Đại
Phương Quảng Phật
Hoa
Nghiêm Kinh
Phẩm
thứ mười một
Tịnh
Hạnh Phẩm
Phần 55
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp
sư Thích Tịnh Không
Địa điểm:
Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ
ngày mồng Bảy tháng Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh Tiến
Tập 1571
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười
một, đoạn thứ chín trong phần Kệ Tụng,
xem từ bài kệ thứ tư:
(Kinh) Kiến Phật tháp thời, đương nguyện
chúng sanh, tôn trọng như tháp, thọ thiên nhân cúng.
(經)見佛塔時。當願眾生。尊重如塔。受天人供。
(Kinh: Khi thấy Phật tháp, nguyện cho chúng sanh,
tôn trọng như tháp, được trời, người
cúng).
“Tháp” (塔) là một kiến trúc cao, rơ rệt. Vào thời cổ,
quá nửa là dùng để cất giữ xá-lợi; sau này,
tháp cũng trở thành một biểu tượng trong Phật
môn. Tại Trung Hoa, hai ngàn năm qua, đại đa số
chùa Phật đều có tháp, có những ṭa tháp được
xây cất rất cao, rất lớn, h́nh thành một thứ
giống như trong hiện tại
được gọi là “địa
tiêu” (地標, đặc điểm tiêu biểu của một vùng). Tháp đặt tại
đó, có một loại tác dụng dường như
để trấn tà, tránh tà. Từ xưa đến nay,
người phương Đông chú trọng Phong Thủy. Trong Phong Thủy, tháp
cũng dấy lên tác dụng nhất định. Chỗ có
tháp th́ nhất định có chùa Phật, tự viện am
đường nhất định có người tu hành.
Do vậy, Bồ Tát trông thấy tháp Phật, tự nhiên sẽ
xứng tánh, phát ra đại nguyện “đương nguyện chúng sanh, tôn trọng như
tháp, thọ thiên nhân cúng” (nguyện cho chúng sanh, tôn trọng
như tháp, nhận trời, người cúng), “cúng” (供) là cúng dường, [“thọ
thiên nhân cúng” là] tiếp nhận sự cúng dường của trời, người. Chúng ta phải hiểu
ư nghĩa biểu thị pháp trong
kinh giáo. Trong bài kệ này, quan trọng nhất là hai chữ
“tôn trọng” (尊重). Đặc
biệt là trong xă hội hiện tiền, điều thiếu
sót phổ biến là “tự
tôn, tự trọng”. Tự tôn tự trọng chắc chắn chẳng phải là tự đại cuồng vọng,
chẳng phải vậy! “Tôn”
(尊) là tôn nghiêm, “trọng”
(重) là trọng hậu. Người Hoa
thường nói là “trung hậu,
lăo thành”; đấy cũng là Tánh Đức, tương ứng
với tự tánh. Tự tánh vốn là tôn trọng.
Con người phải như thế nào th́
mới là tự tôn? Người đă tự tôn rồi sau
đó sẽ được kẻ khác tôn trọng. Chính ḿnh
chẳng biết tôn trọng chính ḿnh, ai sẽ tôn trọng quư
vị? Vậy th́ chúng ta phải nói: Như thế nào mới
là tôn trọng chính ḿnh? Trong kinh giáo, đức Phật đă
dạy chúng ta, hết thảy chúng sanh (ở đây là nói
đến hữu t́nh chúng sanh) đều có Phật Tánh, hễ
có Phật Tánh th́ sẽ đều làm Phật. Nói theo pháp thế
gian, con người tánh vốn lành, “nhân chi sơ, tánh bổn thiện” (con người
thoạt đầu tánh vốn lành). Do vậy, chúng ta thấu hiểu như thế nào là tự tôn tự trọng:
Trong cuộc sống hằng ngày, khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ, tạo tác có tương ứng với bổn
thiện hay không? Tương ứng với bổn thiện
th́ là tự tôn tự trọng. Ta tôn trọng Tánh Đức
của ta, ta tôn trọng bổn thiện của ta, người
như vậy sẽ chẳng có ác niệm. Trong Phật pháp, ta tôn
trọng Phật Tánh của ta, ta tôn trọng Tánh Đức
của ta, nói theo tổng cương lănh sẽ là
đại Bồ Đề tâm, nói theo cái nhân th́ là Bồ
Đề tâm, nói theo cái quả sẽ là đại Niết
Bàn.
Đối với Bồ Đề tâm, trong
các buổi giảng, chúng tôi đă nói rất rơ ràng: “Thể của Bồ Đề
tâm là chân thành”. Hai chữ Chân Thành rất khó hiểu. Nói
thật ra, để hiểu th́ chẳng dễ hiểu,
đương nhiên là rất khó giảng giải. Do rất
khó giảng giải, tự nhiên sẽ là rất khó hiểu.
Đấy là một cảnh giới mà người đă thật sự giác ngộ, thật sự thông đạt
sẽ hiểu rơ; bởi lẽ, nó là Thể. Cổ nhân chú
giải đă [từ ngữ này đă] chú giải rất
hay, nhưng nghĩa lư ấy quá sâu, xác thực là chẳng dễ
dàng lănh hội. Chân là ǵ? Ĺa khỏi hết thảy
hư vọng là Chân. Chân là chẳng giả. Thành sẽ chẳng
hư vọng. Hư t́nh giả ư tương phản với
Thành. Phản diện của Thành là hư t́nh giả ư; phản
diện của hư t́nh giả ư là chân thành. [Đối với
người] đă từng học Phật Học, hơi
khế nhập Phật pháp đôi chút, khi diễn tả [ư
nghĩa của Chân Thành] th́ khá dễ dàng. Nếu quư vị
sử dụng tám thức và năm mươi mốt Tâm Sở
th́ chẳng phải là chân thành, chẳng có Bồ Đề tâm. Nếu quư vị
có thể buông bỏ tám thức và năm mươi mốt
Tâm Sở, chẳng sử dụng chúng, đấy là chân thành, Tánh Đức liền hiện tiền. V́
sao? Tám thức và năm mươi mốt Tâm Sở là vọng
tâm. Vọng tâm chướng ngại chân tâm. Chân thành là chân
tâm, là tự tánh, bổn tánh, Chân Như của chúng ta.
“Minh tâm kiến tánh,
kiến tánh thành Phật”, khi nào kiến tánh? Buông xuống
tám thức và năm mươi mốt Tâm Sở, chẳng sử
dụng chúng. Những thứ ấy đem lại phiền
phức. Tám thức là ǵ? Tôi nghĩ các đồng tu thông
thường đều có thể tiếp nhận điều
này. Thức thứ tám được gọi là A Lại
Da, thức thứ bảy là Mạt Na, thức thứ sáu là
Ư Thức. Những thức trước đó là Nhăn Thức,
Nhĩ Thức, Tỵ Thức, Thiệt Thức, và Thân Thức,
[tương ứng với] mắt, tai, mũi lưỡi,
và thân, đấy gọi là “tiền
ngũ thức”, gộp chung lại [với ba thức đă nêu trong
đoạn trước] sẽ thành tám món, trong Duy Thức
gọi là Tám Tâm Vương. Đấy chẳng phải là
chân tâm, mà là vọng tâm. Dịch theo ư nghĩa th́ A Lại Da là Tạng
Thức, Tạng (藏) là “bao
hàm”. Nói theo kiểu hiện thời, [A Lại
Da Thức] giống như cái kho, hoặc pḥng hồ sơ.
Quư vị thấy đó, chúng ta thấy sắc, nghe tiếng
đều có một ấn tượng. Ấn tượng ấy
được chứa đựng
trong A Lại Da Thức; v́ thế, A Lại Da Thức giống
như cái kho. Chúng ta mới gặp một người lần
đầu, gặp mặt người ấy bèn có ấn
tượng, lần thứ hai gặp mặt, vẫn
nhận biết người ấy. V́ sao nhận biết?
V́ trong A Lại Da Thức của quư vị đă cất giữ
hồ sơ trong đó, nay lại trông thấy, lập tức
lôi hồ sơ ấy ra, vừa đối chiếu bèn thấy
chẳng sai, đúng là người ấy, nhận biết
như thế đó!
Trong A Lại Da Thức chứa đựng vô
lượng vô biên hồ sơ; v́ sao có nhiều đến
thế? Đời đời kiếp kiếp, [tức là] đời
đời kiếp kiếp từ vô lượng kiếp đến
nay, thảy đều tàng trữ trong ấy, chẳng sót một
điều ǵ. Hễ gặp duyên, nó liền dấy lên hiện
hành, liền khởi tác dụng; đấy là chủng tử.
Trong A Lại Da Thức chứa đựng chủng tử;
v́ thế, A Lại Da c̣n gọi là Chủng Tử Thức.
Thức thứ bảy tức Mạt Na là chấp trước,
thức thứ sáu tức Ư Thức là phân biệt, năm thức
trước khởi tác dụng, mắt thấy sắc, tai
nghe tiếng. Năm thức trước, mắt chỉ là
trông thấy, chỉ thấy sắc, có phân biệt hay không?
Chẳng có, mà cũng chẳng có chấp trước,
chư vị phải hiểu điều này! A Lại Da
cũng chẳng có phân biệt, mà cũng chẳng có chấp
trước, nó chỉ cất chứa ấn tượng.
Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, cho đến ư, lại
c̣n có ư thức. Ư thức là niệm, dấy lên một niệm
cũng giữ lại ấn tượng. V́ thế, trong cái
kho A Lại Da này có quá nhiều chủng tử. Đức Phật
dạy chúng ta, đối với mỗi chúng sanh, chủng
tử của mười pháp giới thảy đều
có. Trong A Lại Da Thức của chính quư vị có chủng
tử Phật, có chủng tử Bồ Tát, có chủng tử
của Thanh Văn và Duyên Giác, có chủng tử của
chư thiên. Có [chủng tử của] người, tu-la,
địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chủng tử
ǵ cũng đều có.
Chủng tử dấy lên hiện hành cần
đến duyên, chủng tử là nhân. Nhân duyên đầy
đủ mới sanh ra quả. Ví như trong đời
này, chúng ta được làm thân người, sanh đến
thế giới này. Đến như thế nào? Chính là v́
trong A Lại Da có chủng tử người. Chủng tử
người là ǵ? Trong đời quá khứ, đă từng
tu Ngũ Giới, Thập Thiện, tu khá lắm. Ngũ Giới
và Thập Thiện là chủng tử của loài người. Nếu là Thượng Phẩm Thập Thiện, c̣n thêm Tứ
Vô Lượng Tâm, tức là từ, bi, hỷ, xả; đấy
là chủng tử của thiên đạo. Nói thật thà, chủng
tử cũng là b́nh đẳng, hết thảy chúng sanh thảy
đều có, c̣n như quư vị vào đường nào là
do gặp duyên [của đường đó], cũng có
nghĩa là chủng tử gặp được những
điều kiện khiến cho nó có thể đơm bông kết
quả. Ví như chủng tử (hạt giống) của thực
vật, thực vật muốn có thể khai hoa kết quả
th́ nhất định phải có đất tốt, hết
sức thích ứng với nó. Đă có loại đất ấy, lại
c̣n có nước, có phân bón, có ánh sáng mặt trời, có không
khí, những thứ ấy đều trọn đủ, nó
sẽ tăng trưởng rất tốt đẹp.
Do vậy, đức Phật bảo chúng ta,
đây là nói đại lược, chẳng thể nói cặn
kẽ. Nói cặn kẽ th́ nhân duyên là vô lượng. Quy nạp
vô lượng nhân duyên thành bốn loại lớn:
1) Thân nhân duyên (親因緣): Thân nhân duyên chính là những chủng tử nghiệp
tập được chứa đựng trong A Lại Da
Thức.
2) Sở duyên duyên (所緣緣): Cái duyên này cũng trọn đủ. Sở duyên
duyên chính là bản thân chủng tử đă có trọn đủ quả báo.
3) Vô gián duyên (無間緣): Năng lượng ấy hoặc năng
lực ấy sẽ vĩnh viễn chẳng tiêu mất.
Như vậy là đối với bốn loại
duyên của chủng tử, chính bản thân chủng tử
đă hội đủ ba điều kiện ấy, nó
đều có trọn đủ. Như thế nào th́ nó mới
có thể dấy lên hiện hành? Cần đến tăng
thượng duyên!
4) Tăng thượng duyên (增上緣) là hoàn cảnh bên ngoài. Ví như quư vị có chủng
tử trong nhân đạo, xác thực là đă trọn đủ
điều kiện ấy, nhưng điều đầu
tiên là quư vị phải có cha mẹ. Cha mẹ là tăng
thượng duyên của quư vị. Linh tánh của quư vị
gặp được cái duyên là cha mẹ, nó sẽ vào trong
thai. Ở trong thai là duyên. Ở trong thai hấp thụ
dưỡng chất, dần dần từng bước
trưởng thành, mười tháng bèn lọt ḷng. Sau khi
đă sanh ra, cha mẹ chăm sóc, nuôi nấng quư vị. Những
điều này đều là duyên, chẳng thể gián đoạn
giữa chừng. Hễ gián đoạn giữa chừng,
quư vị sẽ chẳng sống nổi! Cha mẹ có tâm yêu
thương, hy vọng quư vị
khôn lớn, kết hợp với cái duyên của
chính quư vị, quư vị bèn được làm người,
từ từ trưởng thành.
Phật pháp đă nói những đạo lư và chân tướng
sự thật này rất thấu triệt. Thuở ấy,
chẳng có khoa học kỹ thuật ǵ, mà cũng chẳng
có những phát minh máy móc! Quư vị thấy trong kinh điển,
Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói loài người mang thai, cứ
bảy ngày biến hóa một lần. Những lời Ngài dạy
xác thực đă vượt trỗi y học hiện đại.
V́ sao đức Phật có thể nói rơ ràng ngần ấy?
Thiên Nhăn của đức Phật đă trông thấy rất
rơ ràng: Thai nhi ở trong thai mẹ, biến hóa từng ngày
như thế nào, Ngài đều trông thấy rất rơ rệt.
Đức Phật có thể thấy thấu suốt. Hiện
thời, [các nhà khoa học, bác sĩ] cần phải dựa
vào máy móc, đức Phật chẳng cần. Do vậy, nói
đến khoa học, v́ sao năng lực của đức
Phật vượt trỗi khoa học? Đức Phật
nói điều này chẳng phải là sở trường
chuyên biệt của Ngài, [mà là] trong tự tánh của hết
thảy chúng sanh vốn sẵn có loại năng lực
ấy. Vốn sẵn đầy đủ, quư vị chẳng
làm cho nó khôi phục, tức là quư vị chẳng tôn trọng
chính ḿnh. Vốn sẵn đầy đủ, cớ sao hiện
thời chẳng có? Đức Phật đă nói rất rơ
ràng: V́ quư vị dấy lên chướng ngại khiến
cho trí huệ và đức năng vốn sẵn có bị chướng
ngại. Dấy lên chướng ngại ǵ vậy? Vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước! V́ thế,
năng lực của quư vị bị mất đi.
Các nhà khoa học hiện thời phát hiện
đủ thứ; nói thật ra, những ǵ họ biết
về chân tướng của vũ trụ chỉ là một,
hai phần trăm mà thôi, cũng là rất khá rồi. Đối
với chân tướng sự thật, toàn là đang sờ
sẫm, suy đoán chân tướng, ai cũng đều chẳng
có năng lực trông thấy. V́ sao? Họ có vọng tưởng,
có phân biệt, có chấp trước, vậy là khó lắm!
V́ sao chư Phật, Bồ Tát có thể trông thấy? Các
Ngài chẳng cần phải nghiên cứu, v́ đă đích
thân trông thấy, tức là khử sạch, buông bỏ
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Buông xuống
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước th́ mới
là tôn trọng chính ḿnh. Hằng ngày quư vị vẫn c̣n khởi
tâm động niệm, có vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, [tức là] chẳng biết tôn trọng
chính ḿnh! Chúng ta đời đời kiếp kiếp luân hồi
trong lục đạo là do chẳng biết tôn trọng Tánh
Đức, chẳng biết tôn trọng tự tánh. Biến
trí huệ thành phiền năo, biến quả đức đại
Niết Bàn thành sanh tử, quư vị nói xem có oan uổng hay
không?
Trong giáo pháp Đại Thừa, trong kinh Hoa
Nghiêm, đức Phật đă dạy chúng ta, khi nào quư vị
có thể khẳng định, thật sự nhận biết
“sanh tử là Niết Bàn, phiền
năo là Bồ Đề”. Chúng tôi càng nói điều này càng
mơ hồ. Bồ Đề là đại giác, “không ǵ chẳng biết, không ǵ chẳng
thể”, đó là tướng của Tánh Đức, hiện
tướng của Tánh Đức. Khi mê, nó liền biến thành phiền
năo, khi đă ngộ th́ là Bồ Đề. Niết Bàn là cái quả
của Tánh Đức. Phật pháp chẳng ĺa nhân quả.
Cái quả ấy, ngộ th́ là đại Niết Bàn, mê là sanh
tử, nó là một, chẳng hai. Giống như nay chúng ta
nói, nếu quư vị thật sự tôn trọng Tánh Đức
của chính ḿnh, quư vị là Phật, là Pháp Thân Bồ Tát.
Quư vị chẳng tôn trọng Tánh Đức của chính
ḿnh, quư vị là lục đạo phàm phu. Đạo lư là
như thế đó.
V́ thế, “tôn trọng
như tháp”, tháp là cao, rơ rệt, [hay nói gọn là] “cao hiển”. Trời, người
kính ngưỡng; trời, người tự nhiên sẽ cúng
dường. Chúng ta rất dễ dàng lănh hội điều
này. Trong thế gian này, người thật sự có cống
hiến đối với xă hội, đối với
đại chúng, sẽ luôn được đại chúng
yêu mến, đại chúng tôn trọng, đồng thời
cũng sẽ có rất nhiều đại chúng cúng dường,
chính là do đạo lư này. Nếu quư vị thật sự
tôn trọng Tánh Đức, tuyệt diệu chi hơn? Chúng
ta mê mất đă lâu, đă mê mất Tánh Đức rất
lâu, khởi tâm động niệm giống như kinh Địa
Tạng đă dạy: “Không ǵ
chẳng phải là tội, không ǵ chẳng phải là nghiệp”.
Ngôn ngữ và tạo tác đều là tự lợi. Hễ tự lợi (mưu
lợi cho chính ḿnh), chắc
chắn sẽ tổn hại kẻ khác! Quư vị đừng
cho rằng: “Ta ích kỷ, nhưng ta chẳng tổn hại
người khác”, sai mất rồi! Ích kỷ sẽ tổn
hại người khác! Đặc biệt là học Phật,
người học Phật mà ích kỷ, “ta chẳng tổn
hại người khác”, chính quư vị hoàn toàn chẳng biết
chính ḿnh đă tổn hại người khác to lớn! Ta tổn
hại người khác ở chỗ nào? Sự ích kỷ của quư vị đă phá hoại h́nh tượng Phật giáo, khiến
cho khá nhiều người trông thấy [bèn nghĩ], “học
Phật là như thế đó, chẳng thể học Phật được!”
Tội này nặng lắm mà chính quư vị chẳng biết!
Trong một gia đ́nh, nếu chính quư vị
chẳng biết tôn trọng chính ḿnh, người khác trông thấy
hành vi của quư vị chẳng thích đáng, sẽ chửi
bới cha mẹ, chửi bới tổ tiên của quư vị,
có đúng như vậy hay chăng? Vậy th́ quư vị hăy
nghĩ xem, chúng ta là đệ tử đức Phật, ở
khắp mọi nơi đều phải làm rạng danh
đức Phật, phải giữ mặt mũi cho Phật,
Bồ Tát, vậy th́ ta phải làm cho tốt. Làm như thế
nào? Y giáo phụng hành, đấy là tôn trọng chính ḿnh, tôn
trọng giáo huấn của Phật, Bồ Tát, ta là học
tṛ ngoan của Phật, khiến cho đại chúng trong xă hội
nh́n vào, [sẽ cảm nhận] “học tṛ của đức
Phật khác hẳn, học tṛ đức Phật thật sự
đáng cho người khác tôn trọng”. Vậy là đức
Phật được rạng mày nở mặt. Tôi
nghĩ đạo lư này chẳng khó hiểu, hơi lắng
ḷng chú tâm suy nghĩ, quư vị sẽ đều có thể
hiểu rơ!
Phật là tâm ǵ, ta là cái tâm ǵ? Tâm niệm của Phật là niệm nào cũng đều nghĩ đến chúng
sanh khổ nạn, những chúng sanh nào khổ nạn?
Mười pháp giới khổ sở, lục đạo khổ
sở, tam đồ càng khổ hơn. Chính ḿnh chẳng biết,
Phật, Bồ Tát thấy rất rơ ràng. Chư Phật, Bồ
Tát niệm nào cũng đều giúp đỡ hết thảy
chúng sanh ĺa khổ được vui. Niềm vui ấy là
niềm vui ǵ vậy? Niềm vui Niết Bàn; tôi vừa mới
nói niềm vui Niết Bàn là quả. Như thế nào th́ mới
thể đạt được niềm vui Niết Bàn? Phải
phát Bồ Đề tâm. Bồ Đề tâm là nhân; đă có
nhân th́ sẽ có quả. Nay chúng ta là cái tâm ǵ? Tâm luân hồi. Những
ǵ là tâm luân hồi? Tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến. Chúng
ta tự hỏi chính ḿnh, có tâm tham hay chăng? Đối với
tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục
trần, quư vị có tham hay không? Lúc quư vị chẳng đạt
được, có sân khuể hay không? Quư vị có biết
tham, sân là sai lầm hay không? Chẳng biết tham, sân là sai lầm;
đấy là ngu si. Phật, Bồ Tát rát miệng, buốt
ḷng chỉ dạy quư vị, quư vị hoài nghi, chẳng tin
tưởng. Thật sự đến cứu quư vị, v́
quư vị dẹp khổ, ban vui, quư vị hoài nghi, chẳng
tin tưởng, chẳng tiếp nhận. Khởi tâm động
niệm toàn là trái nghịch Tánh Đức, sai lầm đặc
biệt to lớn! Đấy là tâm luân hồi, tâm luân hồi
đang làm chủ tể của quư vị. Do vậy, quư vị
khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác toàn
là nghiệp luân hồi. Tâm luân hồi tạo nghiệp luân
hồi, tâm Bồ Đề tạo nghiệp Bồ Đề.
Chính ḿnh luôn cảm thấy bản thân c̣n khá
lắm, luôn thấy khuyết điểm và lỗi lầm
của người khác, trước nay chưa hề thấy
lỗi lầm của chính ḿnh. Đấy là ǵ? Chẳng biết
tôn trọng Tánh Đức của chính ḿnh, chẳng biết
tôn trọng linh tánh chính ḿnh. Đấy là sự thua thiệt
to lớn, vô lượng kiếp đọa lạc trong lục
đạo luân hồi! Nếu quư vị liễu giải sự
thật này, Phật, Bồ Tát sẽ hỏi quư vị một
câu: “Chẳng phải là quư vị có lỗi với chính ḿnh
hay chăng? Chẳng phải là quư vị đă có lỗi với
tự tánh của chính ḿnh ư? Chẳng phải là quư vị
đă có lỗi với bổn thiện của chính ḿnh
ư?” Trong kinh điển, đức Phật đă nói những
lời ấy quá nhiều! Bồ Đề tâm khởi tác dụng,
ở đây chúng ta thấy, từ trong phẩm kinh này, chúng
ta thấy một trăm bốn mươi mốt nguyện
của Bồ Tát. Chỉ cần quư vị có Bồ Đề
tâm, khẳng định quư vị khởi tâm động niệm
chắc chắn sẽ tương ứng với phẩm Tịnh Hạnh.
Phẩm Tịnh Hạnh chỉ nêu những thí dụ tiêu biểu
mà thôi. Từ sáng đến tối, quư vị khởi tâm
động niệm, không chỉ là một trăm bốn
mươi mốt lần, mỗi niệm đều
tương ứng với Tánh Đức. Đấy mới
là tôn trọng chính ḿnh, mới là thật sự tự tôn tự
trọng.
Do vậy có thể biết, trong tiêu chuẩn
của Phật pháp, hạn
định thấp nhất của
tự tôn tự trọng là Bồ Đề tâm. “Chẳng phát
Bồ Đề tâm” th́ chẳng thể coi là “thật sự
tự tôn tự trọng”, tiêu chuẩn này cao lắm! Tiêu
chuẩn này giống như mục đích hy vọng đạt
tới khi chúng ta đi xa. Tuy chưa đạt tới
đích đến, nay chúng ta mong đến nơi đó,
chúng ta phải chọn lựa phương tiện giao thông
nào? Đi theo phương hướng nào? Đấy là ǵ?
Nhà Phật gọi đó là “tu
hành”, quư vị chọn lựa pháp môn nào? Pháp môn nhiều
lắm, tám vạn bốn ngàn. Tại Trung Hoa, để học
Phật th́ pháp môn có mười tông, trong mỗi tông c̣n có
phái. Kinh luận được sưu tập trong Đại
Tạng Kinh có hơn sáu ngàn bộ. Nương theo một bộ
kinh [để học tập, tu hành] đều được,
giống như chúng ta mong đạt tới đích đến,
phải t́m kiếm một công cụ, ngồi xe hay ngồi
thuyền? Xe có rất nhiều chiếc, chúng ta chọn một
cỗ xe; giống như từ trong Đại Tạng Kinh,
chọn ra một bộ kinh, chọn lựa một pháp môn.
Sau khi đă chọn lựa mục tiêu chánh
xác, phương hướng chánh xác, phải buông xuống
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, thâm
nhập một môn, huân tu lâu dài, sẽ đạt tới
đích đến, [tức là] đạt tới quả
đức Đại Niết Bàn. Chúng ta chọn lựa phương
hướng, chọn lựa mục tiêu, chọn lựa
công cụ, đấy cũng là tự tôn tự trọng. Nhưng
sự tự tôn tự trọng này chẳng phải là thật.
Thật và giả nói như thế nào? Thật là vĩnh viễn
bất biến, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển, đấy
là thật. Chúng ta chọn lựa một pháp chẳng
đáng trông cậy, nói không chừng, sau khi tu tập một
khoảng thời gian, sẽ không ưa thích pháp môn ấy,
[sẽ so đo] c̣n có những pháp hay hơn pháp ấy.
Người đó muốn thay đổi công cụ, xe lửa
không bằng xe hơi, [cho rằng cần phải] thay đổi
công cụ; hễ thay đổi th́ sẽ thoái chuyển, thậm
chí chôn vùi tín tâm, dường như là tu hành đă rất
lâu mà chẳng có hiệu quả, nghi t́nh ngày càng nặng
thêm, hễ hoài nghi, có thể thành tựu hay không? Hễ hoài
nghi, sẽ ngay lập tức thoái đọa, bỏ sạch
công lao trước kia!
Nhà Phật thường nói đến Tam Chuyển
Pháp Luân, đấy là nói đến ba loại phương
thức giáo học:
1) Nói theo phía người thượng căn, tức
là người thật sự thông minh, có trí huệ, thường
nói là “nhắc đôi chút
là đủ rồi”, dễ dạy! Hễ điểm
đến bèn chẳng có vấn đề ǵ, người ấy
tự ḿnh lên đường, tin tưởng, chiếu theo
lời chỉ dạy của quư vị để thâm nhập
một môn, huân tu lâu dài, người ấy thành công, thành
công rất dễ dàng! Loại thứ hai là kẻ trung
căn, kẻ trung căn chẳng có trí huệ như vậy.
2) Hạng trung căn nghi lự nhiều, vọng tưởng,
phân biệt nhiều, chúng ta thường nói là “nghiệp chướng nặng nề”.
Quư vị điểm đến không được! Kẻ
ấy chưa chắc đă làm. Ắt phải
rát miệng buốt ḷng khuyên bảo, khuyên lơn kẻ ấy,
dùng sự chân thành để cảm động kẻ ấy.
Kẻ ấy sẽ cảm thấy: Nếu ta chẳng
nghiêm túc tu tập, ta có lỗi với thầy. Nếu ta chẳng
nghiêm túc học đàng hoàng, ta có lỗi với cha mẹ.
Đấy là hạng trung căn, cho nên phải khuyên dạy.
3) Hạ căn khó lắm, quư vị khuyên họ, họ
cũng chẳng thể tiếp nhận, hạng này khó độ
nhất! Ắt phải khiến cho họ tự trông thấy, thấy
rơ “tạo ác nghiệp sẽ bị ác báo”, họ bèn tỉnh
giác: “Chuyện này chớ nên làm. Hễ làm sẽ có kết
quả như vậy. Làm việc thiện có thiện quả”.
Họ ắt phải đích thân trông thấy nhân quả báo
ứng th́ mới tin tưởng. Niệm Phật nhất
định phải là tự ḿnh trông thấy, người
niệm Phật ấy
thật sự văng sanh, kẻ đó
mới có thể tự phấn chấn: “Người
ấy làm được, ta phải nên làm thử xem, ta
cũng đáng nên làm được”. Đấy là phường
hạ căn.
V́ thế, đối với ba loại
căn tánh này, đức Phật bèn có ba cách nói khác nhau. Đối
với kẻ hạ căn bèn Tác Chứng Chuyển (作證轉), [tức
là] hiện thân thuyết pháp để chứng minh. Đức
Phật nói với các đệ tử: “Ta dạy
quư vị buông xuống chấp trước, đối với
pháp thế gian và xuất thế gian, hết thảy người,
hết thảy sự, hết thảy vật, chớ nên chấp
trước nữa, quư vị thấy ta đă buông xuống”. Đức
Phật thật sự buông xuống, buông xuống ích kỷ,
buông xuống tiếng tăm, lợi dưỡng, buông xuống
ngũ dục, lục trần, buông xuống tham, sân, si, mạn,
lăo nhân gia nêu gương cho chúng ta thấy. Kẻ hạ
căn trông thấy h́nh tượng đức Phật,
nh́n vào cuộc đời đức Phật, sẽ bị
đức Phật cảm vời. Đức Phật dạy
chúng ta từ bỏ tham, sân, si, Ngài đă làm được,
chẳng có tâm hâm mộ vinh hoa phú quư thế gian, mà cũng
chẳng dấy niệm [nghĩ tới]. Cuộc sống
giàu có, địa vị cao trỗi, ngay cả đế vương
Ngài cũng chẳng màng, thật sự buông xuống rất
triệt để. Tu hành trong một số tôn giáo có thể
sanh lên trời, nhưng cơi trời Ngài cũng chẳng cần, nêu gương
cho mọi người thấy. Sau khi đức Phật diệt
độ, càng tuyệt diệu là các đệ tử đức Phật
cũng làm giống như đức Phật, khiến cho mọi
người tâm phục, khẩu phục, thật sự làm
được!
Sự thị hiện cuối cùng là chẳng
ngă bệnh, tự tại rời khỏi thế gian này.
Chúng ta thấy Văng Sanh Truyện chép [các vị tu Tịnh
Độ thành tựu] đứng mất, ngồi mất, chẳng
sanh bệnh, biết trước lúc mất, biết ngày nào
sẽ ra đi, tuyên bố cùng mọi người, đến
khi đó, thật sự ra đi. Đấy đều là Tác
Chứng Chuyển để độ kẻ hạ căn. Kẻ hạ căn
trông thấy t́nh h́nh ấy, họ sẽ tỉnh ngộ. Kẻ
hạ hạ căn trông thấy những gương ấy,
vẫn chẳng giác ngộ; đấy là do cái duyên
chưa chín muồi! Duyên chưa chín muồi th́ trong Phật
môn thường nói: “Phật chẳng
độ kẻ không có duyên”. Phương tiện của
đức Phật chỉ có ngần ấy, thi thố hết
sạch rồi mà quư vị vẫn chẳng tin tưởng,
vẫn chẳng thể cảm động, vậy th́ chờ
đến đời sau, kiếp sau, chứ đời
này chẳng được! Nhưng quư vị đă thấy
những chuyện ấy, đă gieo thiện căn trong A Lại
Da. Quư vị trông thấy, nghe thấy, tiếp xúc, đức
Phật hiện thân thuyết pháp, làm ra những dáng vẻ ấy,
cho đến đối với các đệ tử nhà Phật
đă làm ra h́nh tượng ấy cho quư vị trông thấy,
[thế mà] quư vị vẫn chẳng thể đắc
độ, vẫn chẳng động tâm, khi ấy, chính
ḿnh phải nên biết [bản thân] nghiệp chướng
nặng nề dường ấy! Đời này chẳng
thể đắc độ, chắc chắn là phải tiếp
tục luân hồi trong lục đạo. Tiếp tục
luân hồi trong lục đạo, quư vị sẽ biết
tam đồ khổ sở, đặc biệt là nỗi khổ
trong địa ngục.
Đời Tống, pháp sư Oánh Kha thị
hiện văng sanh. Đây là một vị xuất gia phá giới,
chẳng giữ Thanh Quy. Ngài đă v́ chúng ta thị hiện,
tức là Ngài sợ nỗi khổ trong địa ngục,
[nhận biết] chính ḿnh nghiệp chướng tập khí
nặng nề ngần ấy, hằng ngày làm chuyện sai quấy.
Ngài hỏi đồng tham đạo hữu: “Kẻ giống
như tôi chắc chắn đọa địa ngục,
các vị có phương pháp ǵ để cứu tôi?” Các vị
đồng học vẫn khá lắm, cho Sư một quyển
Văng Sanh Truyện, bảo Sư hăy tự xem. Sau khi xem xong,
Sư hết sức cảm động, đóng chặt cửa
niệm Phật. Kinh Di Đà nói “nhược
nhất nhật” cho đến “nhược thất nhật”, Sư chẳng ngủ
nghê, chẳng ăn thứ ǵ, không uống nước, tức
là cứ một mạch [mà niệm], [chỉ có] một ư niệm cầu A Di Đà Phật.
Đó gọi là “hễ thành bèn
linh”, người chân thành đến tột bậc, suốt
ba ngày ba đêm niệm A Di Đà Phật hiện đến.
A Di Đà Phật hiện thân, bảo Sư: “Ông hăy c̣n có
mười năm tuổi thọ, chờ đến lúc ông
mạng chung, ta sẽ lại đến tiếp dẫn
ông, ông hăy khéo niệm mười năm”. Oánh Kha thưa:
“Không được ạ! Con căn tánh kém hèn quá nặng,
chẳng chống đỡ nổi dụ dỗ, mê hoặc.
Trong mười năm ấy, con sẽ phạm rất nhiều
tội lỗi, con chẳng cần thọ mạng, nay con
đi theo Ngài”. A Di Đà Phật nghe nói cũng đồng
ư, bảo Sư: “Được! Ba ngày sau ta sẽ đến
đón ông”. Thật vậy! Ba ngày sau, Phật đón Sư
văng sanh.
Những trường hợp như vậy
là ǵ? Toàn là Phật, Bồ Tát thị hiện Tác Chứng
Chuyển cho chúng ta, nhằm chứng minh. Sự chứng
minh ấy triều đại nào cũng đều có, hiện
thời cũng có. Chúng ta nghe, thấy, nếu có cái tâm cảnh
giác cao độ, như vậy là quư vị sẽ c̣n
được cứu. Nếu nghe xong mà trơ trơ chai lỳ, quư vị biết là quư vị hết cách cứu. A!
Nhất định phải hiểu ư nghĩa của hai chữ
Tôn Trọng này, nay đă hết thời gian rồi!
***
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem tiếp bài kệ thứ
năm tiếp theo:
(Kinh) Kính tâm quán tháp, đương
nguyện chúng sanh, chư thiên cập nhân, sở cộng chiêm
ngưỡng.
(經)敬心觀塔。當願眾生。諸天及人。所共瞻仰。
(Kinh: Tâm kính
nh́n tháp, nguyện cho chúng sanh, chư thiên và người,
cùng nhau chiêm ngưỡng).
“Tháp” là chỗ
cất giữ xá-lợi sau khi đức Phật diệt
độ; do đó, thấy tháp giống như thấy Phật.
Bất luận trong tháp ấy có xá-lợi của đức
Phật hay không, trong ấy, chắc chắn có tượng
Phật, chắc chắn có kinh điển, lại c̣n có
tăng sĩ giữ tháp. V́ thế, tuyệt đại đa
số là Tam Bảo đầy đủ. “Kính tâm quán tháp”: Dùng cái tâm chân thành, cung kính để
quán tháp, tự nhiên sẽ nghĩ đến Tam Bảo trọn
đủ, Phật, Pháp, Tăng. V́ thế, dẫn phát đại
nguyện là “chư thiên cập
nhân, sở cộng chiêm ngưỡng” (chư thiên và
người, cùng nhau chiêm ngưỡng). Tam Bảo là khuôn mẫu
tiêu biểu cho trời người, lẽ nào chẳng chiêm
ngưỡng? Mỗi khi gặp gỡ, trông thấy, đều
phải nên nghĩ tưởng: Từ tháp, quư vị sẽ
nghĩ “kiến lập Phật
pháp, giữ cho chánh pháp trụ thế lâu dài, nối tiếp
huệ mạng của Phật, phổ độ chúng sanh”,
ư niệm ấy sẽ tự nhiên sanh khởi. Nếu trong tháp ấy chẳng có Tam Bảo, cũng
chẳng có tượng Phật, mà cũng chẳng có kinh
điển, mà cũng chẳng có người xuất gia, chúng
ta trông thấy h́nh trạng của cái tháp ấy,
cũng tự nhiên nghĩ tháp trước đây có đủ
Tam Bảo, v́ sao hiện thời Tam Bảo chẳng trụ
thế? Vậy là chúng ta phải tự ḿnh phát tâm, phát tâm nối
tiếp huệ mạng của Phật, phát tâm phổ độ
chúng sanh, nguyện ấy bèn xứng tánh, tương ứng
với tự tánh.
Cổ thánh tiên hiền dạy chúng ta, “hành hữu bất đắc, phản
cầu chư kỷ” (có chuyện ǵ chẳng làm
được, hăy xét lại chính ḿnh). Chúng ta mong cầu
chánh pháp tồn tại lâu dài, chẳng thể hy vọng
người khác [sẽ thực hiện]. Hy vọng người
khác nhất định sẽ bị thất vọng, nhất
định phải hiểu đạo lư này! Vậy th́ cầu
ai? Nhất định phải cầu chính ḿnh. Cổ nhân đă
nói, người sống trên cơi đời có hai điều
khó khăn to lớn: [Một
là] lên trời khó lắm, [hai là] cầu
cạnh người khác sẽ khó khăn. Cầu người
khác chẳng bằng cầu chính ḿnh. Chính ḿnh thật
sự phát tâm, đúng lư đúng pháp tu hành, chánh pháp sẽ trụ
thế. Muốn cho chánh pháp trụ thế lâu dài, vậy th́
quư vị phải khéo dạy người khác, đời
đời tương truyền, vậy th́ [chánh pháp] sẽ
tồn tại lâu dài. Đời đời có người
kế thừa, chẳng nên để pháp bị gián đoạn
nơi ta. Về phía chúng tôi, chư vị đều biết,
thầy của tôi là lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam, Ngài là học
tṛ của pháp sư Ấn Quang. Suốt đời Ngài dựng
liên xă, lập Từ Quang Đồ Thư Quán, và Bồ
Đề Y Viện tại Đài Loan, thành khẩn lănh chúng
niệm Phật suốt ba mươi tám năm. Chúng tôi
đích thân trông thấy chuyện này. Tôi đắc pháp từ
Ngài; v́ thế, chi phái này là đích truyền của Ấn
Quang đại sư. Trong cuộc sống hằng ngày,
chúng ta thường xuyên ôn tập giáo huấn của tổ
sư, tức là bộ Văn Sao của Ấn Quang đại
sư, thời thời khắc khắc nhắc nhở chính
ḿnh, tự hành, hóa độ người khác. Đến thế
hệ của tôi, tôi vẫn muốn t́m truyền nhân. Nếu
chẳng có truyền nhân, tức là có lỗi với thầy.
Do vậy, để chánh pháp trụ thế th́ phải cầu
chính ḿnh thực hiện. Để chánh pháp trụ thế
lâu dài th́ nhất định phải có học tṛ, thật
sự có học tṛ có thể gánh vác, y giáo phụng hành, đời đời tương truyền th́ mới
có thể trụ thế lâu dài!
Đương nhiên là truyền nhân càng nhiều
càng tốt. Năm xưa, tôi gặp mặt lăo cư sĩ
Hoàng Niệm Tổ lần đầu tại Bắc Kinh.
Tôi đến gặp cụ, tôi đến Bắc Kinh liên lạc
với cụ, c̣n chưa đến thăm nhà cụ, cụ
đă đến khách sạn gặp tôi trước. Thuở
ấy, hoằng dương bản hội tập của
kinh Vô Lượng Thọ tại hải ngoại chỉ có
ḿnh tôi; trong nước, hoằng dương bản ấy
cũng chỉ có ḿnh cụ. Chúng tôi gặp nhau, hoan hỷ
vô lượng. Gặp mặt ngày đầu tiên, cụ liền
giao cho tôi một nhiệm vụ, hy vọng tôi ở hải
ngoại, bất luận đi đến nơi đâu,
cũng đều phải lập Tịnh Tông Học Hội.
Cụ bảo tôi, Tịnh Tông Học Hội là nguyện vọng
của lăo cư sĩ Hạ Liên Cư. Hạ lăo cư sĩ đề ra kiến nghị ấy,
c̣n chưa thực hiện th́ lăo nhân gia đă văng sanh. Do vậy,
cụ Hoàng phó thác niềm hy vọng ấy nơi bản thân tôi.
Tôi rời khỏi Bắc Kinh đến Ôn
Ca Hoa (Vancouver) giảng kinh, thật sự thành lập Gia Nă
Đại Tịnh Tông Học Hội đầu tiên ngay tại
Ôn Ca Hoa. Từ Ôn Ca Hoa trở lại Cựu Kim Sơn (San
Francisco), giảng kinh tại Cựu Kim Sơn, thành lập
Mỹ Quốc Tịnh Tông Học Hội; hiện
thời, hội trưởng là cư sĩ Dương Nhất
Hoa cũng điều hành khá lắm. Kế tiếp,
cũng thành lập một Tịnh Tông Học Hội tại Lạc
Sam Cơ (Los Angeles). Mấy năm ở Mỹ, tổng cộng
đă thành lập mười mấy hội tại Mỹ
và Gia Nă Đại. Sau khi tôi rời đi, nghe nói gần
như có khoảng ba mươi hội. Hễ đến một
địa phương, đều thành lập Tịnh Tông
Học Hội. Năm ngoái, chúng tôi đến Ba Lê, thành lập Pháp Quốc Tịnh
Tông Học Hội. Sang thăm Luân Đôn, thành lập Luân Đôn
Tịnh Tông Học Hội trong năm nay. Đấy đều
là những tượng trưng
cho chánh pháp trong Tịnh Tông thường
trụ thế gian.
Thường trụ th́ phải có người.
Đấy là h́nh tượng, h́nh tượng đă có, c̣n
người, tức người thật sự tu Tịnh
Độ, thật sự thị hiện thụy tướng
văng sanh ngay trong đời này, người như vậy phải
nhiều! Bất luận là thân phận tại gia hay xuất
gia, nam chúng hay nữ chúng đều như nhau, đều
là những bậc thánh nhân phi phàm. Chỉ cần có thể thật
sự văng sanh th́ là thánh nhân, chẳng giả tí nào! Sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới, chư vị
đều biết là “tức
thân thành Phật” (thành Phật ngay trong thân
này). Dẫu là người hạ hạ phẩm văng sanh, hễ
đến Tây Phương Cực Lạc thế giới,
được oai thần từ bốn mươi tám nguyện
của A Di Đà Phật gia tŕ, đối với kinh luận
của Tịnh Tông, quư vị đều quen thuộc [những
chuyện này]. Thế giới ấy rất đặc biệt,
chẳng giống các sát độ (cơi nước) của chư Phật: Đối với bốn cơi
của chư Phật, trong thế giới Cực Lạc,
hễ sanh về một cơi là sanh về hết thảy. Chẳng
như trong cơi này, tức là trong báo độ của Thích Ca
Mâu Ni Phật, bốn cơi chẳng ở cùng một chỗ,
mà là bốn chiều không gian khác nhau, đây kia chẳng tiếp
xúc lẫn nhau. Nhưng bốn cơi trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới ở cùng một chỗ, chẳng có
giới hạn các chiều không gian khác nhau. Do đó, tới
Tây Phương Cực Lạc thế giới, quư vị có
thể trông thấy A Di Đà Phật, có thể trông thấy
hết thảy chư Phật Như Lai trong mười
phương thế giới, có thể hằng ngày thân cận
Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, mười
phương chư đại Bồ Tát. Hoàn cảnh học
tập ấy quá tốt đẹp.
Hằng ngày ở chung với các vị ấy,
cho nên công phu của quư vị chỉ có tiến, chẳng
lùi. V́ sao Tây Phương Cực Lạc thế giới viên
chứng ba thứ Bất Thoái? Đạo lư ở chỗ
này! Những ǵ sáu căn của quư vị tiếp xúc toàn là chánh
pháp. Dẫu trong A Lại Da Thức c̣n có những chủng
tử của lục đạo tam đồ, do chúng chẳng
có duyên, chẳng có duyên th́ sẽ vĩnh viễn chẳng dấy
lên hiện hành. Nhưng những chủng tử nghiệp tập
ấy trong A Lại Da có tác dụng, có tác dụng ǵ vậy?
Chúng sanh trong đường nào có cảm, quư vị có thể
hiện thân giống như họ trong đường ấy.
V́ sao quư vị có thể hiện? A Lại Da Thức có chủng
tử, cho nên chủng tử ấy dấy lên hiện hành, chẳng
phải là nghiệp báo, mà là Bồ Tát nương theo nguyện
trở lại (thừa nguyện tái lai). Do đó, Ngài tự
tại, chứ [sanh vào đường nào mà do] nghiệp
báo [chi phối] th́ sẽ chẳng tự tại. Đấy
là đạt được sự ứng hóa đại tự
tại trong mười pháp giới, là thân nguyện lực,
chẳng phải là thân nghiệp lực.
Nh́n thấy tháp, chớ nên không nghĩ đến
những chuyện này. Do vậy, người khéo học,
người biết cách học, thấy sắc, nghe tiếng
bèn khởi chánh niệm, họ chẳng khởi lên tà niệm.
Dẫu là thấy chuyện chẳng đúng pháp, họ cũng có thể chuyển nó thành chánh niệm. Đấy là
như kinh Lăng Nghiêm đă dạy: “Nếu có thể chuyển vật, ắt giống
Như Lai”. Kinh Hoa Nghiêm nói là Như Lai, vĩnh viễn chẳng
bị cảnh giới xoay chuyển. Quư vị có thể
chuyển biến cảnh giới, chẳng bị cảnh
giới xoay chuyển. Không chỉ là bản thân quư vị có
phước, mà c̣n có bao nhiêu chúng sanh khổ nạn cũng
được hưởng ké. Hưởng ké ǵ vậy? Rất
nhiều tai nạn được ngấm
ngầm hóa giải, do nguyên nhân nào? Do công đức
tu hành. Tập khí của con người rất nặng, chẳng
bị cảm động, chứ thiên, địa, quỷ
thần, núi sông, cơi đất đều cảm động.
Núi, sông, cơi đất cảm động, từ thí nghiệm
với nước của tiến sĩ Giang Bổn Thắng
người Nhật, chúng ta có thể thấy, mà cũng có
thể lănh hội lời dạy của đức Thế
Tôn trong kinh Hoa Nghiêm: “T́nh dữ
vô t́nh, đồng viên Chủng Trí” (Hữu t́nh và vô t́nh cùng viên măn Chủng
Trí). Chúng ta đă thấu hiểu!
Những cảnh giới này đều là cảnh
giới chẳng thể nghĩ bàn, rất khó hiểu, rất
khó diễn tả. V́ thế, có những thành tựu khoa học,
chúng ta cũng có thể mượn dùng, tuy chẳng giống
khít khao với Phật pháp, nhưng đă khá gần rồi.
Từ các loại thí nghiệm, chúng ta có thể suy đoán.
Bất luận ở nơi đâu, hễ quư vị thấy
nó (tháp nhà Phật), bèn dấy lên chánh niệm “chánh pháp trụ
thế lâu dài”. Ngược lại, phải đ̣i hỏi chính ḿnh,
chánh pháp ở nơi đâu? Ở ngay trong tâm hạnh
của chính ḿnh. Trong giáo pháp Đại Thừa, đức
Thế Tôn thường căn dặn điều này, tất
cả học tṛ của đức Phật đều phải
nên ghi nhớ, y giáo tu hành. Kinh Kim Cang đă dạy: “Thọ tŕ, đọc tụng,
v́ người khác diễn nói”. Những thứ quư vị
đă học, phải có thể lư giải; sau khi đă lư giải,
phải tiếp nhận toàn bộ. “Tiếp nhận” chính là y giáo phụng hành.
Học tập có thứ tự, v́ sao hiện
thời học tập gặp khó khăn ngần ấy? V́
sao chẳng trông thấy thành quả? Đó là do chúng ta
đă sơ sót thứ tự, học tập theo kiểu nhảy
cóc, cho nên chẳng trông thấy thành tích. Giống hệt
như đi học, chưa hề học Tiểu Học,
chưa hề học Trung Học, mà kẻ ấy muốn
vào học Đại Học. Học nhiều năm cách mấy đi nữa, vẫn
chẳng có cách nào. Rất dụng công, rất nỗ lực,
nhưng mỗi lần thi cử đều chẳng đậu,
đến cuối cùng, ngay cả tín tâm của
chính ḿnh cũng bị mất
luôn! Học Phật trong hiện thời,
rất nhiều người phạm sai lầm này! Phải
nên làm như thế nào? Phải nên từ nhỏ [đến lớn], từ cạn đến sâu, từ dễ đến
khó, quư vị phải dựa theo thứ tự này. V́ thế,
trong kinh Phật Tạng có một câu rất hay do chính Thích
Ca Mâu Ni Phật đă dạy: “Không
trước là học Tiểu Thừa, sau học Đại
Thừa, sẽ chẳng phải là đệ tử của
Phật”. Ba câu ấy nhằm bảo chúng ta, học tập
phải theo thứ tự, phải có thứ tự, tuần
tự tiến dần th́ sẽ dễ dàng.
Tiểu Thừa nông cạn, Tiểu Thừa
học dễ dàng. Phật pháp truyền sang Trung Hoa, chẳng
trái nghịch giáo huấn của đức Phật. Kinh Tiểu
Thừa được phiên dịch [sang tiếng Hán] rất
hoàn chỉnh. Hiện thời, A Hàm Bộ trong Đại Tạng Kinh chính là kinh Tiểu Thừa. Đối
chiếu kinh, luật, luận Tiểu Thừa [trong Đại
Tạng Kinh tiếng Hán] với Đại Tạng Kinh bằng
tiếng Ba Lợi (Pāḷi) theo Nam Truyền hiện thời, gần như là toàn bộ đều
được phiên dịch [sang tiếng Hán]. Tạng Kinh bằng
tiếng Ba Lợi so với kinh luận [A Hàm] đă
được phiên dịch tại Trung Hoa, tôi nghe nói đại
khái chỉ nhiều hơn năm mươi mấy bộ,
gần như có tổng cộng cũng gần ba ngàn bộ.
Chỉ nhiều hơn năm mươi mấy bộ, quư
vị có thể suy ra mà biết, phiên dịch khá hoàn chỉnh.
V́ sao người Hoa không học Tiểu Thừa?
Không học Tiểu Thừa là từ giữa đời
Đường trở đi bèn chẳng học Tiểu Thừa.
Phật pháp cuối đời Tùy đầu đời
Đường vốn có hai tông phái Tiểu Thừa là Thành
Thật Tông và Câu Xá Tông. Hiện thời chẳng có ai biết
hai tông phái ấy, không có ai học. Kinh điển c̣n
đó, chẳng có người học. Đấy là do nguyên
nhân nào? Người Hoa học Phật, bất luận tại
gia hay xuất gia, đều có cơ sở của Nho. Từ
nhỏ đă tiếp nhận giáo huấn, luân lư, đạo
đức của Nho gia; và cũng tiếp nhận giáo huấn
của Đạo gia. Đạo gia chủ yếu là giáo dục
nhân quả. V́ thế, tôi thường nói: Căn cội của
Nho gia là Đệ Tử Quy, căn cội của Đạo
gia là Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, căn cội của
Phật gia là Thập Thiện Nghiệp Đạo. Do vậy,
người Hoa đă có cơ sở Nho và Đạo thay thế
Tiểu Thừa, cho nên có thể trực tiếp tiến nhập
Đại Thừa, chẳng khó khăn tí nào. Tam Quy, Ngũ
Giới, Thập Thiện, đối với hàng xuất
gia th́ giới Sa Di, giới Tỳ Kheo, giới Bồ Tát
đều có thể thật sự làm được. Trải
các đời, những người tu hành thành tựu trong
tứ chúng đều có, thành tựu vượt trỗi Ấn
Độ.
Nhưng trong hai trăm năm gần đây
nhất, Phật pháp suy vi. V́ sao suy? Nho cũng suy, Đạo
cũng suy. Nhà Măn Thanh vào những năm cuối hủ bại,
văn hóa phương Tây tiến nhập [Trung Hoa], người Hoa thấy người phương Tây
nước giàu, quân mạnh, đối với văn hóa truyền
thống của chính ḿnh gần như chôn vùi tín tâm. Trong suốt
một trăm năm, hứng chịu những điều
đúng là sỉ nhục đặc biệt to lớn. Sau
khi nước Tân Trung Hoa được thành lập,
người Hoa lại ngẩng đầu lên, nhưng
như thế nào? Vứt bỏ văn hóa truyền thống.
Hậu di chứng của hiện tượng này khó thể
tưởng tượng nổi. Mong cho xă hội b́nh trị,
an định lâu dài, đó là một vấn đề to lớn.
Trung Hoa đă duy tŕ xă hội, duy tŕ quốc gia suốt
năm ngàn năm chẳng suy đồi là nhờ vào luân lư
và đạo đức. Sau này, Phật giáo truyền đến,
[nước Trung Hoa] được tăng thêm sinh lực.
Trong suốt hai ngàn năm qua, người Hoa đă tiếp
nhận giáo dục ǵ? Nho, Thích, Đạo; nếu quư vị
đọc bài Thượng Dụ của hoàng đế Ung
Chánh, sẽ hiểu rơ. Văn hóa truyền thống diệt
vong, c̣n đáng sợ hơn vong quốc! Nói thật ra, vong
quốc chẳng đáng sợ, văn hóa tồn tại th́
chắc chắn sẽ có ngày [đất nước] phục
hưng. Nhưng sau khi văn hóa bị mất đi, sẽ
vĩnh viễn chẳng thể phục hưng. Giống
như bốn nước có nền văn minh cổ to lớn trên thế giới th́ ba nước đă chẳng
c̣n, hiện thời, Trung Quốc chao đảo, sắp sụp
đổ. Hiện thời, nếu chẳng giác ngộ, nếu
chẳng cấp tốc nỗ lực khôi phục, chẳng
cần nhiều [thời gian], sau ba mươi năm nữa, sẽ chẳng thể hưng khởi được, nước có nền
văn minh cổ thứ tư trong lịch sử sẽ bị tiêu mất. Hễ nó tiêu mất, khổ nạn trên thế
gian sẽ nhiều hơn nữa!
Người sống trên thế gian này chẳng
có mảy may ư nghĩa. “Chẳng
có mảy may ư nghĩa” tức là chỉ có tạo tội
nghiệp th́ nhiều, chứ kẻ có thiện
hạnh, thiện niệm quá hiếm hoi! Ư nghĩa và giá trị
của đời người là nâng cao linh tánh của chính
ḿnh. Để nâng cao linh tánh, nhất định phải cậy vào
giáo dục luân lư, đạo đức, nhân quả, trí huệ;
bốn thứ ấy đều chẳng có. Trí huệ nói
theo người phương Đông chẳng giống
như người phương Tây. Trí huệ như người
phương Tây đă nói chẳng ĺa khỏi tâm ư thức,
nó là phân biệt, chấp trước, chẳng ĺa khỏi.
Dùng phân biệt, dùng chấp trước để thăm
ḍ vũ trụ. Hiện thời, nói đến vật lư
vũ trụ, nói đến Lượng Tử Lực Học,
nói rất nhiều, giải thích khởi nguyên của vũ
trụ, thậm chí giải thích nguồn gốc sanh mạng,
dùng phương pháp này. Người phương Đông
không như vậy! Người phương Đông dùng Thiền
Định, Thiền Định rất sâu để đột
phá các chiều không gian; đấy là trí huệ. V́ thế,
trí huệ từ Thiền Định mà đạt
được, tiểu định khai tiểu trí huệ,
đại định khai đại trí huệ. Những
điều đức Phật dạy trong kinh điển
chính là đại trí huệ.
Khoa học gia hiện thời nói đến
vật lư vũ trụ, Lượng Tử Lực Học,
trong kinh Phật có [những điều ấy] hay không? Có
chứ! Nói c̣n thấu triệt hơn họ. Ngay trong kinh này,
chúng ta đă đọc thấy trong những phần
trước về thế giới quan vi mô: Đức Phật
nói trong vi trần có thế giới. Hiện thời, họ
(các nhà khoa học) vẫn chưa nói đến thế giới
quan vi mô, chưa bàn tới vấn đề này, chỉ nói
vi trần là loại vật chất rất nhỏ. Các nhà
khoa học hiện thời nói đến khoa-khắc (quark,
hạt vi lượng), nguyên tử, điện tử, hạch
tử (nucleus), lạp tử (particles). Trong Phật pháp th́
dùng chữ “vi trần”. Vi trần
chia rất nhiều đẳng cấp, loại nhỏ nhất
được gọi là Cực Vi Chi Vi, tức là chẳng
thể chia nhỏ hơn nữa. Trong Cực Vi Chi Vi có thế
giới, vi trần chẳng ph́nh to, thế giới cũng
chẳng rút nhỏ, trong vi trần nghiễm nhiên có thế
giới! Ai có thể vào? Phổ Hiền Bồ Tát có thể
vào thế giới trong vi trần. Thế giới trong vi trần
lại có vi trần, trong những vi trần ấy lại
có thế giới, trùng trùng vô tận. Trong khoa học, chẳng
có cách nói này, “chẳng có ǵ lớn
mà lọt ra ngoài, chẳng có ǵ nhỏ mà không ở trong”.
Đă thế, Đại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm Kinh c̣n nói “lớn, nhỏ
chẳng hai”, đấy mới là thật sự khế
nhập. Chẳng có lớn, nhỏ, chẳng có trước,
sau, chẳng có gần, xa, chẳng có đối lập, đấy
chính là tứ vô ngại pháp giới được nói trong
kinh Hoa Nghiêm, [tức là] lư vô ngại, sự vô ngại, lư sự
vô ngại, sự sự vô ngại. Đức Phật dựa
vào đâu để nói những
điều này? Dựa vào ǵ để
có thể nói ra đại đạo lư sâu xa dường ấy?
Thấy từ trong Thiền Định, chẳng phải
là tư duy, tưởng tượng, chẳng cần phải
suy xét, chẳng cần phải nghiên cứu. Suy xét hay nghiên
cứu toàn là thức thứ sáu tức Ư Thức [khởi
tác dụng]. Do vậy, Ngài là Tánh Đức trực giác.
Trong Thiền Định rất sâu, lục
căn dấy lên tác dụng, tự nhiên, quư vị chẳng có ǵ không thông
đạt, chẳng có ǵ không hiểu rơ. Tam Bảo: Tam Bảo
là Tánh Đức của chúng ta, tức Giác, Chánh, Tịnh.
Giác là Phật Bảo, Chánh là Pháp Bảo, thanh tịnh là
Tăng Bảo, chẳng phải là nói đến bên ngoài.
Nhưng sau đó mới hiểu trong và ngoài chẳng có giới
hạn, trong và ngoài là một, tự và tha chẳng hai. Đại
vũ trụ và tiểu vũ trụ là một chỉnh thể,
là một Thể. Đấy là nói “mười
phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân,
một tâm, một trí huệ, lực, vô úy cũng thế”,
trong phần trước, chúng ta đă từng đọc rồi
đó. Lẽ nào chẳng thể khiến cho kẻ khác kính
ngưỡng? Chúng ta lại xem bài kệ kế tiếp, tức bài
thứ sáu:
(Kinh) Đảnh lễ ư tháp, đương nguyện
chúng sanh, nhất thiết thiên nhân, vô năng kiến đảnh.
(經)頂禮於塔。當願眾生。一切天人。無能見頂。
(Kinh: Đảnh lễ nơi tháp, nguyện cho
chúng sanh, hết thảy trời người, chẳng thể
thấy đỉnh).
Tháp rất cao, quư vị phải lên hư
không th́ mới có thể thấy đỉnh tháp. Khi quư vị
ở phía dưới, sẽ chẳng thấy đỉnh.
Hiện thời, khoa học kỹ thuật phát triển, có
những ṭa cao ốc h́nh dạng giống như cái tháp, tại
Hương Cảng chỗ nào cũng có thể trông thấy.
Chúng được tạo h́nh xác thực là giống
như một ṭa tháp, là
cao ốc mấy chục tầng.
Tuy chẳng phải là tháp, nó có h́nh dáng giống tháp. Sau khi
trông thấy, chúng ta cũng sẽ dẫn phát đại
nguyện ấy. “Đảnh lễ
ư tháp” (đảnh lễ nơi tháp). Đây cũng
là một môn công khóa tu hành trong Phật môn, lạy xá-lợi
của Phật. Trong tám vạn bốn ngàn hạnh môn, có một
hạnh môn như thế.
Lạy Phật, thông thường là mỗi
ngày ba ngàn lạy. Trong Ảnh Trần Hồi Ức Lục
có ghi chép một câu chuyện như thế, nhà Phật gọi
là “công án” (公案), tức là ghi chép, tường thuật chuyện này. Tôi không nhớ
nổi tên vị pháp sư ấy, tức là vị pháp
sư phơi nến. Đấy là vị sư làm
hương đăng trong chùa, chuyên môn coi sóc nhang và nến.
Khóa lễ sáng tối, cúng Ngọ, khi đốt nến, thắp
nhang, Sư trông coi chuyện này. Mùa Hè trời rất nóng, mọi người trong chùa miếu phơi quần áo, hong mền,
c̣n có người đem phơi kinh sách. Có người nói đùa với
thầy hương đăng, v́ thầy ấy thật
thà: “Thầy hương đăng ơi! Thầy phải
đem nến ra phơi. Nếu không, nến sẽ nổi
mốc”. Quư vị thấy người thật thà chẳng
có kiến thức thông thường, nghe lời, dọn hết
nến ra phơi. Phơi nắng suốt hai tiếng đồng
hồ, toàn bộ nến bị chảy tan hết. Khóa lễ
tối, khi thắp nến, thắp đèn, sáp đă chảy
tan hết rồi, mọi người thấy vậy đều
chê cười. Thầy Duy Na tŕnh lên Phương
Trượng: “Người này chẳng dùng được,
sao lại có thể làm ra chuyện ngu xuẩn dường ấy?”
Phương Trượng là vị có đạo hạnh, cảm thấy
người này rất khó có, có thể thành tựu người
ấy, bèn dạy Sư chẳng cần phải làm hương
đăng nữa, đưa Sư đến chùa A Dục
Vương, chỗ ấy có tháp thờ xá-lợi Thích Ca Mâu
Ni Phật: “Hăy lạy tháp, mỗi ngày lễ ba ngàn lạy!”
Sư thật sự nghe lời, lạy hết ba năm,
Sư bèn khai ngộ. Sư không biết chữ, mà có thể
làm thơ, có thể soạn kệ, học thứ ǵ học rất mau chóng. Về sau, nghiễm nhiên trở thành vị
pháp sư giảng kinh, thuyết pháp; trí huệ đă mở mang!
Ba năm “đảnh
lễ nơi tháp”, lạy xá-lợi của Thích Ca Mâu Ni Phật,
nghiệp chướng tiêu trừ. Do vậy, chư vị
phải biết, cách để tiêu nghiệp chướng tốt
nhất là lạy Phật, tâm chân thành, tâm cung kính, chẳng
có một vọng niệm. Khi lạy Phật bèn tưởng
Phật, hoặc là tưởng tướng hảo của
Phật, hoặc là tưởng giáo huấn của Phật.
Chẳng cần tưởng quá nhiều, càng đơn giản
càng hay. Như chúng ta nghiệp chướng nặng nề,
căn tánh lại chẳng tốt, hằng ngày chúng ta lạy
Phật, chỉ tưởng Phật dạy chúng ta Thập
Thiện Nghiệp Đạo, chỉ tưởng Phật
dạy chúng ta niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ
là được rồi, đă đủ rồi. Trong cuộc
sống, xử sự, đăi người tiếp vật,
niệm nào cũng đều chẳng trái nghịch Thập
Thiện, chắc chắn chẳng tạo mười ác
nghiệp, niệm nào cũng đều tu Thập Thiện.
Trong công khóa thường ngày, lạy Phật th́ niệm A
Di Đà Phật, cứ một tiếng Phật hiệu là
một lạy. Khi chẳng lạy Phật th́ A Di Đà Phật
chẳng rời khỏi miệng. Nếu công phu thật sự
đắc lực, phải
thật sự không nói năng, đấy
là một phương pháp hết sức có hiệu quả.
Gần đây nhất, tại núi Đông
Thiên Mục, c̣n có những đạo tràng khác, người
thật sự có thành tựu đều là đắc lực
nhờ “chỉ ngữ” (止語), tức là không nói năng, không tṛ chuyện với bất
cứ ai, ở ngay trong Niệm Phật Đường. Ở
trong Niệm Phật Đường, lạy Phật, kinh
hành, chỉ tĩnh, đối với hoạt động
và bảo dưỡng của thân thể của quư vị, thảy đều quan tâm đến. Quư vị ngồi
đă mệt, tức là ngồi niệm Phật, ngồi
đă mệt rồi th́ đứng lên lễ Phật. Lễ
Phật là vận động, vẫn là đang niệm Phật.
Lạy đă mệt bèn kinh hành, nhiễu Phật, đó là tản
bộ, vẫn đang niệm Phật, Phật hiệu chẳng
gián đoạn giữa
chừng. Khi nghỉ ngơi th́ hăy đi ngủ cho sâu,
lúc thức dậy, tinh thần no đủ, công khóa chẳng
gián đoạn. Giống như lăo ḥa thượng Đế
Nhàn đă dạy, hễ mệt mỏi bèn nghỉ ngơi,
nghỉ ngơi đă khỏe khoắn bèn niệm tiếp.
Ba năm hoặc năm năm, công phu thành phiến, văng sanh
sẽ nắm chắc. Trong công phu thành phiến, cũng có
ba bậc, chín phẩm. Công phu tốt đẹp, tức là ba phẩm
thượng của công phu thành phiến, sẽ tự tại
văng sanh. Chẳng cần chờ đến hết thọ mạng,
có thể ra đi trước, thật sự biết
trước lúc mất. Đó gọi là “sanh tử tự tại”, ta muốn ra đi khi
nào, bèn ra đi ngay khi ấy. Trong quá khứ đă có, trong hiện
tại cũng có [những vị thành tựu như vậy],
trong đời này, tôi đă thấy mười mấy
người!
Chuyện này bày ra trước mặt, nếu
quư vị chẳng tin tưởng, tức là chẳng có
duyên với Phật, đời này chắc chắn chẳng
thể thành tựu, vẫn phải luân hồi trong lục
đạo, lại đợi đến đời sau, hoặc
chờ đời sau nữa, khi gặp duyên, sẽ tiếp
tục tu tập. Nhưng hễ luân hồi, sẽ
đáng thương lắm! Trước kia, thầy Lư
thường bảo chúng tôi: “Đời
này chẳng thể thành tựu, chắc chắn chẳng
tránh khỏi luân hồi nhiều kiếp dài lâu”. Đời
sau c̣n được làm thân người, lại học Phật,
quư vị há có vận may như thế ư? Chuyện này
trong ức ức vạn người, khó có được
một! Chớ nên không biết những chân tướng sự
thật này, điều khẩn yếu là phải nắm chắc
hiện thực, nhưng hiện thời Tăng Thượng
Duyên rất khó, quư vị đến đạo tràng nào
để có thể thật sự thành tựu quư vị?
Khiến cho quư vị buông xuống vạn duyên, thứ ǵ cũng chẳng bận ḷng, ba bữa ăn mỗi
ngày có người cung cấp, lúc mệt mỏi th́ có chỗ nghỉ
ngơi. Quư vị có thể chẳng bận ḷng tí nào, nhất
tâm nhất ư niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ;
chẳng t́m thấy đạo tràng ấy!
Hiện thời, tại
Trung Hoa, ai nấy đều biết, tôi biết được
hai nơi, một là Bách Quốc Hưng Long Tự tại Trường Xuân ở phương Bắc,
tức là đạo tràng của pháp sư Thường Huệ,
phía Nam th́ là Đông Thiên Mục Sơn, tức đạo
tràng của cư sĩ Tề Tố B́nh. Hai đạo
tràng ấy thành tựu người [đến tu]. Nếu quư vị thật sự nhất tâm niệm Phật cầu văng sanh, họ sẽ
hết sức hoan nghênh, sẽ toàn tâm toàn lực chiếu cố,
thành tựu quư vị. Những đạo tràng khác
đương nhiên cũng có, nhưng tôi không hiểu rơ cho mấy. Từng nghe nói h́nh như Ngũ Đài Sơn
cũng có đạo tràng, quy mô chẳng to lớn dường
ấy. Chỗ khác đương nhiên là cũng có. Nơi
nào có thể thành tựu người khác buông xuống vạn
duyên để văng sanh, phước báo của vị công
đức chủ to lắm! Giống như Đại Từ
Bồ Tát đă nói, quư vị có thể thành tựu hai
người văng sanh, phước báo của quư vị sẽ
vượt trỗi phước báo do chính quư vị tu suốt
một đời! Ta thành
tựu rất nhiều người văng sanh, bản thân ta
có thể văng sanh hay không? Quư vị phải ghi nhớ điều này, Lục Tổ đại sư đă nói trong Đàn
Kinh: “Chuyện này
phước chẳng thể cứu”. Quư vị phải biết thuở Lương Vũ
Đế sinh tiền, nhà vua gần như đă cúng dường
mười mấy vạn người xuất gia, dựng
chùa miếu, đạo tràng bốn trăm tám mươi
ngôi vào thời Nam Triều. V́ thế, Đạt Ma Tổ
Sư đến nơi, vua khoe khoang với Tổ, [hỏi]:
“Công đức của ta có lớn hay không?” Đạt Ma Tổ
Sư nói: “Hoàn toàn chẳng
có công đức”. Những
việc nhà vua đă làm là ǵ? Phước đức. Lục
Tổ nói: “Chuyện này phước
chẳng thể cứu”, quư vị
phải hiểu rơ điểm này. Đại Từ Bồ
Tát nói là phước báo; nếu quư vị chẳng nhận
lănh phước báo ấy, quư vị chăm sóc, cúng dường
đại chúng, bản thân quư vị có thể buông xuống
hết thảy, Phật hiệu cũng chẳng gián đoạn,
vậy th́ quư vị thật sự là Phật, Bồ Tát tái
lai, vậy th́ chắc chắn được văng sanh. Quư vị
chẳng phải là phàm phu, v́ sao? Quư vị đă ĺa bỏ vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước!
V́ thế, vào thời cổ xưa kia,
người phụ trách và chấp sự trong đạo
tràng đều là Phật, Bồ Tát hóa thân đến, chẳng
phải là phàm nhân. Phàm nhân làm việc này như Lương
Vũ Đế chỉ có thể tu phước mà chẳng
thể văng sanh, đời sau có phước báo to lớn, [do đă] làm nhiều chuyện tốt đẹp như thế, chúng ta chớ
nên không biết điều này. A! Nay đă hết thời
gian rồi, chúng ta học bài kệ này tới đây.
Tập
1572
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh
thứ mười một, đoạn thứ chín trong phần
Kệ Tụng, xem từ bài kệ thứ bảy:
(Kinh) Hữu nhiễu ư tháp, đương nguyện
chúng sanh, sở hành vô nghịch, thành Nhất Thiết Trí.
(經)右繞於塔。當願眾生。所行無逆。成一切智。
(Kinh: Hữu nhiễu nơi tháp, nguyện cho chúng
sanh, việc làm chẳng trái, thành Nhất Thiết Trí).
Đây là nhiễu tháp. Thông thường,
trông thấy bảo tháp, đệ tử Phật môn sẽ
đều lễ bái. “Hữu
nhiễu” (右繞, nhiễu theo chiều phải) là thuận theo chiều
kim đồng hồ, thông thường đều là nhiễu
ba ṿng. Nếu quư vị có thời gian, nhiễu bảy ṿng,
nhiễu hai mươi mốt ṿng, nhiễu một trăm
lẻ tám ṿng đều được, tối thiểu là
nhiễu ba ṿng. “Hữu” biểu
thị “thuận”, trong ấy
có ư nghĩa biểu thị pháp. Cổ Ấn Độ và
người Hoa, [nói chung là] người phương
Đông, đều coi bên phải là Thuận. Thuận là tùy
thuận Tánh Đức. Do vậy, khi nhiễu tháp, dẫn
phát đại nguyện của Bồ Tát, “sở hành vô nghịch, thành Nhất Thiết Trí”, hai câu này có ư nghĩa rất
sâu. “Sở hành” bao gồm khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo
tác. Khởi tâm động niệm là ư nghiệp, ngôn ngữ
là khẩu nghiệp, tạo tác là thân nghiệp. “Vô nghịch” là ba nghiệp
thanh tịnh, đều có thể tùy thuận Tánh Đức.
Ba nghiệp thanh tịnh viên măn, chính là Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác, tức Phật quả viên măn rốt
ráo. Do vậy có thể biết, hai câu này có ư nghĩa rất
sâu!
“Nhất Thiết
Trí” được nói ở đây là theo nghĩa rộng,
tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, biển
Chánh Biến Tri của Như Lai. Tuy ở đây chỉ có
tám chữ, đă nêu bày cho chúng ta mục tiêu chung cực của
việc học Phật, chính là phải thành tựu trí huệ
viên măn. Trí huệ viên măn chẳng phải do từ bên ngoài
mà có, các đồng học ắt cần phải biết
điều này. Trong giáo pháp Đại Thừa đă nói rất
nhiều, nhưng cứ ắt phải nhắc đi nhắc
lại không ngừng. V́ sao? Chúng sanh hết sức dễ
quên, nói xong, nghe rồi liền quên tuốt. Nghe suốt
mười lần, nghe một trăm lần, ngàn lần,
vạn lần, quư vị vẫn chẳng thể thực hiện.
Chẳng thể thực hiện vậy th́ vẫn phải
nói. Do vậy có thể biết, chúng ta từ vô lượng
kiếp đến nay, đời đời kiếp kiếp
phải luân hồi trong lục đạo, chư Phật,
Bồ Tát đại từ đại bi, trong giáo
pháp Đại Thừa thường nói: “Trong cửa nhà Phật, chẳng bỏ một ai”.
Bất luận căn tánh như thế nào, Phật, Bồ
Tát chưa hề bỏ sót. Nói cách khác, thời thời khắc
khắc giúp đỡ quư vị, giúp đỡ quư vị
chưa hề gián đoạn. Sau đấy, quư vị mới
biết Phật, Bồ Tát có ân đức to lớn đối
với chúng sanh, vượt trỗi cha mẹ quá nhiều.
Chúng sanh chẳng biết, [tức là] chẳng biết ân, chẳng
biết báo ân, nhưng Phật, Bồ Tát chẳng trách móc
chúng sanh, vẫn chẳng buông bỏ, không ngừng giáo hóa
quư vị.
Trước khi quư vị giác ngộ, Phật,
Bồ Tát giáo hóa, chúng ta thường nói là “âm thầm gia tŕ”, nhưng người sáng mắt
sẽ thấy rất rơ rệt, phàm phu chẳng nh́n ra. V́ thế,
phàm phu chẳng biết cảm ơn, chẳng biết báo
ân. Người hiểu rơ th́ đến khi nào sẽ thấu
hiểu? Khi đă
giác ngộ. Khi nào sẽ giác ngộ?
Theo tiêu chuẩn của kinh Hoa Nghiêm th́ là Bồ Tát thuộc
địa vị Sơ Tín, c̣n theo giáo pháp Tiểu Thừa sẽ
là Sơ Quả Tu Đà Hoàn đă giác ngộ. Giác ngộ
như thế nào? Quư vị buông xuống phiền năo bèn giác
ngộ. Nếu chẳng thể buông xuống tập khí phiền
năo, sẽ giống như chúng ta trong hiện thời, tuy
đời đời kiếp kiếp tiếp nhận sự
giáo hóa ngấm ngầm của chư Phật, Bồ Tát, vẫn
chẳng giác ngộ y như cũ. Nếu hỏi v́ sao chẳng
giác ngộ ư? Tập khí quá nặng, đó là tập khí
ác huân nhiễm từ vô lượng kiếp tới nay. Trong các buổi giảng, chúng tôi thường nói với
các đồng học, [những tập khí phiền năo]
chính là ích kỷ, tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ
dục, lục trần, tham, sân, si, mạn, đấy là
nêu đại lược mấy loại tập khí ác. Nếu
quư vị chẳng thể buông xuống mấy thứ ấy,
quư vị sẽ chẳng có cách nào thấu hiểu!
Gia tŕ rơ rệt th́ có sự tướng, có
thuyết pháp. Như thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế,
lúc Ngài c̣n trụ thế, hành nghị cả đời của
lăo nhân gia là nêu gương cho chúng ta, học Phật th́ phải
nên học theo gương Ngài. Trước hết, quư vị thấy
Ngài đă thị hiện, vinh hoa, phú quư, tiếng tăm, lợi
dưỡng trong thế gian thảy đều buông xuống.
Ngài là vương tử mà xuất gia, chẳng muốn làm
quốc vương. Quư vị nói xem có bao nhiêu kẻ muốn tranh giành ngôi vua? Ngài đă đạt
được mà buông bỏ, điều này có ư nghĩa giáo
dục hết sức sâu nặng. Chúng ta sẽ giảng
xong phẩm kinh này rất mau, phẩm tiếp theo sẽ nói
tỉ mỉ, v́ sao từ bỏ ngôi vua? V́ sao phải từ
bỏ vinh hoa, phú quư? Những thứ tâm lư và hành vi mong cầu,
dục vọng ấy đều thuộc loại nghiệp
luân hồi. Luân hồi khổ sở, quư vị không biết.
Người sống trong thế gian, hiện thời nói
đến ư nghĩa và giá trị của đời người,
chúng ở đâu? Chư Phật, Bồ Tát, cổ thánh tiên
hiền đă rát miệng buốt ḷng khuyên bảo, chỉ
dạy chúng ta, ư nghĩa của đời người là
ǵ? Giá trị của đời người là ǵ? Toàn bộ người thế gian đều sai lầm, ư
nghĩa và giá trị thật sự chính là không ngừng nâng
cao linh tánh của chính ḿnh, như vậy th́ quư vị mới
chẳng uổng công sanh trong thế gian này! Chớ nên ở
trong thế gian này [mà không nâng cao
linh tánh của chính ḿnh], thời
gian một đời chẳng dài, mấy chục mùa nóng lạnh,
nếu những ǵ quư vị đă làm hoàn toàn trái đạo,
đều trái nghịch tự tánh, quư vị sẽ bị phiền
phức to lớn! Dẫu đời này quư vị đạt
được vinh hoa, phú quư, đời sau quư vị sẽ
càng đọa lạc hơn!
Đức Phật đă nói về sanh tử
luân hồi rất nhiều, Nho và Đạo cũng nói rất
nhiều. Hiện thời, người phương Tây
cũng nói chẳng ít, thật
đấy, chẳng giả! Do vậy, đức
Phật không dạy chúng ta chi khác, mà dạy chúng ta không ngừng
nâng cao [linh tánh của chính ḿnh]. Trong giáo pháp Đại Thừa
đă nói, có sanh tử hay không? Chẳng có! Có đến
đi hay chăng? Cũng chẳng có! Bất cứ người
nào, bất cứ chúng sanh nào, xét theo Nhất Thừa Giáo, tức
là Phật pháp được nói đến chỗ tột
cùng th́ “mê, sanh tử, Niết Bàn, phiền năo, Bồ Đề” đều
chẳng thể được. Nói lời thật với
chúng ta, Phật là vô lượng thọ, có ai mà chẳng phải
là vô lượng thọ? Thật sự vô lượng, chẳng
phải là giả vô lượng. Ở trong lục đạo,
quư vị đă xả thân, thọ thân từ vô lượng
kiếp đến nay, vẫn chẳng phải là quư vị
đó ư? Quư vị há có sanh tử? Chỉ là ở trong lục
đạo, không ngừng thay đổi thân thể, đấy
là thật. Đấy là nói với quư vị: Thân thể có
sanh tử, có sanh diệt, chứ linh tánh bất sanh bất
diệt.
Do vậy, chúng tôi thường xuyên dùng tỷ
dụ để nói. Chúng ta sánh ví linh tánh như thân thể trong
hiện tại, sánh ví quần áo như thân thể của
chúng ta, coi thân thể như linh tánh. Quư vị thấy hằng
ngày khi quư vị đi ngủ th́ cởi quần áo, cởi
quần áo là chẳng cần thân thể nữa. Sáng hôm sau,
thức dậy, lại thay một bộ quần áo mới,
lại mặc quần áo. Mặc quần áo vào, tức là
quư vị lại được một thân thể khác. Sau
khi đă cởi ra, chẳng cần nữa, thân thể này
đă sử dụng mấy chục năm, sử dụng
không tốt cho lắm, không cần nữa, thay cái khác. Đấy
là chân tướng sự thật. Quư vị liễu giải
chân tướng sự thật này, sẽ không tham sống sợ
chết, biết là chẳng có tử, chẳng có sanh tử,
chỉ là thay đổi thân thể. Đương nhiên,
đức Phật hy vọng chúng ta ngay trong một đời
này, tối thiểu quư vị phải thay đổi thành
thân thể A La Hán, đấy là đúng. A La Hán không ở
trong lục đạo, đă vượt thoát lục đạo
luân hồi. Đương nhiên, hy vọng nhất [là chúng
ta] có thể đổi lấy thân thể Phật, đời
này là phàm phu, đời sau làm Phật, có thể hay không? Có
thể chứ! Đổi lấy thân thể Phật, quư vị
đắc đại tự tại, viên măn rốt ráo, chẳng
phải là không làm được!
Trong một đời này, chúng tôi thấy
thành Phật ngay trong một đời, tối thiểu đă trông thấy
có mười mấy người, thật đấy, chẳng
giả đâu! Dùng phương pháp ǵ để thành Phật?
Niệm Phật văng sanh, chư vị phải biết: Sanh
về thế giới Cực Lạc, cho dù là hạ hạ
phẩm văng sanh, đều thành Phật. Đấy gọi
là “sở hành vô nghịch”, văng
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới liền “thành Nhất Thiết Trí”. Đấy
là một pháp môn đặc biệt trong tám vạn bốn
ngàn pháp môn, cổ đức bảo: “Đấy là đạo dễ hành để thành Phật”.
Những pháp môn khác rất nhiều, tám vạn bốn ngàn
pháp môn, những pháp đó đều là đạo khó hành,
khó ở chỗ nào? Phải đoạn phiền năo, chuyện
này chẳng dễ dàng.
Trong các buổi giảng, chúng tôi đă
thưa tŕnh cùng quư vị: “Phật, Bồ Tát, La Hán chẳng
phải là thần, chẳng phải là tiên nhân. Các Ngài là
người, là bậc giác ngộ”. Thích Ca Mâu Ni Phật bảo
chúng ta: “Hết thảy chúng sanh
đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai”, có nghĩa là hết thảy chúng sanh vốn sẵn
thành Phật. Hiện thời vẫn là Phật, chỉ là một
vị Phật hồ đồ, Phật mê hoặc, điên
đảo, bị những ǵ mê hoặc? Vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, ba loại phiền năo to
lớn ấy. Thông thường, giáo pháp Tiểu Thừa lẫn
Đại Thừa gọi vọng tưởng là vô minh phiền
năo. [Nói cách khác], vọng tưởng là vô minh phiền năo,
phân biệt là Trần Sa phiền năo, chấp trước
là Kiến Tư phiền năo. Kinh Hoa Nghiêm nói là “vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước”, trong giáo
pháp Đại Thừa và Tiểu Thừa th́ thường nói là “Vô Minh, Trần Sa, Kiến Tư”. Nếu chúng ta
chẳng c̣n chấp trước hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian, thật sự buông xuống chấp
trước, sẽ là A La Hán, sẽ thoát tam giới, sẽ
thoát khỏi lục đạo luân hồi. Nói cách khác, hễ
quư vị c̣n có chấp trước, dẫu chỉ có mảy
may chấp trước, quư vị sẽ chẳng thoát khỏi
lục đạo. Nghiệp nhân của lục đạo
luân hồi là chấp trước. Quư vị chấp trước
là trái nghịch tự tánh; trong tự tánh chẳng có chấp
trước, trong tự tánh chẳng có phân biệt, trong tự
tánh chẳng có vọng tưởng. “Sở hành vô nghịch” là chẳng có những thứ
ấy.
Nay chúng ta có thể chẳng chấp trước,
sẽ thành A La Hán, sẽ vượt thoát lục đạo.
Chẳng có phân biệt, quư vị là Bồ Tát. Chẳng có vọng
tưởng, quư vị bèn thành Phật, bèn vượt thoát
mười pháp giới. Vượt thoát mười pháp giới
sẽ đến nơi đâu? Thế giới Hoa Tạng.
Thế giới Hoa Tạng là Nhất Chân pháp giới. Thế
giới Cực Lạc chính là điểm trung tâm của thế
giới Hoa Tạng. Nếu chúng ta tỷ dụ th́ Hoa Tạng
giống như khu vực Cửu Long này, thế giới Cực
Lạc chính là đường Thái Tử (Prince Edward Road) trong
khu Cửu Long, là một đường phố náo nhiệt
nhất, là đường phố sầm uất nhất.
Hoa Tạng và Cực Lạc là một, không hai. Sanh vào Cực
Lạc là sanh trong Hoa Tạng, sanh về Hoa Tạng nhất
định sẽ đến Cực Lạc, v́ sao? Văn
Thù, Phổ Hiền mười đại nguyện
vương dẫn về Cực Lạc. Quư vị sanh vào
Hoa Tạng, nhất định gặp gỡ Văn Thù và
Phổ Hiền, hai Ngài sẽ dẫn quư vị đi. Đấy
gọi là đạo thành Phật, là “sở hành vô nghịch”.
V́ thế, chúng ta nhất định phải
biết Tánh Đức của chính ḿnh. Tánh ấy chính là bổn
tánh, tự tánh. Trong tự tánh vốn có đức năng,
thuần thiện, thuần tịnh, “Tịnh” là nói đến cái Thể của nó, “thiện” là nói đến
tướng của nó. Hiện tướng được
sanh khởi bởi tự tánh là thuần thiện. Thể của
nó là thuần tịnh, vĩnh hằng bất biến. Nay
chúng ta đă mê tự tánh, mê mất tự tánh. Tự tánh của
chúng ta là thuần tịnh thể, thuần thiện tướng,
có bị mất đi hay không? Chẳng có! Phải biết
điều này, chắc chắn sẽ không bị mất
đi. Nếu nó có thể bị mất, tức là có biến
đổi, như vậy sẽ chẳng gọi là tự
tánh, chẳng phải là thuần chân, thuần thiện, thuần
tịnh, chẳng phải là ư nghĩa này. Vĩnh viễn chẳng
bị mất đi, chỉ là sau khi đă mê, phiền năo và
tập khí che lấp cái Thể và cái Tướng của tánh,
giống như khí trời tại Hương Cảng ngày
hôm nay, trời âm u, c̣n có chút mưa, mây phủ rất dầy,
che lấp ánh mặt trời. Chúng ta hỏi hôm nay có mặt
trời hay không? Có chứ! Mặt trời bị những tầng
mây che phủ! Những tầng mây có thật sự ngăn
che mặt trời hay chăng? Chẳng có! Tầng mây há có
thể che khuất mặt trời! Mặt trời lớn
hơn địa cầu mấy trăm vạn lần, các
tầng mây làm sao có thể che khuất nó được? Tầng
mây che lấp con mắt của chúng ta, hoàn toàn chẳng che khuất
mặt trời. Từ thí dụ này, quư vị hăy chú tâm lănh
hội.
Do vậy, mê là chính ḿnh mê, tự tánh chẳng
có mê, mà cũng chẳng có ngộ, chẳng có mê hay ngộ.
Chúng ta chỉ cần tiêu trừ những tầng mây, mặt
trời sẽ lại hiện tiền. V́ thế, đức
Phật bảo chúng ta, chúng ta làm thế nào để trừ
khử tầng mây che lấp tự tánh, trí huệ trong tự
tánh, tức trí huệ Bát Nhă sẽ hiện tiền, đức
năng trong tự tánh sẽ hiện tiền. Đức
năng là tác dụng của tám thức và sáu căn. Quư vị
thấy Tướng Tông có nói “chuyển
tám thức thành bốn trí” th́ là giác ngộ. Hễ giác ngộ
bèn chuyển, tám thức là mê, bốn trí là giác ngộ. Khi
đó, mắt quư vị sẽ trông thấy chẳng chướng
ngại.
Hiện thời, những ǵ mắt của chúng
ta có thể trông thấy hết sức nhỏ hẹp. Nếu
nói theo tỷ lệ phần trăm, mắt chúng ta hiện
thời có thể trông thấy đại khái chỉ có hai
phần trăm. Nói cách khác, c̣n có đến chín mươi
tám phần trăm không thấy! Đấy là ǵ? Mê! Nay v́ quư vị
có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, ba
tầng chướng ngại, quư vị chẳng thấy chân
tướng của vũ trụ. Nếu có thể buông xuống
chấp trước, tầng chướng ngại thứ
nhất đă bị trừ khử, đức Phật dạy
chúng ta mắt của A La Hán, thông thường A La Hán có thể
thấy một tiểu thiên thế giới. Một tiểu
thiên thế giới là
đă tuyệt diệu quá rồi. Nay chúng ta gọi một “thế
giới” [trong kinh Phật] là một hệ Ngân Hà. Một
tiểu thiên thế giới là một ngàn hệ Ngân Hà. Chẳng
cần dùng viễn vọng kính mà thấy cảnh tượng trong một ngàn hệ Ngân Hà giống như ở
ngay trước mắt, có thể thấy rơ ràng như vậy.
Năng lực nghe cũng giống như thế, chẳng
cần phải dùng bất cứ máy móc nào, chẳng cần
chúng giúp đỡ, đó là năng lực của quư vị.
Đó là bổn năng (năng lực sẵn có); chỉ cần
trừ khử chướng ngại, quư vị sẽ khôi phục
[bổn năng ấy]. Các nhà khoa học trong hiện thời
cũng thừa nhận, các nhà khoa học nói ǵ? Trong vũ
trụ xác thực là có các chiều không gian khác nhau. Thế
giới của chúng ta là không gian ba chiều, có không gian bốn
chiều, cho đến không gian vô lượng vô biên chiều!
Các chiều không gian được tạo thành như thế
nào? Do vọng tưởng, phân biệt, chấp trước
tạo thành, phải biết không gian chẳng có các chiều.
Đó là sự thật!
Nếu quư vị lại buông xuống phân biệt,
vậy th́ quư vị thuộc địa vị Bồ Tát,
cao hơn A La Hán, lại nâng cao hơn. Vậy th́ những ǵ quư vị trông thấy, chúng tôi nêu một thí dụ, khả năng thấy của
quư vị lại khuếch đại. Quư vị có thể
khuếch đại đến một đại thiên thế
giới. Một đại thiên thế giới là mười
ức hệ Ngân Hà. Đấy là hàng Bồ Tát thông thường.
Đọc kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy Bồ Tát có năm
mươi mốt đẳng cấp. Bồ Tát trông thấy
một đại thiên thế giới là địa vị
ǵ? Theo kinh Hoa Nghiêm, Bồ Tát thuộc địa vị Bát Tín
hoặc Cửu Tín sẽ trông thấy. Khi đạt đến
địa vị Thập Tín, Ngài chẳng phải là thấy
một đại thiên thế giới, mà có thể thấy
một trăm đại thiên thế giới, một ngàn
đại thiên thế giới, một vạn đại
thiên thế giới, tới cuối cùng, quư vị có thể
trông trọn khắp pháp giới hư không giới. Đấy
là bổn năng của chính ḿnh, trí huệ, đức
năng, tướng hảo của quư vị vốn là
như vậy. Tướng hảo chẳng phải chỉ
là ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo.
Đấy là đức Phật nói phương tiện. Từ
kinh Hoa Nghiêm, quư vị thấy đó, “thân có vô lượng tướng, mỗi tướng
có vô lượng hảo”. Hết thảy chúng sanh vốn
là t́nh trạng như thế, cớ sao nay lại đáng
thương ngần ấy? “Trái
nghịch tự tánh” tức là sở hành của chúng ta
trái nghịch. Sở hành trái nghịch th́ chẳng thành Nhất
Thiết Trí, mà thành ǵ? Thành lục đạo, tam đồ.
Khởi tâm động niệm toàn là ích kỷ, chẳng giống
Phật, Bồ Tát. Phật, Bồ Tát khởi tâm động
niệm là cứu khổ, cứu nạn. Nơi nào có tai nạn,
các Ngài sẽ đến nơi ấy. Phật, Bồ Tát
chưa hề nói “lánh nạn”.
Chư vị biết đại nguyện của
Địa Tạng Bồ Tát là “địa
ngục chẳng trống, thề không thành Phật”. Ngài
đến nơi đâu để độ chúng sanh? Trong
pháp giới, chúng sanh khổ sở nhất là trong địa
ngục. Ngài vào địa ngục độ chúng sanh. Những
vị Bồ Tát khác v́ sao không vào? Thưa cùng chư vị, chỉ cần
vào địa ngục độ chúng sanh th́ đều gọi
là Địa Tạng Bồ Tát! Địa Tạng Bồ
Tát chẳng phải là một vị, quá nhiều! V́ thế,
phải biết [danh hiệu của] Phật, Bồ Tát, La
Hán đều là thông hiệu (通號, danh hiệu chung), chẳng phải là danh hiệu
chuyên biệt của một vị, mà là thông hiệu. Giống
như chúng ta học hành trong nhà trường, học các
khoa hệ khác nhau. Giáo hóa chúng sanh trong địa ngục,
quan trọng nhất là dạy ǵ? Khóa tŕnh cơ bản. V́
sao? Họ ngay cả khóa tŕnh cơ bản cũng trái nghịch.
Khóa tŕnh cơ bản là “hiếu
thân, tôn sư” (hiếu thảo với cha mẹ, tôn kính
thầy). Quư vị thấy học hành tại Trung Hoa
xưa kia, tài liệu dạy vỡ ḷng cho trẻ là Tam Tự
Kinh, câu đầu tiên là “nhân
chi sơ, tánh bổn thiện, tánh tương cận, tập
tương viễn, cẩu bất giáo, tánh năi thiên, giáo chi đạo,
quư dĩ chuyên” (con người thoạt đầu tánh vốn
lành. Tánh th́ gần giống như nhau, do huân tập mà thành
khác xa nhau. Nếu chẳng được dạy dỗ,
tánh sẽ thay đổi. Đường lối để
dạy dỗ, cốt yếu là chuyên tinh). Vừa mở
đầu đă nói đến sự giáo dục. Dạy ǵ
vậy? Dạy luân lư, mở đầu luân lư là “phụ tử hữu thân”, “quân thần hữu nghĩa, phu
phụ hữu biệt, trưởng ấu hữu tự,
bằng hữu hữu tín” (cha con có t́nh thân, vua tôi có
nghĩa, vợ chồng có trách nhiệm khác biệt, lớn
nhỏ có tôn ty trật tự, bạn bè có chữ tín). Giáo dục
trong thời đại thượng cổ là dạy những
điều ấy!
V́ thế, “cha từ,
con hiếu” là cội gốc giáo dục. Cha mẹ dạy
con cái phải tôn sư trọng đạo. Thầy dạy
tṛ phải hiếu thuận cha mẹ, ân đức của
hai đằng to như nhau. Suốt một giải Giang Nam
của Trung Hoa, quư vị thấy họ thờ bài vị tổ
tiên, hiện thời ít lắm, trước kia th́ nhà nào
cũng đều có. Nhà nào chẳng thờ bài vị tổ
tiên, coi sao được? Đó chẳng phải là người!
Trên bài vị tổ tiên viết ǵ vậy? “Thiên địa quân thân sư” (Trời,
đất, vua, cha mẹ, thầy), thờ bài vị ấy.
V́ thế, thầy cũng được thờ trên đó.
Trời đất th́ trời che phủ ta, đất
chuyên chở ta, “quân” (君) trước kia là đế vương, tức là
người lănh đạo quốc gia, họ bảo vệ
chúng ta. Tiếp đó là cha mẹ, tức Thân (親), rồi đến Thầy. Những điều này
đều thuộc về Tánh Đức.
Giáo dục hưng khởi; v́ thế, giáo dục
tại Trung Hoa từ xưa tới nay, cả năm ngàn
năm đều là một tư tưởng như thế,
đều là một tông chỉ như vậy, tức là t́nh thân ái giữa cha và con. Trong mục đích giáo dục, mục đích đầu
tiên là làm thế nào để có thể vĩnh viễn ǵn
giữ bất biến t́nh thân ái giữa cha và con trong suốt
một đời, mục đích giáo dục đă đạt
được. Mục tiêu thứ hai là phải phát huy rạng
rỡ t́nh thân ái ấy. Từ t́nh yêu thương cha mẹ, mở rộng
thành yêu thương anh em, yêu thương gia tộc của
quư vị, yêu thương xă hội, yêu thương quốc
gia, yêu nhân loại, yêu chúng sanh, khuếch đại từng
tầng một. Đấy là quan niệm giáo dục của
Trung Hoa suốt mấy ngàn năm, quư vị phải thấu
hiểu. Nói theo kiểu hiện thời, giáo dục của
Trung Hoa, giáo dục của thánh hiền là giáo dục yêu
thương. Quư vị yêu thương con người, làm
sao có thể hại con người cho được? Quư vị
thấy trong Đệ Tử Quy “phàm
là người đều phải yêu thương”. Phàm
là người, chẳng phân biệt quốc gia, chẳng
phân biệt sắc tộc, chẳng phân biệt tôn giáo, người
và người đối đăi b́nh đẳng, chung sống
ḥa thuận. “Ḥa thuận”:
Trong Thuận c̣n có ư nghĩa tương thân tương ái.
V́ thế, chẳng nói là ḥa b́nh, mà là ḥa thuận. Ḥa là hài
ḥa! Đấy quan niệm cơ bản trong giáo dục
Trung Hoa, hoàn toàn là “sở hành vô
nghịch”.
Ngày nay, xă hội hiện thời có thể
nói là “sở hành đều nghịch”,
hoàn toàn trái nghịch Tánh Đức. Do vậy, mới bày ra
một bầu hỗn loạn, hỗn loạn đến mức
chướng khí mịt mù. Tôi ở Hương Cảng một
khoảng thời gian, dẫu vào ngày nắng ráo, chẳng thấy
trời xanh, mây trắng; ngẩng đầu nh́n lên không trung, thấy
một bầu hỗn độn, ô trược. Trong tháng
Tư, tôi tham gia hội nghị ở Hàng Châu. Sau khi tham dự
xong, tôi đến Bắc Kinh. Từ Bắc Kinh đến
Vân Nam, từ Vân Nam trở lại Hương Cảng. Ngồi
trên máy bay, thấy phía dưới là một bầu hỗn
độn, ô trược, là một khoảng mù mịt, cho
thấy không khí đă bị ô nhiễm nghiêm trọng ngần
ấy. Khi tôi bay ở vùng Thái B́nh Dương, khu vực Úc Châu
khác hẳn. Ở trên không của Thái B́nh Dương, quư vị
nh́n xuống dưới, có thể thấy nước biển
sạch sẽ. Trên không trung của Úc có thể thấy mặt
đất rành rành. Ở trên không trung của Trung Hoa, trên
không phận của cả vùng này, thấy một bầu mù
mịt. V́ sao thành ra t́nh trạng này? Từ đầu năm đến cuối
năm, xác thực là rất khó có mấy
ngày trông thấy trời xanh, buổi tối có thể thấy
các ngôi sao. Chuyện này chắc chắn chẳng thể nói
là hiện tượng tự nhiên. Hiện tượng tự
nhiên có mối quan hệ mật thiết với ḷng người,
Phật pháp nói là “cảm ứng”.
Tâm hạnh thiện, núi, sông, đại địa, hết
thảy chúng sanh, chẳng có ǵ bất thiện. Tâm hạnh
bất thiện, sẽ chẳng có ǵ là thiện.
Chuyện này trong kinh giáo đă nói rất nhiều:
“Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng”! Hiện thời, cư dân trong khu vực
này, hết thảy các chúng sanh ấy, tâm họ tưởng
điều ǵ? Toàn là tưởng tham, sân, si, mạn, nghi; quư
vị nói xem, c̣n làm sao được nữa! Đấy là
trái nghịch tự tánh một trăm tám mươi độ.
Trong kinh, đức Phật đă nói rất rơ ràng: Tham lam
là ngạ quỷ, sân khuể là địa ngục, ngu si là
súc sanh. Do vậy, trong ngạ quỷ đạo, trời
đất vĩnh viễn tối tăm, sương khói mịt mờ, chẳng thấy mặt trời, mặt
trăng, mà cũng chẳng thấy tinh tú, giống như
ngày âm u vậy. Đấy là khí hậu trong đường
ngạ quỷ, do điều ǵ tạo thành? Tham lam. Địa
ngục đạo hết sức khổ sở, có thể
địa ngục là một bầu biển lửa, trong
tám địa ngục lạnh cũng là một bầu biển
lửa. Đó là do điều ǵ biến ra? Cái tâm sân khuể
biến ra. Sân khuể là lửa, tham dục là nước,
ngu si là gió, đấy là nguồn cội của Tam Tai. Thủy
tai, hỏa tai, núi lửa bùng nổ đều thuộc về
hỏa tai, gió lốc, băo tố làm sao có thể nói là chẳng
có mối quan hệ với ḷng người?
Giáo huấn của thánh hiền, giáo huấn
của Phật, Bồ Tát chẳng có ǵ khác, [chỉ nhằm]
khiến cho chúng ta trở về tự tánh. Do đó, các Ngài
dạy chúng ta phải xa ĺa ngũ dục, lục trần, những
thứ ấy chắc chắn đừng nên tham luyến,
hễ quư vị có những thứ ấy th́ sai mất rồi.
Quư vị phải học theo Phật, Bồ Tát; Phật, Bồ
Tát liễu giải chân tướng sự thật, trong tự
tánh chẳng có những thứ ấy. Những thứ có
trong tự tánh là trí huệ, đức năng, vô lượng
tướng hảo; người hiện thời nói là “chân, thiện, mỹ, huệ”;
đấy là Tánh Đức. Người thế gian chỉ
biết những danh từ và danh tướng ấy, [tức
danh từ] “chân, thiện, mỹ,
huệ”. Trên thực tế, “chân,
thiện, mỹ, huệ” họ chẳng thấy một
chữ nào! Không chỉ là chẳng trông thấy, [mà c̣n] chẳng
có cách nào lănh hội; do đó, hữu danh vô thực.
Nhưng đối với người tu hành, hữu danh hữu thực, quư vị chỉ cần buông xuống những
thứ trái nghịch tự tánh. Mă Minh Bồ Tát dạy chúng
ta: “Bổn Giác vốn có, bất
giác vốn không”. [Nói cách khác], bổn thiện vốn có,
bất thiện vốn không. Vốn là không, đương
nhiên là có thể đoạn trừ, chỉ cần quư vị
chịu buông xuống là đoạn được. Vốn
có, đương nhiên là có thể khôi phục, nhất
định có thể khôi phục thuần tịnh thuần
thiện. Quư vị phải thật sự làm, nói thật ra,
hoàn toàn chẳng khó!
Đức Phật dạy hết thảy
chúng sanh, xét theo phương thức, Ngài có ba loại [phương
thức dạy dỗ] lớn:
1) Thứ nhất là nêu chỉ, đấy là
nói với hạng thượng căn. Chỉ cần đề
ra, chỉ bày, họ liền hiểu rơ. Đó gọi là “nghe một biết mười, nghe
một ngộ cả ngàn”. Đấy là bậc thượng
căn.
2) Kẻ trung căn, sau khi đă nêu bày, c̣n phải
khuyên dạy.
3) Kẻ hạ căn th́ nhất định
phải nêu gương cho họ thấy, khiến cho họ
thật sự trông thấy, họ mới tin tưởng!
Chiều hôm nay, Tề cư sĩ đến
đây, ở trong đạo tràng của chúng ta. Tôi nghe nói
bà ta từ Cao Hùng đến. Bốn mươi năm
trước, tôi ở Phật Quang Sơn tại Cao Hùng. Thuở
đó, Phật Quang Sơn vừa mới khai sơn, pháp
sư Tinh Vân mở Phật học viện, mời tôi đến
dạy. Tôi ở đó mười tháng. Có một buổi tối,
có một công nhân. Phật Quang Sơn từ đầu
năm đến cuối năm đều có công tŕnh [kiến
thiết], v́ thế, công nhân của họ là công nhân dài hạn.
Có một vị công nhân là người làng Tướng Quân ở
Đài Nam, mười mấy đồng học chúng tôi, buổi
tối, dưới ánh trăng, thảo luận về bài học
tại đó. Người ấy đến chỗ chúng
tôi, cũng là đến nghe. Nghe một lúc, người ấy
bảo chúng tôi, khuyên chúng tôi hăy niệm Phật cầu văng
sanh. Ông nói [văng sanh] là thật, chẳng giả tí nào! Tôi nói:
“Sao ông biết là thật?”
Ông ta kể: Năm ngoái, [tức là] năm ngoái của khi
đó, đồng hương với bọn họ (tức
là [những người sống trong] làng Tướng Quân)
có một bà cụ niệm Phật ba năm, đứng
văng sanh, [ông ta] đích thân trông thấy, [bà cụ] chẳng
ngă bệnh!
Ông ta nói bà cụ ấy là người rất
tốt, là hảo nhân, hết sức từ bi. Trong quá khứ,
bất luận là Phật cũng lạy, mà thần cũng
lạy, cụ cũng chẳng hiểu, đúng là đến lễ
bái khắp nơi. Ba năm trước đây, cụ
cưới dâu. Con dâu học Phật, liền khuyên cụ chớ nên đi ra ngoài lạy lục, chẳng cần
phải lễ bái lung tung, trong nhà lập Phật đường,
chuyên niệm A Di Đà Phật, chuyên lạy A Di Đà Phật.
Bà cụ ấy thiện căn rất sâu dầy, nghe theo lời
khuyên nhủ của con dâu. Từ đấy trở đi,
chẳng đi ra ngoài lạy lục lung tung nữa, ở nhà niệm Phật, niệm
đă ba năm. Con trai và con dâu rất hiếu thuận;
hôm bà cụ văng sanh, cụ bảo
con trai và con dâu, bà cụ chẳng nói ḿnh sắp văng sanh. Khi ăn cơm tối, bà cụ bảo: “Các con
ăn trước đi, không cần chờ mẹ. Mẹ đi
tắm, cứ ăn trước đi”. Con trai và con dâu vẫn
chờ bà cụ, đợi rất lâu, chẳng thấy bà
cụ ra. Vào trong pḥng xem, bà cụ thật sự đă tắm rửa xong,
thay quần áo, gọi th́ không có ai trả lời. Đi
đến gian thờ Phật nhỏ của bà cụ, [họ trông thấy] bà cụ mặc áo hải thanh, đứng trước
tượng Phật, tay cầm xâu chuỗi, gọi th́ bà cụ
cũng không trả lời. Đến trước mặt
nh́n kỹ, cụ đă qua đời, đứng mất.
Hàng xóm đều trông thấy, thật đấy, chẳng
giả tí nào, ba năm đấy nhé!
Bà cụ cũng rất thông minh, chẳng nói
cụ sắp văng sanh để tránh người trong nhà trở
ngại cụ. Cụ đi rồi, đến khi người
nhà biết, cụ đă mất rồi. Chuyện này rất
nhiều người ở phía Nam đều biết.
Dường như là mười một, mười hai
năm trước, thuở ấy tôi giảng
diễn một lần tại đại học Trung Sơn ở phía
Nam Đài Loan, nhắc đến
chuyện này. Thính chúng giơ tay, nói họ biết, họ bảo
họ biết chuyện này, chẳng giả! Điều kiện
để văng sanh là ǵ? Chẳng có ǵ khác, phải buông xuống! V́ thế, vị đường chủ
Niệm Phật Đường thường nói, buông xuống
thân, tâm, thế giới, một câu Phật hiệu đă
đủ rồi!
V́ thế, tối hôm ấy, tôi có ấn
tượng rất sâu. Vị công nhân ấy đă kể
cho chúng tôi nghe sự từng trải của bà cụ niệm
Phật văng sanh, khuyên chúng tôi nhất định phải
nghiêm túc niệm Phật, chẳng giả tí nào! Đấy
mới là tùy thuận Tánh Đức một trăm phần
trăm, thật sự thành Nhất Thiết Trí, sanh sang Tây
Phương Cực Lạc thế giới bèn thành Phật.
Trong thời kỳ Mạt Pháp, trừ pháp môn này ra, đối
với các pháp môn khác mà mong thành tựu trong một đời,
đúng là hết sức khó khăn, ngay cả chứng A La
Hán cũng chẳng dễ dàng, huống hồ thành Phật.
Chỉ riêng có pháp môn Tịnh Độ này là có thể thành
tựu. A! Nay đă hết thời gian rồi, chúng ta nghỉ
ngơi mấy phút.
***
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem bài kệ tiếp theo
đó, tức bài kệ thứ tám:
(Kinh) Nhiễu tháp tam táp, đương nguyện
chúng sanh, cần cầu Phật đạo, tâm vô giải hiết.
(經)繞塔三匝。當願眾生。勤求佛道。心無懈歇。
(Kinh: Nhiễu tháp ba ṿng, nguyện cho chúng sanh, siêng
cầu Phật đạo, tâm chẳng biếng trễ).
Bài kệ này dạy chúng ta, học Phật
phải biết tinh tấn. Phật pháp nói về thiện
căn, thiện căn trong pháp thế gian có ba loại là vô
tham, vô sân, vô si, [ba loại ấy] có thể sanh ra hết thảy
các thiện pháp thế gian. V́ thế, chúng được gọi
là ba thiện căn. Tương phản với ba thiện
căn là tham, sân, si, được gọi là Tam Độc.
Tam Độc phiền năo cũng là hết thảy tất
cả ác pháp, pháp bất thiện trong thế gian đều
sanh từ ba món ấy, chúng ta nhất định phải
biết điều này. Muốn thành tựu hết thảy
thiện pháp thế gian, vậy th́ quyết định phải
nhớ: Quyết định phải đoạn tham, sân, si.
Thật sự đoạn trừ tham, sân, si, sẽ là Tứ
Quả La Hán. Trong hội Hoa Nghiêm, quả vị Bồ Tát
là Thất Tín vị Bồ Tát, đoạn trừ tham, sân,
si, người ấy sẽ thành Chánh Giác. Đối với
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, người ấy
đă đắc Chánh Giác. Trong toàn thể giáo pháp Đại
Thừa, vị ấy đă thành tựu giai đoạn thứ
nhất, giống như chúng ta đi học, đấy là
học vị, học vị thứ nhất tức Học
Sĩ (Cử Nhân) người ấy đă đạt
được. A La Hán là danh từ dùng trong Phật môn, nếu
dùng quy chế trong trường học hiện thời để sánh
ví, [A La Hán] là Học Sĩ. Bồ Tát là Thạc Sĩ, Phật
Đà là Tiến Sĩ.
Học vị cao nhất được
gọi là Phật Đà, chớ nên không biết điều
này. Do vậy, trong Phật môn, Phật, Bồ Tát, La Hán
đều là danh xưng học vị.
Quư vị có thể buông xuống chấp
trước, đối với hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian đều chẳng c̣n chấp
trước nữa, quư vị đă đạt được
học vị thứ nhất, đă nắm được
Chánh Giác. Lại tiến cao hơn, không chỉ là chẳng
chấp trước, mà tâm phân biệt cũng chẳng có, sẽ
là Bồ Tát. Bồ Tát được gọi là Chánh Đẳng
Chánh Giác. Đẳng (等) là bằng với Phật. “Bằng với
Phật” th́ đương
nhiên vẫn chưa phải là một vị Phật thật
sự, “bằng với Phật” mà! Học vị cao nhất
là Phật Đà, Phật Đà là Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, chẳng c̣n ǵ cao hơn nữa, địa vị
này đă đạt tới tột đỉnh. “Nhiễu tháp ba ṿng” cũng có
ư nghĩa này. V́ sao nhiễu ba ṿng? Thứ nhất là đoạn
Kiến Tư, thứ nh́ đoạn Trần Sa, thứ ba
đoạn vô minh. Đấy là sự
biểu thị pháp. Nói theo sự chứng quả, ṿng thứ
nhất là chứng A La Hán, ṿng thứ hai là chứng Bồ
Tát, ṿng thứ ba là chứng Phật quả. Ư nghĩa biểu
thị pháp rất nhiều, chúng ta suy ngẫm, sẽ có thể
thấu hiểu. V́ thế, dẫn phát đại nguyện
“đương nguyện chúng sanh,
cần cầu Phật đạo, tâm vô giải hiết”
(nguyện cho chúng sanh, siêng cầu Phật đạo, tâm chẳng biếng trễ). “Giải”
(懈) là giải đăi, “hiết”
(歇) là nghỉ ngơi. Giải đăi bèn biếng nhác, tán loạn. Nghỉ ngơi chắc chắn sẽ thoái chuyển.
Tu hành và cầu học đều là cùng một
đạo lư. Cổ nhân ví von “như
thuyền đi ngược nước, không tiến ắt
lùi”, v́ sao? Từ vô lượng kiếp
đến nay, tâm tánh của phàm phu luôn bị tập khí phiền
năo huân tập. Như vậy th́ quư vị sẽ hiểu: Tập
khí phiền năo đă huân tập trong thời gian bao lâu? Vô
lượng kiếp ở trong lục đạo. Trong lục
đạo có thiện và ác, chúng ta có thể thấu hiểu,
chắc chắn là thiện ít, ác nhiều. Do vậy, đức
Phật nói căn bản phiền năo có hai mươi sáu thứ,
tức là hai mươi sáu loại lớn. Ngài bảo Thiện
Tâm Sở chỉ có mười một loại, Phiền Năo
Tâm Sở gồm hai mươi sáu món; đấy là nói về
vọng tâm của chúng ta, cũng là nói về thức tâm, tức
tám thức, [gọi chung là] thức tâm. Đối với Phiền
Năo Tâm Sở trong thức tâm, so sánh giữa bất thiện
Tâm Sở và thiện Tâm Sở th́ [bất thiện Tâm Sở]
nhiều hơn gấp đôi, hai mươi sáu món! Đó là lư do v́
sao con người học theo cái xấu rất dễ dàng, học cái
tốt rất khó? Chẳng phải là quư vị đă hiểu
rơ đạo lư này ư? Chủng tử tập khí trong A Lại
Da Thức, bất thiện nhiều, thiện ít, thiện
Tâm Sở và bất thiện Tâm Sở chẳng cân xứng.
Đức Phật phân loại như thế, Tâm Sở thiện
và ác khác nhau, số mục khác nhau, mà trên thực tế nay
chúng ta có thể hiểu thấu. Nói theo tập khí, phải
biết là có thể nói như thế này: Tập khí bất
thiện chiếm đến tám chín phần mười, tập
khí thiện chỉ có một, hai phần mười. Do vậy,
học theo cái tốt rất khó, c̣n học theo cái xấu rất
dễ dàng.
Tại Trung Hoa, trong quá khứ, tinh thần của
nền giáo dục xa xưa xác thực là luôn ngăn ngừa, chấm dứt ngay từ lúc mới manh nha; v́ thế, dạy học
hết sức nghiêm ngặt, chỉ sợ trẻ nhỏ học
theo cái xấu xa. Do đó, rất nghiêm ngặt. Vua Khang Hy dạy
con cái của chính ḿnh: “Trước
khi tṛn hai mươi tuổi, thi từ lẫn ca phú đều
chẳng cần học, hăy chú trọng kinh sử tử
thư”, V́ sao? Sợ học theo thói xấu. Trong tác phẩm
văn học, vào thời cổ, cũng luôn có nguyên tắc,
đó là “tư vô tà” (không
nghĩ tà vạy), luôn giữ vững nguyên tắc này,
nhưng mức độ cởi mở rất
lớn, c̣n kinh sách hết sức nghiêm ngặt, cẩn trọng.
V́ thế, trước khi đầy hai mươi tuổi,
chánh yếu là học kinh điển, [thường nói là] “kinh học”. Sử học là
hấp thụ giáo huấn, lịch sử là kết tinh từ
kinh nghiệm của nhân loại. Xét xem những nhân vật
xưa nay thành công, họ đă dựa vào ǵ để thành
công? Thất bại th́ do nguyên nhân nào mà thất bại? Sự
thành bại của cá nhân, quốc gia, xă hội hưng suy,
lịch sử là một tấm gương soi. Dùng hai thứ
ấy (kinh điển và sử sách) làm môn tu học chánh yếu.
Khang Hy là một người rất thông minh, xác thực là
siêng năng lo việc triều chánh, yêu dân, quản giáo con
cái hết sức nghiêm ngặt. Trong cung đ́nh, thường
xuyên không ngừng mời chuyên gia, học giả đến
giảng dạy, lên lớp trong cung đ́nh.
Năm ngàn năm qua, Trung Hoa yên ổn ḥa
b́nh, là v́ lẽ nào? Chính là “kiến
quốc, quân dân, tu thân vi bổn, giáo học vi tiên” (xây dựng
đất nước, cai trị nhân dân, tu thân làm gốc,
giáo học làm đầu), đó là ba câu thuộc về
nguyên tắc chỉ đạo. Giáo dục truyền thống
suốt năm ngàn năm của Trung Hoa chẳng ĺa khỏi
nguyên tắc này, vĩnh viễn tuân theo nguyên tắc này. Cho
đến thời Dân Quốc, nguyên tắc ấy mới bị
vứt bỏ, học theo người phương Tây, vứt
bỏ những thứ của tổ tiên chính ḿnh. Trong một
trăm năm nay, nhân dân Trung Hoa chịu đủ mọi
khổ nạn, nỗi khổ nạn ấy do đâu mà có,
chúng ta phải biết. Chính là do đă vứt bỏ giáo huấn
của tổ tiên mà gặp phải tai nạn to lớn như thế.
Giáo huấn của tổ tiên là giáo dục yêu thương.
Yêu thương th́ sẽ chẳng hại người, yêu
thương th́ sẽ tôn kính con người, yêu
thương th́ nhất định có thể chăm sóc
người khác, có thể giúp đỡ người khác,
có thể xả thân v́ người khác, chẳng phải là tổn người lợi ḿnh. Tổn người lợi
ḿnh là trái nghịch Tánh Đức. Dẫu chính ḿnh chịu
khổ mắc nạn, vẫn chẳng thể tổn
người lợi ḿnh. Trong ấy có giáo dục nhân quả.
Đă thông hiểu giáo dục nhân quả, chính ḿnh chịu
khổ chịu nạn, họ chẳng oán trời hờn
người, khi ấy sẽ làm như thế nào? Cổ
thánh tiên hiền đă dạy chúng ta: “Hành hữu bất đắc, phản cầu chư
kỷ” (Có chuyện ǵ chẳng làm được, hăy xét lại
ḿnh). Tức là khi chúng ta gặp chuyện chẳng vừa
ư, chính ḿnh phải nên khéo phản tỉnh, kiểm điểm, sửa lỗi,
đổi mới, cầu sám hối, tiêu nghiệp chướng.
Như vậy th́ mới có thể chuyển biến vận
mạng của chính ḿnh, chẳng hề oán trời hờn
người.
Chư vị xem Liễu Phàm Tứ Huấn sẽ
hiểu rơ, xem thứ mới được ra mắt gần
đây nhất là Du Tịnh Ư Ngộ Táo Thần Kư, hai thứ
ấy là tài liệu giáo dục điển h́nh về sửa
đổi vận mạng. Quư vị phải xem hai thứ ấy cho nhiều để
biết sửa đổi vận mạng của chính ḿnh bằng
cách nào? Sửa đổi vận mạng tối
thượng thừa là thành Phật, thành Bồ Tát ngay trong
đời này; đấy là tối thượng thừa. Trong
phần trước, tôi đă nhắc tới bà cụ ở
làng Tướng Quân vào hơn bốn mươi năm
trước, niệm Phật ba năm, đứng văng sanh.
Đấy là thành tựu thượng thừa. Nếu quư vị
hỏi do nguyên nhân ǵ ư? Chẳng có ǵ khác, buông xuống được! Chẳng
lưu luyến mảy may, vậy là quư vị tăng cao từng
tầng một. Hễ có mảy may chẳng buông xuống được,
sẽ là chướng ngại nghiêm trọng.
Hôm trước, tại Thâm Quyến có Hoàng cư
sĩ, ba mươi tám tuổi văng sanh, cũng là niệm Phật hai năm mười tháng. Hôm qua, tôi
mới thấy phần tài liệu này. Ông ta nghe nói tai nạn
nghiêm trọng, tức là thế
gian này bị tai nạn nghiêm trọng, chính ḿnh cũng cảm
nhận rất sâu đậm, chẳng muốn hứng chịu
tai nạn ấy, mong trước khi tai nạn
xảy đến bèn văng sanh, ông ta thật sự làm
được. Ông ta phát ra nguyện ấy, nêu gương cho mọi người,
niệm Phật ba năm thật sự có thể văng sanh.
Chuyện này khó có, ông ta đă làm gương. Ông ta chỉ
niệm hai năm mười tháng, c̣n thiếu hai tháng mới
đủ ba năm, đă biết trước lúc mất.
Tôi xem tài liệu về ông ta: Trong hai năm ấy, ông ta bế
quan, chỉ ngữ, tức là không nói năng, hết thảy
đều buông xuống. Mỗi ngày nghe kinh sáu giờ, niệm
Phật mười một tiếng đồng hồ,
chưa hề gián đoạn. Bỏ luôn ăn cơm tối,
tâm địa thanh tịnh. Ông ta đă nêu gương, làm
theo h́nh thức ấy, chẳng có một ai không văng sanh!
Trong tâm khởi tâm động niệm bèn chỉ tưởng
A Di Đà Phật, chỉ niệm A Di Đà Phật, chỉ
lạy A Di Đà Phật, một bộ kinh Vô Lượng
Thọ, một câu Nam-mô A Di Đà Phật, ông ta thành tựu.
Tôi xem tài liệu này rất cảm động,
[gương sáng] ở ngay trước mắt, là chuyện
hôm trước. Trước khi văng sanh, ông ta nói với các
đồng học bên đó, muốn sang Hương Cảng
gặp tôi. Chúng tôi giảng kinh th́ bốn giờ rưỡi
bắt đầu, có khi trễ hơn một chút, đại
khái là bốn giờ ba mươi lăm phút, ông ta ra đi
lúc bốn giờ năm mươi phút, thật sự ra
đi. Khi hỏa táng, có xá-lợi, có hoa xá-lợi. Tôi dặn
ḍ các đồng tu bên đó hăy thu thập, thờ phụng
cẩn thận. Đấy là tấm gương cho người
niệm Phật chúng ta, đấy là thành tựu thật sự.
Ông ta tốn thời gian hai năm mười tháng, “cần cầu Phật đạo,
tâm vô giải hiết” (siêng cầu Phật đạo, tâm
chẳng biếng trễ), ông ta đă làm được tám
chữ ấy, tịnh nghiệp bèn viên măn.
Phàm là người niệm Phật nhiều
năm mà ngay cả tin tức cũng chẳng có, do nguyên
nhân nào? Giải đăi, lười nhác, tán loạn, hằng
ngày niệm Phật như có, như không. Hằng ngày nghe kinh
cũng giống như thế. Tập khí phiền năo chẳng
đoạn, nghe kinh suốt đời, vẫn mê hoặc,
điên đảo, thậm chí giảng kinh suốt đời,
đến khi lâm chung vẫn tay chân cuống quưt, đấy
là do nguyên nhân ǵ? Chẳng buông xuống. Chuyện mắc mứu
trong dạ quá nhiều, những chuyện mắc mứu
trong ḷng chẳng có ǵ là thật, toàn là giả. Biết giảng
kinh Bát Nhă, thật ra chẳng hiểu! “Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư
vọng”, kẻ ấy biết niệm, biết giảng,
nhưng chẳng làm được! Kẻ ấy vẫn
coi tất cả hết thảy các pháp trong thế gian, vẫn coi thân thể
này là thật, làm thế nào đây? Chúng ta đành phải
nói, “tập khí nghiệp chướng quá nặng!” Đời
này chẳng thể thành tựu, chắc chắn sẽ luân
hồi, luân hồi hết sức đáng sợ, hết sức
kinh hoàng!
Nếu chúng ta chẳng dấy khởi cái tâm
cảnh giác, năm trước, chúng tôi có biên tập một
bộ sách, tức là từ trong Đại Tạng Kinh, [đối
với những đoạn] đức Phật giảng về
địa ngục, hoặc nói liên quan đến địa
ngục, chúng tôi trích lục toàn bộ, sao chép, biên tập
thành một quyển sách, tổng cộng thu thập từ
hai mươi lăm bộ kinh luận. Tôi đặt tựa
đề cho bộ sách ấy là Chư Kinh Phật Thuyết
Địa Ngục Tập Yếu. Nếu tâm cảnh giác chẳng
dấy lên nổi, đọc kỹ bộ
sách này, quư vị thấy đức Phật giảng về
t́nh h́nh trong địa ngục c̣n hay hơn bộ Ngọc Lịch Bảo Sao. Ngọc Lịch
Bảo Sao[1]
là sách của Đạo giáo, lưu thông rất rộng,
trong ấy nói về quả báo rất
nhiều, vẫn chẳng nhiều như đức Phật.
Kinh Phật nói tỉ mỉ hơn sách ấy rất nhiều.
[Trong Ngọc Lịch Bảo Sao] nghiệp nhân [được
nhắc đến] ít hơn, tạo nghiệp nhân ǵ sẽ
mắc phải quả báo ǵ, sách ấy chẳng nói rơ ràng
cho mấy; nhưng Chư Kinh Phật Thuyết Địa
Ngục Tập Yếu nói tỉ mỉ. Nếu quư vị thật
sự thường đọc, thường kiểm điểm,
thường xuyên phản tỉnh, quư vị sẽ thật
sự cảm nhận địa ngục rất kinh hăi, quá
đáng sợ!
Đời Tống, pháp sư Oánh Kha có thể
văng sanh chẳng do ǵ khác! Sư biết địa ngục
khổ sở, v́ sao Sư có thể dũng mănh tinh tấn? Sư
sợ đọa địa ngục. Do vậy, sách này có thể
cảnh giác chính ḿnh, có thể nhắc nhở chính ḿnh, chẳng
dám giải đăi. Đọc xong, hăy suy ngẫm về chính
ḿnh cho kỹ, chính ḿnh thông thường khởi tâm động
niệm, ngôn ngữ, tạo tác, chẳng phải là quư vị
luôn tạo nghiệp nhân địa ngục đó chăng?
Đức Phật dạy chúng ta học tập, trong mấy
năm nay, chúng tôi đặc biệt đề xướng
Đệ Tử Quy, có làm được hay không? Tôi thường
nói đến ba căn cội của Nho, Thích, Đạo:
Đệ Tử Quy của Nho gia, Cảm Ứng Thiên của
Đạo giáo, Thập Thiện Nghiệp của Phật
pháp. Đấy là ba căn cội của Nho Thích Đạo,
quư vị có thể khéo tu ba căn cội ấy, làm
được một trăm phần trăm, chắc chắn
quư vị sẽ chẳng đọa vào ba ác đạo. Chẳng
thể văng sanh th́ đời sau chẳng mất thân người,
tu đàng hoàng c̣n có thể sanh lên trời, chớ nên không biết
điều này, chớ nên không cảnh giác! Hễ đánh mất
thân người, vạn kiếp chẳng có lại
được. Lời cổ đại đức đă
nói chẳng phải là lừa người, câu nào cũng là
lời chân thật. Chỉ có kẻ thật sự thấu
hiểu, trông thấy, đọc đến, sẽ cảm
động. Đúng là đau đớn tuôn lệ, v́ sao
chính ḿnh đọa lạc đến nông nỗi này? Trong chớp
mắt, sẽ vào tam đồ. V́ sao trong mấy năm nay,
chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh Đệ Tử
Quy là khóa tŕnh căn bản của tam giáo? Chỉ nhằm một
mục đích, hy vọng quư vị sẽ chẳng đọa
vào ba ác đạo, hy vọng quư vị đời sau giữ
được thân trời, người. Trong đời
này chẳng thể tăng tấn th́ đời sau c̣n
cơ hội tăng tấn. Nếu đời sau chẳng
được làm thân người, phiền phức sẽ
to lớn, nhất định sẽ đọa lạc.Vào
ba ác đạo dễ dàng, thoát ra khó lắm!
Trong mấy năm nay, chúng tôi tiếp xúc
không ít linh môi (spiritual medium). Do có những linh quỷ, thần
linh dựa vào thân người, tiết lộ đôi chút tin
tức cho chúng tôi. Tại Trung Hoa và ngoại quốc tôi
đều gặp được. Những tin tức hé lộ,
do những người khác nhau, ở các khu vực khác nhau,
những linh môi ấy chẳng quen biết nhau, nhưng những trạng huống
nói ra đại để là tương đồng, họ
đều nói đến nỗi khổ trong địa ngục, nỗi khổ trong
ngạ quỷ đạo. Hiện thời, nỗi khổ
trong quỷ đạo đă gần như liên quan với nỗi
khổ trong địa ngục; cũng có nghĩa là quỷ
đạo khổ sở hơn trước kia quá nhiều.
Sau khi chúng tôi nghe những tin tức ấy, có thể tin tưởng, có thể tiếp nhận, là do nguyên nhân nào? Người
hiện thời tâm tham nặng nề hơn xưa kia,
người hiện thời do tham lam gây tạo ác nghiệp
cũng nặng nề hơn người xưa kia. Do vậy,
chúng ta trông thấy cái nhân, có thể nghĩ đến quả
báo. Con người chẳng thể không tu thiện nhân, tâm
địa phải thiện, ngôn ngữ phải thiện, hành
vi phải thiện; không chỉ là phải thiện, c̣n phải
chủ động giúp đỡ hết thảy chúng sanh khổ
nạn. Có cơ duyên, phải biết tu phước, phải
biết tiếc phước, quư vị mới có thể có phước
báo. Phước chí tâm linh, điều này thường nói
là “quư vị mới có thể
khai khiếu”, có đôi chút thông minh, trí huệ, có thể
tiếp nhận giáo hóa của Phật, Bồ Tát, thánh hiền.
Khi quư vị tiếp nhận, quư vị có thể nghe hiểu,
có ư niệm y giáo phụng hành, vậy là quư vị có phước.
Đức Phật dạy chúng ta thuần
chân, vô vọng, đạo là ǵ? Đạo là tự tánh. Trong
giáo pháp Đại Thừa, thường nói đến Pháp
Tánh; đấy là Phật đạo. Không chỉ riêng mục
tiêu học tập của Thiền Tông là “minh tâm kiến tánh”, Giáo Hạ cũng chẳng ra
ngoài lệ ấy, nhưng danh tự khác nhau. Giáo Hạ gọi là “đại khai viên giải”; đại khai viên giải chính là minh tâm kiến tánh.
Một đằng là từ trong Định mà đạt
được, một đằng là thông qua giáo học, thấy
thấu suốt, buông xuống th́ mới đạt
được. Nếu chỉ có giáo học, chính ḿnh chẳng
thể thấy thấu suốt, buông xuống, vậy th́
quư vị phải biết: Sở học của quư vị
là Phật học, chẳng phải là học Phật! Quư vị
chẳng thể lănh hội nghĩa thú thật sự của
Phật pháp! V́ thế, giáo học Phật giáo và giáo học
thế gian khác nhau. Trong giáo học thế gian, Khổng Tử
cũng dạy người ta buông xuống, nhưng Ngài không triệt
để! Ngài có dục vọng hay không? Có chứ! Hạ
thấp dục vọng, đức hạnh tự nhiên tăng
lên, Ngài chẳng đoạn dục! Phật pháp th́ không chỉ
là hạ thấp dục vọng, mà c̣n phải đoạn
hết dục vọng. Vậy là đă tăng tấn trên một
mức độ to lớn, bất đồng ở chỗ
này!
Nho gia dạy mọi người hăy v́ đại
chúng phục vụ, v́ xă hội phục vụ, trong ấy,
chẳng ĺa khỏi chính ḿnh, đồng thời cũng
chăm sóc chính ḿnh. Nhiều phần là v́ người khác,
ít phần v́ chính ḿnh, đấy là thánh hiền. Phật
pháp chẳng v́ chính ḿnh, một trăm phần trăm xả
ḿnh v́ người, người b́nh phàm rất khó làm
được chuyện này! Do vậy, đức Phật
dạy chúng ta những phương pháp, cái sẽ đạt
được là viên măn, tức là Tánh Đức viên măn.
Tánh Đức viên măn là trí huệ viên măn, năng lực viên
măn. Đức năng là năng lực, viên măn tốt đẹp,
tướng hảo tốt đẹp, quư vị chẳng
có mảy may khiếm khuyết. V́ sao người thế
gian chẳng cầu? Chẳng phải là không cầu, nói theo
thuật ngữ Phật pháp, sẽ là “tập khí nghiệp chướng gây chướng ngại
Tánh Đức”. Dẫu tiếp xúc Phật pháp, v́ tập
khí nghiệp chướng nặng nề, kẻ ấy tán
thán, ưa thích Phật pháp, nhưng chẳng làm được!
Kẻ ấy chẳng thể thực hiện giáo huấn của
đức Phật. Dẫu có thể làm th́ làm ít phần.
Nói đi, nói lại, vẫn chẳng buông xuống
được cái đăy da thối của chính ḿnh, đối
với hoàn cảnh vật chất và hoàn cảnh nhân sự
trong thế gian, vẫn lưu luyến y như cũ, chẳng
chịu buông xuống. Đấy là cái gốc bệnh. Muốn
đối trị cái gốc bệnh ấy, phải dũng
mănh tinh tấn, hạ quyết tâm, thảy đều trừ
bỏ!
Thảy đều buông xả hết, vậy th́ sau đấy
ta muốn sử dụng phải
làm như thế nào? Thuở tôi c̣n trẻ học Phật,
thầy dạy tôi buông xuống, tôi có thể lănh hội
đạo lư ấy, thật sự buông xuống. Tôi c̣n có một
vị thầy về pháp thế gian trong thời kỳ Kháng Chiến là tiên sinh Châu Bang Đạo, rất nhiều
người biết cụ. Lúc tuổi già, cụ cũng học
Phật, ở tại Đài Trung, chúng tôi thường cùng
nhau nghe thầy Lư giảng kinh, cụ cũng tôn thầy Lư
làm thầy. Thuở ấy, tôi sống rất vất vả,
rất nhọc nhằn chắt bóp được ít tiền,
mua một bộ Đại Tạng Kinh và một bộ Nhị
Thập Ngũ Sử. Tôi quyên tặng toàn bộ, v́ thầy
mở thư viện, hai bộ sách ấy
lớn nhất, những thứ chính ḿnh thường thích
đọc đều quyên tặng toàn bộ. Thầy Châu bảo
tôi: “Nay anh đang học Phật, kinh điển rất hữu
dụng đối với anh, sao mà ngay cả kinh điển
cũng quyên tặng hết?”
Lúc đó, tôi c̣n trẻ, cũng rất liều lĩnh, nói một
câu, nói xong, tôi cũng rất hối hận, biết ḿnh
đă nói sai rồi! Tôi nói ǵ vậy? Tôi nói: “Thưa thầy!
Con quyên tặng những thứ này, đại khái là trong
tương lai, con muốn sách ǵ, nhất định sẽ
có cảm ứng. Con muốn sách ǵ, nhất định nó sẽ
đưa đến”. Thầy
Châu nghe nói, nh́n tôi, chẳng nói một câu nào!
Nhưng lời ấy là thật, về sau,
học kinh giáo, muốn tham khảo tài liệu nào đều
có thể đạt được! Ngay cả
thầy Lư cũng cảm thấy rất lạ lùng, v́ thầy
nhắc đến kinh sách nào, những bản chú sớ từ
thời cổ, hễ thầy nhắc đến,
trong tay tôi thảy đều có. Thầy bảo: “Lạ thật!
Sao anh có thể có lắm thứ ngần ấy?” Thật vậy! Sau khi quư vị đều xả
hết sạch, nhà Phật nói “tâm
tưởng sự thành, có cầu ắt ứng”.
Chương Gia đại sư dạy tôi điều này,
đúng lư, đúng pháp để cầu, v́ đạo nghiệp
của chính ḿnh, v́ hoằng pháp lợi sanh, chẳng có ǵ
không cảm ứng. Trong khi quư vị mong cầu mà chẳng
có cảm ứng, nhất định là quư vị có nghiệp
chướng, vậy th́ hăy tự ḿnh phản tỉnh, t́m
ra nghiệp chướng, sau đấy, sám trừ nghiệp
chướng, cảm ứng sẽ hiện tiền. Những
điều này đều do thầy dạy, tôi áp dụng
suốt năm mươi lăm năm, quả nhiên hữu
hiệu. V́ thế, đối với giáo huấn của
đức Phật, tôi có thể phụng hành một trăm
phần trăm. Khi cần đến, thật sự là nó sẽ
đưa tới, khi tôi chẳng cần, tôi bèn buông xả.
Trong những năm qua, tôi đă sưu tập
không ít sách, hiện thời, toàn bộ đều tặng
cho Tịnh Tông Học Viện. Tịnh Tông Học Viện
có Đồ Thư Quán, pḥng đọc sách, tôi quyên
tặng toàn bộ để cho những người trẻ
tuổi thuộc thế hệ sau tham khảo. Nội dung rất
phong phú, những bộ lớn th́ có Tứ Khố Toàn
Thư và Tứ Khố Hội Yếu. Đại Tạng
Kinh tôi thâu thập đến mười loại phiên bản
khác nhau. Do vậy, học Phật thật sự mà muốn
dụng công, thật sự mong học giáo, Tịnh Tông Học
Viện là nơi chốn học tập lư tưởng. V́ học
viện chẳng có kinh sám, Phật sự, chẳng có pháp hội,
thuần túy lấy chuyện đọc sách, giáo học làm
mục tiêu. Do vậy, đối với giới học thuật
và chánh phủ Úc, khi chúng tôi đăng kư, họ vẫn coi
chúng ta là một đoàn thể tôn giáo. Nh́n vào những
năm qua, trông thấy sự thật này, họ nói: “Bọn họ chẳng phải là tôn giáo, bọn họ là một đơn vị học thuật”. Do
đó, hiện thời ở Úc chúng tôi thuộc về đơn vị học thuật, chẳng phải
là một đoàn thể tôn giáo, chính là
do sự thật tạo thành!
Thuở ấy, chúng tôi đến
đăng kư, mặc loại y
phục này, người ta thấy là tôn giáo. Làm nhiều
năm như vậy, “họ chẳng phải là tôn giáo, hoàn
toàn khác với các tự viện. Họ học hành, họ
dạy học, họ dạy người khác”. V́ thế, chúng tôi qua lại, cũng có mối quan hệ hết
sức chặt chẽ với trường đại học.
Do đó, nhà trường chủ động tặng học
vị. Tôi đă quá lớn tuổi, họ tôn trọng tôi, mời tôi làm giáo
sư danh dự của nhà trường. Giáo sư danh dự
có thể chẳng lên lớp. [Danh hiệu] giáo sư danh dự
tặng cho ai? Cho những vị giáo sư già trưởng
thượng, đă về hưu, nhà trường ban tặng
giáo sư danh dự nhằm tôn trọng họ. Tôi cũng
được đăi ngộ như thế nhằm khẳng
định sự cống hiến đối với giáo dục.
V́ vậy, có khi tôi tham gia hội nghị tọa đàm trong
nhà trường, tham gia những hội ấy, cùng họ nghiên
cứu, thảo luận. Đa số là họ đề ra
một số câu hỏi, tôi giúp họ giải đáp.
Họ cũng đều liễu giải
công việc của cả một đời tôi, tôi suốt
đời dạy học. Ngoài dạy học ra, tự ḿnh
đọc sách. Măi cho đến hiện thời, tôi chẳng
có chùa miếu, chỉ là khi xuất gia bèn ở trong chùa miếu
hai năm. Sau này ở Từ Quang Đồ Thư Quán tại
Đài Trung do thầy Lư mở, tôi ở đó mười
năm. Chính ḿnh suốt đời chẳng có đạo
tràng, nơi nào mời tôi giảng kinh, bèn đến nơi
đó. Giảng xong lại ra đi. Pháp duyên khá lắm, khắp
nơi đều có người mời, cũng đi khắp
thế giới. Dựng học viện tại Úc Châu
cũng là v́ các đồng học chữ Ngộ (các pháp
sư có pháp danh bắt đầu bằng chữ Ngộ).
Sau khi chúng tôi rời khỏi Đài Loan, chẳng có đạo
tràng cố định, mọi người đều cảm
thấy rất bất tiện, rất đau khổ. Do vậy,
mới kiến lập học viện này, để họ
lúc tuổi già có chỗ an thân lập mạng, có chỗ
để thật sự dụng công học tập. Ngoại
duyên thảy đều có đầy đủ, chỉ cần
họ có thể làm được tám chữ này, “cần cầu Phật đạo,
tâm vô giải hiết”, chẳng có ai không thành tựu. A!
Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi giảng tới
đây!
Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm
thứ mười một
Tịnh
Hạnh Phẩm
Phần 55 hết
[1]
Tương truyền, Ngọc Lịch Bảo Sao (玉曆寶鈔)
là do vào đời Tống, đạo nhân Đạm Si
được các vị thần tiên truyền thụ sách
này. Thiện thư này được lưu hành rất rộng,
và tăng bổ
dưới đời Thanh. Sách dạy về những sự
báo ứng trong địa ngục, nhân quả báo ứng.
Theo khảo chứng của Lư Tông Mẫn, đạo nhân
Đạm Si là người nước Liêu, biên tập sách
này vào năm Thái B́nh thứ mười (1030) đời Liêu
Thánh Tôn, truyền cho đệ tử là đạo nhân Vật
Mê khắc in vào năm Thiệu Thánh thứ năm (1098)
đời Tống Triết Tông.