Đại
Phương Quảng Phật
Hoa
Nghiêm Kinh
Phẩm
thứ mười một
Tịnh
Hạnh Phẩm
Phần 54
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp
sư Thích Tịnh Không
Địa điểm:
Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ
ngày mồng Bảy tháng Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và
Minh Tiến
Tập 1569
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười
một, đoạn thứ tám trong phần Kệ Tụng, xem
từ bài kệ thứ tư.
(Kinh)
Thịnh thử viêm
độc, đương nguyện chúng sanh, xả ly chúng
năo, nhất thiết giai tận.
(經)盛暑炎毒。當願眾生。捨離眾惱。一切皆盡。
(Kinh: Nắng gắt, nóng độc,
nguyện cho chúng sanh, bỏ ĺa các năo, hết thảy đều
tận).
Đây là lúc khí trời oi bức vào mùa Hạ,
Bồ Tát cảm phát đại nguyện, “đương nguyện chúng sanh, xả ly chúng năo, nhất
thiết giai tận” (nguyện cho chúng sanh, bỏ ĺa các phiền năo, hết thảy đều tận). “Năo” (惱) là phiền năo; v́ sao phải bỏ sạch phiền
năo? V́ trong tự tánh chẳng có phiền năo. Phiền năo do đâu
mà có? Sau khi đă mê tự tánh. Nói cách khác, Tánh Đức thuần
tịnh thuần thiện biến hiện thành phiền năo;
hễ giác ngộ, nó sẽ
lại khôi phục. Chúng tôi dùng thí
nghiệm của tiến sĩ Giang Bổn Thắng để
mọi người có thể lư giải chuyện này. “Thuần tịnh thuần thiện”:
Thiện ở đây chẳng phải là thiện trong “thiện
- ác”. Thiện trong “thiện - ác” là tương đối,
chẳng phải là thanh tịnh thật sự. Bất quá sự
cấu nhiễm của nó (thiện) tương ứng với
Tánh Đức, chẳng trái nghịch Tánh Đức, c̣n ác
th́ hoàn toàn trái nghịch Tánh Đức.
Trái nghịch có mức độ sai khác. Chúng
ta nói 0 độ (không độ) là thuần tịnh, thuần
thiện. Một độ, hai độ là có sai lệch,
nhưng mức độ sai lệch chẳng lớn. Đến
tám độ, chín độ, mười độ, vẫn
chưa coi là to lớn. Nếu sai lệch đến bốn
mươi độ, bốn mươi lăm độ, đấy
là rất lớn. Một trăm tám mươi độ là
hoàn toàn điên đảo. Giả sử chúng ta nói
đến mười pháp giới, quư vị dùng tỷ dụ
này [để so sánh]
xác thực là chẳng khó lănh hội!
Trái nghịch Tánh Đức một trăm tám mươi
độ th́ Phật pháp nói đó là tội nghiệp Ngũ
Nghịch, Thập Ác, và địa ngục A Tỳ, khi ấy,
cảnh giới được biến hiện là địa
ngục A Tỳ; đấy là [sai lệch] một trăm
tám mươi độ. [Sai lệch] một trăm sáu
mươi độ sẽ là cảnh giới giống như địa ngục. Quư vị cứ suy dần
dần lên cao hơn, sẽ liễu giải trạng huống
này. Trong tự tánh chẳng có điều này! “Nhất thiết giai tận”
(Hết thảy đều tận): Hoàn toàn khôi phục Tánh
Đức, đấy chính là hàng Bồ Tát thuộc địa
vị Sơ Trụ trong Hoa Nghiêm.
Trong mười Tín vị (các địa vị
thuộc về Thập Tín Bồ Tát), nói thật ra, rất tuyệt diệu. Hàng Bồ
Tát thuộc địa vị Sơ Tín thật sự xả
ly phiền năo, đă thật sự xả ly, [nhưng là]
xả ly ít phần. Phải biết điều này: Cái được xả ly chỉ là tám mươi tám phẩm Kiến
Hoặc trong tam giới,
tương đương với
Sơ Quả của Tiểu Thừa, c̣n theo kinh Hoa Nghiêm trong
Đại Thừa th́ là Bồ Tát thuộc hạng địa
vị Sơ Tín. Đấy là đă thật sự xả ly
phiền năo. Nói cách khác, từ lục đạo phàm phu cho đến
Dục Giới Thiên, Sắc Giới Thiên, và Vô Sắc Giới
Thiên, chẳng xả ly! “Chẳng
xả ly” có nghĩa là họ có năng lực khống
chế phiền năo, tức là đối với hai đường
trời người,
họ sẽ có thể khống
chế được, chứ đối với A Tu La đạo,
ngạ quỷ, địa ngục, và súc sanh th́ chẳng thể
khống chế. Sự trái nghịch ấy quá to lớn! Đạt
đến một nửa, chín mươi độ là một
nửa, một nửa th́ giống như là nhân đạo.
Bảy mươi, tám mươi độ th́ là thiên đạo.
Chúng tôi vừa mới nói đến sự xả
ly của Tu Đà Hoàn. Nếu dùng cái h́nh tṛn này để
xem, [sẽ thấy] xả ly phiền năo bèn dần dần
tiếp cận tự tánh. Ở chỗ này, có mười địa
vị, nếu chúng ta dùng h́nh vẽ để xét xem, [sẽ
thấy] bắt đầu từ bốn mươi lăm
độ, đă thật sự xả ly phiền năo măi cho đến
khi bằng zero, sẽ là mười đoạn, mỗi đoạn là bốn độ
rưỡi, dần dần tiến cao hơn. Phàm
phu xả phiền năo th́ cũng có thể xả, nhưng chẳng
phải là thật sự xả; hễ gặp duyên, các phiền năo
lại phát tác. Một người rất có tu dưỡng,
mấy chục năm đều chẳng nổi giận;
sự tu dưỡng ấy khá lắm, nhưng dưới
một t́nh huống nào đó, người ấy sẽ phát
tác. Đấy là ǵ? Đấy là xả, nhưng chẳng
ly! Trong Phật pháp, trạng huống ấy được
gọi là “phục phiền năo”
(伏煩惱, chế
ngự phiền năo), thông t́nh đạt lư, người ấy
thông hiểu. Qua lại với người khác nói chung là phải học nhẫn nại, nhẫn nại th́ sẽ có
thể khống chế t́nh tự của chính ḿnh. Tuy chẳng
buông xuống thất t́nh ngũ dục, nhưng ở trong
hoàn cảnh thất t́nh ngũ dục, sẽ có thể đúng
mức bèn dừng; đấy là nhân đạo. Nho gia nói đến
Lễ, Lễ có chừng mực, chớ nên bất cập, mà cũng
chớ nên thái quá, tức là nó có tiêu chuẩn.
Chúng ta biết loài người có tiêu chuẩn
của loài người, Dục Giới Thiên có tiêu chuẩn
của Dục Giới Thiên. Do Dục Giới Thiên có sáu tầng,
cho nên có sáu loại tiêu chuẩn khác nhau; càng lên cao hơn, [dục
vọng sẽ] càng mỏng. Đến Sắc Giới Thiên,
dục hoàn toàn bị chế phục, có thể nói là hoàn toàn
chẳng khởi tác dụng. Điều ǵ chế phục
[dục vọng]? Định Huệ. Người ấy có
công phu định lực, có trí huệ; v́ thế, chế
phục [dục vọng, phiền năo]. Các món Định ấy
măi cho đến Sắc Giới, cho đến Vô Sắc Giới,
trong Phật pháp gọi chúng là Bát Định, tức Thiền
Định thế gian. Giáo pháp Đại Thừa bảo Bát
Định chẳng phải là Định thật sự.
V́ sao? Các món Định ấy có thể mất đi, bị
thoái chuyển, bị mất đi. Nếu đạt tới
Bất Thoái Chuyển, sẽ chẳng bị mất; Định như
vậy mới đáng kể, chẳng thuộc vào lục
đạo, mà là vượt thoát lục đạo.
Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật có nói A La Hán chứng
đắc Cửu Thứ Đệ Định. Trong pháp thế
gian có Tứ Thiền Bát Định, nếu lên cao hơn một
tầng, sẽ là Đệ Cửu Định. Đệ
Cửu Định đă vượt thoát lục đạo,
chẳng bị thoái chuyển, chứ Bát Định chẳng
đáng trông cậy, v́ sẽ đều có thể lui sụt. Quư
vị thấy chuyện này khó khăn lắm! Một kẻ đọa lạc
trong lục đạo luân hồi mà mong vượt thoát, nói
thật ra, đọa lạc dễ dàng, vượt thoát quá khó. Sắc
Giới đọa lạc xuống Dục Giới dễ dàng,
Dục Giới Thiên đọa lạc vào nhân đạo, đọa
lạc vào thần đạo, Tu La đạo, hay La-sát đạo
dễ dàng, tiến lên cao sẽ khó khăn. Đấy là đạo
lư nhất định, ai nấy đều lănh hội dễ
dàng! Biết những chân tướng sự thật ấy,
mới biết đới nghiệp văng sanh đáng quư!
Đới nghiệp văng sanh th́ chúng ta cũng
phải buông xuống phiền năo, buông xuống tham, sân, si, mạn,
nghi, ác kiến. Nếu quư vị chẳng buông xuống những
thứ ấy, chúng nó sẽ chướng ngại quư vị
văng sanh! “Đới nghiệp” là ǵ? Nếu quư vị nghe hiểu lời tôi vừa
mới nói th́ quư vị sẽ minh bạch. Nay chúng ta buông xuống
là khống chế, há có phải là thật sự buông xuống!
Giống như người tu Định, tu đến Đệ
Bát Định th́ vẫn là tạm thời khống chế;
v́ sao? Người ấy có thể bị thoái chuyển, chẳng
phải là thật sự đắc định. Nay chúng ta khống
chế t́nh tự và tập khí phiền năo cũng giống
như thế. Chúng ta dùng sức mạnh ǵ để khống
chế? Tín, Nguyện, Hạnh, chẳng phải là Định
lực. Chúng ta tin tưởng sâu đậm, chẳng hoài
nghi mảy may.
Chẳng đoạn nổi phiền năo! Chỉ
có thể chế phục, chẳng thể đoạn. Đoạn
phiền năo cần đến đại định, cần
đến trí huệ chân thật; chúng ta chẳng có cách nào
làm được chuyện này. Quư vị thấy Tu Đà
Hoàn đă chẳng dễ dàng, ngay cả địa vị này
chúng ta đều chẳng làm được. Tu Đà Hoàn có thể
đoạn tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc; tuy chẳng
ĺa khỏi lục đạo, không gian sống của Ngài là
cơi trời hoặc nhân gian. Bảy lần qua lại, Ngài sẽ
thành tựu, có thể đoạn hết tám mươi mốt
phẩm Tư Hoặc, vượt thoát lục đạo
luân hồi. Bảy lần qua lại cơi trời và nhân gian, quư
vị thấy khó khăn lắm chứ, há chúng ta có năng
lực ấy? V́ thế, tự ḿnh mỗi ngày đều
phải nghiêm túc phản tỉnh, kiểm thảo: “Thấy
sắc nghe tiếng có c̣n động tâm hay chăng? Có c̣n phân
biệt, chấp trước hay không?” Tôi nói “động tâm” tức là quư vị
có dấy lên thất t́nh ngũ dục hay không? C̣n có những
ư niệm ấy dấy lên, mất đi, quư vị biết
là đoạn phiền năo khó khăn lắm, chẳng dễ
dàng như thế đó! Tập khí phiền năo dấy động
chính là cái nhân luân hồi, lục đạo luân hồi sanh
từ chỗ này. Sáu căn thật sự tiếp xúc cảnh
giới sáu trần, ư niệm thất t́nh ngũ dục chẳng
nẩy sanh, đấy là A La Hán. Như vậy th́ mới có
thể thoát khỏi lục đạo luân hồi, [bởi
lẽ], đă đoạn cái nhân luân hồi!
Nay chúng ta gặp gỡ pháp môn này, đấy
là điều may mắn khôn sánh, phải nghiêm túc, phải có
sự cảnh giác cao độ, chế phục tập khí phiền
năo, chẳng để cho chúng nó phát tác. Nếu quư vị hỏi
tôi, dùng phương pháp nào là tốt nhất ư? Dùng cách quán
tưởng nỗi khổ luân hồi, quán tưởng nỗi
khổ trong địa ngục. Địa Ngục Biến
Tướng Đồ được vẽ khá lắm, nay
đă làm thành đĩa CD/DVD, đă có mấy loại ngôn ngữ
phát âm. Tập khí phiền năo nặng nề, đĩa
CD/DVD ấy đại khái dài một tiếng đồng hồ,
người tập khí phiền năo nặng nề phải nên
làm như thế nào? Mỗi tối xem một lượt,
nhằm mục đích ǵ? Mục đích là khiến cho quư vị
thời thời khắc khắc có thể nghĩ đến
nỗi khổ trong địa ngục, quư vị có sợ hăi
hay không? Nếu quư vị sợ nỗi khổ trong địa
ngục th́ trong cuộc sống hằng ngày, khi ư niệm thất
t́nh ngũ dục dấy lên, lập tức biết địa
ngục là khổ, cái tâm của quư vị liền trong mát.
Phương pháp này có thể giúp quư vị khống chế,
chế phục tập khí phiền năo, hăy khéo dấy
khởi một câu Phật hiệu. Những lời chư Phật,
Bồ Tát, tổ sư đại đức đă nói câu nào
cũng đều là chân thật. Nếu chúng ta chẳng thể
văng sanh trong đời này, quư vị hăy tự ngẫm xem, đời
sau quư vị sẽ đến nơi đâu? Cơ hội đọa
địa ngục tối thiểu là bảy, tám mươi
phần trăm, cơ hội trong đời sau được
sanh vào loài người chỉ sợ là mười hoặc
hai mươi phần trăm, đều chẳng đáng
trông cậy! Quư vị hăy nghĩ xem, chuyện này nghiêm trọng
dường ấy! Bao nhiêu vị Bồ Tát mong nghe pháp môn này;
pháp môn này là ǵ? Thành tựu trong một đời! Pháp môn Tịnh
Độ là pháp môn thành tựu trong một đời, hiếm
có, khó gặp! Họ chẳng gặp gỡ, vậy là không
có cách chi hết! Nay chúng ta gặp gỡ, đă gặp mà chẳng
biết khéo nắm vững, khiến cho pháp môn này bị phí
uổng trong đời này, quư vị nói xem, tội nghiệp
của quư vị nặng lắm đấy!
Như thế nào th́ mới chắc chắn văng
sanh ngay trong một đời này? Trong các buổi giảng,
chúng tôi nói mỗi ngày, khuyên hằng ngày, câu khẩu đầu
thiền của vị đường chủ Niệm Phật
Đường là “buông xuống
thân, tâm, thế giới”. Đấy
là tổng cương lănh. Thế nhưng chẳng cần
bận ḷng v́ thân, tâm, thế giới trong hiện tại, hăy
nhất tâm niệm Phật, chẳng có một ai không thành tựu.
V́ thế, quư vị thấy người thật sự niệm
Phật, tuyệt đại đa số là họ chuyện
ǵ cũng chẳng quản, chuyện ǵ cũng đều
chẳng hỏi tới, chuyện ǵ cũng đều chẳng
chấp trước, nhất tâm nhất ư cầu sanh Tịnh
Độ. Thưa cùng chư vị, đấy là bậc thượng
thượng căn trong Tịnh Tông, mà cũng là người
có phước báo thượng thượng! V́ sao nói người
ấy có phước báo? Người ấy chẳng phải
lo lắng về cuộc sống, có người cúng dường;
đấy là đại phước báo. Cuộc sống
không nhất định phải rất tốt, mỗi ngày
có thể ăn no, mặc ấm, chẳng đến nỗi
bị đói khát, chẳng đến nỗi bị rét buốt,
đấy là đại phước báo! Người ấy
có thể chuyện ǵ cũng đều chẳng hỏi đến,
chuyện ǵ cũng đều buông xuống. Người có
phước báo ấy có thể nắm vững cơ duyên này,
ai nấy đều văng sanh.
Như chúng ta, chúng ta hăy suy ngẫm chính ḿnh chẳng
có phước báo ấy! Chúng ta hằng ngày c̣n phải
đi làm, chỉ đành huấn luyện trong công việc,
huấn luyện trong cuộc sống. Huấn luyện chẳng
phân biệt, chẳng chấp trước, huấn luyện
không dấy lên tham, sân, si, mạn, không dấy lên thất
t́nh ngũ dục, chỉ đành dùng phương pháp này.
Dùng đến mức công phu đắc lực, cũng phải
mất một khoảng thời gian đáng kể để
huấn luyện, chứ thời gian ngắn ngủi sẽ
không được. Do đó, đây cũng chẳng phải
là một chuyện dễ dàng! V́ sao? Thọ mạng của
mỗi người khác nhau! Bao nhiêu người tu hành, công
phu c̣n chưa đủ mức, thọ mạng đă đến
rồi, vậy là chẳng có cách nào cả, theo nghiệp
lưu chuyển, vẫn phải luân hồi trong lục
đạo, biến sự tu hành suốt một đời
này thành phước đức!
Phước đức có thể đem theo,
đời sau bất luận sanh trong đường nào,
sanh trong loài người, hay trong súc sanh đạo, ngạ
quỷ đạo, cũng đều c̣n có phước báo.
[Cậy vào] phước báo sẽ chẳng thể liễu sanh
tử, [cậy vào] phước báo chẳng thể văng sanh.
Chư vị phải biết điều này: Văng sanh phải
cậy vào công đức, chứ phước đức
không được. Trong Đàn Kinh, Lục Tổ đă nói
hay lắm: “Chuyện này phước
chẳng thể cứu”. “Chuyện này” chính là “liễu sanh tử, thoát luân hồi”,
phước chẳng thể cứu! Ngoài địa ngục
đạo ra, năm đường khác đều có phước.
Trong thiên đạo, người có phước
báo khá nhiều, quá nhiều. Phước báo trong nhân gian chẳng
nhiều. Quỷ và súc sanh th́ phước báo càng ít hơn loài
người! Đấy là đạo lư nhất định.
Trong địa ngục đạo chẳng hưởng phước,
chỉ có chịu tội, chẳng hề hưởng phước.
Chúng ta chớ nên không hiểu rơ những chân tướng sự
thật này, sau đấy mới biết: Chúng ta mong văng
sanh, nhất định phải thường nghĩ đến
nỗi khổ trong địa ngục.
Quư vị thấy pháp sư Oánh Kha đời
Tống, ba ngày ba đêm dũng mănh tinh tấn, niệm cảm
A Di Đà Phật hiện đến. Quư vị phải hiểu,
trong ba ngày ba đêm ấy, trong tâm Sư chỉ có Phật, đúng
là “thân, tâm, thế giới, hết
thảy buông xuống”, cảm ứng bèn hiện tiền!
Vị này thật sự văng sanh, chẳng giả. Chúng ta có
thể phát khởi cái tâm dũng mănh ấy hay chăng? Ba
ngày ba đêm chẳng ngủ, niệm Phật không ngớt.
Đấy là có thể phát ra cái tâm dũng mănh. Suốt ba
ngày ba đêm có thể buông xuống hết thảy thân, tâm,
thế giới, cái tâm ấy chẳng dễ dàng! Quư vị hăy
niệm ba ngày ba đêm thử xem A Di Đà Phật có đến
hay chăng? Nói thật thà, quư vị niệm ba mươi
ngày ba mươi đêm, A Di Đà Phật cũng chẳng đến,
do nguyên nhân ǵ vậy? Chẳng hề buông xuống thân, tâm,
thế giới! Sau đấy, quư vị mới biết pháp
sư Oánh Kha đáng quư ở chỗ nào, quư vị liền
hiểu rơ. Điều đáng quư là đă buông xuống
được!
Chúng ta rất phiền toái, cái này cũng mong
muốn, cái kia cũng mong tưởng, cái này cũng chẳng
thể bỏ được, cái kia cũng chẳng buông nổi.
Đến cuối cùng, nhất định là vẫn phải
tiếp tục luân hồi trong lục đạo, cơ duyên
của thế giới Cực Lạc trôi qua trước mặt
quư vị mà chẳng nắm lấy! Giống như lái xe về
thế giới Cực Lạc, quư vị cứ đứng
bên cạnh, chẳng chịu lên xe. V́ sao không chịu lên xe?
Chẳng bỏ được nhà cửa ở nơi đây,
cho nên không chịu đi! Xe lái đi rồi, lại đợi
đến lần sau, e rằng suốt đời này chẳng
gặp được cơ hội ấy nữa đâu!
Do đó, chúng ta đừng nên không coi trọng xả ly phiền
năo. Đó gọi là tu hành thật sự, chẳng phải là
làm theo h́nh thức. H́nh thức sẽ vô dụng, phải tu
hành chân thật!
Chúng ta có thể mở rộng ư nghĩa “thịnh thử viêm độc”
(nắng gắt, nóng độc) thành hết thảy nghịch cảnh,
không thuận tâm, chẳng như ư, hoặc là hết thảy
những giai đoạn gian nan, khốn khổ, đều [cảm
nhận chúng là] tương tự với điều này (“thịnh thử viêm độc”),
đều phải nên cảnh giác. Phải buông xuống, chẳng
có ǵ không buông xuống được. V́ sao? Giả trất,
chẳng thật! “Pháp thượng
ưng xả, hà huống phi pháp” (Pháp c̣n có
thể bỏ, huống hồ phi pháp). Đức Phật dạy
các đệ tử, Phật pháp được gọi là
Pháp Bảo, Pháp Bảo mà c̣n phải buông xuống. V́ sao? Pháp
sanh từ nhân duyên. Hễ là do nhân duyên sanh, sẽ chẳng
thật. Phàm những thứ do nhân duyên sanh đều là pháp
sanh diệt. Quư vị có thể sử dụng nó, chớ nên
chiếm hữu nó. Nó có thể giúp đỡ quư vị, thành
tựu quư vị. Nếu quư vị muốn khống chế,
chiếm hữu nó, quư vị đă sai mất rồi, sẽ
ngay lập tức đọa lạc. Đấy là đức
Thế Tôn đă nói đến chỗ tột cùng. Phật
pháp mà c̣n là như thế, huống hồ pháp thế gian? Quư
vị hăy ngẫm xem, thứ ǵ là của quư vị? Thứ
ǵ quư vị có thể vĩnh viễn ǵn giữ? Kể cả
thân thể đi nữa!
Thân thể chẳng thể giữ ǵn được!
Kẻ trẻ tuổi chẳng cảm nhận, chứ người
từ năm, sáu chục tuổi trở lên, sẽ dần
dần giác ngộ. Đạt đến mức giác ngộ
rơ rệt là từ bảy mươi tuổi trở lên,
nhân sanh thất thập cổ lai hy! Lúc bảy mươi
tuổi, quư vị lại suy nghĩ, những người thuộc
lứa tuổi xấp xỉ quư vị, những thân thích, bằng
hữu, bạn học, đồng nghiệp kém quư vị một, hai tuổi,
c̣n có mấy người đang sống? Khi ấy, quư vị
chỉ suy tưởng, sẽ dấy lên nỗi cảm thương,
sáu, bảy phần mười [những người xấp
xỉ tuổi ḿnh] đều chẳng c̣n nữa! Tháng Tư
năm nay, tôi tham gia Luận Đàn Phật Giáo Thế Giới
tại Hàng Châu, sau khi luận đàn kết thúc, tiện dịp
đến chỗ từng đi học thuở bé tại
Nam Kinh, t́m những bạn học cùng lớp thuở ấy.
Bạn học cùng lớp thuở ấy hơn một trăm
người, bốn lớp cùng cấp gần hai trăm
người. Trở về kêu gọi, chỉ có mười
người [tham dự], đại khái c̣n có mười mấy
người chẳng sống tại Nam Kinh mà sống ở
nơi khác. Lẽ nào [chuyện này] chẳng khiến mọi
người cảm thương ư?
Tính ra, tôi đă rời khỏi nhà trường
sáu mươi hai năm, người Hoa nói là “một giáp”. Do điều này,
thật sự thấu hiểu thế gian vô thường; đến
tuổi ấy, quư vị mới sẽ cảm
thương. Nhưng nói theo ngạn ngữ, chuyện phiền
toái nhất lúc tuổi tác đă cao là “lo được, lo
mất”. Tuổi đă già, thể lực đă suy, cuộc
sống mai sau phải dựa vào ai? V́ thế, ư niệm “được, mất” của người
già rất nặng, đấy là quan niệm sai lầm. Hăy
nghĩ đến những người đă khuất, những
bạn học, bạn bè, thân bằng hảo hữu đă
khuất núi trước lúc bảy mươi tuổi, quư vị
hăy nghĩ xem, họ mang theo được ǵ? Thứ ǵ cũng
đều chẳng mang theo được! Mong rằng quư
vị hăy giác ngộ trong cảnh giới này! Nguyên lai là một
món cũng chẳng đem theo được, cớ sao không
buông xuống?
Buông xuống th́ quan trọng nhất là buông
xuống trong tâm. Trong tâm chớ nên có những thứ ấy,
trong tâm có ǵ? Trong tâm chỉ có một câu A Di Đà Phật là
đủ rồi, những thứ khác đều chẳng
cần! Giống như vị đồ đệ làm thợ
vá nồi của lăo ḥa thượng Đế Nhàn, chỉ một
câu “nam-mô A Di Đà Phật” sáu chữ, những thứ chi khác đều chẳng
có, người ta [niệm Phật] ba năm bèn đứng
văng sanh. Lăo ḥa thượng Đế Nhàn tôn kính Sư, tán
thán Sư khôn sánh, Sư đă thành công. Sư không biết chữ,
chưa từng đi học, kỹ thuật lẫn
năng lực đều chẳng có, chỉ học vá nồi,
vá chén, cuộc sống khốn khổ nhất. Do suy ngẫm
đời người quá khổ, v́ vậy, dấy ḷng thoát
khổ thiết tha, [lại tự biết] chính ḿnh năng
lực ǵ cũng đều chẳng có, là người khổ
sở cùng cực! Chẳng ngờ Sư gặp được
cái duyên này, bèn có thành tựu cực đại; tức là Sư
đă nắm thật chặt cái duyên ấy, chẳng lơi
lỏng một khắc nào. Lăo ḥa thượng dạy Sư
một phương pháp đơn giản, [Sư bèn] y giáo phụng
hành, ba năm giống hệt như một ngày. Niệm đă
mệt bèn nghỉ ngơi, nghỉ khỏe khoắn rồi
lại niệm tiếp, chẳng phân biệt ngày hay đêm,
suốt ngày từ sáng đến
tối là một câu Phật hiệu.
Thời kỳ Mạt Pháp, trong thế gian động
loạn hiện thời, đấy là tấm gương tốt
nhất cho chúng ta, thật sự là “ĺa khổ, được vui”. “Ĺa khổ, được
vui” là quả báo, cái nhân là phá mê khai ngộ. Quư vị hăy
ngẫm xem, người thợ vá nồi có phải là phá mê
khai ngộ hay không? Đúng thế! Mê là ǵ? Mê là ngũ dục
lục trần, Sư thảy đều buông xuống, thứ
ǵ cũng đều chẳng nghĩ tới. Ngộ là ǵ? Một
câu A Di Đà Phật có thể văng sanh. Khi đó, Sư chẳng
biết văng sanh, lăo ḥa thượng Đế Nhàn chẳng
nói với Sư, chỉ bảo Sư [hăy gắng công niệm
Phật], trong tương lai chắc chắn có lợi ích.
Sư là người thật thà, tin tưởng lời thầy, nhưng chẳng biết lợi ích
chi hết. Thật sự niệm đến mức công phu
thành phiến, tức là niệm đến mức chẳng
có vọng tưởng, bèn cảm ứng. “Một niệm tương ứng một niệm Phật,
niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”,
Sư biết trước lúc mất, chẳng ngă bệnh, đứng
văng sanh. Chuyện này chẳng có chi khác, ở đây nói là “xả ly chúng năo, nhất thiết
giai tận” (bỏ ĺa các phiền năo, hết thảy
đều tận), Sư đă làm được. Bài kệ
kế tiếp:
(Kinh) Thử thoái lương sơ, đương
nguyện chúng sanh, chứng vô thượng pháp, cứu cánh thanh
lương.
(經)暑退涼初。當願眾生。證無上法。究竟清涼。
(Kinh: Hết nóng, chớm mát, nguyện cho chúng sanh,
chứng pháp vô thượng, rốt ráo thanh lương).
Khí nóng đă tiêu mất, tiết trời hơi
mát mẻ hơn một chút. Tuy đức Phật ở chỗ
thuộc vùng nhiệt đới, chẳng có bốn mùa, nhưng
tuy là nhiệt đới, mỗi năm cũng có một tuần
nóng nhất, và cũng có một tuần mát mẻ nhất.
Tương đối mát mẻ th́ đại khái cũng là
hai mươi mốt, hai mươi hai độ. Khi nắng
gắt, có thể gần như có lúc ba mươi bốn,
ba mươi lăm độ. Thông thường là trên dưới
ba mươi độ! Nhằm lúc trời đổ mưa
(mùa mưa), so ra mát mẻ hơn một chút, nhưng vẫn
là hơn hai mươi độ, chẳng thể nào dưới
hai mươi độ. Dẫn phát đại nguyện, “đương nguyện chúng sanh,
chứng vô thượng pháp, cứu cánh thanh lương”
(nguyện cho chúng sanh, chứng pháp vô thượng, rốt
ráo thanh lương). “Thanh
lương” ở đây hễ đạt được
sẽ là vĩnh viễn, chẳng biến mất, là thanh lương
rốt ráo.
Nay bày ra trước mặt chúng ta, kinh Hoa
Nghiêm dạy chúng ta, có thể nói Hoa Nghiêm toàn là trí huệ. Trí
huệ viên măn rốt ráo vốn sẵn có trong tự tánh, chẳng
đến từ bên ngoài. V́ thế, nó là b́nh đẳng, hết
thảy chúng sanh thảy đều có; chỉ là hiện thời quư vị đă mê mất. Hiện thời
quư vị vô duyên cớ sanh khởi vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, cho nên chẳng thể chứng
đắc. Vặn vẹo Nhất Chân pháp giới, biến nó thành lục
đạo tam đồ, chịu tội trong ấy. Phải
hiểu rơ, phải minh bạch lư, sự, và cảnh
giới ấy. “Vô thượng
pháp” là Phật Quả rốt ráo, chẳng phải là Phật trong mười
pháp giới. Phật trong mười pháp giới chẳng
thể nói là Vô Thượng, chỉ có thể nói là Chánh
Đẳng Chánh Giác, chẳng thể gọi là Vô Thượng.
Thoát ly mười pháp giới, trở về tự tánh, Thiền
Tông nói là “minh tâm kiến tánh, kiến
tánh thành Phật”. Đó là pháp vô thượng, đó là rốt
ráo thanh lương.
Hiện thời, ở đây chúng ta đang
nói về các vị Bồ Tát thuộc mười Tín vị.
Viên măn tâm Thập Tín sẽ thoát khỏi mười pháp giới,
chứng nhập Nhất Chân pháp giới, đấy chính là
pháp vô thượng. Chúng ta cũng học tập kinh này một
khoảng thời gian khá dài, đại khái đă hiểu phần
nào về trạng huống, nhưng ngẫm ra, đúng là khó
hành. Cảnh giới của chúng ta trong hiện thời là ǵ?
“Biết dễ, hành khó”, [tức là] nghe kinh dễ dàng, muốn
làm th́ đúng là chẳng dễ dàng. Vấn đề ở
chỗ nào? Tập khí phiền năo quá nặng! Biết là phải
nên quay đầu, nhưng quay về chẳng được!
May mắn gặp gỡ pháp môn này, kinh Hoa Nghiêm đến
cuối cùng cũng nêu ra pháp môn này. Pháp môn này được
gọi là “phổ độ
chúng sanh, thích hợp khắp ba căn, thâu nhiếp toàn bộ
lợi căn lẫn độn căn”, chỉ cần quư
vị gặp gỡ! Mười đại nguyện
vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực
Lạc, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh
viên măn. Quư vị thấy cảnh giới thù thắng như
thế, trang nghiêm dường ấy, là đại pháp hội
mà thế gian lẫn xuất thế gian đều chẳng
sánh bằng.
V́ thế, vào năm thầy Lư văng sanh, tôi buông
kinh Hoa Nghiêm xuống. Tốc độ giảng khi đó
nhanh hơn hiện thời, gần như là đă giảng
được khoảng một nửa. V́ sau khi thầy đă
văng sanh, chúng tôi mới lại đem kinh Vô Lượng Thọ
ra. Kinh Vô Lượng Thọ chính là Trung Bổn Hoa Nghiêm, suốt
đời này tôi giảng Trung Bổn Hoa Nghiêm là được
rồi, chẳng cần giảng Đại Hoa Nghiêm. Đại
Hoa Nghiêm là do quán trưởng Hàn Anh vài hôm trước khi bà
ta văng sanh đă thỉnh cầu lần nữa, tôi nhận
lời. Bà ta cũng là một bầu bi tâm, hy vọng lưu
lại băng thâu h́nh để cho người đời
sau tham khảo, cũng là một phen hảo ư. V́ thế, chúng
tôi giảng kinh này, từng chữ, từng câu đều
chỉ quy Tịnh Độ. Nay đă hết thời gian rồi,
hăy nghỉ ngơi mấy phút.
***
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem đoạn lớn thứ
chín tiếp theo. Đoạn thứ chín có tất cả mười
bài kệ. [Phần này được ngài Thanh Lương
giảng là] “tập tụng
toàn lễ thời hữu thập nguyện” (習誦旋禮時有十願, khi học tập, tụng đọc,
kinh hành, lễ bái, có mười nguyện). “Tập”
(習) là học tập. Trong Phật pháp, quan trọng nhất
là phải nghiêm túc học tập; v́ thế, xếp Tập
đầu tiên. “Tụng” (誦) là đọc tụng. Quư vị thấy câu đầu
tiên trong bộ Luận Ngữ của Nho gia là “học nhi thời tập chi”
(học rồi thường xuyên luyện tập), đă học
rồi quư vị phải làm được! Trong Phật pháp,
Tập được
xếp hàng đầu, Tụng
là học, được xếp vào thứ hai. Đấy
là đặc biệt nhấn mạnh thật sự tu, thật
sự làm. Đấy là điều đầu tiên, đọc
tụng vẫn phải xếp sau đó. Đọc tụng
là thường xuyên ôn tập, đúng là “ôn cố nhi tri tân” (ôn lại cái cũ để
biết cái mới), chớ nên tác ư, chớ nên dụng tâm học
tập, chẳng cần! Chỉ là niệm hằng ngày, làm
mỗi ngày, sẽ tự có ngộ xứ. Khai ngộ là từ
chỗ này mà có, tâm càng thanh tịnh sẽ sanh trí huệ. “Học tập” là từ ngay
trong cuộc sống hằng ngày mà học tập giáo huấn
của Phật, Bồ Tát, hằng ngày đọc tụng. “Toàn” (旋) là đi giáp ṿng, tức là “kinh hành” (經行) như chúng ta thường nói, chúng ta gọi là “nhiễu Phật” hoặc “kinh hành”. “Lễ” (禮) là lễ bái. V́ thế, bốn chữ này bao gồm
bốn ư nghĩa, quan trọng nhất là phải thực hiện trong cuộc sống, trong công việc, trong xử sự, đăi người, tiếp vật. Chúng ta
xem kinh văn:
(Kinh) Phúng tụng kinh thời,
đương nguyện chúng sanh, thuận Phật sở
thuyết, tổng tŕ bất vong.
(經)諷誦經時。當願眾生。順佛所說。總持不忘。
(Kinh: Khi phúng tụng kinh, nguyện cho chúng sanh, vâng
lời Phật dạy, tổng tŕ chẳng quên).
Bài kệ này có ư nghĩa hay lắm. Phúng tụng
(諷誦) là lăng tụng
(朗誦), tức
là đọc ra tiếng, tức là khi tụng kinh. Thông thường,
trong công khóa sáng tối, chúng ta đều phải đọc
tụng kinh văn. Đối trước kinh bổn th́ là
Độc (讀), chẳng cần kinh bổn th́ là Tụng (誦). Tụng là đọc thuộc ḷng. Quư vị có thể
ghi nhớ, có thể nhớ nằm ḷng, chẳng cần dùng
kinh bổn th́ là Tụng. Nhất định phải hiểu
ư nghĩa của khóa tụng sáng tối, đấy là tiếp
nhận giáo huấn của Phật, Bồ Tát, niệm niệm
chẳng quên. Dẫu đă thuộc nhuyễn nhừ, sáng tối
vẫn phải “phúng tụng”.
Trong Phật đường có thờ phụng h́nh tượng
Phật, Bồ Tát, giống như Phật, Bồ Tát đang
ở trước mặt, hăy dùng cái tâm chân thành, cung kính như
thế để tiếp nhận giáo huấn của Phật,
Bồ Tát. Quư vị thấy mỗi bộ kinh, đến
cuối cùng đều là câu “tín
thọ phụng hành, tác lễ nhi khứ” (tin, nhận, vâng
làm, làm lễ lui ra); câu này hết sức quan trọng. Sau
khi nghe giáo huấn của Phật, Bồ Tát, có thật sự
tin tưởng hay chăng? Có thật sự tiếp nhận
hay chăng? Tin tưởng chân thành chẳng nghi ngờ, chẳng
hoài nghi mảy may, y giáo phụng hành, chính là “thuận Phật sở
thuyết” như đang được
nói ở đây, tức là y giáo phụng
hành. Tùy thuận lời đức Phật đă dạy th́
phải làm được, biến những điều đức
Phật đă nói thành kiến giải và tư duy của bản thân chúng ta, biến thành hành vi sinh hoạt của chính ḿnh.
Đấy gọi là “học Phật”.
“Tổng tŕ bất
vong”: “Tổng tŕ” (總持) là nắm được cương lănh và nguyên tắc
trong giáo huấn của đức Phật. Chi tiết th́
quá nhiều, quan trọng nhất là nắm được
cương lănh, quyết định chẳng trái nghịch.
Cương lănh của Giải môn là đối với chân
tướng của muôn sự muôn vật trong vũ trụ,
kinh Bát Nhă đă nói rất hay: “Phàm
những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”.
Đấy là tổng cương lănh, quư vị phải nắm
vững. Trong cuộc sống hằng ngày, gặp lúc tập
khí phiền năo dấy lên hiện hành, quư vị có thể
nghiền ngẫm hai câu này một phen, “phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư
vọng”, quư vị sẽ có thể buông xuống, chẳng
c̣n chấp trước, chẳng c̣n phiền năo nữa. V́
sao? Chúng chẳng thật! Nói cách khác, nó giúp quư vị thấy
thấu suốt: “Hết thảy
các pháp vô sở hữu, rốt ráo không, chẳng thể
được”, c̣n có thể chẳng buông xuống
ư?
Phương hướng,
mục tiêu chỉ đạo sự tu hành của chúng ta là “giác, chánh, tịnh”, giác chứ
không mê, chánh chứ không tà, tịnh chứ chẳng nhiễm.
Đấy là Tam Quy. Niệm nào cũng đều chuyển
mê thành giác, chuyển tà thành chánh, chuyển nhiễm thành tịnh.
“Giác, chánh, tịnh” viên măn th́
là Vô Thượng Bồ Đề, là Phật quả rốt
ráo. Đă giác ngộ, biết chuyển, đang chuyển,
nhưng c̣n chưa đạt tới viên măn rốt ráo, người
ấy là Bồ Tát. Từ sơ phát tâm đến Đẳng
Giác, năm mươi mốt tầng cấp đều gọi
là Bồ Tát. Nếu vẫn là “mê, tà, nhiễm”, tuy thọ Tam Quy Ngũ
Giới, cho đến đă xuất
gia, đă thọ tam đàn đại giới, hằng ngày trên
h́nh thức đều làm được, trong thực tế
là ích kỷ, thị phi, nhân ngă, ngũ dục, lục trần,
tham, sân, si, mạn thảy đều chẳng buông xuống;
đấy là giả trất, chẳng thật! Mười
sáu chữ ấy là cái tâm luân hồi. Tâm luân hồi học Phật
th́ cũng là nghiệp luân hồi, vẫn chẳng thoát khỏi
luân hồi. Ở chỗ này phải chú ư, nếu muốn
thoát luân hồi, phải dấy lên tâm Bồ Đề, phải
buông xuống cái tâm luân hồi. Tâm luân hồi là tham, sân, si,
mạn. Chẳng buông xuống những thứ ấy, sẽ
không thoát khỏi luân hồi. Để thành tựu trong một
đời, chắc chắn là phải cậy vào sáu chữ
hồng danh, hết thảy các pháp thế gian và xuất thế
gian thảy đều phải xả ly, nhất tâm nhất
ư chuyên niệm Di Đà, chuyên tu Tịnh Độ, tổng
tŕ chẳng quên, chẳng có ai không thành tựu!
Thời kỳ Mạt Pháp, trong kinh Đại
Tập, đức Thế Tôn đă nói rất rơ ràng. Đức
Phật dạy pháp vận của Ngài có ba giai đoạn: Chánh
Pháp, Tượng Pháp, và Mạt Pháp. Chánh Pháp, giới luật
thành tựu; Tượng Pháp, Thiền Định thành tựu;
Mạt Pháp, Tịnh Độ thành tựu. Nay chúng ta đang
sống trong thời đại Mạt Pháp, Chánh Pháp của
đức Thế Tôn là một ngàn năm. Thời đại
Chánh Pháp th́ tŕ giới, giới luật thanh tịnh sẽ
có thể chứng quả, có thể vượt thoát lục
đạo luân hồi. Nói đến thành tựu, nếu chẳng
thể vượt thoát lục đạo luân hồi, chẳng
coi là thành tựu. Thời kỳ Tượng Pháp là một
ngàn năm thứ hai, căn tánh của chúng sanh chẳng sánh
bằng người thuở trước. Nói thật ra là
như ngạn ngữ nói: “Đời
sau chẳng bằng đời trước”. Lời này
là thật, chẳng giả tí nào! Phong khí cơi đời ngày
một đi xuống. Phật pháp truyền sang Trung Hoa nhằm
thời đại Tượng Pháp, [tức là] nhằm thời
Minh Đế nhà Hán của Trung Hoa. Vào năm Vĩnh B́nh thứ
mười đời [Hán] Minh Đế, tức năm sáu
mươi bảy Công Nguyên, Phật pháp chánh thức truyền
đến Trung Hoa, do đế vương, đại thần
cung kính lễ thỉnh, nghênh thỉnh, truyền vào Trung Hoa đă
hai ngàn năm. Do nhằm thời kỳ Tượng Pháp, Thiền
trong Phật giáo Trung Hoa là điểm đặc sắc, v́
là Tượng Pháp, đấy chính là như kinh Đại
Tập đă dạy, Thiền phong ở Trung Hoa phát triển
đến mức đăng phong tạo cực. Mạt
Pháp là một vạn năm, căn tánh con người càng kém
cỏi. Đấy là nói trong ba thời kỳ, thời Mạt
Pháp th́ Tịnh Độ thành tựu.
Trong kinh Bát Nhă cũng có cách nói “năm lần năm trăm
năm”, năm lần năm trăm năm là hai ngàn
năm trăm năm. [Những điều ấy] đều
trở thành hiện thực. Những lời ấy nếu
nói theo cách hiện thời, sẽ là lời tiên đoán của
Thích Ca Mâu Ni Phật, đều đă trở thành hiện
thực. Theo cách nói “năm lần
năm trăm năm”, năm trăm năm đầu tiên
chính là năm trăm năm sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật diệt
độ, là thời giải thoát kiên cố. Năm trăm
năm thứ hai là Thiền Định kiên cố. Năm
trăm năm thứ ba là đa văn kiên cố. Quư vị
thấy khi Phật pháp truyền đến Trung Hoa, nhằm
thời đại Tùy - Đường, các vị cao
tăng đại đức mỗi vị lập tông, lập
phái. V́ thế, Phật pháp diễn biến thành mười
tông phái, Tiểu Thừa gồm hai tông, Đại Thừa là
tám tông, đa văn kiên cố đấy nhé! Phong khí nghiên cứu
kinh giáo hết sức lưu hành, chú sớ phong phú.
Trong Phật pháp, tạo luận th́ luận
là do các vị Bồ Tát, tổ sư đại đức
soạn ra, tác phẩm của các Ngài được gọi
là luận. Luận chia thành hai loại lớn:
1) Một loại là thích kinh luận (釋經論) nhằm giải thích kinh. Như bộ Hoa Nghiêm Kinh Sớ
Sao của Thanh Lương đại sư là thích kinh luận,
nương theo từng câu trong kinh văn để giải thích.
Hoa Nghiêm Kinh Hợp Luận của Lư Trưởng Giả vẫn
coi như là thích kinh luận, tuy chẳng phải là giải
thích từng câu một, nhưng giải thích từng đoạn
th́ vẫn thuộc loại thích kinh luận.
2) Một loại khác là tông kinh luận (宗經論), hoàn toàn ĺa khỏi kinh văn, thảo luận những
ư nghĩa chánh yếu của kinh điển th́ gọi là tông
kinh luận. Chẳng hạn như Du Già Sư Địa Luận
thuộc loại tông kinh luận, Đại Thừa Khởi
Tín Luận thuộc loại tông kinh luận. Nó chẳng giảng
giải một bộ kinh nào. Kinh Đại Bát Nhă có Đại
Trí Độ Luận, Đại Trí Độ Luận nhằm
giải thích kinh Đại Bát Nhă, thuộc loại thích kinh
luận. Chú sớ của tổ sư đại đức
được chia thành hai loại lớn ấy. Đa văn
kiên cố là năm trăm năm thứ ba.
Năm trăm năm thứ tư, người
nghiên cứu chẳng nhiều, chú trọng điều ǵ?
Chú trọng cất chùa, [đó là thời kỳ] tháp miếu
kiên cố. Nay chúng ta nói là chú trọng thiết lập “phần
cứng”, tháp miếu kiên cố mà! Năm trăm năm thứ
năm là nói đến chúng ta trong hiện tại, hiện
thời là năm trăm năm thứ năm, được
gọi là “đấu tranh kiên cố”.
Quư vị thấy đức Phật đă nói về hai ngàn
năm trăm năm như thế đó, tức là nói sau
khi lăo nhân gia diệt độ, cứ năm trăm năm
là một giai đoạn, Ngài nói đến năm lần năm
trăm năm. Nh́n theo năm lần năm trăm năm, vẫn
là mỗi thế hệ sau đều chẳng bằng thế
hệ trước.
Trong hai giai đoạn đầu tiên là giải
thoát kiên cố và Thiền Định kiên cố, chú trọng
thật sự hành; về sau, dần dần sơ sót chuyện
thật sự hành. Đa văn kiên cố là coi Phật pháp
như một môn học vấn, tức là cái được
gọi là “Phật học”
trong hiện thời. Thật sự hành là học Phật, phải
thật sự đoạn phiền năo, phải thật sự
trừ tập khí, phải thật sự minh tâm kiến tánh,
những điều này đều thuộc loại thật
sự hành. Coi Phật giáo như học vấn để
nghiên cứu, hằng ngày nghiên cứu, thảo luận, giảng
giải, nói đến nỗi hoa trời rơi tán loạn,
hoàn toàn chẳng liên quan ǵ đến cuộc sống hằng
ngày, công việc, xử sự, đăi người, tiếp vật của chính ḿnh! Nói một đằng,
làm một nẻo, kẻ thành tựu hiếm hoi lắm! Giống
như trong quá khứ, lăo pháp sư Đàm Hư thường
nói, vào thời đại của Ngài, người tham Thiền
trong Phật môn đắc Thiền Định th́ đă Ngài
đă từng thấy, hoặc nghe nói cũng chẳng ít, nhưng chẳng có ai khai ngộ. Bậc minh
tâm kiến tánh chưa thấy một ai, mà cũng chưa hề
nghe nói đến! Nghiên cứu kinh giáo, đại khai viên
giải chưa hề nghe nói có ai! Người tiểu ngộ
chẳng ít, đại ngộ chẳng nhiều, triệt
ngộ cũng chẳng có một ai! Tông Môn, Giáo Hạ thua kém xưa
kia. Thời đại Tùy - Đường, người khai
ngộ trong Tông Môn chẳng ít, người đại khai
viên giải trong Giáo Hạ chẳng ít; về sau th́ mỗi đời sau lại kém hơn đời trước!
Dựng chùa, vào thời đại Lương
Vũ Đế, ông ta là một vị hộ pháp tốt
trong Phật môn, đă v́ Phật giáo mà tạo dựng bốn
trăm tám mươi đạo tràng, đều có quy mô đáng
kể, chiếu cố mười mấy vạn đệ
tử xuất gia trong Phật môn. [Nhà vua] tu phước rất
lớn, chẳng khai ngộ, đấy là điển h́nh của
tháp tự kiên cố. Ngay trong thời ấy, Đạt Ma
tổ sư đến Trung Hoa, cũng từng gặp Lương
Vũ Đế, nhưng chẳng hợp ư cho lắm, chẳng
có duyên! Lương Vũ Đế nghe nói có một vị cao
tăng đại đức từ Ấn Độ đến,
nhà vua là một đệ tử Phật kiền thành, lẽ
nào chẳng cung kính nghênh tiếp, đăi đằng? Trong
khi tiếp đăi, Lương Vũ Đế bèn khoe chính
ḿnh đă làm rất nhiều chuyện tốt đẹp
trong Phật môn, hỏi Đạt Ma tổ sư: “Những
ǵ ta đă làm trong suốt một đời có công đức
to lớn hay chăng?” Hoặc là công đức to cỡ nào? Nhà vua hướng về Đạt Ma tổ sư thỉnh giáo. Đạt Ma tổ sư chẳng vọng ngữ,
thật thà bảo nhà vua, “hoàn
toàn chẳng có công đức”. Sau khi đă thốt ra câu ấy, đúng là đă tổn thương
tấm ḷng của Lương Vũ Đế, suốt đời
đă v́ Phật môn làm nhiều chuyện ngần ấy, trọn
chẳng có công đức! Tâm nhà vua khó chịu, bởi lẽ,
ăn nói chẳng hợp ư. Đạt Ma tổ sư
cũng thấy Lương Vũ Đế chẳng có
duyên, liền rời đi, đến nh́n vách (diện bích) tại chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn, tức là ngồi
tu hành ở đó. Đợi suốt chín năm, cũng là
thời gian rất dài, mới có Huệ Khả xuất hiện,
vị này là tổ sư đời thứ hai của Thiền
Tông.
Lương Vũ Đế đă làm nhiều
chuyện ngần ấy, rốt cuộc là ǵ? Chúng ta phải
biết điều này, đó là phước đức, chẳng
phải là công đức. Phải phân định rơ ràng phước
đức và công đức; những ǵ nhà vua đă tu là phước
báo đời đời kiếp kiếp trong tương
lai, đúng như chúng ta thường nói là “phước báo bất tận”. Phước báo quá to, nhưng
chẳng phải là công đức. V́ thế, trong Đàn
Kinh, Lục Tổ đă nói rất hay: “Chuyện này phước chẳng thể cứu”.
Phước đức dẫu to đến mấy đi nữa,
chẳng thể liễu sanh tử, chẳng thể thoát tam
giới. Nói cách khác, phước báo dẫu lớn cách mấy,
vẫn phải luân hồi trong lục đạo. Phước
báo quá lớn, trong nhân gian chẳng có phước báo lớn
dường ấy, vậy là quư vị sanh lên trời. Tài,
sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, ngũ
dục chẳng đoạn, sẽ sanh vào Dục Giới Thiên, Tứ Vương
Thiên, Đao Lợi Thiên, Dạ Ma Thiên, Đâu Suất Thiên, trên
đó c̣n có Hóa Lạc Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên, toàn là Dục
Giới Thiên. Quư vị đến những chỗ ấy để
hưởng phước. Hưởng hết phước
trời th́ c̣n có phước thừa, do phước thừa
bèn trở lại nhân gian để hưởng. Phước
báo mà! Chẳng thể liễu sanh tử.
Muốn liễu sanh tử, thoát tam giới,
th́ phải là công đức. “Công”
(功) là công phu, quư vị
thật sự đổ công dốc sức, quư vị sẽ
có thu hoạch, đó là “đức”
(德). Chẳng hạn
như tŕ giới có công, [tức là] công phu tŕ giới, do v́ tŕ
giới, nghiêm tŕ cấm giới th́ tâm quư vị thanh tịnh,
đấy là đức. Tâm thanh tịnh do đâu mà có? Nghiêm
tŕ giới luật, do đó nói: “Nhân
Giới đắc Định, nhân Định khai Huệ”.
Tŕ giới có thể đắc Định, Giới là công,
Định là đức. Tu Định có thể khai Huệ.
Định là công, Huệ là đức. Huệ có thể phá
tập khí vô minh, Huệ là công, phá tập khí vô minh là đức;
đấy là công đức. Do vậy, công đức và phước
đức khác nhau, nhất định phải hiểu rơ ràng,
phải hiểu minh bạch. Ngàn muôn phần chớ nên coi tu một
chút cúng dường trong chùa miếu là công đức; [nếu
hiểu như vậy] th́ sai mất rồi, nhất định
phải hiểu rơ ràng, hiểu minh bạch điều này.
Có cần phải tu phước đức hay
không? Phước đức cũng phải tu. Quư vị thấy
trong kinh luận, đức Phật thường dạy “phước huệ song tu”, thậm
chí c̣n đặt tu phước trước tu huệ. Điều này hữu lư. Nếu
quư vị chẳng có phước báo, mong tu Huệ sẽ hết
sức khó khăn, v́ sao? Nếu quư vị ba bữa cơm đều
ăn chẳng no, c̣n nói ǵ đến chuyện tu hành nữa?
V́ thế, nhà Phật mới nói: “Pháp
luân vị chuyển, thực luân tiên” (Pháp luân chưa
chuyển, đă phải lo cái ăn trước). Nếu quư
vị muốn học Phật, tŕ giới cũng thế, tụng
kinh cũng thế, tham Thiền cũng thế, niệm Phật
cũng thế; trước hết phải ăn no. Ăn
chẳng no, chuyện ǵ cũng đều chẳng
thể làm thành công! Do vậy, đức Phật trọn chẳng
phản đối tu phước. Tu phước th́ phải
ghi nhớ, quyết chớ nên tham luyến phước báo.
Hễ tham luyến phước báo là hỏng, sẽ đọa
lạc, sẽ chẳng khai trí huệ. V́ thế, chúng ta cũng
thấy tu hành chẳng hoàn toàn như pháp, đó là ǵ? Chẳng
hiểu giáo lư. Tŕ giới rất nghiêm, giới luật rất
thanh tịnh, rất nghiêm ngặt, nhưng cái tâm phân biệt,
chấp trước rất nặng, tự cho ḿnh là đúng,
thấy người khác phá giới bèn khinh mạn, coi thường
kẻ khác, đó là sai mất rồi! Dẫu giới luật nghiêm ngặt
cách mấy, kẻ ấy chẳng đạt được
tâm thanh tịnh. Tu giới kiểu ấy có công hay không? Chẳng
có công. “Chẳng có công” th́ tính là ǵ? Tính là phước. Người
ấy tŕ giới là phước đức, chẳng phải
là công đức. Tŕ giới phải đạt được
cái tâm thanh tịnh, tŕ giới như vậy mới là công
đức. Các đồng tu học Phật, bất luận
tại gia hay xuất gia, đều chớ nên không biết.
Hăy ghi nhớ một câu trong Đàn Kinh: “Nếu người thật tu đạo, chẳng
thấy lỗi thế gian”. Dẫu tŕ giới luật tốt
đẹp cách mấy, kẻ khác phá giới cũng thế,
mà phạm giới cũng thế, trọn chẳng ghim trong
ḷng. Đấy là đúng, đấy là công đức.
V́ thế phải hiểu, đức Phật
dạy tŕ giới là dạy bản thân ta tŕ giới, chẳng
nhằm dạy ai khác. Người khác cũng là hàng xuất
gia, ta chẳng cần
biết người khác là xuất
gia hay tại gia, ta học Phật, Phật dạy ta, Phật
chẳng dạy người khác. Đấy là biết cách
học Phật! Ngay cả Đệ Tử Quy cũng nói: “Phàm là người, đều phải
yêu”. Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta: “Phàm là người, đều
phải kính”. Câu này do đâu mà
có? Nói thật ra, nguyện thứ nhất trong mười
đại nguyện vương là “lễ kính chư Phật”; trong “chư Phật” có vị lai Phật, vị lai Phật
là hết thảy chúng sanh. Thử hỏi kẻ phá giới
có phải là chúng sanh hay không? Kẻ phạm giới có phải
là chúng sanh hay không? Phải! Họ là chúng sanh, họ là vị
lai Phật. Kẻ phạm giới trong hiện tại, tương
lai đương nhiên là phải đọa trong tam đồ,
chịu quả báo, nhưng kẻ ấy có Phật Tánh, kẻ
ấy vốn là Phật. Do đó, phàm là người th́ đều phải
lễ kính.
Kinh Hoa Nghiêm nói càng viên măn hơn: “T́nh và vô t́nh, cùng viên thành Chủng
Trí”, tức là trong tâm mục của người thật
sự tu hành, không chỉ hữu t́nh chúng sanh là Phật, Bồ Tát,
hăy nên b́nh đẳng lễ kính, mà hoa cỏ cây cối
cũng là Phật, Bồ Tát. Cho đến núi, sông, đại
địa, bụi, cát, ḥn đá đều có Pháp
Tánh. Pháp Tánh và Phật Tánh là một tánh, vậy th́ lẽ nào
chẳng phải là Phật, Bồ Tát? Đấy là “t́nh và vô t́nh, cùng viên thành Chủng
Trí”. V́ thế, người thật sự tu hành xác thực
sống trong Pháp Tánh, sống trong pháp giới, vĩnh viễn
là lễ kính, tán thán, cúng dường, cảm ơn. Đấy
là người thật sự tu hành. Thấy cái này hoan hỷ,
thấy cái kia đáng ghét, đó chẳng phải là người
tu hành, mà là kẻ vẫn sẽ luân hồi trong lục
đạo. Trước kia, chúng ta không hiểu đạo
lư này, nay đă hiểu rơ; sau khi đă hiểu rơ, trong cuộc
sống, công việc, đăi người, tiếp
vật, có sửa đổi quan niệm của chúng ta hay không?
Nếu chẳng sửa đổi, như vậy là “bất thuận Phật thuyết”,
thật sự sửa đổi th́ mới là “thuận Phật sở thuyết”.
Quư vị thấy đức Phật dạy
chúng ta lễ kính chư Phật, tức là dùng cái tâm chân thành,
thanh tịnh, b́nh đẳng, từ bi để tôn trọng,
cung kính hết thảy mọi người. Đức Phật
dạy chúng ta xưng tán Như Lai, phàm trông thấy hết
thảy thiện hạnh của chúng sanh phù hợp Tánh Đức,
phải nên tán thán. Ta đối đăi với kẻ khác b́nh
đẳng, kẻ khác đối xử với ta bất b́nh
đẳng, ta khen ngợi kẻ ấy. Kẻ ấy hủy
báng ta, ta tôn trọng kẻ ấy. Kẻ ấy khinh khi, phụ
bạc ta, thậm chí hăm hại ta, nhưng nếu kẻ ấy
làm một thiện sự tương ứng với Tánh Đức
(đấy là oan gia đối đầu trong thế gian),
có cần phải tán thán kẻ ấy hay không? Phải! C̣n lỗi
lầm của kẻ ấy th́ sao? Trọn chẳng nhắc
tới lỗi lầm. Không chỉ là miệng chẳng nhắc
tới, trong tâm cũng chẳng có ấn tượng ấy!
V́ sao? Chẳng thấy lỗi thế gian chính là “thuận Phật sở thuyết”.
Mười đại nguyện vương
là pháp môn tổng tŕ, Thập Thiện Nghiệp Đạo
là pháp môn tổng tŕ, Tịnh Nghiệp Tam Phước là pháp
môn tổng tŕ. Kinh luận Tịnh Tông gồm năm kinh một
luận, trong quá khứ, khi giảng Đại Thế Chí Viên
Thông Chương, tôi cũng đă nói rất rơ ràng. Đại
Thế Chí Viên Thông Chương tổng cộng chỉ có hai
trăm bốn mươi chữ, c̣n ngắn hơn Tâm Kinh.
Bát Nhă Tâm Kinh hai trăm sáu mươi chữ, Đại Thế
Chí Viên Thông Chương hai trăm bốn mươi chữ.
Đấy là pháp môn tổng tŕ của Tịnh Tông, là
Tâm Kinh của Tịnh Tông. Nếu có thể suốt đời
thọ tŕ, sẽ nhất định văng sanh; nhưng thường
là các đồng tu Tịnh Độ thọ tŕ kinh Di
Đà nhiều nhất, cũng hết sức tốt. Nếu
căn tánh thật sự rất độn, niệm kinh Di
Đà [mà c̣n cảm thấy] quá dài, chẳng thể thọ
tŕ, [vậy th́] Đại Thế Chí Viên Thông Chương là
tốt nhất, Ấn Quang đại sư đề
xướng [kinh này]. Theo truyền thuyết, Ấn Quang đại sư
là Đại Thế Chí Bồ Tát tái lai. Chúng ta chú tâm quan sát
hành trạng suốt một đời tổ Ấn Quang, đúng
là Ngài đă hành xử y như Đại Thế Chí Bồ Tát: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm tiếp nối, chẳng nhờ vào phương tiện
mà tự được tâm khai”, rất giống
sự mô tả chân xác sự tu hành trong suốt một đời
của tổ Ấn Quang. Đấy là Ngài đă v́ chúng ta thị
hiện “tổng tŕ bất
vong” trong thời kỳ Mạt Pháp. Ngài dạy chúng ta một
phương pháp rất phù hợp với thời đại
này, khế cơ, đạo tràng có quy mô nhỏ, đồng
học chẳng hơn hai mươi người, đúng là
khó có!
Trong dĩ văng, tôi luôn mong một tiểu Phật
đường gồm hai mươi người cộng
tu. Đương nhiên là những người vào Niệm
Phật Đường giống như bế quan, c̣n có những
người hộ tŕ, những người chăm sóc. Phật
pháp và pháp thế gian không sai khác cho lắm, giống như
trong nhà trường, có giáo viên, c̣n có chức viên (職員, những
người có chức trách). Người tu hành gồm hai mươi
người, người chiếu cố đại khái cũng
cần từ mười mấy đến hai mươi người,
hộ tŕ đạo tràng, chiếu cố cuộc sống hằng
ngày của mọi người, tôi có cách nghĩ như thế đó. Nhưng về sau nghĩ đến
thầy Lư, lăo nhân gia thuở sinh tiền cũng thường
căn dặn chúng tôi: “Người trong Niệm Phật Đường chẳng
thể nhiều! Hễ có nhiều người th́ vị Chủ
Thất Ḥa Thượng chẳng thể chiếu cố nổi.
Niệm Phật quanh năm, nhất là đồng tu trong
Tinh Tấn Niệm Phật Đường chẳng thể
vượt quá mười người”. Lăo nhân gia dạy chúng tôi điều này, hễ vượt quá mười người, quư vị sẽ chẳng
có cách nào chuyên chú tinh thần. Bởi lẽ, vị đường
chủ Niệm Phật Đường thật sự chịu
trách nhiệm, hiểu rơ t́nh huống của mỗi cá nhân
niệm Phật như ḷng bàn tay, vị ấy đều
biết. Giống như dạy học vậy, theo quy cách lớp
học nhỏ, một vị thầy hướng dẫn mười
học tṛ, thầy có thể hoàn toàn chiếu cố. Hiện thời, mỗi
lớp học có năm, sáu chục học tṛ, thầy làm sao có thể chuyên
chú quan tâm cho nổi? Chẳng thể nào! V́ thế, tôi nghĩ
tổ Ấn Quang nói hai mươi người, có thể là
bao gồm nhân viên công tác trong đạo tràng, thảy đều tính gộp vào đó vẫn không vượt
quá hai mươi người. Do vậy, đạo tràng theo
quy mô nhỏ sẽ duy tŕ dễ dàng.
Hiện thời, chúng ta làm theo giáo huấn của
Ấn Quang đại sư, cũng là “thuận Phật sở thuyết, tổng tŕ bất
vong”, trở thành một đạo tràng điển h́nh
khuôn mẫu. Giống như đạo tràng của Giác Minh
Diệu Hạnh Bồ Tát thuở trước, đạo
tràng của Ngài gồm mười hai người; mười
hai người đều văng sanh, đó gọi là một đạo tràng chân thật. Mười hai
người đều văng sanh, đáng gọi là đại
đạo tràng, thành tựu viên măn. Nếu người trong
đạo tràng rất đông, chẳng có một ai văng
sanh, đạo tràng ấy thất bại, chẳng thành công!
Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi nói tới đây.
Tập
1570
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh
thứ mười một, xem từ bài kệ thứ hai trong đoạn
thứ chín của phần Kệ Tụng:
(Kinh) Nhược đắc kiến Phật, đương
nguyện chúng sanh, đắc vô ngại nhăn, kiến nhất
thiết Phật.
(經)若得見佛。當願眾生。得無礙眼。見一切佛。
(Kinh: Nếu được thấy Phật, nguyện
cho chúng sanh, được mắt vô ngại, thấy hết
thảy Phật).
“Kiến Phật”:
Trong nhà của đại đa số các đồng học
học Phật chúng ta đều có thờ tượng Phật,
sáng tối tụng niệm, lễ bái. Đức Phật chẳng
trụ thế, tượng Phật tượng trưng
cho Phật, thấy tượng Phật như thấy Ngài.
Có những người chẳng liễu giải, bảo chúng ta mê tín, thờ lạy ngẫu tượng.
Họ chẳng biết ư nghĩa thật sự của việc
thờ tượng Phật và lạy tượng Phật trong Phật
môn; nếu gặp phải t́nh h́nh ấy, chúng ta nhất
định phải giải thích cho họ. Tạc tượng,
bất luận là tượng đất nặn, gỗ khắc, hoặc là đúc bằng kim loại, cho đến
tranh vẽ, xưa nay, trong ngoài nước, cho đến
trước khi có văn tự, những người thuộc
cổ đại, chúng ta thường nói là “người nguyên thủy”, đối với các
tảng đá, hoặc trong thạch động, trong hang động,
v́ xưa kia họ sống trong huyệt động, trên các
nham thạch trong huyệt động cũng có những điêu khắc. Điêu khắc thường thấy
nhất là h́nh ảnh con người. Quư vị có thể nói
đấy là mê tín hay sao? Nếu nói đấy là mê tín, trong
xă hội hiện đại, h́nh ảnh con người quá
nhiều, chúng ta đi đường, trông thấy trong quảng
cáo có bao nhiêu h́nh người; đó chẳng phải là mê tín
ư? Phải hiểu điều này, phải hiểu rơ điều
này!
Thờ phụng tượng Phật có hai ư
nghĩa. Ư nghĩa thứ nhất là ư nghĩa kỷ niệm.
Thầy chúng ta dẫu thời gian cách biệt đă rất
lâu, chúng ta niệm niệm chẳng quên. Mấy ngàn năm, chúng
ta nói đến tổ sư, luôn chẳng quên ân đức
của các Ngài, có lẽ nào chẳng tôn trọng vị thầy
hiện tiền? V́ thế, thờ phụng h́nh tượng
thầy là tôn sư trọng đạo, là niệm nào cũng đều chẳng quên giáo huấn của thầy. Trông thấy
h́nh tượng của thầy bèn nhớ đến giáo huấn
của thầy, có thể coi chuyện này là mê tín ư? Trong
gia đ́nh, cha mẹ c̣n sống, nhưng ông bà, ông bà cố,
ông bà sơ đă khuất, khá nhiều người trong gia đ́nh
cũng thờ ảnh chụp của người đời trước, đấy là mê tín ư? V́ sao phải thờ những
thứ ấy? Đó gọi là uống nước nhớ
nguồn! Tấm thân này của chúng ta do đâu mà có? Từ
cha mẹ mà ra, thân cha mẹ từ ông bà mà ra. Đấy là
lư do v́ sao người Hoa thờ cúng tổ tiên. Tổ
tiên mấy ngàn năm căn bản là chẳng nhận biết,
cũng chẳng biết các cụ h́nh dạng ra sao, bất
đắc dĩ thờ bài vị các cụ, đấy cũng
là mê tín ư? Đối với viễn tổ mà luôn tôn trọng,
hoài niệm như vậy, đối với cha mẹ, ông
bà trước mắt, lẽ đâu chẳng hiếu thuận?
V́ thế, đây là giáo dục luân lư, “thận chung truy viễn”[1]. Đấy là giáo dục truy
viễn, quư vị thấy ân t́nh nồng hậu dường
ấy!
[Do nghĩ là] “mê tín, thờ ngẫu tượng”, bèn phủ
định. Sau khi đă phủ định, mới đem
lại sự động loạn trong xă hội hiện thời,
đem lại sự ích kỷ cực đoan trong xă hội
hiện tiền, đó gọi là “bản
vị chủ nghĩa”, [tức là] chỉ có chính ḿnh, cha
mẹ đều chẳng màng đến! Chúng ta lắng ḷng
suy nghĩ xem chúng ta hiếu dưỡng cha mẹ là tốt,
hay bất hiếu với cha mẹ là tốt? Đời này
chúng ta chẳng cần cha mẹ, bất hiếu với cha
mẹ, vậy th́ con cái của quư vị cũng sẽ chẳng
hiếu thuận với quư vị; đó là ǵ? Đấy là
đạo lư thiên kinh địa nghĩa, người trên
làm, kẻ dưới bắt chước theo, chúng nó học
theo từ nhỏ. V́ thế cổ nhân dạy về hiếu
vào lúc nào? Ngay từ lúc đứa trẻ vừa mới sanh ra. Dạy như
thế nào? Quư vị đối với cha mẹ tận hiếu,
con cái trông thấy, trong tương lai, chúng nó trưởng
thành sẽ tận hiếu đối với cha mẹ của
chính ḿnh, coi chuyện này là đạo lư đương nhiên. Quư
vị bất hiếu với cha mẹ, bất kính sư
trưởng, mà muốn cho con thơ, con cái của quư vị
hiếu thuận với cha mẹ, tôn kính sư trưởng,
há có lẽ ấy? V́ thế, đây là giáo dục.
Phật là đại thánh nhân. “Thánh nhân là ǵ?” cho đến “Phật là ǵ?” đều chẳng
hiểu rơ ràng! Người học Phật mà chẳng hiểu
rơ Phật! Phật (Buddha) là tiếng Ấn Độ, tức là tiếng
Phạn của cổ Ấn Độ, dịch sang tiếng
Hán theo lối phiên âm, v́ sao? Tại Trung Hoa, chẳng t́m thấy
chữ xít sao để phiên dịch ư nghĩa, cho nên đành
phải dịch theo lối phiên âm, sau đấy mới chú
giải thêm. Chú giải ư nghĩa ǵ vậy? Ư nghĩa trí huệ,
ư nghĩa giác ngộ. Trong chữ Hán, Trí lẫn Giác đều
có, v́ sao chẳng dịch thành Trí Giác? Chúng
ta dùng hai chữ ấy cũng chẳng thể được
ư? Vẫn không được! Trí và Giác ở
đây chẳng phải là trí và giác trong khái niệm thông thường
của chúng ta. Đây là chuyện bất đắc dĩ.
Trong Trí bao hàm ba thứ ư nghĩa, tức Nhất Thiết
Trí, Đạo Chủng Trí và Nhất Thiết Chủng Trí.
Chữ Trí của Trung Hoa chẳng có ư nghĩa này. Trong Giác cũng
có ba ư nghĩa, tự giác, giác tha, và giác hạnh viên măn. Do vậy
chữ [Phật] này được gọi là “hàm đa nghĩa bất phiên” (do bao hàm nhiều
ư nghĩa nên không dịch). Nó có rất nhiều ư nghĩa,
chỉ có cách dùng kiểu dịch theo lối phiên âm. Nói tóm lại, dùng cách nói dễ
dàng nhất, thông tục nhất, [Phật] là người minh
bạch, đối với sự lư và nhân quả của vũ
trụ và nhân sinh, chẳng có điều ǵ không hiểu rơ,
chẳng có điều ǵ không thông đạt, người như
vậy được gọi là Phật.
Ở Trung Hoa, “thánh”
có ư nghĩa này. Thánh nhân là người minh bạch, là người
thông đạt hết thảy vũ trụ và nhân sinh, đấy
là thầy của chúng ta. Tại Trung Hoa, nhân vật đại
biểu là Khổng Tử, [Ngài thường được gọi
là] Khổng thánh nhân. Tại cổ Ấn Độ, Thích Ca
Mâu Ni Phật là đại biểu, thật sự là một
vị thầy, cả đời dạy học suốt bốn
mươi chín năm, trước
nay chẳng hề gián đoạn.
Khổng lăo phu tử lăo nhân gia sau khi đă học thành công,
nói thật ra là muốn ra làm quan, ḥng có thể đem sở
học của chính ḿnh cống hiến nhân dân, v́ nhân dân phục
vụ. Suốt đời, Ngài hâm mộ Châu Công nhất. Nếu
khi ấy, những vị quốc quân (vua nước Lỗ
và vua các nước chư hầu khác) chịu
dùng Khổng Tử, tin tưởng Khổng Tử là Châu Công
thứ hai, [Ngài sẽ] nghiêm túc gánh vác trách nhiệm, cúc cung tận tụy.
Không có ai dùng Ngài, người khác nghe ư kiến của Ngài đều
gật gù, khá lắm, hay lắm, lư tưởng tuyệt lắm,
chẳng dễ ǵ làm được! Chẳng có ai dùng Ngài,
Ngài mới trở về nhà dạy học. Chu du các nước
mười mấy năm, khi quay về, tuổi tác cũng đă cao. Sáu mươi tám tuổi quay về, bảy
mươi ba tuổi lăo nhân gia qua đời. Do vậy, trở
về nhà dạy học chỉ có năm năm.
Nếu Khổng Tử có thể nh́n thấu
suốt, thấy rơ ràng như Thích Ca Mâu Ni Phật, [Khổng Tử sẽ] chẳng mong làm chánh trị. Thích Ca Mâu Ni Phật là vương
tử, nếu Ngài không xuất gia, sẽ kế thừa ngôi
vua của cha. Người ta nh́n thấu triệt, thấy minh
bạch. Chuyện có ư nghĩa nhất trong đời người
là học vấn thành tựu, trí huệ thành tựu, triệt
để thông đạt hiểu rơ chân tướng của
vũ trụ và nhân sinh, đấy là có ư nghĩa, có giá trị!
Sau khi đă hiểu rơ, phải giúp đỡ những người
c̣n chưa hiểu rơ, phải giúp đỡ họ. Các vị
thánh nhân trong ngoài nước xưa nay, chẳng có vị nào
không theo đuổi công tác giáo học. Quư vị nói xem, thế gian này nghề
nghiệp nhiều dường ấy, [cớ sao] các Ngài chọn
dạy học; nhưng theo đuổi phương thức
dạy học, nói theo kiểu hiện thời, sẽ là
“giáo dục xă hội văn hóa đa nguyên”. Khổng Tử thực hiện giáo dục bằng cách
mở một trường học, trường học ở
một chỗ. Thích Ca Mâu Ni Phật dạy học, dạy
suốt đời, chẳng có trường học, giảng
đường lưu động. Hôm nay giảng nơi đây,
ngày mai lại đổi chỗ, ngày mốt lại chẳng
biết đến giảng ở chỗ nào! Thuờng xuyên
đổi chỗ, chẳng ở một nơi nào! Cũng
chẳng có pḥng học cố định. Dưới cội
cây trong núi, rừng đều là pḥng học của Ngài, hai
bờ sông Hằng cũng là pḥng học của Ngài, người
ở chỗ nào th́ pḥng học ở chỗ đó. V́ thế,
Ngài thuộc loại giáo dục xă hội văn hóa đa
nguyên.
Từ những ghi chép trong kinh điển, chúng
ta biết dấu chân của đức Thế Tôn trọn
khắp Ngũ Ấn Độ. Thuở đó là đi bộ.
Đă thế, chúng ta biết người Ấn Độ
không đi giày, đi chân trần. Khéo sao Thích Ca Mâu Ni Phật
thật sự là bậc đại triệt đại ngộ,
giáo hóa chúng sanh chẳng phân biệt sắc tộc, chẳng
phân biệt quốc gia, mà cũng chẳng phân chia tôn giáo. Người
tiếp nhận giáo dục có tŕnh độ cao thấp bất đồng,
có người trí huệ rất cao, nói theo kiểu hiện
thời là “chuyên gia, học giả”,
có người là kẻ b́nh dân mù chữ. V́ thế, trong xă hội, trên là từ
đế vương, dưới cho tới thứ dân, các
ngành nghề, Ngài thảy đều có thể mở lớp
dạy học, giáo hóa hết thảy chúng sanh. Ngài chẳng
biên soạn sách giáo khoa, cũng chẳng biên soạn đại
cương giáo học, hằng ngày cùng các đồng học
đàm thoại, giải đáp những câu hỏi do các đồng
học nêu ra, về sau được ghi chép lại thành kinh
điển. Ghi chép là sau khi đức Phật khuất bóng
mới ghi chép lại, chứ thuở ấy (thuở Phật
tại thế) chẳng có. V́ thế, Ngài đến nơi
nào đó dạy học xác thực là hoan hỷ, rất vui
sướng, v́ sao? Đi xa mà chẳng có hành lư, gánh nặng
ǵ cũng đều chẳng có! Bất luận đi đến
nơi đâu, đều là “ba y, một bát”, những thứ khác đều chẳng
có. Quư vị thấy đơn giản lắm, vui sướng
lắm, áp lực lẫn gánh nặng ǵ cũng đều chẳng
có.
Kinh Kim Cang nói đức
Phật có ngũ nhăn, [tức là] có Nhục Nhăn, Thiên
Nhăn, Huệ Nhăn, Pháp Nhăn, và Phật Nhăn, ngũ nhăn viên minh.
Những điều này đều nhằm tán thán trí huệ
của lăo nhân gia. Nhục Nhăn, giống như phàm phu chúng ta có Nhục Nhăn. Thiên
Nhăn khác hẳn, Thiên Nhăn có thể thấy quá khứ, vị
lai. Nói theo kiểu hiện thời, Ngài có năng lực
đột phá các chiều không gian, có thể thấy những
không gian mà lũ b́nh phàm chúng ta chẳng thấy. Chuyện này thuộc
về Thiên Nhăn. Nhưng Huệ Nhăn lại khác với Thiên
Nhăn, đức Phật dạy chúng ta, chư thiên có Thiên
Nhăn, chẳng có Huệ Nhăn, v́ sao? Vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước chẳng buông xuống; do vậy, chẳng có Huệ Nhăn. Trong ba loại phiền
năo ấy, buông xuống một thứ trong ba thứ, chẳng
có chấp trước, sẽ lại có thêm một loại
mắt, [tức là] có Huệ Nhăn. A La Hán, Bích Chi Phật có Huệ
Nhăn, trí huệ ấy vốn sẵn trọn đủ trong
tự tánh. Chỉ cần quư vị buông xuống chấp trước
đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian, chẳng c̣n chấp trước nữa, quư vị sẽ đắc Huệ Nhăn. Quư vị mới
dần dần thấy chân tướng của nhân sinh và vũ
trụ, vừa mới trông thấy, vẫn chưa phải
là thật sự hiểu rơ. Tuy đă thấy, chẳng rơ ràng
cho lắm!
Nếu lại c̣n buông xuống phân biệt
đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian, chẳng c̣n phân biệt, vậy là quư vị
đắc Pháp Nhăn. Pháp Nhăn rơ ràng hơn Huệ Nhăn khá nhiều.
Điều này chẳng dễ hiểu cho lắm, chúng tôi dùng
tỷ dụ. Người cao tuổi mắt hoa, mắt già
bị hoa, có trông thấy mọi vật hay không? Thấy chứ,
nhưng mơ hồ, chẳng rơ ràng cho lắm. Đấy
là Huệ Nhăn. Đeo kiếng bèn thấy rất rơ ràng, đó
là Pháp Nhăn. Từ tỷ dụ này, quư vị có thể lănh hội
đôi chút, Pháp Nhăn trông thấy rơ ràng. Nhưng những chuyện,
những hiện tượng trong khắp pháp giới
hư không giới, rốt ráo từ đâu mà có? Phát sanh như
thế nào? V́ sao mà có? [Để thấu hiểu] những đạo
lư to lớn ấy, vẫn phải tăng tấn, vọng tưởng cũng phải
đoạn trừ. Đă đoạn
trừ vọng tưởng, Phật Nhăn bèn hiện tiền,
tức là minh tâm kiến tánh. Khi kiến tánh, quư vị sẽ
triệt để hiểu rơ tánh, tướng, sự lư, nhân
quả của muôn sự muôn vật trong vũ trụ. Đấy
là Phật Nhăn, tức “vô ngại nhăn”, chẳng
có chướng ngại.
“Vô ngại nhăn”
là vô ngại huệ, trí huệ rốt ráo viên măn hiện tiền,
khi ấy sẽ thấy cảnh giới ǵ? Thấy hết
thảy Phật. “Thấy hết
thảy Phật” có nghĩa là ǵ? Thật sự hiểu
rơ toàn thể vũ trụ là một Thể, nhất thiết
trí, nhất thiết giác. Vậy th́ nếu chúng ta hỏi:
Chúng sanh khổ nạn đang mê muội trong tam đồ
lục đạo có phải là Nhất Thiết Trí hay không?
Đúng vậy! Lời này phải hiểu như thế nào?
Chúng ta vẫn dùng tỷ dụ của tổ sư đại đức
từ xưa để nói. Cổ đức dùng vàng và đồ
vật để tỷ dụ. “Dùng
vàng làm các món vật, món nào cũng đều là vàng”. Vàng
và đồ vật là một, không hai. Chúng ta sánh ví vàng như
Pháp Tánh. Pháp Tánh là Trí. Sánh ví đồ vật như pháp tướng;
đấy là các hiện tượng, vạn sự, vạn
tướng trong vũ trụ. Người giác ngộ sẽ
biết, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới
đều là “tâm hiện, thức biến”, thuần chân vô vọng! Kẻ mê chẳng biết,
chẳng biết tất cả hết thảy hiện
tướng đều là tâm tánh, không biết! Do vậy, ở đây là vấn đề giác và mê.
Khi mê th́ gọi là chúng sanh, khi giác gọi là Phật. Thật
ra, Phật và chúng sanh là một, không hai.
Quư vị đă giác, tánh và
tướng chẳng hai; hễ mê th́ vẫn là tánh và tướng chẳng
hai. Tuyệt đối chẳng phải là nói tánh và tướng
sẽ biến đổi theo sự mê hay ngộ của quư
vị, chẳng phải vậy, nó chưa hề biến đổi
theo quư vị. Cái biến đổi theo quư vị, sẽ chẳng phải
là chân tánh; đó là thứ ǵ vậy? Đó là vọng tưởng,
chư vị phải biết điều này. Trong A Lại
Da, theo như kinh điển Pháp Tướng Tông đă nói,
chủng tử đă in dấu trong A Lại Da dấy lên phản
ứng. Trong chân tánh có [vọng tưởng] hay không? Trong chân
tánh chẳng có! Trong chân tánh chẳng có thiện, mà cũng chẳng
có ác, chẳng có chân, mà cũng chẳng có vọng. Nhà Phật
gọi điều này là pháp môn Bất Nhị. Nhị là ǵ?
Đối lập. Trong chân tánh chẳng có đối lập;
hễ thứ ǵ đối lập th́ chẳng thật!
Do vậy có thể biết, trong các buổi
giảng, chúng tôi thường dẫn dụng thí nghiệm
với nước của tiến sĩ Giang Bổn Thắng,
thí nghiệm cho thấy nước có thấy, nghe, hay, biết,
nó có thể phản ứng với sắc, thanh, hương,
vị. Trong ấy, sự “thấy, nghe, hay, biết” là có, nhưng
trong “thấy, nghe, hay, biết” có đối lập hay không?
Chẳng có! Phải biết điều này, tuyệt đối
chẳng có! V́ sao chúng ta dùng thiện niệm đối
với nó, nó sẽ phản ứng bằng mô thức kết
tinh rất đẹp. Đối với nó bằng ác niệm,
nó sẽ phản ứng bằng mô thức kết tinh rất
xấu xí. Đây là chuyện như thế nào? Đấy là
chủng tử tập khí chứa đựng trong A Lại
Da dấy lên hiện hành, do gặp duyên bèn dấy lên hiện
hành. Gặp thiện
duyên bèn dấy lên hiện hành thiện; gặp ác duyên bèn dấy
lên hiện hành ác. Trong Pháp Tánh th́
sao? Trong Pháp Tánh chẳng có thiện hay ác, phải hiểu đạo
lư này! Đạo lư này quá sâu!
Cho nên, từ thí nghiệm với nước trong
khoa học, có thể nói rơ các hiện tượng trong lục
đạo và mười pháp giới, chúng ta nói là “có nhân, có
quả”. Thiện nhân có thiện quả, ác nhân có ác báo; đấy
là lục đạo, là mười pháp giới. Trong Nhất
Chân pháp giới chẳng có, v́ sao chẳng có? Trong Nhất
Chân pháp giới chẳng có ư niệm! Chúng ta có thiện niệm
và ác niệm, trong Nhất Chân pháp giới chẳng có thiện niệm, mà cũng chẳng có ác niệm. V́ sao biết? Chẳng
khởi tâm, không động niệm, th́ là đoạn vọng
tưởng. Vọng tưởng là khởi tâm động
niệm, khởi tâm động niệm là vô minh. Chúng ta dùng
một thiện niệm, hay dùng một ác niệm, chẳng
phải là khởi tâm động niệm hay sao? Không chỉ
là khởi tâm động niệm, mà trong ấy c̣n có phân biệt,
chấp trước. V́ thế, nó biến hiện, chúng ta ư
thức rất rơ ràng đó là chủng tử được
in dấu trong A Lại Da, chẳng phải là chân tánh. Nếu quư vị muốn kiến tánh, thấy
chân tánh, đối với vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, quư vị ắt cần phải thảy đều đoạn trừ, sau đấy
sẽ thấy ǵ? Thấy hết thảy chúng sanh đều
thành Phật, hoặc là như trong kinh Hoa Nghiêm và Viên Giác đă
nói: “Hết thảy chúng sanh vốn
sẵn thành Phật”, thật đấy, chẳng giả!
V́ sao chư Phật Như Lai chân thành lễ
kính hết thảy chúng sanh như vậy? Lễ kính hết
thảy chúng sanh chính là lễ kính chân tánh của chính ḿnh, lễ
kính Tánh Đức của chính ḿnh, người khác và chính
ḿnh có mối quan hệ mật thiết như thế đó.
Núi, sông, đại địa, cây cối, hoa, cỏ, cùng
chung một Pháp Thân, đều là tâm hiện thức biến; ĺa khỏi tâm thức th́ chẳng có một pháp nào để
có thể được. Đấy gọi là “thấy hết thảy Phật”.
Đạt đến cảnh giới ấy, quư vị mới
thật sự hiểu rơ một câu ngạn ngữ của cổ
đại đức: “Thiên hạ
vốn vô sự, kẻ ngu tự lo sầu”. Khế nhập
cảnh giới ấy, mới thật sự hiểu rơ câu
này. Chẳng khế nhập cảnh giới ấy, nghe câu
này chẳng hiểu. Mấy chữ ấy đều nhận
biết, nói th́ cũng nghe rất rơ ràng, dường như
đă hiểu, thật ra hoàn toàn không hiểu. V́ sao không hiểu?
Chẳng phải là cảnh giới của quư vị! Đây
là cảnh giới của chư Phật Như Lai, quư vị
làm sao hiểu nổi? Nếu quư vị đă hiểu, đă
nhập cảnh giới này, quư vị đă thành Phật;
sau đấy, quư vị mới thấy hết thảy
chúng sanh chẳng khác chư Phật Như Lai.
Nhất định phải diệt trừ chướng
ngại, hết thảy chúng sanh thảy đều là vô ngại
nhăn, đều là ngũ nhăn viên minh. Lũ phàm phu chúng ta có
nghiệp chướng, chẳng có Thiên Nhăn. Do có chấp
trước, [cho nên] chẳng có Huệ Nhăn. Do có phân biệt,
chẳng có Pháp Nhăn. Do khởi tâm động niệm, chẳng
có Phật Nhăn. Hiện thời, chỉ c̣n lại Nhục Nhăn, đă
nh́n sai khá nhiều chuyện. Nh́n sai người, bị thua
thiệt, bị lừa gạt. Nh́n sai việc, cũng phạm
phải lầm lỗi. Có thể nói là trong cuộc sống
hằng ngày của chúng ta, những chuyện này thường
xuyên tồn tại, chỉ cần quư vị lưu ư là có thể
hoàn toàn trông thấy. Sau khi quư vị đă thấy, quư vị
có c̣n động tâm hay không? Phàm phu chẳng có ai không động
tâm, bị thua thiệt, bị lừa gạt rất oan uổng.
Đấy là quư vị khởi tâm động niệm. Một
chuyện làm rất viên măn, rất thành công, quư vị rất
hưng phấn, rất vui sướng; nói cách khác, phản
ứng của quư vị là thất t́nh ngũ dục.
Chuyện này khác với Phật, Bồ Tát. Phật,
Bồ Tát ứng hóa trong lục đạo, ứng hóa trong
tam đồ, thấy chúng sanh trong lục đạo tạo
ác, hành thiện, tạo ác nhiều, hành thiện ít, Phật,
Bồ Tát có động tâm hay không? Chẳng có! Tâm của Phật,
Bồ Tát giống như một mặt gương, soi rành
mạch, rơ ràng, phân minh. Hiện tướng ấy là chuyện
như thế nào? “Phàm những
ǵ có h́nh tướng, đều là hư vọng”. Duyên tụ
bèn có, duyên tán th́ không! Nghiêm túc tỉ mỉ quan sát, thưa
cùng chư vị, nhân duyên cũng chẳng phải là thật.
Chuyện này càng nói càng sâu. Quư vị hăy ngẫm xem trong Đàn
Kinh, Lục Tổ Huệ Năng đại sư đă nói:
“Vốn chẳng có một vật,
chỗ nào nhuốm bụi trần”. Lại nghĩ đến
lời đức Thế Tôn đă nói trong kinh Lăng Nghiêm,
Ngài nói đến Thật Tướng của các pháp, chẳng
phải là nhân duyên, chẳng phải là tự nhiên, chẳng
phải là ḥa hợp, chẳng phải là bất ḥa hợp.
Do vậy, chẳng có khởi tâm động niệm. Cũng
chính v́ “chẳng khởi tâm, không động niệm” nên mới
nh́n thấy rơ ràng như thế. Đấy gọi là Phật
Nhăn, cao minh hơn Bồ Tát nhiều lắm. Bồ
Tát biết lẽ đương nhiên, nhưng chẳng biết
nguyên nhân. Đạt đến
địa vị Phật th́ mới
là viên măn rốt ráo!
Nay chúng ta là phàm phu chánh cống
mê chứ chẳng
giác, chính ḿnh phải thừa
nhận, từ vô lượng kiếp đến nay đă
sanh tử luân hồi trong lục đạo, chẳng có cách nào thoát ĺa. Câu nói “con người đáng quư ở chỗ tự biết
ḿnh” chính là cách ngôn của bậc cổ
thánh, điều đáng quư, chuyện khó thể làm được
là “nhận biết chính ḿnh”. Trong trạng huống hiện
thời của chúng ta, nay đă tiếp nhận giáo huấn
của đức Phật, đấy là duyên; chính ḿnh có thể
tín, có thể giải, đó là thiện căn, [tức là]
thiện căn từ đời quá khứ. Đúng là giống
như trong thí nghiệm với nước, Phật, Bồ
Tát thị hiện, dùng một thiện niệm đối
với các Ngài, các Ngài sẽ phản ứng rất tốt đẹp.
Nay chúng ta tiếp nhận giáo huấn từ kinh giáo của
Phật, Bồ Tát, bèn dấy lên phản ứng, dấy lên
ư nguyện rất muốn y giáo phụng hành, rất mong thành
tựu ngay trong một đời này. Đấy là trong A Lại
Da từ đời quá khứ đă có chủng tử tập
khí này, giống như nước phản ứng bằng mô
thức kết tinh rất đẹp đẽ, gặp gỡ
thiện duyên mà! Gặp một ác duyên, [chẳng hạn như] giết,
trộm, dâm, dối, trong tâm chúng ta cũng bị nó (ác duyên ấy)
lay động, cũng sẽ thuận theo nó làm chuyện xấu
xa, đấy là như thường nói: “Gần son th́ đỏ, gần mực th́ đen”.
Chư Phật, Bồ Tát dấy khởi cảm ứng
đạo giao cùng chúng sanh trong mười pháp giới, v́
sao? Có thể từ chỗ này mà thấu hiểu. Đấy
chính là giáo dục, giúp cho một cá nhân quay đầu là bờ.
Thiện chủng tử được huân
tu từ vô lượng kiếp đến nay trong A Lại
Da Thức; đấy là nhân. Phật, Bồ Tát trông thấy kẻ đó có cái nhân ấy, cái
nhân ấy là cảm, Phật, Bồ Tát đến
giúp đỡ, thúc đẩy kẻ ấy; đó là duyên. Do vậy, giáo huấn của Phật, Bồ Tát là duyên. Gặp
gỡ duyên ấy, thiện căn của kẻ đó dấy lên hiện hành, sẽ có thể nâng cao cảnh giới của
chính ḿnh. Nói cách khác, nay chúng ta thuộc địa vị phàm
phu, chuyện quan trọng nhất là làm thế
nào để nâng cao chính ḿnh, những chuyện khác là chuyện
nhỏ nhặt, chẳng đáng nhắc tới. Chúng toàn là
giả, quư vị làm những chuyện
ấy để làm ǵ? Tăng tấn cảnh
giới của chính ḿnh, đấy là chuyện to lớn.
Hôm qua, có một đồng tu tại Thâm Quyến văng sanh, văng
sanh vào lúc hơn bốn giờ chiều. Trước khi văng
sanh, ông ta nói muốn đến Hương Cảng gặp
tôi. Chiều hôm qua, khi chúng tôi bắt đầu giảng kinh th́ ông
ta ra đi, biết trước lúc mất, hết sức khó
có. Đấy là có thiện căn, thiện căn đă chín
muồi. Năm xưa, nghe tôi giảng kinh, nghe tôi nhắc đến
những người niệm Phật trong Văng Sanh Truyện,
đại khái là từ ba năm đến năm năm bèn
thành công, bèn ra đi, biết trước lúc mất, qua đời.
Dẫu c̣n có thọ mạng, chẳng cần đến. Người
đă thành công mà không ra đi th́ chỉ có một điều
kiện: Người ấy c̣n có duyên với thế gian này,
vẫn chưa thể ra đi. Đấy là ǵ? Phải mang
thêm mấy người theo đi, phải giúp đỡ mấy
người ấy văng sanh. Trừ chuyện này ra, chẳng
có chuyện thứ hai nào khác! Nếu chẳng có duyên với thế
gian này, chẳng có ai nghe theo vị ấy, chẳng có ai tiếp
nhận giáo huấn của vị ấy, vị ấy bèn
ra đi. Vị đồng tu này chỉ ba mươi tám tuổi,
biết trước lúc mất; ông ta tu thành công như thế
nào? Cư sĩ Hướng Tiểu Lỵ làm hộ pháp cho
ông ta, ông ta muốn bế quan ba năm. Cư sĩ Hướng
Tiểu Lỵ hộ tŕ ông ta. Suốt ba năm niệm một
câu Nam-mô A Di Đà Phật, đúng là “niệm
mệt mỏi bèn nghỉ ngơi, nghỉ khỏe khoắn
rồi bèn niệm tiếp”, chẳng có ư niệm chi khác. Suốt ba năm chẳng
nói một câu nào, điều này rất trọng yếu, bí
quyết thành công ở ngay chỗ này. Đấy là ǵ? Buông
xuống muôn duyên, đắc Niệm Phật tam-muội.
[Ông ta] ra đi hôm qua, c̣n kém hai tháng mới tṛn
ba năm, hai năm mười tháng đă thành công. Quư vị
thấy đó, văng sanh dễ dàng như thế đó, tức
là đơn giản như thế đó! Vấn đề
là quư vị có chịu thật sự hành hay không? Sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới, thấy A Di
Đà Phật, thưa cùng chư vị, chính là “đắc vô ngại nhăn”, thấy
hết thảy chúng sanh trong trọn khắp pháp giới, hư không
giới chẳng có một ai không phải là Phật, hết
thảy chúng sanh vốn sẵn thành Phật. Những ǵ
kinh Hoa Nghiêm đă dạy, người ấy đều thấy.
A! Nay đă hết thời gian rồi, bài kệ này nói tới
đây.
***
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem bài kệ thứ ba tiếp
theo:
(Kinh)
Đế quán Phật thời, đương nguyện
chúng sanh, giai như Phổ Hiền, đoan chánh nghiêm hảo.
(經)諦觀佛時。當願眾生。皆如普賢。端正嚴好。
(Kinh: Lúc quán kỹ Phật, nguyện
cho chúng sanh, đều như Phổ Hiền, đoan chánh,
nghiêm hảo).
“Đế quán”
(諦觀) nói theo
kiểu hiện thời là chú tâm nh́n, nh́n cẩn thận, nh́n
cung kính, thật thà mà nh́n; đó gọi là Đế Quán, tức
nh́n Phật. Vào thời cổ, tạc tượng Phật
bèn chú trọng sự biểu thị pháp. Trong kinh Phật, có một bộ kinh mang tựa đề là Tạo Tượng
Lượng Độ Kinh (造像量度經). Đức
Phật dạy tạo h́nh tượng th́ phải tạo
theo cách nào, tỷ lệ giữa các bộ vị trên thân tướng
phải tương xứng, cũng chính là như kinh thường
nói “ba mươi hai tướng,
tám mươi thứ hảo”. Nếu có thể nêu bày ra,
nh́n cẩn thận, sẽ đều có thể thấy được
ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo.
Mỗi tướng hảo đều biểu thị phước
báo nơi trí huệ, đương nhiên là trí huệ và phước
báo là quả, quả th́ ắt phải có nhân. Khiến cho chúng
ta trông thấy quả, bèn nghĩ đến Phật, Bồ
Tát thuở tại thế đă tu nhân như thế nào th́ mới
có thể thành tựu tướng hảo thù thắng dường
ấy, đă ban cho bọn hậu học chúng ta một sự
khơi gợi, dấy khởi rất lớn, có ư nghĩa giáo dục rất
trọng yếu. Đấy là ư nghĩa thứ hai của
việc thờ phụng tượng Phật, “kiến hiền tư tề” (見賢思齊, thấy người hiền, mong được bằng).
Trong phần trước, ư nghĩa thứ
nhất [của việc thờ phụng tượng Phật]
là ư nghĩa báo ân. Đó gọi là “báo bổn phản thỉ” (報本反始, báo đáp
cội nguồn, truy ngược về sự khởi đầu),
chúng ta phải kỷ niệm thầy. Ư nghĩa thứ hai
là thấy h́nh tượng của thầy, sẽ học tập thầy,
bắt chước thầy. Đấy chẳng phải là
lạy lục ngẫu tượng, chẳng phải là mê tín,
đấy là giáo dục. Chư vị suy ngẫm [sẽ thấy]
hai loại giáo dục này
trọng yếu dường ấy, có nhiều ư nghĩa ngần ấy, làm sao có thể
nói nó là mê tín cho được? Sự hiểu lầm ấy
đúng là hiểu lầm đến nỗi phải kêu rầm
trời. Lấy ngay quốc gia, xă hội trong hiện thời
[để bàn thảo], chúng ta đến bất cứ một
quốc gia nào, những nơi chốn công cộng, nhất
là cơ quan của chánh phủ, quư vị sẽ đều
trông thấy họ treo h́nh ảnh Tổng Thống, Phó Tổng
Thống, quốc kỳ, quốc huy. Chúng ta phải hỏi,
đấy có phải là mê tín hay không? Đấy có phải
là lạy ngẫu tượng hay không? V́ sao chúng ta tạo tượng
Phật lại biến thành ngẫu tượng, c̣n những
tượng do quư vị đắp, tạc đều chẳng
gọi là ngẫu tượng, đều chẳng
thể gọi là mê tín?
Tượng Phật có ư nghĩa càng sâu, càng
rộng hơn những h́nh tượng ấy. Ba
mươi hai tướng [hiểu theo ư nghĩa] đơn
giản nhất, rơ rệt nhất, chính là ba mươi hai
loại thiện nhân và thiện quả. Hễ trông thấy,
[những tướng ấy] nhắc nhở quư vị phải
tu thiện nhân th́ mới có thể đắc thiện quả.
Thiện phải là chân thiện, sau đấy mới kèm thêm
các món hảo, được gọi là “tướng hảo”, [thành ra] ba mươi hai tướng,
tám mươi thứ hảo. Tướng hảo thật sự
của đức Phật chúng ta tạo không nổi, giống
như trong kinh Hoa Nghiêm nói đến Tỳ Lô Giá Na Phật, đấy
là Báo Thân Phật: “Thân có vô
lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng
hảo”. Chỉ nói đơn độc về tướng
hảo, chúng ta đă chẳng thể lănh hội được! Chúng ta chỉ có
thể trông thấy “cành thô, lá
to”, chứ những tướng hảo cực kỳ vi
tế, chúng ta chẳng có cách nào cảm nhận được.
Đấy là lư do v́ sao bảo quư vị hăy “đế quán”, trong “đế
quán” c̣n có ư nghĩa này.
Điều trọng yếu nhất trong đế
quán là quán tưởng, nghĩ đến trí huệ, đạo
đức, từ bi, công đức của đức Phật,
vô tư, vô ngă, thanh tịnh, b́nh đẳng. Giáo hóa chúng sanh,
đáng nên dùng thân ǵ để dạy, Ngài bèn hiện thân ấy.
Tùy theo tŕnh độ và căn tánh của chúng sanh mà ứng
cơ thí giáo (ban bố giáo pháp
tương ứng với căn cơ), chẳng có pháp nhất định; cho nên mới có
thể phổ độ chúng sanh. Nếu có pháp nhất
định, sẽ chẳng thể phổ độ, v́ sao?
Pháp nhất định th́ quư vị chỉ có thể thích hợp
với [những đối
tượng phù hợp] tiêu chuẩn
giáo học của quư vị. Chẳng thích hợp th́ sẽ
chẳng có cách nào hết! Đức Phật chẳng có tiêu
chuẩn dạy học, chẳng có pháp nhất định;
v́ thế, đối với mỗi chúng sanh trong mười
pháp giới, Ngài đều có thể dạy, chẳng bỏ sót một
ai, đúng như trong Phật môn đă nói: “Trong cửa nhà Phật, chẳng bỏ một ai”.
Đấy mới là b́nh đẳng từ bi thật sự.
Kẻ chẳng có thiện căn, đức Phật giúp đỡ
người ấy gieo thiện căn. Người đă có
thiện căn, đức Phật giúp người ấy tăng
trưởng. Người thiện căn chín muồi, đức
Phật giúp người ấy thành tựu. Từ đầu
tới cuối kinh Hoa Nghiêm, ư nghĩa này hết sức rơ rệt,
từ trong mỗi ḍng chữ, quư vị đều có thể
lănh hội tinh thần giáo hóa chúng sanh của đức Phật
khi Ngài tại thế.
Khi “đế
quán” Phật, dẫn phát đại nguyện là nguyện
cho hết thảy chúng sanh, “giai
như Phổ Hiền, đoan chánh nghiêm hảo” (đều
như Phổ Hiền, đoan chánh, trang nghiêm, tốt đẹp). “Nghiêm” (嚴) là trang nghiêm, nay chúng ta nói là “đẹp đẽ”,
chẳng có mảy may khuyết hăm. V́ sao phải nêu ra Phổ
Hiền? Quán Âm Bồ Tát chẳng phải là rất tốt ư?
Văn Thù Bồ Tát chẳng phải là tốt lắm ư?
V́ sao chỉ nêu một ḿnh Phổ Hiền? Nếu nói đến
“đoan chánh nghiêm hảo” th́
có thể nói là tất cả các vị Bồ Tát thảy
đều trọn đủ đoan
chánh nghiêm hảo. Vậy th́ nêu lên Phổ Hiền nhằm
biểu thị ư nghĩa ǵ? Phổ Hiền biểu thị
thật sự hành! Giáo pháp Đại Thừa của đức
Thế Tôn được truyền đến Trung Hoa, điểm
chủ yếu nhất trong giáo pháp Đại Thừa là bốn
pháp môn, nói theo cách hiện thời là “bốn môn công khóa” do bốn vị Bồ Tát làm đại
biểu, phải nên biết điều này.
Vị thứ nhất là Địa Tạng Bồ
Tát, biểu thị hiếu thân, tôn sư (hiếu thảo với
cha mẹ, tôn kính thầy), dạy học phải bắt
đầu từ chỗ này. V́ thế, danh hiệu của
Ngài là Địa Tạng. Địa (Kṣiti, 地) là ǵ? Đại địa. Tạng (Garbha, 藏) là bảo tạng (寶藏, kho báu). Quư
vị thấy loài người chúng ta sống trong thế gian
này, con người sống
trong thế gian th́ cuộc
sống dựa vào ǵ? Dựa vào đại địa, dựa
vào bảo tạng trong đại địa chúng ta mới
có thể sanh tồn. Ngũ cốc, các loại lương
thực mà chúng ta ăn đều sanh trưởng trên đất, đấy
là Bảo. Những thứ chúng ta mặc, sử dụng đều
sanh ra từ đất. Ngoài thực vật c̣n có khoáng vật;
dưới đại địa có vô lượng khoáng vật,
cung cấp những nhu cầu sử dụng thường
nhật cho chúng ta. V́ thế, dùng [thánh hiệu] Địa Tạng.
Áp dụng ngược lại tỷ dụ
này vào chúng ta, Địa là tâm địa. Đức Phật
nói chân tâm của chúng ta vốn trọn đủ vô lượng trí huệ,
vô lượng đức năng. Vô lượng trí huệ
giống như quặng mỏ, trong đại địa
chứa đựng khá nhiều thứ kim loại quư trọng.
Vô lượng đức năng giống như sự vận
hành của đại địa, vô lượng tướng
hảo giống như núi, sông, cây cối, hoa cỏ, ngũ
cốc, các loại lương thực. Đó là
tướng hảo. Do vậy, danh từ Địa Tạng
là biểu thị pháp. Nếu chúng ta biết khai thác, gạn
lọc kho báu trong tâm địa, sẽ thọ dụng bất
tận! Trí huệ, đức năng và tướng hảo
của quư vị chẳng hai, chẳng khác chư Phật
Như Lai, quư vị có cần phải kinh doanh nữa hay chăng?
Chẳng cần! Người thế gian đạt được
phú quư chẳng dễ dàng, các vị hăy ngẫm xem, kinh Hoa
Nghiêm nói đến sự phú quư của Tỳ Lô Giá Na Phật,
kinh Vô Lượng Thọ nói đến sự phú quư của
A Di Đà Phật, có cần phải kinh doanh hay không? Chẳng
cần, tự nhiên! Quư vị thấy một ṭa cao ốc này
cần bao nhiêu người thiết kế, các thứ vật
liệu, các loại nhân công, thiếu một thứ đều
không được. Cung điện bảy báu trong thế
giới Cực Lạc
và thế giới Hoa Tạng chẳng
có ai thiết kế, mà cũng chẳng có người lo liệu
xây dựng, [toàn là] tự nhiên!
Đối với chuyện
ăn uống hằng ngày,
ba bữa cơm của chúng ta cần rất nhiều
người làm lụng trong bếp. Quư vị thấy thế
giới Cực Lạc, quư vị muốn ăn
cơm, ư niệm vừa mới chớm, cơm và thức ăn đă
bày sẵn trên bàn, thức ăn trăm vị! Món ăn trăm
vị: Xưa kia hoàng đế ăn uống, thức ăn trong mỗi bữa cơm đều là một trăm món đồ
ăn. Điển cố “bách vị
ẩm thực” do đây mà có. Bất luận hoàng đế
ăn hay không, đương nhiên mỗi bữa ăn nhất
định là một trăm món thức ăn. Do vậy, ngự
trù đương nhiên là những đầu bếp nổi
tiếng, một trăm món đồ ăn lại c̣n chẳng thể mỗi ngày đều giống
nhau. Mỗi ngày đều như nhau th́ không được,
người ta trông thấy chán ngán, phải thường
xuyên thay đổi. Trong thế giới Cực Lạc, nếu
quư vị muốn dùng bữa, có thể một trăm món là
tối thiểu. Đấy là thế giới Cực Lạc,
trong kinh Văng Sanh có nói vấn đề này. Nhưng lại
suy nghĩ, đă đến thế giới Cực Lạc,
tức là không c̣n trong mười pháp giới, chẳng cần
dùng [ẩm thực] nữa! Khi chẳng dùng nữa, nó sẽ
chẳng có. V́ thế, cũng chẳng cần dọn dẹp,
cũng chẳng phải rửa chén, rửa đũa, chẳng
cần! Tự nhiên chẳng có. Nghĩ đến áo được
áo, nghĩ đến ăn bèn có ăn, đúng là thuận
theo ḷng muốn, thật sự là “tâm tưởng sự thành”. V́ sao? Tánh Đức khởi
tác dụng, đó là “đắc
đại tự tại!”
Quư vị ở trong nhà cửa, nhà cửa trang nghiêm,
tinh xảo, đẹp đẽ, đáng gọi là cung
điện. Quư vị thích ở trên mặt đất, nhà quư
vị sẽ ở trên mặt đất. Quư vị thích ở
trên không trung, nhà ở liền thăng lên không trung. Mong nó thăng
lên cao hơn, nó sẽ cao hơn, ổn định, chẳng
lay động chút nào, chẳng chấn động mảy
may nào! Đấy là cảnh giới chẳng thể
nghĩ bàn, những thứ ấy hoàn toàn thuộc về quả
báo, đều thuộc về Tánh Đức. Dùng phương
pháp ǵ? Giống như ngũ cốc, các loại lương
thực trên đại địa đều phải gieo trồng
th́ mới có thu hoạch, phải khai thác những quặng
mỏ vàng, bạc, đồng, sắt dưới đất,
đă khai thác rồi c̣n phải nung luyện. Nếu không, quư
vị chẳng thể sử dụng được. Trong
tự tánh của chúng ta có vô lượng của báu, tức
là trí huệ, đức năng, và tướng hảo, dùng
phương pháp ǵ để khai thác? Địa Tạng Bồ
Tát dạy chúng ta “hiếu thân, tôn sư”. Do vậy, kinh Địa Tạng là
Hiếu Kinh của Phật môn. [Hiếu thân, tôn sư] là
hai công cụ trọng yếu để khai thác Tánh Đức mà ai nấy đều có, bản thân quư vị phải
biết dùng th́ mới có thể khai thác kho báu trong tự tánh.
Quư vị xem kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật,
đức Phật giảng cho phu nhân Vy Đề Hy nghe. Nói
thật ra, phu nhân Vy Đề Hy cũng là Bồ Tát tái lai,
dùng thân phận hoàng hậu để hóa độ chúng sanh.
Bà hỏi thay cho chúng ta, đức Phật giải đáp
cho bà ta, chính là nói với mọi người. Đấy là
một hỏi, một đáp. Học Phật th́ bắt đầu
học từ chỗ nào? “Hiếu
dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng,
từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp”,
học từ chỗ này. Chư vị hăy ngẫm xem, bốn
câu ấy có phải là Địa Tạng Bồ Tát Bổn
Nguyện Kinh hay không? Do vậy, trong giáo pháp Đại Thừa,
đây là một môn học đầu tiên, là môn công khóa tu học
thứ nhất, hiếu thân tôn sư. Nếu chẳng có môn
học này, quư vị học những thứ khác sẽ hoàn
toàn xôi hỏng bỏng không, giống như xây nhà, đây là
tầng thứ nhất.
Hiếu thân tôn sư lại tiến cao hơn,
sẽ do Quán Thế Âm Bồ Tát làm đại biểu. Ngài đại
biểu điều ǵ? Đại từ, đại bi, giáo
dục từ bi, tức là khuếch trương hiếu
thân tôn sư, nói thật ra là hai chữ Hiếu Kính. Hiếu
kính được mở rộng, hiếu kính hết thảy
chúng sanh trọn khắp pháp giới, hư không
giới. Đấy là môn học thứ hai. Bồ Tát Giới
Kinh bảo, “hết thảy
người nam là cha ta, hết thảy người nữ
là mẹ ta”. Lại nói “hết
thảy chúng sanh đều là vị lai Phật”. Đối
với Phật phải kính, đối với cha mẹ phải
hiếu. Quán Âm Bồ Tát làm được, mở rộng
ḷng hiếu kính đến hết thảy chúng sanh trong khắp
pháp giới, hư không giới, giáo dục ḷng yêu thương: “Ái tâm khắp pháp giới, thiện
ư ngập Sa Bà”, Quán Thế Âm Bồ Tát làm đại biểu.
Sau đấy, quư vị mới hiểu Quán Thế Âm đại
từ đại bi cứu khổ cứu nạn, dùng ǵ để
cứu khổ cứu nạn? Dùng đại hiếu, dùng
đại kính, hiếu kính sẽ có thể cứu khổ cứu nạn.
Hiện thời, thế giới này có quá nhiều tai nạn,
lắm xung đột, làm thế nào để hóa giải xung
đột? Làm thế nào để khôi phục ḥa b́nh trong thế
giới này? Quán Âm Bồ Tát thật sự hữu hiệu.
Ai nấy có thể hiếu thảo với cha mẹ, phát
huy rạng rỡ ḷng hiếu thảo với cha mẹ, ai nấy
có thể kính trọng thầy, phát huy rạng rỡ ḷng kính
yêu, sẽ chẳng có xung đột, chẳng có tai nạn,
xă hội an định, thế giới sẽ ḥa b́nh. Chẳng
có ai biết. V́ thế, trông thấy h́nh tượng Địa
Tạng Bồ Tát, lập tức phải nghĩ đến
hiếu thân tôn sư, trông thấy h́nh tượng Quán Thế
Âm Bồ Tát, sẽ nghĩ đối với hết thảy
chúng sanh trong khắp pháp giới, hư không giới đều
phải nên hiếu, phải nên kính.
Môn học thứ ba do Văn Thù làm đại
biểu. Văn Thù đại biểu trí huệ, đại
biểu lư trí. V́ sao? Nếu có cảm t́nh xen vào th́ hiếu kính
sẽ chẳng viên măn. Cảm t́nh sẽ nẩy sanh lệch
lạc, nẩy sanh ḷng yêu thương thiên vị, sẽ chẳng
đạt được công bằng. Do vậy, phải nên
làm như thế nào? Phải nên có lư trí,
phải dùng trí huệ, đừng nên dùng cảm t́nh, phải
dùng sự thanh tịnh, đừng dùng sự nhiễm
ô, phải dùng ḷng b́nh đẳng, đừng nên dùng tâm cao
hạ. Đấy là điều được biểu thị
bởi Văn Thù Bồ Tát, như vậy th́ sẽ giống
như Phật.
Thứ tư là Phổ Hiền. Phổ Hiền
đại biểu ǵ? Phổ Hiền đại biểu thực
tiễn, tức là thực hiện. Thực hiện hiếu
kính, từ bi, trí huệ trong cuộc sống của chính
ḿnh, thực hiện trong khởi tâm động niệm, trong
cuộc sống hằng ngày, trong công việc, trong cách đăi
người, tiếp vật của chính ḿnh. Phổ Hiền là thực
hiện, nay chúng ta nói là “thật sự làm”. Ngài điều
ǵ cũng đều làm được. Do vậy, quư vị
bèn hiểu rơ ư nghĩa của “đế
quán Phật thời” (khi quán Phật cặn kẽ): Đối
với giáo huấn của Phật Đà, chúng ta phải thực
hiện một trăm phần trăm giống như Phổ
Hiền Bồ Tát. Chư vị phải biết, trong kinh Hoa
Nghiêm này, Hoa Nghiêm Tam Thánh gồm một vị Phật, hai vị
Bồ Tát, nhằm thể hiện sự
biểu thị pháp trong môn học này.
Phật là Tỳ Lô Giá Na, Tỳ Lô Giá Na (Vairocana) là tiếng
Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Biến Nhất
Thiết Xứ, có nghĩa là “không
lúc nào chẳng tồn tại, không nơi đâu chẳng tồn
tại”, đấy là ǵ? Pháp Tánh! Do vậy, Thích Ca Mâu Ni
Phật gọi Ngài (Tỳ Lô Giá Na) là Pháp Thân Phật. Có h́nh tướng hay không? Chẳng
có h́nh tướng, Pháp Thân Phật chẳng có h́nh tướng,
trọn khắp hết thảy mọi nơi. Khoa học
gia hiện thời nói về năng lượng, danh từ
khoa học là Trường, năng lượng và trường
chẳng có h́nh tướng.
Ngoài ra, hai vị Bồ Tát th́ một là Văn
Thù, hai là Phổ Hiền. Văn Thù biểu thị trí huệ,
Phổ Hiền biểu thị thực tiễn. “Phổ” (普, Samanta) có ư nghĩa
tương ứng với Tỳ Lô Giá Na. “Phổ” là phổ biến, cũng là “không đâu chẳng tồn tại,
không lúc nào chẳng tồn tại”. Trong phẩm tiếp
theo, chúng tôi sẽ nói đến Hiền (賢, Bhadra). Phẩm kế tiếp là phẩm
Hiền Thủ (賢首), sẽ giải thích tỉ mỉ chữ Hiền. Tự
tánh vốn sẵn đủ hiền đức. Chính ḿnh phải làm
đến mức như Phổ Hiền, sau đấy mới
nh́n lại, sẽ thấy hết thảy chúng sanh không ai chẳng phải
là Phổ Hiền, nó chứa đựng ư nghĩa sâu xa ngần
ấy! V́ thế, thấy Phổ Hiền Bồ Tát, chúng ta
sanh tâm hổ thẹn, v́ sao? Ngài làm được, v́ sao chúng
ta chẳng làm được? Hăy nên nỗ lực gắng
công đuổi kịp. Hiện thời, hăy từ chỗ cơ
sở nhất, Đệ Tử Quy chẳng làm được,
đấy là điều cơ sở nhất. Đối
diện Phổ Hiền Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát
đối với giáo huấn của chư Phật, đă
thực hiện viên măn từng ly từng tư. Bất luận
là bộ kinh, luật, luận nào, Ngài đều làm được
toàn bộ.
Đối với giáo huấn của Phật,
Phổ Hiền là thật sự học, chân thật học
tập, chẳng có câu nào nói suông! Thực hiện viên măn Đệ
Tử Quy, thực hiện viên măn Thập Thiện Nghiệp
Đạo, thực hiện viên măn Tam Quy, Ngũ Giới, thực hiện viên măn lục độ,
vạn hạnh, chẳng có ǵ Ngài không thực hiện viên
măn, làm được một trăm phần trăm. Đấy
gọi là Phổ Hiền. Người thế gian chẳng
thể sánh bằng Ngài. Người thế gian [biến giáo
huấn của đức Phật thành] học vấn, suốt
đời trước tác khá nhiều, nhưng hoàn toàn chẳng
làm được. Học rất nhiều, lư giải rất
nhiều, v́ người khác diễn nói cũng rất nhiều,
chính ḿnh chẳng làm được! Do vậy, Thiên Thai đại sư đă nói, theo truyền
thuyết, ngài Trí Giả (Thiên Thai đại sư) là Thích
Ca Mâu Ni Phật tái lai. Người Nhật Bản hết sức
sùng bái Ngài, người Đại Hàn cũng thế. Khi tôi
sang thăm Nhật Bản, [có nói với họ, theo] truyền
thuyết, Vĩnh Minh Diên Thọ là A Di Đà Phật tái lai,
Trí Giả đại sư là Thích Ca Mâu Ni Phật tái lai. Họ
nói họ biết, họ cũng có truyền thuyết ấy,
là truyền thuyết từ xưa, từ Trung Hoa truyền
sang Nhật Bản, truyền sang Hàn quốc.
Do vậy, v́ sao chư Phật, Bồ Tát giáo
hóa chúng sanh có thể sanh ra hiệu quả to lớn ngần
ấy? Một mực ảnh hưởng cho đến hiện
thời, ảnh hưởng đến toàn thể thế
giới. Chẳng có ǵ khác, các Ngài thảy đều làm
được rồi mới nói, mới dạy kẻ khác.
Các Ngài thật sự nêu gương tốt, nêu tấm gương
tốt nhất. V́ thế, kẻ khác chẳng thể không
khâm phục các Ngài, chẳng thể không bị ảnh
hưởng, đạo lư ở chỗ này. Đấy là thánh
nhân. Phàm những ǵ các Ngài đă nói, các Ngài đều có thể làm được, đấy là hiền nhân, kém hơn
một bậc! V́ sao kém một bậc? Thánh nhân th́ rất
nhiều vị làm được nhưng không nói, các vị
ấy viên măn; hiền nhân th́ nói xong các vị ấy có thể
thật sự thực hiện, có thể làm được,
chẳng nói th́ không tính. Nếu nói mà làm chẳng được,
đấy là phàm nhân, chẳng phải là thánh hiền. “Nói được mà chẳng làm
được” chẳng phải là không làm; nói rồi cũng
làm, nhưng chẳng làm viên măn! Chẳng hạn như nói “hiếu, đễ, trung, tín, lễ,
nghĩa, liêm, sỉ”, người đọc sách xưa
kia có làm hay không? Làm chứ! Nếu chúng ta coi một trăm
phần là trọn vẹn th́ những người ấy tối
đa chỉ có thể làm nổi mười phần, hai mươi
phần, chẳng đạt chuẩn để được
coi là hiền nhân, đạo lư ở chỗ này! V́ sao phàm
phu học theo thánh hiền mà chẳng học thành công? Chẳng
có cách nào thực hiện một trăm phần trăm! V́ sao chẳng
thể thực hiện? Chẳng buông xuống tập khí
phiền năo được, nguyên nhân thật sự là ở
chỗ này. Do vậy, quư vị chẳng thành thánh, mà cũng
chẳng thành hiền.
Trong Phật pháp, thánh là Phật, hiền là Bồ
Tát, quư vị thấy chúng ta ở đây nói tới các địa
vị thuộc về Thập Tín. Hàng Bồ Tát thuộc địa
vị Sơ Tín ắt phải buông xuống tám mươi
tám phẩm Kiến Hoặc thuộc tam giới th́ mới làm
được một chút, thật sự hành mà! Nhập cảnh
giới Phật là học tṛ lớp Một Tiểu Học,
vào học, thật sự nhập học để học
tập. Trong tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc, điều
đầu tiên là Thân Kiến, nói thật ra là như kinh Kim
Cang đă dạy: “Vô ngă tướng,
vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả
tướng”. Vị ấy làm được, đương
nhiên là làm chẳng viên măn, có thể làm được ba phần,
hoặc có thể làm đến năm phần bèn nhập môn.
Lũ b́nh phàm chúng ta chẳng làm được, một phần
cũng chẳng làm được! Sau đấy, Nhị Tín,
Tam Tín, đại khái là vị ấy đă làm viên măn, môn học
ấy bèn viên măn!
Sau khi đă viên măn, lại đoạn Tư
Hoặc. Tư Hoặc là ǵ? Tham, sân, si, mạn, nghi, cũng
là dần dần đoạn từng phần. Đạt đến
địa vị Thất Tín sẽ đoạn sạch, tức
là đă đoạn Kiến Tư phiền năo trong lục
đạo. Kiến Tư phiền năo là cái nhân luân hồi trong
lục đạo. V́ thế, Bồ Tát đạt đến
địa vị Thất Tín bèn vượt thoát lục
đạo, chẳng ở trong lục đạo. Chẳng
ở trong lục đạo th́ đến nơi đâu?
Trong Bồ Tát pháp giới thuộc tứ thánh pháp giới,
Ngài ở nơi đó lại đoạn Trần Sa phiền
năo. Trần Sa phiền năo đoạn hết th́ là Phật trong
mười pháp giới, tông Thiên Thai gọi [vị Phật
này] là địa vị Tương Tự Phật. Phật
đoạn ǵ? Phật đoạn phẩm vô minh cuối cùng.
Phá trừ phẩm vô minh cuối cùng ấy, Ngài ĺa khỏi
mười pháp giới, đến thế giới Hoa Tạng.
Thế giới Hoa Tạng là Nhất Chân pháp giới; khi ấy,
Ngài và Tỳ Lô Giá Na Phật dung nhập một thể.
Chúng ta chớ nên không hiểu rơ những giáo
huấn này. Chẳng hiểu rơ, quư vị sẽ chẳng biết
thực hiện từ nơi đâu, chẳng biết học
bằng cách nào! Sau khi đă hiểu rơ mới minh bạch, rành
rẽ, biết đi theo đường lối nào. Hiện
thời, chúng ta đă bắt đầu đi hay chưa? Bắt
đầu rồi, đi rất chậm răi. Đi theo phương
hướng và mục tiêu này; chẳng sai! Có đi lên đường [cao tốc] hay chưa? Chưa lên được! Giống
như chúng ta lái xe trên đường cao tốc, hiện
thời chúng ta đang ở trên con đường dẫn
vào đường cao tốc (ramp), chưa vào đến đường
cao tốc. Đường dẫn sẽ dẫn dắt quư
vị vào con đường cao tốc, nay chúng ta đang lái
trên đường dẫn. Khi nào sẽ lái xe trên đường
cao tốc? Lái xe trên đường cao tốc là hàng Bồ
Tát thuộc địa vị Sơ Tín, thật sự đoạn
Kiến Hoặc, thật sự buông xuống.
Thật sự buông xuống là chánh tri chánh kiến,
khi ấy c̣n chưa nói đến Tri. Đấy là chánh kiến,
tức là kiến giải chẳng có sai lầm. Phải đoạn
hết Tư Hoặc mới là chánh tri; đấy chính là chánh
tri chánh kiến. Đạt đến địa vị Thất
Tín chính là chánh tri chánh kiến; nhưng Sơ Tín là chánh kiến,
đạt đến Thất Tín sẽ là chánh tri, phải
hiểu điều này! V́ thế, A La Hán được gọi
là Chánh Giác; lại tiến cao hơn, Bồ Tát là Chánh Đẳng
Chánh Giác, đạt tới mục đích sẽ là Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác. Chúng tôi dùng đường cao tốc
để tỷ dụ cho chư vị dễ hiểu. Từ
chỗ nào đi lên đường cao tốc? Nay chúng ta c̣n
chưa t́m được, vẫn là đang t́m con đường
dẫn (ramp) ở chỗ nào. Hễ t́m được
đường dẫn, sẽ bảo đảm có thể
lên được [đường cao tốc].
Khi nào sẽ lên? Đă đoạn Kiến Hoặc, chẳng
c̣n chấp trước thân này là ta. Giải thích cặn kẽ
sẽ thuộc trong phần sau, tức là trong phẩm Hiền
Thủ chúng ta sẽ đọc thấy.
Do đó, kinh này càng đọc càng có ư vị,
từng câu từng chữ đều liên quan hết sức
to lớn với chúng ta. Một bộ kinh Hoa Nghiêm giảng
ǵ vậy? Nói về bản thân chúng ta, chẳng phải là
ai khác, chẳng phải là chuyện ngoài thân, mà là đại
sự thiết thân. Sau đấy, mới hiểu chúng ta đă
sai lầm ở chỗ nào, nhất định phải tu
chỉnh những lỗi lầm ấy th́ mới có thể
không ngừng nâng cao linh tánh của chính ḿnh. Tăng tấn cao
hơn, nguyên lư và nguyên tắc để tăng tấn chẳng
có ǵ khác, tức là phiền năo nhẹ nhàng, trí huệ tăng
trưởng. Trí huệ tăng trưởng là tăng tấn,
buông xuống phiền năo th́ quư vị sẽ có thể tăng
tấn cao hơn. Chẳng buông xuống phiền năo, sẽ
chẳng có cách nào tăng tấn cao hơn. Buông xuống là công
phu thật sự. Thấy thấu suốt là học vấn
thật sự. Thấy thấu suốt sẽ tăng tấn;
đă tăng tấn, vẫn phải buông xuống. Quư vị
chẳng buông xuống hết sạch! Hăy buông xuống toàn
bộ, ngay cả “buông xuống” cũng buông xuống luôn. Đấy
là Phật quả viên măn, là Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác. Bản thân quư vị có biết hay không? Biết chứ,
biết đường lối, từ Sơ Phát Tâm cho đến
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ở trên con đường
ấy. Tiến lên mỗi bước đều hiểu rành
rẽ, rơ ràng, chẳng cần phải hỏi ai khác! Quư vị
hỏi người khác, người ta chẳng đạt
tới cảnh giới của quư vị, họ làm sao biết
nổi!
Hỏi ai? Đọc kinh. Đương nhiên
thuận tiện nhất, đơn giản nhất là Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Kinh Hoa Nghiêm nói về
đường lối thành Phật. Từ Sơ Tín, nay chúng ta là hội thứ hai, hội thứ hai là hội Thập
Tín, hội thứ ba là hội Thập Trụ, hội thứ
tư là Thập Hạnh, hội thứ năm là Thập Hồi
Hướng, hội thứ sáu là Thập Địa, sau đấy
là Đẳng Giác và Diệu Giác, kinh Hoa Nghiêm nói về đường
lối thành Phật. Kinh Hoa Nghiêm dạy “phản bổn, quy chân” (trở về cội gốc,
quay về sự chân thật), đúng là phá mê khai ngộ,
chuyển mê thành giác, chuyển tà thành chánh, chuyển nhiễm
thành tịnh, thảy đều ở trong Hoa Nghiêm.
Vậy th́ nếu quư vị hỏi, có một
phương pháp đơn giản hay không? Rất nhiều
người nêu lên câu hỏi này, lúc tôi mới học Phật
đă nêu ra vấn đề này với Chương Gia đại
sư: “Có một phương pháp nào khiến cho con tiến
nhập rất nhanh chóng hay không?” Lăo nhân gia dạy tôi cũng
đúng là đơn giản, dễ hiểu: “Thấy thấu suốt, buông xuống,
anh sẽ khế nhập”. Thực hiện từ chỗ nào?
Điều này rất quan trọng, thầy dạy tôi bố
thí. V́ thế, trong sáu môn Công Khóa của Bồ Tát, đứng
đầu trong Lục Ba La Mật là Bố Thí, năm món
sau đó vẫn là Bố Thí! Trong Bố Thí có Tài Bố Thí,
Pháp Bố Thí và Vô Úy Bố Thí. Tŕ Giới Ba La Mật và Nhẫn
Nhục Ba La Mật thuộc về Vô Úy Bố Thí. Tinh Tấn,
Thiền Định, và Bát Nhă thuộc Pháp Bố Thí. [Do đó,
Chương Gia đại sư] đáp bằng một câu “bố thí” bèn viên măn. Quư vị
chẳng buông xuống, sẽ không được! Phổ Hiền
Bồ Tát thị hiện triệt để buông xuống, chẳng
có ǵ không buông xuống; do vậy, Ngài thị hiện thứ
ǵ cũng đều viên măn, chẳng có thứ ǵ không viên
măn, đấy là Phổ Hiền. A! Nay đă hết thời
gian rồi!
Đại
Phương Quảng Phật
Hoa
Nghiêm Kinh
Phẩm
thứ mười một
Tịnh
Hạnh Phẩm
Phần 54 hết
[1]
Thận chung truy viễn (慎終追遠)
là một thành ngữ xuất phát từ một câu nói của
Tăng Tử được chép trong thiên Học Nhi của
bộ Luận Ngữ, có ư nghĩa là khi cha mẹ đă khuất, con cái sẽ chôn cất,
ma chay cẩn thận, cung kính. Đấy là “thận chung”. Đối với ân của tổ
tiên, ông bà, cha mẹ, con cháu
luôn tưởng nhớ, sống sao cho xứng đáng với
họ. Đấy là “truy viễn”.