Đại Phương
Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 6
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng
Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh
Tiến
Tập
1473
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống.
Xin xem phẩm Tịnh Hạnh, thứ mười một, đoạn
thứ hai trong Sớ Sao của Thanh Lương đại
sư.
(Sớ) Trần sở vấn
trung, hữu nhị thập vân hà, tổng thập nhất
đoạn, đoạn các thập cú, thành nhất bách nhất
thập chủng đức, đệ nhất đoạn,
minh tam nghiệp ly quá thành đức, nhị đắc
kham truyền pháp khí, tam thành tựu chúng huệ, tứ cụ
đạo nhân duyên, ngũ ư pháp thiện xảo, lục
tu Niết Bàn nhân, thất măn Bồ Tát hạnh, bát đắc
Thập Lực trí.
(疏)陳所問中,有二十云何,總十一段,段各十句,成一百一十種德,第一段,明三業離過成德,二得堪傳法器,三成就眾慧,四具道因緣,五於法善巧,六修涅槃因,七滿菩薩行,八得十力智。
(Sớ: Trong phần
trần thuật những điều thưa hỏi, có hai
mươi điều “như thế nào”, tổng cộng
là mười một
đoạn, mỗi đoạn gồm mười câu, hợp
thành một trăm mười loại đức. Đoạn
thứ nhất là nói tam nghiệp ĺa lỗi thành đức,
hai là đáng làm pháp khí để truyền pháp, ba là thành tựu
các thứ trí huệ, bốn là trọn đủ nhân duyên
tu đạo, năm là thiện xảo đối với
pháp, sáu là tu cái nhân của Niết Bàn, bảy là viên măn hạnh
Bồ Tát, tám là đắc Thập Lực trí).
Trong lần trước,
chúng ta đă học đến chỗ này. Nay xem tiếp
đoạn thứ chín.
(Sớ) Thập vương kính hộ.
(疏)十王敬護。
(Sớ: Mười vua kính trọng,
hộ tŕ).
Một người phát Bồ
Đề tâm, tu Phổ Hiền hạnh, mười vị
vua đều tôn kính, đều làm hộ pháp cho người
ấy. Điều này thuộc loại Tăng Thượng
Duyên. Điều thứ mười…
(Sớ) Năng vi nhiêu ích.
(疏)能為饒益。
(Sớ:
Có thể tạo lợi ích rộng lớn).
“Ích”
(益) là lợi
ích, “nhiêu” (饒) là phong nhiêu (豐饒, dồi dào).
Có nghĩa là: Có thể đem lại lợi ích thù thắng
nhất cho chúng sanh. Lợi ích thù thắng nhất là ǵ?
Người hiện thời hễ nói tới “lợi ích”,
chẳng có ai không hiểu, nhưng những cái được
gọi là “lợi ích” đều chỉ là của cải, quyền
vị, ngỡ những thứ đó là lợi ích. Chẳng
thể nói những thứ ấy không phải là lợi ích,
nhưng chúng chẳng phải là “nhiêu
ích”. V́ các lợi ích ấy chỉ có thể giải quyết
những khó khăn nhỏ nhoi trước mắt, chẳng
thể giải quyết đại sự sanh tử, chẳng
thể giải quyết vấn đề luân hồi. V́ thế,
những lợi ích ấy chẳng phải là đại lợi
ích. Người đọc sách vào thời cổ, không chỉ
là tại Trung Hoa, ở ngoại quốc cũng có rất
nhiều vị, [đều là] thật sự có học vấn,
thật sự biết nâng cao linh tánh của chính ḿnh, đều
xem rất nhẹ cuộc sống vật chất, chẳng
ghim tiếng tăm, lợi dưỡng trong ḷng. Tại Trung
Hoa, quư vị thấy Khổng, Mạnh, thấy Lăo Trang; bên
ngoại quốc, quư vị thấy Thích Ca Mâu Ni Phật. Quư
vị thấy khá nhiều nhà tôn giáo trên thế giới, những
nhà tôn giáo sáng lập tôn giáo đều v́ chúng ta thị hiện
khổ hạnh. Suốt một đời, họ chẳng
nề hà lao khổ, giáo hóa chúng sanh, khuyên hết thảy
chúng sanh đoạn ác, tu thiện, phá mê, khai ngộ, như
vậy th́ mới có thể ĺa khổ, được vui.
“Lạc”
là thật, chẳng giả. Có khi chúng ta thấy họ trọn
chẳng rời khỏi khổ! Tại Trung Hoa, Nhan Hồi
là một thí dụ tốt nhất. Nhan Hồi “đan thực, biều ẩm,
cư lậu hạng, nhân bất kham kỳ ưu, Hồi
dă bất cải kỳ lạc” (ăn cơm trong giỏ,
uống nước trong bầu, ở trong ngơ nghèo cùng, người
khác chẳng chịu được nỗi khổ ấy.
Nhan Hồi cũng chẳng biến đổi niềm vui ấy).
Khổng phu tử dùng mấy câu ấy để tán thán ông
ta. Cuộc sống vật chất của Nhan Hồi hết
sức bần khổ, chẳng có của cải, chẳng
có địa vị. Người trong xă hội nghĩ loại
người như vậy là kẻ bần tiện, “bần” (貧,
nghèo)
là chẳng có của cải, “tiện”
(賤, hèn)
là chẳng có địa vị; Nhan Hồi hoàn toàn chẳng
lo buồn v́ chuyện ấy. Mỗi ngày, ông ta hết sức
sung sướng. Nói theo kiểu hiện thời, cuộc sống
vật chất nghèo nàn, thiếu thốn, nhưng cuộc sống
tinh thần phong phú. Ông ta tôn Khổng Tử làm thầy, thật
sự học được đạo của Phu Tử[1]. “Học nhi thời tập chi, bất
diệc duyệt hồ” (Học rồi tu tập,
cũng chẳng vui sao). “Duyệt”
(悅)
là sự hỷ duyệt (喜悅, vui sướng)
từ trong nội tâm. C̣n như ông ta bần nghèo hèn, đoản
mạng, Phu Tử nói đó là “thiên
dă” (天也, mạng trời vậy), thiên
mạng! Nói theo Phật pháp, Nhan Hồi cũng là Bồ Tát thị
hiện. Tuy thời gian [thị hiện] không dài, đă
lưu lại một tấm gương tốt nhất cho
người đời sau: Hiếu học, chẳng mỏi
mệt! Phu Tử chịu dạy, ông ta chịu học, học
rất giống! C̣n đối với chuyện phú quư, bần
tiện, Nho gia nói là “thiên mạng”;
nói theo Phật pháp th́ là “nhân quả”.
Con người sanh vào thế
gian này, nói theo kinh Phật, là do có hai lực, tức “nghiệp
lực”:
1) Loại thứ nhất là
Dẫn Nghiệp (引業), dẫn dắt
quư vị đến thế gian này. Đó là nghiệp ǵ vậy?
Trong đời quá khứ, đă từng thật sự học
Ngũ Giới. Vậy th́ khi Phật pháp chưa truyền
đến Trung Hoa th́ sao? Khi [Phật pháp] chưa truyền
đến Trung Hoa, tại Trung Hoa đă có các bậc tiền
bối dạy người ta Ngũ Luân, Ngũ Thường.
Ngũ Thường là thường đạo (đạo
thường hằng), chẳng thể ĺa khỏi! “Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”: Nhân
là không sát sanh, Nghĩa là không trộm cắp, Lễ là không
dâm dục, Trí là không uống rượu, Tín là không nói dối.
Quư vị thấy đó, chẳng khác ǵ Ngũ Giới được
nói trong nhà Phật. Người ta sống cả đời,
xử sự, đăi người tiếp vật, đều
có thể dùng các đức hạnh ấy làm tiêu chuẩn. Người
có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, chẳng đánh mất thân
người, đời sau c̣n có thể sanh trong loài người.
Đấy là sức mạnh dẫn dắt quư vị đến
thọ sanh trong nhân loại.
2) C̣n như sau khi được
làm thân người, xác thực là có nghèo, giàu, sang, hèn, thọ
mạng dài hay ngắn v.v… các thứ bất đồng, là
do một loại nghiệp lực khác, gọi là Măn Nghiệp
(滿業), “măn”
(滿)
trong viên măn, cho nên gọi là Măn Nghiệp. Măn Nghiệp là do
những ǵ quư vị đă tu trong đời trước,
đời này đạt được quả báo. Trong mạng
quư vị có của cải, là do trong đời quá khứ
thích tu Tài Bố Thí. Thích tu Tài Bố Thí, chẳng keo kiệt,
sau [khi đă bố thí], chẳng có ḷng hối hận. Đời
này, quư vị được làm thân người, trong mạng
quư vị có của cải, bất luận quư vị làm nghề
ǵ, tiền tài không ngừng cuồn cuộn đưa đến,
trong mạng có sẵn mà! Nếu trong mạng chẳng có, bất
luận làm nghề ǵ, quư vị đều chẳng kiếm
được tiền. V́ thế, tiền tài tuyệt
đối chẳng phải là do người ta dùng
phương pháp xảo diệu hay mưu toan mà có thể kiếm
được! Chẳng có lẽ ấy! Đó là điều
đă định sẵn trong mạng của quư vị bởi
[những cái nhân trong] đời trước. [Đối với
cái quả] đă định sẵn bởi [nghiệp nhân đă
tạo trong] đời trước, hằng ngày đều
có cộng, trừ, nhân, chia. Một niệm tương ứng
với đạo đức, trí huệ, của cải,
đức năng sẵn có trong mạng, thậm chí thọ
mạng, đều gia tăng. Nếu trái nghịch luân lư,
đạo đức, tâm hạnh bất thiện, như vậy
th́ hằng ngày [những thiện quả tương ứng
với các nhân lành đă tạo trong quá khứ] sẽ bị
tổn giảm. Quư vị làm chuyện đại thiện,
chúng sẽ được nhân lên; làm chuyện đại
ác, chúng sẽ bị chia bớt. V́ thế, hằng ngày
đều có cộng, trừ, nhân, chia, mỗi năm đều
có cộng, trừ, nhân, chia.
Phật pháp nói rất thấu
triệt. Nếu chúng ta tham cứu thấu triệt đạo
lư ấy, trong một đời này, đoạn hết thảy
ác, tu hết thảy thiện, niệm nào cũng đều
lợi ích chúng sanh, nhiêu ích chúng sanh, niệm nào cũng “tổn
ḿnh, lợi người”, đúng rồi! Chớ nên dấy
lên ư niệm “tổn người,
lợi ḿnh”. “Tổn người,
lợi ḿnh” sẽ giảm phước. “Tổn ḿnh, lợi người” sẽ đắc
đại phước báo! Chúng ta rất giàu có, trong cuộc
sống hằng ngày, chỉ cần có thể sống vừa
phải là được rồi, chớ nên xa xỉ. Hễ
có thể giảm bớt, nhất định phải giảm
bớt chi dùng, tiết kiệm. Những tài vật đă tiết
kiệm đều bố thí cho người thiếu thốn,
nghèo khổ, thường chăm sóc mọi người, phước
báo của quư vị tăng thêm mỗi ngày. Nếu như
trong một đời, suốt mấy chục năm đều
[làm như vậy] chẳng gián đoạn, chẳng thay
đổi, chẳng ngă ḷng, phước báo lúc xế bóng sẽ
được tăng trưởng trên một mức
độ lớn, được phú quư, được
trường thọ, được tự tại như
ư. V́ thế, quư vị đă hiểu, chịu tu, đạt
được những thứ rồi th́ sao? Giúp đỡ
càng nhiều người bần cùng hơn. Trong lịch sử
Trung Hoa, ông Phạm Trọng Yêm đời Tống là một
tấm gương tốt nhất. Phạm tiên sinh là một
Phật tử kiền thành, làm đến chức Tể
Tướng. Quốc gia ban thưởng cho ông ta, do ông có
công đối với xă tắc, được ban thưởng
rất nhiều. Suốt một đời, ông Phạm sống
cuộc đời b́nh dị, tiền tiết kiệm dùng
để giúp đỡ hơn ba trăm gia đ́nh nghèo
túng. V́ thế, con cháu của ông đời đời
tương truyền, cho đến hiện thời, hậu
duệ vẫn hết sức tốt đẹp. Tổ tông
tích đức quá lớn!
Từ Ấn Quang Đại
Sư Văn Sao, chúng ta đọc thấy tổ Ấn
Quang nói Trung Hoa có ba người rất lỗi lạc:
1) Người thứ nhất
là Khổng Tử. Khổng lăo phu tử tu Pháp Bố Thí, [bằng
cách] dạy người khác. Quư vị thấy hậu đại
của Ngài truyền hơn bảy mươi đời, người
trong xă hội hiện thời vẫn tôn kính hậu duệ
của Ngài. Có một năm, tôi nghe nói tiên sinh Khổng
Đức Thành (hậu duệ của Khổng phu tử)
đến Cựu Kim Sơn, tại hải quan, người
Mỹ biết ông ta là hậu duệ của Khổng phu tử
đă đối xử với ông ta đặc biệt lịch
sự, tổ tông vẻ vang!
2) Vị thứ hai là Phạm
Trọng Yêm. Quư vị thấy gia tộc của ông ta truyền
thừa tám trăm năm chẳng suy.
3) Vị thứ ba là vào những
năm đầu triều Thanh, có một vị trạng
nguyên họ Diệp. Gia đạo của Diệp trạng
nguyên hơn ba trăm năm chẳng suy. Nhà tích đức,
nhà hành thiện, đáng cho chúng ta học tập!
Phàm là những kẻ tâm hạnh
bất thiện, tổn người, lợi ḿnh, làm những
chuyện bất thiện, có thể duy tŕ được
ba đời đều rất khó khăn. [Những ai] có
thể giữ vững ba đời là do trong quá khứ, tổ
tông tích đức to lớn. Nếu tích đức chẳng
dầy, một đời là đă tiêu rồi! Sau khi thế
hệ của chính ḿnh chết đi, con cái khiến cho gia
đ́nh suy bại! Thậm chí c̣n bi ai hơn nữa là chính
ḿnh đến lúc tuổi già bị phá sản, sự nghiệp
kinh doanh phải dẹp tiệm! Trong xă hội hiện tiền,
chúng ta thấy chuyện này quá ư là nhiều! Nếu quư vị
hỏi do nguyên nhân nào ư? Chẳng biết đoạn ác,
tu thiện, chẳng biết tích lũy công đức, chẳng
biết giúp đỡ người khác! Bồ Tát tu Phổ
Hiền hạnh; ở đây, câu đầu tiên hết sức
trọng yếu, “tam nghiệp
ĺa lỗi thành đức”. Thân, ngữ, ư nghiệp chẳng
có lỗi lầm, đương nhiên là người ấy
sẽ đem lại lợi ích chân thật cho xă hội và hết
thảy những người khổ nạn.
Câu cuối cùng là:
(Sớ) Siêu thắng tôn quư.
(疏)超勝尊貴。
(Sớ:
Tôn quư thù thắng, vượt trỗi).
“Thắng”
(勝) là thù thắng.
Vị ấy đại đức, đại nhân, đại
ái, được hết thảy đại chúng tôn trọng,
tôn sùng. Quư vị thấy kinh Phật xưng tụng Thích Ca
Mâu Ni Phật, [tức là] đại chúng tôn xưng Thích Ca
Mâu Ni Phật, gọi Ngài là Thế Tôn, [nghĩa là] “bậc đáng tôn kính nhất
trong thế gian”, cho nên gọi là Thế Tôn (世尊). [Một danh
hiệu tôn xưng khác là] Thiên Nhân Sư: Ngài không chỉ là bậc
đạo sư của nhân gian, mà chư thiên thuộc các
cơi trời thảy đều học tập theo Ngài.
Mười một đoạn
ấy đều là giới thiệu. Phẩm kinh này có tất
cả mười một đoạn. [Lời Sớ] nói:
(Sớ) Thử thập nhất
trung, nhược tựu tướng hiển.
(疏)此十一中,若就相顯。
(Sớ:
Trong mười một đoạn ấy, nếu dựa
theo tướng để chỉ rơ).
“Tướng”
(相)
là h́nh tướng, tỏ rơ ra.
(Sớ) Nhị tứ dữ lục,
thử tam duy nhân.
(疏)二四與六,此三唯因。
(Sớ:
Ba đoạn thứ hai, thứ tư và thứ sáu chỉ
nói về nhân).
Đoạn thứ hai là “kham truyền pháp khí”, đoạn
thứ tư là “đầy
đủ nhân duyên tu đạo”, đoạn thứ sáu
là “tu cái nhân Niết Bàn”, ba
điều này đều là nói theo cái nhân.
(Sớ) Bát cập thập nhất,
thử nhị duy quả.
(疏)八及十一,此二唯果。
(Sớ:
Hai đoạn thứ tám và mười một chỉ nói về
quả).
Đoạn thứ tám “đắc Thập Lực trí”,
đoạn thứ mười một là “tôn quư thù thắng vượt trỗi”, thảy
đều là nói theo quả. Những điều khác…
(Sớ) Dư thông nhân quả.
(疏)餘通因果。
(Sớ:
Những đoạn khác bao gồm nhân và quả).
Những điều khác có
nhân lẫn quả.
(Sớ) Hoặc nhiếp vi tứ
đối nhân quả.
(疏)或攝為四對因果。
(Sớ:
Hoặc gộp lại thành bốn cặp nhân quả).
Cách này cũng hợp lư,
[phân] thành bốn cặp [nhân quả].
(Sớ) Sơ nhị thập cú,
vấn phước nhân, phước quả.
(疏)初二十句,問福因福果。
(Sớ:
Hai mươi câu đầu tiên là hỏi về phước
nhân, phước quả).
Trước là nói nhân, sau là
nói đến quả.
(Sớ)
Thứ nhị thập cú, vấn huệ nhân, huệ quả.
(疏)次二十句,問慧因慧果。
(Sớ:
Hai mươi câu kế tiếp, hỏi về huệ nhân,
huệ quả).
Trước là nói đến quả,
sau là nói đến nhân.
(Sớ) Tam nhị thập cú, vấn
xảo giải nhân, quán hạnh quả. Tứ hữu
ngũ đoạn.
(疏)三二十句,問巧解因,觀行果。四有五段。
(Sớ:
Hai mươi câu thứ ba, hỏi han để khéo hiểu
cái nhân, quán cái quả của các hạnh. Hai mươi câu
thứ tư gồm có năm đoạn).
Đoạn kinh văn này rất
dài.
(Sớ) Vấn tu hành nhân, thành
đức quả.
(疏)問修行因,成德果。
(Sớ:
Hỏi về cái nhân tu hành và cái quả do thành tựu đức).
Ở đây, lại chia thành
năm tiểu đoạn.
(Sớ) Sơ nhất vi nhân.
(疏)初一為因。
(Sớ:
Tiểu đoạn thứ nhất là nhân).
Đoạn thứ nhất là nhân.
(Sớ) Dư tứ vi quả, hoặc
phân vi nhị, sơ thập vân hà.
(疏)餘四為果,或分為二,初十云何。
(Sớ:
Bốn tiểu đoạn kia là quả, có thể chia thành
hai. Mười câu “như thế nào” đầu tiên nhằm…).
Đây là mười câu hỏi.
(Sớ) Vấn Tịnh Hạnh
thể.
(疏)問淨行體。
(Sớ:
Hỏi về cái Thể của Tịnh Hạnh).
Đó là ư nghĩa của lời
hỏi về cái nhân.
(Sớ) Hậu thập vân hà, vấn
hạnh sở thành.
(疏)後十云何,問行所成。
(Sớ:
Mười câu “như thế nào” sau đó hỏi về sự
thành tựu của các hạnh).
Có ư nghĩa hỏi về quả.
(Sớ) Dĩ thiện tu Thất
Giác đẳng, diệc thị Tịnh Hạnh chi năng
cố.
(疏)以善修七覺等,亦是淨行之能故。
(Sớ:
Do khéo tu những thứ như Thất Giác v.v… cũng là do năng
lực của Tịnh Hạnh vậy).
Thất Giác là Thất Giác
Chi, trong phần sau sẽ nói đến.
(Sớ) Giai ngôn vân hà đắc
giả, vi tu hà hạnh nhi đắc chi da?
(疏)皆言云何得者,為修何行而得之耶?
(Sớ:
Đều nói là “như thế nào để đạt
được”, tức là tu hạnh nào th́ sẽ đạt
được?)
Điều này hoàn toàn chẳng
khó hiểu. “Vân hà đắc giả”: Tu cái nhân như thế nào, sẽ
đạt được cái quả như thế ấy.
V́ vậy, tu thiện nhân, nhất định đạt
được thiện quả. Quư vị tạo ác nghiệp,
chắc chắn là đạt được ác báo. Nhân duyên
quả báo chẳng sai sót mảy may!
(Sớ) Sơ thập vọng hậu,
cố thuyết vi nhân, vọng lịch duyên xảo nguyện,
thành Tịnh Hạnh thể.
(疏)初十望後,故說為因,望歷緣巧願,成淨行體。
(Sớ:
Mười câu đầu tiên do chiếu ứng với những
câu sau, nên bảo chúng là nhân, ứng với chuyện trải
qua các duyên để khéo thực hiện nguyện, trở
thành cái Thể của Tịnh Hạnh).
Đây là quả. Tuy là quả,
nó chẳng phải là viên quả.
(Sớ) Vị thị viên quả,
nhi thị phần quả.
(疏)未是圓果,而是分果。
(Sớ:
Chưa phải là quả viên măn, mà là quả có hạn cuộc).
“Viên
quả” là viên măn, “phần”
là có hạn cuộc, [“phần
quả”] chẳng phải là quả báo viên măn.
(Sớ) Cố thượng tổng
vân, cử quả trưng nhân.
(疏)故上總云,舉果徵因。
(Sớ:
V́ thế, trên đây là nói tổng quát, nêu ra cái quả ḥng gạn
hỏi cái nhân).
Đây là giới thiệu rơ
ràng. Trong từng đoạn sau, [chúng ta] sẽ thấy [rơ
ràng].
(Sớ) Kim phân vi nhị, sơ
chi nhất đoạn, tổng vấn kỳ quả.
(疏)今分為二,初之一段,總問其果。
(Sớ:
Nay chia thành hai tiểu đoạn, đoạn thứ nhất
là hỏi chung về quả).
Đoạn này rất trọng
yếu.
(Sớ) Hậu thập biệt
minh, kim sơ thập cú.
(疏)後十別明,今初十句。
(Sớ:
Mười câu sau là nói rơ từng điều, nay [luận
định] về mười câu đầu).
Đây là hỏi chung về cái quả.
Chúng ta xem kinh văn, chúng ta đều đọc cả mười
câu ấy.
(Kinh) Phật tử! Bồ Tát vân
hà đắc vô quá thất thân, ngữ, ư nghiệp?
(經)佛子。菩薩云何得無過失身語意業。
(Kinh:
Thưa Phật Tử! Bồ Tát làm thế nào để
được thân, ngữ, ư nghiệp không lầm lỗi?)
Đây là câu đầu tiên.
(Kinh)
Vân hà đắc bất hại thân, ngữ, ư nghiệp?
(經)云何得不害身語意業。
(Kinh:
Làm thế nào để được thân, ngữ, ư nghiệp
chẳng hại?)
Đây là câu “vân hà” thứ hai, câu thứ ba là…
(Kinh) Vân hà đắc bất khả
hủy thân, ngữ, ư nghiệp? Vân hà đắc bất khả
hoại thân, ngữ, ư nghiệp? Vân hà đắc bất
thoái chuyển thân, ngữ, ư nghiệp? Vân hà đắc bất
khả động thân, ngữ, ư nghiệp? Vân hà đắc
thù thắng thân, ngữ, ư nghiệp? Vân hà đắc thanh tịnh
thân, ngữ, ư nghiệp? Vân hà đắc vô nhiễm thân, ngữ,
ư nghiệp? Vân hà đắc trí vi tiên đạo thân, ngữ,
ư nghiệp?
(經)云何得不可毀身語意業。云何得不可壞身語意業。云何得不退轉身語意業。云何得不可動身語意業。云何得殊勝身語意業。云何得清淨身語意業。云何得無染身語意業。云何得智為先導身語意業。
(Kinh: Làm thế nào để
được thân, ngữ, ư
nghiệp chẳng thể hủy? Làm thế nào để
được thân, ngữ, ư nghiệp chẳng thể hoại?
Làm thế nào để được thân, ngữ, ư nghiệp
bất thoái chuyển? Làm thế nào để được
thân, ngữ, ư nghiệp chẳng thể động? Làm thế
nào để được thân, ngữ, ư nghiệp thù thắng?
Làm thế nào để được thân, ngữ, ư nghiệp
thanh tịnh? Làm thế nào để được thân, ngữ,
ư nghiệp vô nhiễm? Làm thế nào để được
trí dẫn dắt thân, ngữ, ư nghiệp?)
Mười câu này, nói chung
chính là nói về đại pháp chứng đắc tự tánh
viên măn, là đại pháp đại viên măn. Chúng ta thấy
trong Sớ Sao, Thanh Lương đại sư đă nói
rơ:
(Sớ) Đắc thử thập
chủng tam nghiệp, thành hạ thập quả.
(疏)得此十種三業,成下十果。
(Sớ:
Đạt được mười thứ tam nghiệp ấy,
sẽ thành tựu mười quả trong phần sau).
Trong phần sau là Thập Trụ.
Có nghĩa là đă đạt được mười loại
tam nghiệp thân, ngữ, ư thù thắng viên măn ấy th́ mới
có thể thành tựu quả đức của Thập Trụ
Bồ Tát. Thập Trụ Bồ Tát do tu từ địa vị
Thập Tín mà đạt được, cách tu như thế
nào? Cụ thể là như trong phẩm kinh này đă nêu ra những
thí dụ. Một trăm bốn mươi mốt bài kệ
là một trăm bốn mươi mốt nguyện, mà cũng
là một trăm bốn mươi mốt tịnh hạnh.
Có nguyện, có hạnh, nguyện chính là hạnh, hạnh chính
là nguyện, gọi là Phổ Hiền hạnh nguyện. Mười
câu này chính là tổng cương lănh của mười một
đoạn lớn trong phẩm kinh này. Sau mỗi câu đều
có một đoạn [giảng rơ] cách tu như thế nào, “vân hà đắc” (làm thế nào
để đạt được), nhằm dạy cho
quư vị biết phương pháp tu hành!
Trong phần Sớ, Thanh
Lương đại sư đă nói:
(Sớ) Do vô quá tam nghiệp, cố
siêu thắng tôn quư.
(疏)由無過三業,故超勝尊貴。
(Sớ:
Do ba nghiệp không lầm lỗi, cho nên tôn quư thù thắng
vượt trỗi).
Quư vị thấy câu hỏi
đầu tiên là: Làm thế nào để đạt
được “vô quá thất thân,
ngữ, ư nghiệp” (thân, ngữ, ư nghiệp chẳng có
lầm lỗi)? Hiện thời, thân, ngữ, ư nghiệp của
chúng ta có vô lượng lầm lỗi. Bồ Tát thuộc
địa vị Thập Trụ rất lỗi lạc, thân,
ngữ, ư nghiệp chẳng có lầm lỗi. Các Ngài vượt
thoát mười pháp giới. Không chỉ là vượt thoát
lục đạo, [mà c̣n] vượt thoát mười pháp
giới. Đến nơi đâu? Đến thế giới
Hoa Tạng, Hoa Tạng là Nhất Chân pháp giới; v́ thế,
đạt được “siêu
thắng tôn quư” (sự tôn quư thù thắng vượt trỗi).
“Siêu” (超) là vượt khỏi mười
pháp giới, là bậc đạo sư của mười
pháp giới. V́ thế, chúng ta gọi Ngài là Thế Tôn,
xưng tụng Ngài là Phật Đà. Trong Hoa Nghiêm, Sơ Trụ
Bồ Tát của Viên Giáo là Phật thật sự, chẳng
phải là giả Phật, chính là Phần Chứng Tức
Phật trong Lục Tức Phật như Thiên Thai đại
sư [đă dạy]. Trong phần trước đă có nói,
Ngài chẳng phải là viên măn quả, mà là phần quả. Tiến
cao hơn, [tức là] từ Sơ Trụ tiến lên cao
hơn, [sẽ có] bốn mươi mốt địa vị.
Trong phần sau, tôi sẽ nói, v́ sao trong phẩm Tịnh Hạnh,
[phải nói đến] một trăm bốn mươi mốt
nguyện? [Nêu ra] một trăm bốn mươi mốt
nguyện ấy là có sự chú trọng đặc biệt,
chẳng phải là nói tùy tiện!
“Một
trăm” là do Thập Tín đă viên măn, mỗi một Tín
trong Thập Tín đều có đủ Thập Tín, cho nên
mười nhân mười thành một trăm, [hợp
thành] những điều tu tập của địa vị
Thập Tín. “Bốn mươi mốt” th́ sao? “Bốn
mươi mốt” là bắt đầu từ Sơ Trụ
trong Viên Giáo, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, bốn
mươi mốt địa vị, [hợp với một
trăm nguyện trong Thập Tín] thành một trăm bốn
mươi mốt. Địa vị cuối cùng là Diệu
Giác, địa vị ấy chẳng có lầm lỗi.
Đấy là viên quả, c̣n bốn mươi mốt địa
vị này đều là phần quả, chưa đạt
đến viên măn, đều là phần quả. Chỉ cần
thuộc vào những quả ấy, sẽ là Pháp Thân Bồ
Tát, hoặc Pháp Thân Như Lai, chưa đạt tới quả
vị rốt ráo, [chưa đạt tới] viên quả, là
Phần Chứng Phật. Địa vị càng lên cao, càng
tiếp cận viên quả rốt ráo. Trong phần trước,
tôi đă từng thưa tŕnh chuyện này vài lần. Trong mười
pháp giới, có tu, có chứng; tiến lên cao hơn, c̣n có tu
chứng hay không? Chẳng thể nói là không có. Chẳng thể
nói là có. V́ sao chẳng thể nói là “không có”? V́ vị ấy
thuộc phần quả, chẳng phải là viên quả,
đương nhiên là có tu. V́ sao nói Ngài chẳng có [tu chứng]?
Tiến lên cao, từ Sơ Trụ trong Viên Giáo tiến lên
cao, các lỗi lầm nơi ba nghiệp đều rời
ĺa, cũng có nghĩa là: Các Ngài không chỉ chẳng có phân
biệt, chấp trước, mà khởi tâm động niệm
cũng chẳng có. Các Ngài tu hành chẳng có dấu vết! Không
chỉ là quư vị không thấy, quư vị có nghĩ cũng
chẳng nghĩ được! Đó gọi
là “tâm hành xứ diệt, ngôn ngữ
dứt bặt”. Chúng ta chỉ đành khen ngợi các vị
ấy là “siêu thắng tôn quư”, xưng tụng
họ là Thế Tôn. Câu này là “tổng
thuyết” (nói tổng quát).
Tiếp đó, [lời Sớ]
viết:
(Sớ) Do bất khuể hại.
(疏)由不恚害。
(Sớ:
Do chẳng bị hại bởi sân khuể).
Đấy chính là nói đến
“vân hà đắc bất hại
thân, ngữ, ư nghiệp” (làm thế nào để
được thân, ngữ, ư nghiệp chẳng hại). “Khuể” (恚) là sân khuể (瞋恚, nóng giận),
ghen tỵ. Do sân khuể mới có thể hại người.
Người nào chẳng có sân khuể, sẽ chẳng có ḷng
ghen tỵ. V́ thế, người ấy chẳng có ư niệm
tổn hại hết thảy chúng sanh. Không tổn hại
chúng sanh th́ nh́n theo khía cạnh khác, sẽ là lợi ích, tôn
trọng, bao dung, yêu thương, che chở, giúp đỡ
chúng sanh.
(Sớ) Cố thường vi
nhiêu ích.
(疏)故常為饒益。
(Sớ:
Cho nên thường tạo lợi ích thù thắng).
Bọn phàm phu chúng ta, nhất
là trong xă hội hiện thời, kẻ b́nh phàm chưa từng
tiếp nhận giáo huấn của thánh hiền, oán khí
đầy bụng, oán trời, hờn người, đầy
ắp phẫn hận, ghen tỵ. Luôn thấy ta không bằng
kẻ khác, địa vị của ta thua kém người
khác, thu nhập của ta không bằng người ta, sự
hưởng thụ của ta chẳng bằng người
khác. Tôi nghe nói có khá nhiều sinh viên đại học tự
sát, v́ sao tự sát? Oán hận đầy bụng! [Tự sát]
có thể giải quyết vấn đề hay không? Chẳng
thể! Nếu quư vị thường xuyên đọc kinh
Phật, sẽ biết quư vị đến thế gian này
nhằm đền trả nghiệp báo trong đời quá
khứ. Sau khi đă hiểu rơ, vận mạng bần tiện
bèn yên bề bần tiện. Ta tạo nhân, ta luôn phải tiếp
nhận quả báo. Trong mạng là phú quư, sẽ yên phận phú
quư. Người hiểu rơ Lư, người liễu giải chân
tướng sự thật, suốt đời chẳng oán
trời, chẳng hờn người. Huống chi vận mạng
c̣n có thể sửa đổi, chư vị đọc Liễu
Phàm Tứ Huấn sẽ hiểu rơ!
Trong Phật môn thường
nói: “Phật thị môn trung, hữu
cầu tất ứng” (Trong cửa nhà Phật, có cầu
ắt ứng). Thiền sư Vân Cốc dạy tiên sinh Viên
Liễu Phàm đạo lư này. Ông ta hiểu, giác ngộ, nghiêm
túc nỗ lực sửa lỗi, đổi mới, đoạn
ác, tu thiện, tích lũy công đức; quả nhiên không đầy
ba năm, vận mạng chuyển biến tốt hơn,
càng chuyển, càng tốt đẹp. Trong mạng chẳng
có công danh, [thế mà] ông ta đạt được công
danh. Trong mạng phú quư hữu hạn, ông ta tăng thêm phú
quư. Trong mạng chỉ thọ năm mươi ba tuổi,
ông ta sống đến bảy mươi bốn tuổi,
kéo dài tuổi thọ hai mươi năm. Trong mạng
không có con cái, ông ta có một con trai ngoan ngoăn tên là Thiên Khải.
V́ thế, vận mạng do chính ḿnh thao túng, chẳng do ai
khác an bài. Người khác nói sẽ sửa đổi vận
mạng thay cho quư vị là giả trất,
chẳng đáng tin! Há có đạo lư ấy! Thầy bói nói
“ta sửa đổi vận mạng cho quư vị, quư vị
phải đưa ta bao nhiêu tiền”, hắn lừa gạt
quư vị đấy! Nếu gă đó có thể sửa đổi
vận mạng, v́ sao hắn không sửa đổi vận
mạng của chính ḿnh? [Vận mạng của] chính hắn
c̣n chẳng sửa đổi được, hắn làm
sao có thể sửa đổi vận mạng của
người khác được chớ? Phật pháp nói “sửa
đổi vận mạng” là do chính bản thân quư vị,
chẳng do Phật. Phật, Bồ Tát chẳng giúp
được! Phật, Bồ Tát dạy quư vị
phương pháp, dạy quư vị “quay đầu là bờ”, sửa lỗi, đổi
mới, mỗi ngày phải phát hiện lầm lỗi của
chính ḿnh, sửa đổi lầm lỗi của chính ḿnh. Đó
là thật sự tu hành!
Tu đến mức thân, ngữ,
ư của chính ḿnh hoàn toàn chẳng có lầm lỗi, quư vị
bèn tương ứng với phẩm Tịnh Hạnh của
Hoa Nghiêm. Chúc mừng quư vị! Quư vị không chỉ vượt
thoát lục đạo luân hồi, mà c̣n vượt thoát
mười pháp giới, công đức ấy sẽ chẳng
thể nghĩ bàn. Đấy là “nhiêu
ích” thật sự. Sân khuể gây hại hết sức nghiêm
trọng! Kinh Đại Thừa thường nói: “Một niệm sân tâm khởi,
trăm vạn cửa chướng mở”. Người
khác đúng là vô duyên, vô cớ [đối xử tệ hại
với chúng ta]. Chúng ta dùng thiện tâm đối đăi kẻ
khác, người ta dùng ác ư báo đáp, quư vị có tâm sân khuể
hay không? Nếu quư vị có tâm sân khuể, phải lập tức
giác ngộ. Tâm sân khuể của ta dấy lên, đối
phương bị hại nhỏ, chính ḿnh bị hại to
lớn. Ta báo thù họ, căm hận họ, đối phương
bị hại tối đa là ba phần, chính ḿnh bị hại
tối thiểu bảy phần. Chư vị phải biết:
Đúng là “cái được chẳng bù nổi cái mất”,
sai mất rồi! Nếu ư niệm của quư vị đă
chuyển, [dẫu cho] ta có ân đức đối với
kẻ ấy, [thế mà] kẻ ấy vong ân phụ
nghĩa, c̣n toan hủy báng ta, làm nhục ta, tổn
thương ta, ta hoàn toàn tha thứ kẻ ấy, hoàn toàn chẳng
để tâm. Chẳng có ḷng oán hận mảy may, lại càng
chẳng có ư niệm báo thù. Đấy
là chính ḿnh đă tu đại đức.
Đại
đức này là do đối phương thành tựu [cho
quư vị, nếu] chẳng có ác hạnh của đối
phương, [quư vị] làm thế nào biết công phu của
chính ḿnh [đến mức độ nào]?? Làm thế nào để biết
sự hàm dưỡng của chính ḿnh? V́ thế, không chỉ
là chẳng có tâm oán hận, mà trái lại c̣n có tâm cảm
ơn. Chẳng sai! [Những kẻ ấy] đối xử
với ta như vậy nhằm khảo nghiệm công phu của
ta đă đạt đến tŕnh độ nào! Khi đối
phương gặp tai nạn, gặp khó khăn, hễ
chúng ta biết, nhất định phải giúp đỡ kẻ
ấy. Đó gọi là “tích
lũy công đức”. Trong kinh, đức Phật
thường dạy chúng ta: “Bất
niệm cựu ác, bất tắng ác nhân” (Chẳng
nghĩ tới điều ác cũ, chẳng ghét kẻ ác). [Bởi
lẽ], kẻ ấy vong ân phụ nghĩa, nói theo hiện
thời, sẽ là chuyện b́nh thường, v́ sao? Kẻ
đó chưa từng được tiếp nhận sự
giáo dục của thánh hiền, chẳng biết chân tướng
của vũ trụ và nhân sinh, chẳng biết lư luận
và sự thật của nhân quả báo ứng, mới làm ra
những chuyện bất thiện ấy, làm sao có thể
so đo với kẻ ấy cho được? V́ thế, trông
thấy [những chúng sanh đó] chỉ sanh ḷng
thương xót, đồng t́nh, cảm thương, chẳng
sanh sân khuể. Đấy mới là “thường vi nhiêu ích” (thường tạo lợi
ích thù thắng).
Chúng ta làm như vậy, nhất
thời kẻ đó không hiểu. Mấy năm sau, kẻ
đó dần dần sẽ nghĩ: “Người ấy
đúng là một người tốt, ta có ác ư đối với
hắn, hắn vẫn đối xử với ta bằng thiện
ư. Khi ta gặp khó khăn, hắn vẫn vui vẻ giúp đỡ
ta”. Nói chung, sẽ có một ngày lương tâm của kẻ
đó thức tỉnh, sẽ quay đầu. Đồng thời,
làm như vậy cũng sẽ khiến cho người xung
quanh bị cảm động. “Thiện
hạnh” là ǵ? Làm mẫu cho người ta thấy, chẳng
phải là miệng nói suông! A! Bây giờ đă hết thời
gian rồi, chúng ta nghỉ ngơi mấy phút!
***
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống.
Chúng ta xem tiếp phần Sớ kế đó.
(Sớ) Do vô dư Hoặc, bất
khả cơ hủy, cố thập vương kính hộ.
(疏)由無餘惑,不可譏毀,故十王敬護。
(Sớ:
Do chẳng c̣n phiền năo sót lại, chẳng thể chê
bai, hủy báng, cho nên được mười vua kính trọng,
hộ tŕ).
“Dư
Hoặc” (餘惑) được
nói ở đây chính là tập khí. Trong kinh, đức Phật
dạy chúng ta: Tứ Quả A La Hán đoạn Kiến
Tư phiền năo, hăy c̣n có tập khí, tức là Dư Hoặc
hăy c̣n. Thật sự chẳng có tham, sân, si, mạn, nhưng
những tập khí tham, sân, si sẽ có lúc hiện hành. Đức
Phật đă nêu rất nhiều thí dụ về tập
khí khó đoạn. A La Hán đến khi nào mới có thể
đoạn tập khí? [Khi đạt tới] quả vị
Bích Chi Phật. Trong Hoa Nghiêm, A La Hán là địa vị Thất
Tín; đạt đến địa vị Bát Tín, tập
khí [Kiến Tư Hoặc] mới đoạn, Trần Sa
phiền năo chưa đoạn. Đạt đến địa
vị Cửu Tín, Trần Sa phiền năo mới đoạn.
Địa vị Thập Tín, tập khí Trần Sa phiền
năo cũng chẳng có. V́ thế, ở đây nói “vô dư Hoặc”, nghĩa là tập
khí Kiến Tư và tập khí Trần Sa đều chẳng
có. “Bất khả cơ hủy”
(Chẳng thể chê bai, hủy báng): Có kẻ nào trong thế
gian châm chọc người ấy hay không? Có kẻ hủy
báng người ấy hay không? Có chứ!
Không chỉ là Bồ Tát thuộc địa vị Thập
Tín [bị hủy báng], Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, nam-mô
A Di Đà Phật, nam-mô Tỳ Lô Giá Na Phật[2], trong
xă hội hiện thời, có kẻ nào chẳng tôn trọng
các Ngài hay không? Có kẻ nào hủy báng các Ngài hay không?
Có kẻ nào lăng nhục các Ngài hay không? Có chứ, rất
nhiều! Kẻ chẳng tin Phật pháp mặc t́nh phá hoại
h́nh tượng Phật và Bồ Tát.
Mấy năm trước, tại
A Phú Hăn (Afghanistan) có một bức tượng Phật lớn
đă tồn tại bảy trăm năm bị họ
đặt chất nổ phá hủy. Tin tức ấy truyền
đi khắp thế giới. Nhằm lúc đó, tôi ở
Hương Cảng, đài truyền h́nh Phượng Hoàng đến
phỏng vấn tôi, hỏi cách nh́n của tôi đối với
chuyện này. Tôi cảm thấy đấy là chuyện rất
đáng tiếc. V́ đấy là một loại, nói theo kiểu
hiện thời là “di tích cổ”, là tác phẩm nghệ thuật,
là quốc bảo của một quốc gia. Quư vị đừng
nên coi nó là tôn giáo, đừng coi là dị giáo! Đó là một
tác phẩm nghệ thuật đă có từ bảy trăm
năm. V́ vậy, rất đáng tiếc! Tôi chỉ có thể
phát biểu như vậy. V́ sao? V́ những kẻ phá hoại
ấy vô tri, họ không biết. Nếu họ thật sự
hiểu, sẽ chẳng phá hoại. Nói theo hiệu quả lợi
ích kinh tế trong hiện thời, cũng chẳng nên phá hoại!
Do là đồ cổ đă có lịch sử bảy trăm
năm, sẽ có thể đem lại bao nhiêu du khách ngoạn
cảnh, đấy là nguồn hấp dẫn du lịch tốt
nhất. Hiện thời, mỗi quốc gia đều biết
mở rộng du lịch văn cảnh; đó là nguồn thu
hút du lịch tốt nhất. V́ lẽ đó, phá hoại rất
đáng tiếc! Nghe nói có người phát tâm muốn khôi phục
bức tượng ấy, đấy cũng là chuyện tốt.
V́ thế, nói là “bất khả
cơ hủy” (chớ nên gièm chê, hủy báng). Con người
vô tri, nhưng quỷ thần biết, thiên thần biết,
họ tôn kính quư vị. V́ thế, “thập vương kính hộ” (mười vị
vua kính trọng, hộ tŕ). “Thập
vương” ở đây chính là quỷ vương. Quỷ
vương tôn kính, hộ tŕ; thiên vương càng chẳng
phải là ngoại lệ.
Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật
thị hiện thành đạo, chư thiên Tịnh Cư
thay chúng ta thỉnh pháp. Nếu họ chẳng thay chúng ta thỉnh
pháp, Thích Ca Mâu Ni Phật sẽ thị hiện diệt
độ, [v́] không có ai khải thỉnh. Tịnh Cư
Thiên thuộc Tứ Thiền Thiên. Tứ Thiền Thiên rất
đặc thù, là cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Tứ Thiền
có chín tầng trời, trong đó, có ba tầng trời thuần
túy dành cho chư thiên thật sự của Tứ Thiền
cư trụ. Ngoài ra, c̣n có một loại gọi là Vô
Tưởng Thiên, người tu Vô Tưởng Định
tu hành tại đó. Có thể thấy công năng của môn
Định ấy khá cao, có thể đạt tới Tứ
Thiền Thiên. Những tầng trời c̣n lại là nơi các
vị thánh nhân, Tiểu Thừa A La Hán và một số
Đại Thừa Bồ Tát tu hành trong đó. Chỗ các
Ngài ở được gọi là Tịnh Cư Thiên, hoặc
Ngũ Bất Hoàn Thiên. Bất Hoàn (不還) có nghĩa là
chẳng đến nhân gian; tu hành ở nơi đó có thể
vượt thoát lục đạo. Vượt thoát lục
đạo, bèn sanh vào tứ thánh pháp giới. Có người
sanh làm Thanh Văn, có người sanh làm Duyên Giác, có người
sanh làm Bồ Tát, cao nhất là Phật [pháp giới] trong mười
pháp giới. Thiên Thai đại sư nói “Tương Tự Tức Phật” chính là nói về
Phật trong mười pháp giới, chẳng phải là Phần
Chứng Phật. Quả báo Tương Tự Tức Phật
chẳng thật, [quả báo như đang nói] ở
đây, trong phần trước đă có nói, tuy là phần
quả, nhưng nó là thật, chẳng phải là giả! Quả
báo trong mười pháp giới chẳng chân thật, nhất
định phải biết điều này. Người, trời
mê hoặc, tà tri, tà kiến, chẳng biết tôn trọng
thánh hiền, chẳng biết tôn trọng thánh giáo, nhưng
chư thiên, quỷ thần biết, họ tôn trọng. Do vậy,
kinh nói là “thập vương
kính hộ”, không phải là nói đến [đế
vương trong] nhân gian, không nói đến những kẻ
đó, mà là nói tới quỷ vương. Quỷ vương
tôn kính, hộ tŕ. Câu thứ tư là nói:
(Sớ) Do ác duyên bất khả
hoại, đắc Phật Thập Lực.
(疏)由惡緣不可壞,得佛十力。
(Sớ:
Do ác duyên chẳng thể hoại mà đắc Thập Lực
của Phật).
Đấy là “vân hà đắc bất khả hoại thân, ngữ,
ư nghiệp” (làm thế nào để đạt
được thân, ngữ, ư nghiệp chẳng thể hoại).
“Ác duyên”: Duyên có hoàn cảnh vật
chất và hoàn cảnh nhân sự. Đấy chẳng phải
là thiện duyên, mà là ác duyên. Luôn nghĩ đến gây
chướng ngại, đến phá hoại, có thể phá
hoại hay không? Chẳng thể! V́ sao chẳng thể? Người
ấy đă “đắc bất
khả hoại thân, ngữ, ư nghiệp”. Thân thể có sanh,
có diệt, là vô thường; linh tánh bất sanh bất diệt,
Tánh Đức bất sanh bất diệt. V́ thế, đạt
được Thập Lực nơi quả địa của
Phật. Trong phần trước, đă giới thiệu
Thập Lực cùng quư vị. Thứ năm…
(Sớ) Do tu hành bất thoái chuyển,
măn Bồ Tát hạnh.
(疏)由修行不退轉,滿菩薩行。
(Sớ:
Do tu hành chẳng thoái chuyển, viên măn hạnh Bồ Tát).
Ở đây, chúng ta phải
đặc biệt chú trọng chữ Măn (滿). Viên măn tâm Thập
Tín, sẽ ĺa khỏi mười pháp giới, sanh vào Hoa Tạng.
Chúng ta đọc đoạn kinh văn này th́ cũng mới
thật sự thấu hiểu: Thoát ly lục đạo, thoát
ly mười pháp giới, tuyệt đối chẳng phải
là một chuyện dễ dàng! V́ thế, Phật, Bồ Tát
thường nói: Trong thời kỳ Mạt Pháp, nếu
không tu Tịnh Độ, chẳng cầu văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới, chẳng có kẻ
nào có thể tự ḿnh thành tựu. Quư vị xem mười
câu này bèn hiểu, quư vị sẽ nói: “Khó khăn lắm!”
V́ thế, được làm thân người, nghe Phật
pháp, rất may mắn! Có thể nghe pháp môn Tịnh Độ
chính là may mắn nhất trong các điều may mắn, quư
vị quá may mắn! V́ sao? Trong đời này, quư vị c̣n
có cơ hội vượt thoát mười pháp giới, văng
sanh thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc
không thuộc vào mười pháp giới, đă vượt
thoát! Nói cách khác, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới, dẫu là hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm
Thánh Đồng Cư, vẫn có thể nói là “viên măn Bồ
Tát hạnh”. Đến Tây Phương Cực Lạc thế
giới, sẽ bất thoái chuyển, chứng trọn vẹn
ba thứ bất thoái.
Chúng ta phải tin tưởng
đức Thế Tôn không nói dối, Phật Di Đà không nói
dối, mười phương chư Phật không nói dối,
[các Ngài] khác miệng cùng lời khuyên lơn, khích lệ
chúng ta thân cận A Di Đà Phật, văng sanh thế giới
Cực Lạc, thành tựu viên măn trong một đời. Thành
tựu là viên quả, chẳng phải là phần quả, đấy
là chuyện hết sức chẳng thể nghĩ bàn! Đối
với Bồ Tát hạnh, xét theo giáo pháp Đại Thừa
thông thường, dùng Lục Độ là có thể bao gồm
trọn hết, trong kinh Hoa Nghiêm th́ [Bồ Tát hạnh] là Thập
Ba La Mật, c̣n phải kể thêm Tứ Vô Lượng Tâm.
Do vậy, thường nói là Lục Độ Tứ Đẳng,
Tứ Đẳng là “từ, bi, hỷ, xả”, tức Tứ
Vô Lượng Tâm, đă tu đến mức viên măn. Đấy
là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo. Câu thứ sáu:
(Sớ) Do viễn ly chư tướng,
như như bất động, thành Niết Bàn nhân.
(疏)由遠離諸相,如如不動,成涅槃因。
(Sớ:
Do xa ĺa các tướng, như như bất động,
thành cái nhân Niết Bàn).
[Câu này tương ứng với
câu] “vân hà đắc bất khả
động thân” (làm thế nào để được
thân chẳng thể động) trong kinh văn. Đây là
nói tới cái nhân của Niết Bàn. V́ thế, ở chỗ
này, nói là “như như bất
động”. V́ sao có thể như như bất động?
Xa ĺa các tướng. Kinh Kim Cang đă nói rất hay: “Bất thủ ư tướng,
như như bất động” (chẳng chấp giữ
tướng, như như bất động). Nếu lục
căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài mà quư vị
chấp tướng, cái này đẹp mắt, cái kia dễ
nghe, cái này ăn ngon… Đối với hết thảy các tướng
bên ngoài, quư vị dấy khởi tham, sân, si, mạn, dấy
khởi tâm phân biệt ưa ghét, tâm quư vị bị động.
Tâm động th́ chẳng phải là cái nhân của Niết
Bàn, đó là cái nhân luân hồi. V́ vậy, đối với
chỗ này, bản thân chúng ta phải quay đầu lại,
hồi quang phản chiếu, sẽ hiểu rơ ngay. Chúng ta từ
sáng đến tối sáu căn tiếp xúc cảnh giới
sáu trần, sẽ thành tựu cái nhân Niết Bàn, hay thành tựu
cái nhân luân hồi? Chuyện này chẳng thể không nghiêm
túc phản tỉnh! Nếu mỗi ngày vẫn là tạo cái
nhân luân hồi, [vậy th́] đời này mong cầu sanh Tịnh
Độ sẽ chẳng có hy vọng đâu nhé!
Nếu mong văng sanh thế giới
Cực Lạc, hết thảy cảnh duyên trong thế giới
này ắt đều phải buông xuống. “Cảnh” là nói về hoàn cảnh vật chất, “duyên” là nói tới hoàn cảnh
nhân sự, hăy triệt để buông xuống! Không chỉ
là chẳng có phân biệt, chấp trước, mà ngay cả
khởi tâm động niệm cũng đều chẳng
có. Đương nhiên, nói lời này dễ dàng, thực hiện
rất ư là khó! Quư vị có thể chẳng khởi tâm, không
động niệm, chẳng phân biệt, không chấp
trước, quư vị văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới, sẽ sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Quư vị
c̣n khởi tâm động niệm, nhưng xác thực là chẳng
có phân biệt, chấp trước. Do chẳng có phân biệt,
chấp trước, sẽ sanh vào cơi Phương Tiện
Hữu Dư. Chúng ta chỉ có thể đối với hết
thảy các pháp không chấp trước, nhưng hăy c̣n có phân
biệt. Do không chấp trước, đă buông chấp
trước xuống, nhưng vẫn c̣n có vọng tưởng
và phân biệt, sẽ sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư.
Do vậy có thể biết: Niệm Phật là tu công phu, tu
công phu ǵ vậy? Tối thiểu là đối với hết
thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều chẳng
chấp trước. Trong Tịnh Độ, điều
này được gọi là tạo thành cái nhân Niết Bàn, “chẳng chấp lấy tướng,
như như bất động”. Phải thấy rơ ràng
chân tướng của các tướng, “phàm những ǵ có h́nh tướng, đều là
hư vọng”, đều là chẳng chân thật. Chớ
nên không biết điều này! Câu thứ bảy…
(Sớ) Do đức hạnh thù
thắng, cố ư thiện pháp xảo.
(疏)由德行殊勝,故於法善巧。
(Sớ:
Do đức hạnh thù thắng, cho nên thiện xảo
nơi các pháp).
Trong phần sau, chúng ta sẽ
thấy mười thứ thiện xảo; đến chỗ
ấy, tôi sẽ lại nói cặn kẽ với quư vị.
“Thiện xảo” (善巧) là trí huệ
khởi tác dụng, do đâu mà có? Đức hạnh. Trong
đức hạnh có trí huệ, trí hướng dẫn; v́
thế, đức hạnh thù thắng. Những ǵ bọn
phàm phu chúng ta đă làm đều là nghiệp, nói khó nghe sẽ
là tội! Tội nghiệp! Chẳng có đức. V́ sao?
Phiền năo dẫn dắt, tham, sân, si, mạn dẫn dắt,
lẽ nào quư vị chẳng tạo tội? Làm sao quư vị
chẳng tạo nghiệp! Bồ Tát đoạn sạch tham,
sân, si, mạn, tam nghiệp thanh tịnh, đă đoạn
sạch. V́ thế, chuyển phiền năo thành Bồ Đề.
Được Bồ Đề dẫn đường,
đương nhiên là đức hạnh thù thắng. Đấy
mới là đạt được phương tiện
thiện xảo trong hết thảy các pháp.
Câu thứ tám là nói “vân hà đắc thanh tịnh
thân, ngữ, ư nghiệp” (làm thế nào để đạt
được thân, ngữ, ư nghiệp thanh tịnh).
(Sớ) Do Thể thanh tịnh
như hư không, cố thành cụ đạo duyên.
(疏)由體清淨如虛空,故成具道緣。
(Sớ:
Do Thể thanh tịnh như hư không, nên tạo thành nhân
duyên tu đạo trọn đủ).
“Thể”
có hai loại, có Tánh Thể và Chất Thể. Tánh là Pháp Tánh,
nó chẳng phải là vật chất, cũng chẳng phải
là tinh thần, nó vốn sẵn thanh tịnh. Tuy vốn sẵn
thanh tịnh, nay chúng ta đang mê, mê mất tự tánh, tự
tánh chẳng thể nắm quyền làm chủ. Kẻ nắm
quyền làm chủ là ǵ? Tập tánh. Tập tánh là A Lại
Da, tám thức, năm mươi mốt Tâm Sở, chúng nó làm
người cầm quyền, sai mất rồi! Khi nào quư vị
có thể thấy thấu suốt tám thức và năm
mươi mốt Tâm Sở, thấy thấu suốt điều
ǵ? Chúng chẳng có tự tánh, chẳng có tự thể. Thật
sự là “vô sở hữu, tất
cánh không, bất khả đắc” (chẳng sở hữu,
rốt ráo không, chẳng thể được), sự
thanh tịnh của quư vị liền được khôi phục.
Tánh Thể và Chất Thể
đều chẳng tồn tại, quyết định chẳng
thể dấy lên vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước. V́ thế, thành tựu đầy đủ
nhân duyên tu đạo. Bất luận quư vị ở trong
thuận cảnh hay trong nghịch cảnh, bất luận
quư vị gặp thiện duyên hay ác
duyên, thảy đều là nhân duyên trợ đạo, giúp quư
vị thành tựu. Trong thuận cảnh, thiện
duyên, quư vị thấy thấu suốt, chẳng có mảy
may tham luyến, chẳng sanh tham luyến. Trong nghịch cảnh,
ác duyên, chẳng sanh sân khuể. Quư vị thấy bất luận
hoàn cảnh nào, cũng đều giúp quư vị đoạn
tham, sân, si. Đoạn tham, sân, si là thành tựu Giới,
Định, Huệ. Một trăm bốn mươi mốt
nguyện trong phần sau, mỗi nguyện đều thành
tựu trọn đủ nhân duyên tu đạo. V́ sao? Chính
là do Thể thanh tịnh như hư không.
Câu thứ chín là “vân hà đắc vô nhiễm thân,
ngữ, ư nghiệp” (làm thế nào để đắc
thân, ngữ, ư nghiệp vô nhiễm). “Nhiễm” (染) là nhiễm ô.
(Sớ) Do thiệp cảnh vô nhiễm,
cố đắc kham truyền pháp khí.
(疏)由涉境無染,故得堪傳法器。
(Sớ:
Do tiếp xúc cảnh mà chẳng nhiễm, nên có thể kham
làm pháp khí để truyền thừa pháp).
“Cảnh”
(境) là cảnh giới. Trong phần trước,
đă nói về thuận cảnh, nghịch cảnh, ác duyên,
thiện duyên. Giống như năm mươi ba lần
tham học của Thiện Tài đồng tử. Năm mươi
ba lần tham học quả thật đă tỏ rơ cảnh
thuận nghịch, duyên thiện ác. Thiện Tài tham học trọn
đủ Phật pháp, tiếp xúc cảnh mà chẳng nhiễm.
Kinh Kim Cang đă giáo huấn: “Chẳng
giữ lấy tướng, như như bất động”,
Ngài đă thật sự làm được! V́ thế, trải
qua sự việc để luyện tâm, luyện ǵ vậy?
Luyện chẳng nhiễm đắm. Trong hết thảy
các cảnh duyên, hiểu rành rẽ, rơ ràng, trí huệ đấy
nhé! Chẳng nhiễm, chẳng chấp, đấy là công
phu định lực! Sở học của người ấy
là “Định Huệ đẳng
tŕ” (Định và Huệ giữ cân bằng), trong Định
có Huệ, trong Huệ có Định. Định và Huệ
tăng trưởng, không khởi phiền năo, “nhiễm” là phiền năo. V́ lẽ
đó, người ấy đáng là pháp khí để truyền
pháp. Người nào có thể truyền pháp của đức
Thế Tôn? Người như vậy sẽ thỏa điều
kiện. Có thể thấy: Truyền pháp chẳng đơn
giản!
Từ Lục Tổ Đàn
Kinh, chúng ta thấy Ngũ Tổ Nhẫn ḥa thượng truyền
y bát cho Huệ Năng đại sư, chẳng truyền
y bát cho Thần Tú. Do nguyên nhân ǵ? Chư vị hăy suy nghĩ
hai bài kệ do hai vị ấy đă làm, sẽ hiểu ngay.
Bài kệ của ngài Thần Tú là: “Thân thị Bồ Đề thụ, tâm như minh
kính đài, thời thời cần phất thức, vật
sử nhạ trần ai” (Thân là cội Bồ Đề,
tâm như đài gương sáng, thường siêng năng
lau chùi, đừng để nhuốm bụi bặm).
Đối chiếu với tiêu chuẩn này, Ngài (Thần Tú)
tiếp xúc cảnh có bị nhiễm hay không? Có nhiễm! Hằng
ngày, Ngài vẫn phải lau chùi, sợ dính phải bụi bặm.
Bài kệ của Huệ Năng đại sư là: “Bồ Đề bổn vô thụ,
minh kính diệc phi đài, bổn lai vô nhất vật, hà xứ
nhạ trần ai?” (Bồ Đề chẳng phải
cây, gương sáng chẳng phải đài, vốn chẳng
có vật ǵ, chỗ nào vướng bụi trần?) Ngài
không chỉ là vô nhiễm, mà ngay cả cảnh cũng chẳng
có. Nói đến thân, nói đến tâm, tức là có cảnh.
Thân và tâm đều chẳng có, cảnh đều chẳng
có, lấy đâu ra nhiễm? Quư vị hăy ngẫm xem, y bát
nên truyền cho ai? Đương nhiên Huệ Năng đại
sư là pháp khí để truyền pháp, Ngài tiếp nhận
ngôi vị Tổ là chuyện đúng lư. Chúng ta phải hiểu
đạo lư này.
Câu cuối cùng là “vân hà đắc trí vi tiên đạo
thân, ngữ, ư nghiệp” (làm thế nào để trí
hướng dẫn thân, ngữ, ư nghiệp), câu này hết
sức quan trọng.
(Sớ) Do trí tiên đạo, cố
thành tựu chúng huệ.
(疏)由智先導,故成就眾慧。
(Sớ:
Do trí dẫn đường, nên thành tựu các huệ).
Trong
quá tŕnh học tập của chúng ta trong hiện tiền,
câu này là nguyên tắc chỉ đạo rất trọng yếu.
“Trí” là lư trí, tương phản
của lư trí là cảm t́nh. Xử sự theo cảm t́nh, chẳng
thể nào không xuất hiện rối loạn được!
Trong cảm t́nh có ưa ghét, ta thích kẻ này, ưa chuyện
này, ghét kẻ kia, chẳng ưa chuyện nọ, các thứ
tệ hại ồ ạt nẩy sanh từ chỗ này, vấn
đề quá nhiều! Nếu nói lư trí làm chủ tể, gạt
cảm t́nh sang một bên, suy xét đối với người
cũng thế, mà đối với sự, đối với
vật cũng thế, nên hay không nên, đúng pháp hay không
đúng pháp, quư vị sẽ giảm bớt lầm lỗi!
Sắp đến Tết rồi!
Vào dịp Tết, người Hoa có tập tục tặng
quà. Đối với trưởng bối, đối với
bạn bè, đó là sự lễ phép, nhằm duy tŕ cảm
t́nh giữa con người với nhau. Lễ sẽ có tiết,
“tiết” (節) là chừng mực, [nghĩa
là] chớ nên quá lố, mà cũng chớ nên sơ sài. Quá lố
sẽ lộ vẻ bợ đỡ, người hiện
thời gọi là “hối lộ”, quá lố rồi! Nếu
quá sơ sài, sơ sài tức là biểu lộ sự ngạo
mạn, đều là không hay! Nhất định là phải
có chừng mực. Chừng mực ấy do quốc gia chế
định, hay lắm, nhất định phải tuân thủ,
có phong tục và t́nh cảm giữa con người với
nhau được đời đời truyền thừa.
Ví như vào dịp Tết, chúng ta biếu quà cho trưởng
bối, trước kia, chúng tôi ở nông thôn, biếu những
vật ǵ? Đại khái là biếu hai cân thịt, biếu
một con gà, biếu hai cân ḿ, biếu cho người già
ăn Tết. Đấy là có quy củ, có chừng mực.
Nếu quư vị nói ta biếu bốn cân thịt, biếu
hai con gà, ta lại biếu bốn, năm cân ḿ, quá lố rồi.
Nếu nói ta chỉ biếu hai cân thịt, gà và ḿ đều
chẳng biếu, hoặc ta chỉ biếu hai cân ḿ, những
thứ khác đều chẳng có, không đủ, chưa
đến mức! Nhất định là phải phù hợp
chừng mực.
Người ngoại quốc
cũng có [chừng mực trong việc tặng quà], như
chúng tôi ở Úc, chánh phủ Úc quy định: Các viên chức
nhận quà tặng của người khác, theo nguyên tắc
[giá trị của món quà tặng] không quá một trăm
đồng! Vượt quá một trăm đồng, sẽ
là hối lộ, sẽ phạm tội. Có tiêu chuẩn, mọi
người đều biết tuân thủ. Bất luận
là quư vị tặng phong b́, hoặc mua quà tặng, giá trị
của món quà đều chẳng hơn một trăm
đồng. Người nhận rất hoan hỷ, người
tặng quà không đến nỗi phung phí quá mức. Quư vị
thấy mỗi khía cạnh đều được quan
tâm, trí dẫn đường mà! Nếu xử sự dựa
theo cảm t́nh, “người này đối đăi khá lắm,
hoặc là c̣n có giá trị lợi dụng, ta phải hối
lộ cho nhiều”, phạm tội mất rồi! Đối
với chính ḿnh và người ấy đều bất lợi.
Hiện thời, những chuyện này không có ai dạy; v́
thế, chuyện không đúng pháp rất nhiều. Hiện nay,
thật sự làm chuyện tốt không có ai tin tưởng,
chuyện tốt rất khó thành tựu!
Có ai trên cả thế giới
chẳng mong mỏi ḥa b́nh? Có ai không hy vọng an định?
Nhưng hơn nửa thế kỷ qua, tần số động
loạn trong xă hội mỗi năm một tăng, sự tai
hại mỗi lần một nghiêm trọng hơn! Trên thế
giới, những người quan tâm chuyện này, những
người nỗ lực thực hiện chuyện này thật
sự chẳng ít, tôi đă thấy rất nhiều! Nhưng
từ đầu tới cuối chẳng thấy hiệu
quả, khiến cho khá nhiều người nhiệt tâm làm
công tác này cảm thấy nguội lạnh tấm ḷng. Hễ
nản ḷng, đương nhiên là sẽ thoái chuyển, nhiệt
t́nh sẽ giảm thấp với một mức độ
lớn. Nhưng vấn đề này là một vấn đề
hết sức nghiêm túc, là một vấn đề hết
sức trọng yếu. Bản thân tôi tham gia công tác ấy
năm năm, liễu giải những trạng huống, cũng
quen biết không ít bạn bè. Nếu chúng ta hỏi: “Có thể
hóa giải xung đột hay không? An định ḥa b́nh có thể
thực hiện hay không?” Câu trả lời luôn là khẳng
định, vấn đề là phải thực hiện
như thế nào?
Vẫn là cổ thánh tiên hiền
nói rất hay: “Hành hữu bất
đắc, phản cầu chư kỷ” (Có điều
ǵ chẳng làm được, hăy xét lại ḿnh). Nỗ lực
nhiều năm như vậy, chẳng trông thấy hiệu
quả, hăy khéo quay đầu nghĩ lại, chúng ta có phải
là dùng trí để hướng dẫn hay không? Dường
như chẳng nghĩ đến vấn đề này, mà
là dùng ǵ để hướng dẫn? Dùng lợi để
hướng dẫn! V́ thế, từ đầu đến
cuối, chẳng thể thực hiện. Lợi ích của
mỗi cá nhân khác nhau, mối lợi lớn th́ mọi
người đều muốn tranh. V́ thế, dùng phương
pháp ǵ để hóa giải xung đột? Ăn miếng
trả miếng! Ăn miếng trả miếng có thể hóa
giải xung đột hay không? Oan oan tương báo chẳng
hết, chẳng xong! Người hiện thời chẳng
nói tới nhân quả; [dẫu] không nói tới nhân quả,
những chuyện oan oan tương báo vẫn tồn tại.
Trong tông tộc của quư vị sẽ có con cháu. Con cháu
vĩnh viễn ghi nhớ cừu hận, luôn t́m cơ hội
để trả thù. Quư vị trả thù họ, họ phục
thù quư vị, oan oan tương báo, đời đời kiếp
kiếp vẫn chẳng hết, chẳng xong! Quư vị nói xem
chuyện ấy đáng sợ đến ngần nào? Nếu
thật sự hiểu nhân quả, quư vị sẽ biết
chuyện này càng đáng sợ!
Những người thuộc
các thế hệ trước tại Trung Hoa tin tưởng
nhân quả báo ứng rất nhiều. Theo lịch sử
ghi chép, những trường hợp cụ thể như vậy
chẳng biết là bao nhiêu! Trong hai mươi lăm bộ
Sử đă chép mấy trăm câu chuyện. Trong bút kư và
văn tự của cổ nhân đă ghi chép chẳng biết
bao nhiêu! Trong các sách như Duyệt Vy Thảo Đường
Bút Kư của Kỷ Hiểu Lam, Liêu Trai Chí Dị, Tử Bất
Ngữ, [những chuyện được ghi chép trong ấy]
không phải là hoàn toàn hư cấu, tuyệt đại
đa số đều là sự thật. Quư vị có thể
chẳng tin ư? Lại xét theo chính bản thân chúng ta.
Đối với những chuyện từng trải trong cuộc
đời của chính mỗi người, quư vị hăy suy
nghĩ kỹ lưỡng, sẽ thấy có rất nhiều
chuyện chẳng thể nghĩ bàn xảy ra, chẳng có cách
nào giải thích được!
Năm xưa, tôi ở Mỹ,
ở tại Đạt Lạp Tư (Dallas), hội trưởng
hội Phật Giáo Dallas là ông Thái Văn Hùng, từng kể
cho tôi nghe một chuyện. Khi ông ta mới tới Mỹ, cùng
mấy người bạn lái xe đi chơi. Khi trở về,
bị lạc đường, lái vào một thành phố nhỏ.
Đột nhiên, ông ta cảm thấy thành phố nhỏ ấy
rất quen thuộc, nhưng đúng là lần đầu
tiên ông đến đó trong đời này. Ông ta có thể biết
rơ đường sá trong thành phố nhỏ ấy, biết
trong thành phố nhỏ bé ấy có những kiến trúc nào.
Sau khi lái xe vào trong đó, quả nhiên là như vậy. Đối
với vấn đề này, đă nhiều năm mà ông ta
chẳng có cách nào t́m ra lời giải đáp, thường
nghi hoặc v́ sao có chuyện như vậy? Khi gặp tôi,
bèn hỏi, tôi đáp: “Chắc chắn là trong đời
trước, ông đă từng ở thành phố nhỏ ấy,
đă sống rất nhiều năm trong tiểu trấn ấy,
rất quen thuộc nó”. Ông ta suy nghĩ, cảm thấy rất
có lư! Nếu quư vị không ở nơi đó rất nhiều
năm, làm sao có thể quen thuộc như vậy được!
Nói lên điều ǵ? Chứng tỏ là có kiếp trước.
Rất nhiều người
có kinh nghiệm về t́nh h́nh giống như vậy,
nhưng chẳng [cảm nhận] rành rẽ, rơ ràng như
ông ta! Nếu bảo chẳng phải là “đời trước”,
t́m đâu ra câu trả lời cho vấn đề này, không
có cách nào giải thích được! V́ thế, ông ta tự
ḿnh suy nghĩ, cười x̣a, nói: “Có thể lắm! Xưa
kia Cựu Kim Sơn (San Francisco) có mỏ vàng”. Có thể [ông
ta đă từng làm] công nhân khai thác quặng vàng bên đó, sống
ở đó, rất có thể là như vậy! “Trong kiếp
sống đó, ông chẳng làm chuyện ǵ xấu, chẳng
hăm hại kẻ khác, [cho nên] c̣n có thể được
làm thân người. Đời này vẫn khá lắm, kinh
doanh vẫn khấm khá”. [Chuyện này] chỉ rơ con người
có ba đời, có tiền căn, có hậu quả. Đă
có kiếp trước, đương nhiên là có đời
sau. Biết có kiếp trước và đời sau, quư vị
phải vận dụng lư trí cho nhiều, bớt dùng t́nh cảm
để xử sự, làm nhiều chuyện tốt, ít làm
chuyện xấu. Chúng ta đời đời kiếp kiếp
tiến cao hơn, chẳng đến nỗi đọa lạc
xuống dưới, [chuyện này] quá trọng yếu!
Điều này quan trọng hơn bất cứ điều
nào khác! V́ thế, do trí hướng dẫn, thành tựu các
huệ. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi nói tới
chỗ này.
Tập
1474
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống.
Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một,
mười câu đầu tiên trong kinh văn chính là mười
câu đầu tiên trong đoạn thứ nhất, thuộc
phần “tổng vấn kỳ
quả” (hỏi chung về cái quả), đại khái
chúng ta đều đă học tập rồi. Trong phần
sau lời chú giải của Thanh Lương đại
sư, hăy c̣n có một ít phần, hôm nay chúng ta sẽ học
tiếp, đọc từ câu “hựu
do thập hậu” (lại do mười câu sau đó).
(Sớ) Hựu do hậu thập,
năng thành tựu thử thập, dĩ thập tam nghiệp
vĩnh vô thất đẳng, duy Phật bất cộng, phần
phần vô thất, diệc thông ư nhân.
(疏)又由後十,能成就此十,以十三業永無失等,唯佛不共,分分無失,亦通於因。
(Sớ: Lại do mười
điều trong phần sau, có thể thành tựu mười
điều này. Do tam nghiệp như đă được
nói trong mười câu ấy vĩnh viễn chẳng có sai
lầm, chỉ riêng đức Phật là có thể từng
phần đều chẳng phạm lỗi. V́ thế, [mười
điều này] cũng có thể coi là nhân).
Chúng ta xem đoạn này trước.
Thanh Lương đại sư đă mào đầu,
mười loại trong phần sau là nói về quả
đức, tức là [quả đức của] Thập Trụ
Bồ Tát, có thể thành tựu mười loại ấy.
Mười câu trong phần này chính là hỏi chung về quả.
Do mười loại ấy, tức là như trong phần kinh
văn chúng ta vừa đọc, [sẽ đắc] “thập chủng tam nghiệp
vĩnh vô thất đẳng” (mười loại tam
nghiệp vĩnh viễn chẳng phạm sai lầm), vĩnh
viễn chẳng có lầm lỗi! Thân, ngữ, ư nghiệp
vĩnh viễn chẳng có lầm lỗi th́ chỉ có ḿnh đức
Phật mới có thể làm được. Nói cách khác, Đẳng
Giác Bồ Tát vẫn chưa thể nói là “hoàn toàn không phạm
sai lầm”. Do vậy có thể biết, tập khí vô thỉ
vô minh xác thực là chẳng dễ đoạn! Tập khí
Kiến Tư phiền năo c̣n dễ đoạn, đạt
đến quả vị Bích Chi Phật bèn chẳng có. Nếu
nói theo địa vị Thập Tín trong kinh Hoa Nghiêm, [Bích
Chi Phật] sẽ là đạt đến Bát Tín. Thất
Tín đă đoạn Kiến Tư phiền năo, nhưng hăy c̣n
có tập khí. Từ Bát Tín cho đến địa vị
Thập Tín, tập khí Kiến Tư phiền năo đă
đoạn, nhưng các Ngài c̣n có Trần Sa phiền năo. Trần
Sa phiền năo cũng sẽ đoạn trong lúc ấy. Sau
khi đă đoạn loại phiền năo ấy, sẽ c̣n
sót lại vô thỉ vô minh phiền năo. Phá một phẩm vô
thỉ vô minh phiền năo, bèn vượt thoát mười
pháp giới, chứng quả vị Sơ Trụ Bồ Tát.
Sơ Trụ là Pháp Thân đại sĩ, tức Pháp Thân Bồ
Tát.
Đoạn tập khí vô thỉ
vô minh trong Nhất Chân pháp giới, cách đoạn là như
thế nào? Trong giáo pháp Đại Thừa, đă nói rất
hay: “Vô công dụng đạo”.
Cổ đại đức nói ở chỗ này, chẳng
thể dùng sức! V́ sao? “Ngôn
ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”, “mở miệng bèn trật, động
niệm liền sai”. Chẳng thể thốt ra lời,
chẳng thể động niệm. Hễ động niệm,
vô minh bèn dấy lên hiện hành, đó đều là tập
khí. Phải tốn thời gian lâu cỡ nào mới đoạn
hết tập khí ấy? Trong giáo pháp Đại Thừa,
đức Phật thường bảo với chúng ta: “Ba
đại A-tăng-kỳ kiếp”. Ba đại
A-tăng-kỳ kiếp chẳng phải là nói đến
[thời gian] chúng ta tu hành thông thường, mà là [kể từ
khi đă chứng nhập] Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên
Giáo, phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp
Thân măi cho đến khi đạt tới quả vị rốt
ráo. Trong ấy, có bốn mươi mốt địa vị,
bốn mươi mốt đẳng cấp. Những
đẳng cấp ấy là do đức Phật v́ chúng ta
mà nói, chứ trong cảnh giới của các Ngài, có những
đẳng cấp ấy hay không? Thưa cùng chư vị,
không có! Nếu có, sẽ là c̣n có phân biệt, chấp trước,
làm sao có thể thoát khỏi mười pháp giới cho
được?
V́ thế, hăy nên biết, đoạn
chấp trước sẽ vượt thoát lục đạo
luân hồi, đoạn phân biệt bèn vượt thoát
mười pháp giới. Ở trong Nhất Chân pháp giới,
hoàn toàn là v́ mong đoạn tập khí vô thỉ vô minh. Chuyện
này quá ư là khó! Chẳng dễ đoạn đâu nhé! Cổ
nhân đă nói một tỷ dụ, tỷ dụ rất hay.
Chúng ta hăy suy nghĩ kỹ càng tỷ dụ ấy, sẽ
có thể lănh hội đôi chút tin tức. Cổ nhân nói: Ví
như một cái b́nh rượu. B́nh rượu đựng
rượu, rượu đă đổ hết rồi.
Rượu giống như phiền năo, đổ hết sạch
cả rồi, lau chùi sạch sẽ trong ấy, xác thực
là một giọt rượu cũng chẳng có. Ngửi thử,
sẽ thấy cái b́nh ấy vẫn có mùi rượu! Quư vị
trừ hơi rượu bằng cách nào? Chỉ đành mở
toang nắp b́nh, đặt ở nơi đó, bỏ đó
mười ngày, nửa tháng, ngửi thử, [hơi rượu]
nhẹ hơn rất nhiều. Lại để sau một
tháng, hai tháng, ba tháng, chẳng c̣n [hơi rượu nữa].
Điều này giống như tập khí vô minh, đối
với mùi vị của cái b́nh đựng rượu, chẳng
có cách nào dụng công, chỉ đành chờ một thời
gian dài để nó tự nhiên tiêu mất.
Từ Sơ Trụ đến
Đẳng Giác là bốn mươi mốt tầng cấp.
Chẳng thể nói bốn mươi tầng cấp ấy
không có, mà cũng chẳng thể nói chúng là có. Giống
như cái b́nh đựng rượu vậy, hơi rượu
trong b́nh phải mất bao nhiêu ngày mới hết mùi? Phải
mất bốn mươi mốt ngày, chúng ta sánh ví bốn
mươi mốt đẳng cấp như bốn
mươi mốt ngày. Nhưng quư vị ngửi mỗi
ngày, [sẽ thấy hơi rượu] mỗi ngày một
nhẹ hơn. Đến ngày thứ bốn mươi mốt
lại ngửi, chẳng có nữa! Đấy là chứng
đắc viên măn quả vị. Chư vị hăy suy nghĩ
từ thí dụ nông cạn, rơ ràng này. Do vậy, đoạn
tập khí vô thỉ vô minh, xác thực là chẳng có bất
cứ phương pháp ǵ. Đúng là cổ nhân nói chẳng
sai! Ở chỗ này, chẳng thể sử dụng sức
được! Chẳng thể khởi tâm động niệm,
càng chẳng thể nói đến phương pháp ǵ. Hễ
quư vị khởi tâm động niệm, sẽ vướng
vào phân biệt, chấp trước. Đúng là Phật pháp
thượng thượng thừa. V́ thế, tam nghiệp
vĩnh viễn chẳng có lỗi lầm, đoạn hết
tập khí.
Địa vị bốn
mươi hai gọi là địa vị Diệu Giác;
đây là quả địa, vĩnh viễn chẳng có [lỗi
lầm]. Do vậy, chỉ có ḿnh Phật quả rốt ráo,
nên bảo là “duy Phật bất
cộng, phần phần vô thất” (chỉ riêng ḿnh
đức Phật đối với từng điều đều
chẳng sai lầm). Chẳng như Bồ Tát, Bồ Tát gồm
bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ c̣n có những phần lầm lỗi, chẳng phải
là không có lầm lỗi. Cổ nhân thường nói: “Nhân phi thánh hiền, thục năng
vô quá? Quá nhi năng cải, thiện mạc đại yên”
(Con người chẳng phải là thánh hiền, ai có thể
không lầm lỗi? Có lỗi mà có thể sửa, không ǵ tốt
lành hơn). V́ thế, chúng ta chẳng cần chỉ trích lầm
lỗi của kẻ khác. V́ sao? Tập khí từ vô thỉ
đến nay. Lục đạo phàm phu có tập khí Kiến
Tư, có tập khí Trần Sa, có tập khí Vô Minh, làm sao
người ấy chẳng tạo nghiệp cho được?
Nếu là người tu hành, lỗi lầm sẽ ít, chẳng
thể nói là không có!
Chúng ta hiểu rơ đạo
lư này, từ nay trở đi, chớ nên trách móc kẻ khác nữa,
hăy dưỡng thành ḷng khoan dung, độ lượng, có
thể bao dung hết thảy. Mọi việc đều phải
xét lại chính ḿnh. Hễ thấy lỗi lầm của kẻ
khác, hăy phản tỉnh ta có [lỗi lầm ấy] hay không.
Hễ có, bèn sửa đổi; không có, bèn càng gắng sức
hơn. Nếu ta có, bắt đầu từ hôm nay ta phải
sửa đổi. Sửa đổi th́ phải có tâm
thường hằng, phải có nghị lực. Hôm nay sửa,
ngày mai lại phạm, đấy là do nguyên nhân ǵ? Tập
khí rất nặng! Tập khí vô minh căn bản, quư vị
hăy ngẫm xem, ba đại A-tăng-kỳ kiếp mới
có thể trừ hết. [Để trừ sạch] tập
khí Kiến Tư phiền năo, cũng tốn thời gian rất
dài. Chẳng có cái tâm thường hằng, chẳng có nghị
lực, chẳng nghiêm túc phản tỉnh, sửa đổi
hằng ngày, tiến bộ trên đường Bồ Đề
rất khó, lui sụt rất dễ dàng. Chớ nên không biết
sự thật này!
V́ thế, mười
phương hết thảy chư Phật Như Lai đều
khuyên mọi người văng sanh Di Đà Tịnh Độ.
V́ sao? Chỉ có Di Đà Tịnh Độ là nơi chẳng
thoái chuyển. Bọn phàm phu chúng ta một phẩm phiền
năo chẳng đoạn, đới nghiệp văng sanh, sanh
vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Sanh vào Tây Phương Cực
Lạc thế giới, lợi ích tốt lớn nhất là
viên chứng ba thứ bất thoái, tức Vị Bất
Thoái, Hạnh Bất Thoái, Niệm Bất Thoái, chẳng khác
Pháp Thân Bồ Tát, có thể chiếm tiện nghi to lớn!
Tu đến [địa vị] Pháp Thân Bồ Tát, quư vị
thấy: Phải vượt thoát lục đạo, phải
vượt thoát mười pháp giới th́ mới có thể
chứng đắc [Bất Thoái], khá khó khăn! Nhưng tu Tịnh
Độ th́ chẳng cần vượt thoát, thành tựu ngay
trong một đời, gọi là “hoành siêu” (橫超, siêu việt
theo chiều ngang), chẳng
phải là “thụ xuất”
(豎出, thoát ra theo
chiều dọc). “Thụ xuất” là quư vị
phải trải qua lục đạo, trải qua mười
pháp giới. Chẳng cần trải qua, hoàn toàn cậy vào
bổn nguyện và oai thần của Phật Di Đà gia
tŕ, thành tựu viên măn ngay trong một đời. “Tam nghiệp vô thất diệc
thông ư nhân” (Ba nghiệp không lầm lỗi cũng có
thể coi là nhân). “Ba nghiệp
không lầm lỗi” thuộc về quả, mà cũng bao
gồm nhân.
(Sớ) Hựu thử thập
cú, sơ nhất tổng hiển vô quá.
(疏)又此十句,初一總顯無過。
(Sớ:
Lại mười câu ấy, câu thứ nhất là nêu chung:
[Tam nghiệp] không có lầm lỗi).
Câu thứ nhất là “vân hà đắc vô quá thất thân,
ngữ, ư nghiệp” (làm thế nào để được
thân, ngữ, ư nghiệp không có lầm lỗi), là một câu
như thế đó. Câu ấy nhằm nói tổng quát. Tám
câu sau đó…
(Sớ) Biệt hiển vô quá.
(疏)別顯無過。
(Sớ:
Chỉ rơ sự không lầm lỗi trong từng mục
riêng biệt).
Từ “bất hại thân, ngữ, ư, bất khả hủy thân,
ngữ, ư nghiệp”, tức là từ câu thứ hai cho
đến câu thứ chín. Câu cuối cùng là…
(Sớ) Tổng xuất kỳ
nhân, nhược dĩ trí huệ vi tiên đạo, thân, ngữ,
ư nghiệp thường vô thất cố.
(疏)總出其因,若以智慧為先導,身語意業常無失故。
(Sớ:
Nêu cái nhân tổng quát, nếu dùng trí huệ để dẫn
dắt, thân, ngữ, ư nghiệp thường chẳng có lầm
lỗi).
Cuối cùng là câu thứ
mười “vân hà đắc
trí vi tiên đạo thân, ngữ, ư nghiệp” (làm thế
nào để được trí hướng dẫn thân, ngữ,
ư nghiệp). Câu này rất quan trọng, nêu tổng quát rơ
ràng v́ sao người ấy có thể đạt được
tam nghiệp chẳng có lầm lỗi. Người ấy
thuần túy là lư trí, chẳng sử dụng t́nh thức. Hễ
dùng t́nh thức, sẽ luôn có lầm lỗi! Nhưng chúng ta
biết: Thánh hiền trong mười pháp giới vẫn
dùng thân, ngữ, ư, sử dụng cái tâm ư thức. Trong lục
đạo, do sử dụng chẳng chánh đáng, cho nên lầm
lỗi cũng rất nhiều, giống như kinh Địa
Tạng đă nói: “Diêm Phù Đề
chúng sanh, khởi tâm động niệm, vô bất thị tội,
vô bất thị nghiệp” (chúng sanh trong Diêm Phù Đề
khởi tâm động niệm, không ǵ chẳng phải là tội,
không ǵ chẳng phải là nghiệp). Đấy là thực tại!
Đạt đến tứ
thánh pháp giới, quư vị vượt thoát lục đạo
luân hồi, chứng đắc Thanh Văn, Bích Chi Phật,
Bồ Tát. Chúng ta thường nói “tứ thánh pháp giới”, [tức là nói tới “tứ
thánh” trong] tứ thánh lục phàm của mười pháp giới.
“Tứ thánh” vẫn dùng tám
thức, năm mươi mốt Tâm Sở, nhưng họ
sử dụng chánh đáng. Tiêu chuẩn của Chánh là ǵ?
Chính là giáo huấn của đức Phật, tức Kinh,
Luật, Luận. Những vị Thanh Văn và Bồ Tát thuộc
Tứ Thánh đều phải nương theo giáo huấn của
đức Phật th́ mới là chánh. Nếu chẳng thuận
theo giáo huấn của đức Phật, sẽ là tà. Chúng
ta thấy trong xă hội hiện tiền, gần như là tà
tri tà kiến đầy ắp. Quư vị hăy nghe kỹ thử
xem, dường như là đúng, nhưng [thật ra] sai bét!
Họ nói những đạo lư thoạt nghe rất có lư, nếu
lắng ḷng quán sát thâm nhập, [sẽ thấy ngay là] chẳng
có đạo lư chi hết!
V́ sao? Trong quá khứ, xă hội
coi trọng giáo dục luân lư, đạo đức; quốc
gia coi trọng giáo dục luân lư, đạo đức. Tại
Trung Hoa, kể từ đời Hán, tuyển lựa, đề
bạt nhân tài ḥng phục vụ v́ xă hội, v́ quốc gia,
tức là “những cán bộ
nhân tài của quốc gia” như trong cách nói hiện thời,
dùng phương pháp ǵ? Tuyển cử! Chẳng phải là
người dân tuyển cử, mà là do quan chức địa
phương tuyển cử (tuyển chọn, đề cử).
Tuyển lựa, đề bạt nhân tài được xếp
thành điều thứ nhất trong thành tích cai trị của
viên quan ấy. Quan ở địa phương ấy làm
việc rất tốt, thứ ǵ cũng đều thực
hiện rất tốt đẹp, nhưng suốt ba
năm chẳng thay quốc gia tuyển chọn, đề
bạt một nhân tài, ông ta sẽ bị giáng chức.
Đă phạm lỗi lầm! Chẳng thay quốc gia chọn
lựa, đề bạt nhân tài! Tiêu chuẩn để tuyển
chọn, đề bạt nhân tài, quốc gia có văn bản
quy định rơ ràng, gọi là Hiếu Liêm. Quư vị thấy
trong cổ thư Trung Hoa có chép “cử
hiếu liêm” (舉孝廉), “cử” (舉) chính là “tuyển cử”.
Quan viên địa
phương thường phải ngấm ngầm thăm
ḍ. Những vị đại quan ấy, dân chúng b́nh phàm chẳng
thấy mặt. Nếu họ ăn mặc xoàng xĩnh, dân
chúng b́nh phàm gặp mặt cũng chẳng nhận ra. Mặc
quan phục, [người dân] vừa trông thấy bèn biết
ông ta thuộc tầng cấp nào, thân phận là ǵ, có thể
nh́n ra được! V́ thế, đi thăm ḍ ngấm ngầm,
hỏi han bên ngoài, nhà ai có con nhỏ mà hiếu thuận với
cha mẹ? Có thể hiếu thuận với cha mẹ, sẽ
tận trung đối với quốc gia và xă hội.
Điều kiện thứ hai là liêm khiết. Liêm khiết
sẽ chẳng tham ô. Hội đủ hai điều kiện
ấy, sẽ tuyển lấy, đề bạt cho quốc
gia bồi dưỡng nó, đưa nó vào trường học
hành. Trường học ấy do quốc gia lập ra, nhằm
bồi dưỡng cán bộ quốc gia cho tương lai.
Do vậy, điều kiện của nó là Hiếu, Liêm. Chế
độ ấy hay lắm, chẳng giống như hiện
thời. Thuở trước, kẻ làm quan đều đă
từng tiếp nhận sự giáo dục của Nho gia;
Đạo gia và Phật gia đều đă từng học
qua, xác thực là có đức hạnh, có học vấn. Những
nhân tài do họ chọn lựa, đề bạt, tất
nhiên là khá lắm, đáng tin cậy.
V́ lẽ đó, chúng ta phải
lưu ư cái nhân này. Trí huệ dẫn dắt th́ mới giảm
thiểu lầm lỗi. Nếu chẳng có trí huệ, mà có
tư tâm; do tư tâm mà muốn thay quốc gia tuyển lựa,
đề bạt nhân tài, sẽ tuyển kẻ nào? Tuyển
thân thích của chính ḿnh, tuyển những kẻ có liên quan
với ḿnh, chẳng phải là đại công vô tư. Có hạng
người ấy hay không? Có chứ! Đời nào cũng
đều có. Nói chung, chuyện ǵ có lợi th́ sẽ có những
nỗi tệ. Nếu chúng ta quan sát cẩn thận, sẽ
thấy lợi nhiều hay là tệ hại nhiều. Chuyện
“cử hiếu liêm” suy cho
đến cùng vẫn là lợi nhiều hơn tệ. V́ thế,
quốc gia rất coi trọng mà cũng rất thận trọng
đối với chuyện này. Tuyển lựa, đề
cử nhân tài vào trường Thái Học. Trước kia, trường
Thái Học được gọi Quốc Tử Giám, cũng
phải do thầy quan sát, dạy bảo một thời
gian dài, khiến cho kẻ ấy trở thành nhân tài rường
cột của đất nước. Chúng ta phải ghi nhớ
câu này: Hết thảy chư Phật, Bồ Tát, không vị
nào chẳng dùng trí huệ để hướng dẫn. V́
thế, thân, ngữ, ư nghiệp chẳng có lầm lỗi,
hoặc là ít lầm lỗi!
(Sớ) Hựu ư trung bát, tiền
nhị ly quá, hậu lục thành đức.
(疏) 又於中八,前二離過,後六成德。
(Sớ: Lại nữa, trong
tám câu giữa, hai câu trước nói về ĺa lỗi, sáu
câu sau nói về thành đức).
Đây là nói về tám câu giữa,
[tức là] từ câu thứ hai cho đến câu thứ chín.
“Tiền nhị cú” (Hai câu
đầu) là câu thứ hai và câu thứ ba. “Ly quá” (Ĺa lỗi) là “bất
hại” và “bất khả hủy”.
Sáu câu sau là “thành đức”:
Chẳng thể hoại, không thoái chuyển, chẳng thể
động, thù thắng, thanh tịnh, vô nhiễm, thành tựu
đức hạnh của chính ḿnh. Chúng tôi giảng đoạn
thứ nhất tới đây. Đoạn này nhằm hỏi
chung về cái quả.
Tiếp theo là “thập đoạn biệt minh”
(mười đoạn giảng rơ từng điều
riêng biệt). Chúng tôi đọc một lượt phần
giới thiệu của Thanh Lương đại sư trong
lời Sớ.
(Sớ) Sơ, nhất Dị Thục
Quả.
(疏) 初一異熟果。
(Sớ: Đoạn thứ nhất,
Dị Thục Quả).
Đây là đoạn thứ
nhất. Sau đó là mười đoạn, dưới
đây là đoạn thứ nhất.
(Sớ) Thứ, tứ Sĩ Dụng
Quả.
(疏) 次、四士用果。
(Sớ:
Bốn đoạn kế đó là Sĩ Dụng Quả).
Tức là bốn đoạn
gồm các đoạn hai, ba, bốn và năm.
(Sớ) Thứ, nhị Ly Hệ
Quả.
(疏) 次、二離繫果。
(Sớ:
Hai đoạn sau đó là Ly Hệ Quả).
Hai đoạn sáu và bảy.
(Sớ) Thứ, nhất Tăng
Thượng Quả.
(疏) 次、一增上果。
(Sớ:
Một đoạn kế đó là Tăng Thượng Quả).
Đoạn kế tiếp
sau đó là đoạn thứ tám.
(Sớ) Hậu nhị Đẳng
Lưu Quả.
(疏) 後二等流果。
(Sớ: Hai đoạn sau rốt
là Đẳng Lưu Quả).
Tức là đoạn thứ
chín và đoạn thứ mười. Những danh từ
Pháp Tướng này thuộc loại Phật giáo thường
thức. Đại Thừa Biệt Giáo nói có sáu loại
nhân, năm loại quả. Chúng tôi giới thiệu
đơn giản; trước hết là nói về sáu nhân. “Sáu” chính là Thập Tín, Thập
Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập
Địa, Đẳng Giác, sáu loại ấy, tức là sáu
loại địa vị thuộc [giai đoạn] tu nhân. Diệu
Giác là quả địa, chẳng phải là nhân địa.
Nhân địa có tu, quả địa là thành tựu, thành tựu
rốt ráo viên măn. V́ thế, nó chẳng phải là nhân địa.
Nhân địa có sáu địa vị ấy. Chúng ta phải
hiểu rơ: “Hễ là pháp hữu vi sanh khởi, ắt phải
nương vào nhân và duyên ḥa hợp”, nó mới có thể
sanh khởi hiện tướng. V́ thế, nhà Phật nói “nhân, duyên, quả”. Có nhân mà chẳng
có duyên, sẽ chẳng thể kết quả. Có duyên mà chẳng
có nhân, cũng không thể kết quả. Nhất định
phải là nhân duyên ḥa hợp, quả báo bèn hiện tiền.
V́ thế, nhân gồm có sáu thứ, tức là có sáu loại.
Quả có năm loại. Chúng ta xem sáu loại ấy trước.
1) Loại thứ nhất là “năng tác nhân” [Phật Học
Từ Điển giảng]: “Vị
phàm vi sanh pháp, dữ dĩ lực giả, hựu bất
tác chướng hại giả” (Ư nói: Phàm là pháp sanh khởi,
bèn dùng sức để giúp nó, lại chẳng gây chướng
ngại tổn hại nó). Đấy là Năng Tác Nhân (能作因). Đối
với bất cứ một pháp nào sanh khởi, bèn:
- Một là “dĩ dữ lực giả”, [tức là] quư vị
có thể giúp, bèn giúp đỡ nó. [Sự giúp đỡ ấy]
được gọi là Năng Tác Nhân.
- Loại thứ hai, tuy quư vị
chẳng giúp đỡ nó, nhưng chẳng chướng ngại,
chẳng làm hại nó, để thuận theo tự nhiên, nó
cũng có thể sanh trưởng tốt đẹp.
V́ thế, sau phần [giải
thích về] Năng Tác Nhân [như đă trích dẫn trên
đây, Phật Học Từ Điển] có nói: “Cố thử nhân hữu dữ
lực, bất chướng nhị chủng” (V́ thế,
cái nhân ấy gồm có hai loại là “giúp sức” và “chẳng
chướng ngại”), Năng Tác Nhân có hai loại ấy. “Dữ lực giả, pháp chi sanh
thời” (Dữ Lực là khi pháp sanh khởi), “pháp” ở đây là nói đến
hết thảy các pháp, bất cứ pháp nào sanh khởi, “dữ thắng lực giả
dă”, [nghĩa là] nó (pháp vừa được sanh khởi
ấy) nhờ vào cái nhân Năng Tác này mà đắc lực.
“Nhăn Căn chi sanh Nhăn Thức”
(Nhăn Căn sanh ra Nhăn Thức): Nêu tỷ dụ để
nói, Nhăn Căn là vật chất, Nhăn Thức chẳng phải
là vật chất. Sáu căn và năm trần là vật chất,
là Sắc pháp. Thức thứ sáu và Ư Căn chẳng phải
là Sắc pháp, chúng chẳng phải là vật chất, nay
chúng ta nói là “tinh thần”. “Nhăn”
là nói đến Nhăn Căn. Nếu chẳng có Nhăn Thức,
tuy có mắt mà không thấy. Chư vị phải hiểu:
Cái có thể thấy chính là Nhăn Thức, chẳng phải là
Nhăn Căn. Cái có thể nghe là Nhĩ Thức, chẳng phải
là Nhĩ Căn, phải hiểu điều này! Xác thực
là Nhăn Căn đă giúp cho Nhăn Thức [khởi tác dụng]; do
vậy, [Nhăn Căn] thuộc loại Dữ Lực,
nghĩa là ban cho nó một sức mạnh, giúp đỡ nó,
thuộc loại Năng Tác Nhân.
Lại nói một tỷ dụ
khác: “Như đại địa
chi sanh thảo mộc” (Như đại địa sanh
thảo mộc), hoa cỏ cây cối, “thị vi hữu lực Năng Tác Nhân” (là cái nhân
Năng Tác có sức mạnh). Nhăn Căn sanh ra Nhăn Thức, đại
địa sanh trưởng cây cối, hoa cỏ, đều
ban cho nó một loại sức mạnh, tạo sức mạnh
giúp nó, tức là Năng Tác Nhân có sức mạnh. “Thử hữu lực Năng Tác
Nhân chi nhân thể, chỉ hạn ư hữu vi pháp, bất
thông ư vô vi pháp” (Bản thể của cái nhân Năng
Tác Nhân hữu lực chỉ hạn cuộc trong pháp hữu
vi, chẳng thông với pháp vô vi). Pháp hữu vi là pháp có sanh,
có diệt, đó là pháp hữu vi. Pháp vô vi là pháp bất sanh,
bất diệt. Bất sanh, bất diệt th́ đương
nhiên là chẳng thể áp dụng vào tiểu loại Dữ
Lực trong Năng Tác Nhân được! Do vậy, Dữ
Lực chẳng thông với pháp vô vi, nó chỉ thông với
pháp hữu vi, không thông với vô vi! V́ sao? Tiếp đó, [từ
điển] giảng: “Dĩ vô
vi pháp, vi vô tác dụng, bất hướng bỉ chi sanh
pháp nhi dữ lực dă” (Do pháp vô vi chẳng có tác dụng,
chẳng thể ban sức mạnh cho pháp vừa sanh khởi
ấy được).
Nhưng ư nghĩa thứ hai
của Năng Tác Nhân sẽ thông với pháp vô vi, chẳng
chướng ngại! Tuy quư vị chẳng giúp đỡ
nó, nhưng quư vị không trở ngại nó. V́ thế, “bất chướng giả, vị
bất phương tha chi sanh pháp, sử tha tự tại
nhi sanh giả dă” (“bất chướng” nghĩa là chẳng
trở ngại pháp khác sanh khởi, khiến cho nó tự tại
sanh khởi). Đấy là loại Năng Tác Nhân thứ
hai, chẳng gây chướng ngại. “Như hư không chi ư vạn vật, thị vi vô
lực Năng Tác Nhân” (Như hư không đối với
vạn vật, thuộc loại Năng Tác Nhân không có sức).
Hư không đối với hết thảy vạn vật,
như cây cối, hoa cỏ, hư không chẳng ngăn ngại
chúng, chẳng chướng ngại cây cối hoa cỏ sanh
trưởng, nhưng hư không xác thực là chẳng giúp
ǵ, chẳng giống như đại địa. Đại
địa xác thực là có đất, nước, có rất
nhiều thứ giúp nó, hư không chẳng giúp! Nhưng
hư không chẳng chướng ngại cây cối, hoa cỏ
sanh trưởng, chẳng ngăn trở
nó, không hại nó. V́ thế, cũng thuộc loại Năng
Tác Nhân. Năng Tác Nhân có hai ư nghĩa ấy, ở
đây là vô lực Năng Tác Nhân, loại trước là hữu
lực Năng Tác Nhân. “Cố
thử vô lực Năng Tác Nhân, thông ư nhất thiết vô
vi pháp dă” (V́ thế, vô lực Năng Tác Nhân thông với
hết thảy các pháp vô vi). V́ lẽ đó, nhân có hai loại
như thế ấy.
“Thử
nhân sở đắc chi quả, danh vi Tăng Thượng
Quả” (Cái quả đạt được bởi cái
nhân này được gọi là Tăng Thượng Quả).
Tăng Thượng Quả là Năng Tác Nhân; Tăng Thượng
(增上) là giúp đỡ. Do giúp đỡ
có hai loại, ví như nay chúng ta làm chuyện ǵ đó, làm một
chuyện tốt đẹp, có người phụ trợ
quư vị, bỏ tiền, ra sức. Chuyện ấy
được thành tựu, người ấy là “hữu lực
Năng Tác Nhân”. Một hạng người khác tán thán quư vị:
“Bạn làm chuyện tốt”. Tuy người ấy chẳng
bỏ tiền, mà cũng không ra sức, nhưng chẳng
làm hại quư vị, chẳng chướng ngại quư vị.
Đó là “vô lực Năng Tác Nhân”. Hai loại ấy đều
thuộc về Tăng Thượng Quả. Hễ thành tựu
đều xem như Tăng Thượng Quả. Ư nghĩa
này giảng rất viên măn, rất hay. Xác thực là trong hết
thảy các pháp hữu vi và vô vi, chúng ta quan sát cẩn thận,
sẽ thấy thật sự có cái nhân ấy, có cái quả ấy.
2) Loại thứ hai gọi
là Câu Hữu Nhân (俱有因). Câu Hữu
Nhân là ǵ? [Phật Học Từ Điển giảng] “vi câu hữu quả chi nhân, cố
danh Câu Hữu Nhân, vị thị tất nhị cá dĩ thượng chi pháp
tương y nhi sanh, như thúc lô chi tương y, địa
đẳng chi tứ đại chủng, sanh trụ đẳng
chi tứ tướng, thị dă” (chính là cái nhân luôn có quả,
nên gọi là Câu Hữu Nhân. Ư nói: Ắt phải là từ hai
pháp trở lên nương vào nhau mà sanh khởi, như kết
lau lách [làm thành lều] để ở, bốn đại
chủng như đất v.v… bốn tướng như
sanh, trụ v.v… chính là Câu Hữu Nhân). Những thí dụ vừa
nêu cũng rất hay. Địa là đại địa, tức
là Địa trong tứ đại chủng Địa, Thủy,
Hỏa, Phong, đó gọi là Địa trong Tứ Đại
Chủng. Tứ Tướng: “Sanh
trụ đẳng chi tứ tướng” [nghĩa là] bốn
thứ hiện tượng sanh, trụ, dị, diệt. Tiếp
đó, [từ điển] giảng rất hay: “Cái tứ đại chủng chi
sanh, tất hỗ tương y nhi sanh, khuyết nhất, bất
khả dă” (Bởi lẽ, tứ đại chủng sanh
khởi, ắt phải nương tựa lẫn nhau để
sanh. Thiếu một thứ, sẽ chẳng được).
Từ chỗ này, chúng ta bèn hiểu rơ ư nghĩa này. Nay chúng
ta nói Địa là vật chất. Nhục nhăn của chúng
ta chẳng thấy được sự sanh khởi của
vật chất. Nói thật ra, Thiên Nhăn của A La Hán
cũng chẳng nh́n thấy. Trong kinh, đức Phật
đă nói: Thiên Nhăn của A La Hán có thể trông thấy vi trần.
Vi trần là ǵ? Là vật chất rất nhỏ, đức
Phật hay dùng “trần” (塵, hạt bụi) để
tỷ dụ.
Trong kinh, đức Phật
đă nói: Lông trâu, lông trên thân con trâu rất thô. Ví như sợi
lông trâu ấy, trên chót đầu sợi lông có một hạt
bụi, tức là một hạt vật chất rất nhỏ.
Hạt bụi ở trên đó, sẽ đặt rất vững
vàng, chẳng rơi xuống. Đây là nói tới cái rất
nhỏ, cũng có lẽ mắt chúng ta tốt sẽ có thể
thấy rơ ràng. Trên lông trâu có vật ấy, rất nhỏ!
Chia Ngưu Mao Trần (牛毛塵, hạt bụi
trên lông trâu) thành bảy phần, một phần bảy [của
Ngưu Mao Trần] cũng rất nhỏ. Một phần bảy
ấy được gọi là Dương Mao Trần (羊毛塵, hạt bụi
trên lông dê), lông dê mịn hơn lông trâu. Người Hoa dùng
bút lông để viết chữ, đầu bút lông làm bằng
lông dê rất nhiều, tức là lông tơ của dê, rất
mịn. Nó là một phần bảy, tức một phần bảy của Ngưu Mao Trần.
Dương Mao Trần lại chia thành bảy phần, một
phần bảy của nó gọi là Thố Mao Trần
(兔毛塵, hạt bụi trên lông thỏ),
lông thỏ càng mịn hơn! Thố Mao Trần c̣n có thể
chia nhỏ, một phần bảy sau khi đă chia
được gọi là một Thủy Trần. Nay chúng ta
biết nước có mật độ hoàn toàn chẳng lớn.
Nh́n dưới kính hiển vi có độ phóng đại lớn,
nó cũng giống như màng lưới. Phân tử nước
giống như màng lưới, trong ấy, có rất nhiều
khe hở. Hạt trần này rất nhỏ, có thể hoạt
động trong các kẽ hở của phân tử nước
chẳng có chướng ngại. Nhục nhăn chẳng thể
thấy loại trần này.
Thủy Trần c̣n có thể
chia nhỏ, một phần bảy của nó sau khi chia
được gọi là một Kim Trần. “Kim” (金) là thuộc về
kim loại; vàng, bạc, đồng, sắt là kim loại!
Mật độ của kim loại cũng rất lớn;
tuy rất lớn, quan sát dưới kính hiển vi, nó
cũng giống như màng lưới, ở giữa [các
phân tử] vẫn có kẽ hở. Loại hạt này
cũng có thể tự do hoạt động trong các kẽ
hở ấy chẳng có chướng ngại. Quư vị thấy
nó nhỏ cỡ nào! Trong kim loại, nó thể di chuyển
xuyên qua xuyên lại, chẳng có chướng ngại! Nhục
nhăn của chúng ta chẳng nh́n thấy Kim Trần. Kim Trần
lại chia thành bảy phần, một phần của nó gọi
là Vi Trần. Thiên Nhăn của A La Hán có thể thấy Vi Trần.
Nhưng Vi Trần c̣n có thể chia nhỏ, lại chia thành
bảy phần th́ một phần ấy được gọi
là Sắc Tụ Chi Vi, A La Hán chẳng trông thấy. Sắc
Tụ Chi Vi c̣n có thể chia nhỏ, chia thành bảy phần
th́ một phần ấy được gọi là Cực Vi
Chi Vi, chẳng thể chia nhỏ hơn được nữa!
Hễ chia nữa, sẽ chẳng có ǵ. V́ thế, loại
trần này cũng được gọi là Lân Hư Trần
(鄰虛塵), [hàm nghĩa] nó gần giống
như hư không, hễ chia nhỏ hơn nữa, sẽ chẳng
có ǵ hết. Trong kinh, đức Phật nói theo kiểu ấy,
quư vị thấy có giống như hiện thời nói phân
tử, nguyên tử, điện tử, lạp tử (hạt,
particles) hay không? Đối với những danh từ mà các
nhà khoa học hiện thời sử dụng, Phật học
đều dùng chữ “vi trần”
hoặc “trần”, đều
là nói tới cùng một chuyện, nhưng nói theo hai cách khác
nhau! Trong kinh Phật có khoa học, kỹ thuật cao. Thật
đấy, chẳng giả! Nhục nhăn chẳng thể thấy
những thứ này, A La Hán chẳng trông thấy, đại
Bồ Tát (Pháp Thân Bồ Tát) có thể trông thấy. Các Ngài
thấy được Cực Vi Chi Vi.
Các khoa học gia hiện
đại cũng rất thông minh, cũng rất có khả
năng. Họ đă phát hiện nguyên điểm của
vũ trụ hết sức nhỏ. Nếu nguyên điểm
bùng nổ, sẽ là đại vũ trụ. Nguyên điểm
to cỡ nào? Chúng tôi cũng đă báo cáo điều này rất
nhiều lần. Cắt ngang một sợi tóc, đối
với thiết diện (mặt cắt) của sợi tóc,
ví như chúng ta cắt ngang một sợi tóc này, chỗ bị
cắt ngang sẽ có thiết diện, do sợi tóc có h́nh trụ,
nên thiết diện là h́nh tṛn. Thiết diện ấy có đường
kính, trên đường kính có thể xếp dọc những
nguyên điểm, có thể xếp tới một trăm vạn
ức ức ức nguyên điểm! Các dụng cụ khoa
học hiện thời đều chẳng có cách nào trông thấy
[những nguyên điểm ấy]! Các nhà khoa học đă
suy luận từ Toán Học, đó là vật chất. Vật
chất ấy tồn tại trong thời gian bao lâu?
Đúng là trong từng sát-na, lại c̣n do đâu mà có? Từ
trong Vô mà sanh ra Hữu, thời gian tồn tại hết sức
ngắn ngủi, tạm bợ! Hiện thời, các thứ
sắc tướng như chúng ta đă thấy là do những
vi trần tụ hợp, gọi là Vi Trần Tụ, tụ
tập lại thành tướng tương tục (tướng
liên tục). Giống như chúng ta xem phim ảnh, những
tướng được hiện trên màn bạc là do từ
các tấm phim trong máy chiếu phim [rọi lên]. Các tấm
phim lưu lại giả tướng trên màn bạc, chẳng
phải là thật. Khi quư vị nh́n [vào màn bạc], nó đă
thay đổi, từng tấm một, một giây thay đổi
hai mươi bốn tấm h́nh, chúng ta bèn cảm thấy
nó là thật, chẳng thấy nó là giả!
Trong hoàn cảnh hiện thực,
tất cả hết thảy các sắc tướng có tốc
độ sanh diệt nhanh cỡ nào? Phim ảnh mỗi giây
thay đổi hai mươi bốn lần, cũng có
nghĩa là mỗi giây có hai mươi bốn tướng sanh
diệt. Chúng ta thấy [các h́nh ảnh hiện trên màn bạc]
liên tục, hoàn toàn chẳng biết là chúng sanh diệt, cứ
thấy chúng là liên tục. Trong kinh Nhân Vương, đức
Phật đă dạy: Đối với một cái khảy
ngón tay, một phần sáu mươi của
[thời gian] khảy ngón tay, thời gian ấy rất ngắn,
gọi là một sát-na (ksaṇa). Trong một sát-na, có chín trăm lần
sanh diệt. Chúng ta khảy ngón tay thử xem, khảy thật
mau th́ trong một giây tôi có thể khảy bốn lần. Bốn
nhân với sáu mươi lại nhân với chín trăm, vừa
đúng hai lần mười vạn tám ngàn (2x108.000). Nói
cách khác, hiện tượng sanh diệt của vật chất
theo kinh Nhân Vương sẽ có thời gian tồn tại
là hai lần mười vạn tám ngàn, tức là hai
mươi mốt vạn sáu ngàn (216.000) lần sanh diệt.
Một giây là hai mươi mốt vạn sáu ngàn hiện
tượng sanh diệt, làm sao quư vị biết nó là giả
cho được?
Do vậy, đức Phật
nói: “Phàm những ǵ có tướng
đều là hư vọng”. V́ Ngài thấy chúng sanh diệt,
chẳng phải là thật, toàn là huyễn tướng, cho
nên đức Phật gọi cái Có này là Diệu Hữu. Diệu
Hữu và Chân Không là một, không hai. Bát Nhă Tâm Kinh nói: “Sắc chính là Không, Không chính là Sắc,
Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc”, là một,
không hai. Trong các phần trước, chúng tôi cũng đă
báo cáo điều này nhiều lần. Tôi nói: Đức Phật
nói kiểu này là nói phương tiện. Nói chân thật, sẽ
là ức vạn phần của một giây, chẳng có cách nào
tưởng tượng! [Nói như trong] kinh Nhân
Vương là đức Phật nói sơ lược. A!
Bây giờ đă hết thời gian rồi, chúng ta nghỉ
ngơi mấy phút.
**
Chư vị đồng học,
xin mời ngồi xuống. Chúng tôi c̣n chưa giảng xong Câu
Hữu Nhân. Tôi vừa mới nói đến Địa, Thủy,
Hỏa, Phong. Địa là vật chất, vật chất nhỏ
nhất. Dẫu là vật chất nhỏ nhoi đến mấy
đi nữa, nó có bốn thứ hiện tượng, kinh
Phật gọi chúng là “tứ
đại chủng” Địa, Thủy, Hỏa, Phong,
nhất định là có bốn loại hiện tượng
ấy. Địa Đại biểu thị vật chất.
Các nhà khoa học hiện thời gọi Thủy Đại
và Hỏa Đại là “đới
điện” (tích điện). Thủy Đại là tích
điện Âm, Hỏa Đại là tích diện
Dương, nhất định là nó tích điện. Phong
là nói nó động, chẳng tĩnh lặng, lại c̣n chuyển
động với tốc độ rất lớn, và
cũng rất nhanh. Nói theo Phật pháp, hễ bốn đại
chủng ấy sanh khởi, nhất định là chúng
nương tựa lẫn nhau để sanh. Hễ thiếu
một thứ, sẽ không thể được. Xác thực
là như vậy. Hễ chúng sanh khởi th́ cả bốn loại
hiện tượng ấy đồng thời sanh khởi.
Đó gọi là: “Đồng thời
câu hữu chi pháp, hỗ vi nhân, hỗ vi quả giả. Thử
vị chi hỗ vi quả Câu Hữu Nhân. Thử nhân sở
sanh chi quả, danh Sĩ Dụng Quả” (Pháp đồng
thời đều có, làm nhân lẫn nhau, làm quả lẫn
cho nhau. Đó là Câu Hữu Nhân có thể dùng làm quả lẫn
nhau. Cái quả do cái nhân ấy sanh ra, sẽ được
gọi là Sĩ Dụng Quả). Cho đến khi chúng ta xem
[phần giải thích về] năm quả, chư vị sẽ
đều thấy, [quả của] điều này
được gọi là Sĩ Dụng
Quả (士用果), nó là Câu Hữu
Nhân, nó làm nhân và làm quả lẫn cho nhau!
3) Loại thứ ba gọi
là Đồng Loại Nhân (同類因). [Tự
điển giảng] “vị đồng
loại chi pháp, dĩ đồng loại chi pháp vi nhân,
như thiện pháp vi thiện pháp chi nhân, năi chí vô kư pháp vi
vô kư pháp chi nhân” (ư nói pháp đồng loại dùng pháp
đồng loại làm nhân, như thiện pháp là nhân của
thiện pháp, cho đến pháp vô kư là nhân của pháp vô kư). “Năi chí” tức là tỉnh
lược “như ác pháp, nhất
định vi ác pháp chi nhân” (như ác pháp nhất định
là nhân của ác pháp). Pháp rất nhiều, nói chung chẳng
ra ngoài ba loại lớn ấy, tức là thiện, ác, vô kư.
“Thử đồng loại chi
danh, tựu thiện ác chi tánh nhi lập, phi tựu sắc
tâm đẳng chi sự tướng, thiện chi Sắc Uẩn
dữ thiện chi Thức Uẩn tương vọng, do Đồng
Loại Nhân đẳng lưu quả cố dă. Cái thử
nhân sở đắc chi quả, năi Đẳng Lưu Quả
dă” (Danh xưng Đồng Loại chính là dựa theo tánh
thiện hay ác mà thành lập, chẳng phải là căn cứ
trên sự tướng như sắc, tâm v.v… Sắc Uẩn
của thiện và Thức Uẩn của thiện đối
ứng nhau. Do Đồng Loại Nhân, sẽ lưu xuất
(sanh ra) cái quả có cùng tánh chất với cái nhân. Do vậy,
cái quả đạt được bởi Đồng Loại
Nhân sẽ là Đẳng Lưu Quả). Đẳng Lưu
(等流) nghĩa là
cái nhân có cùng một loại [với cái quả]. Trong cuộc
sống hằng ngày, nếu chúng ta chú tâm quan sát, sẽ thấy
hết sức rơ rệt. Đời trước chuộng
đức, tu thiện, đời trước đă có cái
nhân ấy; đời này, tuy chẳng có ai dạy người
ấy, người ấy cũng ưa chuộng điều
thiện, cũng tích đức. Y học nói là “di truyền”, kể ra cũng
có đôi chút đạo lư. Nhưng Phật pháp nói rơ ràng
hơn: Tập khí từ đời trước. Đời
trước ưa chuộng tạo ác, nếu đời
này không có ai dạy dỗ đàng hoàng, tập khí của kẻ
ấy thường hiện tiền, cũng sẽ thường
xuyên ưa thích làm ác, làm những điều dữ dội!
Trong Phật pháp, [tập khí] c̣n gọi là “tập tánh”, thường nói là “giang sơn dễ đổi, tập tánh khó trừ”.
Nghiệp thiện ác, tập
khí vô minh, xác thực là do đời trước ảnh
hưởng đời này; đời này sẽ ảnh
hưởng đời sau. V́ thế, con người chẳng
thể không học, chẳng thể không tiếp nhận
giáo huấn của thánh hiền. Trong tập khí, nói thật
ra, thiện ít, bất thiện nhiều. Nói theo số mục
trong Phật pháp, chúng ta cũng hiểu rất rơ ràng! Quư vị
thấy trong Bách Pháp, tức Bách Pháp Minh Môn, thiện pháp chỉ
có mười một điều, ác pháp có hai mươi sáu
điều. Phiền năo có hai mươi sáu điều, thiện
pháp chỉ có mười một điều, cho thấy:
Trong tập tánh, ác nhiều, thiện ít, đương
nhiên là ác lực mạnh hơn thiện lực. Do đó,
người thế gian làm ác rất dễ dàng, tu thiện rất
khó khăn, nguyên nhân là ǵ? Đồng Loại Nhân. Chớ
nên không biết điều này. Cái quả đạt
được bởi Đồng Loại Nhân gọi là Đẳng
Lưu Quả, tức Đẳng Lưu Quả trong năm
quả.
4) Lại xem loại thứ
tư là Tương Ứng Nhân (相應因). “Tâm dữ tâm sở chi pháp, tất
đồng thời tương ứng nhi sanh, cố danh tương
ứng pháp. Tựu thử nhất tụ chi tâm, tâm sở, dĩ
nhất vọng tha, danh Tương Ứng Nhân, như bỉ
chi Câu Hữu Nhân (tiền diện
sở thuyết đích). Cái ư Câu Hữu Nhân trung, đặc
biệt khai tâm, tâm sở chi pháp nhi lập thử nhân dă. Cố
sở đắc chi quả, dĩ Câu Hữu Nhân vi lệ,
xưng vi Sĩ Dụng Quả” (Tâm Pháp và Tâm Sở Pháp ắt
đồng thời tương ứng mà sanh, nên gọi là
pháp tương ứng. Dựa theo một nhóm tâm và tâm sở,
dùng một nhóm này để đối ứng với những
điều khác, nên gọi là Tương Ứng Nhân, như
Câu Hữu Nhân (đă nói trong phần trước). Ấy là
v́ trong Câu Hữu Nhân, đặc biệt dựa trên tâm pháp
và tâm sở pháp để lập ra cái nhân này. V́ thế, cái
quả đạt được [bởi Tương Ứng
Nhân] sẽ tuân theo cách thức của Câu Hữu Nhân, gọi
là Sĩ Dụng Quả). V́ lẽ này, Sĩ Dụng Quả
có cái nhân là Tương Ứng Nhân [trong phần này] và Câu Hữu
Nhân như đă nói trong phần trước. Do hai thứ
nhân là Câu Hữu Nhân và Tương Ứng Nhân mà đạt
được quả, [cái quả ấy] sẽ gọi là Sĩ
Dụng Quả. V́ lẽ này, nhân có sáu, quả có năm.
Ở đây, nêu Tâm và Tâm Sở
làm thí dụ. Tâm là tám thức, được gọi Bát Thức
Tâm Vương. Tâm Vương khởi tác dụng th́ [những
tác dụng ấy] được gọi là Tâm Sở. Bởi
lẽ, Tâm Sở chính là pháp được sở hữu bởi
tâm! Tám thức và tất cả các pháp tương ứng với
nó, trong Bách Pháp đă nói rất rơ ràng. Như A Lại Da, có
Tâm Sở tương ứng với nó ít nhất, chỉ có
năm điều, [năm điều ấy được]
gọi là Ngũ Biến Hành. Thức thứ sáu, tức Ư Thức,
có [Tâm Sở] nhiều nhất, năm mươi mốt pháp
Tâm Sở thảy đều trọn đủ. Thức thứ
sáu là Ư Thức phân biệt. Hễ tâm phân biệt dấy
lên, năm mươi mốt Tâm Sở tương ứng với
Ư Thức đều dấy lên hiện hành. Những điều
này có thể nói là tâm lư học Phật giáo, giảng giải
hết sức vi tế!
5) Loại thứ năm là Biến
Hành Nhân (遍行因). “Thị vi do Đồng Loại
Nhân, đặc biệt khai phiền năo pháp nhi lập giả”
(Đấy là từ Đồng Loại Nhân, đặc biệt
dựa theo những pháp thuộc về phiền năo mà lập
ra [cái nhân này]), giống như Tương Ứng Nhân. Tương
Ứng Nhân là từ trong Câu Hữu Nhân, đặc biệt
tách ra tâm và Tâm Sở để lập thành [một cái nhân
khác], gọi là Tương Ứng Nhân. Biến Hành [Nhân] cũng
giống như thế. Từ trong Đồng Loại Nhân,
đặc biệt tách ra pháp phiền năo. Phiền năo là thiện,
ác, vô kư (không thiện, không ác). “Cái
tại Kiến Hoặc, Khổ Đế hạ chi ngũ
kiến cập nghi dữ vô minh, Tập Đế hạ
chi tà kiến, Kiến Thủ nhị kiến” (Ấy là
v́ trong Kiến Hoặc th́ năm loại kiến thuộc
Khổ Đế, cùng với nghi và vô minh, tà kiến trong Tập
Đế, hai kiến thuộc loại Kiến Thủ), Kiến
Thủ Kiến là [kiến chấp] thuộc về quả,
Giới Thủ Kiến là [kiến chấp] thuộc về
nhân; đó là hai thứ kiến thuộc loại Kiến Thủ,
cùng với nghi và vô minh. Chư vị phải ghi nhớ, nói
“tham, sân, si, mạn, nghi” th́
vô minh chính là si. Đối với si trong “tham, sân, si”, si là
vô minh. “Biến sanh nhất thiết
chi Hoặc, cố danh Biến Hành Nhân” (Do sanh trọn khắp
hết thảy các Hoặc, nên gọi là Biến Hành Nhân). Do
vậy có thể biết: Hoặc (惑) là mê hoặc. V́ sao mê hoặc đối
với hết thảy các pháp? Do kiến giải sai lầm!
Kiến Hoặc là quư vị chẳng liễu giải chân
tướng của các hiện tượng trong vũ trụ
và nhân sinh, quư vị đă nh́n sai. Kiến Hoặc là quư vị
thấy sai, Tư Hoặc là quư vị nghĩ sai. Nghĩ sai,
thấy sai, há có lẽ nào chẳng làm sai? Năm thứ Kiến
thuộc Khổ Đế, cùng với nghi và vô minh, tà kiến
trong Tập Đế, hai thứ kiến thuộc Kiến
Thủ, những thứ ấy sanh ra trọn khắp hết
thảy các Hoặc. Chúng ta mê hoặc đối với
vũ trụ, nhân sinh, và hết thảy người, sự,
vật, [sự mê hoặc ấy] do đâu mà ra? Nêu rơ cho chúng
ta biết căn nguyên ấy; v́ thế, điều này
được gọi là Biến Hành Nhân. “Thị bất quá vi Đồng Loại Nhân chi nhất
chủng” (Bất quá là một loại trong các thứ
Đồng Loại Nhân), nói tổng quát th́ gọi là Đồng
Loại Nhân là được rồi. Nó (Biến Hành Nhân) từ
trong Đồng Loại Nhân tách ra. “Cố sở đắc chi quả, tức đẳng
loại quả dă” (Do vậy, đạt được
cái quả chính là Đẳng Loại Quả), nghĩa là Đẳng
Lưu Quả.
6) Cuối cùng, loại thứ
sáu được gọi là Dị Thục Nhân (異熟因). “Thị dĩ ác dữ hữu lậu
thiện chi nhị pháp vi Thể” (Nhân này lấy hai pháp
là ác và hữu lậu thiện làm Thể). Do vậy, có thể
biết: Dị Thục Nhân thuộc vào tam giới. “Ác và hữu lậu thiện”:
Lậu (漏) là tên gọi
khác của phiền năo. Tuy tu thiện, chẳng ĺa khỏi
phiền năo, phiền năo ǵ vậy? Trong những điều
thiện do quư vị đă tu có tham, sân, si mạn, nghi. Nói
theo kiểu hiện thời, quư vị tu thiện, tích đức,
trong ấy có tự tư tự lợi, có tiếng tăm,
lợi dưỡng, chẳng buông xuống những thứ
ấy. Thiện pháp đó gọi là hữu lậu thiện!
Quả báo ở chỗ nào? Quả báo trong nhân thiên. “Thiên” ở đây là Dục Giới
Thiên, đại đa số là sanh trong Tứ Vương
Thiên hoặc Đao Lợi Thiên của Dục Giới Thiên.
Từ Đao Lợi Thiên trở lên như Dạ Ma, Đâu
Suất, phiền năo nhẹ nhàng. Từ Đao Lợi Thiên
trở xuống, phiền năo vẫn khá nghiêm trọng. Ông ta
(Đinh Phước Bảo) dùng chuyện này làm tỷ dụ:
“Ác dữ hữu lậu thiện
chi nhị pháp vi Thể, như dĩ Ngũ Nghịch chi ác
pháp, cảm địa ngục chi báo” (Hai pháp ác và hữu
lậu thiện làm thể, như do ác pháp Ngũ Nghịch
mà cảm báo trong địa ngục). Đây là nêu tỷ dụ
để nói. Ngũ Nghịch là đại ác, giết cha,
giết mẹ, giết A La Hán, làm thân Phật chảy máu,
phá ḥa hợp Tăng. Đấy là Ngũ Nghịch. Tội
Ngũ Nghịch quyết định đọa vào A Tỳ
địa ngục, là tội nặng nhất! Cha mẹ
sanh ra quư vị, nuôi nấng dạy dỗ quư vị, có
đại ân, đại đức, có thể nào sát hại
ư? Do vậy, đấy là tội cực nặng!
Nếu chúng ta hỏi, muốn
truy cứu v́ sao con cái giết cha mẹ ư? Hiện thời
c̣n có trường hợp cha mẹ giết con cái. V́ sao?
Đều là do có mối quan hệ trong đời trước.
Trong kinh, đức Phật đă dạy chúng ta, duyên giữa
cha mẹ và con cái có bốn loại:
1) Loại thứ nhất là
báo ân. Vậy th́ gia đ́nh sẽ hết sức ḥa hợp,
đến báo ân mà! Trong quá khứ, cha mẹ có ân đối
với con cái. Phàm những kẻ đến báo ân, nhất
định là con hiếu, cháu hiền, gia đ́nh ḥa thuận.
2) Loại thứ hai đến
báo oán. Trong quá khứ, cha mẹ đă quá lố, hoặc là
giết kẻ đó, hăm hại kẻ đó; cho nên đời
này, họ đầu thai vào nhà quư vị, [trở thành đứa
con] oán hận, bất hiếu. Sau khi khôn lớn, sẽ là
đứa con khiến cho gia đ́nh bại hoại, nhất
định sẽ khiến cho quư vị nhà tan, người
chết. Kẻ ấy đến báo cừu, đến báo
oán. Chuyện này phiền phức lắm!
Do vậy, oan gia hăy nên cởi
gỡ, chớ nên buộc. Quư vị hiểu đạo lư
này, quyết định chớ nên kết oán với người
khác. Đă kết oán, đời này kẻ ấy chẳng
thể báo thù, [chờ đến] đời kế. Đời
kế cũng chẳng thể báo thù, [sẽ chờ đến]
đời sau nữa! Nếu ư niệm báo thù của kẻ
ấy chẳng dứt, ngày nào duyên đă chín muồi, quả
báo của sự báo thù bèn hiện tiền, rất phiền
phức. Khi báo thù, con cái giết cha mẹ, cha mẹ có phải
là cam tâm t́nh nguyện, chẳng có tâm sân khuể hay không? Nếu
là như vậy, mối oán ấy đă giải quyết
xong! Nếu cha mẹ chẳng có tấm ḷng độ
lượng ấy, tâm sẽ thống thiết căm hận
con cái đại nghịch bất đạo, thôi rồi!
Đời sau gặp gỡ lại báo thù! Oan oan
tương báo chẳng hết, chẳng xong! Trong thế giới
hiện thời, chỉ cần quư vị lắng ḷng quan
sát, [sẽ thấy] người trong một nhà báo oán,
đ̣i nợ quá nhiều! Rất ư là nhiều! Báo ân, trả
nợ ít. Trong một đời này, chúng ta có ân đức
đối với bao nhiêu người? Hoan hỷ bố thí
bao nhiêu người? V́ thế, chúng ta đă tạo cái nhân
ǵ, chính ḿnh hiểu rơ rành rành. Những ǵ ta hứng chịu
chính là quả, nhân quả báo ứng chẳng sai sót mảy
may!
Hiểu rơ đạo lư và sự
thật này, đối với hết thảy người,
sự, vật, không chỉ là chúng ta chẳng dùng hành vi ác
để đối đăi với người khác, mà ư niệm
ác cũng chẳng dấy lên. Như vậy th́ mới thật
sự thành tựu đức hạnh, nâng cao cảnh giới
của chính ḿnh, chẳng sống uổng phí đời này!
Thấy người khác tốt đẹp hơn ta, giàu có
hơn ta, tôn quư hơn ta, trong tâm bèn khó thể chịu đựng,
ganh tỵ, ư niệm chướng ngại bừng bừng
nẩy sanh, chẳng tốt! Người đă hiểu minh
bạch bèn biết: Người ta giàu có hơn ḿnh là do
trong đời quá khứ, người ấy đă tu Tài Bố
Thí, tu quá nhiều, ta chẳng tu! Nay người ta làm quan lớn,
có quyền thế, là do đời trước tu thiện
tích đức tốt đẹp, đáng nên hưởng quả
báo ấy, ta đâu có tu! Hiểu rơ đạo lư này, dẫu
chúng ta nghèo hèn, chẳng oán trời, chẳng hờn người.
Chúng ta nỗ lực sửa lỗi, đổi mới,
đoạn ác, tu thiện, đời sau có thể vượt
trỗi kẻ đó, không chỉ là như thế! Vàn muôn phần
chớ nên ganh tỵ, gây chướng ngại! Ganh tỵ và
chướng ngại chính là thật sự chướng ngại
ḿnh. Đời này, báo hết, khi thọ mạng đă tới,
chắc chắn quư vị sẽ đọa trong tam đồ,
chẳng thể lại được làm thân người.
V́ thế, con người đối với hết thảy
người, sự, vật, đều phải có thành ư,
dùng thiện tâm để đối đăi. Ác pháp Ngũ
Nghịch cảm quả báo trong địa ngục!
“Dĩ
Thập Thiện chi hữu lậu thiện, chiêu thiên
thượng chi quả” (Dùng Thập Thiện thuộc
loại thiện hữu lậu để chiêu cảm quả
báo trên cơi trời). Ta học Thập Thiện Nghiệp
Đạo, nương theo mười thiện nghiệp
để tu hành, nhưng chúng thuộc loại hữu lậu,
v́ c̣n kèm theo tập khí phiền năo, chẳng đoạn hết
tập khí phiền năo! Nói cách khác, hễ c̣n có tự tư
tự lợi, c̣n có tiếng tăm, lợi dưỡng,
c̣n có tham, sân, si, mạn, nương theo Thập Thiện Đạo
để tu hành, quả báo ra sao? Quả báo ở trong cơi trời,
tức là như trong phần trước đă nói: Đao Lợi
Thiên và Tứ Vương Thiên.
“Bỉ thiên thượng dữ địa ngục chi quả,
giai phi thiện, phi ác, đản vi vô kư tánh” (Quả trên
cơi trời và trong địa ngục đều chẳng phải
là thiện hay ác, chỉ có tánh chất vô kư). Tuy nó có tánh chất
vô kư, “duy nhất khổ, nhất
lạc” (nhưng một đằng là khổ, một
đằng là vui), cơi trời sướng, địa ngục
khổ, nhưng quư vị sanh thiên cũng thế, mà đọa
địa ngục cũng thế, chẳng nói đến
thiện hay ác, đó gọi là Vô Kư. Nhân có thiện hay ác, quả
là Vô Kư! “Như thử dĩ thiện
nhân, ác nhân, giai cảm vô kư chi quả, nhân quả dị loại
nhi thục” (Như thế th́ do thiện nhân hay ác nhân
đều cảm cái quả vô kư, nhân và quả khác loại
mà chín muồi). Do vậy, gọi là Dị Thục Nhân. Nhân
và quả khác loại mà chín muồi, nhân và quả cũng
chín muồi khác thời. Khác loại, khác thời! “Nhất nhân ác quả vô kư, nhất
nhân thiện quả vô kư” (Một đằng là do cái nhân
ác, mà cái quả là vô kư; một đằng là do cái nhân thiện,
mà quả cũng là vô kư). Đấy gọi là Dị Thục
Nhân, quả báo được gọi là Dị Thục Quả.
Nói về sáu loại nhân, th́
danh từ [được sử dụng] trong Câu Xá Luận
giống như chúng tôi đang nói ở đây. Những điều đă nói trong phần trước
đều là dựa theo Câu Xá Luận. Thứ nhất là
Năng Tác Nhân, thứ hai là Câu Hữu Nhân, thứ ba là
Đồng Loại Nhân, thứ tư là Tương Ứng
Nhân, thứ năm là Biến Hành Nhân, thứ sáu là Dị Thục
Nhân. Trong quyển ba mươi hai của Đại Trí
Độ Luận cũng có nói đến [sáu nhân], nhưng
danh từ hơi sai khác đôi chút. Trí Độ Luận
nói: Thứ nhất là Tương Ứng Nhân, thứ hai là Cộng
Sanh Nhân (共生因), Cộng Sanh
Nhân chính là Câu Hữu Nhân; thứ ba là Tự Chủng Nhân (自種因), Tự Chủng
Nhân là Đồng Loại Nhân; thứ
tư là Biến Nhân (遍因), tức
Biến Hành Nhân; thứ năm là Báo Nhân (報因), tức là Dị
Thục Nhân; thứ sáu là Vô Chướng Nhân (無障因), tức là
Năng Thể Nhân (Năng Tác Nhân). Giới thiệu sáu thứ
nhân đơn giản như vậy đó.
Kế đó, chúng ta lại xem
năm quả. Trong phần chú giải, Thanh Lương
đại sư đă nói về năm loại quả.
(Sớ) Tánh Tướng môn, phân
biệt nhân quả chi tướng, nhân hữu lục, quả
hữu ngũ.
(疏)性相門,分別因果之相,因有六,果有五。
(Sớ: Tánh Tướng môn,
phân biệt tướng nhân quả, nhân có sáu, quả có
năm).
Thứ nhất là:
(Sớ) Dị Thục Quả,
dĩ ác nghiệp chiêu lai thế tam nghiệp chi khổ quả,
dĩ thiện nghiệp chiêu lai thế nhân thiên chi lạc
quả. Khổ lạc chi quả, tánh giai vi vô kư, dữ nghiệp
nhân chi thiện dữ ác chi tánh dị, cố danh Dị Thục
Quả, tự lục nhân trung chi Dị Thục Nhân nhi lai.
(疏)異熟果,以惡業招來世三業之苦果,以善業招來世人天之樂果,苦樂之果性皆為無記,與業因之善與惡之性異,故名異熟果,自六因中之異熟因而來。
(Sớ:
Dị Thục Quả, do ác nghiệp chiêu cảm khổ quả
nơi ba nghiệp trong đời sau, do thiện nghiệp
chiêu cảm quả vui nơi đường trời,
người trong đời sau. Tánh của khổ quả
và lạc quả đều là vô kư. Do [tánh của quả]
khác với tánh thiện hay ác của nghiệp nhân, nên gọi
là Dị Thục Quả, do Dị Thục Nhân trong sáu nhân mà
có).
Ở đây, chúng ta phải
đặc biệt ghi nhớ, thiện nhân quyết định
sẽ cảm vời quả báo nhân thiên, ác nhân chắc chắn
chiêu cảm quả báo trong tam đồ. Nhân th́ có thiện
hay ác khác nhau, nhưng quả báo đạt được
thảy đều thuộc loại Vô Kư Nhân, cho nên gọi
là Dị Thục Quả. [Cái quả này] do Dị Thục
Nhân mà có. Loại thứ hai:
(Sớ) Sĩ Dụng Quả,
như nông phu chi ư mễ, mạch, như hành lực chi
ư đạo quả.
(疏)士用果。如農夫之於米麥,如行力之於道果。
(Sớ: Sĩ
Dụng Quả, như gạo, lúa ḿ đối với nông
phu, như đạo quả đối với người
dốc sức tu hành).
“Hành”
là tu hành, “lực” là công phu,
do tu hành mà chứng quả.
(Sớ) Tổng y tạo tác chi lực
dụng nhi đắc giả.
(疏)總依造作之力用而得者。
(Sớ:
Nói chung là luôn nương vào lực dụng của sự tạo
tác mà đắc [cái quả này]).
Nông phu gieo trồng rất vất
vả, họ phải nỗ lực cày cấy th́ mới có
thâu hoạch. V́ thế, nương vào lực dụng tạo
tác để đạt được quả. Tu hành
cũng là như thế, quư vị phải thật sự tu
hành đúng lư đúng pháp th́ mới có thể chứng đắc
đạo quả. Điều quan trọng nhất trong tu
hành là đoạn ác tu thiện, đoạn ác trước
hết. Nếu ác chẳng đoạn, quư vị sẽ
không thể tu điều lành nào! V́ sao? Tâm của quư vị
là ác, ư niệm là ác, dẫu làm dễ coi cách mấy, do bản
chất chẳng ĺa khỏi ác, làm sao quư vị đạt
thiện quả cho được? V́ thế, nhất định
là trước hết phải biết đoạn ác, thiện
mới có căn cội được!
Phải hết sức nghiêm
túc thực hiện chuyện đoạn ác tu thiện.
Trước hết, quư vị phải hiểu rơ thiện
là ǵ? Ác là ǵ? Đấy là trí huệ. Kẻ b́nh phàm hết
sức khó khăn, nhất là trong xă hội hiện thời,
thiện ác lẫn lộn, chẳng rơ ràng, rất khó phân biệt.
Quư vị quan sát cẩn thận, sẽ thấy ác dường
như là thiện, thiện dường như là ác. Chẳng
có trí huệ chân thật, chẳng có công phu định lực
kha khá, chẳng có học thức phong phú, đúng là chẳng
có cách nào biện định rơ ràng! Chẳng thể biện
định rơ ràng th́ là ngu si, là mê hoặc. Do đó, kẻ ấy
luôn nương vào lực dụng của sự tạo tác
th́ mới đạt được quả báo này. Đạt
được quả báo này là do tương ứng với
hai loại nhân là Câu Hữu Nhân và Tương Ứng Nhân trong
sáu loại nhân. Loại thứ ba…
(Sớ) Ly Hệ Quả, y Niết
Bàn chi đạo lực nhi chứng chi giả.
(疏)離繫果。依涅槃之道力而證之者。
(Sớ:
Ly Hệ Quả do nương vào đạo lực của
Niết Bàn mà chứng).
Niết
Bàn (Nirvāṇa) là tiếng
Phạn, có
nghĩa là “bất sanh, bất
diệt”. Đạo bất sanh bất diệt là ǵ? Là tự
tánh, là Tánh Đức. Tiếp đó, [lời Sớ] nói rất
hay.
(Sớ) Niết Bàn ly nhất thiết
chi hệ phược, cố vân Ly Hệ.
(疏)涅槃離一切之繫縛,故云離繫。
(Sớ: Niết Bàn là ĺa
hết thảy các thứ trói buộc, cho nên nói là Ly Hệ).
“Phược”
(縛) là tên gọi khác của phiền năo. Phiền
năo giống như dây thừng, trói chặt chúng ta lại,
chẳng thể cựa quậy, chẳng thể tự tại.
Niết Bàn ĺa hết thảy phiền năo. Niết Bàn của
Tiểu Thừa là ĺa Kiến Tư phiền năo, chúng ta
thường nói là “đoạn Kiến Tư phiền năo”,
chẳng c̣n chấp trước hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian. Chấp trước là Kiến
Tư phiền năo; người ấy chẳng c̣n chấp
trước, hết thảy buông xuống, hết thảy
tùy duyên, chứng Thiên Chân Niết Bàn của Tiểu Thừa.
V́ thế, Niết Bàn do A La Hán đă chứng chính là Tiểu
Thừa Niết Bàn, chẳng giống như Đại Thừa
Bồ Tát. Đại Thừa Bồ Tát không chỉ là đă
ĺa Kiến Tư phiền năo, mà Trần Sa phiền năo
cũng ĺa, vô minh phiền năo cũng buông xuống. V́ thế,
ĺa hết thảy trói buộc, đó là Ly Hệ.
(Sớ) Thử pháp thường
trụ.
(疏)此法常住。
(Sớ: Pháp ấy thường
trụ).
Đó là pháp Niết Bàn, buông
xuống, thường trụ.
(Sớ) Phi tự lục nhân sanh
giả.
(疏)非自六因生者。
(Sớ:
Chẳng phải là sanh từ sáu thứ nhân).
Trong phần trước
đă nói sáu thứ nhân, Ly Hệ Quả chẳng phải là
[kết quả của bất cứ] điều nào trong
sáu cái nhân ấy.
(Sớ) Duy dĩ đạo lực
nhi chứng hiển.
(疏)唯以道力而證顯。
(Sớ:
Chỉ do đạo lực mà chứng đắc, hiển
lộ).
Quả báo ấy do đâu mà
có? Quả báo ấy do tu đạo, do sức tu đạo
mà chứng, mà hiển lộ. Chúng
ta thường nói là “khai ngộ”,
khế nhập cảnh giới của Phật, Bồ Tát.
Chứng từ chỗ này, hiển lộ từ chỗ này.
(Sớ) Cố tuy dữ dĩ quả
chi danh, nhi phi đối ư lục nhân chi nhân thể.
(疏)故雖與以果之名,而非對於六因之因體。
(Sớ:
V́ thế, tuy đặt cho nó danh xưng là quả, nó chẳng
dùng sáu thứ nhân để làm thể của cái Nhân).
Ly Hệ cũng được
coi là quả, có danh xưng là quả, nhưng chẳng hề
liên quan đến sáu loại nhân thể như đă nói
trong phần trước! Quả ấy hoàn toàn do vâng theo lời
dạy mà tu hành bèn chứng đắc. V́ thế, buông Kiến
Tư xuống, bèn chứng A La Hán. Buông xuống phân biệt,
chấp trước, bèn chứng quả vị Bồ Tát. Buông
xuống hết thảy vọng tưởng, bèn chứng
quả vị Phật, bốn mươi mốt địa
vị Pháp Thân đại sĩ là Phật quả! Loại thứ
tư…
(Sớ) Tăng Thượng Quả,
dĩ nhất hữu vi pháp, vọng kỳ dư nhất
thiết chi hữu vi pháp vi Tăng Thượng Quả.
(疏)增上果。以一有為法,望其餘一切之有為法為增上果。
(Sớ:
Tăng Thượng Quả, do một pháp hữu vi,
tương ứng với hết thảy các pháp hữu vi
làm Tăng Thượng Quả).
Pháp hữu vi là pháp có sanh, có
diệt, quá ư là nhiều. Pháp hữu vi quá nhiều, nói
chẳng hết. Dùng một pháp để đối ứng
với những pháp khác, đó là Tăng Thượng.
(Sớ) Kỳ dư nhất thiết
pháp, hoặc dữ chi dĩ lực, hoặc bất dữ
lực, diệc bất chướng hại chi.
(疏)其餘一切法,或與之以力,或不與力,亦不障害之。
(Sớ:
Hết thảy các pháp khác, hoặc là giúp sức cho nó, hoặc
chẳng giúp sức, nhưng cũng không chướng ngại,
tổn hại nó).
Đấy chính là Năng Tác
Nhân như đă nói trong phần trước. Đối với
một pháp, hết thảy các pháp khác hoặc là sẽ giúp
đỡ nó, như đại địa đối với
cây cối, hoa cỏ chính là “dữ
chi dĩ lực” (giúp sức cho). Như hư không đối
với cây cối, hoa cỏ, tuy chẳng giúp sức,
nhưng chẳng chướng ngại chúng, chẳng gây hại
cho chúng. Do đó, pháp ấy có thể sanh, có thể thành tựu.
(Sớ) Tuy tự tiền chi Sĩ
Dụng Quả, nhiên bỉ cục ư đối hữu
lực chi nhân thể.
(疏)雖似前之士用果,然彼局於對有力之因體。
(Sớ:
Tuy giống như Sĩ Dụng
Quả trong phần trước, nhưng nó hạn cuộc
nơi các nhân thể hữu lực).
“Cục”
(局) là hạn cuộc, [cái quả này] giới
hạn trong những nhân thể hữu lực (tức là những
cái nhân có sức giúp cho nó thành tựu) để tăng thêm
cái quả.
(Sớ) Thử tắc thông ư
hữu lực vô lực chi nhất thiết pháp, nhi vi sở
đắc chi quả, tự Năng Tác Nhân nhi lai.
(疏)此則通於有力無力之一切法,而為所得之果,自能作因而來。
(Sớ:
Loại này thông với hết thảy các pháp hữu lực
hoặc vô lực, nhưng cái quả đạt được
là do Năng Tác Nhân mà có).
Đấy là Tăng Thượng.
Xét theo cái nhân, Tăng Thượng có hai ư nghĩa: Một là
thật sự giúp đỡ, phụ trợ, thành tựu và
duy tŕ quư vị. Hai là tuy chẳng duy tŕ, giúp đỡ, nhưng
chẳng phá hoại, để cho quư vị phát triển tự
nhiên. Những pháp như vậy rất nhiều! V́ thế,
Tăng Thượng Quả là do Năng Tác Nhân mà có. Cuối
cùng là...
(Sớ) Đẳng Lưu Quả,
y tiền chi thiện tâm nhi chuyển sanh hậu chi thiện
tâm, y tiền chi ác tâm nhi ích sanh hậu chi ác tâm, y tiền
chi vô kư nhi sanh hậu chi vô kư, đẳng ư quả tánh
nhân tánh nhi lưu lai giả, tự lục nhân trung chi Đồng
Loại Nhân dữ Biến Hành Nhân nhi lai.
(疏)等流果。依前之善心而轉生後之善心,依前之惡心而益生後之惡心,依前之無記而生後之無記,等於果性因性而流來者,自六因中之同類因與遍行因而來。
(Sớ:
Đẳng Lưu Quả: Nương vào thiện tâm
trước đó mà chuyển sanh cái thiện tâm sau đó.
Nương vào ác tâm trước đó mà sanh thêm cái ác tâm sau
đó. Nương vào pháp vô kư trước đó mà sanh ra
pháp vô kư sau đó. Giống như tánh chất của quả
phát xuất từ tánh chất của cái nhân. Đẳng
Lưu Quả do Đồng Loại Nhân và Biến Hành Nhân
trong sáu loại nhân mà có).
Trong phần trước, chúng
ta đă đọc sáu cái nhân ấy. Thiện nhân, tập
khí thiện nhân nhất định ảnh hưởng
đến đời sau. Ác tâm, tập khí ác hạnh cũng
sẽ duyên đến đời sau. Chuyện này không chỉ
là Phật gia mà Nho gia và Đạo gia đều nói đến.
Không chỉ là người Hoa nói, mà ở ngoại quốc,
tôi đă từng xem báo cáo của ông Khải Tây (Edgar Cayce) người
Mỹ. Ông này cách chúng ta không xa, sống vào thế kỷ
trước. H́nh như ông ta đă mất sau Đệ Nhị
Thế Chiến, cách chúng ta khoảng sáu mươi năm.
Trong báo cáo, ông ta đă khẳng định: Bất cứ người
nào trên thế giới mà quư vị gặp gỡ trong đời
này, nhất định là có mối quan hệ dính líu đến
nghiệp nhân trong đời trước. Chẳng thể
nào có chuyện ǵ phát sanh mà chẳng có nghiệp nhân trong
đời trước, chẳng có chuyện đó!
Do vậy có thể biết:
Hết thảy những ǵ chúng ta gặp gỡ trong đời
này đều là do thiện nhân, ác nhân đă tạo ra trong
đời trước, đời này cảm quả báo. Hết
thảy các hạnh nghiệp chúng ta đă tạo trong đời
này, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến quả
báo trong đời sau. Nếu hiểu rơ ràng, minh bạch
chân tướng sự thật này, tự nhiên quư vị sẽ
chẳng oán trời, hờn người. Trách móc ông trời
chẳng công bằng, trách móc người khác, đấy là
sai lầm đặc biệt to lớn! V́ thế, cổ nhân
đă nói hay lắm: “Hành hữu
bất đắc, phản cầu chư kỷ” (Chuyện
ǵ chẳng làm được, hăy xét lại chính ḿnh). Chúng
ta bất luận làm chuyện ǵ, gặp phải khó khăn,
gặp phải thử thách, đừng nên trách ai, hăy quay lại
phản tỉnh, lắng ḷng suy xét, đừng sanh phiền
năo. T́m ra nguyên nhân ở chỗ nào, sửa đổi cái nhân
không tốt, quả báo sẽ hiện tiền. Đấy mới
là người thông minh, mới là người thật sự
đọc sách hiểu lư. Chúng tôi giới thiệu sáu cái nhân
và năm cái quả đến đây!
Nay chúng ta thấy, trong phần
Sớ của Thanh Lương đă nói, phần sau là “thập đoạn biệt minh”
(mười đoạn là nói riêng từng hạnh), phẩm
kinh này có tất cả mười một đoạn. Đoạn
trước là tổng thuyết (nói chung), “tổng vấn kỳ quả” (hỏi chung về
quả), đó là căn bản. Mười đoạn sau đó
đều chẳng rời khỏi mười câu [tổng
thuyết] trong phần trước. Trước là Tổng,
sau là Biệt. Phần trước là Cương, phần
sau là Mục. Trong phần Biệt Minh, tuy gồm mười
đoạn, Ngài (Thanh Lương đại sư) lại
chia thành năm loại, cũng là chia thành năm đoạn.
Đoạn thứ nhất là Dị Thục Quả, đoạn
thứ hai gồm bốn đoạn chính là Sĩ Dụng
Quả. Phần thứ ba gồm hai đoạn là Ly Hệ
Quả. Đoạn thứ tư là Tăng Thượng Quả.
Phần cuối cùng gồm hai đoạn, thuộc loại
Đẳng Lưu Quả.
(Sớ) Kim sơ.
(疏)今初。
(Sớ:
Nay là đoạn thứ nhất).
Đoạn thứ nhất nói
về Dị Thục Quả.
(Sớ) Kim sơ tức tu đạo
chi khí.
(疏)今初即修道之器。
(Sớ:
Nay đoạn đầu, chính là [nói đến những
người đáng] làm pháp khí tu đạo).
Trong Phật môn thường
nói đến “pháp khí” (法器) là do ư nghĩa
này. Nói cách khác, người ấy hội đủ điều
kiện để tu đạo. Người ấy có thể
tu đạo, có thể thành tựu. Người thành tựu
nhỏ sẽ khai ngộ, thành tựu to là chứng quả,
thảy đều gọi là “pháp
khí”. Kế đó, [Thanh Lương đại sư] giải
thích rất hay:
(Sớ) Dĩ Bồ Tát khởi
tu hành thời, yếu cụ thử thập, phương
thành nhị lợi chi hạnh.
(疏)以菩薩起修行時,要具此十,方成二利之行。
(Sớ:
Do khi Bồ Tát bắt đầu tu hành, phải có trọn
đủ mười điều ấy th́ mới thành tựu
hai hạnh nhị lợi).
“Nhị
lợi” là tự lợi và lợi tha. Bồ Tát khởi sự
tu hành, nhất định phải có đủ mười
điều kiện ấy th́ mới có thể thành tựu hạnh
tự lợi và lợi tha. Mười điều kiện
ấy bao gồm mười câu, mười câu ấy là một
đoạn. Kinh dạy…
(Kinh) Vân hà đắc sanh xứ cụ
túc, chủng tộc cụ túc, gia cụ túc, sắc cụ
túc, tướng cụ túc, niệm cụ túc, huệ cụ
túc, hạnh cụ túc, vô úy cụ túc, giác ngộ cụ túc.
(經)云何得生處具足,種族具足,家具足,色具足,相具足,念具足,慧具足,行具足,無畏具足,覺悟具足。
(Kinh: Làm thế nào để
được chỗ sanh sẽ đầy đủ, chủng
tộc đầy đủ, gia đ́nh đầy đủ,
sắc đầy đủ, tướng đầy đủ,
niệm đầy đủ, huệ đầy đủ,
hạnh đầy đủ, vô úy đầy đủ, giác
ngộ đầy đủ).
Đây là đoạn thứ
nhất, hoàn toàn nói về Dị Thục Quả. Nay đă hết
thời gian rồi, chúng ta chừa đoạn kinh văn này
lại để ngày mai học tập tiếp.
Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 6 hết
[1] Nguyên văn
là “phu tử chi học tha chân học
đáo liễu” (ông ta thật sự học được
cái “học” của Khổng Tử), chúng tôi nghĩ “phu tử chi học” chỉ
những điều tâm đắc, chứng nghiệm của
Khổng Tử nên dịch gọn thành “đạo của Khổng Tử”.
[2] Trong đoạn
này, Ḥa Thượng nói như vậy, do tôn trọng, chúng
tôi giữ nguyên cách nói như thế.