Đại Phương Quảng
Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 7
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng
Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh
Tiến
Tập 1475
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem phẩm thứ mười một, tức
phẩm Tịnh Hạnh, đoạn thứ hai trong phần
kinh văn trường hàng. Đoạn này toàn là các câu hỏi
do Trí Thủ Bồ Tát nêu ra, có tất cả hai mươi câu
“vân hà” (云何,như thế
nào). Đoạn đầu tiên trong phần trước là “tổng vấn kỳ quả”
(hỏi chung về quả); trong mười đoạn sau
đó, mỗi đoạn chỉ dùng một chữ “vân hà”, những câu tiếp
đó đều tỉnh lược [chữ “vân hà”]. V́ vậy, phần trường
hàng gồm có mười đoạn. Nói chung, [toàn bộ
kinh văn trong phẩm Tịnh Hạnh] gồm mười
một đoạn, mười đoạn sau đó (tức
mười đoạn sau phần “tổng vấn kỳ quả”) nhằm nói riêng biệt
[từng hạng mục], chúng tôi vẫn tính số thứ
tự của từng đoạn trong toàn thể phẩm
kinh cho dễ nói. Nói theo tổng thể, đoạn kinh
văn này là đoạn thứ hai. Chúng ta đọc kinh
văn một lượt:
(Kinh)
Vân hà đắc sanh xứ cụ túc, chủng tộc cụ
túc, gia cụ túc, sắc cụ túc, tướng cụ túc,
niệm cụ túc, huệ cụ túc, hạnh cụ túc, vô úy
cụ túc, giác ngộ cụ túc.
(經)云何得生處具足,種族具足,家具足,色具足,相具足,念具足,慧具足,行具足,無畏具足,覺悟具足。
(Kinh:
Làm thế nào để được chỗ sanh đầy
đủ, chủng tộc đầy đủ, nhà đầy
đủ, sắc đầy đủ, tướng đầy
đủ, niệm đầy đủ, huệ đầy
đủ, hạnh đầy đủ, vô úy đầy
đủ, giác ngộ đầy đủ?)
Thanh
Lương đại sư bảo đoạn này thuộc về Dị Thục
Quả trong năm loại quả, cũng gồm
có mười câu hỏi. Trong Hoa Nghiêm, “mười” biểu thị sự vô tận. V́ thế,
chúng ta chẳng thể coi “mười”
như một con số. Phải coi nó là “viên măn”, viên măn rốt ráo, chẳng bị khuyết
hăm, mang ư nghĩa ấy. “Mười”
biểu thị ư nghĩa ấy! Tôi tin là các đồng
học niệm kinh Di Đà rất nhuần nhuyễn, kinh Di
Đà dùng “bảy” để
biểu thị pháp, “bảy”
cũng nhằm biểu thị sự viên măn. Nói “bảy” là nói theo Đông, Tây,
Nam, Bắc, đấy là bốn, [cộng thêm] phương
trên và phương dưới thành sáu, c̣n có một phương
ở chính giữa, ở ngay trung tâm, [nên gộp thành bảy],
nó cũng biểu thị sự viên măn. V́ thế, “bảy” và “mười” chẳng sai biệt về mặt ư
nghĩa; nói chung, [cứ hiểu] chúng biểu thị sự
viên măn là được rồi! Trong phần Sớ, Thanh
Lương đại sư có giảng giải, chúng ta vẫn
xem lời giải thích của Ngài. Chúng ta khế nhập Hoa
Nghiêm, hai vị đại đức là Thanh Lương
đại sư và Lư Trưởng Giả bầu bạn
làm hướng dẫn viên du lịch cho chúng ta. Các Ngài là hai
vị hướng dẫn viên du lịch rất giỏi.
(Sớ)
Thập sự, Du Già cụ thích.
(疏)十事 , 瑜伽具釋。
(Sớ:
Mười sự ấy được giải thích cặn
kẽ trong luận Du Già)
Trong
Du Già Sư Địa Luận đă có giải thích rất tỉ
mỉ. Điều thứ nhất…
(Sớ)
Thường sanh trung quốc hữu Phật pháp xứ.
(疏)常生中國有佛法處。
(Sớ:
Thường sanh ở trung tâm của quốc gia là nơi
có Phật pháp).
Đây
là lời giải đáp cho câu hỏi thứ nhất, [tức
câu] “vân hà đắc sanh xứ
cụ túc” (làm thế nào để được chỗ
sanh về trọn đủ), trả lời cho câu hỏi ấy.
Chữ “trung quốc” ở
đây chẳng phải là Trung Hoa trong hiện thời, ngàn
muôn phần đừng hiểu lầm! Tương phản
với “trung quốc” là “biên địa”. Nếu nói
theo kiểu hiện thời, “trung
quốc” nghĩa là chỗ đô hội có tŕnh độ
văn hóa rất cao, có ư nghĩa này. Hơn nữa, ở
nơi ấy nhất định là đặc biệt phải
có Phật pháp trọn vẹn. Nếu chỗ nào chẳng có
Phật pháp, sẽ gọi là “biên
địa”, chẳng gọi là “trung quốc”. Trong tương lai, khi chư vị
thấy chữ “sanh trung quốc”
trong kinh luận, ngàn vạn phần đừng hiểu lầm!
Phật
giáo truyền đến Trung Hoa đă hai ngàn năm. Vào
năm Vĩnh B́nh thứ mười (năm 67 công nguyên)
đời Hán Minh Đế, hoàng thượng phái sứ tiết[1] qua
Tây Vực, thỉnh hai vị cao tăng đại đức
là Ma Đằng và Trúc Pháp Lan sang Trung Hoa; đấy là Tăng
Bảo. Các Ngài mang theo tượng Phật và kinh Phật;
do vậy, Tam Bảo trọn đủ, Phật Pháp Tăng
Tam Bảo chánh thức truyền sang Trung Hoa, được
triều đ́nh và dân chúng Trung Hoa hoan hỷ tiếp nhận.
Trong lịch sử có ghi chép chuyện này. Tương truyền,
Minh Đế nằm mộng. Nhà vua có một giấc
mơ rất lạ lùng, mơ thấy một người
toàn thân có sắc vàng ṛng, đến từ Tây Phương,
phóng quang minh rất lớn. Ngày hôm sau, nhà vua kể cho các vị
đại thần biết chuyện trong mộng. Trong số
đó, có một vị quan có kiến thức hết sức
phong phú, thưa: “Tâu hoàng thượng! Ngài trông thấy
người vàng, có thể đấy là vị được
gọi là Phật Đà ở Tây Vực”. Do vậy, nhà vua rất
thích thú, liền phái sứ giả mang tiết việt sang Tây
Vực xem thử. Nếu có, hăy thỉnh Ngài đến Trung
Hoa. Nhân duyên là như thế đó, Phật giáo được
truyền sang Trung Hoa!
Tại
lănh thổ Trung Hoa, cơ sở văn hóa hết sức
thích hợp cho Phật giáo sanh trưởng. V́ chúng ta đều
biết, Phật giáo là sư đạo. Chúng ta nói đến
Phật giáo, chẳng phải là nói đến tôn giáo, mà là [nói
đến] giáo huấn của đức Phật, hoặc
là nói đến sự giáo dục của đức Phật,
giống như chúng ta nói đến Khổng giáo, tức là
nền giáo dục của Khổng lăo phu tử và Mạnh
phu tử. Bởi lẽ, Phật giáo chẳng phải là tôn
giáo, mà là sự giáo dục, là giáo học, chúng ta nhất
định phải biện định rơ ràng điều
này! Sư đạo nhất định được kiến
lập trên cơ sở hiếu đạo. Sự giáo dục
của người Hoa nói đến “hiếu đạo”, đó là cái cốt lơi. Xưa
kia, những người đọc sách đều biết:
“Nghiêu Thuấn chi đạo,
hiếu đễ nhi dĩ hỹ” (Đạo của
Nghiêu Thuấn chỉ là hiếu đễ mà thôi). V́ sao nhắc
đến Nghiêu Thuấn? Nghiêu Thuấn cách hiện thời
khoảng chừng bốn ngàn năm, trước đó c̣n
có [những nhân vật lịch sử khác], xét theo thời
gian [tồn tại] của lịch sử Trung Hoa, phải
là gần tới năm ngàn năm. V́ sao hễ chúng tôi nói tới
giáo dục bèn nhắc tới Nghiêu Thuấn? Trong thời
đại Nghiêu Thuấn, chánh phủ mới chánh thức thiết
lập quan chức trông coi sự dạy học, giống
như bộ Giáo Dục trong hiện thời. Chánh phủ
có một cơ cấu chuyên môn quản trị sự giáo dục
như vậy, vào thời đại Nghiêu Thuấn mới
có chuyện này. Trước đó th́ sao? Trước đó
đă có giáo dục, nhưng chánh phủ chẳng thiết lập
quan chức chủ quản để gánh vác trách nhiệm
này. Sự giáo dục trước kia toàn là gia giáo.
V́
vậy, người ngoại quốc nói: Trong bốn nền
văn minh lớn vào thời cổ của thế giới,
ba nền văn minh kia đều biến mất, riêng Trung
Hoa vẫn tồn tại. Do nguyên nhân ǵ? Họ nói có thể
là do người Hoa chú trọng nền giáo dục gia
đ́nh. Cách nói ấy hoàn toàn chánh xác, chẳng sai tí nào! Giáo
dục Trung Hoa từ xưa tới nay là gia giáo, chẳng có
ai không coi trọng sự giáo dục trong gia đ́nh, ai nấy
đều biết, nhà nào cũng đều biết. V́ lẽ
ấy, giáo dục luân lư đạo đức chẳng phải
là kể từ thời Nghiêu Thuấn mới bắt đầu,
nhưng Nghiêu Thuấn thiết lập Tư Đồ (司徒); đó là tên
của một chức quan chủ quản giáo dục. Dạy
điều ǵ? Dạy dỗ luân lư đạo đức,
măi cho đến những năm cuối đời Thanh, [tức
là] hơn bốn ngàn năm, cách giáo học truyền thống
Trung Hoa chẳng bị gián đoạn. Vào đời Nguyên,
người Mông Cổ vào làm chủ Trung Hoa, nhà Thanh là do
người Măn Châu vào làm chủ Trung Hoa, [hai triều đại
Nguyên và Thanh] đều kế thừa truyền thống giáo
dục của Trung Hoa. Đặc biệt là vào đời
Thanh, mấy vị đế vương khai quốc nhà
Thanh đă phát huy rực rỡ giáo dục luân lư đạo
đức, cho nên nhà Thanh có thể thống trị Trung Hoa
hai trăm sáu mươi năm, chẳng phải là không có
đạo lư. Nếu chẳng phải v́ những vị đế
vương cuối triều Thanh lơ là chuyện giáo dục,
chẳng coi trọng như tổ tiên họ xưa kia, thế
lực của quốc gia [đâu đến nỗi] suy sụp.
Cuối cùng bị vong quốc!
Chúng
ta lắng ḷng quan sát những bài học lịch sử ấy,
sẽ biết nền giáo dục truyền thống hết
sức trọng yếu. Chánh quyền để cho kẻ
khác nắm giữ chẳng sao hết, chỉ cần nền
giáo dục truyền thống vẫn tồn tại, quốc
gia và dân tộc sẽ tồn tại. Nếu chúng ta chẳng
có sự giáo dục truyền thống, vậy th́ đúng là
nền văn minh cuối cùng trong bốn nền văn minh
lớn thời cổ cũng chẳng c̣n, cũng bị
tiêu mất trên địa cầu, biến thành chuyện lịch
sử! Điều này hết sức đáng tiếc! Chúng
ta thấy hiện thời, dẫu là nền giáo dục của
cổ thánh tiên hiền cũng chẳng được coi
trọng cho mấy, nhưng tại các quốc gia lân cận,
xứ coi trọng [sự giáo dục truyền thống] nhất
trong hiện thời là Đại Hàn, họ đạt
thành tựu khá nhất. Tại hải ngoại, tôi chú tâm
quan sát, thấy những học giả ngành Hán Học tại
các quốc gia như Anh và Đức chẳng đơn giản.
Khi tôi đến thăm, gặp mặt tôi, họ nói tiếng
Phổ Thông rất khá, khiến cho tôi cảm thấy hết
sức kinh ngạc, chúng tôi không cần phiên dịch. Đối
với sách vở Hán Học của Trung Hoa, xác thực là họ
thâm nhập. Những quốc gia khác tuy cũng có nghiên cứu
Hán Học, vẫn không mạnh bằng họ. Họ thật
sự nhận biết, thật sự thông hiểu, có hứng
thú sâu đậm đối với Hán Học. Cũng khó
trách Tiến Sĩ Thang Ân Tỷ (Arnold Toynbee) là một sử
gia kiêm triết gia của nước Anh đă nghiễm
nhiên phát biểu: “Để giải
quyết các vấn đề xă hội trong thế kỷ hai
mươi mốt, chỉ có học thuyết Khổng Mạnh
của Trung Hoa và Đại Thừa Phật pháp”, thật
sự thông suốt!
Đại
học Ngưu Tân (Oxford) và đại học Kiếm Kiều
(Cambridge) là những đại học nổi tiếng nhất
của nước Anh, nghiên cứu Hán Học khá lắm.
Nhưng ở Luân Đôn, chúng tôi phát hiện, thật sự
có nghiên cứu [sâu sắc nhất] đối với Hán Học,
chẳng phải là hai ngôi trường ấy, mà là đại
học Luân Đôn. Tuy không nổi tiếng bằng hai đại
học trên đây, nhưng xác thực là đối với
chuyện nghiên cứu Hán Học, bọn họ đứng
đầu các nước, rất đáng khiến cho chúng
ta bội phục. Tôi đến viếng thư viện của
đại học Luân Đôn, thấy họ lưu trữ
không ít các sách cổ của Trung Hoa. Nhân viên phụ trách
thư viện cho tôi biết họ có một số sách cổ,
số lượng khá lớn, niên đại đă quá lâu.
Những quyển sách ấy hễ lật ra sẽ bị
hư nát, họ cũng rất lo lắng. Sau khi tôi xem xong,
[bảo họ] người Hoa dùng một phương pháp
là bồi sách, giống như bồi tranh vậy, [tức
là] phía sau [mỗi trang], sẽ dán thêm một trang giấy lụa
mỏng, những quyển sách ấy sẽ có thể lại
bảo tồn từ năm trăm năm trở lên. Tôi bảo
họ: “Các vị có bao nhiêu sách như vậy, hăy soạn mục
lục, có bao nhiêu quyển, mỗi quyển có bao nhiêu trang,
đưa sang Trung Hoa bồi sách”. Chúng ta cũng có nghĩa
vụ giúp đỡ họ, kho báu văn hóa là sở hữu
chung của hết thảy chúng sanh trên thế giới, hy vọng
trong nhà trường sẽ có người nghiên cứu, phát
huy rạng rỡ, “vị cổ
thánh kế tuyệt học, vị vạn thế khai thái
b́nh” (tiếp nối cái học tuyệt diệu của
những bậc thánh nhân thời cổ, mở ra nền
thái b́nh cho muôn đời).
Do
vậy, “trung quốc” ở
đây [có nghĩa] là nơi chốn có tŕnh độ văn
hóa cao, có nền giáo dục của đức Phật th́ gọi
là “trung quốc”. Nếu sanh
vào chỗ ấy, quư vị mới có cơ hội tiếp xúc
Phật pháp. Nói thật ra, nhận biết Phật pháp hết
sức chẳng dễ dàng. Bản thân tôi từ nhỏ sau
khi tiếp nhận sự giáo dục trong nhà trường,
ngay cả trong sách giáo khoa (sách giáo khoa cấp Tiểu Học)
đều nói “Phật giáo là mê tín”. Tiên sinh Tôn Trung Sơn đến
chùa miếu đập nát tượng Phật. Sách giáo khoa
luôn nói [tôn giáo là] mê tín, phá trừ mê tín; quan niệm này đă
được khắc họa hết sức sâu đậm
[trong tâm lư đại chúng]. Phật giáo vào thời Mạt
Pháp, người giảng kinh, thuyết pháp, thông hiểu Phật
giáo quá ít, chúng tôi chẳng có cơ hội tiếp xúc, một
mực coi Phật giáo là mê tín. Có lúc đến chùa miếu
là để du ngoạn ngắm cảnh, nh́n ngắm những
di tích Phật giáo thời cổ được lưu lại,
[bởi lẽ] đạo tràng đều là những kiến
trúc ở các chỗ có non nước đẹp đẽ.
Chúng tôi coi chúng như những địa điểm để
du ngoạn ngắm cảnh, chẳng xem trọng văn hóa
của chúng.
Hơn
năm mươi năm trước, đă năm
mươi bốn năm rồi, tôi ở Đài Loan
được quen biết tiên sinh Phương Đông Mỹ.
Khi ấy, tôi hai mươi sáu tuổi, theo thầy học
Triết Học. Hết sức khó có là thầy dành thời
gian để giảng cho tôi một khóa Triết Học Khái
Luận, giảng từ phương Tây sang phương
Đông, cuối cùng nói đến Ấn Độ.
Chương cuối cùng là nói đến triết học
trong kinh Phật. Tôi cảm thấy hết sức kinh ngạc:
- Kinh Phật là mê tín, làm sao có thể là triết học cho
được? Thầy bảo: “Anh
không hiểu!”, thầy giảng: “Triết Học trong kinh Phật
mới là đỉnh cao nhất trong Triết Học trên toàn
thế giới. Học Phật mới là sự hưởng
thụ cao nhất trong đời người”. Lúc
đó, tôi nghe mấy câu ấy hết sức rúng động!
Khi ấy, tôi bèn hướng về lăo nhân gia thỉnh giáo,
thưa: “V́ sao lăo nhân gia biết? Thầy học với ai?”
Ngay
khi đó, thầy bảo tôi: Trong thời gian kháng chiến,
thầy dạy học tại đại học Trung
Ương. Thuở đó, đại học Trung
Ương ở Trùng Khánh[2].
Có một khoảng thời gian thầy bị bệnh, bạn
bè đề nghị thầy đến tu dưỡng tại
núi Nga Mi. Núi Nga Mi là một trong bốn đại thánh địa
của Phật giáo Trung Hoa, tôi đă từng đến
đó. Thầy ở trên núi, nhất là giao thông và thông tin thuở
đó hết sức bất tiện. Trên núi, chẳng có nhật
báo, mà cũng chẳng có tạp chí; ngoài kinh Phật ra, thứ
ǵ cũng đều chẳng có. V́ thế, trong khi dưỡng
bệnh, Phương tiên sinh mỗi ngày kiếm một ít
sách vở để xem, bèn xem kinh Phật. Càng xem, càng thấy
thú vị! Từ đấy trở đi, thầy kết
duyên với kinh Phật, có thể nói là suốt đời
chẳng gián đoạn. Ngài thông thuộc kinh điển, khá
nhiều đoạn kinh văn trọng yếu Ngài có thể
đọc thuộc ḷng, khiến cho chúng tôi bội phục
năm vóc sát đất.
Bậc
đại ḥa thượng giảng kinh, thuyết pháp trong Phật
môn, nói đến kinh Phật chẳng thuộc bằng thầy.
Thầy đọc rất nhiều, xem hằng ngày, đọc
hằng ngày. V́ vậy, thầy bảo tôi: “Nếu anh muốn
học Phật, chẳng cần đến chùa miếu, chẳng
cần t́m những vị ḥa thượng”. Tôi hỏi: “Vậy
th́ đến nơi đâu?” “Trong
kinh điển. Phật giáo thật sự ở trong kinh
điển”. Lời nói ấy áp dụng vào thời
đại đó cũng chẳng sai tí nào! Nhân duyên tiếp
xúc kinh Phật của tôi là như vậy. Thoạt đầu
tiếp xúc kinh Phật có thái độ như vậy là do Phương
tiên sinh dạy, chịu ảnh hưởng rất lớn
bởi thầy. Đến chùa miếu chẳng biết lạy
Phật, tâm cung kính th́ có, nhưng chẳng hiểu các thứ
lễ tiết. Đến chùa miếu, bèn hỏi: “Quư vị
có lầu tàng kinh hay không?” “Có, thư viện!” “Trong chùa miếu
có Đại Tạng Kinh hay không?” Trong chùa Thiện Đạo
ở Đài Bắc có Thư Viện Thái Hư (Thái Hư
Đồ Thư Quán) để kỷ niệm Thái Hư đại
sư. Thuở ấy, mấy vị trụ tŕ đều
là đồ đệ của Thái Hư, cất giữ
không ít sách vở nhà Phật. Chúng tôi thấy vậy rất
hoan hỷ, Chủ Nhật hoặc ngày nghỉ đều
đến thư viện Thái Hư để xem kinh Phật.
Do thuở ấy kinh điển lưu thông với một
số lượng rất nhỏ, chẳng thể mua
được ở bên ngoài, cho nên chỉ đành tự
ḿnh sao chép những ǵ hay nhất, quan trọng nhất. Thầy
dạy tôi: “Kinh điển nào anh có thể đọc th́
hăy chép lại, sao chép kinh”. Tôi đă sao chép chẳng ít. Nhập
môn từ chỗ này! Đấy chính là “chỗ có Phật pháp th́ được gọi là
trung quốc”.
Thứ
hai…
(Sớ)
Chủng tộc tôn quư, phi hạ tiện đẳng.
(疏)種族尊貴,非下賤等。
(Sớ:
Chủng tộc tôn quư, chẳng phải là hạng hèn kém…)
[Đây chính là nói đến]“chủng tộc cụ túc” (chủng
tộc trọn đủ). Điều kiện thứ nhất
hết sức trọng yếu. Quư vị sống ở chỗ
ấy là nơi có văn hóa Phật giáo, quư vị sẽ có
cơ hội tiếp xúc [Phật giáo]. “Chủng tộc cụ túc” tự nhiên sẽ sanh
ra ảnh hưởng rất lớn đối với sự
tu học của chúng ta, [bao gồm] sự tu học của
chính ḿnh và sự giáo hóa của người khác. Đấy
là một bối cảnh rất tốt! Thích Ca Mâu Ni Phật
đă thị hiện, Ngài thuộc vương tộc, bản
thân Ngài là vương tử, phụ thân là một vị quốc
vương. Ngài lại c̣n là con trưởng, sẽ thừa
kế ngôi vua. Chuyện này đúng như người thế
gian nói: “Luôn mơ mộng mong cầu”. Có người nào
trong thế gian chẳng cầu phú quư? C̣n có ǵ tốt đẹp
hơn phú quư? Thích Ca Mâu Ni Phật biết có thứ c̣n tốt
đẹp hơn phú quư. V́ thế, Ngài từ bỏ
vương vị, buông bỏ vinh hoa, phú quư để học
Phật. Chuyện này có lư lắm chớ! Ngài chẳng phải
là kẻ nghèo hèn [đến nỗi] chẳng có áo mặc,
chẳng có cơm ăn, v́ bất đắc dĩ mà phải
t́m đến Phật môn ḥng cầu cuộc sống yên ổn.
Chẳng phải vậy! Trong pháp thế gian, thứ ǵ Ngài
cũng chẳng thiếu, v́ sao phải làm hạnh này?
Từ
truyện kư của Thích Ca Mâu Ni Phật, trong Đại Tạng
Kinh có Thích Ca Phương Chí và Thích Ca Phổ, sau khi đọc
xong, chúng tôi mới hiểu Thích Ca Mâu Ni Phật từ bi tột
bậc. Ngài thấy cuộc sống của người
trong thế gian quá khổ, thường nói là “bát khổ giao tiễn” (tám nỗi
khổ chen nhau nung nấu), [tức là] sanh, lăo, bệnh, tử,
cầu chẳng được, yêu thương phải
chia ĺa, oán ghét mà phải gặp gỡ, năm Ấm hừng
hực, quá nhiều phiền năo! Nói theo đời người,
những vấn đề ấy chính là những vấn
đề to lớn, xác thực là những vấn đề
bức thiết cần phải giải quyết! Chánh trị
chẳng có cách nào giải quyết, mà quân sự cũng chẳng
có cách nào! Thuở trẻ, Thích Ca Mâu Ni Phật vơ nghệ cao
cường, Ngài xác thực là một vị tướng
quân hoặc nguyên soái rất giỏi, nhưng Ngài chẳng
làm chuyện ấy! Công thương nghiệp, khoa học kỹ
thuật như trong hiện thời, đều chẳng thể
giải quyết! Cái duy nhất có thể giải quyết,
thật sự giúp đỡ [người đời giải
quyết những vấn đề ấy], chỉ có sự
giáo dục của thánh hiền. V́ thế, lúc mười
chín tuổi, Ngài ĺa khỏi gia đ́nh, t́m thầy, hỏi bạn,
đi tham học khắp nơi.
Nói
theo kiểu hiện thời, cổ Ấn Độ có bao
nhiêu học giả và chuyên gia, Thích Ca Mâu Ni Phật đều
đến thân cận, đều đến bái phỏng.
Ngài cảm thấy học vấn của họ đều
chẳng rốt ráo, chẳng viên măn; cuối cùng, trở lại
bên sông Hằng, tĩnh tọa dưới cội Bồ
Đề, tu Định. Ngài khai ngộ trong Định,
Định đến một mức độ nhất định,
sẽ hoát nhiên đại ngộ. Ngộ ǵ vậy? Nói theo
cách hiện thời, đấy cũng là cách nói trong Phật
giáo, “chân tướng của
vũ trụ và nhân sinh”. Hễ nói “tánh, tướng, sự, lư, nhân, quả”, sáu chữ
ấy đă bao gồm trọn hết chân tướng của
vũ trụ và nhân sinh. Sau khi đă giác ngộ, Ngài không trở
về nước làm vua, mà theo đuổi công tác dạy học,
dùng thân làm gương, những ǵ Ngài đă nói thảy
đều làm được. Ngài dạy kẻ khác thấy
thấu suốt, Ngài thật sự thấy thấu suốt.
Ngài dạy kẻ khác buông xuống, Ngài thật sự buông
xuống.
Kinh
Bát Nhă dạy: “Bát Nhă vô tri, không
ǵ chẳng biết”. Khi chẳng có ai thỉnh giáo Ngài,
tâm Ngài giống như nước lặng, chẳng sanh một
niệm. Đấy là Căn Bản Trí, vô tri. Có người
hướng về Ngài thỉnh giáo, bất luận quư vị
đem vấn đề ǵ hỏi Ngài, Ngài đều đối
đáp lưu loát, chưa bao giờ cần phải suy
nghĩ. Quư vị hỏi, Ngài liền trực tiếp giải
đáp, trí huệ hiện tiền. Sau khi đă giác ngộ vào
lúc ba mươi tuổi, Ngài theo đuổi chuyện dạy
học, d́u dắt một nhóm học tṛ trong lănh thổ Ấn
Độ rộng lớn như thế. Trong lịch sử,
vùng đất ấy được gọi là Ngũ Ấn
Độ, tức Bắc Ấn Độ, Đông Ấn
Độ, Tây Ấn Độ, Nam Ấn Độ, lại
c̣n có [khu vực] trung gian (Trung Ấn Độ). Chúng ta biết
lữ hành thuở ấy đều là đi bộ, chẳng
có công cụ thay thế cho chuyện đi bộ! Dấu
chân đức Phật in khắp Ngũ Ấn Độ,
giảng kinh hơn ba trăm hội, thuyết pháp suốt bốn
mươi chín năm. Ḍng dơi vua chúa mà có thể bỏ ngôi
vua để làm công tác ấy, đương nhiên là những
kẻ b́nh phàm nghe nói đến thân phận và địa vị
của Thích Ca Mâu Ni Phật đều chẳng hoài nghi. Ngài
đề xướng b́nh đẳng. Cổ Ấn Độ
hết sức bất b́nh đẳng, giai cấp rất
nghiêm ngặt, tức là Bà La Môn, Sát Đế Lợi, đấy
là [giai cấp] quư tộc, [ngoài ra c̣n có] b́nh dân và nô lệ. [Phân
chia] giai cấp rất ngặt nghèo! Lăo nhân gia đề
xướng b́nh đẳng, b́nh đẳng tôn trọng, b́nh
đẳng yêu thương, che chở, b́nh đẳng quan
tâm, b́nh đẳng học tập.
Học
tṛ [của đức Phật] đông đảo, chúng ta gọi
toàn thể các vị ấy là “Tăng
đoàn”. Đức Phật đă v́ Tăng đoàn chế
định Lục Ḥa Kính, chính là quy củ mà mọi người
nhất định cùng nhau tuân thủ, [bao gồm] sáu điều
ḥa kính. “Kiến ḥa đồng
giải”: Nay chúng ta nói là “phải
kiến lập nhận thức chung”. Cách nh́n của
chúng ta đối với hết thảy người, sự,
vật, đều phải rất gần giống như
nhau. Điều này hết sức quan trọng. Điều
thứ hai là “giới ḥa đồng
tu”. Phải vâng giữ pháp, trong đó, quan trọng nhất
là Thập Thiện, Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Giới,
oai nghi, nhất định phải tuân thủ. Giáo học
như vậy sẽ sanh ra ảnh hưởng rất lớn,
người theo học với Ngài ngày càng đông! Quư vị
thấy Ngài chẳng phân biệt quốc gia, chẳng phân biệt
chủng tộc, chẳng phân biệt tôn giáo. Vào thời cổ,
Ấn Độ là một quốc gia tôn giáo, bất luận
là tín đồ của tôn giáo nào, quư vị đến học
với đức Phật, Ngài đều hết sức
vui thích dạy bảo quư vị. Hoàn toàn chẳng khuyên quư vị
thay đổi tín ngưỡng tôn giáo, chẳng hề có! Quư
vị chẳng thấy trong kinh Phật đă ghi chép chuyện
ấy. Quư vị theo đạo Bà La Môn, vẫn cứ tín
ngưỡng đạo Bà La Môn. Quư vị chỉ theo Ngài cầu
trí huệ, cầu học vấn. Lại nữa, Ngài tôn trọng
tất cả các tôn giáo, chẳng phê b́nh, khó có lắm! V́ thế,
chủng tộc cũng là chuyện hết sức trọng
yếu, nó có sức ảnh hưởng.
Nhưng
cũng không nhất định! Ví như ở Trung Hoa, Thiền
Tông Lục Tổ Huệ Năng đại sư chẳng
phải là quư tộc, Ngài là thường dân. Lại c̣n
chưa hề đi học, chẳng biết chữ, xuất
thân là dân lao động nặng. Ngài làm công việc ǵ?
Đàn Kinh đă nói rất rơ ràng, Ngài bán củi, là một tiều
phu. Mỗi ngày, lên núi đốn củi, đủ số
lượng, bèn gánh xuống núi, gánh đến thành trấn
là chỗ có đông người để bán. Cái nghề ấy
hết sức vất vả! Lúc tôi học tiểu học
tại Phước Kiến, tức Kiến Âu thuộc vùng
Mân Bắc của tỉnh Phước Kiến. Kiến Âu
là một thành phố lớn. Khi đó, mỗi nhà đun nấu,
do thuở đó chưa có than đá, toàn là đốt củi,
đấy là thứ chẳng thể thiếu khuyết! Một
là mua củi, hai là mua nước, v́ thời ấy chưa
có nước máy. Do vậy, có rất nhiều người
múc nước bên sông, gánh đến thành thị bán. Một
gánh nước giá mấy cắc, một gánh củi
cũng là mấy cắc, rất rẻ! Ngài bán củi, thu
được tiền, mua một ít gạo, một chút
đồ ăn, trở về nhà phụng dưỡng mẹ
già.
Sự
thành tựu của Ngài có duyên khác hẳn; Ngài được
Ngũ Tổ thưởng thức, truyền y bát cho Ngài.
Khi được truyền, Ngài chỉ mới hai mươi
bốn tuổi. V́ thế, có những kẻ chẳng phục,
truy lùng Ngài khắp nơi, toan đoạt y bát trở về,
“gă ấy há có đủ tư cách?” Bất đắc
dĩ, Ngài đến ẩn thân trong đội thợ
săn suốt mười lăm năm. Mười lăm
năm sau, khi chuyện ấy đă lắng xuống, kẻ
t́m Ngài đă suốt một thời gian dài mà chẳng t́m thấy,
coi như hết chuyện. Duyên đă chín muồi, Ngài gặp
pháp sư Ấn Tông. Thuở ấy, pháp
sư Ấn Tông là một vị cao tăng đại đức
ở Lănh Nam (thuộc vùng Quảng Đông hiện
nay), thông Tông, thông Giáo, là một vị đại pháp sư
giảng kinh, thuyết pháp, được rất nhiều
người kính ngưỡng. Pháp sư Ấn Tông rất lỗi
lạc, gặp Lục Tổ, pháp sư Ấn Tông chẳng
có tâm ganh tỵ. Nếu [pháp sư Ấn Tông] ôm ḷng ganh tỵ,
hăm hại, Lục Tổ đă xong đời! Lục Tổ
gặp được một người thật sự rất
lỗi lạc! Pháp sư Ấn Tông hỏi han minh bạch, Huệ
Năng đại sư mong cầu được xuất
gia, Sư liền thế độ cho Tổ. Sau khi đă
thế độ, lại trở ngược bái Tổ làm
thầy. Tôi nói chuyện này là “nước
dâng, thuyền cao”. Pháp sư Ấn Tông đề cao Tổ,
Tổ lập tức nổi danh! Đại ḥa thượng
Ấn Tông bái ông ta làm thầy, ông ta c̣n chẳng phải là bậc
tuyệt diệu ư? Ông ta phải là nhân vật cỡ nào?
Duyên bất đồng! Nếu Lục Tổ chẳng gặp
pháp sư Ấn Tông, có thể là suốt cả một
đời chẳng ai biết tới Tổ. Duyên có mối
quan hệ quá lớn!
Trong
xă hội hiện thời, cũng nhấn mạnh chuyện
xuất thân và chủng tộc, nhưng quan niệm chẳng
giống với quan niệm xưa kia. Người hiện
thời coi trọng bằng cấp, Trung Hoa lẫn ngoại
quốc đều là như vậy. Quư vị xuất gia, mà
là phần tử trí thức cao cấp, tốt nghiệp đại
học, hoặc đạt được học vị Thạc
Sĩ, hay đạt được học vị Tiến
Sĩ, tự nhiên là quư vị xuất gia sẽ khác hẳn!
Quư vị giảng kinh, thuyết pháp, mọi người sẽ
tôn trọng quư vị, quư vị có học vị cao ngần
ấy mà! V́ thế, chẳng ít người xuất gia trẻ
tuổi vào học tại các trường đại học
nhằm mục đích giành lấy học vị. Có chánh xác
hay không? Điều ấy có tất yếu hay không? Nói thật
ra, chẳng tất yếu! Điều trọng yếu nhất
vẫn là phải tuân thủ truyền thống, quư vị đổ
công dốc sức sâu xa nơi kinh giáo, thâm nhập một
môn, huân tu lâu dài, sau mười năm, hai mươi
năm, quư vị trở thành chuyên gia. Tuy chẳng có bằng
cấp, nhưng tôi đă đổ công dốc sức
nơi môn này sâu hơn quư vị rất nhiều, chẳng
thể phủ nhận điều ấy! Quư vị nêu câu hỏi,
tôi có thể giải đáp; tôi nêu câu hỏi, quư vị trả
lời không được. Đấy đều là sự
thật!
V́
lẽ này, tôi thường bảo các vị pháp sư trẻ
tuổi: - Chúng ta đă có cơ duyên này, được làm
thân người, nghe Phật pháp. Nhất định là phải
chọn lựa một môn trong kinh giáo Đại Thừa
để thâm nhập một môn. Chính ḿnh đă có thể khế
nhập cảnh giới, sau đấy mới có thể
giáo hóa người khác. Chẳng cần cầu tiếng
tăm, lợi dưỡng! Cổ nhân nói: “Thật chí danh quy” (Đă có thực chất tột
bậc th́ tiếng tăm sẽ dồn tới), người
ta sẽ tự nhiên tôn trọng quư vị. Quư vị lại
c̣n có cơ hội biểu lộ, hằng ngày giảng kinh,
mỗi ngày lên bục giảng; trong số thính chúng, chẳng
thiếu người là Tiến Sĩ, Thạc Sĩ, có rất
nhiều nhân vật danh giá, hàng học giả, chuyên gia ngồi
nghe ở dưới. Tôi thường nói tôi là một tấm
gương tốt. Tôi chỉ học hết cấp hai, học
Trung Học được nửa năm bèn bị thất
học. V́ thế, suốt đời này, học tập rất
vất vả. Điều khó có là gặp gỡ mấy vị
thầy tốt nhiệt tâm dạy bảo. Thuở đó,
tôi nghèo hèn đến tột bậc, thầy nhiệt tâm dạy
bảo, chẳng lấy học phí, tôi hết sức cảm
ơn. Sau khi học thành công, một mực đi giảng,
bục giảng chính là chỗ để tôi học tập.
Thính chúng đều là thầy, đều là các vị giám học
của tôi, tôi quyết định chẳng dám khinh mạn,
dạy và học giúp nhau tăng trưởng. Không ngừng
nâng cao đức hạnh và học vấn của chính ḿnh
như vậy! A! Bây giờ đă hết thời gian rồi,
chúng ta nghỉ ngơi mấy phút.
***
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Chúng ta tiếp tục đọc đoạn kinh
văn thứ hai một lượt.
(Kinh) Vân hà đắc sanh xứ cụ
túc, chủng tộc cụ túc, gia cụ túc, sắc cụ
túc, tướng cụ túc, niệm cụ túc, huệ cụ
túc, hạnh cụ túc, vô úy cụ túc, giác ngộ cụ túc?
(經)云何得生處具足,種族具足,家具足,色具足,相具足,念具足,慧具足,行具足,無畏具足,覺悟具足。
(Kinh:
Làm thế nào để được chỗ sanh sẽ
đầy đủ, chủng tộc đầy đủ,
nhà đầy đủ, sắc đầy đủ,
tướng đầy đủ, niệm đầy đủ,
huệ đầy đủ, hạnh đầy đủ,
vô úy đầy đủ, giác ngộ đầy đủ?)
Trong
buổi học trước, chúng tôi đă nói đến “chủng tộc cụ túc”,
chuyện này có thể ảnh hưởng rất mạnh.
Nhân duyên của sự ảnh hưởng ấy rất phức
tạp! Nếu nói bằng một câu tổng quát, sẽ là “nhân duyên trọn đủ”.
Nhân duyên bao quát quá nhiều, những thứ ấy đều
được gộp trong một câu này! Bởi lẽ, gia
tộc có thể khiến cho đại chúng và người
đời sau sanh khởi tín tâm. Thứ ba là…
(Sớ)
Sanh tín hướng Tam Bảo, tu thiện chi gia, phi ngoại
đạo đẳng gia.
(疏)生信向三寶修善之家,非外道等家。
(Sớ:
Sanh trong nhà tin tưởng Tam Bảo, tu thiện, chẳng
phải là nhà của bọn ngoại đạo).
Đấy
là “gia cụ túc”. Điều này là duyên phận, nhưng cũng chẳng
nhất định! Ví như bản thân tôi chẳng có
điều này! Cha mẹ và gia tộc tôi chẳng hề tín
ngưỡng Phật pháp. Mẹ tôi tuy vào ngày tết, ngày lễ,
có đến chùa, đến miếu thờ thần để
dâng hương, nhưng toàn là thuộc loại mê tín! [Dâng hương
để] cầu trời Phật che chở b́nh an, cầu
Phật, cầu thần phù hộ b́nh an, phù hộ thăng
quan, phát tài, toàn là quan niệm như vậy. Cách nghĩ ấy
thuộc loại mê tín! Sanh trong gia đ́nh tin tưởng
Tam Bảo, tu thiện, nhất định là người ấy
có cơ sở hết sức tốt đẹp, chúng ta có
thể tưởng tượng được chuyện
này. Từ nhỏ đă được Phật pháp hun
đúc, cái duyên ấy quá thù thắng, rất khó gặp gỡ!
Trong một đời này, nói theo chính bản thân tôi, nếu
chẳng gặp tiên sinh Phương Đông Mỹ, người
nào khuyên tôi học Phật, tôi cũng chẳng thể tiếp
nhận! Trong sự cảm nhận của chính ḿnh, đối
với một vị trưởng thượng ḿnh kính
ngưỡng nhất, tôn trọng nhất, những lời
từ chính miệng của vị ấy thốt ra sẽ khiến
cho chúng ta tin tưởng trọn vẹn.
Tuy
chúng tôi chẳng hoàn thành học nghiệp thế gian,
nhưng đây là một loại học vấn khác. Do
được Phương tiên sinh giới thiệu, tôi chẳng
hoài nghi Phật pháp. Biết chuyện ấy xác thực là
như thầy đă nói, [Phật pháp xác thực] là đỉnh
cao nhất của triết học; học Phật là sự
hưởng thụ cao nhất trong đời người.
Kẻ khác chẳng biết đến sự hưởng
thụ ấy, nhưng người đọc sách Nho có thể
hiểu được ít phần. Đó gọi là “Khổng Nhan chi lạc” (niềm
vui của Khổng Tử, Nhan Hồi). Câu đầu tiên mở
đầu sách Luận Ngữ là: “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt
hồ? Hữu bằng tự viễn phương lai, bất
diệc lạc hồ? Nhân bất tri nhi bất uấn, bất
diệc quân tử hồ?” (Học rồi tập luyện,
cũng chẳng vui sao? Có bạn từ phương xa đến
thăm, cũng chẳng sướng sao? Người ta chẳng
biết mà không tức giận, cũng chẳng phải là bậc
quân tử ư?) Dùng ba câu ấy để h́nh dung niềm
vui do học Phật, quư vị mới thật sự thấu
hiểu ít phần, thật sự vui sướng, đấy
là hưởng thụ. Sự hưởng thụ ấy chẳng
phải là tiền tài, chẳng phải là của cải, chẳng
phải là địa vị, chẳng phải là quyền thế,
mà là cảnh giới không ngừng nâng cao hơn! Trong xă hội,
chúng ta suốt đời giữ vững bổn phận của
chính ḿnh. Tôi chọn lựa nghề nghiệp này, tức xuất
gia, cũng chẳng do chính tôi chọn lựa, mà là do Chương
Gia đại sư thay tôi chọn lựa. Lăo nhân gia rát miệng
buốt ḷng khuyên tôi: “Chẳng cần làm ǵ khác, anh chẳng
phải là người thích hợp để làm chuyện
ǵ khác. Hăy chăm chỉ học Phật, hoằng pháp lợi
sanh!” Tôi hết sức tôn trọng thầy, rất nghe lời,
là học tṛ ngoan. Lăo nhân gia đă chọn lựa cho tôi, tôi
liền xác định đi theo con đường ấy!
Cổ
đức đă nói về con đường ấy rất
hay: “Hoằng pháp là gia vụ”.
[Hoằng pháp là] việc nhà của chúng ta, chuyện của
chính ḿnh là y giáo tu hành, hoằng pháp lợi sanh. Đấy
là chuyện thuộc về bổn phận của bản
thân chúng ta. Đời này tôi đă làm được. Trừ
chuyện này ra, bất cứ chuyện ǵ khác tôi cũng
đều chẳng bận tâm. Cho nên đến hiện thời,
vào độ tuổi này, tôi chẳng có đạo tràng, chẳng
có tinh xá. Nơi tôi trụ là của người khác, quyền
sở hữu thuộc về người khác. Tôi nói “tôi có
quyền sử dụng, chẳng cần quyền sở hữu”,
rất tự tại! Chẳng có đồ chúng. Tuy dạy
học hằng ngày mà cũng chẳng có học tṛ; nghiễm
nhiên có nhiều kẻ nói họ là đồ chúng hoặc là
học tṛ của tôi. Đó là do họ nói, chẳng phải
là do tôi nói! Nhất định phải hiểu điều
này! Hằng ngày đọc kinh, hằng ngày giảng kinh, thời
gian lâu dài, bất tri bất giác bèn dần dần khế nhập.
Thật sự vui sướng! Phiền năo ít, trí huệ tăng
trưởng, vọng tưởng, phân biệt ngày càng ít
đi. Hằng ngày nghĩ tưởng chuyện ǵ? Nghĩ
tưởng kinh văn, kinh giáo, đức Phật nói
như thế nào, ta phải nên học như thế nào, ta
phải nên giúp đỡ kẻ khác ra sao. Nghĩ tưởng
những chuyện ấy, hết sức đơn thuần!
Mấy chục năm qua, tuy ở đô thị, nhưng
trên thực tế vẫn là ẩn cư như cổ nhân
đă nói, “ẩn cư nơi đô
thị”. Nơi đô thị có nhiều chuyện lắm,
nhưng tôi nhất loạt không biết, không xem TV, không xem nhật
báo, không đọc tạp chí, không nghe radio. V́ thế, mỗi
ngày [luôn cảm thấy] thiên hạ thái b́nh.
Hễ
phát sanh đại sự ǵ, có những tín đồ sẽ
kể với tôi những tin tức ấy. V́ thế, tôi
cũng có thể hiểu đôi chút, biết một ít. Trước
nay, chính ḿnh chẳng tiếp xúc, như vậy th́ cái tâm mới
có thể định được. Định sanh ra Huệ,
Huệ có thể giải quyết vấn đề. Do vậy,
năm 1998, tôi đến Tân Gia Ba, duyên cũng rất thù thắng.
Có một lần ngẫu nhiên tôi nói với cư sĩ Lư Mộc
Nguyên:
-
Nếu muốn cho thế giới ḥa b́nh, nhất định
phải là các phe phái chẳng c̣n đối lập, có thể
hóa giải sự kỳ thị chủng tộc, tôn giáo
đối xử ḥa thuận với nhau, mới có thể
giải quyết vấn đề này! Nhưng đối với
ba vấn đề lớn ấy, thực hiện từ
tôn giáo sẽ dễ dàng hơn. V́ sao? Phàm là tín đồ tôn
giáo, sẽ đều tin tưởng thần, họ có một
điểm trung tâm. Hễ nắm được điểm
trung tâm ấy, tức là “thần
yêu thương g đời”, [đối với] nhà Phật
là đại từ đại bi. Phật pháp là ǵ? “Từ bi làm gốc, phương
tiện làm cửa”. Đấy chính là “thần yêu thương người đời”, “Thượng Đế yêu
thương người đời”.
Tôi
nói [do những điều ấy, sẽ] có thể đoàn
kết tôn giáo. Ông ta nghe nói rất thích thú, chủ động
liên lạc giùm tôi, liên lạc với chín tôn giáo tại Tân
Gia Ba, tuyệt quá! Tôi liền bỏ ra một chút thời
gian, ông ta tháp tùng tôi đến thăm từng tôn giáo một,
kết bạn; đến cuối cùng, chín tôn giáo biến
thành người một nhà. Tổng Thống Tân Gia Ba thuở
ấy là tiên sinh Vương Đỉnh Xương thấy
vậy hết sức hoan hỷ. Tôi đă gặp vợ chồng
ông Vương Đỉnh Xương vài lần. Họ rất
tán thán chuyện chúng tôi đă làm!
Ở
chỗ nhỏ bé ấy, chúng tôi đă thực hiện ba
năm, tổ chức ba lần dạ tiệc thân mật, các
tôn giáo cùng nhau ăn mừng năm mới. Lần đầu
tiên là năm 1999, ba ngàn tám trăm người tham gia. Lần
thứ hai là năm 2000 Dương Lịch, có bảy, tám
ngàn người tham gia. Lần thứ ba là năm 2001, dự
đoán sẽ có hơn vạn người [tham dự]. Do
trong lần cuối cùng, Thủ Tướng Tân Gia Ba làm
khách danh dự của chúng tôi; đấy là người
lănh đạo quốc gia, cho nên nhân viên bảo vệ sẽ
đông hơn, cẩn thận hơn. Nhưng họ
cũng nói với chúng tôi, hy vọng số người [tham
dự sẽ] không đông lắm. Do vậy, chúng tôi phỏng
chừng là năm ngàn người, thế mà hôm ấy, thật
sự có gần tám ngàn người tham dự, làm rất thành
công. Mấy quốc gia phụ cận đều có đại
biểu đến tham dự, như Mă Lai, Indonesia, Việt
Nam, Cao Miên, Thái Lan, Phi Luật Tân, gần như là mấy vị
chủ quản tôn giáo của quốc gia, hoặc các vị
đại đức có tiếng tăm, có địa vị
trong tôn giáo. V́ thế, kết giao bằng hữu càng nhiều
hơn cũng là do nhân duyên như thế đó. Tôi tạo lập
mối quan hệ rất tốt đẹp với Nam
Dương.
Rời
khỏi Tân Gia Ba, chánh phủ Úc đặc biệt cấp giấy
phép nhập cảnh cho tôi, đối xử hết sức
lịch sự. Ở Úc, tôi bèn có duyên phận, giúp họ
đoàn kết tôn giáo, giúp họ đoàn kết các sắc tộc.
Đối với chuyện này, chánh phủ Úc đă lập
ra một cơ cấu chuyên môn là bộ văn hóa đa
nguyên để quản trị chuyện ấy. Người
chấp hành là các học viện, do các đại học chấp
hành. Chuyện này hay lắm, hết sức tốt đẹp!
V́ các học viện chẳng thiên vị một tôn giáo nào,
quyết định là giữ địa vị trung lập,
đối với mỗi tôn giáo đều tốt đẹp.
V́ thế, tôi được tiếp xúc [với những vị
thuộc] ngành giáo dục bậc cao, có cơ duyên cùng những
vị giáo sư thuộc các học viện đi dự hội
nghị tọa đàm hai lần. Không ngờ, học viện
trao tặng tôi bằng Tiến Sĩ danh dự, mời tôi
làm giáo sư đại học. Tôi thưa cùng các vị, tôi
tốt nghiệp cấp hai, tuy học vấn của tôi rất
thấp trong trường, nhưng tôi có công phu năm mươi
năm nơi Phật học. Tôi dạy học, [tức là]
giảng kinh dạy học cho đến năm đó
dường như là đă bốn mươi ba năm. Giảng
kinh, dạy học suốt bốn mươi ba năm;
đấy là những thứ thực tại bày ra trước
mặt. Chúng tôi tiến hành tọa đàm với các giáo
sư, các giáo sư nêu ra câu hỏi, tôi đều có thể
giải đáp từng vấn đề một. Dựa vào
đâu? Phật pháp. Phật pháp xác thực là trí huệ viên
măn. Đáng tiếc là bản thân chúng tôi vẫn chẳng
đạt tới viên măn, học đă nhiều năm ngần
ấy, chẳng có đại trí huệ, chỉ mở mang
một chút trí huệ. Một chút trí huệ ấy vẫn
dùng được. V́ thế, người thật sự
có học vấn chân thật, kẻ khác chẳng thể coi
rẻ được!
Nhất
là trong hiện thời, khoa học kỹ thuật phát triển,
phương tiện thông tin phát triển. Hiện thời,
chúng tôi giảng kinh, dạy học, lợi dụng mạng
lưới Internet, lợi dụng truyền h́nh vệ tinh,
bất cứ nơi nào trên toàn cầu đều có thể
tiếp nhận. Sự ảnh hưởng này xác thực là
chẳng giống như trước kia, trong khoảng thời
gian rất ngắn bèn có ảnh hưởng rất lớn.
V́ vậy, suốt đời tôi không xây cất chùa miếu,
[bởi lẽ] chùa miếu chẳng có sức ảnh hưởng
to lớn. Tôi biết truyền h́nh vệ tinh và mạng
Internet có ảnh hưởng to lớn, tôi dùng những thứ
ấy làm đạo tràng, ở nơi phải thuê mướn
cũng được, chẳng cần chính ḿnh phải có đạo
tràng. Hằng ngày khăng khăng chẳng mệt, nghiêm túc nỗ
lực nâng cao cảnh giới của chính ḿnh, giúp người
khác học Phật. Học Phật nói chung chẳng ngoài
chuyện giúp cho kẻ khác “quay
đầu là bờ”, giúp kẻ khác đoạn ác tu thiện,
giúp người ta phá mê khai ngộ. Mục đích chung cực
là giúp đỡ họ “chuyển
phàm thành thánh”. Quư vị nói xem, sự nghiệp ấy có
nhiều ư nghĩa, nhiều giá trị, sung sướng
như thế đó! Đấy mới là sự hưởng
thụ cao nhất trong đời người. Cái duyên ấy
cũng chẳng phải là rất dễ dàng đạt
được. Nói tổng quát bằng một câu, nhà Phật
nói “duyên” chính là nói hết sức chánh xác, nói khiến cho
người ta [nghe xong] chẳng thể không năm vóc gieo
sát đất, đều là do duyên!
Trong
xă hội hiện thời, [xem xét] câu này (“gia cụ túc”), [sẽ thấy] dẫu sanh trong nhà
ngoại đạo, nếu người ấy có duyên gặp
gỡ Phật pháp, sẽ có thể cải biến. Người
từ tôn giáo khác chuyển sang học Phật rất nhiều,
tôi đă gặp không ít. Khi tôi gặp mặt, luôn dùng chánh
pháp khuyên họ, chẳng cần thay đổi tín ngưỡng
tôn giáo của quư vị. [Ép buộc kẻ khác phải thay
đổi tôn giáo để học Phật ] là sai lầm!
Quư vị học Phật là chánh xác! V́ sao? Đức Phật
là thầy của quư vị. Ví như quư vị là tín đồ
đạo Thiên Chúa, quư vị tín ngưỡng Chúa Trời.
Thượng Đế là chủ, là cha của quư vị. Quư
vị theo học với Thích Ca Mâu Ni Phật, Thích Ca Mâu Ni
Phật là thầy, thầy và cha mẹ ta chẳng xung đột.
Vậy th́ quư vị nói “ta muốn từ bỏ cha mẹ,
chẳng cần cha mẹ nữa, đi theo thầy”, Thích
Ca Mâu Ni Phật chẳng thâu nhận quư vị. V́ sao? Quư vị
bất hiếu! Sư đạo được kiến lập
trên cơ sở hiếu đạo. Quư vị đă bất
hiếu đối với cha mẹ, làm sao Thích Ca Mâu Ni Phật
có thể thâu nhận quư vị cho được? Phải
biết điều này! Từ kinh Phật, chúng ta đă thấy
rất nhiều. Quư vị thấy rất nhiều tín đồ
tôn giáo Bà La Môn, Du Già, Số Luận, Ấn Độ vào thời
cổ có rất nhiều tín đồ tôn giáo như thế
ấy, các bậc học giả hoặc lănh đạo tôn
giáo hướng về Thích Ca Mâu Ni Phật thỉnh giáo.
Đấy là giáo dục! Mối quan hệ giữa chúng ta
và Thích Ca Mâu Ni Phật là quan hệ thầy tṛ, mối quan hệ
giữa chúng ta và các vị Bồ Tát là quan hệ bạn học.
Các Ngài học trước chúng ta, chúng ta học sau. Chúng ta
là bạn học lớp trước và lớp sau, phải
hiểu rơ ràng, minh bạch, chẳng giống như tôn giáo!
Trong
tôn giáo có thần, có một vị chân thần duy nhất,
hoặc một vị chân chúa duy nhất, con người chẳng
thể là chân chúa, chẳng thể làm thần! Trong Phật
giáo, tất cả hết thảy mọi người đều
có thể làm Phật, v́ sao? Phật là một danh xưng học
vị trong Phật giáo, học vị cao nhất gọi là Phật
Đà. Rất giống như trong các viện đại học
hiện thời, học vị cao nhất là Tiến Sĩ.
Quư vị học hành chăm chỉ đều có thể
đạt được học vị Tiến Sĩ. Do vậy,
đức Phật mới nói: “Hết
thảy chúng sanh đều là vị lai Phật”. Lời
này nói chẳng sai, phải hiểu chuyện này, chớ nên
nẩy sanh hiểu lầm! Tín đồ của bất cứ
tôn giáo nào cũng đều có thể học Phật hay
không? Đều có thể học Phật! V́ thế, tôi
đối xử với những tôn giáo khác hết sức
tốt đẹp, quan hệ rất tốt đẹp.
Đă thông đạt, hiểu rơ chân tướng sự thật,
sẽ chẳng có chướng ngại!
Do
vậy, chúng ta đọc đoạn kinh văn này, nghĩ
đến câu “nói chung là gặp
duyên khác nhau”, Thiện Đạo đại sư đă
nói như vậy. Ngài nói: “Tuy niệm
Phật văng sanh, bốn cơi, ba bậc, chín phẩm, nói chung
là do gặp duyên khác nhau”. Chúng ta có thể dùng câu nói ấy
của Ngài để [liễu giải] duyên phận của
mỗi cá nhân trong suốt một đời cũng là do gặp
duyên khác nhau! Gặp duyên thù thắng, quư vị sẽ có
thành tựu rất khá. Chẳng gặp duyên thù thắng, hoặc
gặp phải duyên bất hảo, chúng sẽ có thể dụ
dỗ quư vị đi vào con đường bất thiện,
tạo tác vô lượng vô biên tội nghiệp, đáng tiếc
quá! Do vậy, chúng ta phải tiếc duyên, phải tiếc
quư duyên phận!
Câu
thứ tư là “Sắc cụ
túc”:
(Sớ)
H́nh sắc đoan nghiêm, phi xú lậu đẳng.
(疏)形色端嚴,非醜陋等。
(Sớ:
H́nh sắc đoan nghiêm, chẳng xấu xí, hèn kém).
“H́nh” (形) là h́nh dạng, “sắc” (色) là thái độ
của chúng ta. Dáng vẻ ḥa nhă, vui tươi, đoan trang,
nghiêm túc, khiến cho người khác kính yêu. Đối với
người tu hành, điều này chẳng quan trọng cho
lắm, nhưng hoằng pháp sẽ rất thuận tiện.
V́ h́nh sắc đoan nghiêm sẽ tạo hảo cảm cho
người khác, pháp duyên của quư vị sẽ thù thắng;
nhưng h́nh sắc đoan nghiêm do đâu mà có? Phải biết:
Ngàn muôn phần quư vị đừng nên đi sửa sắc
đẹp. Quư vị sửa sắc đẹp hoặc
trang điểm th́ sai mất rồi! Hậu quả sẽ
là khổ sở chẳng kham nói nổi! V́ sao? Phá hoại hoàn
cảnh sanh thái tự nhiên của chính quư vị. Thân thể
và dung mạo của quư vị do cha mẹ sanh ra như vậy,
có thể sửa đổi hay không? Có thể chứ! Dùng
phương pháp ǵ để sửa? Đức Phật
nói: “Hết thảy các pháp sanh
từ tâm tưởng”. Quư vị có thể hiểu đạo
lư ấy, sẽ có thể sửa được! Do đó,
quư vị thấy người học Phật có những vị
tướng mạo của họ biến đổi rất
rơ rệt. Vốn là tướng mạo xấu xí, nay th́
tướng mạo hết sức trang nghiêm. Đó là ǵ?
Công phu đấy! V́ sao tướng mạo vốn không tốt?
Tham, sân, si, mạn quá nặng! Tham, sân, si là phiền năo. Cái
tâm đầy ắp phiền năo, tướng mạo làm sao
tốt đẹp cho nổi? Sau khi đă học Phật,
trừ bỏ tham, sân, si, siêng tu Giới, Định, Huệ,
đương nhiên là h́nh sắc của người ấy
sẽ biến đổi. Người càng từ bi, quư vị
thấy tướng của họ là tướng từ bi.
Càng nhu ḥa, tướng của họ là tướng nhu ḥa.
Đức
Phật dạy con người tu Lục Độ, Tứ
Vô Lượng Tâm, tức từ, bi, hỷ, xả, lẽ
nào tướng mạo chẳng tốt đẹp cho
được? Đương nhiên sẽ là tốt đẹp!
Tướng mạo tốt đẹp, mà thể chất
cũng sẽ tốt đẹp. Khi chưa học Phật,
lắm bệnh tật; khi đă học Phật, phiền
năo nhẹ nhàng, trí huệ tăng trưởng, thân thể
cũng khá hơn, các bệnh tật đều chẳng có!
Đấy mới là công phu chân thật. Nếu tướng
mạo không tốt, pháp duyên tiếp dẫn đại chúng
sẽ bị chướng ngại! Người ta vừa
trông thấy tướng mạo không tốt, chẳng muốn
thân cận quư vị! V́ thế, Bồ Tát thành Phật, [tức
là] Bồ Tát tu hành thành Phật, trong kinh đức Phật
đă nói, vẫn phải dùng thời gian một trăm kiếp,
[sử dụng] thời gian dài như vậy để
chuyên môn tu phước báo. V́ sao? Phước báo có thể
tiếp dẫn chúng sanh. Phước báo là ba mươi hai tướng
và tám mươi thứ hảo. Đấy là nói về h́nh
sắc đoan nghiêm. Tướng mạo của Phật, Bồ
Tát đều hết sức tốt đẹp, tâm địa
tốt lành, thiện tâm, thiện tư duy, ngôn ngữ và
hành vi đều thiện, chẳng có ǵ không tốt. Tướng
chuyển theo tâm, biến thành hết sức thiện
lương. Người thân cận kẻ ấy, sẽ tự
nhiên giống như có một sức hấp dẫn thu hút,
thiện cảm ứng với thiện mà! Do đó, chẳng
thể dùng những thứ giải phẫu bên ngoài, chẳng
thể cầu những thứ thuốc thang linh dị, những
thứ ấy đều là giả! Hăy ghi nhớ: Tướng
chuyển theo tâm, thể chất cũng chuyển theo tâm. Tâm
chúng ta phải thanh tịnh, phải thiện lương. Thể
chất thanh tịnh sẽ ít bệnh. Tâm địa thiện
lương, diện mạo của quư vị liền thiện
lương. Dùng phương pháp này sẽ tốt đẹp,
sửa đổi vận mạng của chính ḿnh.
Thứ
năm là…
(Sớ)
Cụ trượng phu tướng.
(疏)具丈夫相。
(Sớ:
Đầy đủ tướng trượng phu).
[Đấy là] “tướng cụ túc” (tướng
trọn đủ) [trong lời hỏi thuộc phần
chánh kinh].
Tiếp
đó, [lời Sớ] viết:
(Sớ)
Chư căn bất khuyết.
(疏)諸根不缺。
(Sớ:
Các căn chẳng khuyết).
Điều
này cũng hết sức trọng yếu. Trong chuyện hoằng
pháp lợi sanh, quư vị gặp rất nhiều thuận
tiện. Tuy là như thế, người các căn chẳng
trọn đủ vẫn có thành tựu, nhưng ít hơn. “Manh” (盲) là mù mắt, chẳng nh́n thấy, chẳng
có cách nào đọc kinh v́ không trông thấy. “Lung” (聾) là chính
người ấy không nghe được. “Á” (啞, câm)
th́ người ấy có nghi vấn sẽ chẳng hỏi
được. Những điều ấy đều là
chướng ngại, đều gọi là “các căn bị khuyết hăm”. “Chư căn” là mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, đều chẳng bị thiếu hụt, đấy
là tướng hảo. Nghiêm túc tu
hành, sáu căn của quư vị ngày càng tinh tường, ngày
càng thù thắng.
Thầy
tôi là lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam. Cụ ngoài tám mươi,
răng đă rụng, lại mọc hai cái răng, chẳng
thể nghĩ bàn! Cụ văng sanh khi đă chín mươi bảy
tuổi, chẳng mất một cái răng nào. Đấy
là tu hành đắc lực. Cụ có thể sống trường
thọ như vậy, cũng là do tu tŕ đắc lực. Nếu
nói theo cách xem tướng thông thường, phần Địa
Các[3]
nơi cằm của cụ chẳng dài, phần Nhân Trung
c̣n tạm được, chứ cằm bị lép, tướng
như vậy là đoản mạng, rất khó sống đến
sáu mươi tuổi. Cụ sống đến chín mươi
bảy tuổi, cũng là đă thật sự sửa đổi
vận mạng của chính ḿnh. Do vậy, học Phật,
quư vị có thể hiểu rất nhiều điều, đều
có thể ứng dụng vào cuộc sống, sửa đổi
vận mạng của chính ḿnh. Đời này sẽ sống
rất hạnh phúc, rất vui sướng, đời sau
càng viên măn hơn. Đời sau là quả báo, đời này
là hoa báo.
Đối
với câu thứ sáu [trong phần chánh kinh], tức “niệm cụ túc”, [lời Sớ
giảng]:
(Sớ)
Chánh niệm bất vong, diệc túc niệm hiện tiền.
(疏)正念不忘,亦宿念現前。
(Sớ:
Chánh niệm chẳng quên, túc niệm cũng hiện tiền).
“Túc niệm” (宿念) là trong đời
quá khứ. Trong đời quá khứ, những ǵ người
ấy đă niệm đều là chánh niệm. Duyên trong
đời này hết sức thù thắng, từ bé đă gặp
gỡ [Phật pháp], sanh trong gia đ́nh rất tốt đẹp,
cha mẹ và gia đ́nh đều học Phật. Từ nhỏ
đă tiếp nhận Phật pháp un đúc, do thiện
căn trong đời quá khứ dẫn phát, cho nên thông minh
khác người, có trí huệ bất phàm. Từ chỗ này,
chúng ta cũng hiểu, người có thiện căn từ
đời trước chẳng phải là đa số, mà
là rất ít. Đại đa số chúng sanh trong đời
trước đều tạo ác nghiệp. V́ thế, ác tập
khí rất nặng, ác niệm rất mạnh. Nh́n từ chỗ
nào? Nh́n vào lúc chúng tôi giảng kinh, nh́n từ lúc chúng tôi lên lớp,
quư vị thấy có rất nhiều thính chúng khi chuyên tâm
nghe giảng, do thiện căn đời trước của
người ấy dẫn phát, họ bị cảm động,
khóc ̣a, đầm đ́a nước mắt, sám hối. Từ
điều này quư vị có thể nh́n ra, nhưng như thế
nào? Sám hối th́ sám hối vậy đó; sau một hai ngày,
bệnh cũ lại phát ra!
Đấy
là do nguyên nhân ǵ? Quư vị bèn hiểu, tập khí bất thiện
trong đời quá khứ quá nặng. V́ vậy, họ chẳng
có cách nào! Họ rất muốn sửa đổi, nhưng
sửa không được, rất mong học, nói chung là do
nhân duyên sai biệt chướng ngại họ. Chúng ta
thường có thể thấy chuyện này! Lại quay về
xét chính ḿnh, nếu bản thân chúng ta chẳng dũng mănh tinh
tấn, mỗi ngày đều học tập, dùi mài chẳng
bỏ, chắc chắn là cũng bị tập khí ác tiêm nhiễm!
Do vậy, có rất nhiều đồng học đến
hỏi tôi: “Thầy làm thế nào để giữ cho ḿnh
chẳng bị hoàn cảnh bên ngoài ô nhiễm?” Tôi trả lời
họ chỉ bằng một câu: “Đọc kinh mỗi
ngày, giảng kinh mỗi ngày, quư vị sẽ chẳng bị
[ô nhiễm]”. Mỗi ngày đọc kinh là mỗi ngày đều
thân cận Phật, Bồ Tát. Mỗi ngày giảng kinh th́ quư
vị mỗi ngày đều phải chuẩn bị. Nếu
quư vị chẳng chuẩn bị, lên giảng đài sẽ
không thể kết thúc được, khó coi lắm, thật
đấy! Đấy là phương pháp đốc thúc
chính ḿnh tốt nhất. Quư vị xem nhé, thầy đốc
thúc, cha mẹ đốc thúc, [chúng ta] đều có cách qua mặt,
lừa gạt, dùng mánh khóe để chiếm lợi thế.
Thính chúng đốc thúc, học tṛ đông đảo
như vậy đốc thúc quư vị, quư vị sẽ chẳng
có cách nào lừa gạt được! Chẳng thể nào
không chuẩn bị nghiêm túc!
Mỗi
ngày tư tưởng đều đặt nơi đạo,
nơi chánh niệm; dẫu có tà niệm, nó chẳng dấy
lên được! [Bởi lẽ], tà niệm chẳng có duyên,
c̣n duyên của chánh niệm hết sức đầy đủ.
Kinh luận Phật giáo quá nhiều, giảng cả đời
chẳng hết! Đối với bộ kinh Hoa Nghiêm này,
xét theo tốc độ tiến triển hiện thời,
c̣n phải giảng bao nhiêu năm nữa? Tối thiểu
là từ mười năm trở lên. Hiện thời, chúng
tôi mới giảng một phần mười, đă giảng
đến hơn ba ngàn giờ, [thế mà chỉ giảng
được] một phần mười! Do vậy, [để
giảng những phần sau] tối thiểu là mười
năm nữa! Mười năm như một ngày, niệm
niệm đều đặt nơi Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, làm sao quư vị học
theo thói xấu cho được? Đó là chuyện chẳng
thể nào có! Nay đang trong thời kỳ Mạt Pháp, bên
ngoài có sức dụ dỗ, mê hoặc to lớn, mạnh mẽ,
đây là phương pháp tốt nhất để làm thế
nào ḥng giữ cho chính ḿnh chẳng bị dụ dỗ, mê hoặc!
Đời này, bản thân tôi nhờ cách này mà đắc lực.
Nếu chẳng giảng kinh [mà mong] chẳng bị cảnh
giới bên ngoài dụ dỗ, mê hoặc, sẽ là rất
khó. Quá khó ḷng, cầm cự không nổi!
Câu
thứ bảy [trong phần chánh kinh] là “huệ cụ túc” (huệ trọn đủ) [được
lời Sớ giảng như sau]:
(Sớ)
Huệ ngộ cao minh, thiện giải thế pháp.
(疏)慧悟高明,善解世法。
(Sớ:
Trí huệ giác ngộ cao minh, khéo hiểu pháp thế gian).
“Thế” (世) là pháp thế
gian, đúng như Tiến Sĩ Thang Ân Tỷ đă nói: “Để giải quyết những
vấn đề xă hội trong thế kỷ hai
mươi mốt, chỉ có học thuyết Khổng Mạnh
và Đại Thừa Phật pháp”. Đại Thừa Phật
pháp có thể giải quyết vấn đề xă hội,
[đấy chính là] “thiện giải
thế pháp” (khéo hiểu pháp thế gian). V́ sao? Trí huệ
đă khai. Người đời chẳng liễu giải
chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, luôn dựa
vào kinh nghiệm trong quá khứ của chính ḿnh để
suy đoán. Suy đoán th́ làm sao có thể đoán đúng cho
được? Các nhà khoa học tuy dựa theo
phương pháp suy luận để khảo sát, vẫn chẳng
đạt được câu trả lời chánh xác! Do nguyên
nhân nào? Trước kia, thầy Phương đă bảo
tôi, lên cao hơn, lư luận học (Logic) sẽ vô dụng,
siêu việt mà! Lư luận học, Nhân Minh
(Hetuvidyā), và biện chứng
pháp (Dialectic method) là những phương pháp luận khoa học.
Phương pháp luận của khoa học cũng có phạm
vi nhất định. Vượt ra ngoài phạm vi ấy,
thảy đều chẳng dùng được. Thầy
Phương nói Đại Thừa Phật pháp siêu việt.
Thuở ấy, đức Phật thường vận dụng
những phương pháp ấy vào đâu? Giáo pháp Tiểu
Thừa. Đối với Thanh Văn, Duyên Giác, Quyền
Giáo Bồ Tát th́ dùng được, chẳng thể áp dụng
với hàng Bồ Tát Ma Ha Tát. Quư vị nói xem, những lời
Huệ Năng đại sư đă nói trong Đàn Kinh là
siêu việt!
Do
đó, đối với pháp thế gian, bất luận
sanh khởi vấn đề phức tạp, khó khăn ǵ
chi nữa, hễ gặp được trí huệ chân thật,
sẽ tự nhiên hóa giải, [đó là] “thiện giải thế pháp”. Giúp hết thảy
chúng sanh ĺa khổ được vui, giúp hết thảy
chúng sanh hóa giải tai nạn. Thiên tai, nhân họa, không ǵ chẳng
phải là do ác nghiệp tác động. Ĺa khỏi ác nghiệp,
há có những chuyện ấy? Có rất nhiều kẻ
không tin, nói đến nhân họa (人禍, tai họa do
con người gây ra), chúng ta hồi tâm hướng thiện
[ḥng giải trừ nhân họa], cũng có lẽ họ c̣n
có thể tin tưởng. Chứ thiên tai như động
đất, băo lốc, sóng thần, núi lửa bùng nổ, vỏ
trái đất nẩy sanh sự biến hóa, [họ sẽ
phản bác] “những chuyện ấy có ǵ dính dáng đến
chuyện con người tạo tác thiện hay bất thiện?”
Mọi người đều nói kiểu đó! Kinh Phật
bảo “có liên quan”. Lũ b́nh phàm chúng ta chẳng thừa nhận,
đặc biệt là những kẻ thuộc giới khoa học.
Trong kinh, đức Phật đă nói chuyện này, nhưng
trong khoa học chẳng t́m thấy căn cứ, t́m không ra
chứng cứ!
V́
vậy, trong những năm qua, Tiến Sĩ Giang Bổn
Thắng của Nhật Bản làm thí nghiệm về sự
kết tinh của nước. Các đồng học thấy
tin tức ấy trên Internet, hạ tải (download) cho tôi
xem, tôi thấy vậy hết sức hoan hỷ. V́ sao? Khoa học
đă chứng minh ư niệm của con người có thể
biến đổi hoàn cảnh bên ngoài. Chúng ta có một niệm
thiện, nước sẽ kết tinh biểu lộ hết
sức đẹp đẽ. Tâm chúng ta bất thiện, nó
sẽ phản ứng hết sức xấu xí. Nước
là khoáng vật, chẳng phải là sinh vật. Từ thí
nghiệm ấy, chúng ta khẳng định: Đúng như
kinh Phật đă dạy, toàn thể vũ trụ là một
thể hữu cơ, có sanh mạng, sống động! Theo
giáo pháp Đại Thừa, hết thảy các pháp do đâu
mà có? Do Pháp Tánh biến hiện, “duy
tâm sở hiện, duy thức sở biến”, do pháp tánh
biến ra. Pháp Tánh là chân tánh, nó có sẵn năng lực thấy,
nghe, hay biết, có sắc, thanh, hương, vị. Thấy,
nghe, hay, biết là tánh của nó. Sắc, thanh, hương,
vị là tướng của nó. Pháp Tánh, pháp tướng,
toàn thể vũ trụ là sống động!
V́
thế, tôi cổ vũ Tiến Sĩ Giang Bổn Thắng
càng thêm gắng công! Hiện thời, ông ta mới chỉ là
phát hiện sự thấy, nghe, hay, biết. Nước có thấy,
nghe, hay, biết, [tức là] khoáng vật có thấy, nghe,
hay, biết. Đă phát hiện nó có sắc tướng, nó hăy
c̣n có âm thanh, c̣n có hương, c̣n có vị, mà ông ta vẫn
chưa phát hiện. Hăy tiếp tục khéo gắng sức,
chúng tôi cũng kết giao thành bạn bè thân thiết. A! Hôm
nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi nói tới
đây!
Tập 1476
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin hăy xem đoạn kinh văn thứ hai trong phẩm
thứ mười một, tức phẩm Tịnh Hạnh,
cũng là đoạn thứ nhất trong mười đoạn
của phần Biệt Minh. Chúng ta đọc
kinh văn một lượt:
(Kinh)
Vân hà đắc sanh xứ cụ túc, chủng tộc cụ
túc, gia cụ túc, sắc cụ túc, tướng cụ túc,
niệm cụ túc, huệ cụ túc, hạnh cụ túc, vô úy
cụ túc, giác ngộ cụ túc.
(經)云何得生處具足,種族具足,家具足,色具足,相具足,念具足,慧具足,行具足,無畏具足,覺悟具足。
(Kinh:
Làm thế nào để được chỗ sanh đầy
đủ, chủng tộc đầy đủ, nhà đầy
đủ, sắc đầy đủ, tướng đầy
đủ, niệm đầy đủ, huệ đầy
đủ, hạnh đầy đủ, vô úy đầy
đủ, giác ngộ đầy đủ?)
Lần
trước, chúng ta đă học đến câu thứ bảy,
tức “huệ cụ túc”.
Trong phần chú giải, Thanh Lương đại sư đă
viết: “Huệ ngộ cao
minh, thiện giải thế pháp” (Trí huệ giác ngộ
cao minh, khéo hiểu pháp thế gian). Đấy là vào thời
đức Thế Tôn trụ thế, thuyết pháp trong bốn
mươi chín năm, gần như đă gặp khắp
nam, nữ, già, trẻ, các ngành nghề trong xă hội. Trên là
từ quốc vương, đại thần, [dưới
là] cho tới kẻ buôn bán nhỏ, kẻ chạy vặt;
trong số đó, c̣n có khá nhiều nhà tôn giáo, người tu
hành, bậc học giả, đức Phật đều tiếp
xúc. Những người ấy đối trước
đức Thế Tôn nêu ra khá nhiều câu nghi vấn hoặc
vặn hỏi, nay chúng ta gọi là những vấn đề
“nổi cộm”, đức Phật chưa hề suy ngẫm,
nghĩ ngợi, chẳng hề có, mà là trả lời ngay lập
tức! Trả lời tự nhiên, trả lời thù thắng
dường ấy; đấy chính là “huệ cụ túc, thiện giải thế pháp”. Xác
thực là có những kẻ cố ư gây khó dễ, đến
thử thách Thích Ca Mâu Ni Phật, “coi xem rốt cuộc ổng
có năng lực cỡ nào?” Đức Phật chẳng
tránh né, đều có thể giải đáp. Sau khi Ngài trả
lời, đối phương năm vóc gieo sát đất,
chẳng thể không bội phục!
Đức
Phật nói lời thật, những đức năng ấy
hết thảy chúng sanh vốn sẵn trọn đủ, giống
như trong phẩm [Như Lai] Xuất Hiện ở phần
sau kinh Hoa Nghiêm đă nói: “Hết
thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng
của Như Lai, nhưng do vọng tưởng, chấp
trước mà chẳng thể chứng đắc”.
Đức Phật biết rành mạch, rơ ràng. Chư Phật,
Bồ Tát xuất hiện trong cơi đời chỉ v́ một
chuyện, kinh Pháp Hoa đă dạy rất rơ ràng: “Phật v́ một đại sự
nhân duyên mà xuất hiện trong cơi đời”. Đại
sự ấy chính là đại sự ǵ vậy? Chính là nói
rơ chân tướng sự thật ấy với mọi
người! Đấy là đại sự, chẳng phải
là chuyện vặt vănh! Hết thảy chúng sanh có trí huệ
b́nh đẳng, chẳng khác chư Phật Như Lai, không
ǵ chẳng biết, không ǵ chẳng thể! Đối với
đức hạnh và tướng hảo, đức Thế
Tôn thị hiện Liệt Ứng Thân, tức là ba
mươi hai tướng cùng với tám mươi thứ
hảo. Những tướng tốt như trong sách xem
tướng thế gian đă nói đức Phật đều
trọn đủ, chẳng thiếu một tướng
nào! Người thế gian chỉ biết những điều
ấy, họ đâu có biết đức Phật c̣n có Báo
Thân. Báo Thân là thân có vô lượng tướng, mỗi
tướng có vô lượng hảo, chẳng thể dùng
những con số để tỷ dụ, tính toán. Người
thế gian chẳng biết điều này! V́ thế, pháp Tiểu
Thừa thiên về kinh nghiệm và kiến thức thông
thường của người thế gian; hễ nói ra, mọi
người sẽ dễ hiểu. Pháp Đại Thừa khó
khăn, [bởi lẽ, nó] chẳng phải là kinh nghiệm
như người thế gian sở hữu, mà là cảnh
giới do chư Phật Như Lai đích thân chứng nhập.
Người hiện tại gọi [những giáo nghĩa
Đại Thừa] là “chân tướng của vũ trụ
và nhân sinh”, là chân thật, chẳng giả!
Sau
khi đă hiểu rơ, chúng ta hăy nên giác ngộ, cũng là
như đức Phật thường nói: “Thân người khó được, Phật pháp khó
nghe”. Bài kệ Khai Kinh có câu: “Bách
thiên vạn kiếp nan tao ngộ” (Trăm ngàn vạn kiếp
khó gặp gỡ). Vào những năm đầu nhà Thanh thuở
trước, cư sĩ Bành Tế Thanh đă nói: “Hiếm có khó gặp kể từ
vô lượng kiếp đến nay”, [tức là nói về chuyện] được gặp
Phật pháp Đại Thừa. Được làm thân
người, gặp Phật pháp Đại Thừa, khó
khăn dường ấy! Sau khi đă gặp gỡ, hy vọng
quư vị đừng nên luống uổng đời này, hăy
giải quyết đại sự nhân duyên ngay trong đời
này. “Đại sự” ấy
chính là nhập Phật cảnh giới. Chuyện này nói khó
th́ chẳng khó, mà bảo là dễ th́ cũng chẳng dễ!
Khó hay dễ chẳng do bên ngoài; khó hay dễ là do cái tâm của
mỗi người. Quư vị thật tâm muốn học, sẽ
chẳng khó! Quư vị chẳng dùng chân tâm để học
tập, sẽ chẳng dễ dàng! Thật tâm học tập
th́ điều đầu tiên là quư vị phải nhận
biết, tức là quư vị phải nhận thức, phải
hiểu rơ. Đấy chính là trí huệ, thường nói là “thấy thấu suốt”, quư
vị phải hiểu rơ. Sau khi đă hiểu rơ, quư vị
sẽ có thể buông xuống!
Đức
Phật dạy: Sở dĩ phàm phu chẳng thể thành Phật,
cũng có nghĩa là quư vị chẳng thể khôi phục
Tánh Đức của chính ḿnh, là v́ có ba loại chướng
ngại. Kinh Hoa Nghiêm gọi chúng là “vọng tưởng, phân biệt, chấp trước”.
Giáo pháp Đại Thừa gọi chúng là “phiền năo”. Chấp trước là Kiến
Tư phiền năo, phân biệt là Trần Sa phiền năo, vọng
tưởng là Vô Minh phiền năo. Nói những danh từ này,
kẻ sơ học [sẽ cảm thấy] khó hiểu. Nói
như kinh Hoa Nghiêm, tuy cũng chẳng dễ hiểu,
nhưng mọi người nghe xong, sẽ dễ tiếp
nhận hơn! Vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, những thứ ấy là nghiệp nhân thật
sự. Do ba loại nghiệp nhân ấy, hiện ra ba loại
cảnh giới bất đồng vời vợi. Các cảnh
giới ấy chính là “duy thức
sở biến”, tâm hiện, thức biến. Ba loại chấp
trước ấy đều có! Quư vị có toàn bộ vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, sẽ hiện
ra cảnh giới lục đạo luân hồi, đọa
lạc ở trong ấy. Khi đọa lạc dễ dàng,
đúng là chẳng cẩn thận liền bị đọa
lạc, nhưng thoát ra sẽ khó lắm! Thoát chẳng
được! Nếu chúng ta thật sự giác ngộ,
buông xuống chấp trước, đối với hết
thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều
chẳng c̣n chấp trước, biết những tướng
ấy đúng như kinh Kim Cang đă dạy: “Phàm những ǵ có tướng
đều là hư vọng”,
“hết thảy các pháp hữu vi, như mộng, huyễn,
bọt, bóng”, chẳng chấp
trước nữa, thật sự có thể tự tại
tùy duyên, tùy duyên mà không phan duyên, sẽ vượt thoát lục
đạo!
Nhưng
quư vị c̣n có phân biệt, c̣n có vọng tưởng, c̣n có
hai thứ ấy; hai thứ ấy sẽ biến hiện thành
tứ thánh pháp giới, tức là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ
Tát, và Phật trong mười pháp giới. Chư vị phải
ghi nhớ: Phật trong mười pháp chính là Tương Tự
Tức Phật như Thiên Thai đại sư đă nói.
Tương tự, chẳng phải là thật sự; rất
giống, nhưng chẳng thật, [đó gọi là]
Tương Tự Tức. Đấy là bốn pháp giới
ở phía trên trong mười pháp giới. Nếu quư vị
cũng buông phân biệt xuống, nói cách khác, chẳng c̣n
phân biệt hết thảy các pháp thế gian và xuất thế
gian, ư niệm phân biệt đă đoạn dứt, vậy
th́ chúc mừng quư vị. Quư vị có tư cách vượt
thoát mười pháp giới.
Pháp
giới ở ngoài mười pháp giới được gọi
là Nhất Chân pháp giới, kinh Hoa Nghiêm gọi nó là thế
giới Hoa Tạng, kinh Văng Sanh gọi nó là thế giới
Cực Lạc. Cực Lạc và Hoa Tạng là Nhất Chân
pháp giới, chẳng phải là mười pháp giới.
Điều kiện để đạt đến Nhất
Chân pháp giới thường nói là “phải phá một phẩm vô minh, chứng một phần
Pháp Thân”. Vô minh là ǵ? Vô minh là vọng tưởng, nay
chúng ta nói là “khởi tâm động niệm”, đúng là chẳng
dễ dàng! Thật sự dụng công là vận dụng ở
chỗ nào? Ngay trong sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu
trần bên ngoài, dùng công phu ǵ? Liễu giải chân tướng
sự thật. Kinh Bát Nhă nói: “Hết
thảy các pháp vô sở hữu, rốt ráo không, chẳng thể
được”. Nếu quư vị thật sự thông
đạt, hiểu rơ đạo lư này, buông xuống muôn
duyên, tâm quư vị sẽ tịch tĩnh. Tĩnh sanh huệ!
Cái tâm tịch tĩnh khởi tác dụng là trí huệ. Trí huệ
ấy vốn sẵn có trong tự tánh, chẳng phải là
đến từ bên ngoài. Tự tánh vốn sẵn có trí huệ
hiện tiền. Đấy gọi là “một đại sự nhân duyên”.
Ân
huệ của đức Phật đối với chúng
sanh là ở ngay chỗ này. Nếu đức Phật chẳng
nói thấu suốt, chúng ta làm sao biết được?
Đức Phật nói rành rẽ, minh bạch chuyện này. Chúng
ta phải mong nhập cảnh giới của Phật,
vượt thoát mười pháp giới; mười pháp giới
là hư vọng, chẳng chân thật. Vĩnh Gia đại
sư bảo: “Trong mộng rành
rành phô sáu nẻo. Giác rồi ba cơi rỗng toang hoang”. Lục
đạo là cảnh mộng, là một giấc mộng, lẽ
nào tứ thánh pháp giới lại chẳng phải là một
giấc mộng cho được? Lục đạo là ác
mộng, tứ thánh là hảo mộng, dẫu sao đều
là ở trong mộng, đều là vẫn chưa tỉnh
giấc. Sau khi đă tỉnh giấc, sẽ là Hoa Tạng,
là Nhất Chân, phải biết điều này! Đấy mới
thật sự là ĺa khổ được vui. Ĺa hết thảy
khổ, được vui rốt ráo, chúng ta chẳng sống
uổng phí đời này! Đời này chúng ta tự nhiên
liễu giải rành rẽ, tự sanh ḷng cảm ơn. V́
sao? Đức Phật có ân đối với chúng ta, cho
chúng ta biết tin tức này. Trong đời này, ta y giáo phụng
hành, nghiễm nhiên vượt thoát. Vấn đề chẳng
thể giải quyết trong vô lượng kiếp, đời
này đă giải quyết xong, may mắn quá! Cảm ơn
cha mẹ. Nếu cha mẹ chẳng ban cho chúng ta cái thân giả
này, chúng ta chẳng được làm thân người, sẽ
chẳng gặp Phật pháp. Được làm thân người
là do cha mẹ mà được; nhờ thầy mà
được nghe Phật pháp. Toàn là ân của cha mẹ và
sư trưởng. Hết thảy chúng sanh thảy đều
là Tăng Thượng Duyên của ta. Chẳng có những
chúng sanh ấy giúp đỡ, chúng ta làm sao có thể buông xuống
ba thứ phiền năo cho được?
Phải
cậy vào những ngoại duyên, thuận cảnh, thiện
duyên; ở trong [những cảnh và duyên] ấy, [luyện tập]
buông xuống tham, si. Nghịch cảnh và ác duyên giúp chúng ta
buông xuống sân khuể, buông xuống ngu si. Do vậy,
đoạn tham, sân, si ở đâu? Trong khi sáu căn tiếp
xúc cảnh giới sáu trần, chẳng dấy lên tham, sân,
si, chẳng dấy khởi những ư niệm ấy, trí huệ
sẽ sanh, sẽ hiện tiền, công phu sẽ đạt
được. Công phu là ǵ? Công phu là buông xuống. Trong sự
tu hành của tông Thiên Thai, có danh từ Chỉ Quán. Chỉ (止) là buông xuống,
Quán (觀)
là thấy thấu suốt. Lúc tôi mới học Phật, vừa
mới tiếp xúc kinh Phật khoảng chừng hơn một
tháng, bạn bè giới thiệu cho tôi quen biết Chương
Gia đại sư. Tôi thỉnh giáo lăo nhân gia, ngày đầu
tiên, Ngài dạy tôi: “Thấy thấu
suốt, buông xuống”. Tôi thỉnh giáo lăo nhân gia: “Thực
hiện từ chỗ nào?” Ngài dạy tôi bố thí, dạy
tôi thực hiện khởi đầu từ bố thí, tôi
thật sự làm! Ngày đầu tiên, Ngài dạy tôi sáu chữ:
“Khán đắc phá, phóng đắc
hạ” (thấy thấu suốt, buông xuống). Lại
c̣n dặn ḍ: “Anh thực hiện
tốt đẹp suốt sáu năm; sau sáu năm, sẽ thật
sự có cảm ứng”. Do vậy, vấn đề là
quư vị phải thật sự làm th́ mới được.
Chẳng thật sự làm, không được đâu nhé!
Câu
tiếp theo [trong chánh kinh] là “hạnh
cụ túc” (hạnh trọn đủ); trong phần chú
giải, Thanh Lương đại sư đă nói:
(Sớ)
Nhu ḥa điều thiện, ly quá tu hành.
(疏)柔和調善,離過修行。
(Sớ:
Nhu ḥa, điều phục cái tâm tốt lành, ĺa lỗi
để tu hành).
Nói
hết sức đơn giản, hết sức tinh yếu.
Học Phật th́ điều thứ nhất là phải học
nhu ḥa! Bất luận thuận cảnh hay nghịch cảnh,
thiện duyên hay ác duyên, điều đầu tiên là phải
học nhu ḥa, quyết định chẳng nóng nảy, bộp
chộp. Phải biết điều tâm! Nói thật ra, nói
theo kiểu hiện thời, “điều
tâm” (調心) sẽ là khắc chế tập khí phiền
năo của chính ḿnh! Sáu căn của chúng ta tiếp xúc cảnh
giới sáu trần, có ai chẳng dấy lên thất t́nh ngũ
dục? Mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, ham muốn
đều hiện tiền, tham, sân, si, mạn! Tôi thường
khuyên lơn các đồng học, tôi nói mười sáu chữ.
Thật sự mong tu hành, thật sự mong khế nhập
cảnh giới của Phật, cửa ải đầu
tiên là quư vị phải thật sự buông xuống. Cái
đầu tiên phải buông xuống chính là ḷng ích kỷ, chớ
nên có ư niệm ấy. Hễ có ư niệm ích kỷ, làm sao có
thể nhập cảnh giới của Phật cho
được?
Có
Phật tử người Hoa nào chưa hề niệm kinh
Kim Cang? Kinh đă dạy rất rơ ràng: “Nếu Bồ Tát có ngă tướng, nhân tướng,
chúng sanh tướng và thọ giả tướng, sẽ
chẳng phải là Bồ Tát”, không phải là [Bồ
Tát]. Đầu tiên là Ngă Tướng, ích kỷ chính là ngă
tướng. Nếu quư vị chẳng buông xuống, quư vị
học Phật, giảng kinh, bái sám, nói đến nỗi
hoa trời rơi tán loạn, vẫn phải luân hồi
trong lục đạo. V́ sao? Chẳng buông cái Ngă xuống!
Đấy là Ngă Chấp trong chấp trước, là căn
bản của tất cả hết thảy các phiền năo.
Ngă tham, ngă si, ngă ái, ngă kiến. Trong kinh, đức Phật
đă dạy chúng ta: Bốn đại phiền năo thường
theo sau, làm sao quư vị có thể rời ĺa lục đạo
cho được!
Có
những thứ ấy tồn tại, nhu ḥa sẽ rất
khó thực hiện! Nếu có thể phá ngă tướng, phá
ngă chấp, sẽ tự nhiên nhu ḥa, tự nhiên “điều thiện”, “điều” (調) là điều ḥa. Mấy
năm gần đây, tôi có cơ duyên tham dự một vài hội
nghị ḥa b́nh quốc tế, tôi bèn nêu ra những giáo huấn
trong Phật pháp để khuyên lơn, khích lệ mọi
người. Làm như thế nào th́ có thể thực hiện
ḥa b́nh, hóa giải xung đột? Chuyện này chẳng phải
là làm từ bên ngoài, mà phải thực hiện từ nội
tâm. Đầu tiên là phải điều giải hết thảy
những đối lập với người khác, phải
hóa giải hết. Hóa giải hết những mâu thuẫn
đối với người khác, sau đấy xung đột
ở bên ngoài sẽ chẳng thể phát sanh. Do đó, điều
quan trọng nhất là chúng ta chẳng đối lập với
hết thảy người, sự, vật, chẳng có mâu
thuẫn, chẳng có nghi hoặc, tự nhiên là chẳng có
xung đột. Bản thân chúng ta làm được, sẽ
dần dần ảnh hưởng đến người
khác, thật sự làm được, sức ảnh hưởng
sẽ rất lớn!
V́
sao Thích Ca Mâu Ni Phật dạy người khác, người
ta đều tin tưởng? Khổng Tử dạy người
khác, Jesus dạy người khác, Mahomed dạy người
khác, mọi người đều có thể tin tưởng,
do đạo lư ǵ vậy? Những vị đó là thánh nhân,
thánh nhân là ǵ? Chính bản thân họ làm được, sau
đấy mới dạy người khác. Người ta sẽ
tin tưởng, chẳng hoài nghi những vị ấy. V́ lẽ
này, tôi thường nói: Bản thân chúng ta làm được,
sau đấy dạy người khác, đó là thánh nhân. Những
ǵ do chính chúng ta đă nói, sau khi nói xong, xác thực là đều
có thể làm được; đấy là hiền nhân, thấp
hơn một bậc. Chúng ta nói rồi mà chính ḿnh chẳng
làm được, đó là lừa người. Nói chung, sẽ
có ngày bị kẻ khác vạch trần. Sau khi đă bị
vạch trần, tín tâm của người ta đối với
quư vị sẽ bị mất đi, quư vị làm sao có thể
cảm hóa kẻ khác cho được?
Do
đó, thế gian toàn là giả, Phật pháp nói lẽ thật.
Phật pháp sử dụng cái tâm chân thành, thanh tịnh, b́nh
đẳng, chánh giác, từ bi, [đó là] Phật tâm! Hết
thảy chúng sanh, có kẻ nào chẳng có chân tâm? Chỉ là v́
mọi người đă mê mất, mê mất như thế
nào? Chấp trước cái thân này là ta, sai mất rồi! Từ
trong mê hoặc, nẩy sanh vô lượng vô biên tri kiến
sai lầm, đúng là “hễ sai, bèn sai đến cùng”! Đức
Phật dạy chúng ta tu hành rất hay; quư vị thấy
tám chữ ấy (“nhu ḥa điều
thiện, ly quá tu hành”) của Thanh Lương đại
sư, tu hành là tu ǵ vậy? Tu nhu ḥa, tu “điều thiện”, tu ĺa lỗi! Đấy là thật
sự tu hành. Ba chuyện ấy không chỉ nhằm đối
với người khác, mà quan trọng nhất là trước
hết đối với chính ḿnh. Chính ḿnh nhu ḥa, chính ḿnh
điều ḥa cái tâm tốt lành, chính ḿnh ĺa lỗi; sau
đấy dạy bảo người khác, sẽ thấy
chẳng khó! Bản thân chúng ta chẳng làm được,
dạy người khác sẽ rất khó!
Chúng
tôi học Phật đă hơn nửa thế kỷ. Trong nửa
thế kỷ ấy, chúng tôi cũng từng đến
thăm nhiều nước, tiếp xúc các đệ tử
Phật môn trên toàn thế giới. Không chỉ là tiếp xúc
Phật môn, mà c̣n tiếp xúc khá nhiều tín đồ tôn
giáo, khiến cho chúng tôi có cảm xúc rất sâu. Cổ nhân
đă nói: “Mỗi thế hệ
sau chẳng bằng thế hệ trước”, tôi có cảm
xúc sâu đậm [đối với chuyện này]! Hăy quan
sát cẩn thận, v́ sao có thể sanh ra hiện tượng
này? Thứ nhất là do tiếp nhận sự giáo dục
khác nhau, yếu tố thứ hai là phong khí xă hội ngày càng
đi xuống! Càng trở ngược về thời cổ,
[càng cảm thấy] ḷng người thuần hậu. Bất
luận là kẻ biết chữ hay không, đều
được hưởng sự giáo dục tốt lành,
hiểu đạo làm người, biết tôn trọng
người khác, biết “bỏ ḿnh v́ người”, đấy
là do đă được hưởng sự giáo dục.
C̣n biết chữ hay không là chuyện khác, [điều quan
trọng là] họ biết làm người! Họ học Phật,
chẳng biết niệm kinh, chẳng hiểu trong kinh có ư
nghĩa ǵ, nhưng họ có thể y giáo phụng hành, có thể
đạt được thành tựu.
Người
hiện thời được giáo dục chẳng giống
người xưa. Tuy học hành nhiều, trong đại
học có Tiến Sĩ, Thạc Sĩ, hàng năm chẳng
biết ra trường bao nhiêu người, nhưng như
thế nào? Chẳng hiểu đạo làm người! V́ thế,
rất nhiều kẻ có bằng cấp cao ngất, sau khi
tốt nghiệp, chẳng thể t́m được việc
trong xă hội! Chủ nhân các công ty, hăng xưởng, hoặc
cửa tiệm chẳng muốn thuê họ. Nguyên nhân là ǵ? Họ
làm việc rất có năng lực, nhưng chẳng biết
làm người, chẳng thể cư xử ḥa thuận, chẳng
thể hợp tác hỗ trợ người khác! Hiện
tượng ấy mở rộng sang tôn giáo, cho đến
tận Phật môn. V́ lẽ này, tôn giáo trong hiện thời,
nhất là đối với Phật giáo, trong đại xă
hội, trên cả thế giới, người chẳng liễu
giải tôn giáo hoặc hiểu lầm tôn giáo quá đông! Có
thể trách móc kẻ khác hay chăng? Chẳng thể! Chỉ
có thể nói là bản thân chúng ta chẳng làm tốt! Tôi
không nói “chúng ta làm vẫn chưa đủ tốt”. “Chưa
đủ tốt” th́ kể ra vẫn c̣n là làm khá lắm!
Chúng ta hoàn toàn chẳng làm tốt, ngay cả câu “chẳng
đủ tốt” chúng ta không có tư cách để nói! Lẽ
nào chẳng có lầm lỗi cho được?
Đệ
tử Phật môn chúng ta, bất luận tại gia hay xuất
gia, nếu thật sự thực hiện rất tốt
trong xă hội, đại chúng trong xă hội sẽ tôn trọng,
kính yêu quư vị, biết quư vị là đệ tử Phật
môn, họ cũng sẽ tôn trọng Phật môn. Do đức
hạnh, trí huệ và sự cống hiến của quư vị,
quư vị đă v́ thế giới, v́ xă hội, v́ chúng sanh
làm khá nhiều chuyện tốt, mọi người sẽ
kính ngưỡng, cảm kích quư vị. Trong các chuyện tốt,
quan trọng nhất là giúp cho chúng sanh giác ngộ, giúp chúng
sanh thoát ĺa lục đạo và mười pháp giới;
đó gọi là “ĺa khổ,
được vui”. Chẳng phải là như hiện thời
nói “ta thoát khỏi sự bần cùng”. Cổ nhân chẳng
nói như vậy! Cần phải chăm sóc cuộc sống
của người bần cùng. Bần cùng là khổ, nỗi
khổ ấy có mối quan hệ nhân quả. Có thể nói
rơ ràng, nói minh bạch đạo lư và chân tướng sự
thật của nhân quả, người ta [nghe xong] sẽ
có thể sửa đổi vận mạng của chính
ḿnh. Tiên sinh Liễu Phàm chẳng phải là đă sửa
đổi hay sao?
Hôm
nay, c̣n có một đồng học đem khoảng chừng
sáu kịch bản Du Tịnh Ư Ngộ Táo Thần Kư cho tôi
xem. Tiên sinh Du Tịnh Ư cũng là điển h́nh, khuôn mẫu
trong chuyện sửa đổi vận mạng. Thành tựu
của ông ta vượt trỗi Viên Liễu Phàm, nhưng chẳng
nổi tiếng như ông Viên Liễu Phàm. Danh tiếng của
ông Viên Liễu Phàm, nói thật ra là do lăo pháp sư Ấn
Quang tuyên truyền. Thật ra, phương pháp sửa đổi
lẫn hiệu quả của ông Du Tịnh Ư đều
vượt trỗi tiên sinh Liễu Phàm. Mạng có nhất
định, do ai định? Do nghiệp của chính ḿnh
đă tạo trong đời quá khứ quyết định
quả báo trong đời này của quư vị. Chẳng phải
là do Diêm Vương định, cũng chẳng phải do
Thượng Đế định, lại càng không phải
là do Phật, Bồ Tát định, [mà là] tự làm, tự
chịu! Trong đời quá khứ ngu si, tạo rất nhiều
ác nghiệp, đời hiện tại mọi chuyện
đều chẳng như ư. Đời này đă thấu hiểu,
chẳng sao cả, hăy ĺa lỗi để tu hành; từ nay về sau, đoạn
ác tu thiện, sửa đổi vận mạng. Đấy
mới gọi là chân tướng sự thật. V́ thế,
bần cùng mà dựa vào cứu tế th́ chẳng được.
Cứu tế chỉ có thể giúp đỡ trong khi ngặt
nghèo, làm sao có thể cứu quư vị suốt đời cho
được? Cứu quư vị cả đời ư? Há
có lẽ ấy? Chẳng có lẽ ấy! V́ thế, tại
Trung Hoa, Nho, Phật, tất cả các tôn giáo trên thế gian
đều dạy con người đoạn ác tu thiện.
Quư
vị có thể hiểu rơ đạo lư này, nghiêm túc thực
hiện, tự nhiên sẽ chuyển được. Hôm nay,
pháp sư Ngộ Đạo mang đến một tấm ảnh
cho tôi xem. [Đấy là] lúc tôi mới học Phật, c̣n
chưa xuất gia, ở trong cḥi tranh của pháp sư Sám
Vân, có chụp một bức h́nh, tính đến bây giờ,
[bức h́nh đă] chụp cách nay bốn mươi bảy
năm về trước. Bốn mươi bảy năm
trước, tôi chụp cho họ. H́nh như lúc ấy tôi
ba mươi mốt tuổi, [bức ảnh ấy] rất
có giá trị kỷ niệm. Khi đó, thật sự là lều
tranh. Vách nhà bốn phía đều bằng những thanh trúc
ken lại, bên ngoài dùng xi-măng trát lên. Quư vị thấy
sơ sài dường ấy! Phía trên lợp cỏ tranh, toàn
là dùng vật liệu ở trên núi ngay
nơi ấy, đúng là “lều
tranh”. Có tất cả bảy gian pḥng, toàn là pḥng rất
nhỏ. Trong số ấy, căn pḥng lớn nhất
dùng làm Phật đường. Ba gian mỗi bên đều
là liêu pḥng, rất nhỏ! Nay chúng tôi ở chỗ này tại
Hương Cảng, pḥng ở rất hẹp, rất nhỏ.
Căn pḥng của chúng tôi ở tại lều tranh ấy,
mỗi người ở một pḥng, c̣n nhỏ hơn
pḥng ở Hương Cảng trong hiện thời. Trong mỗi
pḥng, chỉ có thể kê hai cái giường
đơn là căn pḥng ấy đă chật cứng; cũng
may là người sống trong lều tranh không đông
lắm. Kể cả pháp sư Sám Vân, chúng tôi chỉ có
năm người.
Như
vậy th́ nói đến chuyện tu hành, nói thật ra, thế
hệ trước đă sơ sót chuyện dạy bảo
về đức hạnh cơ bản. Nay chúng tôi đă trải
qua hơn năm mươi năm, mới thật sự hoảng
nhiên đại ngộ: “V́ sao đệ tử Phật đối
với Thập Thiện Nghiệp đều chẳng làm được?”
Thập Thiện Nghiệp Đạo là yêu cầu thấp
nhất của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với học
tṛ, thật sự là cơ sở của Phật pháp, là
đức mục tu học cơ bản. Lũ xuất gia
và tại gia chúng ta đều chẳng làm được!
Trước kia, người ta đều có thể làm
được, nay chúng ta chẳng làm được! Người
xuất gia tu hành, ngoài Thập Thiện Nghiệp Đạo
ra, c̣n cần thêm Sa Di Luật Nghi, đấy là cơ sở
thấp nhất, mười giới, hai mươi bốn
môn oai nghi. V́ vậy, xuất gia có Thập Thiện, sau
đấy mới có Tam Quy, Ngũ Giới.
Trong
Tịnh Nghiệp Tam Phước, điều thứ nhất
là Thập Thiện Nghiệp Đạo, điều thứ
hai mới là “thọ tŕ Tam Quy,
trọn đủ các giới, chẳng phạm oai nghi”. Do
vậy, điều thứ hai lấy điều thứ nhất
làm cơ sở. Chẳng hiếu thảo với cha mẹ,
chẳng tôn trọng thầy, quư vị chẳng thể nhập
môn Thập Thiện Nghiệp Đạo, bất luận là
tại gia hay xuất gia, quư vị đều chẳng vào
được cửa Phật! Hiện thời, chúng ta
đă thấy: “Chỉ có h́nh thức,
chẳng có thực chất”; nhưng Phật pháp trọng
thực chất, chẳng trọng h́nh thức. Quư vị đọc
Thích Ca Phổ, Thích Ca Phương Chí, sẽ hiểu rơ! Xác
thực là thuở đức Thế Tôn tại thế, tất
cả những vị đệ tử của Ngài, xuất
gia hay tại gia tứ chúng đệ tử đông đảo,
đều chú trọng thực chất, chẳng chú trọng
h́nh thức. Đến thời kỳ Mạt Pháp, xếp h́nh
thức thành bậc nhất, chẳng có thực chất,
đấy là “hữu danh vô thực”.
Chúng ta phải hiểu điều này, phải ngay lập tức
cứu chữa. Bắt đầu cứu từ chỗ
nào? Khởi đầu bằng cứu chính ḿnh. Chính ḿnh chẳng
thể đắc độ, mà mong độ người
khác, chẳng có lẽ ấy! Nhất định là trước
hết phải thực hiện từ chính ḿnh.
Kế
đó là câu thứ chín [trong chánh kinh], “vô úy cụ túc”, Thanh Lương đại sư
bảo:
(Sớ)
Chí lực kiên cường, cố vô khiếp nhược.
(疏)志力堅強,故無怯弱。
(Sớ:
Chí lực cứng rắn, mạnh mẽ, nên chẳng khiếp
nhược).
Vô
úy! Sau đó, Ngài cũng dẫn kinh luận để giảng
rơ:
(Sớ)
Hựu vô úy giả, y Trí Độ Luận, Bồ Tát hữu
tứ chủng vô úy, nhất tổng tŕ vô úy, ư pháp kư
tŕ, bất cụ vong thất.
(疏)又無畏者,依智度論,菩薩有四種無畏,一總持無畏,於法記持,不懼忘失。
(Sớ:
Lại nữa, theo Trí Độ Luận, đối với
vô úy th́ Bồ Tát có bốn loại vô úy. Một là tổng
tŕ vô úy, đối với pháp ghi nhớ, ǵn giữ, chẳng
sợ quên mất).
Đấy
là Tổng Tŕ Vô Úy. Có nghĩa là đối với những
pháp, những kinh giáo mà quư vị đă học, quư vị
đều có thể ghi nhớ, đều có thể thực
hiện. “Tŕ” là thực hiện.
Do vậy, “kư tŕ” (記持) là hai chuyện:
Một là quư vị ghi nhớ, hai là quư vị làm được,
có ư nghĩa giống như chữ “học tập” như Nho gia đă nói. “Học” (學) là quư vị
có thể ghi nhớ, “tập”
(習)
là quư vị làm được, quư vị sẽ chẳng
quên mất. Đấy là vô úy. Đây cũng chẳng phải
là một chuyện dễ dàng. Thứ nhất là đ̣i hỏi
phải có trí nhớ tốt, thứ hai là phải đọc
thuộc. Chẳng đọc cho thông thuộc, sẽ không
được! Nghiêm túc thực hiện, quư vị mới
có pháp hỷ. V́ thế, “học
nhi thời tập chi, bất diệc
duyệt hồ” (học rồi
tập luyện, cũng chẳng vui sao), pháp hỷ rất trọng
yếu!
Pháp
hỷ là như xưa kia, tiên sinh Phương Đông Mỹ
khi giới thiệu Phật pháp cho tôi, đă dạy: “Học Phật là sự hưởng
thụ cao nhất trong đời người”. Sự
hưởng thụ cao nhất chính là pháp hỷ sung măn. Sự
hoan hỷ ấy chẳng đến từ bên ngoài, chẳng
phải là tiếng tăm, lợi dưỡng, chẳng phải
là ngũ dục, lục trần, mà là quư vị khế nhập,
ngộ nhập Phật pháp. Do vậy, phiền năo nhẹ
nhàng, trí huệ tăng trưởng, lẽ nào người
ấy chẳng hoan hỷ? Hằng ngày có tiến bộ! Phật
pháp rộng lớn, tinh thâm. Không chỉ là quư vị học
suốt đời chẳng hết, mà đời đời
kiếp kiếp đều học chẳng hết, đúng
là sung sướng vô cùng! Đấy là đối với
chính ḿnh.
Thứ
hai…
(Sớ)
Tri căn vô úy, tri căn thọ pháp, bất cụ sai thất.
(疏)知根無畏,知根授法,不懼差失。
(Sớ:
Vô úy do biết căn cơ: Biết căn cơ để
truyền trao pháp [phù hợp], chẳng sợ sai sót).
Điều
này nhằm nói về chuyện dạy người khác.
Người thật sự có đức hạnh, có học
vấn, sau khi chính ḿnh đă thành tựu, nhất định
sẽ dạy người khác. Người ấy sẽ
không làm nghề nghiệp nào khác. Thích Ca Mâu Ni Phật thị
hiện thành Phật, sau khi đại triệt đại
ngộ, Ngài liền triển khai giáo học, giảng kinh hơn
ba trăm hội, thuyết pháp bốn mươi chín
năm, sung sướng thay! Sung sướng khôn sánh! Chẳng
có chuyện ǵ trong thế gian vui hơn chuyện này, thật
đấy, chẳng giả đâu nhé! Quư vị chẳng nhập
cảnh giới ấy, sẽ chẳng hiểu. Nhập cảnh
giới ấy, quư vị mới có thể thật sự thấu
hiểu. Cổ nhân cũng có nói một câu: “Đắc thiên hạ anh tài nhi nhạo dục chi” (Vui
sướng v́ được bồi dưỡng bậc
tài năng lỗi lạc trong thiên hạ), [đó là] chuyện
vui sướng nhất trong đời người. Cổ
nhân cũng đă nói một câu như vậy. Nay đă hết
giờ rồi, chúng ta nghỉ ngơi mấy phút.
***
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Chúng ta xem tiếp câu thứ chín, tức câu “vô úy cụ túc” [trong chánh kinh].
Thanh Lương đại sư đă dẫn lời giảng
của Trí Độ Luận về bốn loại vô úy của
Bồ Tát. Loại thứ nhất là Tổng Tŕ Vô Úy, loại
thứ hai là Tri Căn Vô Úy, đấy là dạy kẻ khác.
Chư Phật, Bồ Tát cho đến bậc A La Hán, các
Ngài giáo hóa chúng sanh mạnh mẽ hơn bọn phàm phu chúng
ta. Lấy A La Hán để nói, A La Hán có hai loại thần
thông là Thiên Nhăn và Túc Mạng, có thể biết trong năm
trăm đời, chúng sanh đă làm những ǵ trong mỗi
đời, mỗi kiếp. Thấu hiểu cặn kẽ
tận gốc, đương nhiên là sẽ thuyết pháp
khế cơ, những ǵ đă nói đều đúng với
những điều họ đang suy nghĩ. Bồ Tát, Phật
lại càng chẳng cần phải nói nữa! Phật có thể
biết từ vô lượng kiếp trước cho đến
kiếp này, đời đời kiếp kiếp các chúng
sanh đă làm những ǵ, chẳng có ǵ Ngài không liễu giải.
Do v́ người đó (người được hóa
độ) có đại phước báo, đại nhân
duyên, nên gặp Phật. Gặp Phật, chắc chắn sẽ
chẳng luống uổng, quyết định đạt
được thành tựu ngay trong một đời này!
Đấy là do đức Phật giáo hóa khế cơ, biết
căn cơ của chúng sanh, cho nên có thể chẳng nói
sai! Phàm phu th́ rất khó khăn, hoàn toàn cậy vào kinh nghiệm
và sự từng trải của chính ḿnh, thường là
nh́n sai người, chẳng thể sánh bằng Phật
được!
Đức
Phật là mười thứ cụ túc, nếu chúng ta không nghiêm
túc nỗ lực học tập, sẽ khó lắm! Nhưng
trong Phật môn có phương pháp thiện xảo, tức
là cầu nguyện văng sanh. Sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới, được bổn nguyện của
Phật Di Đà gia tŕ, năng lực của chúng ta ngay lập
tức nâng cao, gần như chẳng khác Phật cho mấy,
c̣n thù thắng hơn hàng Bồ Tát b́nh phàm, đương
nhiên là A La Hán đuổi theo hít bụi chẳng kịp. Đấy
là lư do v́ sao kẻ b́nh phàm nhất định phải phát
nguyện cầu sanh Tịnh Độ, là v́ đạo lư này!
Đến thế giới Cực Lạc rồi mới quay
lại, thường gọi là “thả
chiếc bè Từ”, phổ độ chúng sanh. Chúng ta có
Tri Căn Vô Úy th́ bốn món Vô Úy của hàng Bồ Tát chúng ta
sẽ đều đạt được!
Thứ
ba là…
(Sớ)
Quyết nghi vô úy, tùy vấn năng đáp, bất cụ bất
kham!
(疏)決疑無畏,隨問能答,不懼不堪。
(Sớ: Giải trừ nghi hoặc
không sợ hăi, hễ hỏi liền có thể đáp, chẳng
sợ không kham nổi).
Chuyện này bọn phàm phu chúng
ta cũng chẳng có cách nào làm được! Gặp gỡ
khá nhiều người thuộc các ngành nghề, nam, nữ,
già, trẻ, họ nêu ra câu hỏi mà đều có thể giải
đáp, chẳng phải là chuyện dễ! Nay chúng ta hoằng
pháp bên ngoài, cảnh tượng như vậy gần
như thường xuyên gặp phải, làm như thế
nào? Chỉ đành cầu Tam Bảo oai thần gia tŕ. Trừ
cách ấy ra, chẳng có cách nào khác! Trước kia, thầy
Lư đă dạy tôi, chí thành cảm thông! Chỉ nhằm cầu
giúp đỡ người khác, giúp họ giải trừ
nghi nan, giúp họ kiên định tín tâm, giúp họ dũng
mănh tinh tấn. Chẳng có mảy may nguyện vọng cá
nhân trong ấy, điều ǵ thuộc về cá nhân cũng đều
chẳng có, th́ mới có thể được Phật, Bồ
Tát gia tŕ. Chẳng được Phật, Bồ Tát gia tŕ,
sẽ làm chẳng được!
Thứ
tư là…
(Sớ)
Đáp nạn vô úy.
(疏)答難無畏。
(Sớ:
Đáp lời vấn nạn chẳng sợ hăi).
“Nạn” (難) ở đây
là ǵ? Cố ư làm khó dễ, cố ư bắt bí quư vị! Cố
ư làm cho quư vị ḷi cái dốt trước mặt mọi
người. Có đấy! Tôi nhớ là vào năm 1977, lần
đầu tôi đến Hương Cảng giảng kinh
do hai vị là pháp sư Thánh Hoài và cư sĩ Tạ Đạo
Liên mời. Mượn thư viện Phật giáo Trung Hoa ở
phố Giới Hạn (Boundary Road) [làm chỗ giảng]; khi
ấy, pháp sư Sướng Hoài tiếp nhận chức
thư viện trưởng. Tôi giảng ở chỗ
đó hai tháng. Trước đó, tôi và pháp sư Sướng
Hoài chưa hề gặp mặt; gặp mặt lần ấy,
mới biết tuổi tác chúng tôi không chênh lệch mấy.
Sư nhỏ hơn tôi mấy tuổi. Tối hôm đó,
cùng nhau dùng cơm, Sư bảo tôi: “Pháp sư Tịnh Không!
Tuổi thầy chẳng cao, mà cũng chẳng nổi danh,
đến Hương Cảng giảng kinh rất chẳng
dễ dàng. Người Hương Cảng chẳng nghe
kinh. Dẫu là lăo pháp sư trứ danh đến
Hương Cảng giảng kinh th́ thính chúng cũng rất
ít. Đại khái là ngày đầu quư vị khai giảng, họ
sẽ đến để ủng hộ, đến ngày
cuối cùng giảng kinh viên măn, họ sẽ lại đến,
trong khoảng giữa th́ không chắc!” Sư bảo: “Trong
khoảng ấy, có thể là lúc thầy giảng kinh, chẳng
có ai tới hết! Thầy phải chuẩn bị tâm lư nhé”.
Tôi liền thưa với pháp sư Sướng Hoài: “Chuyện
ấy không sao cả!” Tôi nói chúng tôi là kẻ sơ học,
đang học giảng kinh, có người đến nghe
th́ tốt lắm, không có ai đến cũng được.
Tôi thưa: “Không có ai đến th́ bàn ghế bày nhiều
như vậy, tôi cứ coi chúng như người đang
nghe giảng là được rồi!” Pháp sư Sướng
Hoài cười x̣a: “Như vậy th́ không có vấn đề
chi hết”.
Ngoài
ra, Sư c̣n bảo tôi một vấn đề nữa: “C̣n
có những kẻ chuyên môn đến gây khó dễ, cố ư
đưa ra những câu hỏi bắt chẹt trong khi giảng
kinh, khiến cho pháp sư lúng túng, khiến cho pháp sư bị
mất mặt trước mọi người, thầy
đều phải có chuẩn bị về mặt tâm lư”.
Tôi nói: “Được chớ! Tôi đến đây để
tiếp nhận giáo huấn”. Chúng tôi vừa khai giảng liền
tiến hành liên tục hai tháng. Trong khi ấy, cũng chẳng
nghỉ ngày Chủ Nhật. Mỗi ngày giảng hai tiếng
đồng hồ, dành ra một giờ
để dịch sang tiếng Quảng Đông. Cũng rất
khó có, trong hai tháng ấy, gần như mỗi ngày đều
không có ghế trống. Hơn một tuần sau, pháp sư
Sướng Hoài bảo: “Pháp sư Tịnh Không! Pháp
duyên của ông rất thù thắng, tôi chẳng ngờ
được!” Thư viện Phật giáo Trung Hoa ở phố
Giới Hạn không lớn, theo như chúng tôi thấy, độ
lớn của nó chẳng khác giảng đường ở
lầu mười một cho mấy! Có thể là c̣n lớn
hơn [giảng đường của chúng ta] một chút,
chỉ có thể chứa khoảng hơn một trăm
người. Mỗi ngày [người nghe] đều ngồi
kín chỗ, những người đến sau phải
đứng ở ngoài cửa.
Sau
khi giảng xong hai tháng ấy, chúng tôi đổi chỗ,
đổi sang Quang Minh Giảng Đường của lăo
ḥa thượng Thọ Dă tại đường Lam
Đường (Blue Pool Road), Hương Cảng. Tiếp
tục giảng ở đó hai tháng, thính chúng đều
đến đó. Cũng rất công bằng là thời
đó c̣n chưa có đường hầm, mỗi lần
vượt biển đều phải ngồi phà[4].
Cũng giảng hai tháng tại đó, pháp duyên rất thù thắng.
Đấy là lần đầu tiên tôi đến Hương
Cảng. Có những kẻ thường kiếm chuyện
cũng đều đến nghe kinh; sau khi nghe xong, họ
cũng chẳng cật vấn chi hết. Có lần, họ
mời tôi dùng cơm, tôi cũng đi. Pháp sư Sướng
Hoài đi cùng với tôi. Sư nói: “Những kẻ đó
đều là những kẻ gây rối, đều phục
vụ trong giới văn hóa tại Hương Cảng,
cũng đều là những kẻ có thân phận rất lớn”.
Khi dùng cơm, mọi người hết sức hoan hỷ,
có nêu ra một số câu hỏi, tôi đều giải
đáp cặn kẽ. Đó là lần đầu tiên đến
Hương Cảng, giảng liên tục bốn tháng trời.
Từ đấy về sau, hầu như là mỗi năm
đều sang Hương Cảng một lần, thời
gian giảng kinh đại khái cũng chẳng hơn một
tháng; v́ thế, kết pháp duyên cùng Hương Cảng.
Đó là nói về Đáp Nạn Vô Úy, thảy đều là
trống ḷng, kiền thành cầu Phật, Bồ Tát gia hộ,
cầu Phật, Bồ Tát gia tŕ.
(Sớ)
Hữu nạn giai thông, bất cụ nghi trệ.
(疏)有難皆通,不懼疑滯。
(Sớ:
Bị vấn nạn đều [giải đáp] thông suốt,
chẳng sợ bị nghi trệ).
V́
thế, học Phật, giảng kinh, hoằng pháp, không chỉ
là phải hiểu kinh giáo, mà đối với pháp thế
gian cũng phải liễu giải. Pháp thế gian và xuất
thế gian đều có thể thông đạt, đấy
chẳng phải là chuyện rất dễ dàng! Trước
kia, thầy Lư đă từng nêu một thí dụ. Cụ nói:
“Tam Tạng mười hai phần
giáo chính là một bộ Đại Tạng Kinh, trong một
đời này, quư vị có thể thông hiểu hay chăng?”
Đối với pháp thế gian, cụ không nói ǵ khác, chỉ
nói đến một bộ tùng thư trong pháp thế gian của
Trung Hoa là Tứ Khố Toàn Thư, c̣n chưa bao gồm những
phát minh khoa học trong hiện thời, quư vị có thể
thông đạt một bộ Tứ Khố hay chăng? Chẳng
thể thông đạt th́ làm như thế nào? Cuối cùng,
thầy tặng tôi bốn chữ, để cầu thông suốt
th́ cầu bằng cách nào? “Cảm
thông”. Dùng điều ǵ để cầu cảm? Dùng
ḷng thành, tâm chân thành, chân thành đến tột bậc, [sẽ
là] “chí thành”. Chí thành sẽ có
thể cảm thông. Tôi đắc lực nhờ vào lời
giáo huấn ấy của thầy, suốt đời y giáo
phụng hành, đến chỗ nào, chính ḿnh cũng đều
rất chú tâm, cẩn thận. Cuối cùng, kể ra cũng
được lắm, Tam Bảo gia tŕ, bốn mươi
năm qua, trả lời những câu hỏi nghi nan do khá nhiều
người nêu ra, vẫn c̣n có thể may mắn vượt
qua. Chẳng giống như người ta thường bị
bắt bí, chẳng thể đáp nổi, chẳng vượt
qua được! Nếu chẳng dùng ḷng chân thành cầu Phật,
Bồ Tát gia tŕ, sẽ chẳng làm được! Thật
đấy, chẳng giả đâu nhé! Hết thảy đều
v́ Phật pháp, hết thảy v́ chúng sanh, chính ḿnh hy sinh hiến
dâng viên măn, niệm nào cũng v́ người khác, quyết chẳng
thể có một ư niệm v́ chính ḿnh. V́ chính ḿnh th́ sẽ
chẳng thông, chẳng có cảm ứng, không thông suốt
được! Chớ nên không biết điều này!
Câu
cuối cùng là “giác ngộ cụ
túc”; ở đây, Thanh Lương đại sư cũng
chỉ giải thích bằng tám chữ:
(Sớ)
Tánh tự khai giác, bất nhiễm thế pháp.
(疏)性自開覺,不染世法。
(Sớ:
Tánh tự mở mang, giác ngộ, chẳng nhiễm pháp thế
gian).
Tám
chữ này hay lắm! “Tánh”
là tự tánh, là như trong Thiền Tông đă nói: “Minh tâm kiến tánh, đại
triệt đại ngộ” bèn gọi là “tánh tự khai giác”. Đương nhiên là trong cảnh
giới ấy, quyết định chẳng nhiễm pháp
thế gian. Chẳng cần nói tới nhân gian, đối với
cơi trời, phước báo của chư thiên to lớn, đối
với phước trời cũng chẳng nhiễm! Biết
lục đạo và mười pháp giới hư huyễn,
chẳng thật; hễ quư vị tiêm nhiễm, chấp
trước, sẽ phiền toái to lớn, sẽ bị
đọa lạc vào đó. Thời gian chúng ta đọa lạc
quá lâu; v́ thế, đắm nhiễm tập khí rất sâu. Trong
đời này, được nghe Phật pháp, gặp gỡ
thiện tri thức thật sự dắt d́u, giúp đỡ,
quư vị có thể dần dần học “chẳng đắm nhiễm pháp thế gian”.
Nói
thật ra, thầy và cảnh duyên đều là Tăng Thượng
Duyên. Đời đời kiếp kiếp trong quá khứ
đều là người tu hành; chẳng có cơ sở tu
hành trong quá khứ, đời này sẽ chẳng làm
được. Thật đấy, chẳng giả đâu
nhé! Chẳng cần nói tới hàng xuất gia, kẻ tại
gia cũng chẳng phải là ngoại lệ. Pháp duyên suốt
một đời của thầy Lư thù thắng lắm! Tôi
theo cụ mười năm, cụ thường bảo
ban, cổ vũ, khích lệ tôi kết pháp duyên với đại
chúng. Cụ c̣n bảo: Cụ giảng kinh chẳng phải
chỉ một đời, một kiếp này! Tôi tin tưởng
[chuyện ấy]. Biết đâu đời trước cụ
là một vị đại pháp sư, là người xuất
gia; đời này, dùng thân cư sĩ để xuất hiện,
pháp duyên vẫn thù thắng y như cũ. Ở Đài Loan,
người theo cụ niệm Phật, khi tôi rời khỏi
thầy, lúc tôi theo thầy th́ thầy đă giảng kinh ở
Đài Trung mười năm rồi, tôi theo thầy mười
năm, tức là Đài Trung Liên Xă đă tồn tại hai
mươi năm. Khi đó, liên hữu của Đài Trung
Liên Xă (họ có danh sách) tổng cộng gần như đến
năm mươi vạn người. Có thể thấy pháp
duyên thù thắng!
Nh́n
vào hành trạng, nghị luận của thầy, chỗ khiến
cho chúng ta hết sức kính nể, cũng như khiến
cho chúng ta nghiêm túc học tập, [chính là] tám chữ [trong lời
Sớ của Thanh Lương đại sư] đă mô tả
[cụ Lư] khít khao, thích hợp: “Tánh
tự khai giác, bất nhiễm thế pháp”. Thầy sống
kham khổ, những ǵ chúng ta đă thấy thật ra vẫn
chưa phải là thấy rốt ráo. Cho đến sau khi
lăo nhân gia viên tịch, chúng ta thấy những thứ thầy
để lại mới biết. Áo lót, vớ, tức những
thứ mặc bên trong, vá chằng, vá đụp, chẳng
có cái nào c̣n mới. Học tṛ của thầy đông lắm!
Tín đồ của thầy, đông hơn năm
mươi vạn người, chẳng có ai không tôn trọng
lăo nhân gia, thường xuyên cúng dường Ngài, biếu tặng
quần áo, biếu đồ ăn. Lăo nhân gia hoan hỷ nhận
lấy, để trong Liên Xă, thấy ai thiếu thốn, cần
dùng, bèn ngay lập tức tặng lại cho kẻ đó.
Tôi c̣n có mấy bộ áo lót bằng len rất tốt, dành
để mặc vào mùa Đông do lăo nhân gia tặng cho. Bản
thân cụ mặc thứ rách nát, chúng ta đâu có biết. Cụ
mặc ở bên trong, [rách nát] đâu có ai biết! Sau khi
trông thấy, đối với thầy đúng là “năm
vóc gieo sát đất”, chẳng nói ǵ được nữa!
Bản thân thầy là bí thư chủ nhiệm của ty Phụng
Tự Quan[5], giản nhậm một
cấp[6],
thu nhập cũng rất khá, lại c̣n là giáo sư đại
học. Toàn bộ thu nhập thầy đều dùng để
bố thí làm sự nghiệp từ thiện, ngay cả những
thứ được người khác cúng dường
đều đem bố thí. Đấy chính là trong giai
đoạn hiện tiền của thời kỳ Mạt
Pháp, cụ đă nêu tấm gương tốt nhất cho
chúng ta, thật sự thực hiện “chẳng nhiễm đắm pháp thế gian”.
Tiếp
đó, cuối đoạn chú giải của Thanh
Lương đại sư, Ngài đă dùng đoạn sau đây
để tổng kết:
(Sớ)
Hựu thử thập sự, nhược ước pháp
giả, sanh tại Phật gia, thị sanh xứ cụ túc
đẳng, tư chi.
(疏)又此十事,若約法者,生在佛家是生處具足等,思之。
(Sớ:
Lại nữa, mười sự này, nếu xét theo pháp,
sanh trong nhà Phật chính là chỗ sanh trọn đủ v.v…
Hăy suy nghĩ!)
Thanh
Lương đại sư sợ chúng ta sơ ư, hời hợt
xem lướt qua câu này. V́ thế, Ngài lại tự chú giải
thêm. “Sao” là chú giải lời
Sớ. Lời Sao cũng được trích lục phần
quan trọng như dưới đây, chúng ta hăy đọc
một lượt.
(Sao)
Hựu thử thập sự hạ.
(鈔)又此十事下。
(Sao:
Từ câu “lại nữa, mười sự này” trở
đi).
Tức
là đoạn văn chúng ta vừa đọc.
(Sao)
Ước pháp, sanh tại Phật gia giả.
(鈔)約法生在佛家者。
(Sao:
“Xét theo pháp, sanh trong nhà Phật”).
“Nhà Phật” là ǵ?
(Sao)
Bồ Đề tâm gia cố, đẳng ư dư cú.
(鈔)菩提心家故,等於餘句。
(Sao:
[Nhà Phật chính là] nhà Bồ Đề tâm, cũng như
các câu khác).
“Dư cú” (những câu khác) là
mười thứ “cụ túc”
sau đó.
(Sao)
Vị nhị chủng tộc, tức cụ Phật chủng
tánh, vị tự tánh trụ tánh, tập sở thành đẳng.
(鈔)謂二種族,即具佛種性,謂自性住性,習所成等。
(Sao:
Ư nói [câu thứ] hai [trong phần chánh kinh] là “chủng tộc”
[cụ túc], nghĩa là “trọn đủ chủng tánh Phật”,
ngụ ư: Tự tánh trụ nơi tánh, do huân tập mà thành
v.v…)
Do
vậy có thể biết, “chủng
tộc” ấy chính là Phật chủng tộc, tức là
ǵ? “Phật gia” là Bồ
Đề tâm, không nhất định là do nhân duyên nào mà Bồ
Đề tâm của quư vị dấy khởi. Hăy ngẫm
xem, trong Phật giáo Trung Hoa, Thiền Tông Lục Tổ Huệ
Năng đại sư có phải là sanh trong nhà Phật hay
không? Có phải là “chủng tộc
trọn đủ” hay không? Có phải là “nhà trọn đủ, sắc trọn đủ, tướng
trọn đủ” cho đến “giác ngộ trọn đủ” hay không? Ngài thảy
đều trọn đủ.
Lúc
hai mươi bốn tuổi, Ngài đắc pháp tại [huyện]
Hoàng Mai, tuổi trẻ quá! Tuổi tác quá trẻ, kẻ
b́nh phàm chẳng nhận biết, mà cũng chẳng có vị
đại đức nào nâng đỡ, hộ tŕ, giúp đỡ
Ngài, chẳng có! Chính Ngài cũng rất thông minh, vâng nhận
giáo huấn của Ngũ Tổ, t́m một nơi để
ẩn náu, trốn tránh, chờ đến lúc cơ duyên chín
muồi. Ngài đến ẩn nấp trong đội thợ
săn mười lăm năm, [đắc pháp khi] hai
mươi bốn tuổi, mười lăm năm sau th́
Ngài gần như bốn mươi tuổi mới xuất
hiện. Khi lộ diện, điều khó có là Tổ
được pháp sư Ấn Tông hộ tŕ. Ấn Tông là một
vị lăo ḥa thượng giảng kinh, thuyết pháp, tu hành
bậc nhất tại Lănh Nam, không ai chẳng tôn kính. Ấn
Tông bái Tổ làm thầy, như vậy là “nước dâng, thuyền vọt lên cao”, ngay lập
tức Tổ được đề cao! Tổ là sư
phụ của pháp sư Ấn Tông, vậy th́ [Tổ phải
là một người] lỗi lạc lắm chứ! Do vậy,
thành tựu của Lục Tổ chính là sự thành tựu
của pháp sư Ấn Tông. Chẳng có Ấn Tông, ai biết
có Huệ Năng? Chúng ta phải hiểu điều này! V́
thế, công đức hộ pháp vượt trỗi hoằng
pháp. Trong quá khứ, tôi đă thường nói như thế;
về sau, quả nhiên, trong kinh xác thực là đức Phật
đă nói như thế.
Bản
thân ta chẳng thể giảng kinh, ta tu hành chẳng tốt
đẹp, không sao hết! Ta hộ tŕ người khác,
công đức của người ấy chính là công đức
của ta. Bản thân ta chẳng thể dạy người
khác, không sao cả! Ta có thể mở trường học,
mời thầy giỏi, những học tṛ được
dạy dỗ đều là do quư vị dạy. Đấy
là hộ pháp! Hoằng dương và hộ tŕ là một thể.
Hộ pháp c̣n quan trọng hơn hoằng pháp. Chẳng có hộ
pháp, chắc chắn là chẳng có hoằng pháp. V́ thế, hộ
pháp thật sự là công đức bậc nhất. Căn
bệnh lớn nhất của người đời là
ganh tỵ, chướng ngại. Thấy người thật
sự tu hành, thật sự có đức hạnh, bèn ôm ḷng
ganh tỵ, nghĩ trọn mọi phương pháp để
chướng ngại, sai mất rồi! Chẳng biết
quư vị được gặp gỡ [người ấy],
chính là đại nhân duyên! Nếu quư vị có thể thật
sự hộ tŕ, có thể giúp đỡ, sự thành tựu
của người ấy sẽ chính là
sự thành tựu của quư vị. Thành tựu của
quư vị chắc chắn vượt trỗi sự thành tựu
trong hoằng pháp của kẻ ấy. Phải hiểu
đạo lư này, quả đức chẳng thể nghĩ
bàn!
Kế
đó:
(Sớ)
Hựu cụ túc giả, duy Phật nhất nhân.
(疏)又具足者,唯佛一人。
(Sớ:
Lại nữa, người trọn đủ [mười
thứ ấy], chỉ có ḿnh đức Phật).
Trọn
đủ viên măn mười thứ ấy, chỉ có một
ḿnh đức Phật! Trừ Phật ra, có [kẻ nào khác]
trọn đủ hay không? Có chứ! Nhưng chẳng viên
măn như Phật, nói chung là luôn có những khiếm khuyết.
Thảy đều trọn đủ những điều
đó th́ chỉ có mỗi ḿnh đức Phật. “Thảy đều trọn đủ”
cũng là nói rơ: Đến một thời đại nào
đó, cái duyên đắc độ của chúng sanh chín muồi.
Do cơ duyên đắc độ đă chín muồi, sẽ
cảm Phật ứng hóa. Chúng sanh có cảm, Phật bèn có ứng.
Chỉ có thiểu số chín muồi, Phật cũng ứng
đến, nhưng chẳng dùng [cái thân] trọn đủ
mười thứ ấy; đáng nên dùng thân ǵ để
đắc độ, Phật bèn hiện thân ấy. Đức
Phật ở trong thế gian này, thời gian dài hay ngắn,
ảnh hưởng giáo hóa cạn hay sâu, chẳng do Phật,
mà là do duyên, do chúng sanh! Chúng sanh có thật sự học tập
hay không? Có hăng hái mến mộ hay không? Những điều
ấy có quan hệ rất lớn! V́ vậy, chúng ta thấy,
trong giai đoạn này, ở nơi chốn này, chẳng có
Phật xuất thế, chẳng có Bồ Tát đến ứng
hóa, chúng sanh mờ mịt bất giác. Chúng ta là kẻ đă
biết, bản thân chúng ta phải phát đại nguyện
cầu pháp thay cho hết thảy chúng sanh. Cầu thay bằng
cách nào? Bản thân ta y giáo tu hành, nghiêm túc tu hành. Ta chẳng
v́ chính ḿnh, mà v́ chúng sanh, sẽ có thể cảm động
Phật, Bồ Tát xuất thế. Chúng ta làm người khải
thỉnh cho đại chúng, hướng dẫn mọi
người.
Giống
như thuở đức Thế Tôn trụ trong thế gian
này, thị hiện thành Đẳng Chánh Giác, thị hiện
thành Phật. Phàm phu không biết, chẳng ai thỉnh. Không có
ai khải thỉnh, đức Phật sẽ “bát Niết Bàn”, tức là đức Phật nhập Niết
Bàn, do không có ai khải thỉnh. Vào thời đại Nam Bắc
Triều, pháp sư Bảo Hương ở Tứ Xuyên là bậc
Bồ Tát ứng hóa, [thế mà] không có ai khải thỉnh,
không ai nhận biết! Thuở đó, ngài Bảo Chí Công
(hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát) là thầy của
đế vương. Có những tín đồ từ Tứ
Xuyên đến thăm ngài Bảo Chí Công; Bảo Chí Công hỏi
họ: “Tứ Xuyên đích
hương quư tiện như hà?” Những tín đồ ấy
nghe không hiểu, tưởng ngài Bảo Chí Công hỏi họ:
“Ở chỗ quư vị, hương bán đắt hay rẻ”,
những người ấy liền thưa: “Ở chỗ
chúng tôi, hương rất rẻ, chẳng đáng tiền”.
Ngài Bảo Chí Công nghe xong, bảo: “Có thể đi rồi”.
Ngài cũng chẳng nói ǵ nữa. Sau khi trở lại Tứ
Xuyên, họ gặp pháp sư Bảo Hương, kể với
Sư họ đă gặp ngài Bảo Chí Công. Pháp sư Bảo
Hương hỏi họ: “Ngài Bảo Chí Công nói với quư
vị như thế nào?” Họ thưa: “Trước hết,
ngài Bảo Chí Công hỏi chúng tôi: ‘Tứ Xuyên đích hương
quư tiện như hà?’ Chúng tôi đáp ‘rất rẻ’, Ngài liền
nói ‘có thể đi rồi’, chúng tôi nghe chẳng hiểu
Ngài nói ǵ”.
Thiền
sư Bảo Hương nghe lời ấy xong, liền biết:
Ngài ở nơi ấy chẳng có địa vị, thật
sự là một người đắc đạo, người
ta cũng không coi trọng mà xem thường Ngài, có thể
đi rồi! Vài hôm sau, Ngài tổ chức một đại
hội Vô Già. Người Tứ Xuyên không tin Phật pháp,
không ăn chay. Ngài bèn đào một cái ao phóng sanh lớn tại
cửa chùa. Ngày hôm ấy, đại hội Vô Già rất
đặc biệt, thiền sư Bảo Hương mời
đại chúng đến dùng cơm, chẳng phải là
đồ chay, mà là gà, vịt, cá, thịt thảy đều
có. Mọi người hoan hỷ, đều kéo tới. Thiền
sư Bảo Hương cũng cùng ăn với mọi
người. Sau khi ăn xong, Sư biểu diễn. Ngài
đến bên ao phóng sanh, vừa mở miệng ra, những
thứ gà, vịt, cá c̣n sống đều bị ói ra ngoài,
dập dềnh trên mặt nước. Ai nấy đều
kinh ngạc! Ngài hiển lộ thần thông. Sau khi đă hiển
lộ, bèn văng sanh, đứng mất! Sau đấy, mọi
người mới nghĩ đến lời nói của
ngài Bảo Chí Công. Thật sự là một bậc đắc
đạo, không ai lưu giữ Ngài, chẳng ai hộ pháp!
Bộc lộ một chút tài năng cho quư vị thấy, chờ
cho đến khi quư vị biết th́ đă chẳng kịp
nữa, Ngài đă ra đi rồi! Trong Thần Tăng Truyện
có truyện kư của thiền sư Bảo Hương.
Chúng tôi giới thiệu đoạn này đến đây.
Lại
xem đoạn kế tiếp.
(Sớ)
Đệ nhị hữu tứ đoạn, minh Sĩ Dụng
Quả.
(疏)第二有四段,明士用果。
(Sớ:
Phần thứ hai gồm bốn đoạn, nói về
Sĩ Dụng Quả).
Phẩm
kinh này có tất cả mười một đoạn.
Đoạn đầu tiên là Tổng Vấn, mười
đoạn sau đó là Biệt Vấn. Tính theo cả phẩm,
đoạn này là đoạn thứ ba, là đoạn thứ
hai trong phần Biệt Vấn. Chúng ta đọc kinh
văn một lượt.
(Kinh)
Vân hà đắc thắng huệ, đệ nhất huệ,
tối thượng huệ, tối thắng huệ, vô
lượng huệ, vô số huệ, bất tư nghị
huệ, vô dữ đẳng huệ, bất khả lượng
huệ, bất khả thuyết huệ?
(經)云何得勝慧。第一慧。最上慧。最勝慧。無量慧。無數慧。不思議慧。無與等慧。不可量慧。不可說慧。
(Kinh:
Làm thế nào để được huệ thù thắng,
huệ bậc nhất, huệ tối thượng, huệ
tối thắng, huệ vô lượng, huệ vô số, huệ
chẳng thể nghĩ bàn, huệ chẳng sánh bằng, huệ
chẳng thể tính lường, huệ chẳng thể
nói được?)
Trong
phần Sớ Sao, Thanh Lương đại sư đă
cho biết: Bốn đoạn kế đó, nói theo phần
Biệt Minh sẽ là phần thứ hai, gồm các đoạn
thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm. Đoạn
này là đoạn đầu tiên trong bốn đoạn ấy,
cả bốn đoạn đều nói về Sĩ Dụng
Quả. Đoạn thứ nhất hoàn toàn nói về mười
loại huệ.
(Sớ)
Huệ vi giản trạch.
(疏)慧為揀擇。
(Sớ:
Huệ nhằm chọn lựa, phân biệt).
Nay
chúng ta nói là “tuyển trạch”.
Quư vị chẳng có trí huệ, sẽ chẳng biết chọn
lựa. Đoạn thứ hai nói về Lực, hỏi về
mười thứ lực. Lực là nói đến sự
tu tập, nói đến sự tu học. Đoạn thứ
ba hỏi về mười thứ “thiện xảo”. Mười thứ thiện xảo
là nói về sự ứng dụng của trí huệ. Đoạn
thứ tư là nói về đạo phẩm trợ tu, nay
chúng ta nói là “trợ đạo
phẩm”, [phần này] gồm bốn đoạn ấy.
(Sớ)
Tất dĩ tam nghiệp nhi đắc thành tựu.
(疏)悉以三業而得成就。
(Sớ:
Đều do ba nghiệp mà được thành tựu).
Đều
do ba nghiệp thân, ngữ, ư mà được thành tựu. Nay
đối với mười câu ở chỗ này:
(Sớ)
Kim sơ ngôn Huệ giả, tức đạo chi Thể.
(疏)今初言慧者,即道之體。
(Sớ:
Nay trước hết nói về Huệ th́ Huệ là Thể
của đạo).
Câu
này hết sức trọng yếu. Tu học trong Phật
pháp, bất luận tại gia hay xuất gia, mục tiêu chung
cực là khai trí huệ. Do vậy, Huệ là Thể của
đạo! Học Phật mà chẳng thể khai trí huệ
th́ sai mất rồi. Chữ “Phật”
là tiếng Phạn, phiên âm tiếng
Ấn Độ, có nghĩa là Giác. Giác cần phải cậy
vào ǵ? Giác phải cậy vào Huệ! Huệ là Thể, Giác
là Dụng. Ứng dụng trí huệ vào cuộc sống, ứng
dụng vào công việc, ứng dụng vào xử sự,
đăi người tiếp vật, đó gọi là Giác. Do vậy,
xếp điều này hàng đầu.
(Sớ)
Thập trung.
(疏)十中。
(Sớ: Trong mười điều).
Trong
mười câu hỏi ấy của Ngài (Trí Thủ Bồ
Tát). Câu hỏi thứ nhất là…
(Sớ)
Thắng huệ.
(疏)勝慧。
(Sớ: Huệ thù thắng).
“Thắng” (勝) là thù thắng.
Trong phần chú giải, tuy Thanh Lương đại
sư nói rất đơn giản, nhưng đă nói rất
rơ ràng.
(Sớ)
Thắng thế gian cố.
(疏)勝世間故。
(Sớ:
V́ vượt trỗi thế gian).
Tuy
chỉ có bốn chữ, ư nghĩa quá sâu. Thế gian, nói thông
thường th́ là lục đạo; xét trong lục đạo,
tiến lên cao hơn sẽ bao gồm cả hai mươi
tám tầng trời, chẳng ai có thể sánh bằng! [Tức
là] trí huệ [của bậc Bồ Tát từ Thập Tín trở
lên] th́ không người nào trong hai mươi tám tầng trời
có thể sánh bằng! Nếu nói theo nghĩa rộng, sẽ
bao gồm cả mười pháp giới. Trong mười
pháp giới, có Thanh Văn, có Duyên Giác, có Bồ Tát, có Phật,
[trí huệ] cũng đều chẳng thể sánh bằng
vị ấy. V́ sao? Chúng ta đừng nên quên đoạn
trước [đă nói]: “Vô úy trọn
đủ, giác ngộ trọn đủ”. Thanh
Lương đại sư càng nói hay hơn nữa: “Cụ túc giả, duy Phật nhất
nhân” (Chỉ ḿnh đức Phật trọn đủ).
Chữ Phật ở đây hiểu theo nghĩa rộng, chẳng
phải là nghĩa hẹp. Nếu nói theo nghĩa hẹp, phải
hiểu “Phật” là Cứu
Cánh Phật, tức là vị Phật rốt ráo viên măn. Nói
theo nghĩa rộng, từ Sơ Trụ trong Viên Giáo trở
lên đều gọi là “chư
Phật Như Lai”, đă vượt thoát mười
pháp giới. Nói cách khác, Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo
là Phần Chứng Tức Phật. Tuy chưa đoạn hết
vô minh, nhưng trí huệ của Ngài, xét theo mười pháp
giới, chẳng có ai có thể sánh bằng Ngài!
V́
sao? Chúng sanh trong mười pháp giới, “chúng sanh” bao gồm cả Phật, Bồ Tát [trong
mười pháp giới] đều chưa phá vô minh, vẫn
dùng cái tâm tám thức, năm mươi mốt Tâm Sở y
như cũ. Trong mười pháp giới, thảy đều
dùng cái tâm ấy, chẳng phải là chân tâm, mà là vọng tâm.
Do vậy, họ chẳng phải là chân Phật. Chân Phật
dùng chân tâm, chẳng dùng vọng tâm. Chân tâm là ǵ? Chân thành,
thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi, đấy
là chân tâm. Người trong pháp giới học Phật,
đều có “chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác,
từ bi”, nhưng chẳng phải là thật. V́ sao chẳng
phải là thật? Họ chẳng buông vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước xuống, hăy c̣n có ḷng ích kỷ,
c̣n có thị phi nhân ngă, c̣n có tiếng tăm, lợi dưỡng,
c̣n có tham, sân, si, mạn, chẳng phải là thật! Học
kiểu nào cũng học không giống! Làm sao họ có thể
“thắng thế gian” (vượt
trỗi thế gian) cho được? Sơ Trụ Bồ
Tát lỗi lạc, phá một phần vô minh, chứng một
phần Pháp Thân, chẳng có chấp trước, chẳng
có phân biệt, mà cũng chẳng có vô minh. Cái mà Ngài c̣n có chính
là tập khí vô minh, tuy đă phá sạch vô minh, nhưng vẫn
c̣n đèo thêm tập khí, tuy có tập khí mà chẳng trở
ngại sự! Do vậy, đối với Phật
được nói ở đây [trong câu] “duy Phật nhất nhân” (chỉ ḿnh đức Phật),
chúng ta rất có thể nói: Chữ Phật được
hiểu theo nghĩa rộng, tức là bốn mươi mốt
địa vị Pháp Thân đại sĩ, [đều gọi
là] chư Phật Như Lai. Đấy là cách nói của cư
sĩ Giang Vị Nông trong bộ Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa,
nói kiểu ấy rất hay! V́ thế, trí huệ của vị
ấy được gọi là “thắng
huệ”. Nói cách khác, huệ là “phá
một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân”.
Thanh
Lương đại sư giải thích câu thứ hai “đệ nhất huệ” (huệ
bậc nhất) là…
(Sớ)
Quá Nhị Thừa cố.
(疏)過二乘故。
(Sớ:
V́ vượt hơn Nhị Thừa).
Vượt
hơn Thanh Văn, vượt hơn Duyên Giác. Thanh Văn và
Duyên Giác được gọi là Nhị Thừa, thường
gọi chung là Tiểu Thừa. Thanh Văn (A La Hán) đoạn
chấp trước, đối với hết thảy các
pháp thế gian và xuất thế gian đều không chấp
trước, nhưng c̣n có tập khí. Bích Chi Phật có công
phu cao hơn Thanh Văn. Bích Chi Phật là tập khí Kiến
Tư chẳng có, mà tập khí chấp trước cũng
chẳng có, cao hơn A La Hán. “Đệ
nhất huệ” vượt trỗi các vị ấy (Thanh
Văn và Bích Chi Phật). Do vậy có thể biết, Bích
Chi Phật và A La Hán tuy chẳng có chấp trước, nhưng
c̣n có phân biệt. Pháp Thân Bồ Tát ngay cả phân biệt cũng
chẳng có. V́ thế, vượt trỗi, “quá Nhị Thừa cố” (vượt hơn hàng Nhị
Thừa). Đó là “đệ nhất
huệ”. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta nói
tới chỗ này.
Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 7 hết
[1] Sứ tiết
(使節): Sứ giả
cầm cờ tiết, phủ việt.
[2] Thời Kháng
Chiến chính là thời gian Nhật Bản xâm chiếm Trung
Hoa. Chánh quyền Quốc Dân Đảng phải bỏ các
thành phố lớn rút sâu vào nội địa, thiên đô
sang Trùng Khánh thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Trường
đại học Trung Ương là trường đại
học lâm thời, tập trung các vị giáo sư của bốn
trường đại học nổi tiếng tại Bắc
Kinh thuở ấy.
[3] Địa
Các (地閣) là phần tương ứng
với cằm trong khoa xem tướng mặt. Theo quan niệm
tướng số Trung Hoa, người giàu có, phong lưu,
sống lâu, địa các phải đầy đặn, rộng
răi, nở nang, không được lẹm, hoặc chẻ,
không hẹp, ngắn, hay lơm. Nhân Trung (人中) là cái rănh lơm
trên mặt giữa mũi và miệng. Người Hoa cho rằng
nhân trung dài, rộng, sâu sẽ thọ, lắm con cháu.
[4] Trung Hoa Phật
Giáo Đồ Thư Quán nằm ở đường
Boundary, thuộc về khu Cửu Long, tức là ở trên
đất liền. C̣n Quang Minh Giảng Đường ở
đường Blue Pool ở ngay trên đảo
Hương Cảng. Hương Cảng và Cửu Long cách
nhau bởi một eo biển nhỏ.
[5] Đây là một
ty được gọi Phụng Tự Quan do chánh quyền
Trung Hoa Dân Quốc lập ra để phong tặng cho con
cháu của Khổng Tử. Người giữ chức quan
này là trưởng họ Khổng, có nhiệm vụ trông
coi điển lễ của các Khổng Miếu, cũng
như chú trọng hoằng dương Khổng Học. Bí
thư chủ nhiệm chính là chức vụ Chánh Văn Pḥng
của một ty.
[6] “Giản nhậm một cấp”
có nghĩa là cụ Lư giữ chức bí thư trưởng,
thấp hơn ông Khổng Đức Thành một cấp,
nhưng được đăi ngộ và trả lương
bổng không thua chức vụ trưởng ty.