Đại Phương Quảng
Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 56
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh
Không
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy
tháng Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ
tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ
Trang và Minh Tiến
Tập 1573
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười
một, đoạn lớn thứ chín trong phần Kệ Tụng,
xem từ bài thứ chín:
(Kinh) Tán Phật công đức, đương
nguyện chúng sanh, chúng đức tất cụ, xưng
thán vô tận.
(經)讚佛功德。當願眾生。眾德悉具。稱歎無盡。
(Kinh: Khen công đức Phật,
nguyện cho chúng sanh, các đức đều đủ,
khen ngợi vô tận).
Đệ tử đức Phật
trông thấy tháp miếu, thấy h́nh tượng của Phật,
Bồ Tát bèn lễ bái, xưng tán, cúng dường. Đấy
là do trong kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ Tát đă dạy
chúng ta, [hay nói cách khác, đấy chính] là ba câu đầu
trong mười đại nguyện vương. “Lễ kính chư Phật”: Chúng
ta phải lạy, lễ bái. “Xưng
tán Như Lai”: Khen ngợi Như Lai th́ chủ yếu là
ca ngợi công đức của Phật. Sau đấy là “quảng tu cúng dường”.
Câu thứ tư thuộc về cá nhân, “sám hối nghiệp chướng”, tuy là tự hành,
mà cũng là hóa độ người khác.
Phật pháp là sư đạo.
Có thể nói chỗ bất đồng lớn nhất giữa
Phật giáo và các tôn giáo lớn khác là [Phật giáo] không lôi kéo tín đồ. Chẳng như các tôn
giáo khác, họ dùng đủ mọi phương pháp và thủ
đoạn, thường nói là “thu
hút tín đồ”, chúng ta thường nói là “chèo kéo tín đồ”. Trong Phật
môn chẳng có [chuyện chèo kéo tín đồ], đây là một
điều kỵ húy rất lớn trong Phật môn, nhưng
trong thời Mạt Pháp hiện tại, cũng có hiện
tượng này. Nói thật ra, hiện tượng ấy,
nếu đức Phật c̣n tại thế, trông thấy,
sẽ rơi nước mắt, sẽ rất đau ḷng. Giáo
huấn của thánh nhân và thánh hiền thế gian và xuất thế gian đều hết sức
khiêm hư. Đạo đức của Nho gia được
thực hiện bằng lễ giáo và lễ nhạc. Tinh thần
của lễ là “tự ty, tôn
nhân” (hạ thấp ḿnh, đề cao người khác). Dùng
rất nhiều phương pháp và thủ đoạn để
thu hút tín đồ, đấy là chẳng khiêm tốn, nhún
nhường. Nhất là [rêu rao]
“đạo của ta tốt đẹp, lại c̣n cao hơn
đạo của ngươi”, làm sao có thể thốt ra lời
ấy cho được? Người đức hạnh càng
cao, càng khiêm tốn, nhún nhường. Các vị thấy Thích
Ca Mâu Ni Phật có mảy may tâm ngạo mạn hay chăng?
Có mảy may nào ca ngợi chính ḿnh, chê trách hạ thấp kẻ
khác hay không? Chẳng có! Cuối kinh Hoa Nghiêm, năm mươi
ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử đă
nêu gương rất hay. Năm mươi ba vị thiện
tri thức, ai nấy đều hết sức khách sáo, hết
sức khiêm hư: “Ta hiểu rất ít, chẳng biết
nhiều, chẳng như các vị thiện tri thức khác. Ngươi đến tham học
ở chỗ ta, những ǵ ta đă học đă tu đều
nói hết với ngươi rồi, hăy lại tiến cao hơn”. Ngài giới thiệu với
quư vị: “Ngươi đến nơi nào đó, tham phỏng
vị đại thiện tri thức nào đó”. Chẳng có
vị nào là “tự tán, hủy
tha” (tự ca ngợi ḿnh, hủy báng kẻ khác). Chẳng
hề có! Tự tán hủy tha là một trọng giới
trong giới Bồ Tát.
Nếu chúng ta hỏi, Phật,
Bồ Tát đại đức đại năng, từ
bi giáo hóa dường ấy, làm thế nào để khiến
cho người khác biết đến? Biết ǵ vậy?
Biết để chính ḿnh đến học. Bởi lẽ,
để học, chư vị phải biết là cần
phải đến [chỗ thầy hay thiện tri thức]
để cầu học. Cổ nhân đă nói rất hay: “Chỉ văn lai học, vị
văn văng giáo” (chỉ nghe nói tṛ đến học, chưa
nghe chuyện thầy đến dạy). Quư vị t́m đến,
đến chỗ thầy để học, điều này
biểu thị sự kiền thành, cung kính của chính ḿnh.
Đối với đạo học, dùng phương pháp ǵ
th́ quư vị mới có thể đạt được? Không
ǵ chẳng phải là hai chữ “thành
kính”. Bên trong quư vị có ḷng chân thành, bề ngoài có cung
kính. Ấn Quang đại sư đă nói rất hay: “Một phần thành kính được
một phần lợi ích, mười phần thành kính sẽ
được mười phần lợi ích”. Do đó,
thầy luôn khiêm hư, làm sao dám làm thầy của kẻ khác?
Chẳng dám! Quư vị đến học th́ tôi hoan nghênh,
chúng ta đều là đồng học. Hoan nghênh quư vị tụ
họp, chúng ta chí đồng đạo hợp, cùng nhau học
tập. [Coi nhau là] bạn học, chẳng dám tự coi ḿnh
là thầy.
Tôi theo thầy Lư mười
năm. Thầy Lư lớn hơn tôi ba mươi chín tuổi,
xét theo pháp thế gian, thầy thuộc vai vế ông nội
tôi, [thế mà] thầy luôn hết sức khiêm hư, trọn
chẳng nói “ta dạy ngươi”. Thầy nói như thế
nào? “Tôi chỉ có
thể giúp đỡ anh năm năm”, chẳng
nói “tôi có thể dạy anh
năm năm”, khiêm
hư, khách sáo! Đấy là ǵ? Đấy thật sự là
đức hạnh, nêu gương cho chúng ta, khiến cho những
kẻ trẻ tuổi chúng ta trong tương lai dẫu đă
học thành công, chớ nên kiêu căng, ngă mạn, chớ nên
tự cho ḿnh là đúng, ở đâu cũng phải khiêm hư.
Nhất định phải biết cao nhân trong thiên hạ rất
nhiều, làm sao có thể khinh mạn cho được? Đối
với một người chẳng có học thuật, chớ
nên khinh mạn. Quư vị thấy Lục Tổ đă nói
trong Đàn Kinh, Ngài đă nói với Trương Biệt Giá[1] rất
hay: “Chớ nên khinh mạn kẻ sơ học, chớ nên khinh
mạn kẻ chưa từng học hành, thông thường
là kẻ hạ hạ mà có trí thượng thượng”. Đó gọi là “ngu
giả thiên lự, tất hữu nhất đắc; trí giả thiên lự, tất hữu nhất
thất” (kẻ ngu suy nghĩ ngàn cách,
ắt có một cách dùng được; người trí suy
nghĩ ngàn cách, ắt có một cách sai sót). Quư vị hiểu
rơ đạo lư này, sẽ chẳng dám khinh mạn phường
sơ học.
Đấy đều là Phật,
Bồ Tát, cổ thánh tiên hiền hiện thân nhằm thuyết
pháp, nêu gương cho chúng ta, nếu chúng ta có thể thấu
hiểu, phải biết học tập. Quư vị học biết
khiêm hư, học biết cung kính, trong đời này sẽ
được lợi ích quá nhiều. Các vị thiện
tri thức thật sự chịu dạy dỗ quư vị. V́
sao? Trong Phật môn gọi [người như vậy là] “pháp
khí”, cũng là nói người ấy hội
đủ điều kiện để có thể tiếp
nhận đạo học ấy. Điều kiện quan
trọng nhất để tiếp nhận đạo học
là khiêm hư, hiếu học. Đó gọi là “tôn sư, trọng đạo”.
Chúng ta phải tôn trọng thầy, thầy đối xử
với tṛ rất khách sáo; chớ nên v́ thầy rất khách
sáo, chúng ta liền coi thầy là “lớp đàn anh của
ta”, coi thầy như bạn, chuyện này chớ nên! Học
tṛ nhất định phải cung kính thầy, thầy nhất
định phải thân thiện, yêu thương tṛ, chẳng
dám xưng là thầy. Chúng ta thấy những vị đại
đức thời cổ, thầy viết thư cho tṛ, cuối
thư chẳng ghi là thầy, chỗ kư tên đề là Hữu
Sanh (友生), Hữu (友) là bằng hữu (朋友, bạn bè). Chính thầy chẳng xưng là
thầy, mà xưng là Hữu Sanh, quư vị bèn hiểu Hữu
Sanh chính là thầy. Do vậy, thầy coi học tṛ như bạn
bè, nhưng học tṛ nhất định phải coi thầy
giống như cha mẹ. Đấy là đạo đức.
Nếu chúng ta hỏi: “Phật
pháp đă là chớ nên tán thán, chớ nên tuyên dương, chẳng
thể chèo kéo tín đồ, trong kinh lại nói ‘chúng
sanh vô biên thệ nguyện độ’, dùng phương pháp ǵ để
tiếp dẫn họ?” Quư vị bèn hiểu, “tán Phật công đức”. Do
vậy, trong khóa tụng sáng tối, trong nghi thức của
pháp hội, luôn có Hương Tán, luôn có tán Phật, tán Pháp,
tán Tăng. Phải biết những thứ ấy chẳng
phải là xướng cho Phật nghe, mà là xướng cho
ai nghe? Xướng cho kẻ chưa học Phật nghe. Họ
nghe xong, [tự nhủ]: “Tam Bảo vốn có công đức
thù thắng như vậy, chúng ta phải nên đến xem
xét, phải đến học tập”, t́m đến như
thế đó. V́ thế, chúng ta dùng ǵ để chiêu sinh, thay
thầy, thay Phật, thay Bồ Tát tiếp dẫn
đại chúng? Dùng sự hành tŕ của chúng ta, điều
này quan trọng, đấy là chiêu bài chữ vàng của Tam
Bảo. Người xuất gia phải [hành xử] cho giống
người xuất gia, kẻ tại gia phải giống
như đệ tử tại gia. Hàng xuất gia có thể
thực hiện Sa Di Luật Nghi, thực hiện giới tỳ-kheo,
giới Bồ Tát, quư vị đến nơi đâu mà kẻ khác chẳng tôn kính quư vị?
Vừa trông thấy, [họ sẽ nói] “đấy là đệ
tử Phật môn, là người tốt, là người cực
tốt”. Họ khen ngợi như thế đó, Phật, Bồ
Tát sẽ rạng mày nở mặt. Nếu hàng xuất gia
chúng ta tu tập chẳng ra ǵ, đi ra ngoài, [thiên hạ xầm
x́] “ngươi coi cái đứa
xuất gia này”, khiến cho người ta phê b́nh, khiến
cho người ta hủy báng. Họ không chỉ hủy báng
một ḿnh quư vị, mà ngay cả Phật, Bồ
Tát cũng đều bị họ hủy báng! Đấy là v́ quư vị chẳng làm đúng pháp.
“Đúng pháp” là ǵ? Y giáo phụng
hành sẽ là “đúng pháp”.
Chúng ta chớ nên không biết
tác dụng của Kinh Luật Luận Tam Tạng. Cổ đại
đức đă nói rất rơ ràng, Thiền là Phật tâm. Quư
vị phải hiểu Thiền là ǵ. Chẳng phải là ngồi xếp bằng ngó vách th́ gọi là
Thiền đâu nhé! Kinh Kim Cang đă nói rất rơ ràng. Thích Ca Mâu
Ni Phật bảo tôn giả Tu Bồ Đề: “Chẳng chấp lấy tướng,
như như bất động”, hai câu ấy chính là Thiền.
Ư nghĩa của hai câu kinh văn ấy chẳng khó hiểu.
“Chẳng chấp lấy tướng”
là ngoài chẳng chấp tướng, “như như bất động” là trong chẳng động
tâm. Ngoài th́ sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần
bên ngoài, mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi
hương, lưỡi nếm vị, chẳng bị cảnh
giới bên ngoài dụ dỗ, mê hoặc. Đó gọi là “ngoài chẳng chấp tướng”.
Trong tâm chẳng dấy lên tham, sân, si, mạn th́ “trong chẳng động tâm”.
Bất luận là thuận cảnh, nghịch cảnh, thiện
duyên, hay ác duyên, đều có thể ǵn giữ “như như bất động”,
hết thảy đều chẳng nhiễm đắm, đó
gọi là Thiền. V́ vậy, Thiền là Phật tâm, Giáo là
ngôn ngữ của Phật, giới luật là hành vi của
Phật. Quư vị thấy đó, kinh điển Tam Tạng
có mối quan hệ ǵ với chúng ta, chẳng phải là quư
vị đă hiểu rơ rồi ư? So với học thuật
thế gian, mối
quan hệ càng mật thiết hơn.
Tác dụng của khá nhiều môn học thuật trong thế
gian đối với chúng ta chẳng thể coi là quá lớn,
nhưng Phật pháp th́ khác. Phật pháp là cuộc sống hằng
ngày của chúng
ta, có mối quan hệ rất mật thiết đối
với chúng ta. Từ khởi tâm động niệm, ngôn ngữ,
tạo tác đều làm gương tốt nhất cho chúng
ta. Những thứ này đều là công đức của Phật.
“Tán Phật
công đức” th́ trong kinh luận có quá nhiều. Trong Đại
Tạng Kinh c̣n có những tác phẩm chuyên biên soạn thành
ca khúc có thể diễn xướng, số lượng không
ít. Tôi chỉ lật ra xem lướt qua, đại khái cũng
có hai, ba ngàn bài, trước kia là có thể hát xướng.
Hiện thời, thuận theo sự tiến bộ của khoa
học kỹ thuật, có thể đem những tác phẩm
tán thán công đức của Phật, dùng ca múa, dùng tuồng
hát, hoặc những phương thức văn nghệ để
biểu diễn tán thán Phật. Tôi biết là có người
đang làm [chuyện này], tôi chưa từng xem; đấy
là như pháp. Có thể biên soạn thành phim truyền h́nh cũng
là như pháp. Trong Đại Tạng Kinh có một quyển
kịch bản, do cổ nhân biên soạn. Đó là [kịch
bản] của B́nh Kịch (Kinh Kịch)[2], sách có
tên gọi là Quy Nguyên Kính (歸元鏡). Tôi đă đọc, không chỉ là đă đọc,
tôi c̣n lưu thông vài lần, ấn hành đại khái vài ngàn
bản. Trong ấy là chuyện của ba vị (đều
thuộc Tịnh Độ Tông), thứ nhất là chuyện
của Sơ Tổ Huệ Viễn đại sư, dùng phương
pháp B́nh Kịch để đưa lên sân khấu. Thứ
hai là chuyện của Vĩnh Minh Diên Thọ đại
sư, thứ ba là chuyện của Liên Tŕ đại
sư. Đấy là hành trạng của ba vị tổ sư
đại đức trong Tịnh Độ Tông được
đưa lên sân khấu biểu diễn. Do vậy, hiện
thời đối với hành trạng của Phật, Bồ
Tát, tổ sư đại đức, có thể sử dụng
phương thức ấy, tức là sử dụng phim truyền h́nh để diễn xuất,
khẳng định là hiệu quả tiếp dẫn đại
chúng c̣n hữu hiệu hơn giảng kinh.
Từ thời đại này
trở về sau, những người chịu nghe giảng
ngày càng ít ỏi. Chúng ta đă có thể thấy công phu định
lực của người hiện thời thua kém người
thuộc ba mươi năm trước rất xa. Những
người trẻ tuổi thuộc ba mươi năm trước,
chúng tôi nói đến bọn học tṛ, nghe giảng một
hai tiếng đồng hồ chẳng có vấn đề
ǵ! Hiện thời, ở ngoại quốc, tôi thấy trong
rất nhiều trường đại học, sinh viên kiên
nhẫn nghe giảng chỉ được mười
lăm phút. Trường học mời tôi đến giảng
diễn, khi tôi đến trường, giáo sư nơi ấy
bảo tôi: “Thưa pháp sư! Thầy giảng diễn tốt
nhất là đừng quá mười lăm phút”. Tôi hỏi:
“V́ sao?” Học tṛ chẳng kiên nhẫn. Tôi vào một pḥng học, quan sát thấy đúng là như vậy. Do vậy,
tôi rất cảm thán, những sinh viên đại học trẻ
tuổi ấy chẳng sánh bằng các đồng tu học
Phật chúng ta. Các đồng tu học Phật chúng ta, quư
vị thấy tôi thường giảng kinh liên tục, giảng
bốn tiếng đồng hồ, mọi người
đều rất hoan hỷ lắng nghe, chẳng có ai liếc
đông ngó tây, cũng chẳng có ai bỏ đi giữa chừng.
Nếu lên dạy suốt bốn tiếng đồng hồ
tại đại học, trong giảng đường của
quư vị sẽ chẳng có sinh viên nào, người ta bỏ
đi hết! Điều này có nghĩa là sinh viên đại
học ba mươi năm trước, đối với
một buổi học dài năm mươi phút, họ có thể
thật sự ngồi suốt buổi. Hiện thời, những
vị giáo sư lên lớp tại nhà trường dạy
theo cách nào? Tôi đến xem mới biết, giảng giải
mười lăm phút; sau đấy, nêu câu hỏi,
giải đáp vấn đề, rồi nói chuyện phiếm,
kể chuyện. Thời gian xen kẽ như vậy, c̣n phải
[pha tṛ
hay nói sao cho] phù hợp sự hứng
thú của học tṛ. Làm thầy rất khó, chẳng dễ
dàng!
Từ chỗ này đă khiến
tôi nghĩ đến mấy năm trước đài TV Phượng
Hoàng mời tôi giảng diễn một lần tại Bắc
Kinh. H́nh như hiện diện tại đó có hơn bốn
trăm sinh viên, c̣n có mấy vị giáo sư đến từ
bốn ngôi trường [đại học]. Buổi giảng
diễn của tôi khoảng hai tiếng đồng hồ,
nghiễm nhiên là trật tự hết sức tốt đẹp,
chẳng có ai bỏ đi. Sau khi chúng tôi giảng xong, đổng
sự trưởng của họ là tiên sinh Lưu Trường
Lạc bảo tôi: “Pháp sư! Buổi giảng hôm nay của
thầy rất thành công. Trong quá khứ chưa hề có hiện
tượng này, thính chúng giữ trật tự tốt đẹp
như vậy”. Dường như chúng tôi cũng là sau khi
giảng một tiếng rưỡi, dành nửa giờ cho
thính chúng nêu câu hỏi, giải đáp ngay tại chỗ. Hiện
thời, hiện tượng này quá khó
thấy trong nhà trường!
Hiện thời dùng phương
pháp ǵ? Phương pháp phim truyền h́nh. Chẳng có ai không
xem phim truyền h́nh. Phim truyền h́nh đă là cuộc sống
tinh thần của người hiện thời, chẳng
thể khuyết thiếu. Nói chung, mỗi ngày phải xem mấy tiếng. Nhất là
phim nhiều tập, đến lúc đó (lúc TV chiếu
phim), chuyện ǵ họ cũng bỏ đó, nhất định
phải xem. V́ vậy, trong Phật môn nếu có thiên tài nghệ
thuật như vậy, hăy dùng
phương pháp ấy để biểu đạt những
kinh điển này. Phim truyền h́nh cũng chớ nên quá dài,
hiện thời thông thường là chiếu nửa tiếng
đồng hồ, mỗi ngày nửa tiếng đồng
hồ. Đương nhiên là số tập chớ nên quá
nhiều, thông thường là từ mười mấy tập
cho đến ba mươi tập, sẽ được
hoan nghênh nhất. Quá dài, người ra nghe chán ngấy, sau đó không muốn tiếp tục
nghe nữa. V́ thế, nhất định phải hiểu tâm
lư của quần chúng.
Hôm nay, chúng ta đọc đến
bài kệ tụng này, tán thán công đức của Phật với dụng ư thay Phật chiêu sinh, giúp Phật, Bồ
Tát tiếp dẫn tín chúng, dụng ư ở chỗ này. Do đó,
tán Phật phải trang nghiêm, phải đoan trang. Kệ tán
Phật là nói tổng quát, tất cả hết thảy phạm
bái[3] đều
thuộc loại kệ tán Phật. Khi niệm th́ phải
tṛn vành rơ chữ, người ta mới nghe hiểu, mới
có thể bị cảm động. Chính ḿnh dùng tâm chân thành,
xuất phát từ sự chân thành trong nội tâm, th́ mới
có thể cảm động người khác. Nếu chẳng
có sự thành kính trong ấy, sẽ chẳng thể cảm
động người khác. V́ thế, từ phạm bái cũng
có thể nh́n ra công phu tu hành của người ấy. Công
phu sâu, [khi nghe người ấy tán tụng] sẽ thật
sự khác hẳn. Trong Phật môn hiện thời, như
trong khóa tụng sáng tối, chúng ta nghe bài Hương Tán trước
mỗi khóa tụng, chú tâm lắng nghe, chẳng nghe được
một chữ nào! Chỉ có thể nói là thưởng thức
vận điệu của
họ, rốt cuộc họ xướng
những ǵ? Không biết! Tán Phật kiểu đó đă đánh mất ư nghĩa rồi! Chuyện này đúng là giống như chỉ đối trước
Phật, Bồ Tát [mà xướng
niệm cho Phật, Bồ Tát nghe], chứ chẳng phải là dành cho đại chúng. Nhưng
Phật môn từ xưa tới nay, phạm bái là dành cho đại
chúng, chẳng phải là để Phật, Bồ Tát thưởng
thức. Chúng ta phải hiểu đạo lư này!
Niệm kinh cũng là tán Phật.
V́ thế, tán Phật bao hàm ư nghĩa hết sức rộng
răi. Ví như chúng ta niệm khóa sáng, niệm kinh Vô Lượng
Thọ một lượt, bên ngoài có người nghe, họ
thật sự có thể nghe rơ ràng từng câu từng chữ
th́ sẽ được thọ dụng. Nếu chúng ta niệm
chẳng nhịp nhàng, phát âm không rơ ràng, người bên ngoài
rất muốn nghe, nhưng chẳng nghe được quư
vị niệm những ǵ, hiệu quả đă bị mất
đi. V́ thế, niệm tụng ra tiếng là tự lợi,
lợi tha; chẳng niệm ra tiếng là tự lợi. Khi
niệm ra tiếng, nhất định là lợi tha. Trong
Tha (người khác) c̣n bao gồm thiên, long, quỷ thần.
Do vậy, chúng ta cung kính, phát âm rơ ràng, tốc độ không
mau, không chậm, long thiên quỷ thần hoan hỷ; đấy
là thật sự cúng dường. Chư vị hăy ngẫm
xem, Lục Tổ Huệ Năng đại sư thuở ấy
bán củi, nghe một cư sĩ niệm kinh Kim Cang trong pḥng,
Ngài ở ngoài cửa sổ nghe tiếng, nghe rồi cũng
rất cảm động. Sau khi vị cư sĩ đă
niệm xong, Huệ Năng đại sư bèn thưa hỏi
ông ta: “Ông niệm kinh ǵ vậy? Kinh này do đâu mà có, sao mà
hay đến thế?” Nếu người ấy niệm
kinh phát âm chẳng rơ ràng, hàm hồ, mờ mịt, người
bên ngoài sẽ chẳng nghe được. Quư vị thấy
ông ta niệm bộ kinh Kim Cang đă độ Huệ
Năng đại sư. Đấy là cái duyên thứ nhất
với Phật môn của Ngài; chuyện này được ghi chép trong Đàn Kinh. Quư vị bèn hiểu đọc
tụng trọng yếu lắm! Lục Tổ thật sự
nghe hiểu, thật sự hiểu rơ ư nghĩa trong kinh, tuy
Ngài chẳng biết chữ mà Ngài có thể nghe hiểu! Chúng
ta chớ nên không hiểu những đạo lư này, chớ
nên không nghiêm túc học tập.
Giảng diễn, nhất là
giảng kinh, tốc độ chẳng thể mau. Nhưng
hiện thời, mọi người làm ǵ cũng đều
muốn đuổi kịp thời gian, luôn muốn mau chóng,
chê tốc độ giảng kinh của chúng tôi quá chậm,
nhưng nghe thành thói quen, người ấy sẽ hiểu.
Nếu chúng tôi giảng kinh giống như đọc tin tức,
như vậy th́ sẽ đuổi kịp thời gian, nhưng
không đạt được lợi ích. V́ sao? Niệm
theo kiểu hời hợt, bộp chộp ấy, cái tâm của
người niệm hời hợt, bộp chộp, tâm người
nghe cũng hời hợt, bộp chộp. Tâm địa của
người niệm thanh tịnh, tâm là định th́ cũng
khiến cho tâm người nghe định lại, khiến
cho t́nh h́nh hời hợt, bộp chộp nơi tâm buông xuống.
Mấy phút cũng thế, mà mấy chục phút cũng vậy,
người ấy được thọ dụng, chớ
nên không biết điều này! Đây không chỉ là tán thán công
đức của Phật, mà trong khi ấy, người xưng tán, người đọc
tụng và người nghe cũng
được công đức.
Do đó, dẫn phát đại
nguyện, “chúng đức tất
cụ, xưng thán vô tận” (các đức đều đủ,
khen ngợi vô tận). Tám chữ ấy thoạt nh́n dường
như rất đơn giản;
trên thực tế, sâu rộng vô tận. Tổ sư đại
đức bảo chúng ta, trong chú giải kinh Hoa Nghiêm của
Thanh Lương đại sư, Ngài thường nói: Mỗi
chữ mỗi câu trong kinh Hoa Nghiêm đều chứa đựng
vô lượng nghĩa. Nếu giải thích tỉ mỉ từng
chữ, từng câu, nói suốt một kiếp vẫn nói chẳng
xong, huống hồ một phẩm kinh này? Huống hồ
cả bộ kinh này? V́ sao? Đúng như ở đây đă
nói “chúng đức tất cụ”
(các đức đều đủ), từng câu, từng
chữ đều chứa vô lượng nghĩa. V́ sao? Vô
lượng Tánh Đức đều bao hàm trong ấy, làm
sao quư vị có thể nói trọn hết cho nổi? Trong phần
trước của kinh này, chúng ta đă đọc thấy,
“một tức vô lượng,
vô lượng tức là một”, “một chính là nhiều, nhiều chính là một”,
một và nhiều chẳng hai. Những phần kinh văn ấy
chúng ta đều đọc rất thuộc, là thật, chẳng
giả. V́ thế, từ xưa, các vị tổ sư đại đức dạy mọi người
học một bộ kinh, chẳng dạy quư vị học
rất nhiều, hăy thâm nhập một môn, huân tu lâu dài.
Bộ kinh này phải học
đến khi nào th́ mới được coi là tốt nghiệp?
Khai ngộ, đại triệt đại ngộ, minh tâm
kiến tánh, quư vị sẽ tốt nghiệp. Khi ấy là cảnh
giới ǵ? Quư vị học một bộ kinh, đă thông bộ
kinh ấy, triệt để thông suốt, tất cả hết
thảy các kinh sẽ hoàn toàn thông suốt. Chưa học
mà vẫn thông suốt toàn bộ, triển hiện ngay trước
mặt quư vị, quư vị chẳng có mảy may chướng
ngại nào! Một kinh thông, hết thảy các kinh đều
thông. V́ sao? V́ quư vị đă kiến tánh, minh tâm kiến tánh,
hết thảy các kinh giáo đều từ trong chân tâm, từ
trong tự tánh mà lưu lộ. Do vậy, sự kiến tánh
của quư vị và sự kiến tánh của Phật là một,
chẳng hai. Huống chi trong kinh, đức Thế Tôn đă
nói rơ ràng như thế này: “Hết
thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng
của Như Lai”, đấy chẳng phải là “chúng đức tất cụ”
(các đức
đều đầy đủ) ư? Quư vị có trí huệ của mười
phương hết thảy chư Phật Như Lai; hết
thảy đức năng và tướng hảo của chư
Phật, quư vị thảy đều trọn đủ. Đấy
là ǵ? Đấy là Tánh Đức. Chẳng phải là “học một thứ, sẽ hiểu một
thứ. Thứ nào chẳng học sẽ không hiểu”. Đó
là phàm phu, là cái học bề ngoài, vô dụng!
Quư vị phải thâm nhập;
trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật đă nói
lời này rất nhiều: “Thâm giải nghĩa
thú” (Hiểu
sâu xa nghĩa thú). Đấy là sự yêu cầu và chỉ đạo
của đức Phật, quư vị đă học th́ phải
thấu hiểu sâu xa nghĩa thú. Nếu quư vị có thể
hiểu được câu nói này, y giáo phụng hành, quư vị
sẽ nẩy sanh hứng thú đối với một bộ
kinh. V́ sao? Càng đọc càng có ư vị, mỗi lần đọc
càng thâm nhập. Thâm nhập đến cuối cùng là tự
tánh, tự nhiên sẽ kiến tánh, Giáo Hạ nói là “đại khai viên giải”, Tông
Môn nói là “minh tâm kiến tánh”,
đều là cùng một cảnh giới. V́ thế, từ
kinh giáo có thể minh tâm kiến tánh. Thiền Tông dùng tham cứu
ḥng đạt tới minh tâm kiến tánh, đó là ǵ? Bậc
thượng thượng căn. Chẳng phải là thượng
thượng căn, tham Thiền sẽ vô dụng, chẳng
khai ngộ được. Do vậy, tám vạn bốn ngàn
pháp môn của đức Phật là để tiếp dẫn
chúng sanh có tŕnh độ khác nhau. Cổ nhân nói rất hay: “Nhân quư tự tri chi minh” (con người quư ở chỗ tự hiểu
rơ chính ḿnh). Điều này thật sự đáng quư, chính
ḿnh hiểu căn tánh của chính ḿnh. Ta chẳng phải là
bậc thượng thượng thừa, ta bèn chẳng học
Thiền. V́ sao? Học thứ ấy, sẽ chẳng đạt
được lợi ích trong đời này. Căn tánh
trung hạ th́ học Giáo.
Khi tôi mới học Phật,
thầy bảo tôi, cũng nhằm cảnh tỉnh tôi. Lúc mới
học, nói chung là rất hâm mộ Thiền. Tôi đọc Đàn
Kinh, đọc kinh Kim Cang, đọc ngữ lục của
tổ sư, dường như hiểu mà chẳng phải
là hiểu. Thầy cảnh cáo tôi: “Chớ nên xem, chớ nên học! Đấy là một
bước lên trời, anh có năng lực ấy hay không?
Một bước lên được trời th́ tốt,
anh đă thành công. Lên chẳng được, anh sẽ từ
đó rớt xuống, tan thân nát xương!” Đối
với học Giáo, thầy bảo tôi, học Giáo là trèo cầu
thang. Giống như ṭa cao ốc một trăm tầng, quư
vị từng bước một trèo lên cao, thời gian tuy
dài, quư vị thật sự có thể trèo đến nơi. Thiền Tông chẳng cần
trèo cầu thang, một trăm tầng lầu
liền từ tầng trệt nhảy vọt lên, thật
sự có bản lănh, chẳng phải là ai cũng có thể
làm được! Chẳng giống
nhau, phương pháp khác hẳn! V́ thế, thầy khuyên tôi
nhập môn từ kinh giáo. Kinh giáo từ cạn đến
sâu, từ bộ kinh nhỏ rồi học đến bộ
lớn. V́ thế, bộ kinh tôi học đầu tiên là A
Nan Vấn Sự Phật Cát Hung Kinh, [kinh ấy] không nhiều
lắm, chỉ có năm sáu trang. Đó là kinh Tiểu Thừa,
xác thực là “trước học
Tiểu Thừa, sau học Đại Thừa”. Đại
khái tôi học gần mười bộ, đều chẳng
dài. H́nh như bộ dài nhất chỉ có chừng hơn hai ngàn chữ, ngắn th́ ba bốn
trăm chữ cho đến sáu bảy trăm chữ. Cầu
học và cầu đạo đều phải biết [tuân
theo] thứ tự, tuần tự tiến lên, chẳng thể
nhảy cóc!
C̣n có một pháp môn đặc
biệt, trong Phật pháp là Tịnh Tông và Mật Tông. Phương
pháp của họ khá đặc biệt; nhưng hai tông phái
này đều nhằm tu tâm thanh tịnh, có khó dễ khác
nhau. Tịnh Độ là dị hành đạo (đạo
dễ hành), Mật tuy cũng tu tâm thanh tịnh. nhưng khó
hơn Tịnh Độ rất nhiều, phải biết điều
này. Dị hành đạo của Tịnh Tông là xa ĺa hết
thảy chướng ngại; nếu xa ĺa, sẽ dễ đạt
được cái tâm thanh tịnh hơn. Quư vị thấy
Tịnh Tông đặc biệt nhấn mạnh, trong các buổi
giảng, chúng tôi thường nhắc nhở các đồng
học, phải buông xuống ích kỷ, phải buông xuống
tiếng tăm, lợi dưỡng, phải buông xuống ngũ
dục lục trần, phải buông xuống tham, sân, si, mạn,
chẳng tiếp cận tiếng tăm, lợi dưỡng,
ngũ dục, lục trần. Đạo tràng tu học thời
cổ đều ở trong núi thẳm, là chỗ không có dấu
vết con người, giống như là cách ly thế tục
vậy. Phụ cận của đạo tràng thuở ấy,
trong ṿng ba dặm đường chẳng có thôn trang, hoàn cảnh
thanh tịnh, tĩnh lặng, khiến cho quư vị biết
viễn ly. Lại c̣n phải tuân thủ lời dạy của
đức Phật: “Lấy khổ
làm thầy, dùng giới làm thầy”, tŕ giới niệm Phật,
chẳng có một ai không thành
tựu.
Hiện thời, người
niệm Phật th́ đông, người thành tựu ít ỏi.
Quư vị hăy chú tâm quan sát, v́ sao họ chẳng thể thành
tựu? Tuy niệm Phật, chẳng tŕ giới. Tuy niệm
Phật, chẳng thể chịu khổ, họ lưu luyến pháp thế gian. Đấy chẳng
phải là do pháp chẳng linh, mà là do chính người ấy
học chẳng đúng pháp. Tu học đúng pháp, pháp môn này
do chính Thiện Đạo đại sư nói ra. Ngài Thiện
Đạo là người đời Đường, là vị
tổ sư thứ hai của Tịnh Tông, tức Nhị Tổ.
Lăo nhân gia nói, pháp môn này được gọi là “vạn người tu, vạn
người đến [Cực Lạc]”, đúng là như
vậy đấy! Nhưng trong hiện thời, sợ người
ta hiểu lầm, trước đó, nhất định phải
thêm vào một câu, thành ra: “Đúng
lư, đúng pháp tu hành, vạn người tu, vạn người
về”. Quư vị trái nghịch lư luận của Tịnh
Tông, trái nghịch phương pháp của Tịnh Tông, đời
này quư vị sẽ rất khó thành tựu. Lư luận và phương
pháp đều ở trong kinh Vô Lượng Thọ và trong
kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, quư vị chỉ cần
nương theo những đạo lư và phương pháp ấy trong kinh điển để tu, chẳng có
một ai không thành tựu!
Do đó, đọc kinh phải
thấu đạt nghĩa lư, “thấu”
(透) là hiểu
rơ, triệt để hiểu rơ. Sau đấy mới biết
phải nên học như thế nào? Tuy hiểu được
một tí ngoài ŕa, chẳng thấu triệt, quư vị buông
xuống sẽ rất khó khăn. Muốn cho tập khí phiền
năo của quư vị thảy đều trừ sạch, khó khăn lắm!
Quư vị thật sự hiểu, thật sự liễu giải,
sẽ buông xuống tập khí phiền năo rất dễ dàng!
V́ sao? Trong dục vọng của chính quư vị có những
thứ mong cầu, nào ngờ thế giới Cực Lạc
thù thắng hơn những thứ ấy quá nhiều, lại
c̣n rất dễ cầu được. Quư vị mong cầu
thọ mạng, sống lâu, hễ văng sanh thế giới Cực
Lạc, sẽ là vô lượng thọ. Ở trong thế
giới này, chắc chắn quư vị chẳng đạt được [điều mong cầu ấy]! Quư vị mong muốn tướng hảo,
mong thân thể khỏe mạnh, thân người trong thế
giới Cực Lạc sắc
vàng ṛng màu tía đă giồi mài. Đối với tướng
mạo của mỗi người, tôi thường nói không
chỉ là “ba mươi hai tướng, tám mươi
thứ hảo”, mà là giống như Phật, thân có vô lượng
tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo.
Kinh Hoa Nghiêm có nói đắc
mười thứ đại tự tại, thứ nhất
là thọ mạng, trí huệ, của cải, v́ sao? Đấy là điều cần
thiết để độ chúng sanh. Bố thí cho chúng sanh th́ Tài Bố Thí là phương
pháp tốt nhất để tiếp dẫn chúng sanh. Trong
tự tánh của chư Phật, Bồ Tát có vô tận tài bảo.
Thuyết pháp th́ giống như là nói đến vô tận pháp
môn, vĩnh viễn chẳng thể nói hết được.
Có năng lực th́ thân tướng này có thể thị hiện
thuận theo ḷng yêu thích của chúng sanh. Đáng nên dùng thân nào
để đắc độ, bèn hiện thân ấy, [đó
là] thân tự tại. Phải mất thời gian bao lâu quư vị
mới có thể đạt đến? Kinh Di Đà nói là từ
một ngày cho đến bảy ngày. Quư vị thấy thuận
tiện lắm thay! Nhưng nh́n vào hơn hai ngàn năm lịch
sử, [sẽ thấy là] từ ba năm cho đến năm
năm, chắc chắn sẽ đạt được. Từ
ba năm đến năm năm mà quư vị vẫn chẳng
đạt được, [là v́] quư vị [tu tập] chẳng
đúng lư, chẳng đúng pháp. Nếu quư vị đúng lư, đúng
pháp, chắc chắn sẽ đạt được, chớ
nên không hiểu [điều này]. Sau khi đă hiểu, bèn
sanh tâm đại hoan hỷ, thân, tâm, thế giới hết
thảy đều buông xuống, quư vị đắc đại
viên măn. Nay đă hết thời gian rồi!
**
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin
xem tiếp bài kệ cuối cùng trong đoạn thứ chín.
(Kinh) Tán Phật tướng hảo,
đương nguyện chúng sanh, thành tựu Phật thân,
chứng vô tướng pháp.
(經)讚佛相好。當願眾生。成就佛身。證無相法。
(Kinh: Khen tướng hảo
Phật, nguyện cho chúng sanh, thành tựu thân Phật, chứng
pháp vô tướng).
Bài kệ trước nhằm
tán thán công đức của Phật, bài kệ này tán thán tướng
hảo của Phật. Đại khái, kệ tán Phật
chia thành hai loại lớn: Một loại là tán thán công
đức của Phật, loại kia là tán thán tướng
hảo của Phật. Giống như chúng ta thường
niệm kệ tán Phật để tán thán A Di Đà Phật,
đấy là tán tướng hảo. Quư vị thấy trong
bài kệ ấy có câu “tướng
hảo quang minh vô đẳng luân”, đấy là tán tướng
hảo của Phật. Tán thán tướng hảo của Phật,
xét theo việc tiếp dẫn đại chúng để nói
th́ sẽ có hiệu quả rất tốt, bất quá, mọi
người trong hiện thời có một chướng ngại
rất lớn, chướng ngại ấy chính là hiểu
lầm đối với Phật pháp! Hễ nhắc đến
Phật pháp, mọi người đều nói đó là tôn
giáo. Hễ nói tới tôn giáo, th́ sẽ cho là mê tín, nói nó chẳng
phải là thật, tối đa th́ bất quá là một loại
hành vi để khuyến thiện mà thôi. Họ chẳng
cho rằng đấy là sự thật; đó là một sự
sai lầm rất lớn.
Đối với chuyện
báo ứng và thiên địa quỷ thần, quư vị đến
mỗi xó xỉnh trên khắp thế giới, đều có
thể t́m được sự thật, đều có thể
t́m được chứng cứ. V́ sao những người
ấy chẳng tin tưởng? Tôi nghĩ chuyện này liên
quan đến Tâm Lư Học. Liên quan như thế nào? Nếu
người ấy tin tưởng, sẽ cảm thấy
những lợi ích và sự sung sướng đạt được
trong hiện tại bị mất đi. Hằng ngày phải
sát sanh, mỗi ngày muốn ăn thịt, nếu nói những hành vi ấy
trong tương lai sẽ đều có quả báo, vậy
th́ làm như thế nào đây? Từ nay trở đi sẽ
ăn ǵ? Vẫn là không tin th́ hay hơn! Tâm lư quấy rối.
Vào thời cổ, xă hội coi trọng, chánh phủ đề
xướng, quư vị thấy hễ có tai nạn, tai nạn
trọng đại, khi người ta bị thương
vong quá nhiều (kể cả súc sanh), đế vương
nhất định sẽ thỉnh ḥa thượng, đạo
sĩ đến làm pháp hội siêu độ. Đấy là
giáo dục nhân quả, hoàng đế dẫn đầu, nhà
vua đến thắp hương, làm công đức chủ.
Trong
dân gian Trung Hoa, loại siêu độ này sanh ra ảnh hưởng
to lớn như thế đó. Khi tôi mới học Phật,
đối với vấn đề này có rất nhiều
nghi hoặc. Trong Phật môn vốn chẳng có [siêu độ],
đức Phật chỉ dạy mỗi người chúng
ta phải tự ḿnh phản tỉnh, sám hối, sửa lỗi,
đổi mới, chẳng hề nói phải cùng nhau làm hoạt
động ǵ đó để siêu độ, chẳng có chuyện
này. Chuyện này được xướng suất tại Trung Hoa. Do tôi lúc
c̣n trẻ có một khoảng thời gian theo lăo pháp sư
Đạo An, lăo nhân gia mở một khóa Đại Chuyên
Phật Học Giảng Ṭa tại Đài Bắc Trung Hoa Phật
Giáo Hội, mời tôi làm tổng chủ giảng. Do đó,
chúng tôi hợp tác suốt bốn năm, thực hiện giảng
ṭa ấy bốn năm. Về sau, tôi rời đi, lăo nhân
gia cũng văng sanh. Tôi đă từng thỉnh giáo lăo nhân gia về
vấn đề này, tôi thưa: “V́ sao nẩy sanh chuyện
siêu độ?” Ngài bảo tôi: “Chuyện này đại khái
bắt nguồn từ thời Đường Minh Hoàng. V́
sao? Thuở ấy, An Lộc Sơn làm phản, cũng giống
như nói là đảo chánh, quy mô rất lớn. May mắn
là Quách Tử Nghi dẹp yên cơn biến loạn ấy. Tại
mỗi chiến trường, quân dân tử thương đều hết sức nhiều. Do vậy, sau khi đă
b́nh định, tại mỗi chiến trường chủ
yếu, Đường Minh Hoàng đều dựng một
ngôi chùa, làm đại hội siêu độ, giống như
hiện thời chúng ta nói là ‘hội
truy điệu’, quốc gia đứng ra tổ chức, mời
những vị cao tăng đại đức [tụng niệm]”.
[Nhà vua] dẫn đầu như
thế, về sau, đại khái là trong dân gian, hễ người
già qua đời, [dân chúng]
cũng đến chùa miếu
thỉnh pháp sư tới làm pháp hội siêu độ cho họ.
Trước kia, bất quá là mỗi năm hai, ba lượt,
Thanh Minh, Trung Nguyên (Vu Lan), hoặc ngày giỗ [mới làm pháp
hội siêu độ], đều là rất
ít, chẳng như hiện thời mỗi ngày đều làm,
[trước kia] chẳng hề có. Hơn nữa, chùa miếu
xưa kia ở trong núi thẳm, nói thật thà th́ lên núi cũng
khá bất tiện, cũng chẳng có đông người tham
gia như vậy. V́ vậy, quốc gia chỉ ở tại
những chỗ đại chiến trường có quy mô lớn
[dựng chùa, làm pháp hội siêu độ], số người
[tham dự] bèn nhiều. Những ngôi chùa ấy đều
gọi là Khai Nguyên Tự. Do vậy, tại Đại Lục,
chùa Khai Nguyên rất nhiều. Chùa Khai Nguyên là do Đường
Minh Hoàng truy điệu quân dân và chúng sanh tử vong trong loạn
An Sử[4]
mà làm pháp hội siêu độ. Lăo pháp sư nói có thể là
bắt đầu từ thuở ấy, chúng tôi ngẫm nghĩ
thấy hữu lư. Như vậy là tại Trung Hoa, từ
xưa tới nay, những vị đế vương, những
người lănh đạo quốc gia, trong dân gian hễ có
thiên tai, nhân họa, thương vong trọng đại, quốc
gia sẽ đều cử hành siêu độ, hiện thời
gọi là “truy điệu”,
nhất định thỉnh ḥa thượng, đạo
sĩ đến tụng kinh, bái sám. Đấy là nhân quả.
Loại pháp hội siêu độ
này, nh́n theo nhăn quan hiện thời, sẽ là hóa giải oán
hận. Giết người, họ (nạn nhân) sẽ báo
cừu. Nay chúng ta t́m những trường hợp điển
h́nh tại ngoại quốc, người Hoa luôn thấy [những
bằng chứng] sáng vằng vặc tại ngoại quốc. Chúng tôi trông thấy nhân quả báo ứng tại
ngoại quốc đều là chân
thật, chẳng phải là hư cấu. Quư vị thấy
tiến sĩ Chung Mậu Sâm đă nói với quư vị về
những bằng chứng luân hồi cụ thể ở phương
Tây. Ông ta nêu ra rất nhiều trường hợp, những
trường hợp ấy đều được truyền
bá phổ biến trên nhật báo, tạp chí của phương
Tây, thậm chí trên Internet. Lúc tuổi trẻ sát hại người
khác, đến khi chính ḿnh đă già, kẻ [bị sát hại]
ấy đầu thai vào nhà đó, làm cháu của gă đó,
thuộc hàng cháu nội. Trông thấy nhau, đứa trẻ
bèn sanh tâm nóng giận, dường như gặp mặt cừu
nhân, mắt đỏ ṣng sọc, biểu lộ loại hiện tượng ấy. Về sau, qua thôi
miên ở mức độ sâu, trong thôi miên, nó nói ra, nguyên
lai cụ già thuộc vai vế ông nội nó lúc c̣n trẻ đă
giết hại nó. Nay nó lại đầu thai, mới hiểu
v́ sao có hiện tượng ấy.
Cổ nhân rất hiểu
chuyện này, hiểu hết sức sâu đậm. Do đó,
chú trọng giáo dục luân lư đạo đức. Giáo dục
luân lư đạo đức chủ yếu là giữa con người
với nhau. Dẫu trong đời quá khứ, bất luận
oán hận như thế nào, lỡ tay sát hại cũng thế,
mà cố ư giết cũng thế, do sân hận mà giết cũng
thế, đều coi như xong. Quá khứ là chuyện đă
qua, đừng nên oan oan tương báo nữa, hy vọng mọi người có thể hóa
giải nỗi oán hận ấy, từ nay trở đi tôn
trọng lẫn nhau, cư xử ḥa thuận, hỗ trợ
hợp tác, đôi bên đều hạnh phúc. Oan oan tương
báo th́ hôm nay quư vị báo thù kẻ khác, đời sau, kẻ
ấy lại báo thù quư vị, báo tới, báo lui chẳng hết,
chẳng xong, đôi bên đều thống khổ, cần
ǵ phải vậy? Có ǵ mà chẳng thể hóa giải? V́ thế,
siêu độ là hóa giải oán đối. Xác thực là tuyệt
đại đa số được sự gia tŕ của
Phật đạo, trong ấy, thuyết pháp là khuyên nhủ,
hướng dẫn, họ đă tiếp nhận, oán hận
đă tiêu, chẳng c̣n báo thù nữa. [Đó là] chuyện tốt,
chẳng phải là chuyện xấu.
Đồng thời, một
tác dụng khác nữa là làm cho người hiện thời
nh́n vào. Người hiện thời ở trong thế gian này,
oán gia đối đầu cũng rất nhiều. Oán gia đối
đầu th́ có khi là kết oán trong hiện tiền, cũng
có khi do những hiềm khích trong nhiều đời, nhiều
kiếp. Trông thấy pháp hội này, nghe những lời
khuyến cáo từ kinh văn, cũng dấy lên tác dụng.
Người nào đó có hiềm khích với ta, coi như
xong, chẳng c̣n so đo nữa. V́ thế, hữu ư hay vô t́nh, cũng hóa giải những
sự đối lập, hiểu lầm, oán hận trong hiện
thực. Hiện thời bảo đó là mê tín, coi chuyện
này là giả, chẳng chân thật, muốn xóa bỏ chuyện
này. Tốt thôi! Oan oan tương báo vĩnh viễn tồn
tại, chẳng thể hóa giải, cừu hận càng chất
chứa càng sâu, nhất định sẽ dây dưa đến
đời kế, đời sau, phiền phức sẽ to
lớn. Do vậy, chúng ta ngẫm xem, các đế vương
thời cổ có thể truyền ngôi mười mấy đời,
hai mươi mấy đời, an hưởng nước
nhà mấy trăm năm, họ có đạo lư của họ.
Đạo lư lớn nhất là hóa giải oán thân trái chủ,
quá khứ, hiện tại, cho đến vị lai, vĩnh
viễn chẳng ngừng đề xướng giáo dục
luân lư, đạo đức, nhân quả.
Nếu thật sự hiểu
chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, mấy hôm
nay, nước Mỹ có nhà khoa học tên là Hoắc Kim
(Stephen Hawking), đây cũng là một nhân vật truyền
kỳ, đến thăm Trung Quốc và Hương Cảng.
Có đồng tu cắt vài bài báo đưa cho tôi xem. Tôi xem
xong mới biết, ông ta là người theo vô thần luận,
tin tưởng khoa học, chẳng tin luân hồi, chẳng
tin báo ứng. Đấy là lẽ đương nhiên. Ông
ta nói về khoa học, nói về nguồn gốc của vũ
trụ, khởi
nguồn của sanh mạng, hoàn toàn
dùng tiến hóa luận để nói, nói tới thuyết vũ
trụ bùng nổ (Big Bang). Nhưng chúng ta biết, các nhà
khoa học một ngàn trăm năm qua, đời nào cũng
đều có trường hợp khoa học gia phát hiện
một số
định luật, thông
thường là vài chục năm sau, khoa học gia thuộc
thế hệ sau sẽ bác bỏ lư luận ấy. Ông Hoắc
Kim phát hiện tương đối luận của Ái Nhân
Tư Thản (Albert Einstein) chẳng
hoàn mỹ, có khiếm khuyết, bèn bổ sung nó. Trong tương
lai, lại trải qua một vài năm, có thể là lại
có một nhà khoa học khác bác bỏ lư luận của ông
ta (Hoắc Kim). Đấy là hiện tượng b́nh thường.
Nói theo Phật pháp, chẳng rời khỏi tâm ư thức, sẽ
vĩnh viễn chẳng thấy chân tướng của vũ
trụ, đều là suy đoán, rờ rẫm! Những điều
được nói trong kinh điển của tôn giáo, đặc
biệt là những điều được nói trong Bà La
Môn giáo của Ấn Độ và Phật giáo đều nói
rất hay. Những nhà khoa học ấy chẳng học
kinh Phật, chẳng đọc Hoa Nghiêm. Nói thật ra, cũng
chẳng có cách nào dịch Hoa Nghiêm sang tiếng ngoại quốc,
quá khó; bởi lẽ, từng chữ, từng câu đều
chứa đựng vô lượng nghĩa, dịch bằng
cách nào đây? Quư vị chẳng khế nhập, sẽ chẳng
thể dịch nổi. Quư vị chẳng hiểu, làm sao có
thể dịch ra được? Chỉ dịch văn tự
bề ngoài, sẽ hoàn toàn là sai lầm, ư ở ngoài lời
mà!
V́ sao những bậc đại
thánh triết trong tôn giáo biết? Đức Phật nói, Ngài
dùng Hiện Lượng để hiểu rơ. Các nhà khoa học
th́ sao? Các nhà khoa học chỉ dùng Tỷ Lượng, tức
là dùng suy đoán, chính họ chưa trông thấy, nhưng cách
phổ biến nhất trong suy đoán là dùng Toán Học. Hễ
là suy đoán, sẽ c̣n có thể nẩy sanh sai lầm, Hiện
Lượng th́ chẳng thể! Quư vị thấy từ xưa
tới nay, những tiên đoán, dự đoán th́ nhiều,
Hiện Lượng th́ ít. Trước kia, tôi đă đem vấn
đề này hỏi thầy Lư, v́ từ xưa tới nay,
phương Đông và phương Tây đều có những
tiên đoán, tôi hỏi thầy có thể tin tưởng những
thứ ấy hay không? Thầy bảo tôi: “Có thể tham khảo,
chớ nên hoàn toàn tin theo. V́ sao? Rất khó đạt đến
chuẩn xác”. Thầy nói những thứ thật sự chuẩn
xác là do người có công phu định lực từ trong
Định có thể đột phá các chiều thời gian
và không gian, những điều họ trông thấy đích
thị là thật, chẳng giả. Nhưng những người
có công phu định lực ấy, dẫu có trông thấy, họ cũng chẳng
nói. V́ sao? Chẳng bằng ḷng tiết lộ thiên cơ. Dẫu
có nói ra, [từ
ngữ] cũng hết sức hàm súc,
giống như suy đoán câu đố, quư vị chẳng
dễ ǵ đoán được chuẩn xác. Đương
nhiên tốt nhất là chính quư vị tu Định, tu tâm thanh
tịnh, quư vị mới có năng lực đột phá.
Sự th́ thiên biến vạn
hóa. Tiên đoán sẵn th́ như tiên sinh Viên Liễu Phàm đă
được Khổng tiên sinh đoán sẵn số mạng.
Đó là ǵ? Đó là định số. Mỗi người
đều có định số, định số do đâu
mà có? Từ Măn Nghiệp do quư vị đă tạo trong đời
quá khứ. Nghiệp có hai loại lớn:
1) Loại thứ nhất là
Dẫn Nghiệp (引業), tức là cái dẫn dắt [thần thức
của người đă chết] đi vào một đường
nào đó. Nghiệp lực ấy được gọi
là Dẫn Nghiệp, tức là lục đạo. V́ sao quư vị
có thể sanh lên trời? V́ sao có thể sanh vào nhân gian? V́
sao sẽ biến thành súc sanh? V́ sao sẽ biến thành ngạ
quỷ? Dẫn nghiệp dẫn dắt quư vị vào đó.
2) Loại thứ hai là ví như
chúng ta được làm thân người, tướng mạo
của mỗi cá nhân khác nhau, trí huệ khác nhau, gặp gỡ
khác nhau, nghèo, giàu, sang, hèn khác nhau, thọ mạng dài hay ngắn
khác nhau. Đấy là chuyện ǵ? Măn Nghiệp. C̣n có một
loại nghiệp được gọi là Măn Nghiệp (滿業), chữ Măn trong viên măn. Đấy là thiện
hay ác đă tạo trong đời quá khứ, [Măn Nghiệp
là loại] nghiệp lực ấy.
Lũ b́nh phàm chúng ta cũng
chẳng hiểu những chuyện này, luôn mộng mị
mong cầu, cầu của cải, cầu thông minh, trí huệ,
cầu khỏe mạnh, sống lâu. Đấy là những điều
phổ biến chẳng có ai không mong cầu. Đức Phật
nói, có kẻ đạt được, có kẻ chẳng đạt
được; đạt được là do trong quá khứ
đă tu cái nhân ấy. [Đạt được] của cải
là do Tài Bố Thí, [đạt được] thông minh và trí
huệ là do Pháp Bố Thí, [đạt được] khỏe
mạnh, sống lâu là do Vô Úy Bố Thí. Quư vị tu ba loại
nhân ấy, chắc chắn sẽ đạt được
ba loại quả báo. Chương Gia đại sư dạy
tôi điều này. Lúc tôi c̣n trẻ, các thầy tướng
số đoán mạng đều nói mạng tôi rất mỏng,
chẳng có của cải, [tức là] trong mạng chẳng
có của cải, lại c̣n đoản mạng. Đối
với ba thứ ấy, tôi c̣n có một chút trí huệ,
đại khái là trong đời quá khứ chỉ tu Pháp Bố
Thí, chẳng tu Tài Bố Thí, chẳng tu Vô Úy Bố Thí. Do vậy
chỉ có một loại trong ba loại quả báo, hai thứ
kia đều thiếu khuyết. Chương Gia đại
sư dạy tôi phải tu Tài Bố Thí. Đối với
Vô Úy Bố Thí th́ ăn chay là Vô Úy Bố Thí, chẳng kết
oán cừu với chúng sanh nữa. V́ thế, tôi quen biết
Chương Gia đại sư sáu tháng, tôi bèn ăn chay trường,
tôi tin tưởng lời thầy. Chính ḿnh nhọc nhằn
cỡ nào, vẫn học đ̣i Tài Bố Thí. Chẳng có tiền,
nhưng một hai đồng vẫn có, có thể xả. Người
khác phóng sanh, chúng ta tán trợ; người khác in kinh, chúng ta
cũng tán trợ. In kinh thuộc về Pháp Bố Thí. C̣n có
bố thí thuốc men ở bệnh viện, cứ mỗi
hai ba tháng bèn làm, bỏ ra mười đồng, hai chục
đồng vẫn được.
Càng thí càng nhiều, thật
sự có quả báo, tôi toàn là nghe lời thầy dạy bảo
mà học theo. Theo số mạng, tuổi thọ của tôi
chỉ là bốn mươi lăm năm, năm nay tôi đă
tám mươi tuổi. Đấy là quả báo của Vô Úy
Bố Thí. Trong mạng chẳng có của cải, quư vị
thấy hiện thời chúng tôi làm rất nhiều việc,
những món tiền cần dùng đều hết sức
đáng kể, nhưng tự nhiên đưa đến. Đấy
là ǵ? Đấy là quả báo của Tài Bố Thí trong đời
này. Pháp Bố Thí th́ quá nhiều. Hằng ngày cùng với mọi
người học tập Phật pháp, đấy là Pháp Bố
Thí. Suốt bốn mươi tám năm chẳng hề gián
đoạn, mỗi ngày đều làm, tăng trưởng
trí huệ. V́ thế, quư vị phải tin tưởng lời
đức Phật dạy, phải thật sự làm, toàn
thể vận mạng sẽ chuyển biến. Tiên sinh Liễu
Phàm, tiên sinh Du Tịnh Ư chẳng chuyển biến mau chóng
như tôi, cũng chẳng có hiệu quả chuyển biến
to lớn như tôi. Kể từ sau khi tôi đă hiểu, bèn toàn tâm toàn lực, chẳng có mảy may nghi
hoặc, chẳng nghi ngại, cứ liều mạng mà làm.
Xả đắc, quan trọng
nhất là ư nghĩa thứ hai: Sau
khi ta đă đạt được, vẫn phải xả.
Khi đă đạt được, chớ nên tham cầu.
Khi tham cầu, phước báo của quư vị chỉ đạt
đến đó mà thôi. Ta đă đạt được
rồi bèn thí xả. Ư nghĩa thứ nhất vốn là “sau khi đă xả bèn có đắc”; ư nghĩa thứ hai, “đă đạt được, vẫn phải
xả”. Càng xả càng nhiều, càng xả càng sung sướng;
do vậy, pháp duyên của tôi tốt đẹp. Quư vị thấy
mười năm trước, khi tôi đến Tân Gia Ba giảng
kinh, [đúng ra là từ] mười mấy năm trước,
đến [Tân Gia Ba] vào năm đó, cũng đi từ
Hương Cảng. [Lúc đó, tôi đang] giảng kinh tại
Hương Cảng, có ba vị Phật hữu từ Tân
Gia Ba đến đạo tràng nghe giảng, nghe rất hoan
hỷ, nhất định mời tôi sang [Tân Gia Ba]. Khi đó,
tôi chưa từng đến Tân Gia Ba. Tôi nói: “Được,
tôi đi cùng ba người quư vị”. Do vậy bèn kết
duyên với Tân Gia Ba, dần dần quen thuộc với những
quốc gia tại vùng biển Nam. Pháp sư Diễn Bồi
ở Tân Gia Ba, Ngài với tôi cũng là bạn bè cũ, thấy tôi đến đó, Ngài hết sức hoan hỷ, ra phi trường
đón tôi. Khi tôi rời khỏi, Ngài đưa tiễn, mời
tôi ăn cơm, có đặt một câu hỏi như thế
này. Ngài nói: “Pháp sư Tịnh Không ơi! Pháp duyên của thầy
tốt đẹp như vậy, thầy kết bằng cách
nào? Có thể dạy tôi hay không?” Tôi thưa: “Rất đơn
giản”. Tôi nói: “Chuyện kết pháp duyên này là do lăo cư
sĩ Lư Bỉnh Nam dạy tôi”.
Thuở ấy, chúng tôi cầu
học tại Đài Trung, thầy rất trịnh trọng, lại c̣n rất nhiều lượt
dạy chúng tôi: “Nhất định
phải kết pháp duyên”. Thầy bảo: “Nếu các tṛ không kết pháp
duyên, trong tương lai, các tṛ giảng kinh dẫu hay cách mấy
đi nữa, chẳng có ai nghe! Người có pháp duyên, dù giảng kinh không hay, sẽ có nhiều
người đến nghe”. Khi đó, thầy lấy ngay trường hợp
điển h́nh trong các bạn học của chúng tôi. Thầy
bảo: “Các tṛ thấy cư
sĩ Lâm Khán Trị chỉ học hết Tiểu Học,
học hai bộ kinh, giảng cũng xoàng xoàng thôi, thính
chúng đông đảo. Những bạn học khác có tŕnh
độ cao hơn bà ta, giảng hay hơn bà ta, thính chúng
chẳng nhiều bằng bà ta, chưa được một
nửa!” Đấy là thí dụ rơ rệt, pháp duyên đấy
mà! Kết [pháp duyên] như thế nào? Thầy dạy chúng tôi,
mỗi tuần thầy giảng kinh một lần tại
Từ Quang Đồ Thư Quán: “Các
tṛ tươi cười chào đón người ta, ra tận
cửa tiếp đón, đó là kết pháp duyên”. Như thế th́ cũng chẳng
cần phải tốn tiền, do tiếp đăi, hướng
dẫn người ta, dẫn họ vào chỗ ngồi là được
rồi. Thầy c̣n bảo chúng tôi, các tṛ cũng có thể mua một chút đồ để kết
duyên, mua cho họ ăn. Mua ǵ? “Mua đậu phộng, hoặc
kẹo, mua một bao, mỗi người một viên, các tṛ
sẽ kết pháp duyên rất nhiều”. Chuyện này chẳng
tốn tới mấy
đồng, thật sự có thể
làm, mỗi tuần một lần. Chúng tôi học hiểu từ
chỗ này, luôn luôn chiếu cố những thính chúng đến
nghe kinh, nhiệt tâm chiếu cố, thành khẩn tiếp
đăi, pháp duyên bèn thù thắng.
Về sau, tôi giảng kinh ở
bên ngoài, từ năm Dân Quốc 60 (1971), tôi bắt đầu
in tặng kinh sách. Tuy số lượng không nhiều lắm,
thuở ấy gần như đều là một ngàn quyển,
loại sách khổ nhỏ, tặng cho mọi người ở
khắp nơi. Sau khi tôi đến Hương Cảng giảng
kinh, mới biết pháp sư Ấn Quang suốt đời
chuyên môn in kinh, tôi bèn học theo. V́ thế, về sau, tôi kết
duyên, chẳng dùng những vật phẩm khác, thảy đều
là kinh sách, kinh luận, thiện thư, tôi làm kiểu này. Số
lượng in ngày càng nhiều, đúng là ngay cả nằm
mộng vẫn chẳng mơ tới. Chỉ riêng Đại
Tạng Kinh, chúng tôi đă in hơn sáu ngàn năm trăm bộ,
[thật sự là] chuyện chẳng dám tưởng tượng.
Những thứ khác quá nhiều, chẳng có cách nào thống
kê. Gởi tặng toàn thế giới, chỗ nào cần đều
tặng. Họ chẳng cần, chúng tôi biết họ là đơn vị Phật giáo, cũng tặng.
V́ thế, kết duyên với toàn thế giới, bất luận
đến nơi đâu, đều có rất nhiều người
nhiệt liệt tiếp đăi. V́ thế, kết duyên khẩn
yếu lắm!
Tướng hảo là phương
cách bậc nhất để kết duyên của đức
Phật. Quư vị thấy trong kinh, đức Phật
đă dạy chúng ta: Bồ Tát muốn phát tâm dùng thân phận
Phật để giáo hóa chúng sanh, bèn đặc biệt dùng
thời gian một trăm kiếp để tu phước.
Quư vị mới biết phước trọng yếu cỡ
nào! Phước huệ song tu: Bồ Tát trước hết
là tu huệ, huệ đă thành công, [nhưng nếu] chẳng
có phước báo, sẽ chẳng thể tiếp dẫn
chúng sanh. Đặc biệt tu phước, suốt một
trăm kiếp tu tướng hảo, tức ba mươi
hai tướng và tám mươi thứ hảo. V́ thế, quư
vị hăy nh́n vào sự biểu thị pháp trong Phật môn của chúng ta, tạc tượng
nhằm biểu thị pháp. Tượng Phật, Bồ Tát
đều hết sức viên măn, người khác trông thấy
đều sanh tâm hoan hỷ. Tướng mạo của La
Hán chẳng sánh bằng Bồ Tát, v́ sao? La Hán có huệ, chẳng
tu phước; do vậy, tướng mạo của Ngài rất
kỳ quái. Nhưng quư vị lắng ḷng nh́n ngắm, [sẽ cảm nhận] các Ngài rất từ bi, chẳng hung ác. Tướng
mạo tuy chẳng dễ coi, nhưng Ngài chẳng hung ác, chẳng
phải là tướng hung tợn. Do vậy, tướng mạo
hết sức trọng yếu. Tôi thường nói, ngạn
ngữ đă nói rất hay: “Tướng
chuyển theo tâm”. Về sau, chúng tôi hiểu rơ: Không chỉ
là tướng chuyển theo tâm, mà thể chất
cũng chuyển theo tâm. Thân thể của quư vị do cái tâm
thanh tịnh, tướng mạo sẽ thanh tịnh. Tâm từ bi, tướng
mạo bèn từ bi. Do vậy, công phu tu hành của quư vị,
công đức quư vị đă tích lũy tu tập, ở chỗ
nào? Hoàn toàn ở nơi tướng mạo, hoàn toàn ở
trên thân thể quư vị. Chuyện này chẳng thể lừa
gạt kẻ khác, nhất định phải chú ư, tướng
hảo tiếp dẫn rất nhiều chúng sanh.
Trong
những năm qua, tôi nhận lời của các trường,
mấy đại học tại Úc mời tôi đại diện
cho nhà trường, đại diện
cho Úc Châu tham gia các hoạt động ḥa
b́nh quốc tế, phương diện tiếp xúc rất
rộng, cũng quen biết nhiều người. Những
vị học giả, chuyên gia đều rất chịu
khó tṛ chuyện với tôi. Trong khi tṛ chuyện, chắc chắn
không thể thiếu [câu hỏi]: “Thưa pháp sư, thầy bảo dưỡng thân thể như thế nào?” Chắc chắn phải hỏi lời
này. Ngay cả sang Nhật Bản, chúng tôi đến
thăm tiến sĩ Giang Bổn Thắng, tham quan thí nghiệm
với nước của ông ta, câu đầu tiên cũng
là hỏi chuyện này. Do vậy có thể biết, có thể
nói là từ độ tuổi trung niên trở lên, chẳng
có ai không quan tâm thân thể của chính ḿnh. Thân thể khỏe
mạnh là phước báo bậc nhất. Thân thể chẳng
khỏe mạnh, có tiền th́ có tác dụng ǵ chứ? Tiền
đều đem chữa bệnh, chuyện này rất oan uổng! Kể từ
sau khi tôi học Phật, tôi chẳng chịu đem tiền
đi chữa bệnh. Do vậy, tôi bèn định ra thời
hạn nhất định để bố thí thuốc
men. Tôi ở Úc, sống tại Đồ Văn Ba (Toowoomba),
Đồ Văn Ba có nhà thương công
lập, hằng năm tôi tặng họ mười hai vạn
đồng, mỗi tháng một vạn để giúp tiền
thuốc thang cho người nghèo khổ. Trước kia ở
Đài Loan, dẫu tiền ít ỏi, tôi nhất định
dành ra một phần tặng bệnh viện, bố thí thuốc
men. Do đó, tôi thường nói với người khác, tôi chẳng thể mắc bệnh. V́ sao? Tôi
mắc bệnh sẽ chẳng có tiền chữa trị,
tiền chữa trị của tôi đă bố thí hết rồi.
Người già phải giữ lại một món tiền để
làm tiền thuốc thang, chữa trị lúc tuổi xế chiều. Đó là ǵ? Họ chuẩn bị
ngă bệnh. Họ nghĩ khi tuổi già nhất định
sẽ sanh bệnh, nhất định phải dùng đến
món tiền ấy, vậy th́ làm sao chẳng sanh bệnh cho được? Kể
từ sau khi tôi học Phật, chẳng có ư niệm sanh bệnh, tiền thuốc men thảy
đều xả hết. Hễ
ngă bệnh bèn niệm Phật cầu văng sanh, rất tự
tại. Do đó, quư vị thật sự vâng theo giáo huấn
của Phật, Bồ Tát tu ba loại bố thí này, quư vị
sẽ đạt được quả báo.
Tôi tham gia các hoạt động
bên ngoài, tuổi tác đă cao như vậy, đứng cùng
một chỗ với người khác, gần như chẳng
có ai bằng tuổi tôi, họ đều nhỏ hơn tôi,
ít th́ nhỏ hơn ba bốn tuổi, nhiều th́ nhỏ hơn
mười mấy, hai mươi tuổi. Đặc biệt
là những người nhỏ hơn tôi trong khoảng mười
tuổi, tướng mạo và thân thể của họ chẳng
bằng tôi. Họ hỏi tôi bảo dưỡng như thế
nào? [Tôi trả lời] “niệm
Phật, tu tâm thanh tịnh, ăn chay trường”. Họ
nghe nói rất hâm mộ, đều cho rằng “ăn chay chẳng đủ dinh dưỡng”. Tôi nói tôi đă ăn chay năm mươi
lăm năm, lại c̣n ăn rất ít, tuyệt đối
chẳng ăn vặt, quư vị nói ăn chay thiếu
dinh dưỡng ư? Dáng vẻ của tôi như thế này! Quan trọng nhất là tâm địa phải
thanh tịnh, phải buông xuống phiền năo, phải buông
xuống ưu lự, phải buông xuống vướng mắc,
thân tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh sanh trí huệ, chẳng
sanh phiền năo. Nếu quư vị thật sự tu “chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh
giác, từ bi”, tướng mạo của quư vị sẽ
chẳng xấu đi, tướng sẽ biến đổi.
Tướng chuyển theo tâm, nhất định phải
tin tưởng.
Do đó, từ tán thán tướng
hảo của Phật sanh ra đại nguyện, “đương nguyện chúng sanh,
thành tựu Phật thân” (nguyện cho chúng sanh thành tựu
thân Phật). Quư vị thấy chúng ta học Phật, tấm
gương của chúng ta là Thích Ca Mâu Ni Phật. V́ thế,
tôi hết sức cảm kích vị thầy vỡ ḷng của
tôi, Chương Gia đại sư là thầy dạy vỡ
ḷng cho tôi. Những quyển sách thầy dạy tôi xem đầu
tiên là Thích Ca Phương Chí và Thích Ca Phổ, tức là xem
truyện kư về Thích Ca Mâu Ni Phật. Học Phật th́ phải học theo Thích Ca Mâu Ni Phật, đấy
là điển h́nh, là tấm gương cho chúng ta. Học
theo trí huệ, đạo đức của lăo nhân gia, học
theo hành trạng, đại nguyện, sự hành tŕ trong cuộc
sống của lăo nhân gia, như vậy th́ sẽ chẳng
sai! [Học tập] kinh Hoa Nghiêm đến phẩm này, từ
kinh văn chúng ta thấy, chắc chắn chẳng cầu phước
báo nhân thiên, quyết định chẳng mong cầu của
cải, ngôi vua, vợ con. V́ sao? Trong phần sau, đức
Phật đă nói rất rơ ràng, đấy là cái nhân luân hồi.
Trong tâm mục của quư vị c̣n có những thứ ấy
không buông xuống được, quư vị chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi.
Chúng ta hăy nghĩ kinh thường nói, “được làm thân người, nghe Phật
pháp, cơ duyên ấy trăm ngàn vạn kiếp khó gặp!” Cư
sĩ Bành Tế Thanh nói: “Một
ngày hiếm có khó gặp từ vô lượng kiếp đến
nay”. Nay chúng ta được gặp gỡ, đă gặp
gỡ th́ phải nhận biết, cơ duyên này quá khó có, nhất
định phải nắm lấy, ta thành tựu trong một
đời này.
Mục tiêu ở chỗ nào? Mục
tiêu là “thành tựu Phật
thân”. V́ thế, không chỉ là chúng ta buông xuống toàn bộ
các thứ trong thế gian, tôi thường nói với chư
vị, tôi nói lời chân thật. Đại Phạm thiên vương
nhường ngôi cho tôi, tôi sẽ chẳng cần ngôi vị
của ông
ta. Ma Hê Thủ La thiên
vương nhường ngôi cho tôi, tôi cũng chẳng thấy
là hiếm lạ (chẳng
ham). V́ sao? Chẳng thoát khỏi
lục đạo. Ma Hê Thủ La thiên vương là chúa của
tam thiên đại thiên thế giới, Đại Phạm thiên
vương là chúa của tiểu thiên thế giới, phước
báo nhân thiên đạt đến tột đỉnh, chẳng
thoát khỏi lục đạo, phải biết điều
này. Lục đạo lắm nỗi nhọc nhằn, vẫn
muốn sanh trong đó nữa ư? Quư vị nghĩ tới
chỗ này, sẽ tự nhiên có thể triệt để buông
xuống. Niềm lạc thú trong đời người, niềm
lạc thú ở ngay trong dạy học, “học bất quyện, giáo bất yếm” (học
chẳng mệt, dạy chẳng chán). Cả đời Khổng
phu tử đă làm được, nhưng học không mệt
th́ Ngài [thực hiện] suốt đời, dạy không mệt
th́ Ngài chỉ có thời gian năm năm vào lúc tuổi già.
Nhưng Thích Ca Mâu Ni Phật thật sự thể nghiệm,
suốt đời hiếu học, suốt đời dạy
học, suốt bốn mươi chín năm từ lúc ba mươi
tuổi [thành đạo] cho đến khi bảy mươi
chín tuổi viên tịch, suốt đời dạy học,
vui sướng trong ấy. Quư vị hăy ngẫm xem, giúp đỡ
bao nhiêu người giác ngộ, phá mê khai ngộ? Chỉ có
phá mê khai ngộ th́ mới có thể thật sự ĺa khổ
được vui, quư vị nói xem chuyện này có nhiều ư
nghĩa lắm! Người sống trong một đời
để làm chuyện này, có nhiều giá trị, có nhiều
ư nghĩa, trong các pháp thế gian và xuất thế gian, chẳng
t́m thấy pháp thứ hai có thể sánh bằng.
Suốt đời phát nguyện
làm giáo viên, tôi ngay cả hiệu trưởng cũng chẳng
làm! V́ sao? Hiệu trường phải quản trị các sự
vụ hành chánh, chuyện ấy rất phiền toái, làm giáo
viên tốt hơn, thong dong, vui sướng. Thầy tôi là tiên
sinh Phương Đông Mỹ suốt đời làm giáo
viên. Tôi c̣n có một người bạn thân, đă
qua đời mười mấy năm trước, là bạn học; là giáo sư của chương tŕnh Tiến
Sĩ khoa Lịch Sử đại học Đài Loan, tức
tiên sinh Phó Lạc Thành. Ông ta suốt đời làm giáo viên; khi về già, chỉ có một lần,
thuở ấy h́nh như là đại học Thành Công thành
lập tại Đài Nam, mời mọc ông ta làm viện trưởng
viện Văn Học. Làm hết một học kỳ, ông
ta từ chức. Trở lại Đài Bắc, khi chúng tôi cùng
nhau dùng bữa và tán gẫu, [ông ta thốt lên], “thật sự
chẳng phải là chuyện
để con người làm được”. Do vậy, ông ta trở lại dạy học
ở đại học Đài Loan. Bởi lẽ, một người
suốt đời dạy học, quư vị bảo người
ấy làm bất cứ chuyện ǵ, người ấy đều
ngại phiền, thật đấy, chẳng giả tí nào!
Niềm vui do đọc sách là vô cùng, kẻ không đọc sách sẽ vĩnh viễn
chẳng thể tưởng tượng được, quư
vị chẳng có cách nào tưởng tượng. Niềm vui sướng do đọc sách dạy học
là niềm vui của thánh nhân, chẳng phải là phàm nhân. Luận
Ngữ vừa mở đầu bèn nói rơ chuyện này: “Học nhi thời tập chi, bất
diệc duyệt hồ” (Học
rồi thường xuyên tập luyện, cũng chẳng
vui sao), [đó là]
niềm vui do đọc sách.
“Hữu bằng tự viễn
phương lai, bất diệc lạc hồ” (Có bạn từ phương xa đến, cũng
chẳng vui sao), [đó là] niềm vui do dạy học. “Nhân bất tri nhi bất uấn,
bất diệc quân tử hồ” (Người khác chẳng biết đến,
mà chẳng oán hận, cũng chẳng phải là bậc quân
tử ư), đấy là chính ḿnh đọc sách đă thông
suốt. Không có ai đến học với quư vị, vẫn
vui vẻ, chẳng có ǵ không vui. Nếu nhằm lúc có
rất nhiều người đến học, đấy
chính là “kết duyên” như
nhà Phật đă nói, rộng kết pháp duyên. Người tới học nhiều, sẽ hóa
độ chúng sanh nhiều hơn, pháp duyên thù thắng!
Hiện thời, phương
thức kết duyên nhất định phải dùng khoa học
kỹ thuật cao. Chúng ta đă dùng vệ tinh, dùng Internet,
hiện nay dùng đĩa DVD, băng thâu âm, băng thâu h́nh, tái
bản để lưu thông. Chẳng làm chuyện ǵ khác,
chuyên môn làm chuyện này. Trên cả thế giới, chúng ta c̣n
có bạn bè, chúng ta c̣n có bằng hữu, bằng hữu chính
là Tịnh Tông Học Hội. Mỗi Tịnh Tông Học Hội
đều độc lập, ở đây chúng ta chẳng
có mối quan hệ lệ thuộc, đều là bạn bè,
đều là b́nh đẳng. Có chuyện ǵ bèn giúp đỡ,
chiếu cố lẫn nhau, niềm vui ḥa quyện. Năm
ngoái tôi sang Pháp, Pháp Quốc Tịnh Tông Học Hội được
thành lập. Năm ngoái tôi cũng sang Anh quốc, trong hai tháng
gần đây nhất, tin tức truyền đến cho biết
nước Anh cũng sắp thành lập một Tịnh
Tông Học Hội. Tôi nói được lắm, nhất
định tôi sẽ đến thăm. V́ thế, Tịnh
Tông Học Hội là “có bạn
bè từ phương xa đến, cũng chẳng vui sao”!
Một đoạn gồm ba câu này của sách Luận Ngữ
có thể nói là đă nêu rơ hạnh phúc và trí huệ của các
bậc đại thánh đại hiền thế gian và xuất
thế gian, lại c̣n nói hết sức viên măn.
Niềm vui ấy sẽ chẳng
tiêu mất, sẽ chẳng lui sụt. Đấy mới là
niềm vui thật sự. Trong pháp thế gian, đức Phật
đă dạy, lạc là Hoại Khổ. Trong thế gian chẳng
có chân lạc. Tam giới đều khổ, có Khổ Khổ, có Hoại Khổ,
và có Hành Khổ. Thật sự ĺa khỏi ba nỗi khổ
ấy, sẽ đạt được niềm vui vĩnh
hằng. Đó là học,
ham học, hoan hỷ dạy người
khác; đấy là vĩnh hằng, quư vị có thể thật
sự làm chuyện này, lại c̣n có thể thật sự đem
theo. Trí huệ có thể mang theo, công đức có thể
mang theo, chẳng giống pháp thế gian. Do vậy, trong một
đời này, chúng ta niệm Phật, văng sanh, thành Phật,
thành tựu thân Phật, “chứng
vô tướng Pháp”. “Vô
tướng” là chẳng chấp tướng, c̣n có ư nghĩa
sâu hơn nữa. Nay th́ đă hết thời gian rồi, trong
buổi học kế tiếp, chúng tôi sẽ bổ sung.
Tập
1574
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin
xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một, bài kệ
cuối cùng trong đoạn lớn thứ chín:
(Kinh) Tán Phật tướng hảo,
đương nguyện chúng sanh, thành tựu Phật thân,
chứng vô tướng pháp.
(經)讚佛相好。當願眾生。成就佛身。證無相法。
(Kinh: Khen tướng hảo
Phật, nguyện cho chúng sanh, thành tựu thân Phật, chứng
pháp vô tướng).
Bài kệ này có ư nghĩa rất
sâu, rất rộng. Trong phần trước, tuy đă nói
qua, nhưng chưa trao đổi về “chứng vô tướng pháp”, chúng ta lợi dụng
thời gian này để bổ sung. Các đồng học
học Phật nhất định phải biết: “Chúng ta học Phật để làm ǵ? Đức
Phật dạy chúng ta những ǵ? Ngài dạy bằng cách nào?
Chúng ta phải biết học theo cách như thế nào?” Ắt phải hiểu rơ ràng những khái niệm cơ bản này! Mục
đích học Phật, nói đơn giản sẽ là dạy
chúng ta làm một người thông hiểu trong thế gian này.
Nói cách khác, chẳng thể sống hồ đồ suốt
cả một đời, nhất định phải làm một
người thông hiểu. Làm người thông hiểu cũng
chẳng phải là dễ làm. Người thông hiểu sẽ
thật sự hạnh phúc, vui sướng, nhưng xác thực
là chẳng dễ dàng.
Hiểu rơ những ǵ? Hiểu
rơ Thật Tướng của các pháp, điều này khó lắm!
Thật Tướng của các pháp là chân tướng của
nhân sinh và vũ trụ. Đức Phật bảo chúng ta, quư vị vốn hiểu rơ chân tướng
của vũ trụ và nhân sinh, hễ hiểu rơ th́ là Phật.
Đức Phật hiểu rơ, hết thảy chúng sanh và Phật
cũng hiểu rơ như nhau. V́ sao hiện thời biến
thành nông nỗi này? Chúng ta đă mê mất cái Minh trong sự
hiểu minh bạch về chân tướng sự thật, nay
chúng ta biến thành t́nh trạng ǵ?
Biến thành vô minh. Minh bị mê mất bèn biến thành vô
minh. Vô minh là hiện thời chẳng biết chân tướng của vũ trụ và
nhân sinh là ǵ! Do sự không biết ấy, chúng ta tư
duy, hành động đều bị mất phương hướng
và mục tiêu, thuận theo tập khí phiền năo của chính
ḿnh. Kết quả của chuyện tùy thuận tập khí
phiền năo là luân hồi trong lục đạo. Lục đạo
luân hồi vốn chẳng có, hiện thời, nó có hay không?
Hiện thời vẫn chẳng có. Chẳng có mà quư vị
ngỡ là có; do đó, những lời này rất khó nói. Mê là
ǵ? Mê giống như nằm mộng. Tôi nói với quư vị
mộng là giả, mộng chẳng thật, trong mộng chẳng
có. Nhưng khi một người đang nằm mộng,
chẳng biết chính ḿnh đang nằm mộng, người
ấy cứ coi cảnh trong mộng là thật. Khi
nào người ấy nằm mộng mà biết chính ḿnh
đang nằm mộng, sẽ gọi là giác ngộ.
Trong bốn mươi chín năm
dạy học, đức Phật thường sử dụng
tỷ dụ. Đối với người căn tánh
trung hạ, cách này sẽ khiến cho họ từ tỷ dụ
mà lănh ngộ, là một phương pháp dạy học rất
tốt. Tỷ dụ được dùng nhiều nhất là
mộng. Kinh Kim Cang nói: “Nhất
thiết hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh”
(Hết thảy các pháp hữu vi, như mộng,
huyễn, bọt, bóng). Tuy nói bốn thứ tỷ dụ, mộng
là chánh yếu, huyễn, bọt, bóng là phụ trợ. Chủ
yếu nhất là nói đến mộng. Hết thảy các
pháp hữu vi tức là toàn thể vũ trụ, các đồng
học đă học Duy Thức đều biết Di Lặc
Bồ Tát đă quy nạp hết thảy vạn sự, vạn
pháp trong vũ trụ và nhân sinh thành sáu trăm sáu
mươi pháp, dễ dạy! Thiên Thân Bồ Tát từ bi,
nhận biết sáu trăm sáu mươi pháp đối với
kẻ sơ học vẫn rất phức tạp, quá nhiều.
Do đó, Ngài lại quy nạp sáu trăm sáu mươi pháp thành
một trăm điều, gọi là Bách Pháp. Chư vị
phải biết, Bách Pháp là tổng cương lănh của hết
thảy các pháp. Triển khai ra, sẽ là sáu trăm sáu mươi pháp như trong Du Già Sư Địa Luận. Lại triển khai ra, sẽ là hết thảy các pháp.
Bách Pháp, trong một trăm điều
ấy, chín mươi bốn điều là hữu vi, tức
chín mươi bốn điều là pháp hữu vi, pháp vô vi
chỉ có sáu điều. Trong sáu điều[5] ấy,
trên thực tế, chỉ có một điều là vô vi thật
sự, tức điều cuối cùng, được gọi
là Chân Như Vô Vi. Chân Như là ǵ? Pháp Tánh, Pháp Thân. Những
món khác là ǵ? Những món khác là Tương Tự Vô Vi, do chúng
chẳng thể quy nạp vào hữu vi. Hữu vi có nghĩa
là ǵ? Có sanh có diệt th́ thuộc về hữu vi; vô vi là bất
sanh bất diệt. Đối với hư không, chúng ta chẳng
thấy hư không sanh, mà cũng chẳng thấy hư
không diệt. Do đó, hư không cũng được xếp
vào pháp vô vi, nhưng nó là Tương Tự Vô Vi, chẳng phải
là vô vi thật sự. Hư không có sanh diệt hay chăng?
Có chứ! Lũ phàm phu chúng ta chẳng biết, phàm phu vĩnh
viễn chẳng trông thấy, chẳng thấy hư không
sanh diệt. Hiện thời nói tới sự sanh diệt của
thời gian và không gian, phàm phu chẳng thấy. Giáo pháp Đại
Thừa nói ai có thể thấy? Đức Phật nói là Bát
Địa Bồ Tát. Địa vị này cao lắm, Bát Địa
Bồ Tát trông thấy. Nói cách khác, trong sáu pháp vô vi, Bát Địa
Bồ Tát mới thật sự biết vô vi chân thật chỉ có một, tức là Chân Như vô vi, những thứ khác chẳng
phải là vô vi thật
sự.
Hiện tượng sanh diệt
của hư không hiện thời có tồn tại hay không?
Tồn tại! Chỉ v́ tâm của chúng ta quá thô, chẳng có cách
nào cảm nhận. Hư không là một loại tướng
tương tục sanh diệt. Các
nhà khoa học hiện thời, chúng ta cũng chẳng thể
không bội phục họ, họ đă phát hiện. Chuyện
gần đây nhất, họ đă phát hiện không gian và
thời gian chẳng thật, họ nói dưới một điều
kiện nào đó, chúng sẽ chẳng có. Không gian cũng chẳng
có. Hễ không gian chẳng có, xa gần sẽ chẳng có.
Thời gian chẳng có, trước sau sẽ chẳng có. Họ
đưa ra một tin tức như thế, nhưng dùng phương
pháp ǵ? Họ chẳng có biện pháp nào. Đối với
cách nói này, chúng ta nghe rồi trong tâm hiểu rơ: Trong Thiền
Định rất sâu, sẽ có thể đột
phá các chiều thời gian và không gian. Sau khi đă đột
phá, quư vị có thể thấy nó sanh diệt, thấy nó tiếp
nối. V́ sự tiếp nối của nó chẳng có biến
hóa, cho nên nó chẳng được xếp vào pháp hữu
vi. Pháp hữu vi là sanh diệt liên tục th́ mới có biến
hóa, niệm trước và niệm sau khác nhau, sự sanh diệt
ấy rất dễ lănh hội. C̣n như hư không sanh diệt
v́ nó chẳng có biến hóa, chúng ta chẳng thể cảm
nhận, ngỡ nó là thật, là vĩnh hằng.
Kinh
Phật nói “sanh diệt trong từng
sát-na”, đó là h́nh dung. Trên thực tế, sát-na là
một phần sáu mươi của một cái khảy ngón
tay. Thông thường khảy ngón tay, chúng ta khảy rất
mau, đại khái là một giây có thể khảy bốn lần.
Kinh Nhân Vương bảo một cái khảy ngón tay là sáu
mươi sát-na, một sát-na là chín trăm lần sanh diệt.
Chúng ta dùng bốn lần khảy ngón tay để tính toán,
bốn nhân sáu mươi lại nhân với chín trăm, trong
một giây sanh diệt bao nhiêu lần? Vừa đúng hai lần
mười vạn tám ngàn lượt, cũng là hai mươi mốt
vạn sáu ngàn (216.000) lần. Trong một giây là hai mươi mốt
vạn sáu ngàn lần sanh diệt. Tướng sanh diệt
của nó chẳng biến hóa, làm sao quư vị biết nó là
giả cho được? Trong [khi giảng giải] kinh Hoa
Nghiêm, chúng tôi đă bàn vấn đề này vài lần. Trong
kinh nghiệm học tập của tôi, tôi cảm thấy
trong kinh Nhân Vương, Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói phương
tiện, chẳng phải là nói chân thật. V́ sao? V́ nói chân
thật th́ khoa học hiện thời đă phát hiện vận
tốc ánh sáng hoặc vận tốc của sóng điện
từ đă vượt xa cách nói của Thích Ca Mâu Ni Phật.
Do vậy, ta biết đức Thế Tôn đă nói phương
tiện. Nếu nói chân thật, sẽ là một phần ức
vạn của một giây, lấy đâu ra hai mươi mốt
vạn sáu ngàn lần. Đúng là chẳng có cách nào nh́n ra!
Quư vị liễu giải chân
tướng sự thật này, mới biết “vô tướng pháp” là ǵ? Chính
là như kinh Kim Cang đă nói “phàm
những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”,
[hoặc
như] kinh Đại Bát Nhă nói là “hết thảy các pháp vô sở hữu,
rốt ráo không, chẳng thể được”, kể
cả thân thể hiện tiền của chúng ta. Đấy
là ǵ? Đấy mới là Thật Tướng của các pháp.
Nếu quư vị thật sự triệt để hiểu
rơ điều này, c̣n có ǵ mà quư vị không buông xuống
được? Sở dĩ người ta không buông xuống
được là do chẳng liễu giải chân tướng
sự thật. Liễu giải chân tướng sự thật,
hết thảy đều buông xuống. Buông xuống ǵ vậy?
Buông xuống chướng ngại, buông xuống phiền
năo, buông xuống tập khí của quư vị, vậy th́ chúc
mừng quư vị, “thành tựu
Phật thân”, thật vậy ư? Thật đấy! V́
quư vị vốn sẵn thành Phật. Trong các kinh Hoa Nghiêm và
Viên Giác, đức Phật đă nói: “Hết thảy chúng sanh vốn sẵn thành Phật”.
Quư vị chẳng thể thành Phật là v́ không buông xuống
được! Người niệm Phật văng sanh, nếu
chẳng đem tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ
dục, lục trần trong thế giới này, thường
nói là “thân, tâm, thế giới”
hết thảy đều buông xuống, quư vị sẽ chẳng
thể văng sanh. Sau khi đă có thể buông xuống những
thứ ấy, quư vị sẽ tùy ư văng sanh bất cứ lúc
nào, quư vị thích đi lúc nào, bèn đi lúc đó,
chẳng có mảy may chướng ngại ǵ! Thảy đều
buông xuống, sẽ là “một
niệm tương ứng một niệm Phật”, tương
ứng với ǵ vậy? Tương ứng pháp vô tướng.
Đối với chuyện
học Phật, năm xưa, khi tôi mới tiếp xúc [Phật
pháp], thầy tôi là Chương Gia đại sư hết
sức yêu thương, che chở tôi. Tôi có rất nhiều
nghi vấn, hướng về lăo nhân gia thỉnh giáo, Ngài đều
rất từ bi, rất kiên nhẫn giải thích cho tôi. Ngài
dạy chúng tôi buông xuống. Khi chúng tôi tiếp nhận, chỉ
hiểu mơ hồ ư nghĩa bao hàm [trong lời dạy ấy],
“phải buông xuống”, chẳng biết sự sâu rộng vô tận trong
việc buông xuống. Cho đến nay, học Phật
đă năm mươi lăm năm, càng học càng cảm
thấy sâu, sâu th́ sâu không đáy, rộng th́ rộng chẳng
có ngằn mé. Buông xuống quả địa cầu này, buông
xuống cái thân này của ta, tam thiên thế giới có buông
xuống hay không? Lục đạo mười pháp giới
có buông xuống hay không? Đến cuối cùng, vô lượng
vô biên hằng sa cơi Phật quư vị có buông xuống hay không?
Thảy đều phải buông xuống. Tới cuối cùng,
ngay cả thời gian và không gian cũng đều phải
buông xuống. V́ thế, đập nát hư không, hư
không chẳng thật!
Do vậy, tôi nói, từ Sơ
Phát Tâm cho đến địa vị Như Lai, tu ǵ vậy?
Chính là buông xuống mà thôi. Buông xuống, buông xuống, lại
buông xuống, buông xuống thêm nữa! Bồ Tát tu học
sáu điều kiện, điều đầu tiên là Bố
Thí. Bố Thí chẳng phải là buông xuống ư? Triệt
để buông xuống. Cái buông xuống cuối cùng là vô
minh, buông xuống sạch sành sanh tập khí vô minh, sẽ là
Phật Thân viên măn rốt ráo. Cái thân ấy có tướng
hay không? Chẳng có tướng! Cái thân ấy là toàn thể
vũ trụ. Trong Phật pháp chẳng gọi là vũ trụ,
mà gọi là pháp giới, toàn thể trọn khắp pháp giới
hư không giới. Đức Phật dạy chúng ta trở
về điểm này, đấy mới là viên măn rốt
ráo.
Quư vị thấy từ kinh Hoa
Nghiêm chúng ta học tập Bồ Tát thuộc địa vị
Thập Tín, nay chúng ta đang học về Bồ Tát thuộc
địa vị Thập Tín. Phẩm kinh này là phương
pháp tu hành của Thập Tín Bồ Tát, hoặc nói là “khoa mục tu hành”
của các Ngài, phá vô minh, chứng Pháp Thân, đấy là nói đến
cuối cùng, nhưng chẳng đoạn tập khí vô minh.
Thật sự đoạn tập khí vô minh, sáu căn tiếp
xúc cảnh giới sáu trần xác thực sẽ chẳng khởi
tâm, không động niệm. Khởi tâm động
niệm c̣n chẳng có, lấy đâu ra phân biệt, chấp
trước? Khởi đầu từ Sơ Trụ, Thập
Tín Bồ Tát chỉ cần buông xuống vô minh, tức là buông
xuống khởi tâm động niệm, Ngài liền thoát ly
mười pháp giới. Từ đấy trở đi là Nhất
Chân pháp giới, thông thường là trong thế giới Hoa
Tạng, c̣n người niệm Phật ở trong thế
giới Cực Lạc. Cực Lạc và Hoa Tạng là một,
không hai, tổ sư đại đức đă nói rơ ràng cùng
chúng ta: “Cực Lạc chính là Hoa Tạng,
Hoa Tạng chính là Cực Lạc”, tuy là hai mà chẳng phải là hai!
Sau khi quư vị đă vượt
thoát mười pháp giới, vào trong
pháp giới b́nh đẳng, Nhất Chân là pháp giới
b́nh đẳng. Trong b́nh đẳng c̣n có bốn
mươi mốt tầng cấp, đấy chẳng phải
là bất b́nh đẳng ư? Tây Phương Cực Lạc
thế giới là một thế giới b́nh đẳng,
trong ấy c̣n có ba bậc chín phẩm, đấy chẳng
phải là bất b́nh đẳng ư? Phải biết điều
này, chỉ có Hoa Nghiêm mới có thể giải quyết vấn
đề này. Đó gọi là “Hàng
Bố chẳng trở ngại Viên Dung, Viên Dung chẳng trở
ngại Hàng Bố.
Hàng Bố và Viên Dung là một,
không hai”. Chúng ta nghe những lời này [cảm thấy]
khó hiểu. Hàng Bố (行布) là thứ tự, có bốn mươi hai địa
vị. Viên Dung (圓融) là chẳng có thứ tự. Nói theo hiện
tướng th́ thật sự chẳng có thứ tự;
nhưng nói theo tập khí, thật sự có dầy hay mỏng
khác biệt. Trong phần trước, chúng tôi đă nói chuyện
này rất nhiều, đấy là cương lănh hết sức
quan trọng, ắt cần
phải nắm vững!
Đoạn tập khí chỉ
đành dựa vào thời gian, dựa vào sự tự nhiên
đoạn trừ của nó, quư vị chẳng có phương
cách nào để sử dụng. Chư Phật Như Lai cũng
chẳng có cách nào! Nhất định phải dựa vào thời
gian. Thời gian dài bao lâu? Ba đại A-tăng-kỳ kiếp.
Quư vị chẳng thể rút ngắn nó, mà cũng chẳng
có cách nào kéo dài nó. Phải tốn thời gian dài như vậy,
cho đến khi ấy, [tập khí] sẽ tự nhiên chẳng
có. Nhưng nó chẳng trở ngại quư vị giáo hóa hết
thảy chúng sanh, [chẳng trở ngại] hiện thân thuyết
pháp trong mười pháp giới, chẳng ngăn ngại tí
nào! Như trong phẩm Phổ Môn đă nói, đáng nên dùng thân
ǵ để đắc độ, quư vị bèn hiện thân
ấy, chẳng trở ngại tí nào, rốt ráo viên măn Phật
quả. Đẳng Giác Bồ Tát đáng nên dùng thân Phật
để đắc độ, Ngài bèn hiện thân Phật.
Sơ Trụ Bồ Tát và các Ngài cũng chẳng khác ǵ, đáng
nên dùng thân Phật để đắc độ, Ngài bèn
hiện thân đồng dạng; đấy là b́nh đẳng.
Sơ Trụ Bồ Tát c̣n tập khí vô minh rất nặng. Đẳng
Giác Bồ Tát có đôi chút, gần như không có. Phật quả
rốt ráo hoàn toàn chẳng có. Nó (tập khí vô minh) chẳng chướng
ngại sự, chẳng như Kiến Tư phiền năo và
Trần Sa phiền năo chướng ngại sự, chúng nó
(Kiến Tư và Trần Sa) có thể phát tác, có thể dấy
lên tác dụng. Tập khí vô minh phiền năo chẳng trở
ngại Sự. Chúng ta chớ nên không hiểu minh bạch,
chẳng hiểu rơ ràng chuyện này!
Tu hành, nói thật ra, pháp tu của
Bồ Tát thuộc địa vị sâu cũng là pháp tu của
Thập Tín. Những hạnh tu tập của Thập Tín Bồ
Tát từ Sơ Tín đến Đệ Thập Tín xuyên suốt
năm mươi mốt địa vị, hoàn toàn quán thông
năm mươi mốt địa vị. Tôi nghĩ điều
này chẳng khó hiểu đối với chúng ta. Ví như hiện
thời chúng ta học Đệ Tử Quy, trong Đệ Tử
Quy có tất cả một trăm mười ba điều,
cũng có nghĩa là một trăm mười ba pháp. Kẻ
mới học bèn học pháp này, măi cho đến khi kẻ
ấy già chết, vẫn chẳng thể trái nghịch, vẫn
chẳng thể tách ĺa. Gia giáo đấy nhé! Thứ này vốn
là gia giáo, do cha mẹ dạy. Mai sau, kẻ ấy vào Tiểu
Học, học Trung Học, lên Đại Học, học
nghiên cứu sinh, bước chân vào xă hội, bất luận
theo đuổi nghề nghiệp ǵ, bất luận đạt
tới địa vị như thế nào, đạt tới
địa vị người lănh đạo nước nhà,
hiện thời nói là Tổng Thống, Chủ Tịch, nói
theo trước kia là đế vương, vẫn phải
tuân thủ! Chẳng thể nói đó là thứ để dạy cho trẻ nhỏ, con nít,
nay chúng ta chẳng cần học, há có đạo lư ấy!
Dạy trẻ nhỏ phải hiếu thuận cha mẹ, tôn
kính sư trưởng, đến khi quư vị làm Tổng
Thống, làm đế vương, quư vị có thể bất
hiếu cha mẹ, bất kính sư trưởng ư? Há có
đạo lư ấy! Từ thí dụ này, quư vị có thể
biết, những ǵ Thập Tín Bồ Tát đă học, toàn
bộ năm mươi mốt địa vị Bồ
Tát từ đầu đến đuôi đều chẳng
ĺa pháp này. Sau đấy quư vị mới suy ngẫm tầm
trọng yếu của môn này!
Đối với pháp cơ
sở, chúng ta phải đặc biệt coi trọng. Pháp cơ
bản để tất cả hết thảy Bồ Tát,
chư Phật Như Lai tu hành là Thập Thiện Nghiệp.
Hết thảy các pháp đều là Thập Thiện triển
khai, quy nạp lại th́ là Thập Thiện. Lại quy nạp Thập Thiện th́ thân, khẩu, ư,
tức thân ba điều, ngữ bốn điều, ư ba điều.
Thân ngữ ư đấy là pháp cơ bản. Đức Phật
căn dặn chúng ta, phải trước là học Tiểu
Thừa, sau đấy học Đại Thừa. Nay chúng
ta không dùng Tiểu Thừa, mà dùng Đệ Tử Quy. Chúng
ta dùng Cảm Ứng Thiên, dùng Văn Xương Đế Quân
Âm Chất Văn, dùng Liễu Phàm Tứ Huấn. Trước
kia, thầy Lư dạy chúng tôi, thầy dùng Ngũ Chủng Di
Quy càng chi tiết hơn. Đấy là pháp cơ bản. Tại
Trung Hoa, pháp cơ bản của ba nhà Nho, Thích, Đạo,
cơ bản của Phật pháp là Thập Thiện Nghiệp.
Gần như là trong pháp cơ bản, toàn bộ đều
thông với nhau, cơ sở đều giống hệt. Pháp
cơ bản trong Phật pháp, tức hành pháp, sau khi đă triển khai, sẽ là giới luật.
Ắt cần phải tuân thủ giới luật và oai nghi,
trải các đời, tổ sư đều dạy chúng
ta như vậy. Tướng hảo của Phật, Bồ
Tát, nói chung, chẳng ĺa khỏi tŕ giới. Theo đạo
lư th́ chúng ta có thể lănh hội được: “Tâm thiện, tướng sẽ
thiện. Tâm thanh tịnh, thân thể sẽ
thanh tịnh”. Thân tâm thanh
tịnh lẽ nào chẳng mạnh khỏe? Làm sao ngă bệnh
cho nổi! Chúng ta hiểu rơ đạo lư này!
Nay chúng ta học tập, giới
luật có quan trọng hay không? Quy củ có quan trọng hay
không? Đă thông đạt th́ tự nhiên sẽ tuân thủ,
khác hẳn. Chẳng thông đạt, chúng ta phải cưỡng
bách chính ḿnh tuân thủ. Sau khi đă dưỡng
thành thói quen th́ sẽ thông đạt. Do đó, bậc thượng
thượng căn tự nhiên tuân thủ, thích tuân thủ. V́ sao? Tánh Đức đấy mà! Sau khi quư
vị đă khai ngộ, tư tưởng và hành vi của quư
vị sẽ tự nhiên là như vậy, chẳng thể
trái nghịch, dẫu
chẳng học cũng chẳng thể trái nghịch, tự nhiên sẽ tương ứng. Khi chưa
khai ngộ, v́ có tập khí phiền năo che lấp Tánh Đức
của quư vị, Tánh Đức chẳng thể hiện tiền.
Do đó, phải miễn cưỡng, tức là phải khắc phục tập khí của chính
ḿnh, phải làm cho Tánh Đức lộ ra. Làm thành thói quen,
thói quen trở thành tự nhiên, tập khí phiền năo sẽ
dần dần phai nhạt. Sau khi đă trừ bỏ chướng
ngại, Tánh Đức bèn hiển hiện, thấu lộ.
Từ miễn cưỡng đến tự nhiên, từ khắc
chế đến sanh ḷng hoan hỷ; đấy là công phu, là
nâng cao linh tánh. Giảng nói Hoa Nghiêm rất tường tận
th́ phải tốn thời gian rất dài, đối với
sự tu học của chúng ta, bất luận là Giải
hay Hạnh, xác thực đều hữu ích rất lớn.
Có đồng học rất
quan tâm, nghe nói tôi lúc về
già muốn dạy mấy học tṛ.
Học tṛ đông, sức tôi không thể chăm
lo nổi. V́ thế, tôi suy nghĩ rất nhiều năm, [học
tṛ] chẳng thể hơn mười người! Dạy
ǵ? Các đồng học phải nên biết. Thuở ấy,
Khổng phu tử dạy học gồm bốn khoa, khoa thứ
nhất là đức hạnh, khoa thứ hai là ngôn ngữ,
khoa thứ ba là chánh sự, khoa thứ tư là văn học;
đấy là pháp thế gian. Nhưng Phật pháp dùng pháp thế
gian làm cơ sở, chúng ta chẳng thể không tu hai điều
trước trong pháp thế gian. Hai điều trước
là Tiểu Thừa, tức đức hạnh và ngôn ngữ.
Người thuở trước từ lúc lọt ḷng đă
học, cha mẹ, người bề trên dạy dỗ, ai
nấy đều có trách nhiệm dạy bảo. Dạy bằng
cách nào? Nêu gương cho trẻ thấy. Tuy đứa trẻ
chưa thể nói năng, cũng chưa thể đi
lại, là một đứa bé con, nhưng nó có thể nh́n,
có thể nghe. Nhà Phật nói những ǵ nó thấy hay nghe đều
in dấu trong A Lại Da Thức. Đó gọi là “thiểu thành nhược thiên tánh,
tập quán thành tự nhiên” (h́nh thành từ nhỏ sẽ
giống như bẩm sinh, do thói quen mà thành tự nhiên). Do
vậy, trẻ hai ba tuổi đă rất hiểu chuyện,
có năng lực phân biệt là đúng hay sai, nó có năng lực
phân biệt. Nói cách khác, ngôn hạnh và cử chỉ của
cha mẹ đều phải là những giáo huấn chánh xác
cho trẻ nhỏ. Nó đă có tiêu chuẩn, trong tương
lai nh́n thấy những ǵ trái nghịch tiêu chuẩn ấy,
nó bèn biết đó là sai lầm!
Chúng ta học Phật, nếu
tôi phải dạy mười đồng học học Phật,
tôi sẽ dạy họ những ǵ? Cận đại, có thể
nói là cận đại, c̣n chưa đầy một
trăm năm, Hoằng Nhất đại sư lăo nhân gia đă
đề ra một phương pháp, tôi nghĩ rất hữu
lư. Lăo nhân gia lúc tại thế, đối với những người đă hưởng một nền
giáo dục cao cấp, do bản thân và đức hạnh tu dưỡng của Hoằng Nhất
đại sư, Ngài được đại chúng trong xă
hội ngưỡng
mộ, tôn kính. Về sau, Ngài xuất
gia, có rất nhiều phần tử tri thức học thức
rất cao thân cận Ngài. Ngài dạy họ học kinh Hoa
Nghiêm. Học kinh Hoa Nghiêm từ chỗ nào? Học từ Hoa
Nghiêm Sớ Sao, có lư lắm! V́ thế, nếu quư vị hỏi
tôi, trong tương lai tôi phải hướng dẫn mười
học tṛ học Phật pháp, sẽ học ǵ? Học Hoa
Nghiêm, một kinh thông, hết thảy các kinh đều thông.
Nếu nói đến Tịnh Độ Tông th́ Hoa Nghiêm là Đại
Bổn của kinh Vô Lượng Thọ. Học Hoa Nghiêm, quư
vị giảng kinh Vô Lượng Thọ giống như ăn
kem, thoải mái, thích thú. V́ thế, chúng ta là những người học tập Tịnh Độ
Tông là đă học
các kinh Hoa Nghiêm, kinh Vô Lượng
Thọ, kinh A Di Đà, [bởi lẽ] ba
thứ ấy là cùng một bộ kinh, nội dung, nghĩa lư, và
cảnh giới chẳng có mảy may sai biệt, nói theo phân
lượng th́ có lớn, có nhỏ. Cũng có thể nói, một
đằng là nói về cương lănh. Kinh Di Đà là tổng
cương lănh. Kinh Vô Lượng Thọ là cương yếu,
kinh Hoa Nghiêm là chi tiết, một mà ba, tuy ba mà một.
Nhưng cơ sở của đức hạnh và ngôn ngữ là giới
luật, giới căn bản của giới luật là Sa
Di Luật Nghi. Bất luận tại gia hay xuất gia, nếu
quư vị học Hoa Nghiêm, đều phải học Sa Di Luật
Nghi. Nếu muốn học Sa Di Luật Nghi tốt đẹp
th́ Đệ Tử Quy là cơ sở, c̣n Cảm Ứng
Thiên và Âm Chất Văn giúp quư vị tiêu nghiệp chướng.
Từ vô thỉ kiếp cho đến đời này, tập khí nghiệp chướng của chúng
ta quá nặng, dùng những điều mục này để
sám hối. Tôi cũng đă từng giới thiệu các
điều mục ấy. Thời Minh - Thanh, những
người thật sự dụng công học tập trong
hàng xuất gia lẫn tại gia đều dùng cương
mục ấy làm Công Quá Cách, nghiêm
túc phản tỉnh, kiểm điểm, sửa lỗi
đổi mới, rất có hiệu quả. Đó là thật
sự tŕ giới, chuyện này chẳng thể giả dối
được! Đă có cơ sở ấy, nếu học
tập Thập Thiện Nghiệp Đạo, học tập
Sa Di Luật Nghi, sẽ thực hiện dễ
dàng, xác thực là quư vị có thể thực hiện. Có thể
thực hiện ở chỗ này, sẽ là một vị Bồ
Tát thật sự trong hiện đại, chẳng phải
là Tiểu
Thừa, mà là một vị Bồ
Tát thật sự phát tâm Đại Thừa, nói theo pháp thế gian th́ quư
vị là thánh hiền thật sự. Chúng ta chẳng sống uổng đời
này, đă sống đời này có nhiều ư nghĩa, sống
cuộc đời muôn màu muôn vẻ, phong phú dường ấy.
Sau khi chính ḿnh đă học thành công, sẽ giúp đỡ
người khác.
Do đó, nếu tôi có mười
đạo hữu chí đồng đạo hợp như
thế, mười năm sau học thành công, chúng tôi sẽ mở lớp dạy học. Hiện
thời, muốn mở Phật Học Viện không khó, nhưng
không có thầy. Thầy như thế nào mới có thể dạy
học
tṛ thành tài được? Vị thầy
Bồ Tát. Tôi t́m mười người, thật sự là Bồ
Tát, đạt tiêu chuẩn cơ sở, tức là buông xuống
ích kỷ, buông xuống tiếng tăm, lợi dưỡng,
buông xuống ngũ dục lục trần, buông xuống tham,
sân, si, mạn. Đấy là tiêu chuẩn mà tôi đă nói nhiều năm
qua. Quư vị học
Bồ Tát, chứng quả Bồ Tát, giáo hóa chúng sanh. Nếu
chẳng do phương pháp này th́ Phật giáo suy vi, quư vị chẳng có cách nào cứu được!
Nếu quư vị muốn cứu, trừ phương pháp này
ra, mọi người hăy nghĩ xem, c̣n có phương pháp nào
tốt đẹp hơn hay không? Buông xuống muôn duyên, niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ, đó là chuyện của
cá nhân quư vị, chẳng thể hưng khởi giáo pháp. Muốn giữ cho chánh pháp của Phật giáo tồn tại
dài lâu [trên thế gian], mà quư vị văng sanh th́ vô dụng
[đối với chuyện hưng khởi giáo pháp], đó
là thành tựu của cá nhân quư vị, thừa nguyện tái
lai th́ vẫn phải hưng khởi giáo pháp.
Đối với chuyện
hưng khởi giáo pháp, nhất định phải hiểu,
thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật sáng lập Phật giáo tại
Lộc Dă Uyển, một thầy và năm tṛ. Chư vị
biết năm vị tỳ-kheo khởi sự từ chỗ
ấy. Nay chúng ta lại phục hưng Phật giáo, chẳng
thể vượt quá mười người, v́ sao? Vượt
quá mười người, chiếu cố không xuể,
chuyện này trước
kia thầy Lư đă bảo tôi
nhiều lần, tôi có sự cảm nhận rất sâu. Mười
người xác thực là chiếu cố không xuể, lúc năm
sáu chục tuổi th́ c̣n có thể, từ tám mươi trở
đi, chiếu cố mười người, chẳng dám
tưởng tượng! Những người trạc tuổi
tôi, có thể chiếu cố hai ba người là khá lắm
rồi, v́ sao tôi c̣n phải nói chiếu cố mười người?
Khéo sao hiện
thời kinh Hoa Nghiêm đă giảng
hơn ba ngàn giờ, lưu lại những đĩa DVD, băng
thâu h́nh, các đồng học có thể mỗi người
tự ḿnh đối trước màn h́nh mà học tập.
Có thắc mắc th́ hằng ngày nghiên cứu và thảo luận
hai tiếng đồng hồ, đỡ mất công! Nếu
chẳng có nhiều thứ như vậy, tôi chẳng dám giảng
kinh Hoa Nghiêm! Đấy là sự thuận tiện do khoa học
kỹ thuật cao cấp mang lại. Mỗi ngày cùng mười
người nghiên cứu, thảo luận hai tiếng đồng
hồ, thể lực và tinh lực của tôi c̣n kham nổi.
Đă thông đạt Hoa Nghiêm, hết thảy các kinh sẽ
đều thông đạt. Sau đấy, hy vọng các đồng
học ai nấy đều chuyên đổ công dốc sức
nơi một bộ kinh, chớ nên quá nhiều! Điều này cũng do tổ sư đại
đức dạy chúng ta.
Phật pháp quư tinh, chẳng
quư nhiều, phải tinh thông, v́ sao? Một bộ kinh đă
thông, “thông” là có thể thông hết
thảy các kinh. [Học
tập] hết thảy các kinh sẽ chẳng có cách nào tinh thông một bộ kinh,
[nhưng
học tập chuyên ṛng] một
bộ kinh sẽ có thể thông hết thảy các kinh, huống
hồ là [chuyên ṛng
đổ công dốc sức nơi] Hoa Nghiêm! Trong hai ngàn năm qua, đối
với kinh Hoa Nghiêm, chẳng phân biệt tông phái, tổ sư
đại đức mỗi tông phái đều khẳng
định Hoa Nghiêm là kinh điển căn bản của
Thích Ca Mâu Ni Phật. Thuở đầu, tiên sinh Phương
Đông Mỹ giới thiệu Phật Học Khái Luận
cho tôi, cụ nói kinh Hoa Nghiêm là Phật Học Khái Luận. Toàn
bộ Phật pháp và cương lănh của Thích Ca Mâu Ni Phật
đều ở trong bộ kinh này, cũng có nghĩa là mọi
thứ của mười tông phái Đại Tiểu Thừa
đều ở trong ấy. V́ thế, cụ cũng hết
sức ưa thích bộ kinh này, lúc già, cụ dạy chương
tŕnh Tiến Sĩ tại đại học Phụ Nhân, liền
mở lớp Triết Học Hoa Nghiêm. Thông đạt hết
thảy các kinh nhà Phật, lại thưa cùng chư vị,
không chỉ là thông hiểu nhà Phật, mà c̣n thông suốt tất
cả các tôn giáo trong thế gian. Giáo tướng có sai biệt,
nhưng nguyên lư và nguyên tắc cao nhất chẳng sai biệt.
Thật sự đổ công dốc sức ở nơi đây,
lợi ích sẽ vô biên.
Pháp vô
tướng, trong tôn giáo sẽ là cảm thông trực tiếp
chân thần. Mỗi tôn giáo đều thừa nhận trong
vũ trụ có một vị chân thần, là tạo vật
chủ (Tạo Hóa). Chân thần chẳng có h́nh tướng,
vô tướng. Những vị ấy là Chân Thần, Phật
pháp chẳng dùng danh từ Chân Thần, trong Phật pháp dùng
Pháp Tánh, chẳng có tướng; nhưng nó có thể hiện
tướng, tướng đă hiện được gọi là Pháp Tướng. Tướng tức
vô tướng, vô tướng tức tướng. Trong các
tôn giáo khác, vẫn chẳng nghe nói theo kiểu ấy, nhưng
trong giáo pháp Đại Thừa th́ nói [theo kiểu ấy] rất nhiều. Tựa đề
kinh Hoa Nghiêm có chữ Đại Phương Quảng, Đại
là Pháp Tánh, Phương Quảng là Pháp Tướng. Pháp Tánh
là Thể, Phương là Tướng, Quảng là Dụng.
Thể, Tướng, Dụng, tuy một mà ba, tuy ba mà một.
Thể là Không, Tướng là Hữu, Dụng là Trung. Tông
Thiên Thai nói Tam Đế, Tam Quán, tức Không, Hữu, Trung. Tuy
có cách nói ấy, nhưng là nói phương tiện, quư vị
chớ nên chấp trước, mà cũng chớ nên phân biệt.
Nếu rơi vào phân biệt, rơi vào chấp trước,
sẽ biến thành pháp thế gian, chẳng phải là Phật
pháp. Phật pháp có thuyết, có hành, nhưng chẳng có vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước. Đó gọi
là “ĺa hết thảy tướng,
tức hết thảy pháp”. Đấy là Phật pháp. Phải
nắm được đại nguyên lư, nguyên tắc và tổng
cương lănh này, chúng ta học tập mới có thể đạt tiến bộ. À! Bây giờ đă
hết thời gian rồi, chúng ta học bài kệ này tới
đây!
***
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin
xem đoạn kệ tụng cuối cùng, tức đoạn
thứ mười, “ngụ mị
an tức thời nguyện” (寤寐安息時願, nguyện khi ngủ nghê,
nghỉ ngơi). Đoạn này tổng cộng chỉ có
ba nguyện, nói về lúc đi ngủ. Đúng là từ sáng
đến tối, phương diện nào cũng đều
xét tới. Chúng ta xem bài kệ thứ nhất.
(Kinh)
Nhược tẩy túc thời, đương nguyện
chúng sanh, cụ thần túc lực, sở hành vô ngại.
(經)若洗足時。當願眾生。具神足力。所行無礙。
(Kinh: Như lúc rửa chân, nguyện cho chúng sanh,
đủ sức thần túc, việc làm vô ngại).
Trước khi ngủ, nhất định
phải rửa chân. Chúng ta biết người Ấn Độ
không mang giầy, sau khi ra ngoài trở về, phải rửa
chân, trước khi vào pḥng đều phải rửa chân,
rửa sạch rồi mới có thể bước vào. Tôi
chưa đến Ấn Độ, nhưng tôi ở Mă Lai,
ở Tân Gia Ba có đến miếu thờ của Ấn
Độ. Đến thăm đền Ấn Độ, cũng đều
phải cởi giầy. V́ hiện thời cởi giầy,
chân quư vị sạch sẽ, cho nên chẳng cần phải
rửa chân. Nhưng người Ấn Độ vẫn là
rửa ráy sạch sẽ bên cạnh [đền thờ] rồi mới bước vào. Đối với bọn
khách như chúng ta, họ không yêu cầu rửa chân, cởi
giầy là đă hợp lễ tiết rồi. Do vậy,
cũng là rất đúng pháp.
“Tẩy túc thời”
(Khi rửa chân) dẫn phát đại nguyện, “cụ thần túc lực, sở
hành vô ngại” (đủ sức thần túc, việc làm
vô ngại). “Thần túc” là một
trong sáu loại thần thông. Trong giáo pháp Tiểu Thừa
thường nói, Sơ Quả Tu Đà Hoàn đắc hai thứ
thần thông là Thiên Nhăn và Thiên Nhĩ, có hai loại ấy.
Trong kinh giáo thông thường, đức Phật dạy chúng
ta: Thần thông là năng lực sẵn
có, hết thảy chúng sanh ai nấy đều trọn
đủ. V́ sao quư vị bị mất đi? Vẫn là do vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước. Tập khí phiền
năo nặng hơn, năng lực ấy hoàn toàn bị mất đi, khôi phục bằng cách
nào? Quư vị có thể buông xuống tập khí phiền năo,
năng lực ấy sẽ tự nhiên khôi phục.
Chúng ta biết, bất luận
Đại Thừa hay Tiểu Thừa đều tu Định,
Định là tâm thanh tịnh. Then chốt tu hành trong nhà Phật
ở ngay tại Thiền Định. Trong các buổi giảng,
chúng tôi cũng đă nhiều lần thưa tŕnh cùng mọi người, tuyệt đối chẳng
phải là nói người tu Thiền mới chú trọng Thiền
Định, [nếu hiểu như vậy], quư vị
đă lầm mất rồi! Tám vạn bốn ngàn pháp môn,
vô lượng pháp môn trong nhà Phật, “pháp” (法) là phương pháp (方法), “môn” là môn kính
(門徑, đường nẻo). Môn kính tuy bất đồng,
thảy đều là tu Thiền Định, chư vị
nhất định phải biết điều này. Nếu
hành giả chẳng tu Thiền Định, sẽ chẳng
phải là Phật pháp. Phương pháp tu Thiền Định
rất nhiều, chúng ta niệm A Di Đà Phật là tu Thiền
Định, chúng ta dùng phương pháp này để tu Định.
Nhất định phải
hiểu ư nghĩa của Định, “ngoài chẳng chấp tướng, trong chẳng
động tâm”, tức là như kinh Kim Cang đă nói: “Chẳng chấp lấy tướng,
như như bất động”, đó là Thiền Định.
“Chẳng chấp lấy tướng”
là Thiền, “như như bất
động” là Định.
Trong Đàn Kinh, nói theo ngôn ngữ thông thường, càng dễ
hiểu hơn: “Ngoài chẳng
chấp tướng, trong chẳng động tâm”. Chúng
ta dùng phương pháp ǵ? Dùng một câu Phật hiệu, sáu
căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần mới có phân
biệt. “Nam-mô A Di Đà Phật”,
một câu A Di Đà xóa sạch ư niệm phân biệt. Vĩnh
viễn ǵn giữ [ư niệm] A Di Đà Phật, quư vị sẽ
là “ngoài chẳng chấp
tướng, trong không động tâm”, tức là vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước của quư vị thảy đều
bị giằn xuống. Tuy chẳng đoạn, một câu
Phật hiệu đắc lực, hữu dụng, có thể
khống chế nó, đấy là đúng. Khống chế được
th́ gọi là chế phục phiền năo, chẳng phải là
đoạn, mà là chế phục phiền năo. Chế phục
đến một mức độ kha khá, quư vị chẳng
cần chế phục, phiền năo vẫn chẳng dấy
lên hiện hành; đó gọi là công phu đắc lực. Công
phu đắc lực, năng lực bèn khôi phục, Thiên
Nhăn và Thiên Nhĩ đều khôi phục.
Do đó, tuy là quả Tu
Đà Hoàn, năng lực Thiên Nhăn và Thiên Nhĩ của mỗi
cá nhân lớn nhỏ khác nhau. V́ sao? Công phu định lực
sâu hay cạn khác nhau, cũng là do mức độ thanh tịnh
của cái tâm khác nhau. Tâm thanh tịnh ở mức độ
cạn th́ năng lực của thần thông tương đối
nhỏ. Tâm thanh tịnh có công phu sâu, năng lực của người
ấy sẽ khá mạnh. Đấy là kiến thức thông
thường, chúng ta đều dễ dàng lư giải. Mỗi
vị Tu Đà Hoàn đều đắc Thiên Nhăn, Thiên
Nhĩ, nhưng mỗi người mỗi khác. Khi các Ngài khởi
tác dụng, vẫn phải nhập Định; chẳng nhập Định th́ vẫn
chẳng thể khởi tác dụng. Các vị xem kinh Địa
Tạng, cô Quang Mục muốn biết mẹ cô ta (mẹ đă
qua đời) ở trong đường nào, [muốn biết]
trạng huống hiện thời. Cô ta cúng dường một
vị La Hán, La Hán nhập Định để quan sát. Khi
xuất Định mới bảo cô ta: “Mẹ cô hiện thời rất khổ sở”, Ngài bèn hỏi cô ta: “Khi c̣n sống, mẹ cô đă
tạo nghiệp ǵ? V́ sao chịu khổ báo ấy?” A La Hán vẫn
phải nhập Định. Bồ Tát có định lực sâu xa, chẳng cần nhập
Định, chẳng cần làm như vậy. V́ sao? Ngài vốn
ở ngay trong Định, thấy sắc nghe tiếng mà vẫn ở trong Định. Điều này
cao hơn Tu Đà Hoàn quá nhiều, định lực sâu mà!
Tứ Quả La Hán vẫn phải
nhập Định, năng lực mới có thể hiện
tiền. Quư vị có thể suy ra Tam Quả, Nhị Quả
và Sơ Quả đều phải nhập Định,
năng lực mới có thể hiện tiền. Do vậy,
Sơ Quả có hai loại thần thông là Thiên Nhăn và Thiên
Nhĩ. Nhị Quả, [tức là] đạt
đến quả thứ hai, lại có hai thứ
[thần
thông] là Tha Tâm và Túc Mạng. Túc Mạng
là biết quá khứ và vị lai của chính ḿnh, đều
biết, nhưng năng lực hoàn toàn chẳng lớn. Tứ
Quả La Hán biết năm trăm đời quá khứ, năm
trăm đời vị lai, chúng ta nghĩ là rất tuyệt
diệu, có thể biết năm trăm đời. Chúng ta
thấy ở ngoại quốc, họ dùng thôi miên, tôi thấy
đă có một bản báo cáo, [theo đó], dưới sự
thôi miên ở mức độ sâu, người được
thôi miên có thể thấy tám mươi mấy đời
trong quá khứ. Tám mươi mấy đời đă là hai
ba ngàn năm. Từng đời một, thấy tám mươi
mấy đời trong quá khứ, chuyện này rất đặc
thù, rất hiếm thấy. Người ấy nói về trạng
huống của thời đại ấy, người ấy làm thân ǵ, ở chỗ nào, sống cuộc đời
như thế nào, đều có thể nói ra. A La Hán thấy
năm trăm đời, nếu nói theo địa cầu,
chỉ sợ là nhân loại c̣n thuộc thời đại
nguyên thủy, [A La Hán] đều có thể biết;
cũng có thể biết năm trăm đời quá khứ
và vị lai. A La Hán [là như thế đấy].
Tam Quả, Nhị Quả, và
Sơ Quả th́ sao? Sơ Quả không biết, chỉ có Thiên
Nhăn và Thiên Nhĩ. Nhị Quả th́ biết, Nhị Quả
có Túc Mạng Thông và Tha Tâm Thông. Tha Tâm Thông là người
khác khởi tâm động niệm, Ngài đều biết.
Tha Tâm Thông th́ Nhị Quả Tư Đà Hàm có năng lực
này. Đương nhiên, năng lực Thiên Nhăn và Thiên Nhĩ
của Ngài phải lớn hơn Sơ Quả. Đạt đến
Tam Quả, lại tăng thêm một thứ là Thần Túc
Thông, đúng là “sở hành vô ngại”.
Người có Thần Túc Thông có thể biến hóa. Chúng ta
xem tiểu thuyết, bảy mươi hai phép biến hóa của
Tôn Ngộ Không thuộc loại Thần Túc v́ có thể biến
hóa. Nhưng nếu so sánh giữa Tôn Ngộ Không và Tam Quả
A Na Hàm, [Tôn Ngộ Không] sẽ kém rất xa, khoảng cách to
lớn. Tôn Ngộ Không chỉ có bảy mươi hai phép biến
hóa, thánh nhân Tam Quả không chỉ là bảy mươi hai,
mà vượt trỗi quá nhiều! Các Ngài có thể phi hành,
biến hóa. Ngài đến chỗ nào đó, chẳng cần
công cụ giao thông. Tứ Quả A La Hán đắc loại
cuối cùng là Lậu Tận Thông. Lậu Tận Thông là đoạn
Kiến Tư phiền năo, đă đoạn sạch, chúng chẳng c̣n dấy
lên nữa, nhưng tập khí Kiến Tư phiền năo vẫn
chẳng đoạn. A La Hán là như vậy đấy. Sức
thần túc của Bồ Tát đương nhiên vượt
trỗi hơn A La Hán nhiều lắm, chúng ta biết điều
này!
Người có Thần Túc
Thông thật sự đắc tự tại, đắc giải
thoát, đă được tự tại. Từ truyện kư,
chúng ta thấy, đây là truyền thuyết. Đạt Ma tổ
sư qua đời tại Trung Hoa, tức là thị hiện
nhập Bát Niết Bàn. Học tṛ của Ngài đương
nhiên là Huệ Khả đại sư, c̣n có tứ chúng đồng
tu, lo liệu hậu sự cho Tổ. Dường như
là nửa năm sau đó, trong nửa năm sau ấy, có một
người cũng là đệ tử Phật môn, từ Tây
Vực trở lại Trường An. [Tây Vực] là Tân Cương
hiện thời. Khi đó, toàn là đi bộ. Người đó
đến Trường An bèn nói, năm đó, tháng đó, ông
ta ghi nhớ rất rơ ràng, ngay cả ngày cũng nhớ kỹ,
đă thấy Đạt Ma tổ sư tại Tây Vực. Ông
ta nói rất lạ lùng, Ngài chỉ đi một chiếc giầy
cỏ, chân kia chẳng đi giầy, chỉ có một chân
mang giầy cỏ. Sau khi tin tức này được truyền
tới [Trường
An, xét ra], ngày mà người ấy
nói đúng là ngày Đạt Ma tổ sư nhập diệt
tại Trung Hoa, làm sao có thể thấy Đạt Ma tổ
sư tại Tây Vực cho được? Do vậy mọi
người liền mở quan tài ra xem. Mở quan tài ra, chẳng
có ai, chỉ c̣n sót lại một chiếc giầy cỏ,
chứng tỏ lời ông ta nói hoàn
toàn chánh xác. Đấy là ǵ? Thần Túc Thông. Ngài nhập diệt
là thị hiện, khi Ngài mất th́ thân thể cũng đi
luôn.
Do vậy có thể biết,
v́ sao thân thể có thể đi luôn? Thân thể là giả tướng.
Nay chúng ta nói, vật chất là năng lượng biến
hiện. Ngài đi bằng cách nào? Khoa học hiện thời
có thể hiểu, chính là chuyển biến thân thể vật
chất thành năng lượng. Ngài ra đi, quư vị cũng
chẳng thấy Ngài. Khi tới nơi khác, Ngài có thể khôi
phục năng lượng thành thân thể, biến hóa mà! Trong bút kư và tiểu thuyết của Trung Hoa có
ghi chép rất nhiều chuyện này, ngay cả trong Duyệt
Vi Thảo Đường Bút Kư cũng có. Có những nông
phu ở làng quê, khi cày cấy ngoài đồng, thấy có một
tia sáng chớp ḷe, giống như tia chớp rơi xuống
mặt đất, hết sức kinh ngạc. Đến đó
nh́n, chỉ thấy một con thỏ trắng nhỏ, xem kỹ
nó, bỗng dưng chẳng có nữa. Đấy là ǵ? Toàn là
do sức thần túc biến hiện. Người ấy có
thể biến thành người, biến thành động vật,
thậm chí c̣n có thể biến thành thực vật, biến
thành một gốc cây, biến thành hoa, có thể tùy ư biến
hóa.
Chúng ta bèn hiểu, như phẩm
Phổ Môn đă nói, đáng nên hiện thân ǵ để
đắc độ bèn hiện thân ấy, ư nghĩa hiện
thân hết sức rộng! Ba mươi hai ứng thân đều
là nói hiện thân người; ngoài thân người ra, c̣n hiện
thân súc sanh, hiện thân quỷ thần, hiện thân cây cối,
hoa cỏ, hiện thân núi, sông, đại địa. Ngài hiện
thân, mục đích đều là để d́u dắt người hữu duyên, khiến cho người
ấy ở trong hoàn cảnh đó sẽ hoát nhiên khai ngộ,
tạo linh cảm, ban sự khải thị, [khiến cho người
ấy sẽ] hoát nhiên khai ngộ. V́ vậy, chư Phật,
Bồ Tát không chỉ hiện thân hữu t́nh, mà c̣n hiện
thân khí thế gian, không chỗ nào chẳng hiện thân, không
lúc nào chẳng hiện thân. Biết căn tánh của chúng
sanh, v́ sao? Biết những ǵ quư vị đă tu đă học
trong đời đời kiếp kiếp quá khứ, phải
nên dùng phương pháp ǵ để giúp đỡ quư vị
tăng tấn, giúp quư vị khai ngộ, giúp quư vị chứng
quả. Nói cách khác, nếu quư vị chẳng có căn cơ
ấy, Ngài hiện thân vô dụng, chẳng thể nẩy
sanh tác dụng khơi gợi cho quư vị! Đấy là nói
về chúng sanh căn cơ chín muồi, quư vị có duyên với
họ.
Quư
vị hiểu đạo lư này, trước kia, thầy Lư
thường dạy chúng tôi rộng kết pháp duyên, trọng
yếu lắm! Lợi ích của kết pháp duyên là ǵ? Nếu
người ta đắc độ trước, sẽ
đến giúp đỡ ḿnh. Nếu ḿnh đắc độ
trước, ḿnh có thể giúp đỡ người ta. Có
duyên mà! Lại c̣n giúp đỡ chắc chắn không chỉ
một lần. Quư vị thấy đó, giúp đỡ quư vị
tăng tấn, giống như đi học, từ lớp
Một lên lớp Hai, từ lớp Hai lên lớp Ba. không ngừng
giúp đỡ quư vị tăng tấn. Đến lúc quư vị
khai ngộ, [họ] sẽ ở bên cạnh, khi quư vị sắp ngộ
mà chưa ngộ được, khi ấy [họ sẽ giúp cho quư vị] tăng tấn, quư vị sẽ
đại triệt đại ngộ. Khi gần mấp mé
chứng quả, nhất định sẽ đến
giúp đỡ quư vị. Thậm chí chúng ta nói niệm Phật
văng sanh, chắc chắn [chư Phật, Bồ Tát, thiện
tri thức hữu duyên] sẽ đến giúp đỡ,
không nhất định dùng thân ǵ. Do vậy mới biết
tầm quan trọng của việc rộng kết pháp
duyên. Ngàn muôn phần đừng nên kết ác duyên. Hễ kết
ác duyên, cho đến lúc ấy, họ sẽ tới gây chướng ngại cho quư vị.
Chẳng đến giúp đỡ quư vị, mà là đến
gây chướng ngại. V́ thế, trong quá tŕnh tu học, duyên
gây chướng ngại cho chúng ta đặc biệt nhiều,
do nguyên nhân nào? Chẳng kết duyên tốt với kẻ
khác. Những duyên đă kết đều là duyên bất thiện, sai mất rồi!
Thầy dạy tôi, thường
bảo chúng tôi, phải hóa giải ác duyên, chuyển ác thành
thiện. Phải hóa giải oán gia, chuyển oán thành thân. Chuyển
mê thành ngộ, chuyển phàm thành thánh. Đối với chính
ḿnh là như thế, mà đối với hết thảy chúng
sanh cũng là như thế, chỉ cần người ấy
chịu tiếp nhận, chẳng có ǵ không giúp đỡ, niệm nào cũng đều có ḷng giúp đỡ
người khác, thành tựu người khác, như vậy
th́ mới có thể rộng kết pháp duyên. Nếu cá nhân
có yêu ghét, khó lắm, quư vị kết duyên rất nhỏ hẹp.
Kẻ ưa thích ta sẽ kết duyên với kẻ ấy, kẻ đáng ghét, ta sẽ chẳng kết duyên với họ. Vũ
trụ to lớn, không chuyện kỳ lạ ǵ chẳng có!
Đừng nên xem thường kẻ ta chán ghét, hiện thời
kẻ ấy làm chuyện ǵ cũng đều chẳng đúng
pháp, biết đâu ngày nào đó, người ấy khai ngộ
trước chúng ta, họ thành Phật sớm hơn ta, điều
này quá khó nói.
Chúng ta thấy tấm gương
của vua A Xà Thế trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật,
đó là một điều cảnh giác rất lớn. Người
này đại nghịch bất đạo, tạo Ngũ Nghịch
Thập Ác, đáng đọa địa ngục A Tỳ,
trước khi sắp chết bèn sám hối, cầu văng
sanh, thật sự văng sanh! Trong kinh, đức Thế Tôn
đă bảo chúng ta, phẩm vị của ông ta là thượng
phẩm trung sanh, chúng ta làm sao có thể ngờ được!
V́ Quán kinh nói rất rơ ràng, hạ hạ phẩm văng sanh đều
là kẻ tạo tác tội nghiệp. Chiếu theo tiêu chuẩn
trong kinh ấy để nói, vua A Xà Thế nhất
định là hạ hạ phẩm văng sanh, làm sao có thể
là thượng phẩm trung sanh? Sức sám hối chẳng
thể nghĩ bàn! Tâm chí thành sám hối, vĩnh
viễn chẳng tái phạm, ngay lập tức sẽ tăng
tấn. [Chuyện này] cũng cảnh giác chúng ta, chớ nên
khinh mạn kẻ tạo ác! Làm sao chúng ta biết người
ấy trong tương lai trước khi lâm chung gặp gỡ thiện tri thức, thảy đều
khai phát những thiện căn do người ấy đă
tích lũy tu tập trong đời quá khứ, ngay lập tức
sẽ vượt thoát. Vua A Xà Thế thuở trẻ mê quyền
uy, địa vị, chẳng thân cận thiện tri thức, mà thân cận ác tri thức. Đó gọi là “gần son th́ đỏ, gần
mực th́ đen”, [nhà vua] mới tạo tác vô lượng
tội nghiệp. Rốt cuộc do đời quá khứ có thiện căn,
cho nên lâm chung biết chính ḿnh sai trái, tâm chân thành sám hối;
cảm được Phật, Bồ Tát giúp đỡ, chỉ
dạy, nhắc nhở, cho nên [nhà vua] đầy
đủ tín nguyện, nhất tâm niệm Phật, thành thử nhà vua có thể đáp đền như nguyện!
Không chỉ là chẳng dám khinh rẻ kẻ ác, mà súc sanh cũng
chẳng dám khi dễ. Vài ngày trước, trong khi vấn đáp,
chúng tôi đă gặp một câu hỏi, nhà người ấy
có một con chuột văng sanh. Người ấy hỏi:
“Con chuột chẳng niệm Phật, v́ sao văng sanh?” Quư vị
chẳng hiểu ngôn ngữ của chuột, quư vị nghe
nó đang kêu, [thật ra] nó đang niệm Phật, quư vị
nghe không hiểu. Trong chùa chiền có rất nhiều súc
sanh, [chẳng
hạn như] chuột,
gián, thằn lằn, c̣n có rắn, thường là khi tụng
niệm khóa sáng, khóa tối,
chúng nó cũng đến. Chúng
đi đến, ngoan ngoăn bất động tại đó,
giống như ở đó mà xem, trên thực tế là đến
tham gia.
Pháp sư Đế Nhàn đă
kể cho chúng ta biết gương văng sanh của một
con gà trống. Năm xưa, Ngài làm Phương Trượng
chùa Đầu Đà ở Chiết Giang, là một ngôi chùa
nhỏ. Trong chùa có nuôi một con gà trống. Khi đó là những
năm đầu thời Dân Quốc, cuộc sống cũng
rất khổ sở. Trong tự miếu chẳng có đồng
hồ, sáng sớm mỗi ngày gà trống báo sáng, trời hừng
sáng nó đă gáy, đánh thức mọi người tụng
khóa sáng. Khóa sáng, khóa tối, gà trống đều tham gia,
theo sau đại chúng nhiễu Phật. Sư kể có một
hôm, sau khi khóa sáng đă xong, thông thường là con gà trống
cũng bỏ đi. Hôm ấy, con gà trống không đi. Thầy
Hương Đăng thu dọn sạch sẽ xong bèn đuổi
nó đi: “Mọi người đi cả rồi, ngươi
c̣n không đi?” Nó không đi, đứng ngay trước tượng
Phật, đứng ở chỗ đó, kêu ba tiếng rồi
chết, đă văng sanh. Khi ấy, cụ Đế Nhàn là Phương
Trượng của nhà chùa, y theo quy củ dành cho người
xuất gia, đem con gà trống ấy chôn ở sau núi, gà
trống văng sanh đấy nhé! Chôn không bao lâu, nơi ngôi mộ
nhỏ của nó mọc lên một đóa sen. Đào lên xem,
hoa sen mọc từ miệng con gà trống,
chẳng thể là giả được! Cụ Đế
Nhàn thường dùng chuyện này để khích lệ người
niệm Phật. Súc sanh mà c̣n có thể văng sanh, niệm Phật
văng sanh đấy nhé! Có thụy tướng tốt đẹp
như thế, thị hiện cho chúng ta thấy, làm sao có thể
khinh rẻ súc sanh cho được?
Hết thảy chúng sanh đều
có linh tánh, không chỉ là động vật, ngay cả thực
vật. Nay chúng ta đều biết, cây cối hoa cỏ
đều có thần linh nương gá. Chẳng phải là cây cối thành thần, chẳng
phải vậy, mà là thần linh dựa vào cây cối. Kinh Phật
đă nói rất rơ ràng, họ coi đó là nhà, ở tại nơi
đó. Đối với thân thể của chúng ta, tức
cái thân xác thịt, linh tánh ở trong thân thể, ở trong
nhục thân. Có những linh tánh trụ nơi cây cối hoa
cỏ, coi cái thân đó là thân của họ, cho nên họ trở
thành thần cây hoặc thần hoa. Cây càng lớn, mấy
trăm năm, mấy ngàn năm, sự cảm ứng sẽ
chẳng thể nghĩ bàn. Họ cũng có thể biến
hóa, thần cây có thể biến hóa, có thể biến thành
h́nh người, biến thành ông già, biến thành bà cụ,
biến thành trẻ nít, chúng ta chẳng biết. Những thứ
giống như vậy đều thuộc về Thần
Túc Thông.
Do đó, mỗi khi rửa chân,
đều nghĩ đến nguyện vọng này. Do thói
quen của người Ấn Độ là một ngày tuyệt
đối không chỉ rửa chân một lần, mà sẽ
rửa vài lần, ra ngoài trở về sẽ rửa. Do vậy,
nhà cửa họ giữ rất sạch sẽ. Đi ra
ngoài, bên ngoài dơ bẩn, có bụi bặm, trở về
nhất định phải rửa chân trước. Tổng
cương lănh tu học có nói: “Hết
thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, khi họ rửa
chân bèn nghĩ tới thần túc.
“Cụ thần túc lực” (Đủ
sức thần túc), hết thảy các pháp sanh từ tâm
tưởng; mà lục thông là năng lực vốn sẵn
có của chính ḿnh. V́ vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước của chúng ta che lấp năng lực ấy,
năng lực ấy chẳng thể hiện tiền. Mỗi
ngày đều nghĩ đến nó, đấy là tu hành. Mỗi ngày nghĩ tới trí huệ và đức tướng của chính
ḿnh, quư vị sẽ chẳng có những vọng tưởng
khác, những thứ khác đều buông xuống. Quư vị
nói xem, có thể khôi phục hay không?
A La Hán, Bích Chi Phật, Quyền
Thật Bồ Tát tu hành thành tựu bằng cách nào, chúng ta phải
nên hiểu rơ. V́ sao nay chúng ta chẳng thể thành tựu?
Chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ
loạn xạ, hoàn toàn trái nghịch Tánh Đức. Do cái tâm
luân hồi, những ǵ quư vị nghĩ và làm toàn là nghiệp
luân hồi, chẳng tương ứng với Tánh Đức, mà tương ứng với
phiền năo! V́ thế, chính chúng ta chẳng thể không lắng
ḷng, mỗi tối đều phải phản tỉnh,
đều phải kiểm điểm, đều phải
sám hối. Chúng ta khởi tâm động niệm có phải
là ích kỷ hay không? Có phải là [tham cầu] tiếng tăm, lợi dưỡng hay không?
Có phải là [muốn
hưởng thụ] ngũ
dục lục trần hay không? Có phải là mười ác,
tám tà hay không? Mỗi ngày c̣n có những ư niệm ấy, chẳng
buông xuống những ư niệm ấy, quư vị nghĩ xem, công phu của chúng ta làm sao đắc lực
cho nổi? Hằng ngày chúng ta tụng kinh, lạy Phật, phát
nguyện mà không chống nổi mười ác, tám tà. V́ sao?
Thời gian chúng ta rớt vào mười ác, tám tà th́ nhiều,
sức của
chúng nó mạnh mẽ, sức
tu hành mỗi ngày của ta rất ít ỏi, yếu ớt! Tu kiểu ǵ mà chủng tử thiện
trong A Lại Da Thức suốt đời này chẳng thể
dấy lên hiện hành, chẳng thể khởi tác dụng,
do nguyên nhân nào? Chẳng đoạn, chẳng kháng cự tập
khí phiền năo. Khi nào những thiện niệm và thiện
hạnh của ta có thể bài trừ, kháng cự mười
ác, tám tà, công phu mới có thể đắc
lực. Đă thế, công phu nhất định phải vượt
trỗi mười ác, tám tà th́ mới thật sự
đắc lực, niệm Phật mới nắm chắc văng
sanh.
Điều then chốt nhất
trong tu hành là ắt cần phải khắc phục hoàn
cảnh nhân sự trong cuộc sống hằng ngày. Đối
với hết thảy người, hết thảy sự,
chớ nên có ác niệm nữa, chớ nên suy nghĩ tà vạy.
Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ đều đúng
pháp. Nói theo Phật pháp th́ “pháp”
là giới luật. Giới luật cơ bản trong các giới luật là Sa Di Luật Nghi, cơ bản hơn nữa
là Thập Thiện Nghiệp Đạo, trước hết
là học từ Thập Thiện Nghiệp Đạo. Thập
Thiện Nghiệp Đạo triển khai sẽ là Đệ Tử Quy, là Cảm Ứng Thiên.
Do đó, Thập Thiện Nghiệp Đạo là cương
lănh của Đệ Tử Quy và Cảm Ứng Thiên, v́ nó
chỉ có mười điều, triển khai ra sẽ là Đệ
Tử Quy, là Cảm Ứng Thiên. Quư vị không thực hiện
từ chỗ này th́ làm bằng cách nào đây? Công phu làm sao có
thể đắc lực cho được? Công phu chẳng
thể đắc lực th́ làm sao năng lực sẵn có
của chúng ta thấu lộ cho nổi? Năng lực sẵn
có là Lục Thông, phải nên biết như
vậy.
Do vậy, hiện thời sở
hành của chúng ta chẳng phải là vô ngại, mà là có ngăn
ngại! Chỗ nào cũng đều gặp chướng
ngại, có thể nào chẳng sám hối ư? Có thể nào
chẳng hổ thẹn ư? V́ sao người khác chẳng
có chướng ngại, ta có chướng ngại? Giáo huấn
của cổ đức đă dạy rất hay: “Hành hữu bất đắc, phản
cầu chư kỷ” (Có
chuyện ǵ chẳng làm được, phải xét lại
ḿnh). Phải nhớ kỹ
mấy câu này. Hễ gặp
phải chướng ngại, đừng nên trách móc người
khác, đừng nên trách móc cảnh
giới bên ngoài, hăy quay lại phản tỉnh, chắc chắn
là chính ḿnh có nghiệp chướng. Tiêu trừ nghiệp
chướng, bên trong đă tiêu trừ nghiệp chướng,
chướng ngại bên ngoài sẽ tự nhiên hóa giải!
Nếu chính ḿnh chẳng thừa nhận có lầm lỗi,
lầm lỗi toàn là kẻ khác, nghiệp chướng của
quư vị sẽ tăng trưởng mỗi ngày, tích lũy
mỗi ngày, chẳng có ngày hóa giải, điều này rất
đáng sợ. Bản thân chúng ta có cảnh giác hay không? Điều cảnh giác cơ bản là: “Nếu chẳng có nghiệp chướng, quư
vị sẽ chẳng đến thế giới Sa Bà này”. Cũng có nghĩa là: Người chẳng có nghiệp chướng, sẽ chẳng vào trong lục đạo.
Lục đạo th́ dù ở trên cơi trời vẫn có nghiệp
chướng; người chẳng có nghiệp
chướng sẽ vượt thoát lục đạo. Người
ở trong lục đạo nhất định là chắc
chắn mê hoặc, điên đảo, bất giác mà! Nếu
quư vị thật sự đă giác, đă giác th́ lẽ
nào quư vị ở trong lục đạo cho được?
Chánh giác là A La Hán, thật sự giác ngộ, Ngài đă vượt thoát lục đạo.
Do vậy có thể biết, người
tu hành nhất định phải nhớ kỹ lời Lục
Tổ đă nói: “Nếu người
thật tu đạo, chẳng thấy lỗi thế gian”,
chỉ thấy lỗi của chính ḿnh. V́ sao chính ḿnh rơi
vào t́nh cảnh này? Bên ngoài, bất luận là thuận cảnh
hay nghịch cảnh, thiện duyên hay ác duyên, không ǵ chẳng
nhằm nhắc nhở chính ḿnh, cảnh giác chính ḿnh, khiến
cho chính ḿnh ở trong cảnh giới bèn sanh tâm hổ thẹn
thật sự. Thật sự biết sám hối, đấy
là như trong kinh Lăng Nghiêm, đức Thế Tôn đă nói:
“Nếu có thể chuyển vật,
sẽ giống Như Lai”. Chuyển như thế nào?
Chuyển mê thành ngộ. Chúng ta luôn một mực mê trong cảnh giới, đối với thuận
cảnh thiện duyên th́ sanh ḷng tham ái, đối với nghịch
cảnh và ác duyên th́ sanh sân khuể. Cũng có nghĩa là sáu
căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới sáu trần
bên ngoài, sẽ sanh ra ǵ? Sanh phiền năo, tăng trưởng
tập khí ác! Làm theo kiểu đó, ngày nào quư vị mới
có thể liễu sanh tử, mới có thể ĺa khỏi tam
giới? Nếu không sửa đổi, chúng ta hăy tự ḿnh ngẫm xem, Phật, Bồ Tát thường
nói, trong lục đạo th́ tam đồ là quê nhà của quư
vị, ba thiện đạo là chỗ đến du lịch, quư vị đi nghỉ phép, đến
chơi, ba thiện đạo là như vậy đấy. Điều
này có nghĩa là thời gian quư vị ở trong thiện đạo
quá ngắn, thời gian trong ba ác đạo quá dài!
Quư vị chẳng biết nỗi
khổ trong ba ác đạo, chẳng có tâm xuất ly. V́ thế,
quư vị mới giải đăi, lười nhác, tán loạn,
chẳng thể phấn
chấn tinh thần,
vĩnh viễn đọa lạc. Người thương
xót quư vị, người giúp đỡ quư vị, giúp đỡ
quư vị chẳng được! Chẳng phải là không
từ bi, chư Phật, Bồ Tát đại từ đại
bi, hễ có thể giúp liền giúp, lẽ đâu chẳng
giúp đỡ? Chẳng giúp th́ các Ngài sẽ chẳng có ḷng
từ bi. V́ sao chẳng giúp đỡ? V́ bản thân quư vị
chẳng yêu thương chính ḿnh! Tôi thường nói: Con người
phải tự yêu thương chính ḿnh trước, sau đấy
người khác mới yêu thương, bảo vệ quư vị.
Chính ḿnh chẳng yêu thương ḿnh, người khác bó tay đối
với quư vị, muốn giúp cũng chẳng giúp nổi!
Thật đấy! Thật sự muốn giúp đỡ quư
vị, nhưng quư vị bài xích, hoài nghi, luôn dùng cái tâm bất
thiện để đối đăi kẻ khác, luôn dùng cái
tâm hoài nghi đối đăi người ta, sai mất rồi!
Người khác là kẻ ác, chẳng có thiện ư đối
với ta, thậm chí hăm hại ta, ta không hoài nghi, ta chẳng
có ác ư, chẳng có ư niệm sân khuể, ác niệm và ác hạnh
của kẻ ấy đến chỗ ta liền chuyển
biến thành thiện hạnh, thiện ư. Đấy là “hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng” như trong giáo pháp Đại Thừa
đă dạy. Tôi đă nhắc đến đạo lư này
rất nhiều, “oán đối” (怨懟) là đôi bên đối lập th́ mới có
thể tạo thành ác nghiệp. Bên quư vị là ác ư, bên tôi là
thiện ư, thiện và ác chẳng chống đối nhau! V́ thế, hóa giải oán kết chẳng phải
là từ đối phương, mà từ chính bản thân ḿnh!
Ở đây ta hóa giải, nơi kia chẳng c̣n nữa. Nói
theo phía chúng ta, oán gia đối đầu đều là người
hữu duyên với ta, công đức của ta mỗi ngày tu tập, tích lũy đều có thể hồi hướng cho họ, có thể
siêu độ, giúp đỡ họ tăng tấn; họ cũng hết sức vui thích, vốn
là những kẻ t́m đến gây phiền phức, nay họ
đến hộ pháp, lẽ nào chẳng tốt đẹp?
V́ thế, nhất định phải biết hóa giải,
y giáo phụng hành, chẳng có ǵ là bất lợi.
Do vậy, tôi đọc đến
bài kệ này, cảm khái rất sâu, đặc biệt là câu
cuối cùng, “sở hành vô ngại”.
Tôi tin tưởng, bất luận là Phật giáo hay tất
cả hết thảy các tôn giáo, cho đến hết thảy
chúng sanh, có ai chẳng mong suốt đời sở hành vô
ngại? Sở hành vô ngại th́ nói cách khác, sẽ là đại
tự tại, phải cậy vào đức hạnh, phải
cậy vào giáo huấn của thánh hiền. Chúng ta có duyên tiếp
xúc, nhất định phải trọn đủ Tín, Giải,
Hạnh, Chứng, đấy mới là thật sự tiếp
nhận. Chẳng có Tín, Giải, Hạnh, Chứng, tuy gặp
giáo huấn của thánh hiền mà chẳng tiếp nhận,
để luống qua, rất đáng tiếc! Nay đă hết
thời gian rồi, chúng ta học tới chỗ này.
Đại Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 56 hết
[1]
Biệt Giá (別駕) là một chức
quan, c̣n gọi là Biệt Giá Tùng Sự, hoặc Biệt Giá
Tùng Sự Sứ, là chức quan phụ tá của châu thứ
sử (người đứng đầu một châu). Chức
quan này xử lư những sự vụ trong một châu hay phủ.
Đến đời Tùy, do bỏ quận, chỉ giữ lại
châu, chức quan này được gọi là Trưởng Sử.
Đến đời Đường, chức Quận Thừa
đổi thành Biệt Giá. Trải qua nhiều lần canh
cải, có lúc phế hẳn, về sau, người ta vẫn
quen gọi chức vụ Thông Phán là Biệt Giá.
[2]
B́nh Kịch c̣n gọi là Quốc Kịch hoặc Kinh Kịch
là một loại hát tuồng, gần giống như hát bội
của Việt Nam. Loại tuồng này phát xuất từ Bắc
Kinh (thời đầu Dân Quốc, Bắc Kinh được
gọi là Bắc B́nh, nên Kinh Kịch được gọi
là B́nh Kịch). Thể loại này dung hợp hai lối hát
tuồng trước đó là Hán Kịch và Huy Kịch,
đồng thời du nhập nhiều lối hát truyền
thống của phương Nam như Côn Khúc, Bang Tử, Tần
Xoang v.v…
[3]
Phạm Bái
(梵唄)
là một loại xướng tụng đặc thù trong Phật
giáo Bắc Truyền
nhằm diễn xướng kinh văn với mục
đích tạo sự trang nghiêm, dấy khởi cảm giác
trân trọng nơi thính chúng. Theo kinh A Hàm, Phạm Bái phải
hội đủ năm đặc tánh:
1)
Âm thanh chánh đáng (không ủy mị, rên xiết, uốn éo)
2)
Âm điệu ḥa nhă
3)
Phát âm rơ ràng
4)
Âm lượng sâu lắng, sung măn
5)
Vang vọng khắp xa gần.
Phạm
là thanh tịnh, do vậy, Phạm Bái có thể hiểu
đơn giản là xướng tụng trang nghiêm thanh tịnh.
Khi truyền sang Trung Hoa, chư tổ đă kết hợp
truyền thống xướng tụng của Ấn Độ
với cách phát âm đặc thù của Trung Hoa để tạo
thành Phạm Bái, đặc biệt kết hợp với
các nhạc khí chủ yếu là chuông, mơ, trống, tang, thanh
la, chập chơa
v.v… Đôi khi c̣n thêm dàn
nhạc bát âm gồm sáo, đàn, kèn tỏa na, vân la, sênh v.v… như trong dàn nhạc Phạm Âm tại
Ngũ Đài Sơn. Các bài tán thường
là những bài thơ, kệ cô đọng những ư
nghĩa trong kinh. Đối với mỗi loại bài tán lại
có cách chuyển giọng, phách nhịp riêng. Tại Đài
Loan có hai thể loại
Phạm Bái là Cổ Sơn Điệu và Hải
Triều Âm. Cổ Sơn Điệu tán tụng với tốc
độ nhanh, âm thanh gần như dính vào nhau, không trang trọng
như Hải Triều Âm. Hải Triều Âm thường
là tán chậm, ngân nga, sâu lắng, có tác dụng nhiếp hóa
mạnh mẽ hơn Cổ Sơn Điệu.
[4]
Cuộc biến loạn này do An Lộc Sơn và Sử
Tư Minh cầm đầu nên Sử thường gọi
là Loạn An Sử. An Lộc Sơn là người Đột
Quyết, được phong làm Tiết Độ Sứ cả
ba trấn, oai quyền rất lớn. Sử Tư Minh
cũng là người Đột Quyết, bạn thân của
An Lộc Sơn từ nhỏ. Chính Sử Tư Minh đă
khuyên An Lộc Sơn làm phản khi nhà Đường suy yếu do Đường
Minh Hoàng đắm ch́m trong tửu sắc, say mê
Dương Quư Phi, bỏ mặc triều chánh.
[5]
Sáu pháp vô vi là hư không vô vi, trạch diệt vô vi, phi trạch
diệt vô vi, bất động diệt vô vi, thọ tưởng
diệt vô vi và Chân Như vô vi.