Đại Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 57
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh
Không
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy
tháng Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ
tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ
Trang và Minh Tiến
Tập 1575
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin hăy xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười
một, đoạn Kệ Tụng cuối cùng. Xem từ bài
thứ hai trong đoạn thứ mười:
(Kinh)
Dĩ thời tẩm tức, đương nguyện chúng
sanh, thân đắc an ổn, tâm vô động loạn.
(經)以時寢息。當願眾生。身得安隱。心無動亂。
(Kinh: Ngủ nghỉ đúng thời, nguyện cho
chúng sanh, thân được an ổn, tâm chẳng động
loạn).
Đây là nói tới lúc ngủ nghỉ. Một
người thân tâm khỏe mạnh, tâm là chúa tể, tâm phải
chân thành, phải thanh tịnh. “Thân” là nói tới nhục
thể. Đối với hai phương diện thân và tâm,
tâm phải tĩnh, thân phải động. Thân là một thứ
vật chất, cũng giống như một cỗ máy. Hễ là vật chất,
chúng ta biết chúng đều cần phải bảo dưỡng.
Nếu khéo bảo dưỡng, thời gian sử dụng của nó sẽ dài. Lũ b́nh phàm chúng ta thường nói đến “thọ mạng thông
thường”
(tuổi thọ b́nh quân); nếu
chẳng khéo bảo dưỡng, mặc t́nh hủy phá, thọ
mạng của nó sẽ bị rút ngắn. Xác thực là mỗi người
đều có thọ mạng thông thường. Trong kinh, đức
Phật đă dạy chúng ta: Người trong thế giới Sa Bà, thọ mạng
dài nhất là tám vạn bốn ngàn năm, đó là khi dài nhất.
Sau [khi tuổi thọ đă đạt tới] tám vạn bốn
ngàn năm, cứ mỗi trăm năm bèn giảm một tuổi,
giảm cho đến [khi
chỉ c̣n] mười tuổi. Mười tuổi
là lúc thọ mạng của con người ngắn nhất.
Từ mười tuổi, cứ sau mỗi trăm
năm, lại tăng thêm một tuổi. Lại tăng thêm
như vậy cho đến tám vạn bốn ngàn tuổi. Phật
pháp gọi [chu kỳ] một tăng, một giảm như
vậy là một tiểu kiếp. Nói tới đơn vị
thời gian to lớn, nhà Phật dùng Kiếp (Kalpa) để
nói. Kiếp có đại kiếp, trung kiếp, và tiểu
kiếp. [Chu kỳ] một tăng một giảm như vậy
là một tiểu kiếp, hai mươi tiểu kiếp là
một trung kiếp, bốn trung kiếp là một đại
kiếp. Trong kinh đức Phật thường nhắc tới
điều này.
Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện trong thế
gian này, danh xưng của
kiếp này là Hiền Kiếp (Bhadrakalpa). V́ sao gọi là Hiền Kiếp? Chư Phật giáng
sanh trong kiếp này rất nhiều, thường
nói là “một ngàn vị Phật
xuất thế”, nên gọi là Hiền Kiếp. Hiền
Kiếp là nói tới đại kiếp. Trong tiểu kiếp này,
Thích Ca Mâu Ni Phật ứng hóa nhằm lúc giảm kiếp,
tức là thọ mạng một mực giảm xuống, đang
trong lúc giảm, chẳng phải là lúc đang tăng.
Thời đức Phật, thọ mạng của loài người
là một trăm năm, tức thọ mạng thông thường
là một trăm năm, cũng có người sống lâu hơn,
cũng có kẻ chẳng đạt đến độ tuổi
ấy. Sống lâu hơn là ǵ? Đó là do tu được.
Chưa đến [trăm tuổi đă chết] là do chính người
ấy chẳng biết bảo dưỡng, hoặc là tạo
tác ác nghiệp [khiến cho thọ mạng bị] chiết
khấu.
Từ thời đức Phật cho đến
hiện tại, theo cách ghi chép của Trung Hoa, năm nay dường
như là sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ ba ngàn
lẻ ba mươi ba
năm. Nói cách khác, trong ba ngàn
năm, cứ mỗi trăm năm bèn giảm bớt [một
tuổi], tức là giảm đi ba mươi tuổi, thọ mạng
b́nh quân trong hiện thời phải là bảy mươi tuổi.
Cổ nhân nói “nhân sanh thất
thập cổ lai hy” (người bảy mươi tuổi
xưa nay hiếm). Chúng ta nh́n vào lịch sử Trung Hoa, đúng
là từ xưa tới nay, người có thể sống đến
bảy mươi tuổi xác thực chẳng phải là đa
số. Sống lâu hơn bảy mươi tuổi, đó
là quư vị rất biết cách bảo dưỡng. “Cỗ máy” này lẽ ra phải
bị đào thải vào lúc bảy mươi tuổi, quư vị
vẫn có thể tiếp tục sử dụng một thời
gian! Thậm chí, hiện thời c̣n có người sống đến
một trăm tuổi. Một trăm tuổi tức là quư
vị sử dụng [thân thể] nhiều hơn ba
mươi năm. Nếu vượt quá một trăm tuổi,
vậy là quư vị có thể dùng thêm bốn mươi
năm, năm mươi năm, rất khó có! Đấy nhất
định là người rất khéo bảo dưỡng.
Bảo dưỡng tấm thân như thế nào? Ở Bắc
Kinh có thầy lang họ Lưu, ông ta có hai bài giảng diễn
hết sức hữu ích về đạo dưỡng thân,
giảng hết sức hay! Hôm nay, khéo sao chúng
ta nói đến “dĩ thời
tẩm tức” (ngủ nghỉ đúng thời), khiến
cho chúng tôi nghĩ tới thuở đức Thế Tôn tại
thế, Tăng đoàn làm việc và nghỉ ngơi có thời
gian nhất định, xác thực là hoàn toàn tương đồng với nguyên tắc và nguyên lư do thầy lang họ Lưu đă
nói.
Cổ Ấn Độ chia một ngày đêm
thành sáu thời thần
(時辰), kinh thường nói là “lục
thời”. “Lục thời”
là một ngày đêm. Cổ nhân Trung Hoa chia một ngày đêm
thành mười hai thời thần, dùng Tư, Sửu, Dần,
Măo, Th́n, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi để
phân định mười hai thời thần. Người
phương Tây chia một ngày đêm thành hai mươi bốn
thời thần; do vậy, người Hoa gọi [giờ
của phương Tây] là “tiểu
thời” (小時), v́ nó nhỏ
hơn thời thần của Trung Hoa. Một thời thần
của Trung Hoa là hai tiếng đồng hồ, nhưng “thời” của Ấn Độ c̣n to hơn Trung Hoa, hai thời
thần của Trung Hoa là một thời của Ấn Độ.
Ban ngày gồm ba thời thần, gọi là sơ nhật
phần (nhật là mặt trời), trung nhật phần, hậu
nhật phần. Ban ngày được chia theo cách như thế,
ban đêm cũng vậy, sơ dạ phần, trung dạ
phần, và hậu dạ phần.
Đức Phật quy định thời
gian làm lụng và nghỉ ngơi cho các đệ tử: Đêm
đi ngủ vào lúc trung dạ. Quư vị hiểu một “thời” [của Ấn Độ]
là bốn tiếng đồng hồ hiện thời. “Trung dạ” là khi nào? Từ mười giờ tối cho đến
hai giờ sáng, đấy là Trung Dạ. Nói cách khác, mười
giờ [tối] đi ngủ, hai giờ [sáng] sẽ
thức dậy. Trước đây, tâm địa người
ta thanh tịnh, phiền năo nhẹ nhàng, mỗi ngày ngủ
bốn tiếng đồng hồ là đủ rồi. Người
hiện thời chẳng được! Người hiện
thời phiền năo nặng nề, bốn tiếng đồng
hồ th́ sợ rằng họ chẳng thể khôi phục
thể lực nổi! Phải biết điều này! Trạng
huống thân thể của mỗi người khác nhau; do đó,
chính ḿnh phải biết điều chỉnh, cân nhắc thời
gian làm việc và nghỉ ngơi.
Năm xưa, trước khi tôi xuất gia,
ở trong lều tranh tại Bộ Lư của Đài Loan với pháp sư Sám Vân, sống tại đó năm
tháng rưỡi. Lều tranh rất nhỏ, chỉ có
năm gian nhỏ, diện tích chẳng lớn, hết sức
sơ sài, thật sự là lều tranh. Phía trên lợp
cỏ tranh, tường dùng cật tre đóng ken lại, phía
ngoài trát một lớp xi-măng, hết sức sơ sài. Có
tất cả năm gian, gian giữa dùng làm Phật
đường. Phật đường c̣n chưa to bằng
cái pḥng thâu h́nh này. Quư vị biết là các căn pḥng đều
nhỏ hơn Phật đường đôi chút. Chỉ có
năm người ở, ba vị pháp sư, mỗi người
ở một gian, tôi và lăo cư sĩ Châu Kính Trụ hai người
tại gia ở trong một gian.
Thời gian làm việc và nghỉ ngơi
trong lều tranh: Do lều tranh chẳng có đèn điện,
ở trên núi nước và điện đều chẳng có. Về
sau, [nghĩ lại] th́ kể ra [hoàn cảnh khi đó] c̣n
khá lắm. Khi tôi lên núi th́ tính ra vẫn c̣n khá lắm, trên núi
có nước suối. Chúng tôi dùng thân tre, đục thủng
các mấu tre giữa các lóng, nối từng ống lại
với nhau, trực tiếp dẫn nước từ chỗ
suối trên núi. Do vậy, chúng tôi có nước suối, chẳng
cần phải gánh nước, có thể dẫn nước
về dùng. Nhưng không có đèn, v́ thế, tối đến, thời gian đi
ngủ là tám giờ tối. Buổi
tối tụng khóa tối chỉ thắp một cây nến,
nến nho nhỏ. Tám giờ [tối] đi ngủ, hai
giờ sáng thức dậy. Thức dậy vào lúc hai giờ sáng, sau khi rửa mặt, chúng tôi liền tụng khóa sáng.
Pháp sư Sám Vân chẳng quy định công khóa chung cho khóa sáng. Khóa sáng ai nấy tự tụng niệm. V́ không có đèn,
cho nên khóa sáng mọi người đều lạy Phật.
Khi đó, tôi lạy ba trăm lạy, thời gian đại
khái hơn một tiếng đồng hồ. Sau khi lễ Phật
xong, tôi ở trên núi chăm sóc những vị lăo nhân ấy,
phải chuẩn bị bữa sáng. Do vậy, chúng tôi tụng
kinh, đọc tụng đều vào ban ngày. Ban ngày mới
có ánh sáng mặt trời, đấy là tận lực
tiết kiệm. Khóa tối cũng là lễ Phật ba trăm
lạy, giữa trưa sau khi dùng bữa, lễ hai trăm
lạy. Mỗi ngày lễ tám trăm lạy.
Trên núi cũng chẳng có đường, cho
nên người đến rất ít, xác thực là một
hoàn cảnh thật sự thanh tịnh, yên tĩnh. Sống tại đó nửa năm, thân tâm thanh tịnh. Pháp sư Sám
Vân đă dưỡng thành thói quen này, xác thực là “ngủ sớm,
dậy sớm”. Đức Phật quy định chúng ta ngủ từ
mười giờ tối đến hai giờ sáng; hiện
thời, thể lực của chúng ta chẳng bằng người
thuở ấy, phước báo cũng chẳng đủ.
Nói thật thà, trí huệ cũng chẳng đủ. V́ thế,
thời gian nghỉ ngơi của chúng ta vẫn là sáu tiếng
đồng hồ, từ tám giờ tối đến hai
giờ sáng, ngủ trước [thời gian do đức Phật chế định]
hai tiếng đồng hồ, tuyệt
đối hữu ích cho sức khỏe thân thể.
Thầy lang họ Lưu đề nghị:
Cổ nhân Trung Hoa, chỉ cần quư vị thấy một
người già hơn trăm tuổi, bất luận
người ấy dùng phương pháp bảo dưỡng
sức khỏe nào, chắc chắn đều có một hạng mục
chung, tức là phải ngủ sớm, dậy sớm. Ông ta
nói rất hữu lư, con người cần dương khí,
tức là cần mặt trời, ánh sáng mặt trời. Chín
giờ tối mặt trời đi ngủ, quư vị cũng
nên ngủ nghỉ. Ba giờ sáng thái dương thức dậy,
quư vị cũng phải nên dậy. Giấc ngủ của
quư vị có thể dựa theo mặt trời, tuyệt
đối là khỏe mạnh. Do vậy, tôi nghĩ đến
đạo lư ấy, tôi nghĩ tới lúc ở với pháp
sư Sám Vân tại lều tranh. Pháp sư Sám Vân hiện thời
c̣n tại thế, lúc trẻ, thân thể Ngài hoàn toàn chẳng khỏe
mạnh. Ngài sống lâu như thế, [Ngài lớn tuổi] hơn tôi một giáp. Năm nay Ngài đă chín mươi
hai tuổi rồi. Đấy là chuyện những kẻ b́nh
phàm như chúng ta chẳng thể dự đoán là Ngài có thể
sống thọ như vậy. Tôi nghĩ nhân tố đầu
tiên của trường thọ chắc là do suốt đời
Ngài giữ [thói quen] ngủ sớm, dậy sớm. Tám giờ tối đi
ngủ, hai giờ sáng thức dậy. Đấy là những
vị trường thọ có một quy củ chung về
ngủ nghỉ, tuyệt đối là “ngủ sớm, dậy sớm”.
Người có thể sống theo [sự vận hành của] mặt trời th́ mới có tinh thần, mới có thể
lực. Bởi lẽ, sáng sớm thức dậy, tinh thần
no đủ, nhẹ nhàng, thoải mái, khoan khoái. Quư vị có
đủ thời gian. Tất cả mọi chuyện được
lo liệu vào sáng sớm, tốt lắm. Có những người
có thói quen làm việc vào buổi tối, đến nửa đêm
chẳng ngủ. Chuyện này gây hại hết sức to lớn
cho thân thể. V́ sao? Dương khí của quư vị bị
tiêu hao hết sạch. Cho nên đến sáng sớm hôm sau,
chẳng ḅ dậy nổi. Cả người vô lực, tứ
chi cứng ngắc; đấy là do dương khí của quư
vị đă bị tiêu hao, quư vị chẳng khéo bổ sung.
Ông Lưu nhắc đến câu nói truyền thống của
Trung Hoa: “Xuân sanh, Hạ trưởng,
Thu thâu, Đông tàng”, [có nghĩa là] Xuân và Hạ phải tận
hết sức hấp thu dương khí, mùa Thu quư vị mới
có thể thâu liễm, mùa Đông mới có thể tàng trữ, cho đến lúc Xuân về, dương khí của quư
vị mới no đủ. Nếu thảy đều tiêu
hao hết sạch, mùa Đông quư vị tàng trữ ǵ đây?
Do đó, thân thể quư vị không tốt, thân thể lắm bệnh, nguyên nhân ở chỗ này! Nếu có
thể sống theo [sự
vận hành của] mặt
trời, quư vị sẽ giảm thiểu rất nhiều
tật bệnh, tinh thần no đủ, thể lực mạnh
mẽ.
Về chuyện dưỡng thân, ông ta nói cái
làm tổn thương thân thể nhất, tổn thương
nghiêm trọng nhất chính là nóng giận. Do đó, chúng ta hiểu:
Đối với kẻ hay cáu giận, chớ nên so đo
với kẻ đó. V́ sao? Thân thể của kẻ đó chắc chắn có bệnh, thân thể kẻ
đó chẳng tốt, nói chung phải nhường nhịn kẻ đó đôi
chút. Tâm lư kẻ đó bực bội, xáo động, chẳng
b́nh thường. V́ thế, tâm b́nh khí ḥa cũng là một điều kiện dưỡng thân hết
sức trọng yếu, quư vị hăy vĩnh viễn ǵn giữ
tâm b́nh khí ḥa, vĩnh viễn ǵn giữ sự vui sướng.
Nho và Phật đều nói theo kiểu này, nhà Phật thường
nói “pháp hỷ sung măn, thường
sanh tâm hoan hỷ”. Những điều ấy đều
là đạo dưỡng thân.
Cư xử với người khác như
thế nào cho được ḥa hợp? Phật, Bồ Tát,
tổ sư đại đức thường dạy
chúng ta “chẳng thấy lỗi
thế gian”, quư vị mới có thể vĩnh viễn ǵn
giữ tâm t́nh vui sướng. Phải như thế nào th́
mới thật sự chẳng thấy lỗi thế gian?
Bốn câu kinh Kim Cang: “Vô ngă
tướng, vô nhân tướng”, không có ngă tướng,
quư vị chẳng có tâm ngạo mạn; chẳng có nhân tướng,
nhân tướng
(tướng người
khác) đều chẳng có, lấy đâu
ra khuyết điểm? Người khác có lỗi ǵ? Phải
thấu hiểu lư: “Vô chúng sanh
tướng, vô thọ giả tướng”. V́ thế,
người tu hành Phật pháp thông hiểu, biết những
đạo lư ấy, cư xử với bất cứ ai [đều
là] tùy duyên, chẳng phan duyên, chẳng có được, mất,
chẳng có ưa, ghét. Quư vị ưa thích cái này, chán ghét cái
kia, sẽ có phiền năo. Nhất định phải biết,
trong tự tánh chẳng có phiền năo. Do vậy, quư vị
nẩy sanh phiền năo là bất b́nh thường, đă trái
nghịch tự tánh, chẳng thuận theo tự tánh. Quư vị
có thể tùy thuận tự tánh, nói theo phía chính ḿnh là “tùy thuận tự tánh”, nói
theo phía hoàn cảnh là “tùy thuận
tự nhiên”, chắc chắn người ấy sẽ khỏe
mạnh.
V́ thế, ngủ nghỉ đúng giờ, làm
lụng cũng có thời gian nhất định, xử sự,
đăi người, tiếp vật đúng thời tiết
nhân duyên, đấy là quy luật trong cuộc sống hằng
ngày của chúng ta, chớ nên không chú trọng.
Cuộc sống có quy luật là đường lối để
khỏe mạnh, chúng ta chẳng thể không coi trọng! Do vậy, lúc
ngủ nghỉ sẽ dẫn phát đại nguyện Bồ
Tát: “Đương nguyện
chúng sanh, thân đắc an ổn, tâm vô động loạn”
(Nguyện cho chúng sanh, thân được an ổn, tâm
chẳng động loạn). Thân lẫn tâm đều an, trong
tâm phải buông xuống muôn duyên. Tiêu hao thể lực, tiêu
hao năng lượng, phần lớn (“phần lớn” th́
phải là chín mươi mấy phần trăm, thật sự
là một phần lớn) tiêu hao bởi vọng tưởng.
V́ thế, vào thời cổ, thuở đức Thế Tôn
tại thế, mỗi ngày ăn một bữa là đủ
rồi, v́ sao? Tâm địa thanh tịnh, năng lượng
tiêu hao ít. Do đó, bổ sung đồ ăn hằng ngày chính
là bổ sung năng lượng, Ngài chẳng cần rất
nhiều, đă đủ rồi!
Công phu định lực của A La Hán sâu
xa, năng lượng bị tiêu hao càng ít. Chúng ta đọc
kinh thấy nói A La Hán bảy ngày ăn một bữa. Ngài đi
hóa duyên bên ngoài, mỗi tuần đi một lần, [tức là đi] khất thực. Công phu định lực của Bích
Chi Phật càng sâu hơn, tập khí phiền năo đều đă
đoạn, Bích Chi Phật mỗi nửa tháng ăn một
lần là đủ. Phật, Bồ Tát không nhất định,
v́ sao? Các Ngài giáo hóa chúng sanh, các Ngài thị hiện. Các Ngài chẳng có phiền
năo, chẳng có tập khí, chẳng giống chúng sanh mang thân
nghiệp báo, các Ngài thừa nguyện tái lai (乘願再來, nương
theo nguyện trở lại), do nguyện lực ứng hóa;
v́ thế, thân các Ngài tự tại. Các Ngài mừng, giận,
buồn, vui đều là biểu diễn, toàn là phương
tiện thiện xảo để hóa độ chúng sanh, chúng
ta phải biết điều này. Chẳng thể nhất
loạt luận định giống như bọn người
thế gian và lục đạo phàm phu chúng ta được!
“Thân được an ổn”!
Trước kia, người tu hành thời
gian nằm xuống ngủ chẳng nhiều, rất ít. Ngủ
nghỉ thông thường là tĩnh tọa, nay chúng ta nói là “bất đảo đơn”
(不倒單, chẳng
nằm xuống giường ngủ), tức là thân thể
chẳng nằm xuống. Nhưng đối với kẻ
phàm phu b́nh phàm sơ học, đức Phật hoàn toàn chẳng
yêu cầu nghiêm ngặt, chỉ yêu cầu ngủ th́ nằm
nghiêng bên hông phải. Đức Phật yêu cầu đệ
tử làm chuyện này. Chớ nên tham ngủ, phải hiểu điều này!
Ngủ nghê là một trong Ngũ Cái (五蓋, năm thứ che lấp tâm tánh). Ngũ dục là tài,
sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê. Ngủ nghỉ
để toàn bộ thân thể được nghỉ ngơi,
khôi phục năng lượng, ngày hôm sau mới có tinh thần,
có thể lực để làm việc. Bộ máy này sử dụng
một thời gian, nhất định phải để
cho nó nghỉ ngơi đàng hoàng, cho nó bảo dưỡng.
Nhưng thời gian nghỉ ngơi chớ nên quá dài, quá dài
sẽ nẩy sanh tác dụng phụ. Nó (thân thể) có cùng một
đạo lư với máy móc trong hiện thời: Máy móc cần
thời gian nghỉ ngơi và bảo dưỡng thích đáng,
nhưng chẳng cần nghỉ suốt năm. [Nghỉ suốt
năm], nó sẽ han rỉ, hư hoại. Do vậy, quư vị
nhất định phải hiểu đạo dưỡng
thân, biết cách ngủ nghỉ, làm việc, ăn uống,
sinh hoạt.
Đương nhiên, quan trọng nhất vẫn
là “tâm chẳng động loạn”.
Câu này hết sức quan trọng, thân thể khỏe mạnh,
tâm là chúa tể. “Động loạn”
là phiền năo, ưu lự, vướng mắc. Nếu có
nhiều những thứ ấy, dẫu thân thể bảo dưỡng
cách nào đi nữa, hiệu quả khỏe mạnh sẽ
đều bị giảm bớt! Do vậy, nói thật ra, tu
hành th́ điều đầu tiên là tu tâm. Đối với cái tâm, đức
Phật dạy chúng ta tiêu chuẩn tu hành là Bồ Đề
tâm, hăy phát Bồ Đề tâm! Chúng ta chẳng phát Bồ
Đề tâm được, biết là chẳng phát được,
th́ trước hết hăy học tập. “Học tập” là thực hành công phu tu tâm. Cái tâm của
chúng ta nương vào Thập Thiện Nghiệp làm tiêu chuẩn
là được rồi. Ư nghiệp trong Thập Thiện
Nghiệp chẳng tham, chẳng sân, chẳng si. Tham, sân, si, mạn,
nghi là phiền năo, tức căn bản phiền năo. Chỉ
cần có những thứ ấy, tâm quư vị sẽ ngày đêm
động loạn chẳng ngớt, đă ngủ c̣n gặp
ác mộng! Tu bằng cách nào? Buông xuống! Chẳng có ǵ khác!
Buông xuống ưu lự, buông xuống vướng mắc,
buông xuống phiền năo, buông xuống tập khí, y giáo tu hành!
Chúng ta học Phật, Phật là gương mẫu của
chúng ta. Quư vị thấy đó, đức Phật có ǵ chẳng
buông xuống? Ngay cả thân thể, Ngài cũng buông xuống.
Buông xuống cái thân như thế nào? Vô ngă tướng, vô nhân
tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả
tướng, quư vị thấy có phải là buông xuống hay
chăng? Vị đường chủ Niệm Phật
Đường thường nhắc nhở các đồng
học: “Buông xuống thân, tâm,
thế giới, chớ nên có mảy may tham luyến. Hễ
quư vị có tham luyến, niệm Phật sẽ chẳng thể
văng sanh, quư vị vẫn chưa buông xuống!”
Chuyện cư sĩ Hoàng Trung Xương văng
sanh đă truyền khắp Nam Dương. Sáng sớm hôm
nay, các đồng tu ở Tân Gia Ba và Indonesia gọi điện
thoại, sau khi họ nghe tin đă tán thán, hâm mộ, hỏi có thể
lưu thông tài liệu ấy hay không? Họ muốn lưu
thông với một số lượng lớn. Tốt lắm!
Sẽ khiến cho rất nhiều người cảm động;
đấy là độ người khác. Khi Hoàng Trung
Xương c̣n sống, ông ta chẳng giảng kinh, thuyết
pháp cho người khác, chẳng khuyên người khác niệm
Phật. Ông ta tự tại biết trước lúc mất,
tự tại văng sanh như thế đó, trong khoảng thời
gian hai năm mười tháng, ông ta đă thành công. Quư vị
xem bài văn phát nguyện của ông ta, sẽ thấy ông
ta sám hối hằng ngày. Phần tài liệu này rất nhiều,
vẫn chưa được chỉnh lư, chỉ sợ tối
thiểu phải mất thời gian nửa năm để
chỉnh lư; trong tương lai, có thể ấn hành. Hằng
ngày sám hối, ông ta đều viết vào một mảnh
giấy nhỏ, giống như [phương pháp] Công Quá
Cách của cổ nhân: Mỗi ngày đều phản tỉnh,
mỗi ngày đều kiểm điểm, sửa lỗi đổi
mới, sám trừ nghiệp chướng! Nhất tâm nhất
ư chỉ cầu văng sanh Tịnh Độ, chẳng có ư niệm
nào khác! Điều này chỉ rơ v́ sao trong Tịnh Độ
Thánh Hiền Lục và Văng Sanh Truyện có nhiều người
niệm Phật văng sanh như vậy trong thời gian từ ba năm
tới năm năm đều thành công, đạt được thành tựu.
Chúng ta nh́n ra đạo lư ấy, đấy là một điển
h́nh, một tấm gương.
Đời người là một giấc mộng,
thế giới hư huyễn, chẳng chân thật, [thế
mà] quư vị tham luyến, sai mất rồi! Quư vị ngỡ
nó là thật, cũng trật rồi! Trong các buổi giảng,
chúng tôi thường xuyên khuyên nhủ các đồng học: Quư vị
có phước báo, hễ có phước báo bèn có thọ dụng. Chẳng có phước
báo, nghèo túng, trầy trật, áo cơm chẳng đủ, người ấy c̣n
nghĩ ǵ được nữa? Dẫu có phước báo,
người ấy phải giác ngộ, chớ nên có mảy
may tâm tham luyến, chớ nên có mảy may tâm lưu luyến.
Quư vị có ư niệm
[tham luyến] ấy, ư niệm ấy
chính là tâm luân hồi, vậy th́ những ǵ quư vị đă
làm, đă tạo, đều là nghiệp luân hồi, niệm
Phật chẳng thể văng sanh! Chư vị phải hiểu,
niệm Phật là giáo pháp Đại Thừa, là pháp xuất
thế gian. Tu Đại Thừa, tu pháp xuất thế gian
mà lưu luyến thế gian này, tức là tự ḿnh mâu
thuẫn. V́ sao quư vị chẳng thể văng sanh? V́ sao quư vị
chẳng có cảm ứng? Do đây sẽ biết ngay, chẳng
cần phải hỏi người khác nữa, [mà chính ḿnh]
tự hiểu rơ ràng, rành rẽ. Trong thường nhật,
khởi tâm động niệm, quư vị có cái duyên ấy,
có duyên với chúng sanh, th́ sẽ giống như Phật, Bồ
Tát, khởi tâm động niệm đều mong độ
chúng sanh, chớ nên quên “chúng
sanh vô biên thệ nguyện độ”. Dùng phương
pháp ǵ để độ? Phiền năo vô tận thệ
nguyện đoạn. Ta đoạn phiền năo chính là độ chúng sanh. “Học pháp
môn, thành Phật đạo” đều là độ chúng sanh, v́ độ
chúng sanh. Nay ta làm như vậy, chúng sanh đều trông thấy,
đều bị cảm động. Cư sĩ Hoàng Trung
Xương văng sanh đă cảm động
bao nhiêu người, bao nhiêu người do vậy mà thật
sự tin tưởng, học tập theo ông ta, thật sự
làm. Đó là ông ta đă độ họ.
Nếu chẳng phải là buông xuống muôn
duyên, thân tâm sẽ chẳng an, v́ sao? Quư vị có vướng
mắc, có ưu lự, chúng sẽ đem lại cho quư vị
khá nhiều phiền năo, tâm quư vị làm sao có thể thanh tịnh
cho nổi? Tâm thanh tịnh sanh trí huệ, tâm thanh tịnh cảm
ứng đạo giao với Phật, Bồ Tát. Chân thành và
thanh tịnh th́ mới có cảm ứng. V́ sao người
khác có thể làm được, ta chẳng làm được.
V́ sao? Quư vị có thể thường suy nghĩ [điều
ấy], sẽ có thể sanh khởi ḷng hổ thẹn,
phát tâm sám hối, sẽ có thể thành tựu trong một đời!
Do vậy học Phật mà nếu chẳng
thể thông đạt kinh giáo, đặc biệt là trong thời
đại hiện tại, chúng tôi thường nói là so sánh
tŕnh độ Quốc Văn [của người hiện thời] với người
trong nửa thế kỷ trước, đúng là đọa
lạc ngàn trượng! Kinh Phật dùng Biến Thể Văn
(變體文) để
viết. Biến Thể là ǵ? Biến là chữ Biến
trong Biến Hóa (變化), [Biến Thể Văn] chính là văn Bạch Thoại
trong thời ấy. Kinh này được phiên dịch vào đời
Đường, so sánh với văn chương của bát
đại gia[1]
thời Đường - Tống, sẽ thấy [văn từ,
cú pháp của kinh Hoa Nghiêm] đơn giản hơn rất
nhiều. V́ sao dùng thể loại văn chương [Biến
Thể Văn] để phiên dịch [kinh điển]? Tuyên
truyền thuận tiện. Nói chung là mong sao những [bản
kinh luận đă] dịch sẽ có thể khiến cho mọi
người đều xem hiểu rất dễ dàng th́ họ
mới có thể đạt
được lợi ích, phiên dịch
[như vậy] mới là tốt lành! Nhưng dẫu đơn
giản như vậy, nó vẫn thuộc loại Văn Ngôn,
người hiện thời cầm lấy kinh bổn [xem,
đọc vẫn] cảm thấy rất khó khăn!
Lại nói về hiện thời, đang có
phong trào sử dụng chữ Giản Thể, thêm một tầng
khó khăn nữa! Đọc sách cổ, đọc kinh Phật,
đọc kinh Đạo giáo, đọc kinh điển của
tam giáo Nho, Thích, Đạo, tốt nhất vẫn là [sử
dụng những bản in theo lối] Chánh Thể Văn. Tôi
không gọi [lối viết ấy] là Phồn Thể, v́
trong thư pháp Trung Hoa chẳng hề có Phồn Thể! Vào
thuở sớm nhất [trong lịch sử] Trung Hoa, có Giáp
Cốt Văn, Chung Đỉnh Văn, Đại Triện,
Tiểu Triện, Lệ Thư, Thảo Thư, Hành Thư, và
Chánh Khải (Khải Thư)[2]. Những chữ chúng ta dùng trong hiện thời là lối
chữ Chánh Khải. Chánh Khải chính là Chánh Thể, hoặc
Khải Thể (viết theo lối chữ Khải). Đấy
là danh từ thuật ngữ đă được sử dụng
từ thời cổ. Chữ Giản Thể vốn có, đă có từ
thời cổ. Chữ Giản Thể nhằm tạo thuận
tiện cho chính quư vị, giống như ghi sổ sách trong
nhà, nếu chẳng
phải là văn thư chánh thức th́ có thể
sử dụng [Giản Thể]. Văn thư chánh thức chẳng thể dùng Giản
Thể, v́ sao? [Viết văn thư bằng] Giản Thể
th́ chẳng cung kính. Người Hoa chú trọng biểu lộ ư niệm
kính trọng, đối với người khác cũng phải
tôn kính. V́ thế, chữ viết phải trang trọng, tề
chỉnh, chẳng thể viết nguệch ngoạc, nguệch
ngoạc là chẳng cung kính. Lối chữ Thảo Thư
là nghệ thuật, cũng được sử dụng
trong trường hợp nhất định, nhưng chẳng
sử dụng trong văn thư chánh thức. Trước
kia, quan phủ ban hành cáo thị, tức những bản cáo thị bố cáo với nhân dân, đều sử dụng lối chữ Khải chân phương ngay ngắn, chỉnh tề để
viết, v́ sao? Tôn kính nhân dân. Không chỉ chẳng thể
dùng Thảo Thư, [ngay cả] Hành Thư cũng chẳng
thể dùng. Trong thư tín thông thường, nói chung, Hành Thư
sử dụng [khi viết thư] cho những người ngang
hàng, hoặc đối với người có vai vế thấp
hơn. Nếu viết cho bậc trưởng bối, phải
dùng Khải Thư, chẳng thể dùng Hành Thư. Đối
với những người cùng vai vế mà có địa vị
cao, hoặc người [mà chính ḿnh] đặc biệt tôn
trọng, thảy đều dùng Khải Thư.
Hiện thời như chúng tôi thấy, đích
xác là rất khiến cho người khác đau ḷng. Quư vị
thấy mỗi thứ Sáu chúng tôi giải đáp thắc mắc,
các đồng học nêu câu hỏi bèn viết ra, dùng bút
nguyên tử (bút Bic) để viết, viết rất nguệch
ngoạc, nhưng chúng tôi biết, người hiện thời
là như vậy đấy, chúng tôi cung kính giải đáp.
Nếu là xưa kia, viết tùy tiện kiểu đó, thầy
sẽ chẳng trả lời! V́ sao không trả lời? [Người
hỏi] chẳng có tâm cung kính! Không phải là cung kính đối
với thầy, mà là đối với kính ư cầu học
của chính quư vị! Tôn kính sự truyền thụ! Ta tôn
trọng chuyện này th́ sẽ cung kính, coi trọng, vậy
th́ sẽ cung kính học. Đấy gọi là “một phần thành kính
được một phần lợi ích, mười phần
thành kính được mười phần lợi ích”.
Quư vị viết chữ nguệch ngoạc như vậy,
tùy tiện như vậy, chẳng có một tí cung kính nào.
Thầy dạy quư vị, quư vị cũng chẳng nghe lọt
tai, đạo lư như thế đó! Chắc chắn không
phải là thầy ngạo mạn. Thầy dạy
học phải nh́n người, họ (người học)
có tôn trọng chính họ hay chăng? Người kính trọng
chính ḿnh th́ sẽ kính trọng người khác. Kính trọng
người khác th́ sẽ kính trọng chính ḿnh. Dạy quư vị
bao nhiêu? Dạy quư vị như thế nào? Đều tùy
thuộc trạng huống thực tế và biểu hiện
của đối phương.
Tôi đă nói, trong hiện thời, tôi có nguyện
vọng, nguyện vọng này có thể thực hiện hay
không c̣n tùy thuộc phước báo. Tôi hy vọng trong
tương lai sẽ dạy mười học tṛ, ngay lập
tức có người đến ghi danh, tôi có thể thâu nhận hay
không? Chẳng thể được! V́ sao? Tôi muốn dạy
học tṛ, ghi danh chẳng phải là ghi danh với tôi, mà phải
thông qua khảo thí. V́ sao? Quư vị mới xứng đáng với
người trong thiên hạ. Nếu không, sẽ có lỗi với
người ta, cần phải qua khảo thí. Lư Giang tuyển
lựa ba mươi vị thầy làm “hạt giống”
[để dạy Đệ Tử Quy], cũng phải học
mười năm, chọn lựa theo quy chế ghi danh. Có khoảng hơn bốn trăm người ghi danh, chỉ nhận
ba mươi người! Ṿng sơ tuyển khoảng chừng
năm sáu chục người [được chọn], sau
đấy trực tiếp gặp mặt khảo nghiệm.
Trực tiếp khảo nghiệm lại loại bớt,
cuối cùng chỉ nhận ba mươi người. Đấy
chẳng phải là tùy tiện. Tôi chẳng thể tự
ḿnh làm chủ, phải xem duyên phận. Trường học
do người khác lập ra, chẳng phải do tôi mở.
V́ thế, học sinh do bọn họ đưa lại, nói
chung là đều chọn lựa kỹ càng, có đức hạnh thật
sự, có thành tựu thật sự trong dạy dỗ. Nếu
quư vị chẳng có thành tựu, người [được
chọn] sẽ quá đông. Quư vị phải có thành tích dạy học và thành tích hoằng pháp được mọi người tán thán.
Chúng tôi giúp quư vị “đầu
sào trăm thước, tiến thêm bước nữa”.
V́ thế, nếu quư vị chẳng có cơ sở, sẽ
chẳng có cách nào! Tuổi tác tôi cũng đă cao, chẳng phải là trẻ
trung, tôi c̣n có thể dạy dỗ mấy năm nữa? Chư
vị nhất định phải liễu giải điều
này! Nay đă hết thời gian rồi!
***
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem bài kệ cuối cùng,
tức bài kệ một trăm bốn mươi mốt:
(Kinh) Thùy miên thỉ ngụ, đương nguyện
chúng sanh, nhất thiết trí giác, châu cố thập
phương.
(經)睡眠始寤。當願眾生。一切智覺。周顧十方。
(Kinh: Ngủ nghỉ vừa thức, nguyện
cho chúng sanh, hết thảy trí giác, nh́n khắp mười
phương).
Thanh Lương đại sư có chú giải
câu “nhất thiết trí giác”
này, chúng tôi đọc một lượt.
(Sớ) Nhất thiết trí giác giả, phi duy tam thế
tề minh, ức diệc thập phương động
hiểu. Nhất nhật thỉ chung kư nhĩ, dư thời
loại nhiên.
(疏)一切智覺者,非唯三世齊明,抑亦十方洞曉,一日始終既爾,餘時類然。
(Sớ: Hết thảy trí giác
chẳng phải chỉ là ba đời đều hiểu
rơ, mà c̣n là mười phương đều hiểu rành mạch.
Một ngày từ đầu đến cuối đă là
như thế, mà các thời khác cũng đều giống
như vậy).
Tuy chú giải không nhiều, nhưng nói rất
rơ ràng. Bồ Tát tại gia nhiều, xuất gia Bồ Tát chẳng
nhiều bằng tại gia. V́ thế, trong một trăm bốn
mươi mốt nguyện, câu đầu tiên trong nguyện
thứ nhất là “Bồ Tát tại
gia”. Chúng ta đă học điều này. “Tri gia tánh Không, miễn
kỳ bức bách” (Biết nhà tánh Không, tránh khỏi bức bách). Một mực
nói đến những điều chi ly trong cuộc sống
thường ngày. Do vậy, sau khi ngủ nghê thức dậy, ngày hôm sau, Bồ Tát phát nguyện, “nhất thiết trí giác, châu cố thập
phương”, có nghĩa là trí giác trọn khắp pháp giới
hư không giới. Thanh Lương đại sư nói rất
hay, “phi duy tam thế tề minh”
(không chỉ là ba đời đều hiểu rơ), “tam thế” là quá khứ, hiện
tại và vị lai. Chư vị hăy ngẫm xem, nếu chẳng
phải là “cụ thần túc lực,
sở hành vô ngại” (đủ sức thần túc, sở
hành vô ngại), trong phần trên chúng ta đă học câu này rồi, “thân đắc
an ổn, tâm vô động loạn” (Thân được yên ổn, tâm chẳng động
loạn), làm sao mà có thể đạt
được năng lực như
vậy? Do vậy có thể biết, đây là Bồ Tát thật
sự, chẳng giả! V́ thế, ba đời đều
hiểu rơ, mười phương đều biết rành
rành. Chúng ta thường nói là “hoành
biến thập phương, thụ cùng tam tế” (theo
chiều ngang trọn khắp mười phương, theo
chiều dọc tột cùng ba đời). Trí giác của Ngài
đều có thể thông đạt rành rẽ, hiểu thấu
suốt; một ngày là như vậy, mà mỗi ngày cũng đều
là như vậy.
Chúng ta biết con người chẳng có sanh
tử; đương nhiên là Bồ Tát càng chẳng có sanh tử.
Chúng ta học Phật th́ đấy là điều đầu
tiên phải giác ngộ, chánh tri chánh kiến đấy nhé! Sanh
tử là chuyện như thế nào? Xả thân, thọ thân
giống như thay một bộ quần áo, linh tánh bất
diệt. Bồ Tát thuộc địa vị giác ngộ, phàm
phu thuộc địa vị mê muội, tuy mê và giác khác
nhau, linh tánh bất biến. Do đó, Phật, Bồ Tát giáo
hóa chúng sanh, giúp đỡ chúng sanh, giúp ǵ vậy? Không ǵ chẳng
nhằm giúp họ chuyển mê thành ngộ. Đấy là công
việc, là sự nghiệp của Phật, Bồ Tát, từ
ngữ đơn giản được sử dụng
trong nhà Phật là “Phật sự”.
Nhưng hiện thời chữ “Phật
sự” đă bị mọi người hiểu sai ư nghĩa.
[Đối với người hiện thời], “Phật sự” là ǵ? V́ người
chết làm [pháp hội] siêu độ th́ gọi là Phật sự,
thật ra chẳng phải vậy! Hai chữ “Phật sự” phát xuất từ
kinh điển, có nghĩa gốc là giúp chúng sanh giác ngộ,
giúp chúng sanh quay đầu. Đó gọi là “chuyển mê thành ngộ, chuyển phàm thành thánh, chuyển
ác thành thiện”; đấy là Phật sự.
Quư vị thấy đó, có vị Phật,
Bồ Tát nào chẳng dạy chúng sanh, nhà Phật nói là “giáo hóa”. “Giáo” là sự, là phương pháp, c̣n Hóa là mục
tiêu. Sau khi được dạy dỗ, họ sẽ chuyển
biến, dấy lên sự biến hóa. Dấy lên sự biến
hóa là thành tích thấy được. Bồ Tát tự ḿnh ứng
hóa trong mười pháp giới, giáo hóa chúng sanh, đào thải
tập khí vô minh của họ. Tập khí vô minh phải để
cho thời gian đào thải, nhưng thời gian ấy cũng chẳng thể luống qua, cũng chẳng thể nói là ngồi đó
chờ đợi, dần dần vô minh sẽ tiêu mất,
chẳng phải vậy! Trong phần trước đă nói,
vô minh hoàn toàn chẳng trở ngại sự, trọn chẳng
ngăn ngại các Ngài thị hiện trong mười pháp
giới. Chúng sanh có cảm, các Ngài bèn có ứng.
Vô minh chẳng ngăn ngại cảm ứng. Do vậy, các
Ngài hiện thân thuyết pháp đại tự tại! Sự
đại tự tại này sẽ c̣n được nhắc
đến trong phẩm kế tiếp.
Do vậy có thể biết, chúng ta học Phật
th́ mục tiêu là ǵ? Chư vị phải hiểu, chỉ có
một mục tiêu. Trong kinh điển thường nói mục
tiêu này là “thành Phật”, ta sẽ
chứng đắc Vô Thượng Bồ Đề, một
mục tiêu như thế đó. Mục tiêu này mới là chánh
xác, chắc chắn chẳng cầu phước báo nhân thiên.
Nếu trong tâm c̣n mong muốn phước báo nhân thiên, quư vị
sẽ chẳng đạt được mục tiêu ấy.
V́ sao? Quư vị c̣n phải tiếp tục luân hồi không
ngừng trong lục đạo, chẳng ĺa khỏi lục
đạo. Chẳng ĺa khỏi lục đạo, quư vị
hăy nghĩ kỹ đi, đời sau c̣n có thể được
làm thân trời người hay chăng? Luân hồi trong lục
đạo là do nghiệp lực dẫn dắt, hoàn toàn chẳng
có ai khác hạn chế quư vị, mà là do nghiệp lực lôi
dẫn. Quư vị có nghiệp lực trời người hay
chăng? Trong kinh, đức Phật đă nói rất rơ ràng,
đời sau muốn được làm thân người th́ đệ tử
Phật là Trung Phẩm Thập Thiện, Tam Quy, Ngũ Giới,
như vậy th́ quư vị có thể được làm thân người.
Chẳng phải là đệ tử Phật, vẫn là Trung
Phẩm Thập Thiện, lại c̣n phải [trọn vẹn]
luân thường, đạo đức, th́ mới có thể
được làm thân người. Luân thường đạo
đức ở chỗ nào? Đơn giản nhất, mà cũng
cụ thể nhất là Đệ Tử Quy. Chớ nên coi
rẻ Đệ Tử Quy. [Đă có] Đệ Tử Quy, cộng
thêm Thập Thiện Nghiệp Đạo, đời sau quư
vị chẳng mất thân người. Quư vị tham luyến
thế gian này, bèn tu pháp này. Đấy là nhân. Quư vị tu cái
nhân này, sẽ đạt được quả báo này!
Nếu muốn sanh lên trời th́ phải đạt
tới Thượng Phẩm Thập Thiện. Cũng có nghĩa
là chúng ta dùng Thập Thiện Nghiệp Đạo, dùng điểm
số đạt được trong học tập Thập
Thiện Đạo để nói th́ chín mươi điểm trở
lên là thượng phẩm, bảy mươi điểm
trở lên là trung phẩm, chẳng đến bảy mươi
điểm th́ là hạ phẩm. Hạ phẩm ở nơi
đâu? Tu-la, la-sát, ma vương. Ma vương có phước
báo; nếu không, ông ta sẽ chẳng thành ma vương. Thậm
chí ma con, ma cháu đều có chút điều thiện. V́ sao
họ bị đọa lạc? Tâm hạnh bất chánh, tức là trong ấy xen tạp nghiệp bất thiện, tham,
sân, si, mạn, nghi, ác kiến, xen lẫn những thứ ấy.
Mỗi người đắc quả báo khác nhau, chớ nên
không biết điều này.
Trong tất cả hết thảy các pháp, chân
thật nhất, thù thắng nhất là Tịnh Độ.
Trong đại kinh (kinh Vô Lượng Thọ), đức Phật
bảo: Bao nhiêu Bồ Tát mong cầu pháp môn này mà chẳng thể
được, chẳng có cái duyên này! Điều này thường
được diễn tả là “Phật
chẳng độ kẻ vô duyên”. Kẻ ấy từ vô
thỉ kiếp đến nay chẳng có duyên với Tịnh
Độ. Nay chúng ta lợi dụng phương pháp khoa học
hiện đại, truyền h́nh vệ tinh, mạng Internet
để tuyên dương pháp môn Tịnh Độ. Hiện
thời, cư dân trên quả địa cầu này, những
nơi khác chẳng tính, loài người gần bảy mươi
ức, có được một nửa số người
ấy trong một đời được nghe một tiếng
A Di Đà Phật, trông thấy tượng A Di Đà Phật
một lần hay không? Chẳng có! “Chẳng có” tức là không có duyên với Tịnh
Độ. Những người ấy trông thấy tượng
những vị Phật khác, tượng Thích Ca Mâu Ni Phật,
h́nh tượng Bồ Tát, nhưng chẳng hề nghe danh
hiệu Tây Phương Tam Thánh, người chẳng biết
thế giới Cực Lạc quá đông!
Chúng tôi có ư nghĩ, có nguyện vọng muốn
tặng Đại Tạng Kinh cho mỗi khu vực, mỗi
quốc gia trên cả thế giới; đấy là ước
nguyện của chúng tôi. Thật sự có duyên, đă liên lạc được, họ cũng hoan hỷ muốn có [Đại Tạng
Kinh], mới chỉ hơn hai mươi quốc gia, c̣n chưa
đến ba mươi nước. V́ có rất nhiều quốc
gia chẳng có Phật giáo, khá nhiều tiểu quốc như
tại Phi Châu, hoặc những đảo quốc trong Thái
B́nh Dương, rất nhiều tiểu quốc chẳng
có Phật giáo. Chúng ta nhắn tin cho họ, kinh văn hiện
thời của chúng ta phiên
bản bằng tiếng Hán, họ xem cũng
không hiểu, họ cũng chẳng có cách nào t́m người phiên dịch.
Do vậy, quư vị bèn hiểu: Được làm thân người
rất khó! Được làm thân người lại có thể
nghe Phật pháp, càng khó khăn hơn nữa. Nghe Phật pháp mà có
thể gặp pháp môn Tịnh Độ, loại trừ từng
tầng một, đến cuối cùng, chẳng c̣n lại
mấy! Quư vị mới hiểu pháp môn này đáng quư, chẳng
dễ gặp được! [Những ai] gặp pháp môn này
đều là do đời đời kiếp kiếp trong quá
khứ đă tích lũy thiện căn và phước đức,
đời này quư vị lại được gặp gỡ.
Gặp gỡ tức là quư vị có cơ hội văng sanh, vấn
đề là quư vị có thể nắm lấy, nắm chắc
cơ hội này hay không!
Hai ngày trước, c̣n có đồng tu kể
với tôi, họ đă thật sự thọ dụng lời
dạy của Ấn Quang đại sư, tức là [lời
dạy về] đạo tràng nhỏ. Đồng tu của
họ có mấy người? Đại khái khoảng mười
người, Ấn Quang đại sư quy định hai
mươi người, họ [chỉ có] mười người.
Ở trong núi, cũng là dựng mấy căn nhà, dựng
nhà rất vững chăi, cũng ở tại Úc, ở trên núi,
chẳng có dấu chân người bén mảng, ở nơi
không có ai đến. Niệm Phật tu hành ở nơi đó.
Mười người sống tại đó, ai nấy tự
động chẳng nói chuyện, cũng chẳng có ai nhắc
“chỉ ngữ” (止語, đừng
nói), chẳng có người nào nói chuyện, hết sức
an tĩnh. Phước báo ấy lớn lắm, mỗi ngày
nghe kinh bốn tiếng đồng hồ, nghe từ đĩa
DVD. Tôi đề nghị với họ, [nghe giảng] một
bộ kinh là đủ rồi, chớ nên xen tạp. Nghe
kinh Vô Lượng Thọ, nghe xong một lượt, lại
nghe từ đầu, cái tâm của quư vị chắc chắn
sẽ định. Niệm một câu Phật hiệu đến
cùng, trong mười hai thời, có thể ǵn giữ chẳng
gián đoạn, có thể giữ sao cho chẳng có vọng
tưởng. Ư niệm vừa mới dấy lên bèn A Di
Đà Phật, đập tan vọng tưởng ấy. Bất
luận vọng tưởng là thiện hay bất thiện,
đều chẳng quan tâm tới nó. Chỉ cần có ư niệm
dấy lên bèn “A Di Đà Phật”,
ư niệm lập tức quy vào A Di Đà Phật. Tu hành ở nơi
ấy, mười người tu, mười người
văng sanh. Đến thế giới Cực Lạc, bèn trở
thành mười vị Bồ Tát, công đức ṿi vọi
thay!
Do vậy, nói đến chỗ này, chư vị
phải hiểu, chính ḿnh có phước báo này; đấy là
phước báo chân chánh. Có thể điều ǵ cũng đều
buông xuống, cuộc sống có người cúng dường,
chính ḿnh chẳng cần bận ḷng, suốt ngày từ sáng đến
tối niệm Phật, đại phước báo đấy
nhé! Người thế gian chẳng mấy ai có phước
báo ấy, công đức của người hộ pháp chẳng
thể nghĩ bàn! Đạo tràng ấy là tư nhân, [chủ
nhân của đạo tràng ấy] cũng là đệ tử
Phật môn, chính người ấy có công việc. Mua cuộc
đất ấy, đất cũng không nhỏ. Tính theo cách
tính toán của Trung Hoa th́ khoảng chừng gần một
ngàn mẫu. Chính ḿnh dựng một Niệm Phật
Đường tại đó, có thể cúng dường hai
mươi người, tự ḿnh phát tâm! Quư vị có thể thành
tựu nhiều người văng sanh như vậy, đến
khi quư vị lâm chung, chỉ cần quư vị thật sự
phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, tôi tin là quư vị
sẽ được Phật, Bồ Tát gia tŕ, Phật,
Bồ Tát sẽ giúp đỡ quư vị. Bài tế văn của
Đại Từ Bồ Tát chính là thư bảo đảm.
Người ấy thật sự biết tu phước, v́
hoàn cảnh người ấy khá lắm, cúng dường tiền
sinh hoạt cho hai mươi người chẳng có vấn
đề ǵ. Người ấy cũng chẳng hóa duyên, một ḿnh làm công đức chủ, mời hai người ở
trên núi chuyên lo liệu bếp núc, nấu cơm, cúng dường
người niệm Phật. Nếu phát nguyện giống
như ông Hoàng Trung Xương, sám hối như vậy, tôi
tin tưởng là ba năm chắc chắn thành tựu. V́
hoàn cảnh tu học của ông Hoàng Trung Xương so ra chẳng
bằng nơi đó. Nơi đó mới là chỗ thật
sự thanh nhàn, u tĩnh, chẳng có dấu chân người,
chẳng có ai đến đó.
Gần đây nhất, các đồng học
ở Úc Châu Học Viện gọi điện thoại cho
tôi, bảo họ cũng mua hai cuộc đất ở
trong núi, diện tích cũng rất lớn, tính theo kiểu
Trung Hoa th́ cũng cỡ hơn một ngàn mẫu. Họ bảo tôi, họ
chuẩn bị dùng lều kiểu Mông Cổ tại đó.
Cách này cũng rất đặc biệt, càng thuận tiện
hơn dựng nhà. Tôi trước hết bảo họ, họ
hỏi tôi nên dựng bao nhiêu lều. Tôi nói: Trước hết,
quư vị hăy thử xem, trước hết làm hai mươi
cái [lều] là được rồi. Đại khái, một
cái lều Mông Cổ có thể ở được bốn
người. Bốn người là một Chúng. Tôi nói chúng ta có thể mua trước hai
mươi cái lều Mông Cổ, dựng ở đó mười
cái. Khéo ǵn giữ, lều Mông Cổ có thể sử dụng khoảng
năm năm, sử dụng năm năm chẳng có vấn
đề ǵ! Nghiêm túc niệm Phật, năm năm sẽ văng
sanh, thành tựu rồi! V́ thế, tại cuộc đất
ấy, chúng ta chỉ cần dựng một Phật
đường, cất một nhà bếp và nhà ăn, rất
thuận tiện, chẳng cần xây cất liêu pḥng, liêu pḥng
đều ở trong lều Mông Cổ. Nghe nói hiện thời
lều Mông Cổ cũng được nghiên cứu rất
khá, trong lều Mông Cổ c̣n có thiết bị vệ sinh, chuyện này rất
khó có! Thật sự có đại
phước báo! Tôi nói học viện
cũng khá lắm, học viện làm công đức chủ,
người thật sự niệm Phật đều có thể
tiếp nhận. Bất quá, việc cư trú tại Úc bị
hạn chế rất nghiêm ngặt. Thông thường, những
du khách nhập cảnh, cục Di Dân chỉ cho ở ba tháng,
hết ba tháng nhất định phải ra khỏi nước,
rất khó xin ở dài hạn tại đó. Đương
nhiên là đối với các đồng tu được cư
trú vĩnh viễn tại đó, chuyện này rất thuận
tiện. Đây là tôi tiện dịp nhắc đến với
quư vị, hoằng dương và hộ tŕ phải phối
hợp mật thiết, vô lượng công đức! Đặc
biệt là trong thời đại này.
Bồ Tát, nh́n từ bài kệ này, bài kệ
này là tổng kết, kết luận rất hay! Niệm nào
cũng đều chẳng quên chúng sanh, niệm nào cũng đều
chẳng quên nâng cao linh tánh của chính ḿnh. Mỗi ngày đều
phản tỉnh, đều kiểm điểm, đều
sửa lỗi, đều sám hối, quư vị mới chẳng
ngừng tiến cao hơn. Thành tích là ǵ? Phiền năo mỗi
ngày một nhẹ hơn, trí huệ mỗi ngày một tăng
trưởng, tự hành, hóa độ người khác. Tự
hành là hóa độ người khác, hóa độ người
khác nhất định là tự hành. Chúng là một, không
hai. Ở trong núi thẳm, chính ḿnh tu hành niệm Phật, hóa
độ người khác bằng cách nào? Rất nhiều chúng
sanh mà nhục nhăn của quư vị chẳng trông thấy, họ
trông thấy quư vị, quư vị chẳng thấy họ. Quư
vị tu hành đúng pháp, khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ, tạo tác, đều có thể tùy thuận giáo
huấn của đức Phật. Phật, Bồ Tát hộ
niệm, long thiên thiện thần ủng hộ, hết thảy
các chúng sanh thuộc những chiều không gian bất đồng
tiếp nhận giáo huấn, sự hành xử của quư vị
là khuôn mẫu cho họ. V́ thế, bản thân quư vị là cá
nhân tu hành, chẳng biết chẳng hay sẽ ảnh hưởng
rất nhiều chúng sanh, làm sao nói chẳng phải là hóa độ người khác cho được?
Đối với mỗi người chúng
ta, Nho gia nói là “thận độc”
(慎獨), tức
là ở một ḿnh vẫn phải rất thận trọng,
đều phải rất như pháp, đều chớ nên
tùy tiện! V́ sao? Có quỷ thần. Người Hoa thường
nói “cử đầu tam xích hữu
thần minh” (trên đầu ba thước có thần
minh), đừng tưởng là chẳng có ai thấy. Con người
chẳng thấy, quỷ thần trông thấy, người
xung quanh chẳng nhiều, chứ quỷ thần đông lắm.
Do vậy, khởi tâm động niệm, nhất cử nhất
động, đều giữ đúng quy củ, chẳng
trái phạm giới luật, nhất định phải biết
điều này. Giới là Phật thân, Luật là hành vi của
Phật, Thiền là Phật tâm, Giáo là ngôn ngữ của Phật.
Như vậy th́ mới thật sự là niệm niệm
tiếp nối. Cổ đức bảo: “Nhất niệm tương ứng nhất niệm
Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm
Phật”. Chính ḿnh đạt được cảm ứng,
cũng ảnh hưởng đến khá nhiều chúng sanh chung
quanh. Đấy mới là “nhất
thiết trí giác, châu cố thập phương” (hết
thảy trí giác, nh́n khắp mười phương). Trong thập
phương có ba đời, tức quá khứ, hiện tại,
vị lai. Đấy là “chúng
sanh vô biên thệ nguyện độ”. Do đó, nếu quư
vị làm được câu này, ba câu sau nhất định
phải chú tâm cẩn thận nỗ lực thực hiện,
đoạn phiền năo, học pháp môn.
Nay chúng ta học pháp môn, pháp môn chỉ có một.
Tổ sư đại đức cũng thường dạy
chúng ta điều này, “thâm nhập
một môn, huân tu lâu dài”. V́
thế, học Giáo, học Pháp, quư tinh, chẳng quư nhiều.
Kinh luận nhà Phật rất nhiều, quư vị chỉ cần
học một môn, phải tinh ṛng. Tinh ṛng th́ sẽ có thể
thông, “thông” là xuyên suốt. Một
kinh đă thông, sẽ có thể xuyên suốt hết thảy
các kinh. Cổ đại đức thường nói: “Một kinh thông, hết thảy
các kinh đều thông”. [Suy rộng ra], một pháp môn đă
thông, hết thảy các pháp môn đều thông. Phật, Bồ
Tát, tổ sư đại đức v́ dạy học cho tiện,
thường đề cao một môn; thật ra, các Ngài thứ
ǵ cũng đều thông, chẳng có ǵ không thông! Tôn giả
Ca Diếp đề cao Thiền, Ngài chẳng thông Giáo ư?
Ngài chẳng tŕ giới ư? Thứ ǵ cũng đều
thông, chẳng có môn ǵ không thông. V́ phải tiếp dẫn loại căn tánh ấy, cho nên Ngài dùng phương pháp
ấy để đề cao. Ngài A Nan đề cao Giáo, đa
văn bậc nhất, chẳng lẽ Ngài không hiểu Thiền,
không hiểu Mật? Đều thông suốt! Chẳng có ǵ
không thông suốt. Nếu quư vị không thông, sẽ là một
kẻ tàn phế. Tàn phế như thế nào? Quư vị chẳng
hoàn toàn. Tôi vừa mới nói đấy thôi, Giới là thân Phật,
tôn giả Ca Diếp chẳng tŕ giới ư? Luật là Phật
hạnh, Thiền là Phật tâm, Giáo là Phật ngôn, bốn món
đều đầy đủ; đấy là một người
tốt, người khỏe mạnh. Nếu chỉ có ba điều,
thiếu một, tàn phế rồi. Có một điều, thiếu ba điều
kia, c̣n nói ǵ được nữa, há có đạo lư ấy!
Do vậy, chư vị nhất định phải hiểu,
đă đạt được một môn,
môn nào cũng sẽ đều
đạt được.
Chúng ta sơ học th́ chọn lấy một
kinh, giới luật nhất định phải vâng giữ. V́ sao? Quư vị chẳng có giới, sẽ
chẳng thể tiêu nghiệp chướng được!
Tập khí của quư vị chẳng sửa đổi được,
tâm quư vị chẳng định nổi. Do Giới đắc
Định. Do vậy, ở trên núi niệm Phật th́
chiếu theo quy định về thời gian làm lụng và
nghỉ ngơi trên núi để làm. Đó gọi là tŕ giới.
“Chỉ ngữ” để
tu tâm thanh tịnh, đấy chính là Thiền. Hằng ngày c̣n
có mấy giờ nghe kinh, đấy là Giáo. Một câu Di Đà,
chuyên cầu Tịnh Độ, “Phật
đạo vô thượng thệ nguyện thành”.
Do vậy, bất cứ một môn nào trong Phật
pháp cũng đều là quán thông hết thảy các pháp môn.
Sợ nhất là ǵ? Sợ nhất là quư vị học quá tạp,
học quá nhiều. Đó là thứ ǵ cũng đều chẳng
thông! Thứ ǵ cũng đều chẳng
thông tức là toàn bộ đều chẳng thông, đấy là học
sai mất rồi! Một vị thầy thật sự tốt
đẹp chắc chắn sẽ chẳng dạy quư vị như vậy. Thầy
giỏi, dẫu căn cơ của quư vị tốt đẹp
cỡ nào đi nữa, vẫn đều dạy quư vị
thâm nhập một môn. Căn cơ của quư vị tốt
đẹp, sẽ ngộ rất mau, quư vị tốn rất
ít thời gian để thông đạt. Căn cơ kém hơn
một chút, cần thời gian dài. Nhưng chẳng thể
tu tập nhiều [thứ cùng một lúc], chớ nên xen tạp.
Hễ nhiều và tạp th́ sẽ loạn, thứ ǵ quư vị cũng
đều chẳng thể đạt được. Trước
kia, nói đến phương pháp này, nhiều người
tin tưởng; hiện thời, giới thiệu với người
ta phương pháp này, chẳng có ai tin tưởng!
V́ sao? Phong khí trong toàn
thể xă hội đă thay đổi, biến đổi. Người hiện thời tôn sùng
khoa học kỹ thuật; trên thực tế, khoa học kỹ
thuật cũng nhấn mạnh “thâm
nhập một môn”, nhưng
khi mới học th́ những môn học cơ sở rất
nhiều. Tuy là thâm nhập một môn, họ chẳng đoạn
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. V́
thế, nói thế nào đi nữa, vẫn là pháp thế
gian, chớ nên không biết điều này! Pháp thế gian
chẳng thể quán thông hết thảy các pháp. Họ học một
môn, môn ấy là sở trường của họ, những
môn khác th́ “khác nghề như
cách núi”! Đạo lư ở chỗ này.
Sau câu này, Thanh Lương đại sư
đă chú giải bằng một câu “nhất nhật thỉ chung kư nhĩ” (một ngày
từ đầu đến cuối đă là như thế),
chúng ta phải đặc biệt lưu ư. “Một ngày” chính là từ sáng đến tối.
Quư vị thấy một trăm bốn mươi mốt
nguyện đều nói về khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ và tạo tác trong một ngày, cũng chính là đối
với cuộc sống, công việc, hết thảy nhân sự
gặp gỡ trong suốt một ngày, quư vị đă dùng cái
tâm ǵ vậy? Từ một trăm bốn mươi mốt
nguyện, ta thấy được dụng tâm của Bồ
Tát, chúng ta có dụng tâm giống như vậy hay chăng?
Nếu chúng ta chẳng dụng tâm giống như vậy, sẽ
chẳng phải là học Hoa Nghiêm, chẳng phải là học
Đại Thừa. Học Đại Thừa, học Hoa
Nghiêm, nhất định phải dụng tâm giống như
thế.
Hiện thời, Phật pháp đă suy, chúng ta
hết sức đau ḷng. Phật pháp đă suy mà chẳng có
đại sư xuất hiện! Bất luận tông phái nào,
đều chẳng có được một vị giống
như những vị tổ sư đại đức thời
cổ. Người học Phật chẳng có gương
mẫu, chẳng có khuôn phép, chẳng biết bắt đầu
học từ nơi đâu! Thầy của tôi hiểu hết
sức rơ ràng, rất yêu thương, che chở bọn học
tṛ chúng tôi, đặc biệt giới thiệu một tấm
gương, tức Ấn Quang đại sư, Ngài sống
gần thời chúng ta. Nhưng Ngài cũng đă văng sanh, chẳng
c̣n tại thế, thân cận Ngài bằng cách nào? Ấn
Quang Đại Sư Văn Sao vẫn c̣n trên đời, quư
vị hăy thường xuyên đọc, y giáo phụng hành, quư
vị sẽ là học tṛ của tổ Ấn Quang. Nhất
tâm chuyên tu Tịnh Tông, tuyệt đối chẳng sai lầm.
Nương tựa vào một người thật sự
đáng nương tựa. Nay chúng ta học kinh Hoa Nghiêm, chúng
ta nương cậy ai? Nay chúng ta học Hoa Nghiêm cậy vào
[tác phẩm chú giải của] hai vị, tức là Sớ
Sao của Thanh Lương đại sư và bộ Hợp
Luận của Lư trưởng giả. Chúng ta chọn khóa bổn
(sách giáo khoa để học tập) là Sớ Luận Toản
Yếu. Bộ Toản Yếu do thiền sư Đạo
Bái, tức phương trượng chùa Dũng Tuyền ở Cổ
Sơn, Phước Châu, biên tập trong niên hiệu Càn Long.
Đây là một vị hết sức khó có, cũng là một
vị đại đức rất lỗi lạc. Ngài đă
gộp chung Sớ Sao và Hợp Luận, chúng tôi chọn bản
này [để giảng giải]. Những phần rườm
rà Ngài đều lược bớt, thuận tiện cho kẻ
sơ học.
Học tập th́ quan trọng nhất là như
cổ đại đức đă nói, “tùy văn nhập quán” (隨文入觀, thuận
theo kinh văn mà quán tưởng), chúng ta mới thật sự
có thọ dụng, tức là nếu nhập cảnh giới của Ngài,
sẽ thật được thọ dụng thật sự.
Chẳng nhập cảnh giới của Ngài, phải nỗ
lực. Chẳng nhập cảnh giới của Ngài th́ hiện
thời quư vị nghe giảng, đọc tụng, hoặc
học tập, chỉ kết pháp duyên với Hoa Nghiêm mà thôi.
V́ sao? Quư vị chẳng được thọ dụng
trong hiện tiền. Nếu đă được
thọ dụng, xác thực là tư tưởng biến đổi, kiến giải biến đổi, cuộc sống
biến đổi, thái độ
xử sự, đăi người, tiếp vật của
chúng ta thảy đều biến đổi, đấy là
được thọ dụng! Đấy là ǵ? Đấy
gọi là “biến hóa khí chất”,
sau khi đă học, sẽ thật sự nẩy sanh biến
hóa.
Từ chỗ này, quư vị bèn liễu giải,
phẩm kinh Tịnh Hạnh này chú trọng nơi hạnh,
tức hạnh thanh tịnh. Nếu quư vị có thể thực
hiện trọn hết một trăm bốn mươi mốt
nguyện này, thảy đều làm được, quư vị
sẽ giống như một vị Bồ Tát. Nay quư vị
học theo Ngài, nhưng khi học, quư vị vẫn chẳng
làm được, làm chẳng giống, do nguyên nhân nào vậy?
Quư vị chẳng có nền tảng giới luật, quư vị
bèn biết tầm trọng yếu [của giới luật].
Đối với mức độ thấp nhất th́ Bồ
Tát Giới, Sa Di Luật Nghi, Tỳ Kheo Giới, tôi không nói
tới, [tôi chỉ nói] Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện
Nghiệp Đạo, lại c̣n thêm Đệ Tử Quy của
Nho gia, Cảm Ứng Thiên, hoặc là Văn Xương Đế Quân Âm
Chất Văn của Đạo gia. Quư vị đă có cơ
sở này, lại học một trăm bốn mươi
mốt nguyện, sẽ có đôi chút tương tự. Mỗi
nguyện đều có thể thực hiện, sẽ thật
sự giống như một vị Bồ Tát. Quả thật
là như thế, quư vị trên là cảm ứng đạo
giao cùng chư Phật, Bồ Tát, dưới th́ cũng khởi
tác dụng cảm ứng đạo giao cùng hết thảy
trời, người, thiện thần.
Tôi vừa mới nói, tự hành chính là hóa độ
kẻ khác. Hóa độ kẻ khác thật sự cậy vào
tự hành. Kinh chẳng phải là để giảng suông,
nó chẳng phải là huyền học. Kinh Hoa Nghiêm đặc
biệt đề cao Phổ Hiền là trưởng tử,
coi ngài Văn Thù là thứ nam, tức lăo nhị. Văn Thù
biểu thị trí huệ, Phổ Hiền biểu thị Hạnh,
ta biết điều quan trọng nhất trong bộ kinh này
là phải thực hiện nơi Hạnh, Giải đứng
hàng thứ hai. Đương nhiên là Giải và Hạnh quyết
định tương ứng; quư vị chẳng giải,
làm sao có thể hành cho được? Nhưng có rất nhiều
kẻ đă giải, nhưng chẳng hành được.
Do vậy, đặc biệt nhấn mạnh “đă giải
rồi th́ phải hành!” Giải một phần, hành một
phần. Giải hai phần bèn hành hai phần. Quư vị đọc
kinh sách hằng ngày, [sẽ cảm nhận] mỗi lần
mỗi khác, như vậy th́ mới có pháp hỷ sung măn! Mỗi
lần mỗi khác, có nghĩa là quư vị mỗi ngày đều
dấy lên sự biến hóa, nói theo cách b́nh phàm hiện thời
th́ là mỗi ngày quư vị đều có tiến bộ, lẽ
đâu chẳng hoan hỷ cho được? Mỗi ngày đều
có ngộ xứ, giống như mỗi ngày đều có thâu
hoạch, phát hiện những thứ mới mẻ. Sau đấy,
quư vị mới thật sự thấu hiểu, thật sự
khởi tâm cung kính vô thượng đối với Phật,
đối với Pháp. V́ sao? Mới liễu giải nguyên
lai từng câu từng chữ đúng là chứa đựng
vô lượng nghĩa! Mỗi ngày thấy nhiều hơn
một chút, mỗi năm nhiều hơn; do đó, tâm hoan hỷ
chẳng thoái chuyển, vĩnh viễn tăng cao hơn!
Nói theo kiểu thông thường hiện thời,
tâm hoan hỷ chính là bí quyết bậc nhất để dưỡng
thân. Cổ nhân thường nói, “nhân
phùng hỷ sự tinh thần sảng” (người gặp
chuyện vui tinh thần sảng khoái). Quư vị hoan hỷ,
tinh thần tốt đẹp, rất sung sướng, thân
tâm khỏe mạnh. Dẫu là một thân thể, quư vị
chẳng biết, chẳng chiếu theo một nguyên tắc
lành mạnh để bảo dưỡng, nhưng tâm quư vị
lành mạnh th́ cũng được. Đấy là điều
khó có nhất. Thường sanh tâm hoan hỷ, chẳng có tham,
sân, si. Tham, sân, si được gọi là Tam Độc phiền
năo. Tham, sân, si, mạn, nghi, quư vị thảy đều đoạn
trừ, chẳng tham luyến thuận cảnh, thiện
duyên, chẳng sân khuể v́ nghịch cảnh, ác duyên, pháp thế
gian và xuất thế gian đều hiểu rơ ràng, phân minh. Trong phần trước đă nói “nhất thiết trí giác”, [tức là] chẳng ngu si,
chẳng hoài nghi, chẳng kiêu căng, ngă mạn, quư vị tự
tại lắm, lẽ nào thân tâm của quư vị chẳng
khỏe mạnh? Chỉ trong giáo pháp Đại Thừa mới
có điều này. Chẳng đạt đến cảnh giới
này, phải chú ư giữ ǵn thân tâm lành mạnh, đến lúc đó là đă vượt trỗi,
hoàn toàn khác hẳn. A! Ngày mai có thể viên măn phẩm này, phần
sau c̣n có một ít văn Trường Hàng. Hôm nay chúng tôi giảng
đến chỗ này!
Tập
1576
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Xin hăy xem phẩm Tịnh Hạnh
thứ mười một, xem đoạn lớn cuối cùng
của cả phẩm, đoạn thứ ba này [được
phán định là] Kết Thán Nhân Sở Thành Ích (結歎因所成益, tổng kết tán thán những điều lợi
ích được tạo thành bởi cái nhân). Đấy là đề mục của khoa này. Chúng
ta đọc kinh văn một lượt.
(Kinh) Phật Tử! Nhược chư Bồ Tát
như thị dụng tâm, tắc hoạch nhất thiết
thắng diệu công đức, nhất thiết thế
gian chư thiên, ma, Phạm, sa-môn, Bà-la-môn, Càn-thát-bà, A-tu-la đẳng, cập dĩ nhất
thiết Thanh Văn, Duyên Giác, sở bất năng động.
(經)佛子。若諸菩薩如是用心。則獲一切勝妙功德。一切世間諸天魔梵沙門婆羅門乾闥婆阿修羅等。及以一切聲聞緣覺。所不能動。
(Kinh: Này Phật Tử! Nếu các vị Bồ Tát
dụng tâm như thế, sẽ đạt được
hết thảy công đức thù thắng, nhiệm mầu,
hết thảy chư thiên, ma, Phạm, sa-môn, Bà-la-môn,
Càn-thát-bà, A-tu-la v.v… cùng với hết thảy Thanh Văn, Duyên
Giác đều chẳng thể lay động).
Trong phần tổng kết, chúng ta học tập
phải đặc biệt chú trọng câu đầu tiên “như thị dụng tâm” (dụng
tâm như thế). Bồ Tát được nói đến ở
đây không phải là hạng Bồ Tát b́nh phàm, mà là Bồ
Tát ǵ vậy? Phật, Bồ Tát trong hội Hoa Nghiêm. Tiêu chuẩn
của Phật, Bồ Tát trong hội Hoa Nghiêm ở ngay trong
phẩm kinh này, các đồng học học Phật chúng
ta ắt phải ghi nhớ, phải dụng tâm giống như
các vị Bồ Tát. Bản thân chúng ta phải nghiêm túc khéo phản
tỉnh, trong cuộc sống hằng ngày, công việc, xử
sự, đăi người, tiếp vật, có thật
sự thực hiện Bồ Tát hạnh hay không? Vào những
năm đầu thời Dân Quốc, Thái Hư đại
sư, tôi nghĩ khá nhiều người đă được
nghe đức hiệu của lăo nhân gia, pháp sư Ấn
Thuận ở Đài Loan là học tṛ của Ngài. Pháp sư
Ấn Thuận cũng đă văng sanh, [ngài Ấn Thuận] mất vào lúc một trăm tuổi, hết sức khó có. Thuở
tại thế, vào lúc tuổi già, Thái Hư đại
sư đặc biệt đề xướng Bồ Tát Học
Xứ. Ở Đài Loan, khi hai mươi mấy tuổi, tôi
vừa mới tiếp xúc Phật pháp, nghe danh từ Bồ Tát Học Xứ như vậy bèn rất hoan hỷ, nhưng rốt
cuộc Bồ Tát Học Xứ là ǵ? Đến khi đọc
kinh Hoa Nghiêm, giảng kinh Hoa
Nghiêm, mới biết nội dung của Bồ
Tát Học Xứ.
Bồ Tát Học Xứ là học ǵ vậy? Có thể nói cốt
lơi của nó chính là một trăm bốn
mươi mốt nguyện trong phẩm Tịnh Hạnh. Có
thể nói một trăm bốn mươi mốt nguyện
ấy chính là một câu nói trong kinh Lăng Nghiêm, đức Thế Tôn đă bảo: “Nhược năng
chuyển vật, tắc đồng Như Lai” (Nếu có
thể chuyển vật, sẽ giống như Như Lai).
Quư vị thấy các vị Bồ Tát trong hội Hoa Nghiêm, sáu
căn của các Ngài tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, dẫu vi tế
cách mấy đi nữa (nay trong giới học thuật nói
là “vĩ mô, vi mô”. Vĩ mô (macroscopic
scale) là lớn vô hạn, c̣n vi mô (microscopic scale) là nhỏ vô
hạn), lục căn của
Bồ Tát tiếp xúc [những cảnh giới ấy], không
có ǵ chẳng trở về Tánh Đức. Trở về bằng cách nào? Phẩm kinh này là sách giáo khoa tốt nhất, [do học kinh này], chúng ta mới
hiểu: Thảy đều trở về Tánh Đức. Thật sự có thể làm được, xác thực
là bậc thầy khuôn mẫu cho trời người. Đức
hạnh của quư vị không chỉ là kiểu mẫu, gương
mẫu tốt nhất cho người thế gian trong nhân gian, mà c̣n là tấm gương tốt đẹp cho chư
thiên, thánh chúng.
Hôm nay, chúng ta tổng kết: “Bồ Tát như thị dụng
tâm” (Bồ Tát dụng tâm như thế), nêu rơ tu nhân nhất
định có quả báo, “tắc
hoạch nhất thiết thắng diệu công đức”
(sẽ đạt được hết thảy công đức
thù thắng, nhiệm mầu). Đấy là quả báo. “Thắng” (勝) là thù thắng, “diệu”
(妙) là vi diệu.
“Nhất thiết” (一切) là đông nhiều. V́ sao? Niệm nào cũng đều
trở về tự tánh, niệm nào Tánh Đức cũng đều lưu lộ. Đấy
là Pháp Thân Bồ Tát. Chúng ta biết Pháp Thân Bồ Tát là Phần
Chứng Tức Phật; do đó, phía sau nói “nhất thiết thế gian chư thiên” (hết
thảy chư thiên trong thế gian), cho đến “Thanh Văn, Duyên Giác”, “sở bất năng động”
(chẳng thể lay động). “Bất năng động”: Quư vị thấy Định
Huệ của bậc Bồ Tát trong hội Hoa Nghiêm chắc
chắn chẳng bị ảnh hưởng bởi hết
thảy thế gian, chư thiên, cho đến Thanh Văn, Duyên
Giác. Bất luận thuận cảnh hay nghịch cảnh,
thiện duyên hay ác duyên, hễ tiếp xúc, sẽ đều
quy vào Tánh Đức, Tánh Đức tự nhiên lưu lộ.
Hai câu sau trong mỗi nguyện đều là [Tánh Đức
lưu lộ]. “Thắng diệu
công đức”: Trong phẩm Tịnh Hạnh chỉ nói
một câu, nói tổng quát mơ hồ một câu. Hết thảy
công đức thắng diệu là ǵ? Phẩm kinh kế tiếp
là phẩm Hiền Thủ, phẩm Hiền Thủ chỉ chuyên
nói về công đức thắng diệu. Nói cách khác, phẩm
Tịnh Hạnh là tu nhân, phẩm Hiền Thủ là quả
báo. Quư vị tu cái nhân làm sao không có quả báo cho được?
Sợ nhất là bản thân chúng ta do mê hoặc
mà đi sai đường! Trong Phật môn, đọc tụng
Hoa Nghiêm, học tập Hoa Nghiêm mà quư vị đi vào tà đạo,
điều này đáng sợ nhất! Thời Thích Ca Mâu Ni
Phật đă có t́nh h́nh này, lại c̣n rất nhiều, đến
thời đại Mạt Pháp chẳng cần phải nói nữa.
Kẻ khác đi theo đường tà, chẳng ăn nhằm
ǵ đến ta, sợ nhất là chính ḿnh đi theo đường
tà mà bản thân không biết, đấy mới là thật đáng
thương! Tự ḿnh cứ ngỡ học Phật rất
đúng pháp, đến cuối cùng, đọa lạc trong ma
đạo, đọa lạc trong tà đạo, thậm chí
đọa lạc trong tam đồ, quư vị cũng chẳng thể trách Phật không chiếu cố quư vị. “Trong cửa nhà Phật, chẳng bỏ một ai”.
Phật chiếu cố quư vị, chính quư vị chẳng tiếp
nhận, chính quư vị bài xích, [vậy là] chẳng có cách nào
hết! Đức Phật dạy chúng ta học tập, phải
tuần tự tiến dần dần, chẳng thể vượt
cấp. Nếu chính ḿnh chẳng chứng đắc, tự
ngỡ là ḿnh đă chứng đắc, c̣n khoe khoang trước
mặt kẻ khác, Phật pháp gọi điều này là Tăng
Thượng Mạn, quả báo ở trong tam đồ. Người
sáng mắt thấy rất rơ ràng, chính ḿnh hoàn toàn chẳng
biết, cứ tự cho là đúng! Đấy là do nguyên
nhân nào? Học tập nhảy cấp, ưa cao chuộng
xa! Trong phẩm kinh kế tiếp, có một đoạn
kinh văn nói rất cặn kẽ [chuyện này].
Do vậy có thể biết, nói chung, đức
Phật dạy kẻ sơ học điều đầu
tiên là phải tŕ giới, điều thứ hai là phải
tu phước. Nếu sơ sót giới luật, “ta chẳng
cần tŕ giới, ta tu Định ngay, ta học Giáo ngay”, có thể
thành tựu hay không? Từ xưa tới nay, chẳng t́m thấy
một ai! Quư vị cứ t́m đi, t́m trong lịch
sử xưa nay, trong ngoài nước, quư vị chẳng t́m
thấy một người! Giới đối với sự
tu học của chúng ta, bất luận quư vị học Giáo,
học Thiền, học Mật, hay học Tịnh Độ,
giới luật là môn học chung, là môn học cơ sở.
Bỏ Giới, sẽ chẳng có Phật. Cổ đại đức
nói rất hay, “giới là Phật
thân”. Quư vị chẳng có giới, tức là chẳng có
thân, lấy ǵ để tu? Luật là Phật hạnh. Chẳng
có luật, sẽ chẳng phải là hành vi của Phật.
Luật là ǵ? Luật nghi. Chúng ta nói tới giới luật
và oai nghi. Người thế gian thường nói “oai nghi” là phong độ, hoặc
phong thái. Oai nghi từ đâu ra? Do tŕ giới mà có! Chỉ có
tŕ giới, tâm mới thanh tịnh. Học giới phải theo cách nào? Nhất định là học từ Thập
Thiện Nghiệp Đạo. Thập Thiện Nghiệp Đạo
là cơ sở của giới luật. Trước hết,
hăy tu Thập Thiện, sau đấy mới thọ Tam
Quy, Ngũ Giới.
Hiện thời, Phật môn suy vi, chẳng
thể trách móc người khác. Cổ thánh tiên hiền đă
nói thật hay: “Hành hữu bất
đắc, phản cầu chư kỷ” (Có điều
ǵ chẳng làm được, hăy xét lại ḿnh). Khi chúng ta
làm [chuyện ǵ đó]
không suông sẻ, nhất định
phải phản tỉnh kỹ càng, hăy tự ḿnh suy nghĩ, không
suông sẻ rốt cuộc là do sai sót ở nơi đâu, quư vị sẽ t́m được.
Nẩy sanh [sai sót] ở chỗ nào? Nẩy sanh từ chỗ
chúng ta đă sơ sót nơi giáo dục cơ sở, đă
sơ sót Thập Thiện Nghiệp Đạo, chẳng thực
hiện từ chỗ này. Mười điều ấy (Thập
Thiện) chẳng phải là giới luật, mà là thiện
hạnh. Nói cách khác, đó là luân lư đạo đức cơ
bản để làm người, quư vị mới được
coi là người. Quư vị có thể làm thân người,
trong kinh, đức Phật đă nói rất rơ ràng, trong quá
khứ đă tu Trung Phẩm Thập Thiện. Đấy là
Dẫn Nghiệp, dẫn dắt quư vị được làm
thân người trong đời này. Tuy được làm thân
người, vận mạng mỗi người khác nhau,
nghèo hèn, giàu sang, cát, hung, họa, phước, đó là Măn
Nghiệp, do trong đời quá khứ đă tạo tác nghiệp
thiện hoặc bất thiện cảm vời. Người
sống trong thế gian này, hiện thời rất nhiều
người không hiểu chân tướng sự thật này,
lại c̣n cho rằng những điều Phật, Đạo,
hoặc cổ thánh tiên hiền đă nói đều là mê tín, đều
là truyền thuyết, chẳng qua nổi khảo nghiệm
khoa học.
Khoa học dạy chúng ta những ǵ? Khoa học
dạy chúng ta phải cạnh tranh, muốn chúng ta chuyện
ǵ cũng giành hạng nhất. Mỗi cá nhân đều
tranh đấu đến nỗi toác đầu tuôn máu, đến
cuối cùng vẫn chẳng đạt được ǵ, rỗng
tuếch tuềnh toang! Sanh không đem tới, chết chẳng
mang theo. Họ bảo chúng ta có quan niệm tiêu cực. Đấy
là sai lầm, coi chân tướng sự thật là mê tín, là
tiêu cực. Cái tích cực [trong quan niệm của họ,
thật ra] đă tạo thành một thân đầy tội
nghiệp. Bất luận quư vị tin hay không, quư vị đều
có đời sau, sẽ phải hứng chịu quả
báo, tội ǵ phải vậy! Được làm thân người,
nghe Phật pháp, quá may mắn! Xă hội Trung Hoa từ xưa tới nay,
tối thiểu có năm ngàn năm lịch sử được
ghi chép! Lănh thổ rộng lớn dường ấy, dân chúng phức tạp như thế, chung sống
với nhau mà có thể tôn trọng lẫn nhau, nhường
nhịn lễ độ với nhau, yêu kính lẫn nhau, hỗ
trợ hợp tác, duy tŕ xă hội an định, ḥa b́nh, dựa
vào ǵ vậy? Giáo huấn của thánh hiền. Từ bé đă
tiếp nhận giáo học luân lư đạo đức, suốt
năm ngàn năm chẳng gián đoạn. Hiện thời đă đứt
đoạn, tôi thường nói, gián đoạn lần này
thời gian khá dài, tối thiểu là tám mươi năm,
cho nên chúng ta chịu đau khổ nhiều ngần ấy,
phải nên phản tỉnh.
Phương Tây th́ văn minh khoa học kỹ thuật
phát triển, đến giữa thế kỷ hai mươi, [bắt đầu thấy có] trục trặc, người phương Tây bắt đầu phản tỉnh. V́ họ thấy rất
rơ ràng, cứ tiếp tục giống như vậy, phát triển
theo khoa học kỹ thuật, công thương nghiệp cạnh
tranh không có giới hạn, tương lai sẽ là ǵ? Tương
lai sẽ là tận thế. Khá nhiều tôn giáo ngoại quốc
nói tận thế vào năm nào? Vào năm 2000 Tây Lịch. Năm
2000 đă qua, năm 2100 chưa đến, năm nay mới
là năm 2006. Tôi nghe có những người nói sợ rằng
năm 2100 sẽ rất khó vượt qua… Trước
kia, người Hoa đă bói toán, chẳng phải là bói vận
mạng cá nhân, chẳng phải là bói vận mạng của
quốc gia, mà bói vận mạng cho cả thế giới.
Thế giới có định số, nhưng chúng ta biết
nó cũng có biến số. Nếu toàn bộ giáo dục luân lư,
đạo đức, nhân quả, trí huệ của tổ
tiên chẳng thể phục hưng trong lúc này, phổ
cập cả thế giới, định số ấy sẽ rất
có thể xảy ra. Nếu giáo dục của cổ thánh tiên
hiền thật sự có thể hưng vượng trong lúc
này, phổ cập toàn thế giới, định số ấy
lại có biến số, biến số ấy sẽ rất
lớn.
Quư vị thấy thầy tướng số
đoán vận mạng lưu niên cho ông Viên Liễu Phàm, thọ
mạng của ông Viên chỉ có năm mươi ba tuổi. Thiền
sư Vân Cốc chẳng dạy ông Viên điều
chi khác. Tiên sinh Viên Liễu Phàm đă học luân lư, đạo
đức, nhân quả, trí huệ, đều đă học,
nhưng học chẳng đủ, chẳng chuyển nổi
định nghiệp. Thiền sư Vân Cốc dạy ông
Viên tăng cường, không ngừng tăng cường,
tăng cường không có hạn định. Kết quả
là định số của ông Viên biến đổi. Ông ta
là một người đọc sách, tham gia khảo thí, thứ
tự đỗ đạt tăng cao dần. Khổng tiên
sinh đoán ông Viên đỗ hạng ba, ông Viên đậu hạng
nhất, mỗi năm thâu nhập gia tăng, bổng lộc
gia tăng. Nay chúng ta làm Liễu Phàm Tứ Huấn thành hai đĩa
DVD, được lắm! Cả gia đ́nh quư vị có thể
cùng xem, đó là lên lớp, học tập. Hai đĩa
DVD ấy là sách giáo khoa, quư vị mỗi ngày xem một lượt.
Nếu có thể kiên nhẫn tiếp tục xem chẳng ngừng
suốt một năm, mỗi ngày xem một lần, suốt năm không gián đoạn, tôi tin là quư vị nhất định sẽ có thể
biến đổi vận mạng của chính ḿnh, chỉ
cần quư vị thật sự làm. C̣n có một phương
pháp hữu hiệu hơn, nỗ lực biến đổi
chính ḿnh hơn, có hiệu quả tốt hơn so với
[phương cách của] tiên sinh Liễu Phàm [là cách thức
được nói trong] Du Tịnh Ư Công Ngộ Táo Thần Kư.
Tác phẩm này cũng được làm thành đĩa DVD,
dùng phương pháp phim truyền h́nh để lên lớp, phương
pháp này cực tốt! Nếu quư vị thật sự học
cẩn thận hai thứ ấy trong suốt một năm,
vận mạng của quư vị sẽ hoàn toàn thay đổi.
Đấy là ǵ? Chính là giáo dục nhân quả!
Hiện thời, nếu chúng ta đề
xướng luân lư đạo đức, chẳng có ai tin tưởng,
mà cũng chẳng có người nào chịu
học! Thực hiện từ nhân quả, sau đấy mới
trở lại luân lư và đạo đức; làm theo kiểu
ấy sẽ suông sẻ. Khi quư vị đă thật sự tin
vào nhân quả báo ứng, quư vị sẽ chẳng dám không
tŕ giới. Điều thứ nhất trong giới điều
là “chẳng sát sanh”, các tài liệu giảng dạy hiện
thời đều đă có. Quư vị có một đĩa
DVD “V́ sao chẳng thể ăn
chúng nó”, đấy chính là điều thứ nhất
trong Thập Thiện, và là điều thứ nhất trong
Ngũ Giới, tức chẳng sát sanh. V́ sao chẳng thể
sát sanh? V́ sao chẳng thể ăn thịt? Quư vị học
“khóa học ấy” sẽ hiểu. Điều khó nhất
trong Ngũ Giới và Thập Thiện chính là điều đầu
tiên. Đă giác ngộ, đă hiểu rơ điều đầu
tiên, những điều sau đó sẽ dễ dàng. Chẳng
trộm cắp, chẳng tà dâm, chẳng nói dối, chẳng
uống rượu, sẽ đều làm được dễ
dàng. Khó là khó nơi điều đầu tiên! Chẳng làm được
điều đầu tiên, những điều sau đấy sẽ đều
chẳng có; dẫu có, cũng chẳng đáng tin cậy! Gặp
phải loại duyên nào đó hiện tiền, sẽ quên bẵng
sạch sành sanh giữ giới, tu điều thiện! Tập khí phiền năo hiện hành, vẫn tạo tội
nghiệp y như cũ, chớ nên không biết!
Do vậy, nếu quư vị hỏi tôi, chúng
ta nên học từ nơi đâu? Tôi có thể giới thiệu
với quư vị, hiện thời, ba thứ ấy, tức
là một bộ Liễu Phàm Tứ Huấn, Du Tịnh Ư Công
Ngộ Táo Thần Kư, và Sơn Tây Tiểu Viện, quư vị có thể hướng
dẫn toàn thể gia đ́nh của chính ḿnh cùng xem và học
tập th́ mới chuyển nghiệp được! Một
ḿnh quư vị chuyển biến, người nhà chẳng hợp
tác, chẳng phối hợp với quư vị. Khó lắm! Cá
nhân quư vị có nghiệp, người một nhà cùng có cộng
nghiệp. Tôi tin là quư vị hy vọng người một
nhà đều hạnh phúc, người một nhà đều
mỹ măn, quư vị chẳng học môn này th́ làm bằng cách nào đây? Hiện thời có tài liệu dạy bảo tốt
đẹp dường ấy bày ra ở nơi đây, nếu
quư vị chẳng học kỹ càng, đúng là đáng
tiếc quá! Trong tài liệu học
tập nội bộ của chúng ta c̣n có một
số tài liệu cảm ứng, đều là những quả
báo chứng thực ngàn vạn phần xác đáng!
V́ thế, trong hết thảy các kinh, đức
Phật đă rát miệng buốt ḷng khuyên dạy chúng ta tŕ
giới, tu phước. Người học Phật nhất
định phải hiểu v́ sao Phật pháp hiện thời
suy vi, v́ sao suy vi? Quư vị chẳng cần hỏi ai khác, hăy
hỏi chính ḿnh, ta có làm đúng pháp hay là không? Ta làm chẳng
đúng pháp, Phật giáo làm sao có thể hưng thịnh cho
nổi? Bản thân chúng ta đối với khởi tâm
động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, hằng ngày phải
phản tỉnh, [những thứ ấy] có tương ứng
với tập khí phiền năo của chính ḿnh hay không, hay là tương
ứng với giáo huấn của Phật, Bồ Tát? Hằng
ngày phản tỉnh, kiểm điểm; nếu quư vị ghi
chép lại th́ gọi là Công Quá Cách (功過格). Cầu học th́ dẫu tuổi tác lớn cỡ
nào, đă tám mươi tuổi đi nữa, từ thuở
bé chẳng học đàng hoàng, hiện thời vẫn học
bổ sung. Học bắt đầu từ chỗ nào? Vẫn
là học bắt đầu từ Đệ Tử Quy. Ba trăm
sáu mươi câu trong Đệ Tử Quy, đối với
mỗi câu, mỗi điều đều phản tỉnh,
[chính ḿnh] có làm được hay chưa? Đă làm được
th́ ngay mai đừng quên bẵng, phải tiếp tục làm. Chẳng
làm được th́ phải sám hối, ngày mai sẽ cấp
tốc làm theo, thực hiện từ chỗ này. Tốn thời
gian bao lâu? Ba tháng! Hạn định kỳ hạn để
cầu chứng. Nói cách khác, trong khoảng thời gian một
trăm ngày, nhất định phải thực hiện nó.
Nếu quư vị kéo dài thời gian lâu hơn, sẽ chẳng thể đạt thành tựu! Một khóa tŕnh có kỳ hạn của nó, hăy học tốt khóa tŕnh này, một ngày cũng chớ
nên bỏ lỡ!
Khi học đến phẩm sau trong bộ kinh này, chúng tôi sẽ
nói, Hoa Nghiêm dạy “hàng bố
chẳng trở ngại viên dung, viên dung chẳng trở ngại
hàng bố”, bất cứ một pháp nào chắc chắn
sẽ xuyên suốt cả năm mươi hai địa
vị. Do vậy, “một chính là hết thảy, hết thảy chính là
một”.
Nay chúng ta khởi đầu học từ Đệ Tử
Quy, chẳng thể nói sau
khi đă học ba tháng, ta lại
học cái khác, ta đă học môn này rồi, có thể chẳng cần đến nữa! [Nếu hiểu như thế], quư vị
sai mất rồi! Quư vị học Đệ Tử Quy, suốt
cả đời ǵn giữ, vĩnh viễn thực hiện.
Thực hiện trong ba tháng [rồi sau đó] sẽ
thực hiện suốt đời, nhưng phải nâng cao
hơn, đến tam cá nguyệt thứ
hai, ta sẽ thực hành Du Tịnh Ư Công
Ngộ Táo Thần Kư. Tôi lập thời khóa biểu học
tập cho các đồng học, tam cá nguyệt thứ ba bèn hoàn thành Thái Thượng
Cảm Ứng Thiên, tam cá nguyệt thứ tư hoàn thành
kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo. Trong thời gian một năm, vun quén cơ sở
vững vàng, sau đấy học tập ba nhà Nho, Thích, Đạo,
tùy tiện đối với bất cứ nhà nào, quư vị
đều trọn đủ điều kiện. Chúng tôi
thường nói là “quư vị có
đủ tư cách để học tập”. Tùy thuộc
quư vị hứng thú ở chỗ nào, ưa thích như thế
nào, bèn chọn lấy một môn. Cổ đại đức
dạy chúng ta, mà Phật, Bồ Tát cũng dạy giống
hệt như vậy, “thâm nhập
một môn, huân tu lâu dài”.
Cổ đại đức dạy chúng ta,
học th́ quư chuyên ṛng, chẳng chuộng nhiều. V́ sao?
Sau khi đă chuyên ṛng, sẽ có thể xuyên suốt hết
thảy các pháp. Người ấy có thể quán thông, chúng
ta thường nói là “xúc loại
bàng thông” (觸類旁通, hễ tiếp xúc một phương diện bèn thông hiểu
toàn thể sự vật). Đấy
là ǵ? Tâm quư vị thanh tịnh, trí huệ đă mở mang,
những thứ chưa từng học hễ tiếp xúc đều
thông suốt. Thậm chí có thể nói là quư vị c̣n cao minh
hơn người đă học [thứ ấy] lâu năm!
Do nguyên nhân nào? Người đă học nhiều năm, nhưng
học chẳng thông, chẳng trừ tập khí phiền năo.
Cũng có nghĩa là cơ sở trong năm thứ nhất
là trừ tập khí phiền năo, tức là “sái tâm dịch hạnh” (洒心易行, gột ḷng đổi hạnh) như kinh Vô Lượng Thọ
đă nói. Phải khéo dùng thời gian một năm để
học cẩn thận môn học này, ḥng gột sạch tinh
tươm cái tâm ô nhiễm, cái tâm bẩn thỉu, cái tâm tập
khí trần lụy bất thiện từ vô thỉ. Dùng ǵ để
gột rửa? Đệ Tử Quy, Liễu Phàm Tứ Huấn,
Du Tịnh Ư Công Ngộ Táo Thần Kư, Cảm Ứng Thiên,
kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, dùng những thứ
ấy để gột rửa, gột sạch tinh tươm
cái tâm của chính ḿnh. Quư vị nói hiện thời bản
thân quư vị tŕ giới vừa có định lực lại vừa có trí huệ, nhưng nói thật thà, người
khác ở bên cạnh thấy rất rơ ràng: Quư vị khởi
tâm động niệm, ngôn hạnh, cử chỉ đều bất thiện, biểu hiện thành ǵ? Ích
kỷ, kiêu căng, ngă mạn. Quư vị tương ứng
với Thập Ác, chẳng tương ứng với Thập
Thiện, nhưng chính quư vị chẳng biết. Tự ḿnh
chẳng biết th́ là ngu si. Tự ḿnh đă biết mà chẳng
thể sửa đổi; đấy là nghiệp chướng
quá nặng, chẳng quay đầu được!
Chính ḿnh chẳng có phước, chính ḿnh học
tập có chướng ngại, giúp đỡ người khác
vẫn có chướng ngại, hóa độ người khác
vẫn có chướng ngại. V́ thế, quư vị hăy thật
sự dùng một năm để học kỹ bốn môn học ấy, phước báo của quư vị sẽ hiện
tiền, nghiệp chướng tiêu trừ. Phước báo
hiện tiền, nói cách khác, tướng mạo của quư
vị biến đổi, tướng chuyển theo tâm, thể
chất biến đổi. Không chỉ là khỏe mạnh,
mà nét mặt c̣n rạng rỡ. Khuôn mặt quư vị sáng ngời,
đó là thanh tịnh quang, là b́nh đẳng quang, là từ
bi quang, là trí huệ quang, làm sao giống hệt như cũ
cho được? Người khác vừa trông thấy quư
vị sẽ tôn kính, bội phục quư vị, bị quư vị
cảm hóa, thân giáo đấy nhé! Chẳng phải là làm ra vẻ,
có làm ra vẻ th́ cũng vô dụng! Làm thành ǵ vậy? Làm giống hệt, nhưng chẳng thể có quang minh, chẳng thể phóng quang. Chẳng thể phóng quang th́ “luồng sóng” của quư vị chẳng
thể cảm động kẻ khác! [Có thể phóng quang th́] luồng sóng ấy
sẽ tự nhiên cảm động những
người chung quanh quư vị.
Không chỉ là nhân sự có thể cảm động
sự dao động của quư vị, mà cây cối, hoa, cỏ,
[kể cả] hoàn cảnh cư trụ của chúng ta, người
hiện thời nói là “từ
trường”. Quư vị ngồi
ở nơi ấy sẽ biến đổi từ trường
nơi đó, có thể khiến cho người
khác ở nơi ấy sẽ cảm thấy hết sức
thoải mái, hết sức vui sướng, xa ĺa kinh sợ,
điên đảo, vọng tưởng. Đấy chính là công
đức thắng diệu! Quư vị hăy dùng thời gian một
năm để thử xem, hăy vun quén căn cội. Nhất
định phải khiêm tốn, chớ nghĩ “nay ta đă
có tuổi, mà cũng có thân phận, địa vị, ta c̣n
học những thứ này hay sao? Đó là những thứ dành
cho trẻ nhỏ học!” Phải học! Nếu quư vị chẳng
chịu học, trong tương lai quư vị sẽ hối
hận đời đời kiếp kiếp! Hiện thời,
chịu dùng thời gian một năm để đổ
công dốc sức vào đấy, đổ công siêng gắng,
quư vị sẽ đạt được quả báo tốt
lành. Đă có cơ sở này, trong cơ sở này có giới,
có phước, lại c̣n có huệ.
Khởi tâm động niệm có thể nêu
gương tốt cho đại chúng trong xă hội, đừng
nên nêu gương xấu. Cái tâm ấy chính là căn cội
để tu phước, vô lượng vô biên phước
đức trong tương lai đều phát sanh từ căn
cội ấy. Nếu chúng ta có thể kích phát, th́ [những
người bị] kích phát sẽ phát lên cái tâm ấy. V́
sao? Trong xă hội hiện thời, đại đa số
mọi người đều chẳng phải là nêu gương tốt, cho nên xă hội động loạn, tai nạn trên thế
giới nhiều ngần ấy. Chúng ta trông thấy, ta khổ
th́ kẻ khác cũng khổ. Nay ta phải cứu chính ḿnh,
mà cũng có thể chiếu cố kẻ khác. V́ thế, khởi
tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, chắc chắn
đừng nêu gương xấu cho người khác.
Điều
đầu tiên trong gương
tốt là giữ pháp tắc, tuân thủ quy củ, tuân thủ
kỷ luật. Thường nói là “nhà có gia quy, nước có quốc pháp”. Quư vị đến
đạo tràng này, đạo tràng có quy củ của đạo
tràng. Chẳng có quy củ sẽ loạn. Đồng học,
đồng tham đạo hữu, bất luận số người
bao nhiêu, bốn người ở cùng một chỗ, quư vị
thấy đức Phật dạy chúng ta tuân thủ Lục
Ḥa Kính. Điều đầu tiên trong Lục Ḥa Kính là Kiến
Ḥa Đồng Giải, đức Phật dạy đúng là
rất cao minh. Chúng ta nghe xong, tự nhiên năm vóc gieo sát đất,
chẳng thể không bội phục. Tu
Kiến Ḥa Đồng Giải như thế nào? Mỗi cá
nhân chúng ta buông xuống thành kiến của chính ḿnh th́ [kiến giải] sẽ đồng.
Quư vị thấy điều
này rất cao minh! Ai cũng chẳng muốn phải vâng phục kẻ khác. Hễ buông xuống thành kiến, tự nhiên tâm địa
sạch làu, điều này cao minh tột bậc! Quư vị
thấy đức Phật trọn chẳng nói “tri kiến
của các ngươi sai lầm, tri kiến của ta là chánh
xác, các ngươi phải tuân theo tri kiến của ta”. Đức
Phật chẳng nói kiểu ấy, nhưng
trong kinh luật luận do đức Phật đă nói, lăo
nhân gia bảo chúng ta:
“Đấy là Tánh Đức của chính
quư vị”, đức Phật
chẳng nói [những Tánh Đức ấy] là của Ngài, mà
là “Tánh Đức của quư vị. Nay v́ quư vị có tập khí phiền năo chướng
ngại, Tánh Đức chẳng thấu lộ được,
những thứ ấy quư vị thảy đều sẵn
có”. Giống như Đệ Tử Quy là Tánh Đức,
Cảm Ứng Thiên là Tánh Đức, Thập Thiện Nghiệp
là Tánh Đức, đều vốn có sẵn trong tự tánh
của quư vị. Nếu quư vị giác ngộ, làm được
một trăm phần trăm, tuyệt đối chẳng
khiếm khuyết một điều nào, Tánh Đức sẽ
lưu lộ!
Đức Phật đă dạy chúng ta, trước
kia, khi Ngài chưa giác ngộ, trước khi khai ngộ, Ngài
cũng là phàm phu giống hệt như chúng ta, nhưng Ngài có thể trừ
bỏ chướng ngại. Chướng ngại ǵ vậy?
Kinh Hoa Nghiêm đă nói ba loại lớn, tức là vọng
tưởng, phân biệt, và chấp trước. Trừ bỏ
những thứ ấy, tâm thanh tịnh hiện tiền. Trong
cái tâm thanh tịnh vốn trọn đủ vô lượng
trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng
tướng hảo, đều thấu lộ. V́ thế, đức
Phật nói Ngài chẳng độ chúng sanh, chúng sanh tự
ngộ, tự tu, tự độ. Lời ấy là lời thật, chẳng
giả tí nào! Bất quá Phật, Bồ Tát làm Tăng Thượng
Duyên cho chúng sanh mà thôi, nêu gương tốt mà thôi. Nay chúng
ta học Phật, phải hiểu đạo lư này, phải
hiểu những chân tướng sự thật này, mới
biết chính ḿnh phải nên thực hiện như thế nào!
Do vậy, tŕ giới và tu phước là điều
kiện tiên quyết. Không khởi sự từ chỗ này,
dẫu học nhiều cách mấy, đều là giả
trất, đều xôi hỏng bỏng không, hữu danh vô
thực! Tôi thường nêu tỷ dụ để nói, giống
như hoa cắm trong b́nh, chẳng có rễ, nh́n đẹp mắt lắm, vài ngày chết rụi! Có rễ th́ giống như
trồng nơi cuộc đất ph́ nhiêu, nẩy mầm,
tươi tắn sống động, có thể tăng trưởng
thành đại thụ. Chư vị phải ghi nhớ các căn
cội ấy như tôi vừa mới nói, chính là Đệ
Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, và Thập Thiện Nghiệp
Đạo. Đấy là căn cội, ba căn cội của
Nho, Thích, Đạo. Nay đă hết thời gian rồi, chúng
ta nghỉ ngơi mấy phút!
***
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hăy ngồi xuống. Chúng ta xem tiếp lời chú
giải cho đoạn kinh văn này. Chúng tôi đọc trước
lời Sớ của Thanh Lương đại sư một
lượt, cũng chẳng dài cho lắm:
(Sớ) Đệ tam Phật tử, nhược
chư Bồ Tát hạ.
(疏)第三佛子,若諸菩薩下。
(Sớ: Thứ ba, từ câu “Phật tử! Nếu
các Bồ Tát…” trở đi).
“Hạ” là dưới,
tức là từ câu “Phật Tử!
Nhược chư Bồ Tát như thị dụng tâm” (Phật
Tử! Nếu các Bồ Tát dụng tâm như thế) trở
đi.
(Sớ) Kết thán nhân sở thành ích.
(疏)結歎因所成益。
(Sớ: Tổng kết, tán thán lợi ích được
thành tựu bởi những cái nhân ấy).
Một trăm bốn mươi mốt bài
kệ trên đây đều nói về tu nhân. Tu nhân nhất
định có kết quả, kết quả là công đức
thù thắng, mầu nhiệm. Chúng ta lại xem câu kế
tiếp:
(Sớ) Nhược năng như thượng, vi
thiện dụng tâm. Nhược thử dụng tâm, tắc
nội đức tề viên, ngoại bất năng động,
tâm du đại trí. Cố nhân thiên bất năng động,
tâm quán đại bi, cố Nhị Thừa bất năng
động.
(疏)若能如上,為善用心,若此用心,則內德齊圓,外不能動。心游大智,故人天不能動。心冠大悲,故二乘不能動。
(Sớ: Nếu có thể [thực hiện trọn
vẹn] những điều đă nói trên th́ là khéo dụng
tâm. Nếu dụng tâm như thế, ắt trong là các đức
đều toàn vẹn, bên ngoài chẳng thể động,
tâm an trụ nơi đại trí. V́ thế, người, trời
chẳng thể động. Do tâm trùm lấp bởi đại
bi, Nhị Thừa chẳng thể động được).
Chúng tôi nói trước mấy câu này. Trong giờ
trước, tôi đă đương nhiên nhắc nhở các
đồng tu, vàn muôn phần chớ nên sơ sót vun bồi
căn cội giáo
dục, đấy là học tập về
cơ sở. V́ sao? Chẳng có căn cội, chẳng có cơ
sở, đối với một trăm bốn mươi
mốt nguyện này, chúng ta cũng chỉ có thể đọc tụng,
tán thán, hâm mộ, chính ḿnh chẳng làm được! Thật
đấy, chẳng giả đâu nhé! Có bao nhiêu điều
chẳng làm được? Nói thật ra, một điều
cũng chẳng làm được. Nếu quư vị có căn
cội, sẽ có thể làm được chút phần, thậm
chí điều nào cũng đều có thể làm được
đôi chút. Chẳng có căn cội sẽ chẳng được!
Tŕ giới và tu phước là căn cội.
Có thể giống như phẩm kinh này
đă nói, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần
đều có thể trở về Tánh Đức, dẫn
phát Tánh Đức. Đấy là khéo dụng tâm. Có thể dụng
tâm như vậy, đương nhiên những điều
được nói tiếp đó đều là tự nhiên. Trong
là các đức đều trọn vẹn, tự tánh vốn
sẵn có vô lượng vô biên đức hạnh. Các đức
hạnh ấy đều viên măn đúng là chẳng dễ
dàng! Thảy đều viên măn th́ chính là Pháp Thân Bồ Tát. Đấy
là địa vị Thập Tín, ngay lập tức tăng tấn,
dự vào Sơ Trụ. Dự vào Sơ Trụ là “phá vô
minh, chứng Pháp Thân”. Đấy là lúc vô minh sắp phá mà c̣n chưa phá, vị
ấy có đại hạnh, đại đức, vô thỉ
vô minh bị phá, vượt thoát mười pháp giới. Do
vậy, bên ngoài chẳng thể lay động [người
ấy được]. Chư thiên, ma vương, Phạm
Thiên, sa-môn, Bà-la-môn, Càn-thát-bà, A-tu-la đều chẳng thể
động, [người ấy] đă vượt thoát, [tức
là] vượt thoát mười pháp giới. Thanh Văn, Duyên
Giác ở ngoài lục đạo, Tiểu Thừa cũng chẳng
thể động! Phàm chúng (chúng sanh b́nh phàm) trong lục
đạo chẳng thể động là v́ quư vị có trí,
“tâm du đại trí” là trí huệ
đă mở mang, phá hết sạch vô minh. Quư vị thấy
đó, trong hết thảy các pháp thế gian và xuất thế
gian, đă buông xuống chấp trước, phân biệt cũng
chẳng có, khởi tâm động niệm cũng chẳng
có. Sau khi đă buông xuống khởi tâm động niệm
th́ mới có thể ra khỏi mười pháp giới. Đấy
là khế nhập Sơ Trụ Bồ Tát, sẽ vào thế
giới Hoa Tạng. Đấy là đă nhập Nhất Chân pháp giới. V́ thế, Nhị Thừa cũng
chẳng thể động. Nhị Thừa thiếu khuyết
tâm đại bi, do chỉ quan tâm tự lợi, chẳng chủ
động tạo lợi lạc cho người khác. Bồ
Tát xả ḿnh v́ người, cho nên Nhị Thừa cũng chẳng
có cách nào lay động tâm trí của Bồ Tát!
Trong phần chú giải kế tiếp, Thanh
Lương đại sư nói:
(Sớ) Bất động hữu nhị. Nhất,
tu hành thời, thử đẳng bất năng hoặc loạn
cố.
(疏)不動有二。一,修行時,此等不能惑亂故。
(Sớ: “Bất động” có hai điều. Một
là khi tu hành, những hạng người ấy chẳng thể
[khiến cho hành nhân] bị mê hoặc, nhiễu loạn).
“Hoặc” (惑) là mê hoặc, nhiễu loạn. Tức là từ thiên
ma, ngoại đạo cho đến Thanh Văn, Duyên Giác đều
chẳng thể mê hoặc, chẳng thể nhiễu loạn.
[Hành nhân tu tập một trăm bốn mươi mốt
nguyện này] chẳng bị nhiễu loạn, mà cũng
không bị mê hoặc.
(Sớ) Nhị, bất hy bỉ cố.
(疏)二、不希彼故。
(Sớ: Thứ hai, do chẳng mong cầu những
điều ấy).
Thứ hai, điều này rất trọng yếu,
đối với những cái quả đạt được
do tu nhân, chẳng có mảy may ư niệm mong cầu. Chẳng
cầu phước báo sanh thiên, chẳng cầu phước
báo làm Phạm Vương, mà cũng chẳng cầu quả
báo A La Hán, Bích Chi Phật. Những ư niệm ấy đều
chẳng có, đă vượt thoát, những thứ ấy
chẳng thể lay động họ.
Hiện thời, chúng ta là sơ học, điều
quan trọng, khẩn yếu nhất mà tôi vẫn cần phải
bổ sung cùng chư vị, tức là nghe kinh, niệm Phật
cầu sanh Tịnh Độ, quư vị mới thật sự
thành tựu viên măn. Thành tựu của quư vị chắc chắn
chẳng kém các vị Pháp Thân đại sĩ thuộc bốn
mươi mốt địa vị trong hội Hoa Nghiêm. Dẫu
là hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng
Cư của thế giới Tây Phương, cũng vượt
trỗi bốn mươi mốt địa vị [Pháp
Thân đại sĩ ấy]. Lời này chẳng phải do
tôi nói, mà là do đức Phật đă nói trong kinh. Chúng ta phải
tin tưởng đức Phật chẳng dối gạt mọi
người, giống như trong kinh Kim Cang đă nói: “Phật là bậc chân ngữ, là
bậc thật ngữ, là bậc như ngữ, là bậc
chẳng nói dối, là bậc chẳng nói những điều
khác lạ”, phải thật sự tin tưởng th́ chúng
ta mới viên măn Thập Tín.
Ngay cả Thanh Văn, Duyên Giác cũng chẳng
cầu, làm sao có thể cầu lục đạo cho được?
Lục đạo thấm vào đâu? Triệt để buông
xuống th́ mới giống như một vị Bồ Tát.
Chư vị phải nghe cho rơ, giống như một vị
Bồ Tát, vẫn chưa phải là Bồ Tát, v́ sao? Một
trăm bốn mươi mốt nguyện ấy thảy
đều thi hành th́ mới là Bồ Tát thật
sự. Chúng ta chẳng mong cầu quả báo trong mười
pháp giới. Cái tâm ấy là tâm trí huệ, tâm ấy là tâm giác
ngộ. Hễ c̣n có mảy may mong cầu, quư vị đă mê
hoặc, làm sao có thể thấy đạo vô thượng
cho được? Do đó, kinh chẳng thể không nghe, chẳng
thể không đọc. Bản thân tôi cũng nêu gương
tốt cho mọi người. Học Phật năm mươi
lăm năm, v́ sao tôi chẳng bị những thứ tiếng
tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần
mê hoặc, lay động? Chẳng có ǵ khác, hằng ngày đọc
tụng, hằng ngày dạy học, dạy và học tăng
trưởng lẫn nhau. Người khác học Phật, bất
luận tại gia hay xuất gia, ư niệm đầu tiên là
muốn tạo một đạo tràng. Năm nay tôi đă tám
mươi tuổi, chẳng có đạo tràng, không mong cầu.
Người tám mươi tuổi, người Hoa thường
nói là “phong chúc tàn niên” (風燭殘年, năm tàn tháng lụi như đuốc trước
gió), có thể ra đi bất cứ lúc nào. Tôi nghĩ lại
những bạn học, bạn chơi đùa thuở bé, những
đồng nghiệp về sau, gần như hơn hai
phần ba đă chẳng c̣n, mới thật sự hiểu
lời cổ nhân đă nói, đời người bảy
mươi tuổi xưa nay hiếm! Người chưa đến
bảy mươi tuổi đă ra đi chiếm hơn quá
nửa, nay chúng tôi đă vượt khỏi mức tuổi
ấy nhiều rồi, c̣n mong cầu chuyện ǵ trong thế
gian này nữa? Chẳng cầu chi hết! Mỗi ngày vui thú
nơi những chuyện này, chẳng mệt nhọc, hằng
ngày thời gian tôi đọc kinh nhất quyết chẳng
ít hơn bốn tiếng đồng hồ, những thời
gian c̣n lại th́ niệm Phật.
Nghe kinh và đọc kinh giống nhau. Kinh Hoa
Nghiêm giảng đến đây đă hơn ba ngàn giờ. Đối
với người thật sự có tâm học, chúng tôi có
giữ lại đĩa DVD, quư vị có thể copy một
bộ, học từ đầu. Nhưng phải nhớ kỹ
căn cội như tôi đă nói trong phần trên, cần phải
chú trọng dùng thời gian một năm, buông xuống vạn duyên,
vun bồi căn cội tốt đẹp, như vậy th́
quư vị phước đức vô lượng. Tôi giới
thiệu bốn thứ, chúng là căn bản. Thứ nhất
là Đệ Tử Quy, thứ hai là Liễu Phàm Tứ Huấn,
trong ba tháng tức
chín mươi ngày, dùng hai đĩa
phim truyền h́nh, thật sự chỉ có hai tiếng đồng hồ. Tốt nhất là mỗi ngày cả gia đ́nh quư vị
học tập, bỏ ra hai tiếng đồng hồ, hằng
ngày ôn tập, đó gọi là “trường
thời huân tu”. Quư vị có chín mươi lần huân tập,
sẽ có thể sanh ra một chút hiệu quả. Trong tam cá
nguyệt thứ ba sẽ học Du Tịnh Ư Công Ngộ Táo
Thần Kư. Hai khoa mục này giống nhau, nhưng trong ấy
sâu hay cạn khác nhau. Nói cách khác, chúng ta phải dùng thời
gian nửa năm để học tập giáo dục
nhân quả.
Sau khi học xong Đệ Tử Quy, [thời
gian để học] Đệ Tử Quy là ba tháng. Trong tam
cá nguyệt thứ hai, học Liễu Phàm Tứ Huấn, tam
cá nguyệt thứ ba học Du Tịnh Ư Công Ngộ Táo Thần
Kư, tam cá nguyệt thứ tư học Thái Thượng Cảm
Ứng Thiên, chẳng khó khăn tí nào! Dùng thời gian một
năm để vun quén vững vàng căn cội nơi pháp
thế gian, sau đấy lại dùng thời gian ba tháng để
thực hành Thập Thiện Nghiệp Đạo, quư vị
sẽ cội bền gốc sâu. Quư vị muốn học
kinh Hoa Nghiêm, hăy vun quén căn cội ổn thỏa rồi
mới bắt đầu
học. Khi ấy, quư vị sẽ
thâu hoạch đúng như cổ nhân đă nói “sự bán công bội” (chỉ
tốn một nửa công sức, mà thành tựu gấp nhiều
lần). Quư vị chẳng có căn cội ấy, hằng
ngày nghe kinh Hoa Nghiêm, nghe suốt ba trăm năm vẫn vô dụng,
chẳng đạt được lợi ích, chẳng khai
ngộ! Khai ngộ từ chỗ nào? Khai ngộ từ cái tâm
thanh tịnh. V́ sao tôi nói “quư vị chẳng thể khai ngộ”
khẳng định như vậy? Trong tâm quư vị quá nhiều
tập khí phiền năo! Giáo dục cơ sở là để
đào thải tập khí phiền năo, gột sạch cái tâm
ô nhiễm của quư vị. Dùng Đệ Tử Quy để
gột, dùng Liễu Phàm Tứ Huấn để gột, dùng
Du Tịnh Ư Công Ngộ Táo Thần Kư để gột, dùng Cảm
Ứng Thiên để gột, dùng kinh Thập Thiện Nghiệp
Đạo sẽ gột sạch. Sau khi tâm đă được
gột sạch làu, tâm đă định, tâm sẽ sanh trí huệ.
Sau đấy, lại đọc Hoa Nghiêm, sẽ khác hẳn, quư vị
mới thật sự có thể nghe hiểu. Nếu không, quư
vị chỉ có
thể nghe ngôn ngữ, chứ ư nghĩa ở
ngoài ngôn từ quư vị chẳng nghe biết, quư vị
đọc kinh chỉ có thể thấy văn tự, chứ
nghĩa thú ở ngoài văn tự quư vị chẳng có cách
nào thấu hiểu. Đạo lư ở ngay chỗ này.
Nghe kinh quan trọng, niệm Phật quan trọng,
v́ sao? Nghe kinh phải có thời gian, thời gian sẽ không
dài. Chẳng hạn như tôi lấy ngay chính ḿnh làm thí dụ.
Mỗi ngày tôi đọc kinh bốn tiếng đồng hồ,
hiện thời giảng kinh ở đây hai tiếng đồng
hồ, tức là đă tốn mất sáu giờ. Mỗi ngày
c̣n lại mười tám tiếng đồng hồ, trừ ngủ
nghỉ mất tám tiếng đồng hồ ra, c̣n có mười
tiếng đồng hồ, làm ǵ? Nếu quư vị chẳng
niệm Phật, trong mười tiếng đồng hồ
ấy, sẽ suy nghĩ loạn xạ, vẫn là cái tâm luân
hồi tạo nghiệp luân hồi, chẳng thể văng
sanh.
Cư sĩ Hoàng Trung Xương văng sanh khoảng
một tuần rồi, ông ta là tấm gương tốt
nhất cho chúng ta! V́ sao ông ta thành công? Nói thật ra, chính ông
ta đă nói rất rơ ràng: Ông ta một bộ kinh Vô Lượng
Thọ, một câu Nam-mô A Di Đà Phật, ngày đêm chẳng
gián đoạn. Hằng ngày phản tỉnh, hằng ngày kiểm
điểm, hằng ngày sửa lỗi, hằng ngày sám hối.
Ông ta phát nguyện ba năm thành tựu, hai năm mười
tháng đă thành tựu. Quư vị thấy ông ta biết trước
lúc mất. Các đồng tu bên đó gọi điện thoại
cho tôi biết, hôm nay họ đi nhận tro cốt, thâu nhặt
được xá-lợi rất nhiều. Tôi bảo các đồng
học, thâu thập xá-lợi, trong tương lai dựng một
ṭa tháp thờ xá-lợi, c̣n tro cốt để người
nhà ông ta đem về an táng. Giống như tôi đă nghĩ
từ trước, dựa theo những điều đă nói
trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục và Văng Sanh Truyện,
người niệm Phật tiếp xúc pháp môn Niệm Phật
từ ba năm đến năm năm văng sanh rất nhiều.
Chẳng phải là thọ mạng đă hết, mà là công
phu của họ đă thành tựu. Ra đi tự tại như
vậy, tiêu sái dường ấy, rất đáng cho người
khác hâm mộ, đấy mới đúng là thành tựu thật
sự, như tôi vừa mới nói, vượt trỗi bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ
trong kinh Hoa Nghiêm. Công đức hộ pháp chẳng thể
nghĩ bàn, thật sự giúp cho một người thành Phật.
Chúng ta lại xem kết luận cuối cùng
của Lư Trưởng Giả, cũng là kết luận
chung của cả phẩm kinh này:
(Luận) Dĩ thượng, dĩ thế gian hữu
thử nhất bách tứ thập nhất chủng sự
pháp, đốn phiên nhất bách tứ thập nhất chủng
đại nguyện.
(論)已上以世間有此一百四十一種事法。頓翻一百四十一種大願。
(Luận: Trên đây là do thế gian có một
trăm bốn mươi mốt loại pháp thuộc về
mặt Sự này, nhanh chóng đổi chúng thành một
trăm bốn mươi mốt loại đại nguyện).
Có sự việc nhiều
ngần ấy, nói thật ra là nêu
thí dụ. Quư vị thấy “đốn
phiên” (頓翻, nhanh chóng chuyển đổi), chẳng phải là “tiệm phiên” (漸翻, chuyển đổi dần dần). Vừa tiếp
xúc, ngay lập tức chuyển biến ư niệm, chuyển
thành một trăm bốn mươi mốt loại đại
nguyện. Đại nguyện xứng tánh, tức là biến
những chuyện vụn vặt hằng ngày thành Tánh Đức
trong tự tánh của chính ḿnh, lưu lộ ra ngoài.
(Luận) Dụng thành Thập Tín nội tu hành chi tâm.
(論)用成十信內修行之心。
(Luận: Dùng [các đại nguyện ấy] để
tạo thành cái tâm tu hành trong các địa vị thuộc
Thập Tín).
Đấy là Thập Tín Bồ Tát.
(Luận) Tuy thị hữu vi chi tâm, năng thành Thập
Trụ dĩ hậu ngũ vị chi nội Lư Trí đại
bi chi hải.
(論)雖是有為之心,能成十住已後五位之內理智大悲之海。
(Luận: Tuy là cái tâm hữu vi mà có thể thành tựu
biển đại bi Lư Trí thuộc năm địa vị
kể từ Thập Trụ trở đi).
Phải ghi nhớ câu này, hết sức trọng
yếu! Từ Thập Trụ trở đi, ngũ vị là
ǵ vậy? Chính là Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, năm
loại lớn trong hàng Bồ Tát. Đấy là cơ sở.
Sau đấy, “nhập vị”
(入位,
dự vào địa vị Tam Hiền,
Thập Thánh), chúng ta phải ghi nhớ, “nhập
vị” th́ hiện thời vẫn chẳng nhập, dựa vào đâu
để nhập? Chính
là dựa vào một trăm bốn
mươi mốt nguyện này. Quư vị chẳng trọn đủ
một trăm bốn mươi mốt nguyện này, sẽ
chẳng thể “nhập Trụ”
(chứng nhập Sơ Trụ). “Trụ” là ǵ? Sơ Trụ Bồ Tát. Sơ Trụ
được gọi là Phát Tâm Trụ, tâm Bồ Đề
thật sự phát khởi.
Do vậy, hễ Bồ Đề tâm phát xuất,
quư vị là Pháp Thân Bồ Tát. Không chỉ vượt trỗi
lục đạo, vượt thoát mười pháp giới;
nói cách khác, vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước thảy đều đoạn trừ. Thảy
đều đoạn hết, v́ sao c̣n có bốn
mươi mốt tầng cấp? Trong các buổi giảng,
chúng tôi đă thưa tŕnh rất cặn kẽ cùng quư vị
chuyện này. Bốn mươi mốt tầng cấp ấy,
chẳng thể nói là có, mà cũng chẳng thể nói là không.
V́ sao chẳng thể nói chúng là có? Chư vị ngẫm xem,
khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước
th́ mới có tầng cấp. Khởi tâm động niệm,
phân biệt, chấp trước thảy đều chẳng
có, c̣n có tầng cấp chi nữa? V́ thế, quư vị chẳng
thể nói là chúng có! Thế giới Hoa Tạng là một thế
giới b́nh đẳng, Tây Phương Cực Lạc thế
giới cũng là thế giới b́nh đẳng. Quư vị
hiểu ư nghĩa của bốn mươi mốt địa
vị trong Hoa Tạng, th́ cũng sẽ hiểu “bốn cơi, ba bậc, chín phẩm”
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là chuyện
như thế nào, quư vị sẽ hiểu rơ.
V́ sao chẳng thể nói là chúng không có? Chẳng
đoạn tập khí vô thỉ vô minh, có ư nghĩa như thế
đó. V́ thế, tuy đều là Pháp Thân Bồ Tát, tập
khí của mỗi người khác nhau, đạo lư ở
chỗ này! Chẳng có cách nào để đoạn tập
khí, nhất định phải dựa vào thời gian để
đào thải dần dần, thời gian dài bao lâu? Ba đại
A-tăng-kỳ kiếp, tập khí sẽ chẳng c̣n nữa.
Tập khí chẳng c̣n, đấy là Phật quả viên măn rốt
ráo. Chẳng có cách nào rút ngắn thời gian ba đại
A-tăng-kỳ kiếp, đấy là nhất định.
Bất luận quư vị ở trong thế giới Cực
Lạc cũng thế, mà trong thế giới Hoa Tạng cũng
thế, đều phải trải qua thời gian dài ngần ấy, tự nhiên sẽ đoạn hết tập khí. Do vậy,
khi ấy bèn gọi là “vô công dụng
đạo”, hết thảy đều thuận theo tự
nhiên, chẳng thể thêm chút ít sức lực nào. Hễ quư
vị thêm vào, tức là c̣n có khởi tâm động niệm,
c̣n có phân biệt, chấp trước, há có đạo lư ấy?
Do vậy, phải hiểu điều này, nhưng chắn
chắn [những tập khí ấy] chẳng ảnh hưởng
Phật, Bồ Tát tùy loại hóa thân. Nơi nào có cảm, Phật,
Bồ Tát sẽ ứng. Khắp pháp giới cảm, sẽ
ứng khắp pháp giới, thần thông rộng lớn chẳng
thể nghĩ bàn. Do vậy, đối với chuyện giáo
hóa chúng sanh và sự nghiệp ứng hóa của các Ngài, các tập
khí vô minh ấy chẳng gây trở ngại mảy may. V́ thế,
chẳng thể nói chuyện này là có, mà cũng chẳng thể
nói chúng không có.
Nếu chúng ta hỏi, từ đây tiến
lên cho đến bậc Đẳng Giác Bồ Tát, các Ngài tu
ǵ? Vẫn là tu một trăm bốn mươi mốt nguyện
này. Lại thưa cùng chư vị, vẫn là tu Đệ
Tử Quy, vẫn là tu Cảm Ứng Thiên, vẫn là tu Thập
Thiện Nghiệp Đạo. Các Ngài ở trong mười
phương thế giới hóa độ chúng sanh, lấy
thân làm gương. Nếu quư vị chẳng tin tưởng,
hăy suy nghĩ kỹ lưỡng, thuở tại thế, Thích
Ca Mâu Ni Phật đă tu ǵ? Ngài đă làm ǵ? Có phải là hằng
ngày khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác
toàn bộ đều nhằm thực hiện Đệ Tử
Quy, thực hiện Cảm Ứng Thiên, viên măn Thập Thiện
Nghiệp Đạo, có phải là như vậy hay không? Chẳng
sai tí nào! Do đó, phải hiểu, cơ sở vốn là viên
măn. Nếu quư vị chẳng đặt vững cơ sở
ở nơi đây, sẽ chẳng thành được một
điều ǵ! Chẳng thành được một điều
ǵ, dẫu học Phật, vẫn ở trong tam đồ lục
đạo, quư vị chẳng có cách nào chuyển đổi
nghiệp lực của chính ḿnh! Không có cách nào chuyển
nghiệp, đương nhiên quư vị bị nghiệp lực
làm chúa tể, nghiệp lực lôi dắt quư vị đến
nơi đâu, quư vị bèn đọa vào nơi đó.
Quư vị lại ngẫm xem, trong đời này quư vị khởi
tâm động niệm th́ thiện niệm nhiều hay ác niệm
nhiều? Ngôn ngữ, các loại hành vi do quư vị tạo tác
là thiện hạnh nhiều hay ác hạnh nhiều? Chính ḿnh
sẽ hiểu! Nếu ác niệm nhiều hơn thiện
niệm, ác hạnh nhiều hơn thiện hạnh, sẽ
có phần trong tam đồ. Thiện niệm nhiều hơn
ác niệm, thiện hạnh nhiều hơn ác hạnh, [sẽ
có phần] trong hai đường trời người. V́
thế, chuyện này, đối với tiền đồ
của mỗi người, chẳng cần hỏi ai khác,
tối đến hăy lắng ḷng khéo phản
tỉnh, sẽ biết rơ ràng, minh bạch.
Nghe kinh mà có cơ sở th́ được
thọ dụng. Chẳng có cơ sở, [chỉ là] kết
pháp duyên với Phật môn mà thôi! Phải hiểu điều
này, cũng tức là quư vị nghe xong chẳng thể “tiêu quy tự tánh”, giống như
ăn thứ ǵ đó mà chẳng tiêu hóa được. Tiêu
hóa th́ quư vị mới có thể hấp thụ chất bổ.
Khi chẳng tiêu hóa, sẽ chẳng thể hấp thụ. Đôi
khi v́ chẳng thể hấp thụ mà đâm ra trở thành
chướng ngại, giống như ăn một món đồ
ǵ đó, đạo lư giống nhau. Ăn thứ ǵ mà chẳng
tiêu hóa được, sẽ sanh bệnh; nghe kinh chẳng
tiêu hóa th́ cũng sẽ sanh bệnh; bệnh ǵ vậy? Tăng
trưởng Sở Tri Chướng! Quư vị đă hiểu
sai, thấy sai nghĩa thú thật sự trong kinh giáo. V́ sao?
Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của
quư vị chẳng đoạn. Dùng vọng tưởng,
phân biệt tức là dùng cái tâm luân hồi để tiếp
nhận Phật pháp, Phật pháp cũng thành pháp luân hồi.
Do vậy, quư vị mới thật sự có thể hiểu,
đào thải tập khí phiền năo của chính ḿnh quan trọng
dường ấy. Không nghiêm túc thực hiện từ chỗ
này, suốt đời này quư vị chẳng thể thành tựu,
mà cũng là suốt đời này, quư vị chắc chắn chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi,
niệm Phật chắc chắn chẳng thể văng sanh. Tin
tức cư sĩ Hoàng Trung Xương ở Thâm Quyến văng
sanh đă truyền đến Mă Lai và Indonesia, các đồng
tu bên ấy hết sức cảm động. Tài liệu về
ông ta không nhiều lắm, hiện thời chúng tôi ấn hành
chỉ có sáu trang. Người này đă nêu gương mẫu
tốt nhất cho người hiện thời!
Chúng ta lại xem phần luận văn tiếp
theo của Lư trưởng giả. Trước hết Ngài
nói về tầm trọng yếu của hai chữ “nhập vị”, phải đặc
biệt coi trọng hai chữ này.
(Luận) Nhập vị vạn hạnh chi hải, giai
do thử nhất bách tứ thập đại nguyện thắng
thượng duyên lực chi sở năng thành cố.
(論)入位萬行之海,皆由此一百四十大願勝上緣力之所能成故。
(Luận: Biển vạn hạnh để nhập
vị đều do sức tăng thượng duyên thù thắng
của một trăm bốn mươi nguyện này tạo
thành).
“Thắng” là
thù thắng, “thượng”
là tăng thượng duyên. Chẳng có điều này, sẽ
không được!
(Luận) Nhược sơ phát tâm Bồ Tát, vô thử
chi nguyện, sở tu giải thoát, giai thành Thanh Văn,
Độc Giác chi hạnh.
(論)若初發心菩薩,無此之願,所修解脫,皆成聲聞獨覺之行 。
(Luận: Nếu sơ phát tâm Bồ Tát không có những
nguyện này th́ tu giải thoát sẽ đều trở
thành hạnh Thanh Văn, Độc Giác).
Đấy là kể như quư vị tu khá lắm,
tu rất tốt đẹp. Quư vị chẳng có những
nguyện này! Chẳng có những nguyện này tức là quư vị
chẳng có bi tâm, sẽ biến thành ǵ? Tiểu Thừa tự
lợi. Kể ra vẫn c̣n khá, đă thoát khỏi
lục đạo luân hồi, nhưng không thoát khỏi mười
pháp giới. Đây là nói trong trường hợp quư vị
tu hành rất khá, bất quá thuộc địa vị này!
(Luận) Thiết thị Bồ Tát, đản sanh Tịnh
Độ, vô thành Phật duyên.
(論)設是菩薩,但生淨土,無成佛緣。
(Luận: Nếu là Bồ Tát, chỉ sanh về Tịnh
Độ, chẳng có duyên thành Phật).
Phải coi trọng câu này. Đấy là ǵ?
Tâm tịnh th́ cơi Phật tịnh. “Thành Phật”, ở đây là nói đến Phật
quả rốt ráo. Quư vị chẳng thành Phật quả rốt
ráo, cho nên nói là “chẳng có duyên
thành Phật”.
(Luận) Vị thử giáo trung phát tâm Bồ Tát.
(論)為此教中發心菩薩。
(Luận: V́ các vị phát tâm Bồ Tát trong giáo pháp
này).
Chính v́ cái duyên này, [v́] những vị phát tâm Bồ
Tát nơi giáo pháp Hoa Nghiêm. Quư vị thấy họ chẳng
giống những vị phát tâm Bồ Tát khác.
(Luận) Tất cánh đạt thử hữu vi,
thành kỳ Lư Trí như dă.
(論)畢竟達此有為,成其理智如也。
(Luận: Rốt cuộc đạt được
pháp hữu vi này, thành tựu Lư và Trí đều
như).
Đây là khuyên dạy chúng ta, chúng ta phải
biết tu hành như thế nào? Do vậy, trong hiện tiền,
đối với chúng ta, nghe kinh là một khoa mục hết
sức trọng yếu. Nghe kinh th́ phải nghe hằng ngày,
chớ nên gián đoạn. Dẫu như ta có chuyện phải
rời đi vài ngày, cũng
chớ nên gián đoạn. Nghe lại
những phần trước, ôn cái cũ để biết
cái mới. Một ngày chẳng nghe kinh, sẽ suy nghĩ loạn
xạ, sẽ đọa lạc. V́ thế, nghe kinh và niệm
Phật trọng yếu hơn bất cứ điều nào
khác!
Nếu chúng ta muốn chứng đắc Phật
quả rốt ráo, phải luôn đừng ĺa kinh Hoa Nghiêm. V́
sao? Kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng là mười đại
nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Trong niên
hiệu Càn Long, cư sĩ Bành Tế Thanh, đây là một
vị đại đức lỗi lạc. Tuy là tại gia cư sĩ, nhưng ông ta thông Tông, thông Giáo. Đó là bậc
tái lai. Ông ta xuất thân là quư tộc, cha ông ta là Binh Bộ
Thượng Thư của hoàng đế Càn Long. Nếu nói
theo kiểu hiện thời, sẽ là Bộ Trưởng
Quốc Pḥng. Hoàn cảnh gia đ́nh của ông ta tốt đẹp,
mười mấy tuổi đă đỗ Tiến Sĩ;
suốt đời không làm quan mà học Phật, biến thành
một vị đại đức trong Phật môn. Quư vị
thấy ông ta nói: “Kinh Vô Lượng
Thọ là Trung Bổn Hoa Nghiêm”. Câu này do ông ta nói ra đầu
tiên, đúng là chẳng sai. Kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng
quy vào đâu? Quy vào kinh Vô Lượng Thọ. Người
thời Tùy - Đường tuy chẳng nói minh bạch như
thế, nhưng sớm nhất là vào thời đại Tùy - Đường, các nhà nghiên cứu kinh giáo đă nói Hoa
Nghiêm và Pháp Hoa hướng
dẫn vào kinh Vô Lượng Thọ, lời
này cũng rất tuyệt diệu! Cũng có nghĩa Hoa
Nghiêm và Pháp Hoa hướng dẫn
quư vị đến Vô Lượng
Thọ. Vô Lượng Thọ là Tây Phương Cực Lạc
thế giới, nói hàm súc hơn, c̣n Bành Tế Thanh th́ nói huỵch toẹt, kinh Vô
Lượng Thọ là Trung Bổn Hoa Nghiêm.
V́ thế, năm xưa tôi đă từng giảng
kinh Hoa Nghiêm một lần, chẳng giảng tỉ mỉ
như thế này, cũng giảng một thời gian rất
dài, chỉ giảng được một nửa. Về
sau, học kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ
là Trung Bổn Hoa Nghiêm, Đại Bổn Hoa Nghiêm quá rườm
rà, tôi bèn thôi, chuyên giảng kinh Vô Lượng Thọ. Giảng
kinh Vô Lượng Thọ mười lần. V́ sao lần
này lại giảng bộ kinh này? Do Hàn quán trưởng khải
thỉnh. Đă mười năm rồi! Mười năm
trước, trước khi văng sanh, bà ta đă ở trên giường
bệnh ba lượt yêu cầu tôi, hy vọng tôi giảng
kinh Hoa Nghiêm từ đầu đến cuối một lượt,
giữ lại băng thâu h́nh để người đời
sau tham khảo. Tôi nhận lời, bà thật sự ra đi.
Tôi nói năng chẳng thể không giữ lời; do đó mới
buông xuống những kinh khác, chuyên tâm giảng Hoa Nghiêm. Tôi
vẫn hy vọng trong tương lai, thiết bị và hoàn
cảnh có thể tốt đẹp hơn một chút, tôi vẫn
hy vọng có một ngày khôi phục giảng bốn tiếng
đồng hồ. Tôi hy vọng đạt tới tiêu chuẩn
ấy. Mỗi ngày, tôi đọc kinh bốn tiếng đồng
hồ, giảng kinh bốn tiếng đồng hồ, buông
xuống muôn duyên, nâng cao cảnh giới của chính ḿnh, tăng
cao linh tánh của chính ḿnh, quan trọng hơn bất cứ
điều chi khác! Những lúc không đọc kinh, không giảng
kinh, trong tâm thầm niệm Phật hiệu, vui sướng
hơn bất cứ điều ǵ khác. Chẳng luống uổng
đời này. Nhất là lúc tuổi già, thời gian càng quư
báu, kẻ trẻ tuổi chẳng hiểu, lúc tuổi già,
cái tâm cảnh giác hết sức cao!
V́ thế, các đồng học ngàn muôn phần
phải ghi nhớ, phải phát tâm, chẳng thể không cầu
sanh Tịnh Độ. Không cầu sanh Tịnh Độ, vậy
là quư vị đă thật sự sai mất rồi! Quư vị
đă sống uổng đời này, lỡ làng đời này!
Phải thật sự cầu sanh Tịnh Độ, đảm
bảo sao cho chính ḿnh có thể văng sanh. Cư sĩ Hoàng
Trung Xương là tấm gương tốt nhất! Quư vị
thấy ông ta tu như thế nào? Phát tâm như thế nào? Hằng
ngày tu sám hối như thế nào? Ông ta hằng ngày tu sám hối,
chẳng khác cổ nhân sử dụng Công Quá Cách. Tuy ông ta chẳng
có Công Quá Cách, nhưng hằng ngày đều ghi lại những
điều chính ḿnh đă sám hối, viết rất nhiều.
Hiện thời, cũng không cần chỉnh lư quá nhiều,
nhưng vẫn cần phải chỉnh lư. Ông ta viết trên
những mảnh giấy vụn. Tôi thấy tài liệu ấy
sợ là phải đến hai ba trăm trang, đều là
những mảnh giấy nhỏ. Trong tương lai, có đồng
học phát tâm chỉnh lư, sẽ in thành sách để người
niệm Phật tham khảo. Xác thực là một sự cổ
vũ, khích lệ không ǵ to lớn hơn, có thể kiên định tín tâm và nguyện tâm của
người học Phật, có thể nói là ba năm chắc
chắn thành tựu!
Thật sự thành tựu, quư vị không muốn
văng sanh cũng được. V́ sao? Sanh tử tự tại.
Quư vị nói “ta ở trên thế gian này thêm vài năm nữa”, được
chứ, chẳng trở ngại tí nào! Có thể tùy ư ra đi
bất cứ lúc nào, thật sự chẳng có sanh tử. Bất
quá cho đến lúc đó, quư vị muốn ở trong thế
gian này hay không, chẳng phải là do nghiệp lực của
quư vị [quyết định], mà là do nguyện lực của
chính quư vị. Do nguyện lực, chắc chắn quư vị
có thể quan sát [chính ḿnh] có duyên với thế gian này hay không.
Phật, Bồ Tát trụ thế là do duyên, có duyên với chúng
sanh. Cái duyên với chúng sanh nên hiểu như thế nào? Họ
có nghe theo lời giáo huấn của quư vị hay không? Hễ
nghe theo lời giáo huấn của quư vị, tức là c̣n có
duyên. Có duyên th́ quư vị sẽ giúp đỡ họ. Chẳng nghe,
chẳng tin tưởng quư vị, chẳng thích nghe, vậy là quư vị ra đi. Ra đi
cũng là giáo hóa chúng sanh. Quư vị tiêu sái ra đi, biết
trước lúc mất, tự tại văng sanh kiểu đó, khiến cho kẻ khác nh́n vào sẽ tin tưởng.
Do vậy, Phật, Bồ Tát đến thế
gian này, “sanh” là để giáo
hóa chúng sanh, mà thị hiện diệt độ vẫn nhằm
giáo hóa chúng sanh, chẳng có chuyện ǵ luống công! Cũng
có nghĩa là sanh ra, chết đi, đều nhằm nêu gương
tốt nhất cho chúng sanh, khơi gợi, phát khởi, khiến
cho chúng sanh suy nghĩ lại. Hơn nữa, huống hồ trong cuộc sống hằng ngày, từng ly, từng
tí đều nêu gương cho đại chúng trong xă hội.
Nếu chẳng phải như thế, sẽ chẳng phải
là Bồ Tát. Đó là giả trất, chẳng thật! Vị
Bồ Tát thật sự dụng tâm, dụng tâm trong cuộc
sống hằng ngày, nhất định tương ứng
với một trăm bốn mươi mốt nguyện này.
Nếu chẳng tương ứng với một trăm bốn
mươi mốt nguyện, quư vị sẽ nói gă ấy là
giả Bồ Tát. Lời này chẳng phải là do tôi hay quư
vị nói, mà là trong kinh, đức Phật đă dạy như
thế, nói khẳng định dường ấy! V́ thế,
khi hơi thở của chúng ta c̣n chưa dứt, c̣n sống trong thế gian này, nhất
định phải ghi nhớ tŕ giới. Tŕ giới th́ đặc
biệt phải biết học Đệ Tử Quy, học
Cảm Ứng Thiên, học Liễu Phàm Tứ Huấn, học
Du Tịnh Ư Công Ngộ Táo Thần Kư, học kinh Thập Thiện
Nghiệp Đạo. Trong giai đoạn hiện tiền,
nếu chúng ta không vun quén vững bền căn cội th́ cũng
là giả Bồ Tát, vẫn là giả vờ, chẳng phải
tu thật! Giả vờ, sẽ chẳng thoát khỏi lục
đạo, niệm Phật chẳng thể văng sanh, phải
hiểu điều này!
Vậy th́ nếu quư vị hỏi, ông Hoàng
Trung Xương có làm được hay không? Những thứ
tôi đă nói ông ta có làm được hay chăng? Ông ta chưa
từng học, nhưng toàn bộ đều làm được!
V́ sao biết ông ta làm được toàn bộ? Trong khi niệm
Phật suốt hai năm mười tháng ấy, ông ta chỉ
ngữ. Quư vị thấy ông ta có một bài viết về điều
ǵ? Viết về lợi ích và công đức của chỉ
ngữ, quư vị biết ngay! Chỉ ngữ là không nói chuyện.
Khi chỉ ngữ một khoảng thời gian, sẽ đối
với tất cả hết thảy những thứ bên ngoài
chẳng màng, người khác cũng chẳng thể nói
chuyện với quư vị được. Thật sự làm
được, chẳng có phân biệt, chẳng có chấp
trước, trong cuộc sống hằng ngày hoàn toàn tùy duyên,
chẳng chê trách bất cứ
thứ ǵ, thứ ǵ cũng đều tốt
đẹp. Chính ḿnh suốt ngày từ sáng đến tối
ngây ngô, giống như một kẻ vô dụng, chẳng làm ra tṛ trống
ǵ, toàn bộ tập khí kiêu căng, ngă mạn chẳng c̣n nữa.
Đối với bất cứ ai, cũng đều có thể
dấy lên tâm cung kính, thấu hiểu lời Lục Tổ
dạy: “Nếu người thật
tu đạo, chẳng thấy lỗi thế gian”. Chỉ ngữ đến một
mức độ nhất định, sẽ đạt tới
cảnh giới này. Đối với phẩm Tịnh Hạnh,
tôi chẳng biết ông ta có tương ứng hay không, đại
khái là [phán định] rất khó khăn. Nhưng ba môn công
khóa cơ bản như tôi đă nói với quư vị trong phần
trước, ông ta đă làm được, tức là ông ta đă
trọn đủ điều kiện để ắt sanh
vào Tịnh Độ. Chẳng học những thứ ấy
có được hay chăng?
Chỉ cần là trong cuộc sống hằng
ngày, giữ sao cho không nói chuyện. Không nói chuyện ba năm,
tâm ông ta định, nguyện lực của ông rất mạnh!
Niệm nào cũng đều cầu sanh Tịnh Độ,
niệm lực quá mạnh, cho nên ông ta có thể bỏ sạch
thế gian này như vậy. Do đó, chẳng buông xuống
duyên thế gian, sẽ giống như sợi dây thừng, quư
vị muốn đi, sẽ không đi được. Nó trói buộc
quư vị! Kinh thường nói, tài, sắc, danh vọng, ăn
uống, ngủ nghê là năm cái rễ của địa ngục.
Quư vị phải chặt đứt năm cái rễ ấy
th́ mới có thể vượt thoát. Hễ có một điều,
nó sẽ lôi kéo quư vị, chẳng đi được! Huống hồ
là cả năm điều, th́ c̣n sao được nữa!
Ông ta có thể chém đứt những cái rễ ấy, cho
nên có thể tự tại văng sanh. Trước khi ra đi,
ông ta đến nơi này lễ bái, cảm ơn, đều là nêu gương cho mọi người
thấy. Ông ta đến lễ bái, đến cảm ơn,
không phải là nhục thân của
ông ta đến. Mọi người chẳng thấy chuyện
này, quỷ thần trông thấy. Sau khi đă đến những
nơi đó, trở về mới tắt hơi, văng sanh.
Không chỉ là đă độ rất nhiều người,
mà c̣n độ càng nhiều quỷ thần hơn nữa.
Các đồng học chúng ta phải nghiêm túc nỗ lực.
Hôm nay, chúng tôi giảng phẩm kinh này đến đây là
viên măn, phần sau sẽ nói về công đức thắng
diệu!
Đại Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một, Tịnh Hạnh
Phẩm
Phần 57 hết
[1]
Bát Đại Gia thời Đường - Tống là những
văn hào lừng danh về tản văn thời
Đường - Tống, tức là Hàn Dũ (nổi tiếng
với Hàn Xương Lê Văn Tập), Liễu Tông Nguyên,
Âu Dương Tu, Tô Tuân, Tô Thức (Tô Đông Pha), Tô Triệt,
Vương An Thạch, và Tăng Củng. Trong số đó,
chỉ có Hàn Dũ và Liễu Tông Nguyên là người đời
Đường, những người c̣n lại đều
sống vào đời Tống. Đặc biệt là Tô Tuân
và hai con là Tô Thức và Tô Triệt đều nổi tiếng
văn chương. Cô em gái là
Tô
Tiểu Muội cũng rất nổi
tiếng v́ văn tài mẫn tiệp.
[2]
Đây là những lối viết chữ Hán qua các thời đại.
Sớm nhất là Giáp Cốt Văn (甲骨文) tức những văn
tự được khắc trên những mảnh
xương thú hoặc mai rùa. Đa số được
phát hiện từ di chỉ Ân Khư ở Hà Nam, là những
văn tự từ đời Thương, c̣n thể hiện
rơ nét chữ tượng h́nh. Nội dung Giáp Cốt Văn
đa số nói về thiên văn, địa lư, khí tượng…
nên c̣n gọi là Chiêm Bốc Văn Tự (văn tự
để bói toán).
Chung
Đỉnh Văn (鐘鼎文) c̣n gọi là Kim
Văn hoặc Minh Văn, là chữ viết được
khắc trên các vật dụng bằng đồng, xuất
phát từ đời Thương, thịnh hành nhất
dưới đời Châu, ghi chép những sự kiện
liên quan đến tầng lớp quư tộc
đương thời, như cúng tế, chinh phạt, sắc
phong, săn bắn… Chữ Chung Đỉnh Văn đă
cách điệu nhiều
hơn Giáp Cốt Văn và đă có diện mạo gần
giống chữ Triện về sau.
Đại
Triện (大篆) là lối chữ bắt
đầu được sử dụng vào đời Tây
Châu, tương truyền là do Thái Sử Trửu (sử quan
thời Châu Tuyên Vương) sáng chế. Hiểu theo
nghĩa rộng, Đại Triện là tất cả các lối
chữ trước khi Tiểu Triện được sáng
tạo, như những chữ Khoa Đẩu (chữ trông
giống ṇng nọc), Điểu Trùng Thư (chữ viết
giống như vết chân chim hoặc con giun) v.v... Hiểu đơn
giản, Đại Triện là lối chữ Chung Đỉnh
đă cải biến, phức tạp hơn.
Tiểu
Triện (小篆) c̣n gọi là Tần
Triện, là lối chữ được quy định
dưới thời Tần Thủy Hoàng nhằm thống nhất
chữ viết, và đơn giản hóa lối viết
Đại Triện, tương truyền là do thừa
tướng Lư Tư sáng chế. Tiểu Triện chủ yếu
dùng trong kinh sách, các bài khắc trên chuông, đỉnh, văn
bia, c̣n Lệ Thư
dùng trong các mệnh lệnh ban bố, hoặc ghi chép thông
thường. Chữ Tiểu Triện qua sự biến
đổi của nhiều thế hệ nay thường
dùng để khắc ấn.
Lệ
Thư (隸書) được phát
sinh từ Tiểu Triện dùng trong sự vụ thường
ngày v́ chữ Triện khó thể viết nhanh. Lệ Thư
có lối viết vuông vắn gần như Tiểu Triện,
nhưng mềm mại hơn. Lệ Thư thịnh hành nhất
vào đời Hán.
Lối
viết chữ chân phương, đủ nét, ngay ngắn,
được gọi là Khải Thư (楷書),
mềm mại, trang nhă, hài ḥa, cân đối, dễ đọc,
biểu lộ sự
trang trọng. Hành Thư (行書) gần giống
như Khải Thư, nhưng có thể bớt nét, viết
tháu hơn cho tiện
ghi chép nhanh chóng, hay dùng trong những
văn bản không chính thức.
Chữ
Thảo phóng khoáng, đơn giản hóa, nhiều khi một
chữ viết theo lối Khải phải nhiều nét, nhưng
viết bằng chữ Thảo th́ chỉ cần một nét.
Chữ Thảo dùng trong tốc kư, hoặc thư pháp.