhưng chúng
ta vẫn chẳng phải là hằng ngày đều gặp gỡ!
Khi Ngài gặp được chúng, sẽ có thể đưa
chúng trở về tự tánh; khi chúng ta gặp gỡ chúng,
sẽ đưa về chỗ nào? Trở về phiền
năo, sai lầm ở chỗ này! Chúng ta gặp chuyện thuận
ḷng sẽ tham ái, dấy ḷng tham ái. Từ tham ái lại càng
nghiêm trọng hơn là mong muốn có được nó; đó gọi là “ái, thủ, hữu”. Chẳng
hợp ư ḿnh bèn bài xích, cự tuyệt, trừ bỏ
nó, nẩy sanh phiền năo. Sáu căn của chúng ta tiếp
xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài, bèn sanh ra tham, sân, si, mạn,
nghi, ác kiến, sanh ra những thứ ấy, hoàn toàn trái nghịch
Tánh Đức. Khởi tâm động niệm phiền năo
làm chủ; do đó, đời đời kiếp kiếp luân
hồi trong lục đạo, thoạt nổi lên, thoạt
ch́m đắm. Sanh trong ba thiện đạo giống như
ngóc đầu lên, con người loi ngoi trong biển khổ,
vươn cổ hít lấy một ngụm không khí trong sạch; đọa
trong tam đồ giống như lại ch́m xuống, ở
trong biển khổ. Đức Phật đă dạy rất
rơ ràng: Cơ hội để chúng ta có thể được
làm thân người hoặc trời rất ít, thời gian rất ngắn ngủi, chắc chắn là thời gian ở trong ba đường dưới (ba đường
ác), tức là trong ngạ quỷ, địa ngục, súc sanh
sẽ lâu dài, khổ nạn nhiều!
Chúng ta học Phật đă nhiều năm
như thế, cẩn thận suy tưởng lời dạy
này của đức Phật, [sẽ cảm thấy] đúng
là hữu lư. V́ sao? Nghiệp nhân của những chuyện này
là thiện hay ác. Chúng ta hăy ngẫm xem, suốt một ngày từ
lúc sáng sớm thức dậy cho đến tối đi ngủ, hăy
nghiêm túc phản tỉnh, [xét xem] khởi tâm động niệm
của chúng ta trong suốt một ngày là thiện niệm
nhiều hay ác niệm nhiều? Ngôn ngữ và tạo
tác là thiện hạnh nhiều hay ác hạnh nhiều? Chỉ
cần tự ḿnh suy ngẫm, tự ḿnh sẽ hiểu rơ. Nếu
thiện hạnh nhiều, đời sau quư vị c̣n có thể
được làm thân trời người. Nếu ác niệm
nhiều, hành vi ác nhiều, chắc chắn là vào trong tam
đồ. Khởi tâm động niệm, đăi người
tiếp vật, tâm tham nặng nề là ngạ quỷ đạo.
Tâm sân khuể nặng nề, [hễ có điều ǵ] chẳng
vừa ư ḿnh bèn khó chịu, bực tức, sẽ là địa
ngục đạo. Ngu si, chẳng có năng lực phân biệt
chân, vọng, chẳng có năng lực phân biệt tà, chánh, đúng,
sai, thường là điên đảo, tức điên đảo
thị phi, điên đảo tà chánh, sẽ là súc sanh đạo. Chúng ta
thường nói Si là hồ đồ. Hồ đồ là kẻ
ngu si, chẳng hiểu rơ. Đấy là cương lănh trọng
yếu nhất trong cuộc sống hằng ngày, ở đây
nói là “pháp yếu” (法要), tức là điều trọng yếu nhất trong Phật
pháp. Hăy thời thời khắc khắc nhắc nhở
chính ḿnh. Chúng ta có c̣n làm chuyện này nữa hay chăng? Làm chứ! Vẫn cứ làm đúng như vậy,
chẳng sai! Tuy hằng ngày niệm
kinh, hằng ngày lạy Phật, hằng ngày niệm Phật,
nhưng khởi tâm động niệm vẫn là tham, sân, si,
chẳng chuyển tham, sân, si thành Giới, Định, Huệ,
chẳng hề có. Hằng ngày đối với “chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng,
chánh giác, từ bi” chẳng làm được, chẳng
làm được một điều nào. “Thấy thấu suốt, buông xuống, tự tại,
tùy duyên, niệm Phật” cũng không làm được.
Tôi đă nói mười câu này rất nhiều lần, hễ
làm được một câu th́ cả mười câu đều
làm được, đúng như kinh Hoa Nghiêm đă dạy:
“Một chính là nhiều, nhiều
chính là một”. Quư vị nói “tôi chỉ làm được
một điều trong ấy, những điều khác chẳng
làm được”; đó là giả trất, quư vị một
điều cũng chẳng làm được!
Quư vị hỏi người thật sự
niệm Phật có làm được hay không ư? Họ thật
sự làm được. V́ thế, họ niệm Phật
có cảm ứng. Đó gọi là “một niệm tương ứng một niệm Phật,
niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”.
Kẻ miệng niệm Di Đà, tâm chẳng chân thành, chẳng
cung kính, tâm chẳng thanh tịnh, tâm bất b́nh đẳng,
trong tâm ngu si, chẳng có trí huệ, tâm chẳng
từ bi, niệm Phật kiểu đó chẳng tương
ứng! Kẻ ấy chẳng thấy thấu suốt, chẳng
buông xuống, mà cũng chẳng tự tại, cũng chẳng
biết tùy duyên; v́ thế, chỉ có một điều là niệm
Phật, những thứ khác chẳng có. Đó chẳng phải
là niệm Phật, [bởi lẽ], miệng có, tâm không! Thật
sự niệm Phật, chín điều trên đây nhất định sẽ trọn đủ viên măn.
Người ấy niệm Phật hiệu sẽ có công
phu, sẽ có năng lượng, sẽ khởi cảm ứng
đạo giao cùng A Di Đà Phật, giống như gởi
điện tín hay gọi điện thoại thông suốt. Nếu thiếu một điều sẽ là chẳng
thông, thiếu hai điều lại càng đương
nhiên chẳng thông! Hoàn toàn chẳng có, làm sao thông
cho được? Đấy là như khi xưa thầy Lư
thường bảo: “Một vạn
người niệm Phật, thật sự văng sanh chỉ
có đôi ba người”, quư vị bèn hiểu đạo
lư ở chỗ nào! Chẳng dễ dàng! Nếu chẳng buông
tập khí phiền năo xuống, chắc chắn sẽ bị
chướng ngại!
Khi tôi mới xuất gia, trụ tại chùa
Lâm Tế. Chùa Lâm Tế có một hội niệm Phật đă
thành lập rất lâu. Khi tôi xuất gia, hội ấy đă
có; họ [niệm Phật] mỗi Chủ Nhật một lần.
Quá nửa [hội viên] là người Phước Châu; trong
ngôi chùa ấy, quá nửa người xuất gia là người
Phước Châu, v́ thế, những đồng hương
đạo hữu niệm Phật ấy mỗi Chủ Nhật
tụ họp tại đó, dùng cơm trưa trong chùa. Buổi
sáng niệm Phật hai cây hương, buổi chiều cũng
niệm hai cây hương. Vị duy-na lănh chúng niệm Phật
đánh pháp khí rất khéo, tức cư sĩ Lâm Đạo
Khể. H́nh như thuở đó ông ta làm Tương Lư[1] của một
ngân hàng nào đó tại Đài Loan, địa vị
cũng rất cao, là một người tu hành đă lâu.
Trong pháp hội, ông ta luôn là duy-na, v́ hội niệm Phật
toàn là kẻ tại gia, các pháp sư không tham dự, chỉ
chăm sóc bọn họ. V́ thế, bọn họ tự làm
duy-na. Khi ông Lâm Đạo Khể văng sanh, nghiệp
chướng hiện tiền, lúc bệnh nặng bèn sợ
chết, các đồng tu đến giúp ông ta trợ niệm
th́ ông ta cự tuyệt, chẳng chịu niệm Phật.
Khi đó, tôi có một vị lăo đồng
tham, khi tại gia th́ là bạn bè lâu năm, tức pháp
sư Minh Diễn. Sư là người Phước Châu. Sư
trông thấy t́nh h́nh ấy bèn nói với tôi, Sư nói v́ sao có
hiện tượng ấy? Vị làm duy-na lănh đạo hội
niệm Phật nhiều năm ngần ấy, nghiễm
nhiên khi lâm chung chẳng niệm Phật, ai niệm Phật
ông ta bèn chửi người đó, nghiệp chướng
hiện tiền đấy! Quư vị lại suy
ngẫm mà xem, đối với mười câu gồm hai mươi
chữ như tôi đă nói, ông ta chỉ có niệm Phật,
chín điều kia đều chẳng có. Tham luyến tiếng
tăm và lợi dưỡng thế gian, hưởng thụ
ngũ dục lục trần, miệng nói rất thích văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, khi A Di
Đà Phật thật sự đến bèn sợ hết hồn,
ngay lập tức chuồn mất. Từ chỗ này, quư vị có thể suy đoán
những ai không thể văng sanh là do nguyên nhân nào? Quá nửa là
hạng người như vậy, chính họ có
biết hay không? Chính họ chẳng biết, tập khí mà! Chính
ḿnh không biết là [bản thân] ngu si. Đến hơi thở cuối cùng, khi ấy
vẫn là mê hoặc, điên đảo, tập khí phiền
năo hiện tiền, nghiệp chướng hiện tiền,
rất đáng tiếc!
Khi đó, chúng tôi trông thấy t́nh h́nh này, tôi
và thầy Minh Diễn, lúc đó, thầy Pháp Dung hăy c̣n. Chúng
tôi (tôi và thầy Minh Diễn) ở cùng một chỗ, c̣n thầy
Pháp Dung không trụ tại đạo tràng của chúng tôi, dường
như Ngài ở bên chùa Nghi Lan. Chúng tôi cũng thường xuyên gặp
gỡ, là huynh đệ cùng thọ giới. Thường dùng
chuyện này để cảnh giác chính ḿnh, sau đấy mới
nghĩ đến lời khai thị của Chương
Gia đại sư, đúng là pháp yếu: “Thấy thấu suốt, buông xuống”. Hễ chẳng thấy thấu suốt, sẽ chẳng buông xuống. Con người tham sống sợ chết,
hết thảy chúng sanh đều chẳng thể tránh né
chuyện này, nhưng khi đó tôi liễu giải Phật pháp
quá ít, những vị đó học Phật lâu hơn tôi. Tuy
chúng tôi xuất gia, họ thông hiểu Phật pháp hơn tôi
nhiều lắm! Chẳng biết Thật Tướng của các pháp! Do đó, quư vị nói xem chuyện này quan trọng cỡ nào!
Thích Ca Mâu Ni Phật
giảng kinh, thuyết pháp cho hết thảy chúng sanh, mục
tiêu chung cực là dạy mọi người giác ngộ “Thật
Tướng của các pháp”. Thật Tướng của các pháp chẳng cần nói
rất sâu. Nói nông cạn, dễ hiểu nhất, sẽ là bảo
cho quư vị biết một sự thật: “Chẳng có sanh tử, mà cũng chẳng có luân hồi”.
Chuyện này lạ lùng, chẳng có luân hồi th́ là chuyện
ǵ? Chỉ là “xả thân, thọ thân” th́ gọi là luân hồi.
Quư vị liễu giải chân tướng sự thật này.
Luân hồi là như thế nào? Giống như mỗi ngày,
mỗi ngày giống như một đời, đến ngày
mai lại là một đời [khác so với ngày hôm nay]. Quư vị
nh́n từ chỗ này, sẽ thấu hiểu chân
tướng của luân hồi. Sáng sớm thức dậy
giống như chúng ta sanh ra. Buổi tối đi ngủ
giống như chúng ta chết đi. V́ thế, trong quá khứ,
tôi giảng kinh cũng đă nói: “Chúng ta mỗi ngày đều
là chết nhẹ một lần, ngày hôm sau lại sanh ra”.
Trên thực tế, luân hồi trong lục đạo là t́nh
h́nh như vậy đó. Thân thể này của chúng ta chết
đi, thân thể có sanh diệt, linh tánh chẳng có sanh diệt.
Tôi sánh ví thân thể này như mặc quần
áo. Quư vị thấy đó, sáng sớm thức dậy mặc
quần áo vào, giống như lại có một thân thể.
Buổi tối đi ngủ, thay quần áo ra, thân thể chẳng
cần nữa, đă chết, quư vị hăy thấu
hiểu từ chỗ này. Sau đấy là như thế nào?
Quư vị đối với sanh tử sẽ không sợ
hăi, chẳng kinh hoảng, sẽ chẳng tham sống sợ chết. Chẳng sợ hăi tử vong th́ chắc chắn sẽ
chẳng đọa trong tam ác đạo. Phàm là kẻ tham sống
sợ chết, nhất định sẽ đọa trong
tam ác đạo. Đấy là dạy mọi người một
cách giác ngộ để khỏi đọa ác đạo. Đấy là đối với hết thảy chúng sanh, bất luận
họ tin Phật hay không, chỉ cần họ tin tưởng
nhân quả, đều có thể nói rơ ràng với họ. Vậy
là quư vị xả thân, muốn
có thân thể tốt đẹp, [vậy th́ phải là] thiện nghiệp, thiện tâm, làm việc thiện.
Nếu cái tâm bất thiện, hạnh bất thiện, quư
vị “thay quần áo” càng thay càng khó coi, càng thay càng bẩn
thỉu. V́ lẽ này, đoạn ác tu thiện quan trọng
dường ấy! A! Hôm nay thời gian đă hết rồi,
chúng ta học tập bài kệ này tới đây.
Tập
1568
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh
thứ mười một, đoạn lớn thứ tám
trong phần Kệ Tụng là các nguyện khi trở về
tắm rửa. Chúng ta xem từ bài kệ thứ nhất.
(Kinh) Tùng xá xuất thời,
đương nguyện chúng sanh, thâm nhập Phật trí,
vĩnh xuất tam giới.
(經) 從舍出時。當願眾生。深入佛智。永出三界。
(Kinh: Khi ra khỏi nhà, nguyện cho chúng sanh, thâm nhập Phật trí, măi ĺa ba cơi).
Đây là khất thực, rời khỏi nhà
trai chủ, sau khi khất thực xong, quay về. Tôi nghĩ
kinh Kim Cang được mọi người đọc
nhiều nhất, và cũng đều có thể ghi nhớ
khá rành rẽ. Quư vị thấy mở đầu kinh Kim
Cang là Thích Ca Mâu Ni Phật đến đại thành Xá Vệ
khất thực, sau khi quay về, dùng cơm xong bèn rửa
chân. V́ tập tục của người Ấn Độ
là mọi người đều chẳng mang giầy, đều
đi chân trần; v́ thế, chúng ta thấy tượng Phật
đều được tạc chẳng mang giầy, măi cho đến
hiện thời, người Ấn Độ vẫn như
vậy. Hàng xuất gia Tiểu Thừa cũng thường
đi dép lê, v́ họ ở vùng nhiệt đới, cho nên ăn
mặc và sinh hoạt đều rất đơn giản.
Hằng ngày nhất định phải gột rửa thân
thể, thường nói là “xung
lương” (沖涼, xối mát), nhằm rửa sạch thân thể. Họ
cũng chẳng có mùa Đông, chỉ có một mùa Hạ, chúng
ta đều phải nên biết điều thường
thức này.
V́ thế, rời khỏi nhà trai chủ, nay chúng
ta có thể hiểu theo nghĩa rộng, chỉ cần
chúng ta từ trong nhà ra khỏi cửa, đi qua chỗ khác, ra khỏi cửa, Bồ
Tát bèn phát nguyện này. Một trăm bốn mươi mốt
nguyện chính là nêu đại lược vài thí dụ trong
cuộc sống hằng ngày, quư vị sẽ hiểu những
vị tu hành, nay chúng ta đều gọi họ là Bồ
Tát, xác thực là khởi tâm động niệm, ngôn ngữ,
tạo tác đều chẳng phí uổng một phút nào, đều
có thể dẫn phát đại nguyện xứng tánh. Do đó,
các Ngài có thể thành tựu, có thể giữ vững, có thể
chẳng thoái chuyển, chẳng phải là không có nguyên nhân! Phẩm
kinh này đặc biệt nói về hạnh, hạnh ấy
chính là Hoa Nghiêm, Hoa Nghiêm là Viên Giáo Nhất Thừa, đó gọi
là “tu viên hạnh”, “viên” (圓) là viên măn,
chẳng có khiếm khuyết. Tức là sáu căn tiếp
xúc cảnh giới sáu trần, chắc chắn chẳng có
chuyện nào luống uổng, mắt thấy cũng vậy,
mà tai nghe cũng vậy, mũi ngửi, lưỡi nếm,
thân tiếp xúc, đều chẳng luống uổng, niệm
nào cũng đều có thể dẫn phát trí huệ và
đức năng từ trong Tánh Đức, tức tự
tánh. Đấy mới gọi là “tu
viên hạnh”.
Đương nhiên là nói theo phía chúng ta, bọn
chúng ta tập khí phiền năo quá nặng nề, rất
muốn tu, nhưng chẳng thể nhớ nổi, sáu căn
tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài chắc chắn
sẽ tùy thuận tập khí phiền năo, chẳng nghĩ đến Tam Bảo và chúng sanh. Chúng ta luôn thấy những
vị Bồ Tát ấy khởi tâm động niệm xác thực
chẳng ĺa khỏi Tam Bảo. Tam Bảo là “giác, chánh, tịnh”, chẳng ĺa khỏi! Chẳng
ĺa khỏi hết thảy chúng sanh, niệm nào cũng đều
nghĩ đến hết thảy chúng sanh, [mong] giác ngộ
hết thảy chúng sanh, thành tựu hết thảy chúng sanh.
Đương nhiên là
chúng ta muốn giác ngộ hết thảy
chúng sanh th́ trước hết phải tự giác, tự
giác rồi sau đó mới có thể giác tha. Nếu muốn
thành tựu chúng sanh th́ trước hết phải thành tựu
chính ḿnh. Sau khi chính ḿnh đă thành tựu th́ mới có thể
thành tựu hết thảy chúng sanh. Đấy là tổng
nguyên tắc, quư vị nhất định phải lư giải!
Đây là những chuyện vụn vặt,
thường gặp trong cuộc sống hằng ngày. Ở đây, nêu ra những thí dụ, một trăm bốn
mươi mốt nguyện chính là những thí dụ. Bất
luận trong hoàn cảnh nào, quư vị thấy tiếp theo đây
có tất cả năm bài kệ. “Tùng xá xuất” (從舍出, từ nhà
đi ra), từ nơi pḥng ốc đang cư trụ, bất
luận là pḥng ốc nào, khi quư vị rời khỏi; trong
phần trước là khi đi khất thực, lại bước vào nhà của người ta, quư vị thấy
[các vị Bồ Tát] đă phát nguyện ǵ? Hiện thời,
nói chung là chúng ta phải làm việc, hoặc là quư vị ra phố
mua thứ này thứ nọ, quư vị bước vào tiệm
buôn, đó là tiến nhập. Quư vị mua thứ này thứ nọ xong xuôi, rời khỏi, ĺa khỏi chỗ ấy,
[đấy chính là] “tùng xá xuất thời” (khi rời khỏi nhà). Vậy th́ quư vị phải
hiểu, học Phật th́ phải nắm được
cương lănh và nguyên tắc, chẳng phải là ngây ngốc.
Ở đây là tịnh hạnh, chẳng phải là giới
luật, [những lời phát nguyện đều] nhằm
nhắc nhở quư vị. Quư vị thấy các Ngài đă phát
nguyện như thế nào, quư vị có thể phát ra lời nguyện của chính
ḿnh, nhưng nói chung, chắc chắn chẳng ĺa Tam Bảo,
chắc chắn chẳng ĺa lợi ích chúng sanh. Nguyện nào
cũng đều chánh đáng, nguyện nào cũng đều
chân thật, nguyện nào cũng đều viên măn. Hễ
biết đạo lư này th́ sẽ học tập dễ dàng!
V́ thế, phải thông thuộc kinh này; có cần
phải học thuộc ḷng, chiếu theo những điều
này hay chăng? Chẳng cần, hăy linh động! Phải
nên biết thuở đức Thế Tôn tại thế, Ngài
dạy hàng xuất gia cũng chỉ là nêu thí dụ, đều
là sống động, hoạt bát. Thời gian đă cách biệt
ba ngàn năm, kinh này được
nói từ ba ngàn năm trước,
[hiện thời
là] ba ngàn năm sau, nơi chốn thuở
đó là Ấn Độ, c̣n chúng ta hiện thời là Hương
Cảng. Trước kia, xác thực là khoảng cách này quá xa, từ
Ấn Độ đến Trung Hoa là một lộ tŕnh rất
dài, hết sức vất vả, phải đi mất mấy
tháng. Hiện thời, do giao thông thuận tiện, thông tin
phát triển, địa cầu đúng là đă biến thành
thôn địa cầu, Ấn Độ cách nơi này của chúng ta chẳng xa! Sáng sớm sang bên đó,
buổi tối có thể trở về, giao thông nhanh chóng và
tiện lợi. Thuở đó, Bồ Tát phát nguyện, chúng
ta liễu giải tâm nguyện ấy rộng lớn vô biên,
lợi ích hết thảy chúng sanh trong trọn
khắp pháp giới, hư không giới. Nỗi khổ nạn của chúng
sanh hiện thời chẳng kém thuở ấy, có thể nói
là chỉ hơn chứ không kém, cuộc sống vật chất
thuận tiện rất nhiều, nhưng cuộc sống
tinh thần suy bại hơn so với xưa kia một mức
độ lớn.
Hiện thời, xác thực là chúng ta phải
nêu tấm gương tốt nhất cho đại chúng
trong xă hội, phải có đại nguyện này. Nếu thời
thời khắc khắc có thể dấy khởi, khi rời
khỏi nhà cửa, bèn “đương nguyện chúng sanh,
thâm nhập Phật trí, vĩnh xuất tam giới” (nguyện
cho chúng sanh, thâm nhập Phật trí, măi ĺa ba cơi); đi ra như vậy đấy. Làm thế nào th́ mới có thể xuất tam giới?
Chẳng có Phật trí, quư vị chẳng ra khỏi tam giới. Ở đây, Phật trí được
nói theo nghĩa rộng, chẳng phải là nghĩa hẹp.
Vậy th́ quư vị phải hiểu theo nghĩa rộng: “Hết thảy chúng sanh vốn
đă thành Phật”. Phật trí là ǵ? Phật trí là tự
tánh của quư vị, là trí huệ Bát Nhă vốn sẵn có
trong chân tâm của quư vị. Ai nấy đều có trí huệ
ấy, đức Phật nói chúng ta hoàn toàn chẳng
đánh mất [trí huệ ấy]. V́ loại trí huệ ấy bất sanh, bất diệt, chẳng
phải là pháp sanh diệt, chẳng đến, chẳng
đi, trọn khắp pháp giới, hư không
giới, không lúc nào chẳng tồn tại, không nơi đâu
chẳng hiện diện. V́ sao hiện thời lại đánh
mất trí huệ ấy? Vậy th́ quư vị phải nhớ
kinh thường nói: “Chỉ v́
vọng tưởng, chấp trước mà không thể chứng
đắc”. Trí huệ, đức năng và tướng
hảo viên măn trong tự tánh của chúng ta chẳng khiếm
khuyết mảy may, đều là chẳng thể nghĩ
bàn! Trí chẳng thể nghĩ bàn, đức chẳng
thể nghĩ bàn, năng (năng lực) chẳng thể nghĩ bàn, tướng hảo chẳng
thể nghĩ bàn.
Đấy mới là thật sự viên
măn rốt ráo, chúng sanh và Phật b́nh đẳng, tánh và tướng
như nhau.
Nay đức Phật dạy chúng ta, hiện
thời chúng ta đă hiểu rơ, thật sự tin tưởng
chúng ta có [trí huệ, đức năng, tướng hảo].
Phật có, tôi cũng có, quư vị cũng có, người khác cũng
có, mọi người đều có! Phải làm như thế
nào để trừ khử
chướng ngại ḥng đức
năng trong tự tánh của chúng ta có thể viên măn hiển
hiện? Đức Phật dạy chướng ngại có
ba tầng. Chúng ta buông xuống chấp trước, đối
với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế
gian đều chẳng chấp trước, tầng chướng
ngại thứ nhất đă bị trừ khử, trí huệ
và đức năng của chúng ta chắc chắn sẽ có
thể hiển lộ một phần. Hiển lộ chẳng
nhiều cho mấy. Đó gọi là Nhập, chẳng phải
là “thâm nhập”, v́ c̣n có hai tầng
chướng ngại chưa trừ khử. Nay mới trừ
khử một tầng, sẽ nhập Phật trí. Phật
trí là ǵ? Chánh Giác, chỉ cần trừ khử chấp
trước. Hăy ghi nhớ, mỗi ngày phải nói bao nhiêu lần
vẫn chẳng coi là nhiều! V́ sao? Chẳng trừ khử! Quư vị
vẫn sử dụng nó, chẳng trừ bỏ chấp
trước, sẽ không ĺa khỏi lục đạo luân hồi,
phiền năo sẽ khá lớn! Trừ khử chấp trước,
sẽ chẳng có luân hồi, tâm quư vị được gọi
là Chánh Giác.
Quư vị hăy xem A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề; đấy là Tánh Đức, dịch
sang nghĩa tiếng Hán là Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác. Thứ nhất là Chánh Giác, chẳng có lục đạo.
Sau đấy lại thâm nhập, phân biệt cũng chẳng
có, chẳng c̣n phân biệt hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian, quư vị thành Bồ Tát. Đấy
là nhập đă sâu, nhưng vẫn chưa đủ sâu, ba
tầng chướng ngại hăy c̣n một tầng. Tầng ấy
chính là vọng tưởng, là vô minh. Phá vọng tưởng
vô minh bèn thấy Pháp Thân; đấy mới gọi
là “thâm nhập”. Thấy Pháp
Thân, thấy Pháp Tánh, Thiền Tông Trung Hoa nói là “minh tâm kiến tánh, kiến tánh
thành Phật”, vĩnh viễn thoát khỏi tam giới. Nói
thật ra, đối với chuyện vĩnh
viễn thoát khỏi tam giới th́ A La Hán đă vĩnh viễn
thoát khỏi tam giới. Hễ nhập Phật trí, sẽ vĩnh
viễn thoát khỏi tam giới, thâm nhập [Phật trí] th́ chẳng cần phải nói nữa!
Nay chúng ta đọc phẩm kinh này, phẩm
kinh này là Chánh Đẳng Chánh Giác, vẫn chưa phải là
Vô Thượng. Nói cách khác, ba tầng chướng ngại
đă trừ khử hai tầng. Đấy là cảnh giới
của Bồ Tát. Có cần phải học những thứ
này hay không? Chẳng cần phải học! Tự nhiên! Cũng
có nghĩa là chúng ta chẳng trừ chướng ngại, có
mong học cũng học chẳng nổi. Chướng ngại
quả thật diệt trừ, nó sẽ là như vậy.
Trong cuộc sống hằng ngày, sáu căn của quư vị
tiếp xúc cảnh giới sáu trần, sẽ là như vậy,
tự nhiên; đấy là Chánh Đẳng Chánh Giác. Chúng ta biết
những chân tướng sự thật này, mới biết chúng
ta thật sự chẳng sánh bằng hàng Bồ Tát. Hàng Bồ
Tát khởi tâm động niệm, thấy sắc, nghe tiếng,
xác thực là vô lượng công đức, trong mỗi niệm
đều là viên măn vô lượng công đức. Chúng ta đă
đọc, đă nghe lời dạy của Thích Ca Mâu Ni Phật,
đă hiểu rơ, đă liễu giải, thật sự dụng công th́
phải đoạn phiền năo.
Học tập th́ phải nắm được
cương lănh, đó gọi là “học sống động,
vận dụng sống động”. Điều quan trọng
nhất là hiện thời phải đào thải tập
khí chấp trước của chính ḿnh. Sau khi đă đoạn
trừ tập khí chấp trước, quư vị lại tiến thêm bước nữa là đào thải tập
khí phân biệt. Chuyện này phải thật sự làm, ngay
trong cuộc sống hằng ngày, mặc quần áo, ăn cơm,
xử sự, đăi người tiếp vật hăy tùy duyên,
thứ ǵ cũng đều tốt đẹp. Chuyện
thuộc về đoàn thể, đại chúng, chỉ cần
chiếu cố sẽ đều là công đức viên măn. Nói
chung, phải biết thấy thấu suốt, buông xuống,
tự tại, tùy duyên, đấy là “thâm nhập Phật trí” nói đại lược.
Thật sự thâm nhập th́ là Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác. Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nói theo nghĩa
rộng th́ hàng Pháp Thân Bồ Tát đều đă chứng
đắc, trong Hoa Nghiêm là từ Sơ Trụ trở lên. Bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ đều là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác,
chỉ có tập khí vọng tưởng dầy hay mỏng
khác nhau. Trừ điều ấy ra, trí huệ, đức
năng và tướng hảo của các Ngài chẳng khác biệt!
Bồ Tát tu hành, tức là chúng ta nói đến
sự tu hành của những vị Pháp Thân Bồ Tát, chư
vị phải biết: “Chẳng khởi tâm động niệm”.
Các Ngài hễ chứng sẽ vĩnh viễn chứng, chẳng
bị thoái chuyển. Thoái chuyển th́ là Quyền Giáo; ở đây là Thật Giáo, chân thật, chẳng
hư dối, chẳng thoái chuyển. Tu hành hoàn toàn là ứng
hóa, tức là cảm ứng và ứng hóa trọn khắp pháp
giới, hư không giới; chúng sanh có cảm, Phật liền
hiện thân. Không chỉ là hiện ba mươi hai ứng
thân! Ba mươi hai ứng thân là nói đại lược,
[thật sự] là vô lượng vô biên thân. Giúp chúng sanh giác
ngộ, giúp chúng sanh tăng tấn, giúp chúng sanh gieo thiện
căn, quyết định là như chúng ta đă nói trong hiện
thời “chẳng luống uổng một phút, một giây nào!”
Chẳng hề có, mỗi phút, mỗi giây đều chẳng
luống uổng.
Nếu nói sự thật với quư vị, thật
ra chẳng phải là một phút, một giây, mà c̣n vi tế
hơn nữa! Giống như các nhà khoa học hiện đại
nói về vật chất, các khoa học gia nay đă biết
vật chất là từ trong Không mà sanh ra Có. Vật chất
là sắc pháp, nay chúng ta gọi sắc là “vật chất”. Do
vật chất mà kết hợp thành vũ trụ, mới kết hợp thành tinh cầu, kết hợp thành muôn
sự muôn vật. Nhà Phật nói “y báo và
chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới”, đấy đều là hiện tượng, hiện
tượng chẳng rời khỏi vật chất. Vật
chất cũng chẳng có sanh diệt, chỉ có biến
hóa, chứ chẳng có sanh diệt, nó dựa vào đâu để
biến hóa? Đức Phật dạy, “sanh từ
tâm tưởng”. Vậy th́ quư vị hăy khéo suy gẫm,
từ sáng đến tối quư vị nghĩ tưởng
những ǵ? Quư vị chẳng có cách nào hiểu rơ, v́ sao? Từng
niệm tiếp nối nhau, niệm trước diệt,
niệm sau liền sanh, sanh diệt bất trụ! “Bất
trụ” là không ngừng nghỉ, đấy là chân tướng sự thật; v́ thế, nhà Phật
nói là “vạn pháp vô thường”.
“Thường” là bất biến, “vô thường” là biến. Biến đổi quá
nhanh, tốc độ ấy nói theo thuật ngữ khoa học
trong hiện thời sẽ là một phần ức vạn
giây, chẳng phải là một phút hay một giây. Thời
gian một phút, một giây quá dài, [mà là] một phần ức
vạn giây!
Tôi tin các nhà khoa học đă từ Toán
Học mà suy diễn ra, chứ hiện thời vẫn chẳng có cách nào chứng
minh. Theo lư luận th́ có, hễ có Lư, đương nhiên là
có Sự. V́ xét theo Sự, tốc độ ấy quá nhanh, chẳng
có cách nào trông thấy. Những hiện tượng mà chúng
ta trông thấy thảy đều là tướng liên tục,
tức là tướng liên tục sanh diệt trong từng sát-na,
cũng có thể nói là “tướng
liên tục của vạn pháp là vô thường”. V́ thế,
chẳng trông thấy chân tướng. Nói theo Phật pháp, Bát
Địa Bồ Tát mới thấy chân tướng. Do vậy,
có thể biết, công phu định lực này sâu xa, Thất
Địa Bồ Tát vẫn chưa được! Điều
này cũng có nghĩa là tập khí vọng tưởng vẫn
dấy lên tác dụng, nhưng loại tác dụng ấy
quá vi tế. Dẫu đức Phật dạy như vậy, chúng ta cũng chẳng
có cách nào lư giải, lắng nghe mà thôi! Đó gọi là “nghĩ không thông, đương
nhiên là chẳng thể thấu hiểu được”.
Nay chúng ta có thể
lănh hội đôi chút, [tức là đối với] phân biệt
và chấp trước có thể lănh hội đôi chút, nhưng
cảnh giới vọng tưởng vô minh thật sự là
chẳng có cách nào lănh hội được, hoàn toàn phải
cậy vào công phu thật sự. Công phu thật sự là Thiền
Định, cũng có nghĩa là quư vị phải tĩnh;
chẳng thể tĩnh th́ không có cách nào hết. Tĩnh là
định, công phu định lực càng sâu, quư vị mới
có thể tiếp xúc Thật Tướng của các pháp. Nói
thật ra, trong Thật Tướng của các pháp cũng có
cạn hay sâu khác biệt. V́ thế, đây là Thiền Định
rất sâu, chẳng phải là Thiền Định tầm
thường; A La Hán, Bích Chi Phật về căn bản là
chẳng thể sánh bằng, [do công phu sâu xa ấy] mới thấy
chân tướng. [Những địa vị] như A La Hán,
Bích Chi Phật, Quyền Giáo Bồ Tát, cho đến địa
vị Thập Trụ, địa vị Thập Hạnh, địa
vị Thập Hồi Hướng, tức là các địa
vị thuộc Tam Hiền, công phu định lực vẫn
chưa đủ. Từ đăng địa trở lên mới
thấy chân tướng sự thật.
Pháp Tướng Tông nói đến ba tế tướng
của A Lại Da: Nghiệp Tướng, Kiến Tướng
(Chuyển Tướng), và Cảnh Giới Tướng. Nay
chúng ta gọi Kiến Tướng là “tinh thần”, Cảnh Giới Tướng là vật
chất, Chuyển Tướng là biến hóa. Đó là ǵ? Hiện
tượng tinh thần có thể biến thành vật chất
bằng cách nào, hiện tượng vật chất lại
có thể biến thành tinh thần bằng cách nào? Khoa học
hiện đại nói Năng (năng lượng) và Chất
có thể chuyển biến, [tức là] năng lượng
biến thành vật chất, vật chất biến thành
năng lượng. Các nhà khoa học cận đại đă đặt cho hiện
tượng này một cái tên là Trường. Năng lượng chẳng h́nh thành
vật chất, chẳng biến thành vật chất, th́ gọi
là Trường. Nói cách khác, giống như Kiến Phần,
khi biến thành vật chất, chỗ nào năng lượng
tập trung sẽ biến thành vật chất; đấy
là tập trung. Năng lượng tụ hay tán được
gọi là Chuyển Tướng; h́nh thành vật chất th́
là Cảnh Giới Tướng. Nói theo giáo pháp Đại Thừa,
Bát Địa Bồ Tát mới trông thấy ba tế tướng
của A Lại Da; Thiền Định sâu như thế đó
th́ mới thật sự liễu giải.
Để vĩnh viễn thoát khỏi tam giới
th́ thoát bằng cách nào? Hễ giác sẽ thoát, chẳng giác bèn
mê. Mê là “đọa trong tam giới”,
giác là “xuất tam giới”;
[thật ra] tam giới chẳng có xuất hay nhập! Trong
giáo pháp Đại Thừa, đức Phật thường
dạy: “Mười
phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân”.
Đă là một, lấy đâu ra xuất và nhập? V́ thế,
chúng ta bèn vỡ lẽ, nói “xuất”
hay “nhập” là giác hay mê! Mê
th́ có vô lượng vô biên tầng lớp sâu hay cạn, mà tầng
lớp giác cạn hay sâu cũng là vô lượng vô biên. Do đó,
mê th́ quư vị mê đến mức độ nào? Giác th́ giác
đến mức độ nào? Chúng ta lănh hội từ chỗ
này. V́ thế, thâm nhập Phật trí trọng yếu lắm!
Bí quyết để thâm nhập Phật trí, nói thật thà,
chẳng phải là học kinh giáo! Nếu quư vị chẳng
khéo học kinh giáo, sẽ biến thành Sở Tri Chướng;
v́ thế, phải khéo học. Mă Minh Bồ Tát dạy chúng
ta học kinh giáo, dạy chúng ta nghe giảng kinh, phải dùng
tâm thái như thế nào? Ĺa tướng ngôn thuyết, ĺa tướng danh tự,
ĺa tướng tâm duyên. Nói cách khác, buông xuống ngôn thuyết,
buông xuống danh tự, buông xuống tâm duyên. “Tâm duyên” là quư vị suy nghĩ
câu nói này có nghĩa là ǵ, chớ nên suy tưởng. Hễ quư
vị khởi tâm động niệm sẽ mê, sẽ biến
thành Sở Tri Chướng; đấy gọi là “nói mà chẳng nói, không nói mà nói;
nghe mà chẳng nghe, chẳng nghe mà nghe”, như
vậy th́ mới có thể khế nhập.
“Ĺa hết thảy
tướng chính là hết thảy các pháp”, kinh Bát Nhă đă
nói rất nhiều, chớ nên chấp trước. Hễ
chấp liền mê, do mê bèn nhập tam giới; hễ giác bèn
thoát khỏi tam giới. Thật ra, tam giới cũng chẳng
có, xuất nhập cũng chẳng có, nhưng khi quư vị
mê th́ dường như thật sự có, giống như nằm
mộng; ở trong mộng, quư vị chẳng biết chính
ḿnh đang nằm mộng. Quư vị hăy ngẫm xem, đó có
phải là thật sự có hay không? Gặp chuyện vui bèn thật sự hoan hỷ, gặp tai nạn bèn thật sự sợ hăi, đấy là mê! Nay chúng ta đang mê trong lục
đạo. Tam giới lục đạo, cho đến mười
pháp giới, đúng là như trong mộng. Ngài Vĩnh Gia nói
hay lắm: “Trong mộng rành
rành phô sáu nẻo, tỉnh rồi ba cơi rỗng toang hoang”,
mộng là mê.
Toàn thể Phật pháp nói ra chỉ là giác và
mê. Chúng sanh đă
giác bèn thành Phật, mê th́ là chúng sanh.
Nhận thức điều này là Thỉ Giác. Quư vị đối
với các chân tướng sự thật do đức Phật
đă dạy, quư vị chẳng hoài nghi, mà khẳng định,
nhận biết nó, hiểu rơ nó. Từ đấy trở đi bèn nỗ lực diệt
trừ chướng ngại của chính ḿnh. Chướng
ngại có ba loại lớn, ngàn kinh vạn luận đều
dạy chúng ta phương pháp trừ chướng ngại.
Phẩm Tịnh Hạnh cũng chẳng ra ngoài lệ ấy,
đều nhằm dạy chúng ta phương pháp trừ chướng
ngại, chúng ta phải biết dùng, phải khéo học và
biết vận dụng. Ở chỗ nào? Ngay trong cuộc sống,
quyết định chẳng ĺa khỏi cuộc sống,
chẳng ĺa khỏi công việc, chẳng ĺa xử sự, đăi
người tiếp vật, học không chấp trước,
học chẳng phân biệt, cuối cùng là phải học
không khởi tâm, chẳng động niệm. Đấy là
“thâm nhập Phật trí”.
Tôi vừa mới nói “chẳng chấp
trước”, đó là nhập môn, nhập ở mức độ nông cạn.
“Chẳng phân biệt” là nhập sâu hơn một chút. Đạt
đến “chẳng khởi tâm, không động niệm”
th́ mới thật sự là “thâm
nhập”. Khi ấy, mười pháp giới chẳng có, nay
chúng ta nói là quư vị đă đột phá khá nhiều tầng
lớp trong các chiều không gian bất đồng. Thật
sự có thể đột phá, không gian sống của quư vị
sẽ to hơn kẻ b́nh phàm khá nhiều. Ví như kẻ
b́nh phàm sanh trưởng tại Hương Cảng, suốt
một đời này c̣n
chưa rời khỏi Hương Cảng,
chẳng biết thế giới to lớn. Điều này
khá giống bọn phàm phu trong lục đạo, có kẻ đă
từng rời khỏi [Hương Cảng], đă từng
đến những chỗ như Trung Hoa đại lục,
Nhật Bản, Phi Luật Tân, Việt Nam, kiến thức
và tâm lượng của kẻ ấy sẽ vượt trỗi
kẻ chưa từng ra khỏi cửa rất nhiều. Đấy
là giác. Cách nh́n, cách nghĩ, và cách làm của kẻ ấy đối
với hết thảy sự vật đương nhiên là khác hẳn kẻ chưa từng ra khỏi cửa, làm
sao có thể giống nhau cho được? Nếu lại
có một người Hương Cảng đă từng du
lịch ṿng quanh thế giới, kiến thức và tâm
lượng của người ấy phải lớn hơn
kẻ đă từng du lịch Đông Á nhiều lắm. Lại có một người không chỉ là đă đi
khắp toàn thể thế giới, mà c̣n từng đi khắp
Thái Dương Hệ, hoặc là hệ Ngân Hà, tâm lượng
của kẻ ấy lại bất đồng. Đến
tột cùng, sẽ là người đă từng du hành khắp
pháp giới, hư không giới. Tỷ dụ này chẳng khó hiểu
đối với chư vị!
Phật, Pháp Thân Bồ Tát, chính là người
du hành khắp pháp giới, hư không giới. Bồ Tát trong mười
pháp giới giống như người đă từng du hành
trong hệ Ngân Hà. Ngoài hệ Ngân Hà của chúng ta, c̣n có rất nhiều hệ Ngân Hà mà người ấy
chưa hề đi qua. A La Hán từa tựa như người từng du hành Thái Dương Hệ, cao minh hơn chúng ta nhiều
lắm. Người thế gian chúng ta dẫu trí huệ to
cách mấy, dẫu tâm lượng to cách mấy, niệm nào
cũng nghĩ đến chúng sanh trong toàn thể thế giới,
nhưng chỉ có thể bao dung địa cầu này, vẫn
chẳng bao quát những tinh cầu khác ngoài địa cầu, đấy
là giống như loài người. Hiện thời, chúng ta dùng
phương pháp ǵ để du hành? Chư vị nhất
định sẽ nghĩ hiện thời có xe lửa, có tàu
thủy, có máy bay, những thứ ấy đều do con người
chế tạo, dẫu trong tương lai phát minh đĩa
bay có tốc độ
càng nhanh hơn, nhưng dựa vào những
công cụ giao thông ấy, quư vị chẳng có cách nào đột
phá thời gian và không gian, chẳng thể đột phá các
chiều không gian. V́ thế, những thứ ấy không
được, những thứ ấy có chừng hạn, đến
khi đó mới biết khoa học hữu hạn. Hiện
thời, các nhà khoa học cũng biết khoa học xác thực là có
cực hạn, đă đạt tới cực hạn nhất
định sẽ chẳng có cách nào đột phá.
Nhưng đức Phật và các tôn giáo đă
dùng một phương pháp cao minh hơn khoa học, dùng ǵ
vậy? Dùng Thiền Định. Khi đă nhập Thiền
Định rất sâu, các chiều không gian chẳng c̣n nữa,
người du hành chẳng cần đến thân thể này.
Thân thể vẫn ngồi ở đây như như bất động,
linh tánh của người ấy ra đi. Hơn nữa, năng
lực của linh tánh rất mạnh, không chỉ là đi được,
mà c̣n có thể phân thân. “Phân thân”
là đồng thời có thể du hành rất nhiều chiều
không gian khác nhau, há cần đến
công cụ nào! Các nhà khoa học hiện thời đă nói, chúng
ta có thể tin tưởng, họ vừa nói tôi hiểu
ngay, họ nói không gian chẳng có thật. Dưới một
điều kiện nào đó, nó sẽ bằng zero, khoảng
cách chẳng c̣n nữa. Thời gian cũng giống như
thế, dưới một điều kiện nào đó, thời
gian cũng bằng zero. Thời gian bằng zero, [vậy th́] trước sau chẳng có, xưa nay chẳng có. Trong
kinh Đại Thừa đă nói “cắt
đứt mười đời xưa nay”, các khoa học
gia nói về cảnh giới ấy.
Nhà Phật dùng phương pháp ǵ? Nhà Phật
dùng tọa Thiền. Trong phương pháp Thiền Định,
trong Thiền Định rất sâu, thời gian lẫn
không gian đều bằng zero, tận hư không trọn
khắp pháp giới thảy đều ở trước mắt,
chẳng có quá khứ, chẳng có vị lai. Quá khứ lẫn
vị lai đều ở ngay trước mắt, cơi này và
phương khác cũng đều ở ngay trước mắt.
V́ thế, quư vị nói xem, có phương pháp nào để chu du trọn khắp pháp giới, hư không
giới, lại c̣n có thể du hành trọn khắp quá khứ,
du hành trọn khắp vị lai hay không? Có chứ! Thâm nhập
Phật trí, đấy mới là vĩnh viễn thoát khỏi.
Vĩnh viễn thoát khỏi sẽ là hễ chứng bèn vĩnh
viễn chứng đắc, có ư nghĩa này!
Chúng ta lại xem bài kệ tiếp theo, bài kệ
thứ hai:
(Kinh) Nhược nhập thủy thời, đương
nguyện chúng sanh, nhập Nhất Thiết Trí, tri tam thế
đẳng.
(經)若入水時。當願眾生。入一切智。知三世等。
(Kinh: Nếu lúc vào nước, nguyện cho chúng
sanh, nhập Nhất Thiết Trí, biết ba thời đều
b́nh đẳng).
“Nhập thủy”:
Mỗi ngày, chúng ta sống ở phương Nam sẽ biết.
Nếu quư vị sang Tân Gia Ba, Mă Lai, Ấn Nê (Indonesia), vĩ độ của những nơi ấy chẳng sai khác Ấn
Độ cho mấy, một năm chỉ có một mùa là mùa Hè. Do vậy,
quư vị hăy ngẫm xem, không mang giầy, chân trần ra cửa,
khi trở về đều phải rửa chân; trên thân toát
mồ hôi, nhất định phải xối mát. Sống ở
những vùng ấy, trời Hè nóng bức, một ngày tắm
dăm ba lần là chuyện rất b́nh thường. Rửa
chân th́ ra cửa trở về phải rửa chân. “Nhược nhập thủy thời,
đương nguyện chúng sanh, nhập Nhất Thiết
Trí, tri tam thế đẳng” (Nếu
lúc vào nước, nguyện cho chúng sanh, nhập Nhất Thiết
Trí, biết ba thời b́nh đẳng); quư vị thấy ba
đời b́nh đẳng. “Tam
thế” là nói tới thời gian, “tam giới” là nói tới không gian.
Nhất Thiết Trí là trí huệ ǵ vậy?
Biết hết thảy các pháp là Không. Kinh Bát Nhă dạy: “Hết thảy các pháp vô sở hữu,
rốt ráo không, chẳng thể được”. Trí huệ
ấy được gọi là Nhất Thiết Trí v́ biết
ba đời b́nh đẳng. Ba đời đă b́nh đẳng,
mười phương cũng b́nh đẳng, chẳng có
thứ ǵ bất b́nh đẳng. Pháp giới b́nh đẳng
được gọi là Nhất Chân pháp giới. Pháp giới
vốn là Nhất Chân, v́ sao biến thành có mười pháp
giới? V́ sao biến thành có lục đạo, tam đồ?
Đó là cảnh giới trong mộng; đó là mê mà bất
giác, sanh từ vọng tưởng. Đấy chính là như
trong kinh đức Phật thường bảo: “Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng”. [Đó là] nói về mười pháp giới.
Chẳng có tâm tưởng, mười pháp giới sẽ
chẳng có. Mười pháp giới chẳng có th́ là cảnh
giới ǵ? Nhất Chân pháp giới. Trong Nhất Chân pháp giới,
có mười pháp giới hay không? Có chứ! Tướng của
mười pháp giới là huyễn tướng. Cái “Có” của mười pháp giới
chính là Diệu Hữu, c̣n cái Không của Nhất
Chân pháp giới là Chân Không. Chân Không chẳng ngăn ngại
Diệu Hữu, Diệu Hữu chẳng hề chướng
ngại Chân Không. Kinh Lăng Nghiêm đă nói hay lắm! Kinh Hoa
Nghiêm nói Tứ Vô Ngại, tức “Lư vô ngại,
Sự vô ngại, Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại”; bốn món vô ngại. Đấy là Nhất Chân pháp giới.
A! Nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi nói tới chỗ
này.
***
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Chúng ta hăy xem kinh văn, bài
kệ thứ ba tiếp theo:
(Kinh) Tẩy dục thân thể, đương nguyện
chúng sanh, thân tâm vô cấu, nội ngoại quang khiết.
(經)洗浴身體。當願眾生。身心無垢。內外光潔。
(Kinh: Tắm rửa thân thể, nguyện cho chúng
sanh, thân tâm vô cấu, trong ngoài sáng sạch).
Đây là khi tắm rửa, nhất là sống tại đô thị, xác thực là văn minh vật
chất tại nơi đại đô hội đă đem
lại khá nhiều thuận tiện cho cuộc sống hằng
ngày của chúng ta, nhưng đại đa số mọi
người đều xem thường chuyện chúng ta
đă phải trả giá cỡ nào. Rất ít người nghĩ
đến vấn đề này! Vào thập niên bảy mươi,
tiến sĩ Thang Ân Tỷ (A. Toynbee) và ông Tŕ Điền Đại
Tác (Ikeda Daisaku) đă bàn về vấn đề này; nay chúng
ta nói là “khoa học kỹ thuật đổi mới mỗi
tháng, mỗi ngày”, họ thấy như vậy rất đau ḷng: Mỗi
lần tiến bộ, nhân loại đều phải
trả giá thê thảm, đau đớn. Phải hiểu lời
ấy như thế nào? Văn minh vật chất đă đem
lại sự tham lam không ngằn hạn cho con người.
Đấy là năng lượng tinh thần bị tiêu hao,
rất ít ai nghĩ tới! Hiện thời, sóng điện
từ (electromagnetic wave) phát ra từ TV, computer, từ những
máy cell phone thông tin, đều gây tổn hại hết sức
nghiêm trọng cho thân tâm của con người. Khá nhiều
căn bệnh kỳ quái của cư dân tại đô thị
do đâu mà có? Bệnh tật tăng cao hơn, tỷ lệ
tử vong tăng cao, thọ mạng giảm tổn, đấy
có phải là đă trả giá đau đớn, thê thảm
hay chăng? Lại c̣n luân lư đạo đức đọa
lạc! Luân lư đạo đức là điều bảo đảm
để duy tŕ sự an toàn trong xă hội; luân lư đạo
đức lại là nhân tố quan trọng
để tăng cao năng lượng nhân sinh. Quư vị
nói xem, sự tổn thất ấy có phải là trả giá
đau đớn, thê thảm như tiến sĩ
Thang Ân Tỷ đă nói hay không? Chẳng có ai biết!
Tuần trước, tôi thấy một bản
tin, đại khái là hạ tải (download) từ
computer, bản tin ấy chẳng dài, dường như chỉ
là một trang giấy. Người phát minh cell phone đă đưa
ra lời cảnh cáo người sử dụng cell phone trên
khắp thế giới, chỉ rơ năng lượng của
sóng điện từ quá mạnh, thường xuyên sử dụng cell phone sẽ
gây tổn hại nghiêm trọng cho sức khỏe của
con người. V́ thế, ông ta đề nghị: Trong t́nh
h́nh bất đắc dĩ người dùng cell phone mới
sử dụng nó, đừng nên dùng thường xuyên. Thời
gian sử dụng tốt nhất là đừng hơn một
phút. Nhất là khi mở cell phone th́ đừng để
trên người. Quư vị bỏ nó vào túi, đặt trong túi
quần hay túi áo, hoặc là giắt trên thắt lưng, đều
gây tổn hại rất nghiêm trọng cho nội tạng,
dễ dẫn đến ung thư. V́ vậy, ông ta đề
nghị bỏ nó trong bóp, hoặc bỏ trong túi đựng hồ sơ, đừng
đeo sát trên thân thể. Tôi nghĩ đấy là lời nói
xuất phát từ lương tâm, là lời khuyên đầy
lương tâm. Nếu ông ta chẳng nói ra, sẽ chẳng
an tâm. V́ thế, khoa học kỹ thuật có phải là chuyện
tốt đẹp hay không? Chưa chắc đă là chuyện
tốt, tuy lúc sử dụng th́ rất thuận tiện, quư
vị sẽ phải trả giá chẳng biết thê thảm
nặng nề đến cỡ nào!
Sống tại đô thị, gần như
tắm rửa mỗi ngày là chuyện chẳng thể thiếu.
Đô thị [hiện thời được] hiện đại
hóa, nhưng vào thời xă hội nông nghiệp trước
kia, sử dụng nước chẳng thuận tiện như
vậy. Măi cho đến thời kỳ Kháng Chiến, vùng nội
lục (nội địa) Trung Hoa, chẳng phải là các đô
thị duyên hải, trong khá nhiều thành thị không có nước
máy. Trong thời Kháng Chiến, tôi sống ở Kiến Âu và
Kiến Dương thuộc vùng Mân Bắc của tỉnh Phước Kiến, cũng coi như là thành
phố lớn, là huyện bậc một. Họ dùng nước
giếng, dùng nước gánh, có người chuyên môn gánh nước
đem bán. Củi đốt
th́ có người chuyên bán củi,
tiều phu lên núi đẵn củi đem bán trong thành, có tiều
phu, có kẻ gánh nước đem bán, há thuận tiện
như [hiện thời] ư? Tắm rửa hằng ngày có
được hay chăng? Chẳng có! Chưa hề thấy!
[Làm như thế] quá lăng phí, quá xa xỉ! Dẫu tắm rửa,
nước luôn dùng rất hạn chế, há có nhiều như
thế ư? Há có thuận tiện như thế ư?
V́ thế, suy ra, cuộc sống xưa kia, mỗi
tuần tắm một lần coi như là khá lắm rồi,
chẳng thể có chuyện tắm rửa hằng ngày, kẻ
phú quư cũng chẳng làm được. Mùng Một, ngày Rằm
tắm gội là chuyện rất b́nh thường, đều
rất khó có! Mỗi tháng tắm hai lần! Bởi lẽ,
chúng ta biết đồng bào Tây Tạng ở trên cao nguyên,
nghe nói cả đời họ chỉ tắm ba lần: Khi
sanh ra tắm một lần, khi kết hôn tắm một lần,
và đến khi chết th́ tắm một lần. V́ thế,
trên thực tế, chính ḿnh chỉ tắm có một lần;
lúc sanh ra và lúc tử vong đều do người khác tắm
giùm. Cả đời chỉ tắm có ba lần! Nhưng người
thuở đó, thân thể khỏe mạnh, sống lâu, hiện
thời đâm ra chẳng bằng xưa kia. V́ sao? Họ sống
tương ứng với thiên nhiên; đấy là khỏe mạnh
nhất!
Hễ văn minh vật chất phát triển, cuộc sống
của chúng ta hoàn toàn trái nghịch thiên nhiên. Nói cách khác, lối
sống hết sức chẳng lành mạnh. Trong phép dưỡng
sinh của con người th́ tâm phải tĩnh, thân phải
động. Thân bất động, bệnh tật sẽ
nẩy sanh. Nếu tâm động, bệnh tật cũng đều
phát sanh. Tâm chớ nên động! Trong thế giới văn
minh vật chất này, tâm cứ khăng khăng phải động,
cái thân đáng phải nên động th́ lại khăng khăng bất
động, họ làm sao chẳng ngă bệnh cho được?
V́ thế, phải dưỡng cho cái tâm tĩnh. Tâm là chủ
của thân! Chỉ cần tâm địa thanh tịnh, đă
đạt được khỏe mạnh, sống lâu quá nửa
rồi. Vận động trong Phật pháp là kinh hành, mọi
người b́nh thường đều có thể thấy
thói quen này: Sau khi ăn cơm bèn niệm Phật, nhiễu Phật.
Nhiễu Phật là kinh hành. Chúng ta thường nói là “phạn hậu bách bộ” (ăn
xong bèn tản bộ). Tĩnh tọa, lạy Phật, tĩnh
tọa nhằm định tâm, toàn thể ngũ tạng lục
phủ trong thân thể có thời gian ḥa hoăn, nghỉ ngơi.
Lạy Phật là vận động, đồng thời lại
nhiếp tâm. Tâm là tĩnh, thân là động, phù hợp sự
vận hành trong thiên nhiên. Do đó, thân tâm khỏe mạnh,
phiền năo nhẹ nhàng, trí huệ tăng trưởng.
Nay chúng ta sống trong đô thị, tắm
rửa nhiều lần v́ thuận tiện. Xưa kia, lúc tôi
c̣n rất trẻ, ở tại Đài Loan, đă có một
khoảng thời gian chừng hơn một năm, chưa
đến hai năm, ở tại núi Dương Minh thuộc
Đài Bắc. Trên quả núi ấy có suối nước nóng
rất tốt, trong buồng tắm là suối nước
nóng. Suối nước nóng là nước luôn chảy, lưu
động; v́ thế, tắm rửa hết sức thuận
tiện. Trong khoảng thời gian ấy, mỗi ngày tắm
ba lần, thuận tiện lắm! Sáng sớm khi thức dậy, trước hết bèn tắm rửa, tắm trong suối nước nóng.
Giữa trưa, dùng cơm, nghỉ ngơi, sau khi thức
giấc cũng đến ngâm trong suối nước nóng
một phen. Buổi tối sau khi dùng cơm chiều xong, là lúc
tan sở, trước khi đi ngủ, nhất định
phải tắm một lượt, thuận tiện mà! Đó
là ǵ? Đó là suối nước nóng, nước luôn lưu
động. V́ thế, thói quen trong cuộc sống thường là có mối quan hệ rất lớn đối với
hoàn cảnh sống. Chẳng có sự thuận tiện như
vậy th́ cũng chẳng nghĩ đến, chẳng đ̣i
hỏi!
Do vậy, trong khi đang tắm, quư vị thấy
Bồ Tát phát nguyện, “đương
nguyện chúng sanh, thân tâm vô cấu, nội ngoại quang khiết”
(nguyện cho chúng sanh, thân tâm không nhơ, trong ngoài sáng sạch).
Tắm rửa nhằm gột rửa thân thể sạch sẽ, có nghĩ tưởng “nếu thân sạch th́ tâm càng phải sạch
hơn” hay chăng? Kẻ b́nh phàm chúng ta chỉ chú trọng
bề ngoài, mà sơ sót giữ cho tâm lư lành mạnh, chỉ
chú trọng vệ sinh thân thể, chẳng chú trọng vệ
sinh tâm lư. Tôi nghĩ đấy là chứng bệnh chung của
tuyệt đại đa số mọi người trên toàn
thể thế giới
này. Nay chúng ta đọc đoạn kinh
văn này, hy vọng từ rày trở đi, trong khi đang
tắm gội, hăy luôn luôn có thể nhắc nhở chính
ḿnh, hoặc là dán bài kệ này trong pḥng tắm, khi quư vị
tắm rửa, sẽ ngay lập tức trông thấy: “Thân tâm vô cấu, nội ngoại
quang khiết”.
Phải gột rửa cái tâm như thế nào?
Đấy là sám hối như cổ
thánh tiên hiền, Phật, Bồ Tát đă dạy chúng
ta: Sám trừ nghiệp tập, tức ác nghiệp và tập
khí. Cổ thánh tiên hiền dạy mọi người
hăy thường nên phản tỉnh, suy xét lỗi lầm: Hằng
ngày phản tỉnh cho nhiều, suy nghĩ lỗi lầm của
chính ḿnh. V́ sao? Biết lỗi lầm th́ quư vị mới có
thể sửa lỗi. V́ sao người ta không thể sửa
lỗi? Chẳng biết lỗi lầm của chính ḿnh; v́
thế, suốt một đời chẳng thể sửa đổi
được. Tập khí ấy sẽ mang sang đời
sau, chắc chắn là đời sau sẽ càng nghiêm trọng
hơn đời này, phiền phức lắm! Nếu tập
khí từ mấy đời tích lũy lại, sẽ chẳng
dễ sửa đổi được. Đến cuối
cùng, nhất định sẽ liên lụy khiến quư vị đọa tam đồ. Bởi lẽ đó,
ngàn vạn phần đừng nên coi nhẹ những tập
khí ác vi tế. Chúng ta nói là lỗi lầm vặt vănh, lỗi
lầm vặt vănh mà không sửa đổi, tích lũy
dần dần sẽ biến thành lỗi lớn. Như vậy th́ rất
phiền phức, sửa
đổi lỗi lầm từ chỗ nhỏ nhặt th́ sẽ
dễ dàng.
Nếu quư vị hỏi sửa bằng cách nào ư? Hiện thời, mọi người học
tập Đệ Tử Quy chính là khởi đầu tốt nhất.
Trước hết, hăy đổ công dốc sức từ
trong ấy. Có thể làm được điều này, lại
học cao hơn một mức nữa, tức là học Thái
Thượng Cảm Ứng Thiên. Chúng ta đều biết
vào cuối đời Minh, đầu đời Thanh, khá
nhiều kẻ tại gia đọc sách và hàng xuất
gia, tức bốn chúng đệ tử, khá nhiều người
phụng hành Công Quá Cách. Trong Liên Tŕ Đại Sư Toàn Tập
cũng có [Công Quá Cách], đấy là khóa tŕnh để lăo nhân
gia sửa lỗi, đổi mới hằng ngày khi Ngài c̣n
tại thế. Ngài không gọi là Công Quá Cách, mà gọi là Tự
Tri Lục. Hằng ngày phản tỉnh dựa theo những
điều khoản ấy: “Điều bất thiện, hôm
nay ta có phạm hay không; điều thiện, hôm nay ta có làm
hay không?” Dùng phương pháp này để kiểm điểm
chính ḿnh, xác thực là phương pháp tốt đẹp để
đoạn ác tu thiện. Tiên sinh Viên Liễu Phàm sử dụng
Công Quá Cách. Các hạng mục của Công Quá Cách chính là Thái
Thượng Cảm Ứng Thiên do thiền sư Vân Cốc
truyền dạy cho ông ta.
Du Tịnh Ư Công
Ngộ Táo Thần Kư, hiện thời phiên bản phim truyền
h́nh nhiều tập đă ra đời, tổng cộng chỉ
có tám giờ, chẳng dài, rất cảm động mọi
người. Năm xưa, ông ta cùng các bạn kết Văn
Xương Xă nhằm đề xướng giáo huấn của
Văn Xương Đế Quân. Nội dung của Văn
Xương Đế Quân Âm Chất Văn và Cảm Ứng
Thiên giống nhau, phân lượng ít hơn Cảm Ứng
Thiên đôi chút, nội dung đại khái như nhau, đều
nhằm khuyên mọi người tin sâu nhân quả, đoạn
ác, tu thiện. Về sau, phần tài liệu
dạy dỗ này được cư sĩ Châu An Sĩ
biên soạn thành một quyển sách, đặt tên là An
Sĩ Toàn Thư. Tác phẩm này được Ấn Quang
đại sư thuở sinh tiền hết sức tán thán, lưu thông với số lượng lớn.
V́ thế, rất dễ kiếm được. Quư vị bèn
hiểu cổ nhân dùng phương pháp ǵ để giúp chính ḿnh. Du Tịnh Ư sử dụng
Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn, xác thực
là dũng mănh, tinh tấn, hằng ngày phản tỉnh, luôn
luôn phản tỉnh, chỗ nào cũng phản tỉnh. Ông
ta c̣n làm triệt để, c̣n nghiêm túc hơn tiên sinh Liễu
Phàm, quả báo cũng vượt trỗi tiên sinh Liễu
Phàm. Đúng là chẳng giả tí nào, thiện có thiện
báo, ác có ác báo, xác thực chẳng phải là không báo, mà là chưa
đến thời điểm!
Thời điểm do ai định? Nghiệp
lực quyết định. Quư vị phải biết nhân
quả thông ba đời! Có kẻ tâm hạnh bất thiện,
nhưng phước báo rất lớn, thậm chí thọ mạng
cũng rất dài, đấy là do nguyên nhân ǵ? Trong đời
quá khứ, kẻ ấy đă tu tập tích lũy điều
thiện to lớn; đời này tâm hạnh bất thiện,
thiện báo đă bị khuyết hụt, tức là đă bị chiết giảm, nhưng c̣n được đại phú quư dường ấy, thọ mạng c̣n dài như vậy. Quư vị
bèn biết nếu như tâm hạnh của kẻ ấy tốt
lành, phước báo của kẻ đó sẽ tuyệt diệu
lắm! Chính kẻ ấy chẳng biết điều này.
Có người suốt cả đời đều làm lành,
[thế mà] lâm vào cảnh đường cùng, gieo neo, sống cuộc
đời rất vất vả, đấy là chuyện như
thế nào? Trong đời quá khứ đă tạo tác bất
thiện, nhưng v́ đời này đă tu thiện tích
đức, người ấy đă cải thiện. Nếu
không, người ấy c̣n phải hứng chịu khổ
nạn gấp mấy lần hiện tiền. Nếu ai có
thể thấy được nhân quả ba đời, cái
tâm sẽ b́nh lặng!
Hiện thời, tôi thấy t́nh thế này đă
dần dần phát triển rất tốt đẹp, tức
là các liệu pháp tinh thần (cách chữa trị về mặt
tinh thần) của phương Tây trong hiện đại.
Do có rất nhiều bệnh tật mà y học
hiện đại chẳng có cách nào giải quyết, tại
Trung Hoa cũng dần dần [cũng có những chứng bệnh
ấy] nhiều hơn. V́ thế,
trong tương lai, những bác sĩ tâm lư sẽ rất phổ
biến. Những bác sĩ tâm lư ấy dùng phương pháp thôi miên khiến cho [bệnh
nhân] trở về đời quá khứ, trở về
đời quá khứ của quá khứ. Có kẻ nghiễm nhiên có thể trở lại
hai, ba chục đời trước, tính ra là thời gian một,
hai ngàn năm. Triều đại bất đồng, quốc
gia, khu vực bất đồng, những chuyện đă
phát sanh trong đời quá khứ, thường là nghiệp
nhân và khởi nhân gây nên những nghi nan tạp chứng trong đời
này. Các bác sĩ đă t́m ra những nguyên nhân ấy, sau đấy
mới chữa trị hữu hiệu, sẽ thường
thu được hiệu quả trị liệu rất tốt đẹp; hiện thời [cách chữa trị
liệu này] rất phổ biến tại phương Tây.
Các thuyết minh [về vấn đề này] trong phương
diện thông tin, sách vở, thậm chí băng thâu h́nh DVD cũng
rất phổ biến, giải quyết rất nhiều vấn
đề.
Tuy hiện thời mọi người cho rằng
chuyện này chẳng phù hợp khoa học, coi những thứ
này là huyền học, chẳng phù hợp khoa học, nhưng
nó có hiệu quả thực tế! Xă hội cũng ngày càng
coi trọng, hiện thời cũng dần dần nh́n ra
khoa học có cực hạn, chẳng có cách nào đột
phá cực hạn, bèn quay về t́m kiếm những phương
pháp cổ xưa. Trước kia, chẳng tin có luân hồi,
chẳng tin có đời sau; hiện thời, người tin
tưởng ngày càng nhiều, chúng ta thường nói là sự
thật thắng hùng biện! Không cần biện luận,
không cần thăm ḍ, t́m ṭi, sự thật này bày ra
ngay trước mặt quư vị. Nếu quư vị chẳng
tin tưởng, tự ḿnh có thể làm thí nghiệm, bác sĩ
tâm lư thôi miên quư vị, thôi miên ở một mức độ
sâu, cạnh đó đặt một máy thâu âm, những câu hỏi
và lời đáp của quư vị đều thâu lại toàn
bộ, đến khi quư vị tỉnh táo bèn mở cho quư vị
nghe, chính quư vị nói ra, chẳng thể không tin. Xem người
khác vận dụng thuật thôi miên, chính ḿnh đích thân thể
nghiệm!
Khá nhiều bác sĩ tâm lư vốn chẳng
tin có đời sau, chẳng tin luân hồi, chẳng tin quả
báo, kết quả là do thí nghiệm nhiều lần, thí nghiệm
mấy chục lần, thí nghiệm mấy trăm lần,
chẳng thể không tin tưởng. Từ truyện kư của
bác sĩ Ngụy Tư (Brian
L. Weiss) của nước Mỹ,
chúng ta thấy ông ta kể chính ḿnh đă dùng phương
pháp ấy, tức là dùng phương pháp thôi miên để
t́m nguyên nhân gây bệnh. Thực hiện một khoảng thời
gian khá dài, khá nhiều bệnh án được ông ta ghi chép
hoàn chỉnh, nhưng chẳng dám xuất bản, v́ sao? Sợ người
ta sẽ phê phán ông ta là “phản khoa học”, chẳng có căn
cứ khoa học. Những thứ ghi chép được xếp
xó bốn năm, sau đấy mới lấy hết dũng
khí, tự vấn lương tâm của chính ḿnh, đấy
là chuyện thật
mà phát biểu ra. Kết quả là sau
khi phát biểu, chẳng ngờ không có ai phê b́nh ông ta; ngược
lại, có rất nhiều bác sĩ tâm lư đều có kinh
nghiệm này. Ông ta vừa kể ra, mọi người cùng
kể ra, đâm ra khiến cho mọi người tăng
trưởng tín tâm đối với phương pháp trị
liệu này, và cũng nghiên cứu hết sức nghiêm túc, lưu
truyền hết sức rộng răi, hết sức nhanh chóng, ảnh hưởng
to lớn khắp cả thế giới.
Ông ta thường
nói, trong khi thôi miên, đối với người bị thôi
miên, khi [những người
ấy] c̣n đang bị thôi miên, c̣n chưa tỉnh lại, trong khi đàm thoại bị
gián đoạn, thường có thần linh, ông ta nói đó
là thần linh thuộc chiều không gian bất đồng,
dựa vào người bị thôi miên để hé lộ rất
nhiều tin tức. [Những tin tức ấy] cũng đều
được ghi chép, dùng máy thâu âm để ghi lại. Âm
thanh tṛ chuyện chẳng phải là âm thanh của người
ấy, giọng điệu chẳng phải là giọng điệu
của người ấy. Nội dung là trí huệ cao độ,
quyết chẳng phải là kẻ đó có thể thốt
ra. Chờ cho đến sau khi người bị thôi miên tỉnh
lại, hỏi họ, họ không biết, thân thể họ
bị người khác mượn sử dụng, người
Hoa nói là “linh quỷ dựa
thân”, c̣n họ gọi là “thần
linh dựa thân”: Lộ ra tin tức rất tương ứng
những điều đă nói trong tôn giáo, khá nhiều điều
cũng tương ứng với Phật pháp.
Tại phương Tây, kể từ khi khoa
học phát triển, niềm tin tôn giáo của đại
chúng ngày càng nhạt mỏng, thậm chí có những kẻ vứt
bỏ toàn bộ, chẳng c̣n tin tưởng tôn giáo nữa. [Do vậy] có không
ít giáo đường bị đóng
cửa. Đấy là hiện tượng
chúng ta thường trông thấy tại phương Tây. Thôi miên cung cấp tin tức
cho đại chúng trong xă hội, có thể từ chỗ
này mà quay đầu suy nghĩ lại, [sẽ nhận thấy]
những điều tôn giáo đă nói là có căn cứ, chẳng
phải là mê tín. Kẻ nào có tín ngưỡng tôn giáo, kẻ nào tin tưởng nhân quả, chắc chắn là đối với khởi tâm
động niệm, ngôn ngữ và tạo tác của người
ấy sẽ có một sức mạnh tự nhiên ràng buộc;
v́ người ấy biết thiện tâm, thiện hạnh
sẽ có thiện báo, ác niệm,
ác hạnh chắc chắn là có ác báo. Tổn
thương, làm hại người khác chính tổn
thương, làm hại chính ḿnh!
Trong kinh giáo, đức Phật đă nói những chuyện ấy mười phần thấu triệt. Thích Ca Mâu Ni Phật
nói: Có năm người tu hành chẳng có đức hạnh,
tà tri, tà kiến, tham, sân, si, mạn, nhưng h́nh tượng như
vậy th́ sẽ chẳng thể ảnh hưởng tín đồ, không
có ai cúng dường. V́ thế, mọi người thương
lượng, phải bày ra một h́nh tượng, trước
mặt mọi người th́ phải có oai nghi, dốc sức
hợp tác. Quả nhiên hương đèn thịnh vượng,
người quy y cũng đông đảo, kẻ đến
lễ bái họ cũng đông đúc, cúng dường cũng nhiều.
Trong số đó, có một vị nữ thí chủ bị cảm
động bởi h́nh tượng của họ, dùng tâm chân
thành để cúng dường họ, nhưng năm người
ấy chẳng sửa đổi tập khí. Vị nữ
thí chủ cúng dường ấy sau khi đă chết bèn sanh
lên trời. Cô ta do tâm chân thành cúng dường mà được
phước. Năm kẻ kia giả vờ, chẳng có Thật
Đức, chuyên môn thực hiện công phu bề ngoài, đọa
vào địa ngục trải qua một thời gian rất
dài. Đọa địa ngục là cái tội của kẻ
ấy; sau khi đă thọ tội xong, vẫn phải trả
nợ. Chẳng phải là nói quư vị có thể gạt gẫm
th́ sẽ có thể tiêu thụ, chẳng thể nào! Sau khi đă
thọ xong, vẫn phải trả nợ.
Đức Phật đă nói với một vị
quốc vương, Ngài nói thuở ấy,
vào kiếp số lâu xa về trước, vị nữ thí
chủ chuẩn bị trai soạn cúng dường vào thuở đó chính là vương phi của quốc
vương trong hiện tại, là phi tử của vị quốc
vương ấy. Năm người
xuất gia tu hành [hiện nay chính là] là phu khênh kiệu
cho vương phi, năm người ấy! Hoàng đế
nghe vậy hết sức kinh ngạc. Họ đến trả
nợ, hiện thời đầu thai làm phu khiêng kiệu, đấy
là thứ chuyên dụng của vương phi. Đúng như trong kinh đức
Phật thường nói, nghiệp nhân quả báo tơ hào
chẳng sai! Nghiệp do quư vị đă tạo sẽ chẳng
tiêu mất, khi nhân duyên tụ hội, vẫn phải tự
hứng chịu quả báo. Do vậy có thể biết, tu
hành th́ phải tu tâm, nhất định phải dựa vào
giáo huấn của đức Phật Đà, dựa vào giáo
huấn của thánh hiền.
Hiện thời, toàn thể thế gian hỗn
loạn dường ấy, trong lịch sử toàn thế
giới chưa hề có, v́ sao loạn như thế? Có chẳng
ít người hỏi tôi, tôi nói: - Tôi nghĩ đại khái là do thế
hệ của chúng ta hầu như đều sơ sót giáo
dục. Giáo dục ǵ vậy? Giáo dục luân lư. Luân lư là nói đến
các mối quan hệ giữa con người với nhau,
quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Do chẳng biết, nên ai nấy
đều biến thành ích kỷ, khởi tâm động niệm
chưa hề suy nghĩ v́ người khác, ngay cả suy
nghĩ cho cha mẹ cũng rất ít, đương nhiên là
họ sẽ chẳng v́ bạn bè mà suy nghĩ, cũng chẳng
v́ đại chúng trong xă hội mà suy nghĩ. Sơ sót giáo
dục đạo đức mà! Giáo dục đạo đức là
giữa con người với nhau phải biết cư xử
như thế nào? Tiêu chuẩn để cư xử là đạo đức,
c̣n quan hệ là luân lư. Chẳng tin tưởng nhân quả báo ứng, sẽ chẳng có giáo
dục nhân quả, chẳng có giáo dục trí huệ!
Thưa cùng chư vị, trong hết thảy các tôn giáo
đều có bốn loại giáo dục. Trong bất cứ
một tôn giáo nào, đều có luân lư, có đạo đức,
có nhân quả, có trí huệ. [Hiện thời, giáo dục luân lư, giáo dục
nhân quả, giáo dục đạo đức đều bị
sơ sót]; do vậy, xă hội mới
biến
thành rối loạn dường ấy.
Nói cách khác, sau khi đă thiếu sót sự giáo dục ấy, tâm người ta bị
ô nhiễm nghiêm trọng tột cùng!
Quư vị quan sát tỉ mỉ,
sẽ rất dễ dàng nh́n ra, nh́n từ chỗ nào? Quan sát
trọn khắp, đối với những kẻ tâm ư hời
hợt, bộp chộp, quư vị biết tập khí phiền
năo nội tại (phiền năo trong nội tâm) của kẻ ấy nghiêm trọng dường
ấy, [cái tâm] chẳng thể định được!
Đi học, nghe thầy giảng bài, thông thường
sinh viên đại học chỉ có thể nghe lọt tai mười lăm phút. Quá mười lăm
phút, cái tâm sẽ rong ruổi. V́ thế, hiện thời, đạo tràng này mỗi ngày giảng kinh
hai tiếng đồng hồ, do
chỗ chúng tôi ở cách học hội hơi xa [nên không
thể giảng nhiều].
Nếu tôi có thể ở tại học hội, thời
gian của tôi sẽ nhiều hơn, tránh phải đi tới
đi lui, mỗi ngày sẽ
giảng tối thiểu bốn tiếng đồng hồ.
Các đồng học nghe kinh nghiễm nhiên có thể ngồi
ở suốt bốn tiếng đồng hồ, chẳng dễ
dàng! Trong các đại học trên khắp thế giới trong hiện
thời, chẳng t́m thấy, há có trường nào [mà học
sinh] ở trong pḥng học nghe giảng suốt bốn tiếng
đồng hồ? Chẳng có, làm sao có chuyện ấy được!
Từ chỗ này, chúng ta có thể thấy rất
rơ ràng, tập khí phiền năo trong nội tâm nặng lắm,
dẫu dùng các phương pháp tôn giáo đều chẳng có
cách nào văn hồi, nhà Phật nói là nghiệp chướng
quá nặng! Nhưng kẻ có thiện căn cũng chẳng
phải là không có, hễ gặp duyên, họ sẽ thật
sự có thể học theo, họ sẽ thật sự chịu buông
xuống, [tức là] buông xuống tập khí phiền năo, nghiêm túc học tập
thánh giáo. Hạng người ấy đă ít ỏi,
càng ngày càng ít. Nếu chúng ta nhận biết, phải nghiêm
túc bồi dưỡng, giúp đỡ họ, làm Tăng Thượng
Duyên cho họ, thành tựu họ. Điểm này hết sức
quan trọng! V́ chúng sanh khổ nạn bồi dưỡng
một vị thầy tốt, những người ấy
có thể cứu người, giống như bậc tái lai
như trong nhà Phật đă nói, chỉ cần chúng ta lưu ư th́
cũng có thể phát hiện. A! Nay đă hết thời
gian rồi, chúng tôi giảng tới chỗ này!
Đại
Phương Quảng Bồ Tát Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm
thứ mười một
Tịnh
Hạnh Phẩm
Phần 53
[1] Tương Lư (襄理) là chức vụ phụ tá Kinh Lư (经理, giám đốc điều hành của một xí nghiệp). Tùy theo cơ cấu của xí nghiệp, vị này có thể là Phó Kinh Lư. Chức vụ này thường được áp dụng cho ngành tài chánh, ngân hàng, tức là nhân viên phụ tá cao cấp nhất của Kinh Lư, dưới chức vụ Phó Kinh Lư.