Đại
Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ
mười một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 9
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh
Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy
tháng Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ
tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ
Trang và Minh Tiến
Tập 1479
Chư
vị đồng học, xin ngồi xuống. Xin xem phẩm
Tịnh Hạnh thứ mười một, đoạn thứ
tư trong phần trường hàng. Đoạn này vẫn
chưa giảng xong, chúng ta đọc kinh văn một
lượt.
(經)云何得因力。欲力。方便力。緣力。所緣力。根力。觀察力。奢摩他力。毗缽舍那力。思惟力。
(Kinh: Làm thế nào để
đắc nhân lực, dục lực, phương tiện
lực, duyên lực, sở duyên lực, căn lực, quan
sát lực, xa-ma-tha lực, tỳ-bát-xá-na lực, tư duy lực?)
Trong phần trước, chúng
ta đă học đến Sở Duyên Lực, nay xem tiếp
điều thứ sáu là Căn Lực. Chú giải điều
này, Thanh Lương đại sư đă nêu ra:
(Sớ) Căn vị Tín đẳng.
(疏)根謂信等。
(Sớ: Căn là nói đến
Tín v.v…)
Đấy là Ngũ Căn. “Sáu” là nói đến câu thứ
sáu trong mười câu [của đoạn chánh kinh vừa mới
đọc]. “Căn vị Tín
đẳng”, [nghĩa là
nói đến] Ngũ Căn, tức Tín, Tấn,
Niệm, Định, Huệ, đấy là Ngũ Căn. Ngũ
Căn có mối quan hệ hết sức trọng yếu
đối với sự học tập của chúng ta. Thứ
nhất là Tín Căn. Nếu quư vị không tin, sẽ chẳng
có cách nào để học cả! Do vậy, trong kinh Hoa
Nghiêm và những bộ luận Đại Thừa, đức
Phật dạy rất hay: “Tín
vi đạo nguyên, công đức mẫu” (Tín là nguồn
đạo, mẹ công đức), [Tín là] cội nguồn
để nhập đạo. “Mẫu”
là tỷ dụ “có thể sanh”,
cũng là “có thể sanh ra hết
thảy các công đức”, là ǵ vậy? Chính là Ngũ
Căn có thể sanh ra hết thảy các công đức,
đặc biệt là Tín Căn. Trong quá tŕnh học tập
suốt đời của bản thân chúng ta, chuyện này hết
sức rơ ràng!
Cầu học th́ điều
thứ nhất là phải có ḷng tin đối với thầy.
Nếu hoài nghi thầy, chẳng tôn trọng thầy, thứ
ǵ quư vị cũng đều chẳng học được!
Cổ đại đức đă nói rất hay: “Đạo
thầy tṛ được kiến lập trên Tín Căn đối
với thầy”. Tổ Ấn Quang đă nói rất khéo: “Một phần thành kính, sẽ
được một phần lợi ích. Mười phần
thành kính, sẽ được mười phần lợi
ích”. “Một, hai phần” [như Tổ đă dạy]
chính là [nói về] tín tâm của quư vị. Do đó, đối
với thầy, phải có tín tâm chân thành. Bất luận thầy
của chính ḿnh tu hành như thế nào, dẫu thầy tu
hành tốt đẹp đến mấy đi nữa, hoặc
thầy là Phật hay Bồ Tát tái lai, nhưng quư vị chẳng
tin thầy, dẫu theo thầy, cũng chẳng đạt
được lợi ích! Thầy là một gă phàm phu, chẳng
tu hành chi cả, nhưng quư vị đối với thầy
mười phần thành kính, quư vị sẽ có thể
đạt được mười phần thành tựu.
Điều này nói ra nghe rất
kỳ quái; do vậy, trong các kinh Đại Thừa, đức
Phật thường dạy: “Hết
thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”. Câu này chính là tổng
nguyên lư, tổng nguyên tắc. Quư vị nói bệnh tật
ai nấy đều chẳng thể tránh khỏi, hễ mắc
bệnh, quư vị đi khám bác sĩ. Có đúng là bác sĩ
chữa trị cho quư vị hay không? Chưa chắc! Ai chữa
cho quư vị lành bệnh? Tín tâm! Quư vị có ḷng tin đối
với người bác sĩ ấy, tin tưởng thuốc
men do người ấy kê toa, chính ḷng tin ấy sẽ trị
lành bệnh cho quư vị. Quư vị có hiểu đạo lư
này hay chăng? Người bác sĩ ấy thật sự cao
minh, [thế nhưng] quư vị chẳng tin tưởng,
hoài nghi người ấy. Người ấy kê toa, cho thuốc,
quư vị cũng hoài nghi, uống thuốc vào sẽ chẳng
lành bệnh! Do vậy, ai là thiện tri thức? Ai là thầy
giỏi? Ai là thầy thuốc giỏi? Đều chẳng
quan trọng! Trước hết phải hỏi: Quư vị
có ḷng tin đối với vị thầy hay vị bác
sĩ ấy hay không? Chỉ cần quư vị tin sâu, chẳng
ngờ, sẽ có lợi, quan trọng lắm! “Tín là nguồn đạo, mẹ
công đức, trưởng dưỡng hết thảy các
thiện căn”, quư vị thấy [tín tâm] trọng yếu
như thế đó!
Do có Tín th́ mới có Tinh Tấn,
điều thứ hai trong Ngũ Căn là Tấn. Tấn (進) là
Tinh Tấn. Có Tín, đương nhiên sẽ tinh tấn. Chẳng
tin th́ sao? Chẳng tin th́ sẽ biếng nhác, chẳng muốn
học. Đă có Tín rồi sau đấy mới có Niệm.
Nay chúng ta nói đến chuyện niệm Phật, có người
công phu khá lắm, niệm Phật rất khá; có kẻ tâm rất
tán loạn, chẳng niệm được! Niệm một
tiếng đồng hồ th́ c̣n được, chứ niệm
nhiều hơn nữa, sẽ suy nghĩ loạn cào cào, không
được rồi! Nếu quư vị hỏi do nguyên nhân
ǵ ư? Điều đầu tiên là Tín có vấn đề!
Đối với pháp môn Tịnh Độ bán tín bán nghi, chẳng
có Tín Căn! Do vậy, cái tâm tinh tấn chẳng thể dấy
lên được, niệm lực chẳng thể tập
trung, quư vị làm sao có thể thành tựu cho được?
Những điều này có mối quan hệ liên đới,
chớ nên không biết! Chúng ta [phải t́m ra] mắt xích nào
nẩy sanh vấn đề? Điều quan trọng nhất
là phải t́m ra khuyết điểm, sửa đổi nó,
vấn đề sẽ được giải quyết.
Trong Thất Bồ Đề
Phần, đức Phật dạy chúng ta “trạch pháp”, [nghĩa là] chúng ta muốn tu pháp th́
trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, quư vị chọn lựa pháp
môn nào? Nếu đối với pháp môn ấy, quư vị trọn
đủ tín tâm viên măn, nghiêm túc tu học, chẳng thể nào
không thành tựu! Quan trọng lắm! Chọn lựa pháp
môn chẳng phải là chuyện dễ dàng! Lúc tôi mới học,
gần như là dùng thời gian bảy, tám năm [để
chọn lựa pháp môn]. Thầy giới thiệu pháp môn Tịnh
Độ cho tôi, chẳng phải là vừa giới thiệu
tôi liền tiếp nhận. [Thầy] giới thiệu,
[tôi] cảm ơn thầy, tôi phải đọc kỹ kinh
điển và chú sớ của tổ sư đại
đức đối với pháp môn này mấy lượt,
đă có sự liễu giải và nhận thức đối
với pháp môn, sau đấy mới lại quyết định
xem tôi có muốn học pháp môn này hay không? Chẳng dễ
dàng! Thật sự hạ quyết tâm học pháp môn này,
trong khi giảng kinh, tôi cũng đă thưa tŕnh cùng quư vị
mấy lần: Nhằm khi tôi đang giảng kinh Hoa Nghiêm,
tức lần đầu giảng kinh Hoa Nghiêm ở Đài
Loan. Khi giảng được một nửa, có một
hôm, tâm huyết dâng trào, nghĩ những vị như
Văn Thù, Phổ Hiền trong kinh Hoa Nghiêm đă học pháp
môn ǵ? Đặc biệt là trong phần sau, trong năm
mươi ba lần tham học, Thiện Tài đồng tử
là đệ tử nhập môn và truyền pháp của Văn
Thù Bồ Tát, Ngài tu pháp môn ǵ?
Đọc kỹ kinh Hoa
Nghiêm như thế một lượt [để t́m xem] các
Ngài tu ǵ? Tu pháp môn Niệm Phật! Văn Thù phát nguyện cầu
sanh Tịnh Độ, Phổ Hiền cũng phát nguyện
cầu sanh Tịnh Độ. Thiện Tài là môn sinh đắc
ư của ngài Văn Thù, đương nhiên là truyền pháp
của thầy! Chúng tôi lại xem kỹ năm mươi
ba lần tham học. Vị thiện tri thức thứ nhất
trong năm mươi ba lần tham học là tỳ-kheo Đức
Vân, Ngài dạy Thiện Tài pháp môn ǵ? Pháp môn Niệm Phật,
cầu sanh Tịnh Độ; điều này hết sức
quan trọng! Người Hoa và người Ấn Độ
giống nhau, đều biết “tiên
nhập vi chủ” (điều ǵ được tiếp
nhận đầu tiên sẽ là chủ yếu), [nghĩa
là] điều được tiếp nhận đầu
tiên sẽ gây nên ảnh hưởng chủ yếu. Lại
xem vị cuối cùng, tức vị [thiện tri thức]
trong lần tham học thứ năm mươi ba, chính là Phổ
Hiền Bồ Tát. Phổ Hiền Bồ Tát dạy Thiện
Tài điều ǵ? Mười đại nguyện
vương dẫn về Cực Lạc. Từ đầu
đến cuối, tôi bèn hiểu rơ: Thiện Tài chuyên tu
pháp môn Niệm Phật, năm mươi ba lần tham học
nhằm quảng học đa văn. Ngài có bị dao động
bởi pháp môn nào khác hay không? Chẳng có! Thứ ǵ cũng
đều hiểu rơ, như như bất động, thật
thà niệm Phật. Ngài đă ban cho tôi sự khải thị
ấy! Tôi mới khăng khăng một mực tu pháp môn
này. Gần như là tôi học Phật hơn hai mươi
năm mới quyết định chọn lựa pháp môn
này, chẳng phải là chuyện dễ dàng!
Nhân duyên khiến cho tôi tiến
nhập Phật môn là do tiên sinh Phương Đông Mỹ
dùng kinh Phật như triết học để giới
thiệu cho tôi. V́ thế, tôi tiến nhập Phật môn nhằm
học Triết Học, tức là học Triết Học
trong kinh Phật. Trong Phật môn, [cách tiếp cận ấy]
được gọi là Giáo Hạ. Tôi đến học
Giáo, chẳng nhằm học Thiền, mà cũng chẳng nhằm
học niệm Phật, tôi mong học Giáo. Trong Giáo, đúng
là tôi thích kinh Hoa Nghiêm nhất, nói chung là do duyên phận trong
đời quá khứ. Trông thấy bộ kinh này, bèn sanh tâm
hoan hỷ! Chúng ta hăy nên hiểu điều này: Đối
với pháp này mà có tín tâm, có hứng thú, ưa thích. Đó
chính là “có Căn”, [tức là
Ngũ Căn] Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ.
Trong môn Định, thánh nhân
thế gian và xuất thế gian dạy học đều
chú trọng “thâm nhập một
môn, huân tu lâu dài”, hoàn toàn bất đồng với quan
niệm giáo dục hiện thời của chúng ta. Giáo dục
hiện thời là kể từ bé, đă bắt đầu
học rộng, nghe nhiều. Chương tŕnh Tiểu Học
có khá nhiều môn được giảng dạy đồng
thời. Chẳng hạn như học tṛ Tiểu Học mỗi
ngày học môn thứ nhất là Quốc Ngữ, môn thứ
hai là Toán, môn thứ ba là Địa Lư, môn thứ tư là Lịch
Sử. Mỗi ngày phải học khá nhiều môn khác nhau! Mỗi
môn học một tiếng đồng hồ, trên thực tế,
chỉ có năm mươi phút, nghỉ [đổi tiết]
mười phút. [Học xong mỗi môn, đối với học
tṛ], ấn tượng mơ hồ c̣n chưa h́nh thành! Tiết
học thứ hai đă đổi [sang môn khác], đổi sang
sách giáo khoa khác. V́ thế, những ǵ bọn trẻ học
tập đều là sơ sài bên ngoài, đều là thường
thức, chẳng có căn cội. Chẳng giống như
giáo học theo kiểu truyền thống của Trung Hoa và
Phật pháp. Giáo học theo lối truyền thống của
Trung Hoa là “thâm nhập một
môn”. Quư vị thấy Tam Tự Kinh đă nói rất hay: “Giáo chi đạo, quư dĩ chuyên”
(Đạo lư dạy học cốt yếu là chuyên nhất),
chớ nên xen tạp, chớ nên nhiều. Những điều
này đều là nói đến Định.
V́ lẽ ấy, thầy giảng
bài chỉ dạy một môn. Quư vị chẳng học thấu
đáo môn học ấy, chưa học xong xuôi, chắc chắn
là chẳng thể học môn thứ hai. [Chuyện này] khiến
cho quư vị trong quá tŕnh học tập, ví như lấy
kinh Phật để thí dụ, kinh Hoa Nghiêm tuy lớn, có ba
mươi chín phẩm, mỗi phẩm là một môn học.
Đấy là một hệ thống, gồm có ba
mươi chín môn học, chúng ta học tập từng môn
một. Đại khái là đối với mỗi phẩm
(mỗi phẩm kinh dài hay ngắn khác nhau) đều phải
tốn mấy chục giờ, có khi tốn hơn một
trăm giờ. Nay chúng ta mới học đến phẩm
thứ mười một, đă tốn bao nhiêu thời
gian? Gần như là đă tốn hơn ba ngàn giờ. Nếu
tính b́nh quân, đại khái là mỗi phẩm kinh phải mất
khoảng hai trăm giờ. Học từng phẩm một,
chẳng phải là học đồng thời rất nhiều
phẩm, chẳng phải vậy! Có như thế th́ tâm của
quư vị mới chuyên, tâm đă định, thâm nhập một
môn, có thể đạt thành tựu. Nếu đồng thời
học rất nhiều môn, tâm chúng ta tán loạn, chẳng
thể tập trung tư tưởng, chẳng thể tập
trung ư chí, mong thành tựu quá khó khăn!
V́ thế, do Định sẽ
tự nhiên khai huệ, chúng ta đă đạt được
mục đích học tập. Nay chúng ta đă hiểu rơ sự
học tập của người thế gian, dẫu trí nhớ
tốt đến mấy đi nữa, những ǵ họ đă
học được đều thuộc loại thường
thức, chẳng mở mang trí huệ. V́ sao chẳng mở
mang trí huệ? Chẳng có Định! Chớ nên không biết
điều này! Đấy là Căn Lực.
Kế đó là câu thứ bảy,
tức Quan Sát Lực. Thanh Lương đại sư bảo:
(Sớ) Ư
tự tha sự lư dược bệnh thiện giản trạch
cố.
(疏)於自他事理藥病善揀擇故。
(Sớ: Đối với ta,
người, sự, lư, khuyết điểm và cách đối
trị, đều khéo chọn lựa).
Điều này nói hay lắm!
Quan Sát thuộc về Huệ, Huệ khởi tác dụng. Quư
vị khéo quan sát chính ḿnh, người khác (“tha” (他) là người khác), hoặc là sự
việc, hay đạo lư, hay là thuốc, hoặc là bệnh.
“Bệnh” là sai lầm, khuyết
điểm. “Dược” là
phương pháp, sửa đổi như thế nào? “Khéo chọn lựa”: Chúng ta thường nói “giản trạch” (揀擇) là chọn lựa. Đấy là trí huệ. Nói theo
phía mỗi cá nhân chúng ta, nhất định là phải có sự
sáng suốt tự hiểu biết. Biết căn tánh của
chính ḿnh, biết hoàn cảnh sống, công việc, và học
tập của chính ḿnh, biết ngoại duyên của sự
học tập như thầy, bạn lành, hoàn cảnh bên
ngoài, thảy đều liễu giải. Chọn lựa phương
pháp như thế nào để tu hành, ngơ hầu trong một
đời này, bản thân chúng ta nói chung là hy vọng sẽ
sớm có ngày thành tựu. Có ai mà chẳng hy vọng như
vậy?
Bày ra ngay trước mặt
chúng ta, nói theo Đại Thừa Phật pháp, Thiền Tông,
Tánh Tông cần phải là hạng người thượng
thượng căn. Thật sự là người phiền
năo nhẹ nhàng, trí huệ tăng trưởng th́ mới có
năng lực học tập. Chúng ta có phải là căn
tánh ấy hay không, phải biết chuyện này! [Chúng ta] chẳng
phải là căn tánh ấy! Người căn tánh thượng
thượng được thiện tri thức giáo huấn,
đúng là “nghe một, ngộ cả
ngàn”, vừa nghe liền khai ngộ, liền hiểu rơ! Chúng
ta nghe bao nhiêu lần, vẫn nghe chẳng hiểu, [v́] chẳng
phải là bậc thượng thượng căn. Nói cách
khác, chúng ta chẳng có duyên với Thiền Tông hoặc Tánh
Tông trong giáo pháp Đại Thừa, quư vị chớ nên chọn
lựa pháp môn ấy. Quư vị thật sự mong t́m những
vị thầy như vậy, thầy vừa nh́n thấy
quư vị, [sẽ bảo]: “Ngươi chẳng phải là
căn tánh này, ta chẳng thâu nhận ngươi.
Ngươi hăy đến nơi khác”. Đó là vị thiện
tri thức thật sự. Môn đ́nh thiết lập khác
nhau, nhiếp thọ căn cơ chẳng giống nhau.
Nói thật ra, Mật Tông
cũng là Phật pháp thượng thượng thừa.
Trong Phật môn, đă có nói: “Chẳng
học Mật Pháp, chẳng thể thành Phật”. Mật
pháp là Phật pháp cao cấp nhất. Sẽ học tập khi
nào? Trong giáo pháp Đại Thừa, bậc Địa
Thượng Bồ Tát, tức là đăng địa Bồ
Tát, khi ấy sẽ học Mật. Nay cả địa vị
Sơ Tín Bồ Tát mà chúng ta c̣n chưa đạt đến,
quư vị thấy Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh,
Thập Hồi Hướng, Thập Địa, năm
mươi địa vị, bốn mươi địa
vị trước đều đă tu hoàn măn, địa vị
thứ bốn mươi mốt mới là Sơ Địa,
chúng ta há có phần? Thuở trước, Chương Gia
đại sư đă dạy tôi điều này. Ngài là một
vị đại đức Mật Tông, chẳng gạt
người!
Khi Ngài dạy dỗ tôi,
đă khuyên tôi học Giáo, đặc biệt là dạy tôi học
giới luật. V́ sao? Giới luật là căn cơ của
hết thảy Phật pháp. Chẳng có thứ ấy, Phật
pháp ǵ đi nữa cũng đều chẳng thể thành
tựu. Đại pháp như Thiền, Mật, tiểu pháp
như Tiểu Thừa, A Hàm, pháp nhân thiên, chẳng có giới
luật thảy đều chẳng thể thành tựu.
Chư vị đọc kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo
sẽ biết. Phật pháp cấp thấp nhất nhằm
giữ được thân người trong đời sau,
cũng có nghĩa là quư vị sẽ chẳng đọa vào
tam đồ, đời sau c̣n có thể hưởng phước
báo nhân thiên. Sau khi đă chết, lại đầu thai sanh vào
nhân gian. Phải cậy vào ǵ? Phải cậy vào Thập Thiện
Nghiệp! Thượng phẩm Thập Thiện sanh thiên, tức
là Dục Giới Thiên. Trung phẩm Thập Thiện
được làm thân người. Hạ phẩm Thập
Thiện là A-tu-la, quư vị hăy ngẫm xem! Do vậy, giới
luật là căn bản. Bất luận quư vị tu tông
nào, pháp môn nào, trước hết hăy học giới. Đấy
là chánh xác.
Chương Gia đại
sư dạy tôi điều này. Ngài dạy tôi thấy thấu
suốt, buông xuống, mấy nguyên tắc trọng yếu
ấy. Nguyên lư và nguyên tắc nhất định phải
tuân thủ, Ngài căn dặn tôi “giới
luật rất trọng yếu”. V́ khi đó, tôi chẳng
quan tâm đến giới luật, chính ḿnh có một quan niệm
rất sai lầm, cứ ngỡ giới luật là khuôn phép
cho cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Khuôn phép cho cuộc
sống hằng ngày đương nhiên là quan trọng,
nhưng giới luật chế định trong kinh Phật
chính là khuôn phép sinh hoạt của người Ấn Độ
từ ba ngàn năm trước, chẳng phải là của
Trung Hoa. Khuôn phép trong cuộc sống của người
Hoa th́ Nho gia đă có Lễ. Cổ thánh tiên vương chẳng
dùng h́nh pháp để chế ngự đất nước,
mà dùng Lễ để giữ yên đất nước. V́
thế, vào thời cổ, Trung Hoa thường xưng là “lễ nghĩa chi bang”, nước
ấy dùng lễ nghĩa để trị quốc! “Nghĩa” là đạo đức,
tức là dùng đức và Lễ, biểu hiện ra bên
ngoài là Lễ, bên trong là đức. Đó là giáo dục truyền
thống của Trung Hoa.
Phật pháp dùng Giới, Giới
tương đương với Lễ của Nho gia. Do
đó, chẳng có Lễ, sẽ chẳng có Nho; chẳng có
Giới, sẽ chẳng có Phật! Tuy kinh Phật c̣n
đó, nhưng chẳng có người học Phật!
Người học Phật nhất định phải khởi
sự bằng tŕ giới. Thật sự tŕ giới th́ mới
gọi là “học Phật”. Nếu không tŕ giới, hằng
ngày tụng kinh, hằng ngày niệm Phật, sẽ kết
duyên với Phật, chẳng thể coi là đệ tử
Phật, chẳng thể coi là học Phật, chẳng thể
đạt được công đức lợi ích thù thắng
trong Phật pháp. Do vậy, chúng ta hăy nghĩ xem, chúng ta chẳng
phải là căn tánh thượng thừa, đúng là chẳng
có phần!
Lại xem tới Giáo Hạ,
dụng công từ kinh luận. Kinh luận quá nhiều, Tam
Tạng mười hai phần giáo, chúng ta có thể đọc
hết trong một đời này hay không? Bất luận kinh
điển, sách vở của tông phái nào, đúng là đều
mênh mông như khói lan tỏa trên mặt biển, sâu rộng
không bờ bến! Chẳng phải là trong một thời
gian ngắn, giống như đi học, [lần lượt
học] Tiểu Học, Trung Học, Đại Học,
nghiên cứu sinh, chẳng có chuyện mười năm hay
hai mươi năm [mà thông hiểu trọn hết kinh sách
nhà Phật]. Lại c̣n phải có một vị thầy tốt
đẹp chỉ dạy, đồng học kề cận
khích lệ, rèn giũa, dùi mài chẳng ngơi, phải mất
mười năm hay hai mươi năm mới có thể
đạt thành tựu, chẳng phải là chuyện dễ
dàng! Hiện thời, dẫu bản thân quư vị có điều
kiện ấy, nhưng chẳng t́m được thầy,
mà cũng chẳng t́m thấy đồng học, cũng chẳng
t́m thấy hoàn cảnh tu học [thuận tiện], ngoại
duyên chẳng đủ!
Do vậy, trong thời kỳ
Mạt Pháp, Tịnh Độ Tông thù thắng! V́ sao? Kinh
điển của Tịnh Độ Tông ít nhất, chỉ
có sáu bộ. Kinh điển lớn nhất là kinh Vô Lượng
Thọ, kinh điển ngắn nhất là Đại Thế
Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương, chỉ
có hai trăm bốn mươi bốn chữ, ngắn nhất,
c̣n ngắn hơn Tâm Kinh. Tâm Kinh là hai trăm sáu mươi chữ,
Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông
Chương hai trăm bốn mươi bốn chữ. Do
vậy, kinh điển của Tịnh Độ Tông, kinh
Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật,
kinh A Di Đà, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, và Đại
Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương là
năm kinh. Tịnh Độ Tông chỉ có năm kinh, c̣n có
một bộ luận là Văng Sanh Luận, chẳng dài!
Năm kinh một luận in thành một quyển, vẫn là
một tập sách hơi mỏng, thích hợp nhất đối
với người hiện thời. Người hiện
thời sợ quá nhiều, sợ quá khó! [Những kinh
điển của Tịnh Độ] vừa ít lại dễ
dàng!
Đương nhiên là đối
với năm loại kinh ấy, quư vị đều học
hết [cả năm] th́ đương nhiên là rất tốt.
Đối với sự lư, nhân quả, phương pháp, cảnh
giới của Tịnh Tông, quư vị đều có thể
hiểu rơ ràng, thấu triệt. [Đó là] chuyện tốt
đẹp. Nếu chẳng đủ năng lực, không
sao cả! Hăy học một thứ. Từ xưa tới
nay, người chọn tu theo Phật Thuyết A Di Đà
Kinh đông nhất, có thành tựu hay chăng? Có chứ! Thành
tựu rất thù thắng! Họ thành tựu như thế
nào? Đầy đủ Tín, Tấn, Niệm, Định,
Huệ, tín tâm thành tựu. Họ có năng lực chọn
lựa tốt đẹp, chọn lựa pháp môn Tịnh
Độ, chọn lựa kinh A Di Đà. Đấy là quan
sát. Họ có sức quan sát, có quán huệ. Biết căn
tánh và hoàn cảnh của chính ḿnh. Sự chọn lựa ấy
được gọi là Dị Hành Đạo (đạo
dễ hành). Trong hết thảy các pháp môn, pháp môn này dễ
dàng nhất. Lại c̣n ổn thỏa, thích đáng nhất,
đáng tin cậy nhất. Dẫu chẳng có thầy chỉ
dạy, vẫn chẳng sao hết, quư vị nhất tâm nhất
ư nương cậy A Di Đà Phật là được rồi!
Nhưng ở đây, chư
vị phải biết: Quư vị vẫn phải có đủ
Thập Thiện Nghiệp! Chẳng có Thập Thiện Nghiệp,
niệm Phật chẳng thể văng sanh. Nếu quư vị hỏi
v́ sao ư? Kinh Di Đà đă dạy rất rơ ràng: Tây
Phương Cực Lạc thế giới đều là “chư thượng thiện nhân,
câu hội nhất xứ” (các vị thượng thiện
nhân đều nhóm họp một chỗ). Nếu chúng ta chẳng
phải là bậc thượng thiện, làm sao có thể
văng sanh cho được? Dẫu A Di Đà Phật từ
bi tiếp dẫn quư vị sanh về đó, người
bên ấy chẳng tiếp nhận quư vị, quư vị làm như
thế nào đây? V́ sao? Quư vị chẳng phải là thượng
thiện! Trong phần trước, chúng tôi đă nói: Thượng
Thiện Thập Thiện Nghiệp Đạo sẽ sanh
thiên, [sanh vào] Dục Giới Thiên, đấy là chuyện
tuyệt diệu. Trọn đủ điều kiện
sanh vào Dục Giới Thiên, người niệm Phật sẽ
chắc chắn sanh về Tịnh Độ. Đối với
chuyện này, những kẻ b́nh phàm như chúng ta nếu nghiêm
túc nỗ lực một phen, sẽ có thể làm được!
Quư vị chọn lựa pháp
môn này, chánh xác lắm! Hăy quay lại suy ngẫm những
khuyết điểm của chính ḿnh. Khuyết điểm
là ǵ? Thập Ác; phải dùng Thập Thiện để
đối trị những khuyết điểm ấy. Lúc
chưa học Phật, không biết, thích ăn thịt, sát
sanh. Nay đă hiểu “ăn thịt, sát sanh, chẳng thể
sanh về thế giới Cực Lạc”. Quư vị đă
phạm điều ǵ? “Không sát sanh”; quư vị phạm lỗi
sát sanh. Chỗ nào cũng đều muốn chiếm
đôi chút tiện nghi của kẻ khác. Đấy là trộm
cắp. Chẳng thể buông cái tâm trộm cắp xuống,
sẽ chẳng thể văng sanh. Có ư niệm trộm cắp,
làm sao có thể văng sanh cho được? V́ thế, chúng ta
phải bỏ ư niệm chiếm tiện nghi của người
khác, chớ nên có! Chớ nên có ư niệm tổn
thương, làm hại chúng sanh. Đă chẳng có ư niệm,
đương nhiên là sẽ chẳng có hành vi. Thế giới
Tây Phương là thế giới thanh tịnh, nhất
định phải đoạn dâm dục. Đồng tu tại
gia vợ chồng kết hợp. V́ thế, đức Phật
thường nói là “không tà dâm”. Ngoài
vợ chồng là tà dâm. Tà dâm chẳng thể văng sanh! Dẫu
là vợ chồng, trong lúc văng sanh, ư niệm dâm dục
cũng phải đoạn. Hoặc là khi sanh bệnh bèn
đoạn trừ, chẳng có ư niệm ấy nữa.
Đấy chính là điều kiện văng sanh, rất quan trọng!
Chẳng nói dối, chẳng
gạt người, nói lời thật thà. Trong xă hội hiện
thời, rất nhiều đồng học nói với tôi: “Chúng
ta nói thật sẽ bị thua thiệt, người khác luôn
dối gạt chúng ta. Sao chúng ta có thể nói thật với
kẻ khác cho được?” Vậy là tôi phải hỏi
quư vị: Quư vị muốn đến thế giới Cực
Lạc, hay là mong luân hồi trong lục đạo? Nếu
muốn sanh về thế giới Cực Lạc, nhất
định phải nói lời thật thà. Hiện thời
bị thua thiệt đôi chút, chẳng sợ! Trong
tương lai, ta sẽ đến thế giới Cực
Lạc. Nếu hiện thời chẳng muốn bị thua
thiệt, tức là vẫn muốn luân hồi, chẳng sanh
về thế giới Cực Lạc trong đời này
được! Hăy tính toán cho kỹ đi! Người học
Phật chẳng sợ bị lừa, chẳng sợ bị
thua thiệt, chẳng sợ kẻ khác lừa gạt ḿnh!
Ai có quả báo nấy. Kẻ khác lừa gạt ta, ta có biết
hay không? Biết chớ! Nếu ta không biết, tức là ngu
si, hồ đồ! Ta phải biết, nhưng chẳng
ghim trong ḷng; đó gọi là công phu! Hơn nữa, nhân quả
của ai, kẻ đó sẽ thọ báo, rành rẽ, rơ ràng,
vằng vặc phân minh. Kẻ đó đang mê, chẳng tỉnh
ngộ, quư vị chẳng thể nói ǵ với họ. Hễ
nói, kẻ đó sẽ ôm hận trong ḷng. Dưới t́nh thế
như vậy, chỉ đành mặc kệ kẻ đó, hắn
tự làm, tự chịu. Trong tương lai bị quả
báo, kẻ đó sẽ giác ngộ, quay đầu, ta lại
đến độ kẻ ấy, lại đến giúp kẻ
ấy. Trong một đời này, chúng ta quyết định
nắm vững Tịnh Độ, điều này quan trọng
hơn bất cứ chuyện ǵ khác! V́ thế, quyết
định chẳng thể lừa gạt kẻ khác. Trong
và ngoài như một, quư vị sẽ tự tại, vui
sướng, chẳng có mảy may hư ngụy nào!
Chẳng nói đôi chiều:
Nói đôi chiều tức là đâm bị thóc, chọc bị
gạo. Trước mặt Trương Tam bảo Lư Tứ
nói xấu ngươi, trước mặt Lư Tứ nói
Trương Tam nói xấu ngươi, khiến cho hai người
ấy chẳng ḥa hợp. Đó là “nói đôi chiều”. Phá
hoại gia đ́nh của kẻ khác, phá hoại đoàn thể
của người ta, phá hoại t́nh hữu nghị của
người khác, phá hoại chuyện lành của người
khác. Nhân quả ấy rất ư là nặng nề, trong giới
kinh đă dạy rất rơ ràng.
Chẳng nói thêu dệt: Nói
thêu dệt tức là hoa ngôn, xảo ngữ, nói nghe hết sức
êm tai, nhằm mục đích gạt người, khiến
cho người khác mắc lừa!
Ác khẩu: Ăn nói thô lỗ,
thái độ không tốt, khiến cho người khác nghe
xong, trong tâm cảm thấy khó chịu.
Chúng ta có phạm những
khuyết điểm ấy hay không? Nếu có, phải sửa
ngay lập tức, sửa ngay trong cuộc sống hằng
ngày. Phản tỉnh mỗi ngày, sửa đổi mỗi
ngày! Trong ư thức, đối với hết thảy các
pháp thế gian và xuất thế gian, chẳng tham, chẳng
sân, chẳng si. Đó gọi là Thập Thiện Nghiệp.
V́ thế, khuyết điểm
của chúng ta là Thập Ác, điều thiện của
chúng ta là Thập Thiện. Phải dùng phương pháp ǵ
để đối trị tập khí tật xấu của
chúng ta, khiến cho chúng ta tu hành có thể đạt đến
hiệu quả thật sự? Đối với một
người thật sự phát tâm tu hành, thật sự mong
văng sanh Tịnh Độ ngay trong một đời này,
điều này quá trọng yếu! Do vậy, trong mấy
năm gần đây nhất, chúng tôi đặc biệt
đề xướng Đệ Tử Quy, do nguyên nhân nào? Đệ
Tử Quy là giới luật, giới luật cơ bản!
Mục đích là ǵ? Mục đích nhằm dạy người
ta làm người tốt. Do chúng ta chẳng làm được
Thập Thiện, v́ sao chẳng thể thực hiện Thập
Thiện? Chẳng thực hiện Thập Thiện, sẽ
không có cách nào tiến nhập Phật môn. Quư vị thấy
trong Tịnh Nghiệp Tam Phước, đức Phật
đă dạy: “Hiếu dưỡng
phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ
tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp”, [đó
là] điều đầu tiên. Quư vị làm được
trọn vẹn điều này th́ mới có thể “thọ tŕ Tam Quy, đầy
đủ các giới, chẳng phạm oai nghi”. Thọ
Tam Quy mới nhập Phật môn. V́ thế, Thập Thiện
Nghiệp là cơ sở phải hội đủ trước
khi tiến nhập Phật môn, mà cũng là điều kiện
cơ bản để tiến nhập Phật môn. Mở
kinh Phật ra, mọi người đều thấy [từ
ngữ] “thiện nam tử, thiện
nữ nhân”, đó là có tiêu chuẩn, chẳng phải là
nói tùy tiện. Thập Thiện Nghiệp Đạo quư vị
thảy đều làm được th́ mới là “thiện nam tử, thiện nữ
nhân”. Nếu quư vị chẳng làm được, thôi rồi!
Làm được th́ mới coi là thiện nam tử, thiện
nữ nhân, hy vọng chúng ta phải đặc biệt chú
ư [điều này]!
V́ sao không làm được?
V́ chúng ta chẳng có nền tảng thiện! Nền tảng
thiện được kiến lập từ nơi
đâu? Kiến lập từ Đệ Tử Quy. Nay chúng
ta chẳng dùng giới luật Tiểu Thừa, mà dùng Đệ
Tử Quy, Đệ Tử Quy thay thế Tiểu Thừa.
Chớ nên không coi trọng điều này, chớ nên không học
cho kỹ. V́ thế, tôi khuyên mọi người phải hạ
quyết tâm, dùng thời gian một năm để thực
hiện Đệ Tử Quy. Nó có tất cả ba trăm
sáu mươi câu. Thật sự làm được, quư vị
chính là thiện nhân, là bậc thiện nhân trong thế gian.
Dùng cơ sở ấy để tu Thập Thiện Nghiệp
Đạo sẽ chẳng khó. Nói cách khác, quư vị có thiện
căn. Đệ Tử Quy là thiện căn. Quư vị
đă có thiện căn, học Thập Thiện Nghiệp Đạo
cũng rất dễ dàng. Có cơ sở Thập Thiện
Nghiệp Đạo, quư vị thọ tŕ Tam Quy, năm giới,
mười giới chẳng khó, thật sự có thể
làm được. Xuất gia th́ quư vị có thể thực
hiện Sa Di Luật Nghi. Những điều khác chúng tôi
không bàn tới, quá cao; [chỉ bàn tiêu chuẩn] thấp nhất
là Sa Di Luật Nghi. Người xuất gia chân chánh [sẽ
được] chư Phật hộ niệm, long thiên che
chở! Điều này có
nghĩa là quư vị phải dùng trí huệ để quan
sát, chọn lựa pháp môn, biết căn tánh của chính
ḿnh, mà cũng có thể giúp đỡ người khác.
Đối với chính ḿnh, đối với người
khác, trong hết thảy sự lư, nhân quả, thảy đều
hiểu rơ ràng, thảy đều hiểu minh bạch. Có năng
lực ấy, quư vị thấy trong xă hội hiện thời
có quá nhiều t́nh trạng xấu xa, người khác thỉnh
giáo quư vị, xin quư vị giúp đỡ, quư vị thật
sự có thể giúp họ giải quyết vấn đề.
A! Nay đă hết thời gian rồi, chúng ta nghỉ
ngơi mười phút.
***
Chư vị đồng học,
xin hăy ngồi xuống. Tiếp theo là câu thứ tám, Xa-ma-tha
Lực, và câu thứ chín là Tỳ-bát-xá-na Lực, hai danh từ
này đều là tiếng Phạn. Xa-ma-tha (Śamatha) dịch sang nghĩa tiếng tiếng Hán là Chỉ (止, ngưng
dứt), Thanh Lương đại sư chú giải:
(Sớ) Xa-ma-tha, thử vân Chỉ,
cửu, Tỳ-bát-xá-na, thử vân Quán.
(疏)奢摩他,此云止,九 ,毘缽舍那,此云觀。
(Sớ:
Xa-ma-tha cơi này dịch là Chỉ; điều thứ chín là Tỳ-bát-xá-na,
cơi này dịch là Quán).
Chỉ Quán! Trong pháp Đại
Thừa, như Hoa Nghiêm Tông, Thiên Thai Tông đều tu Chỉ
Quán. Do vậy, hai danh từ này trong kinh điển
được nói rất nhiều, nói rất cặn kẽ.
Trước tiên, chúng tôi giải thích theo cách phổ biến,
thông thường, Chỉ là ǵ, Quán là ǵ, giới thiệu đơn
giản, dễ hiểu. Sau đấy, chúng ta mới xem lời
giải thích “Xa-ma-tha lực, Tỳ-bát-xá-na
lực” của Thanh Lương đại sư trong Sớ
Sao, hăy chú trọng chữ Lực. Nay chúng tôi nói về những
danh từ này trước đă!
Chỉ Quán, tiếng Phạn
là Xa-ma-tha Tỳ-bát-xá-na (Śamatha Vipassana), có nghĩa là “Chỉ Quán,
Định Huệ, Tịch Chiếu, Minh Tĩnh”. Từ
bốn danh từ ấy, chúng ta cũng có thể lănh hội
ư nghĩa của nó. Chỉ là Định, là Tịch, là Tĩnh
(Tĩnh trong Ninh Tĩnh, 寧靜); đấy
là Chỉ. Quán là Huệ, là Chiếu, là Minh, dùng bốn chữ
như vậy để giải thích, ư nghĩa cũng rất
sáng tỏ. [Phật Học Từ Điển của Đinh
Phước Bảo giảng] “Chỉ
giả, đ́nh chỉ chi nghĩa, đ́nh chỉ ư
đế lư bất động dă. Thử tựu năng chỉ
nhi đắc danh” (“Chỉ” có nghĩa là ngưng lại.
Ngưng trụ nơi đế lư bất động.
Đấy là nói theo khía cạnh “có thể ngưng dứt”
mà lập ra danh xưng ấy). V́ sao gọi là Chỉ? Chính
là [nói về] cái tâm của chúng ta, Nho gia nói là “chỉ ư chí thiện” (ngưng
trụ nơi chỗ an lành tột bậc), đă biết
Chỉ rồi sau đó sẽ có Định. Đă Định
th́ sau đó sẽ có thể Tĩnh. Sau khi đă Tĩnh, bèn
có thể An. Đă An rồi sẽ có thể Lự; đă có
thể Lự bèn có thể Đắc. Do vậy, biết Chỉ
hết sức quan trọng! “Chỉ”
ở chỗ nào? “Chỉ” nơi
chân lư. Nay chúng ta gọi “đế
lư” (諦理) là chân lư, chúng ta phải an trụ nơi chân lư. Quyết
định chẳng hoài nghi, quyết định chẳng dao
động. Đấy là công phu Chỉ. V́ thế, trong Giáo
Hạ, Hoa Nghiêm và Pháp Hoa xác thực là an trụ nơi chân
lư. Chân lư là ǵ? Là tự tánh, mà cũng là Pháp Tánh; tâm an trụ
nơi ấy, quyết định chẳng bị lay động.
V́ thế, Chỉ là do có thể ngưng trụ mà thành lập
tên gọi.
“Hựu
chỉ tức chi nghĩa, chỉ tức vọng niệm dă,
thử tựu sở quán nhi đắc danh” (Lại nữa,
nó c̣n có nghĩa là ngưng dứt, ngưng dứt vọng
niệm. Đấy là dựa theo đối tượng
được quán mà đặt tên). “Chỉ” ǵ vậy? Ngưng dứt vọng niệm.
Công phu sơ học phải thực hiện từ chỗ này.
Nếu chia nhỏ vọng niệm ra, sẽ là vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, thảy
đều là vọng niệm! Nói thật ra, hễ có niệm
đều là vọng, vô niệm cũng là vọng. Chuyện
này khó hiểu, mà cũng khó thể diễn tả. Hễ có
niệm th́ đều là vọng. [Bởi lẽ], có niệm
th́ quư vị luôn rơi vào vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, đương nhiên là vọng niệm.
Vô niệm bèn dừng nơi vô minh, vẫn là một vọng
niệm. [Chư thiên trụ trong] Vô Tưởng Định
thuộc Tứ Thiền Thiên là những vị trời ngoại
đạo, họ chẳng phải là [tu tập] Chỉ
Quán thật sự. Họ đă hiểu lầm ư nghĩa Chỉ
Quán, lầm tưởng Vô Tưởng Định là cảnh
giới tu hành cao nhất, tưởng đó là cảnh giới
Niết Bàn bất sanh, bất diệt. Chư thiên thuộc
Tứ Không Thiên cũng hiểu lầm điều này, coi Phi
Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên là đă đạt
đến rốt ráo, trọn chẳng biết: Sau khi công
phu định lực mất đi, vẫn phải luân hồi
trong lục đạo, không thoát ra được! Chớ
nên không hiểu đạo lư này!
Chỉ Tức trọng yếu,
quá ư quan trọng! Chúng ta suốt ngày từ sáng đến
tối vọng niệm quá nhiều. Vọng niệm là phiền
năo; do vậy, tâm chẳng thể thanh tịnh. Tu hành trong Tịnh
Độ Tông là tu điều ǵ? Tu cái tâm thanh tịnh. Quư vị
chẳng ngừng vọng niệm được, tâm thanh tịnh
hiện tiền bằng cách nào? Tâm tịnh, ắt cơi Phật
tịnh. Tâm thanh tịnh hiện tiền, quư vị nắm
chắc văng sanh Tây Phương; đấy chính là “tâm tịnh, ắt cơi Phật tịnh”.
Đối với vọng niệm, phải đổ công dốc
sức từ chỗ nào? Hăy bắt đầu bằng chấp
trước. Trước hết, hăy học chẳng chấp
trước đối với hết thảy các pháp. Cá
nhân đă chẳng chấp trước, đối với chuyện
thuộc về công cộng hay thường trụ, có cần
chấp trước hay không? Sự việc trong thường
trụ phải có quy củ thường hằng, ấn định
một quy củ, mọi người đều có thể
tuân thủ, đấy chính là “chỉ
ư quy củ” (an trụ trong quy củ). V́ kẻ sơ
học, đức Phật chế định giới luật,
v́ kẻ mới học Nho mà [những bậc tiên nho] chế
định các lễ pháp, giống như học tṛ trong nhà
trường có nội quy học tập, ai nấy ắt đều phải tuân thủ, quư vị
nhất định phải an trụ tại một nơi.
V́ thế, biết Chỉ rất quan trọng! Trong ba loại
đại phiền năo, trước hết, chúng ta phải
ngưng dứt Kiến Tư phiền năo, đó là chấp
trước. Nếu tiến thêm bước nữa, chúng ta
ngưng dứt phân biệt. Hết thảy phân biệt
đối với pháp thế gian và xuất thế gian
đều chẳng phải là thực tại, đều
là hư vọng, vọng niệm! Cuối cùng là ǵ? [Ngưng
dứt] khởi tâm động niệm, khởi tâm động
niệm cũng là vọng niệm.
Kế đó, [từ điển
Phật học] nói về Quán: “Quán
giả, quán đạt chi nghĩa” (Quán là quan sát đến
mức thấu đạt). “Quán”
(觀) là quan sát, “đạt”
(達) là thông đạt. Quư vị quan sát bèn thông đạt.
“Quán trí thông đạt, khế
hội Chân Như dă. Thử tựu năng quán nhi đắc
danh” (Quan sát cho đến mức thông đạt, khế
nhập, dung hội Chân Như. Đấy chính là dựa
theo chủ thể có thể quán mà đặt tên). Do vậy,
Chỉ và Quán có sai biệt. Chỉ là như như bất động,
Quán là rành mạch, rơ ràng. Cổ nhân dùng nước để
tỷ dụ, Chỉ là gió yên, sóng lặng. Trong trạng huống
nước chẳng bị sóng gió, sẽ giống như một
tấm gương. Quán là ǵ? Chiếu soi các phong cảnh trên
bờ rành rành, giống như một tấm gương
soi rành mạch vậy!
Tâm Phật, Bồ Tát giống
như thế đó. Tâm [các Ngài] như nước lặng.
Đấy là Chỉ. Soi thấu muôn pháp, đấy là Quán. Tâm
thủy của bọn phàm phu chúng ta chẳng ngưng lặng,
luôn cuộn sóng. Lục đạo phàm phu là sóng to, gió lớn;
tứ thánh pháp giới là gió nhỏ, sóng nhẹ. Trong khi chúng
ta gió to, sóng lớn, cảnh quan ở hai bên bờ chiếu
vào trong những con sóng to, sẽ vỡ thành những mảnh
nhỏ, có chiếu soi hay không? Vẫn chiếu, nhưng nát
vụn, quư vị chẳng thấy được toàn thể!
V́ thế, sóng càng nhỏ, càng soi rơ hơn. Khi hoàn toàn chẳng
có sóng gió, giống như tấm gương. Hoàn toàn chẳng
có sóng gió, chính là cảnh giới nơi quả địa của
Phật. Sóng gợn lăn tăn, chúng ta chẳng nh́n thấy,
chẳng cảm nhận được, đó chính là Thập
Địa Bồ Tát, sóng gợn nhè nhẹ. Thập Hồi
Hướng Bồ Tát sóng lại to hơn một chút. Thập
Hạnh, Thập Trụ Bồ Tát gợn sóng to hơn các vị
ấy một chút, nhưng vẫn có thể thấy rất
rơ ràng, chẳng sai lầm! Đương nhiên là chẳng rơ
ràng như những vị Bồ Tát thuộc địa vịa
cao hơn những vị này, nhưng đă hiểu rơ khá rơ
ràng. Đức Phật bảo: A La Hán tu Cửu Thứ
Đệ Định; v́ thế, cảnh giới của các
Ngài là Chánh Giác, cũng có nghĩa là chẳng nh́n sai hết
thảy các vấn đề. Tuy Chỉ Quán của các Ngài
chưa phải là mười phần, đại khái cũng
được sáu, bảy phần. V́ thế, thấy vũ
trụ và nhân sinh rất rơ ràng, chẳng phạm sai lầm
quá lớn.
“Hựu
quán xuyên chi nghĩa, trí huệ chi lợi dụng, xuyên tạc
phiền năo nhi điễn diệt chi dă” (Lại có nghĩa
là xuyên suốt. Do tác dụng nhạy bén của trí huệ
đă đục thủng phiền năo, diệt trừ hết
sạch). Thật ra “điễn
diệt” (殄滅, diệt trừ hết sạch) ở đây chính là chuyển
phiền năo thành Bồ Đề. Đấy là Chỉ Quán.
“Chỉ” là khống chế vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, chẳng
để cho chúng nó dấy lên tác dụng. Huệ hiện
tiền, trí huệ hiện tiền, đấy là Quán. “Quán” chuyển biến phiền
năo thành trí huệ. Bồ Đề là trí huệ, chẳng có
phiền năo, trí huệ hiện tiền. Chúng ta thường
nói “giảm thiểu phiền
năo một phần, tăng trưởng trí huệ một
phần; phiền năo nhẹ, trí huệ tăng trưởng”
chính là ư nghĩa này. Nói thật ra, phiền năo và trí huệ là
một Thể, một Thể mà có hai mặt. Một mặt
là bất giác, là phiền năo; mặt kia là giác. Giác chính là Bồ
Đề, mê chính là phiền năo, chúng là một, không hai. Làm
thế nào để hóa phiền năo thành Bồ Đề? Chỉ
Quán là một phương pháp xảo diệu.
Chỉ Quán cũng là nói theo
nguyên lư và nguyên tắc; chúng ta niệm Phật có phải là tu
Chỉ Quán hay không? Phải chứ! Quư vị thấy vị
đường chủ trong Niệm Phật Đường
thường nhắc nhở mọi người: “Buông xuống muôn duyên, nhất
tâm niệm Phật”. “Buông xuống
muôn duyên” là Chỉ, “nhất
tâm niệm Phật” là Quán. Niệm Phật hiệu rành mạch,
rơ ràng, chẳng niệm trật chữ nào, chẳng niệm
đảo lộn chữ nào, Quán đấy! Niệm Phật
cũng là tu Chỉ Quán, [chỉ là] phương pháp khác với
Tông Môn và Giáo Hạ. Chúng ta dùng phương pháp Tŕ Danh để
tu Chỉ Quán, phải hiểu điều này! Quư vị đă
hiểu rơ, đối với các pháp môn khác, tâm quư vị
đă định, sẽ chẳng c̣n hâm mộ, sẽ chẳng
chán cũ, chuộng mới! Nếu có tâm thái như vậy,
hôm nay học pháp môn này, ngày mai lại đổi sang pháp môn
khác, suốt cả một đời vẫn chẳng thể
thành tựu! Muốn thành tựu, quyết định là “thâm nhập một môn, huân tu lâu
dài”. Quư vị thật sự Chỉ, Huệ sẽ thật
sự hiện tiền. Đấy mới là khởi tác dụng.
“Nhược
tựu sở tu chi phương tiện nhi ngôn, tắc Chỉ
thuộc ư Không môn, Chân Như môn, duyên vô vi chi Chân Như
nhi viễn ly chư tướng dă” (Nếu nói theo phương
tiện tu tập, Chỉ thuộc về Không Môn, Chân Như
môn, v́ nó duyên theo Chân Như vô vi
để xa ĺa các tướng). Đấy là quư vị
đă thật sự biết Chỉ. Chỉ là buông xuống,
Quán là thấy thấu suốt. Khi tôi mới học Phật,
đă hướng về Chương Gia đại sư
thỉnh giáo. Tôi thưa: “Con biết Phật pháp thù thắng,
có phương pháp nào khiến cho con có thể khế nhập
rất nhanh hay không?” Tôi nêu câu hỏi ấy. Chương
Gia đại sư trầm mặc rất lâu, Ngài nh́n tôi chăm
chú, chẳng nói một câu nào, gần như là nửa tiếng
đồng hồ. Do như vậy, tinh thần và ư chí của
tôi hoàn toàn tập trung, nghe Ngài khai thị, tâm đă định.
Ngài quan sát thấy tâm tôi đă định, chẳng có vọng
niệm rồi Ngài mới cất lời. Nói với quư vị
khi cái tâm của quư vị hời hợt, bộp chộp, sẽ
vô dụng, quư vị sẽ chẳng nhớ kỹ, mà cũng
chẳng coi trọng! V́ thế, phương pháp của Ngài
hết sức cao minh!
Trầm mặc lâu như thế,
sau đấy, Ngài buông một chữ Có! Tôi cũng rất
chú ư, Có, dỏng tai lên nghe, Ngài lại chẳng nói ǵ nữa!
Trầm mặc lần này thời gian ngắn hơn, chưa
đến năm phút. Ngài nói sáu chữ, nói hết sức chậm:
“Khán đắc phá, phóng đắc
hạ” (Thấy thấu suốt, buông xuống), tôi nói với
tốc độ mau, chứ tốc độ của Ngài rất
chậm. Chúng tôi tuổi trẻ, chẳng có sự tu dưỡng
như Ngài, nghe sáu chữ ấy, lập tức có phản ứng:
Tôi có thể lănh hội ư nghĩa của sáu chữ ấy,
nhưng thực hiện từ đâu? Thầy lại trầm
mặc mấy phút, buông ra hai chữ: “Bố thí”. Tôi gặp
mặt Ngài lần đầu, gần như là hai tiếng
đồng hồ, gần như là đều đang tĩnh
tọa, khiến cho cái tật hời hợt, bộp chộp
của tôi thảy đều thâu liễm. V́ thế, khi ấy,
tôi hiểu được chỗ hết sức cao minh của
phương pháp giáo học ấy, suốt một đời
từ đấy trở đi, chẳng hề gặp [vị
nào có cách dạy như vậy]! Lời nói đơn giản,
hữu lực, khiến cho quư vị vĩnh viễn chẳng
quên lăng! Bởi lẽ, “thấy
thấu suốt, buông xuống” chính là Chỉ Quán. Ngài
thay đổi cách nói. Nếu Ngài nói Chỉ Quán, chúng tôi sẽ
không hiểu. Nói Chỉ là ǵ, Quán là ǵ, hay lắm, nhưng tốn
công. Đấy là trí huệ chân thật!
Nói theo phương tiện tu
hành, quư vị hăy xem câu hỏi của tôi, thực hiện từ
chỗ nào? Bố thí. Bố thí là buông xuống; buông xuống
là Chỉ. V́ sao bảo quư vị phải buông xuống? Kinh
Bát Nhă đă nói rất hay: “Phàm những
ǵ có tướng đều là hư vọng, hết thảy
các pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”; quư
vị chấp trước nó, phân biệt nó, sai mất rồi!
Hết thảy đều buông xuống, hết thảy
đều ngưng dứt, tâm của quư vị là định.
V́ thế nói: “Chỉ thuộc
ư Không môn, thuộc ư Chân Như môn” (Chỉ thuộc
về Không môn, Chân Như môn). Chân Như chẳng có tướng.
“Chân” là nói tới chân tánh, Pháp
Tánh. Nó là chân thật, có thể hiện hết thảy các
tướng. “Như” là Pháp
Tướng, tức là hết thảy các tướng
được hiện ra. Năng và Sở là một, không hai,
gọi là Chân Như. Chân tánh trọn đủ trí huệ và
đức tướng. Chân tánh chẳng phải là vật
chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần. Nó có thể
hiện tướng, cái được hiện là y báo và
chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, nay chúng ta nói
là “hết thảy các hiện tượng thuộc về vũ
trụ và nhân sinh”. Đấy là Pháp Tướng. Pháp Tướng
do đâu mà có? Do Pháp Tánh biến hiện ra. Pháp Tánh vốn
có trí huệ và đức tướng, bất sanh, bất
diệt. Tướng Phần do nó (Pháp Tánh) biến hiện,
tức là trong các tướng đă hiện ấy, có những
thứ trí huệ và đức tướng vốn sẵn
có trong Pháp Tánh như vậy hay không? Có chứ! Tánh và Tướng
như một, Tánh và Tướng chẳng hai!
“Duyên
vô vi chi Chân Như nhi viễn ly chư tướng” (Do
duyên theo Chân Như vô vi mà xa ĺa các tướng), “viễn ly” ở đây là không
chấp trước. Không chấp trước, chẳng phân
biệt. Trong hết thảy các tướng, chẳng khởi
tâm, không động niệm, đó là Chỉ. Có các tướng
hay không? Chẳng thể nói là Có, chẳng thể nói là không
có! Nếu quư vị nói “nó chẳng có” ư? Tướng tồn
tại! Nếu quư vị bảo “nó là Có”, bản thể của
nó chính là Không, trọn chẳng thể được! V́ thế,
Phật pháp gọi Có là Diệu Hữu, Diệu Hữu mà
chẳng có; gọi Chân Như là Chân Không, Chân Không chẳng
không. Nó có thể hiện tướng. Tướng đă hiện
mà chẳng có tự thể, đúng là mầu nhiệm chẳng
thể diễn tả! Đấy là Tánh. V́ thế, người
khế nhập Đại Thừa biết hết thảy các
tướng đă được hiện trong vũ trụ
chính là Pháp Tánh, là Chân Như. Ở chỗ nào? Người khai
ngộ trong Tông Môn lấy bất cứ một pháp nào, chẳng
có pháp nào không phải là [Pháp Tánh], đúng như thế đó.
Lấy bất cứ một
pháp nào, nó có Tánh Đức hay không? Có chứ; bởi lẽ,
muôn sự muôn vật đều có linh tánh. Hiện thời,
điều khó có là tiến sĩ Giang Bổn Thắng của
Nhật Bản đă dùng phương pháp khoa học để
làm thí nghiệm. Ông ta thí nghiệm thấy khoáng vật, nước
thuộc loại khoáng vật, nó có thấy, nghe, hay, biết.
Thấy, nghe, hay, biết chính là Tánh Đức. Nước
có thể thấy, có thể nghe, hiểu ư nghĩ của
con người, tùy theo tâm ư của con người mà hiện
ra cảnh giới bất đồng. Cho thấy mỗi một
nguyên lư khác nhau trong y báo và chánh báo trang nghiêm đều
được tỏ lộ. Tâm hạnh của chúng sanh trong
mười pháp giới khác nhau; v́ thế, sắc tướng
không giống nhau. Sắc, thanh, hương, vị khác nhau.
Tâm địa thanh tịnh, thiện lương, sắc,
thanh, hương, vị sẽ hết sức đẹp đẽ.
Tâm hạnh chẳng thiện lương, sắc, thanh,
hương, vị đều rất xấu xí. Nếu chúng
ta thật sự tham cứu thấu đạt đạo
lư này, chúng ta muốn tu tướng hảo, muốn tu cho thân
thể khỏe mạnh, quư vị sẽ hiểu, sẽ biết
cách tu như thế nào! Tu thiện tâm, thiện ư, thiện
niệm, thiện ngữ, thiện hạnh, không có ǵ là bất
thiện, như vậy th́ tướng mạo của quư vị
sẽ giống như Phật, Bồ Tát. Phật, Bồ
Tát chẳng có ǵ bất thiện. Thân thể quư vị cũng
giống như thân Phật, Bồ Tát, kim cang bất hoại
thân! Do vậy, nếu quư vị hiểu đạo lư, sau
đấy, quư vị sẽ biết tu như thế nào. Tu
hành vẫn chẳng ĺa nguyên tắc này của Chỉ Quán.
Kế đó, [Phật Học
Từ Điển] chép: “Quán giả
thuộc ư Hữu Môn, sanh diệt môn” (Quán thuộc về
Hữu môn, thuộc về Sanh Diệt Môn). Quán là ǵ? Quán Hữu!
Có tướng th́ quư vị mới có thể quán. Quư vị chẳng
có cách nào quán Chân Như! Chân Như chỉ có Chỉ, quư vị
mới có thể lănh hội, chứ chẳng có cách nào quan
sát. Quán là ǵ? Pháp tướng. Pháp tướng là Hữu môn,
Hữu là có sanh diệt. “Không”
là chẳng có sanh diệt. Bởi lẽ, Pháp Tánh chẳng có
sanh diệt, pháp tướng có sanh diệt. Y báo và chánh báo trang
nghiêm trong mười pháp giới là pháp tướng. “Duyên hữu vi chi sự tướng
nhi phát đạt trí giải” (Duyên theo sự tướng
hữu vi mà phát khởi, đạt đến trí giải).
Quán là duyên theo sự tướng hữu vi. Hữu vi là có sanh
diệt; bởi lẽ, nó là Sự, là tướng, trọn
khắp pháp giới hư không giới. Từ những sự
tướng ấy, chúng ta nói đến sự khai ngộ.
“Phát đạt” (發達) là khai ngộ, trí giải! “Phát đạt trí giải” chính là trí huệ Bát Nhă
vốn sẵn có trong tự tánh, nói theo giáo pháp Đại
Thừa, nó thuộc loại Hậu Đắc Trí. Chỉ
thuộc về Căn Bản Trí. Căn Bản Trí là Chỉ,
Hậu Đắc Trí là Quán.
“Nhược
tựu sở tu chi thứ đệ nhi ngôn, tắc Chỉ
tại tiền, tiên phục phiền năo, Quán tại hậu,
đoạn phiền năo, chánh chứng Chân Như” (Nếu
nói theo thứ tự tu tập th́ Chỉ ở trước,
[tức là] trước hết chế phục phiền năo,
Quán ở sau, đoạn phiền năo, thật sự chứng
nhập Chân Như). Có thứ tự ấy! Chương Gia
đại sư dạy tôi “thấy
thấu suốt, buông xuống”. Tôi hỏi Ngài thực hiện
từ chỗ nào? Bố Thí. Bố Thí là buông xuống; trước
hết là thực hiện từ Chỉ, có thứ tự ấy.
V́ sao? Nếu quư vị chẳng Chỉ, tâm quư vị sẽ
loạn. Cái tâm tán loạn làm sao có thể sanh ra trí huệ cho
được? Há có năng lực Quán? V́ thế, trước
hết, ắt phải biết Chỉ, v́ Chỉ giúp quư vị
chế phục phiền năo. Ví như trong cuộc sống hằng
ngày, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài,
khởi tâm động niệm. Ta ưa thích thứ này, rất
mong có được nó. Ư niệm ấy vừa dấy lên,
chúng ta hăy ngẫm xem có cần bắt buộc phải có thứ
ấy hay không? Nếu chẳng phải là thứ ắt cần
[phải có], có thể không cần đến, hăy chế phục
ư niệm tham của chính ḿnh. Tuy ra chợ nh́n ngắm, thấy
trong chợ muôn h́nh muôn vẻ, mắt thấy đủ thứ
chói ḷa, thấy rành mạch, rơ ràng, rành rẽ, phải Chỉ.
Thấy xong sẽ như thế nào? Như như bất
động, chẳng dấy lên tham, sân, si, mạn. Đấy
là Chỉ, đấy là công phu.
V́ vậy, thật sự dụng
công, trước hết là Chỉ, hăy học Chỉ, tức
là học chẳng bị lay động bởi cảnh giới,
chẳng bị cảnh duyên dụ hoặc, quư vị học
công phu ấy trước. Cảnh giới tốt đẹp,
chẳng khởi tham dục. Cảnh giới chẳng tốt,
không sanh sân khuể. Đấy là tu Chỉ. Sáu căn tiếp
xúc cảnh giới sáu trần, chẳng dấy lên tham, sân,
si. Lại thêm hai thứ vào sau đó nữa, sẽ thành tham,
sân, si, mạn, nghi. Sáu căn tiếp xúc cảnh giới bên
ngoài, bất luận là thuận cảnh hay nghịch cảnh,
thiện duyên hay ác duyên, chẳng dấy lên tham, sân, si, mạn,
nghi. Đấy là Chỉ. Công phu luôn luyện trong cuộc sống
hằng ngày, rèn luyện công phu của quư vị, quư vị
phải thật sự tu hành! Quán là sáu căn tiếp xúc cảnh
giới sáu trần đều hiểu rành mạch, rơ ràng, chẳng
chấp lấy tướng, như như bất động,
[tức là] trong ấy có Quán. “Chỉ”
là chế phục phiền năo; Quán là khai trí huệ, đoạn
phiền năo. Đoạn phiền năo sẽ chứng Chân
Như. V́ sao? Phiền năo là Chân Như, tánh và tướng là
một, Sự và Lư chẳng hai! Quư vị biết phiền
năo là Chân Như, chẳng c̣n phiền năo nữa. Đấy
chính là thật sự tu hành.
Tôi vừa mới nói, Tịnh
Tông dùng một câu Phật hiệu, nhất định phải
hiểu rơ: Ngay trong cuộc sống, trong công việc hằng
ngày, xử sự, đăi người, tiếp vật, phiền
năo vừa mới động, phiền năo là tham, sân, si, mạn,
nghi, mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, ham muốn, tức
là bảy mối t́nh cảm! Những ư niệm ấy dấy
lên, tức là phiền năo dấy lên hiện hành! Cổ
đại đức thường nói: “Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”.
Tham, sân, si, mạn là phiền năo, mừng, giận, buồn,
vui… là thất t́nh. Phiền năo và thất t́nh vừa mới
dấy lên, đó là ư niệm thứ nhất, ư niệm thứ
hai bèn là “nam-mô A Di Đà Phật”.
Một câu Phật hiệu xóa sạch vọng niệm ấy,
chế phục nó. Chỉ Quán đấy nhé! Chế phục
vọng niệm là Chỉ; sáu chữ hồng danh rành rẽ,
rơ ràng, nhắc nhở chính ḿnh, đó là Quán. Trong Niệm Phật
có Chỉ và Quán!
Chỉ Quán là Thiền Định.
Thiền Định là Định và Huệ cân bằng. Chỉ
Quán hợp lại, Chỉ Quán chẳng hai, đó gọi là Thiền
Định. Chỉ Quán như một, Quán ở trong Chỉ,
Chỉ ở trong Quán. Cổ đức có một tỷ dụ
rất hay: “Chỉ phục vọng
niệm, thí như ma kính. Ma dĩ, tắc kính thể ly
chư cấu” (Chỉ là chế phục vọng niệm,
ví như mài gương. Đă mài th́ Thể của gương
sẽ ĺa các chất nhơ), giống như đoạn Hoặc.
Ở chỗ này, chúng ta phải hiểu, v́ đối với
người hiện thời, họ không hiểu v́ sao phải
mài gương? Gương hiện thời làm bằng thủy
tinh, rất tiến bộ, chẳng cần phải mài! Thuở
xưa, chưa phát minh ra thủy tinh; thời cổ dùng ǵ
để làm gương? Đồng! Gương đồng
cũng làm rất tinh xảo. Nếu quư vị có dịp
đến thăm viện bảo tàng, sẽ có thể thấy
gương đồng. Một mặt là gương, được
chế tác rất tinh xảo, làm bằng đồng. Mặt
kia tức là mặt sau của gương có hoa văn, cũng
thường khắc những câu cách ngôn nhằm cảnh tỉnh
chính ḿnh; mặt đối diện là gương. Gương
để lâu sẽ đóng bụi bặm, có teng đồng,
khi quư vị soi, sẽ chiếu soi [h́nh ảnh] không rơ ràng
cho lắm! Do vậy, ắt phải thường xuyên mài bóng.
V́ thế nói “ma kính” (mài gương),
càng mài càng sáng. Mài sạch những thứ dơ bẩn nơi
mặt gương, chuyện này giống như đoạn
Hoặc. Sau đấy, cầm gương để soi, sẽ
giống như gương [thủy tinh trong hiện thời].
Quư vị soi bóng [những h́nh tướng] bên ngoài rành rẽ,
phân minh. “Năng hiện vạn
tượng” (Có thể hiện ra muôn h́nh tượng), điều
này giống như chứng Lư, “thị
tức Quán dă” (đấy chính là Quán). Mài sạch những
chất nhơ khỏi Thể của gương, đấy
là Chỉ. Khi gương khởi tác dụng Chiếu, sẽ
Quán. Quán thuộc về Huệ, Quán có thể chứng Lư.
“Nhược
chân Chỉ, chân Quán, tất vi bất nhị” (Nếu là
Chỉ và Quán thật sự, ắt sẽ chẳng hai).
Đấy là tỷ dụ chúng giống như gương.
Thể của gương là Chỉ, khởi tác dụng chiếu
là Quán. Chúng nhất định chẳng hai! Lại xem một
sự thật: “Pháp Tánh tịch
nhiên thị Chỉ, Pháp Tánh thường chiếu thị
Quán” (Pháp Tánh vắng lặng là Chỉ, Pháp Tánh thường
chiếu là Quán). Đấy là chân lư của vũ trụ.
Trong các khóa giảng trong quá khứ, chúng tôi đă nói về Pháp
Tánh rất nhiều! Pháp Tánh chẳng phải là vật chất,
mà cũng chẳng phải là tinh thần, sáu căn mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, và ư của chúng ta đều chẳng
thể tiếp xúc được, kinh Phật nói là “chẳng duyên được”.
Thức thứ sáu là Ư Thức chính là tư tưởng, chẳng
tưởng được, mắt chẳng thấy, tai chẳng
nghe, mũi chẳng ngửi thấy, lưỡi chẳng nếm
được, thân chẳng tiếp xúc được, tâm
cũng chẳng tưởng được! Nó (Pháp Tánh) thật
sự có, nó tồn tại, nó có thể hiện, hiện ǵ
vậy? Hiện ra hư không, hiện ra thế giới. Tất
cả hết thảy vạn sự vạn vật trong vũ
trụ đều do nó biến hiện, nó có thể hiện!
Nó có thể hiện ra tinh thần, có năng lực hiện
ra vật chất. Tinh thần và vật chất thảy
đều do Pháp Tánh biến hiện.
Pháp Tánh vắng lặng,
nó như như bất động, trước nay chẳng
động, chính là Chỉ. Tuy nó vắng lặng, nhưng nó
lại thường chiếu. Thường chiếu là Quán.
Nói cách khác, chẳng có ǵ nó không hiểu rơ; chẳng có ǵ nó không
thông đạt. Đấy là Quán. Quán thuộc về Huệ,
Tịch thuộc về Định. Chân Chỉ, chân Quán nhất
định là chẳng hai! V́ thế nói chân Quán nhất
định là vắng lặng, trí huệ thật sự nhất
định là như như bất động. “Chân Quán tất tịch nhiên, cố
Quán tức Chỉ. Chân Chỉ tất minh tịnh” (Chân
Quán ắt vắng lặng; v́ thế, Quán chính là Chỉ. Chân
Chỉ ắt sáng suốt, thanh tịnh). Chân Chỉ tất
nhiên là hiểu rơ, tất nhiên là thanh tịnh. Thanh tịnh là
chẳng có mảy may ô nhiễm. “Cố
Chỉ tức Quán dă” (V́ thế, Chỉ tức là Quán). V́
lẽ này, mối quan hệ giữa Chỉ và Quán là một,
không hai. Chỉ là Thể, Quán là Dụng; Quán là Thể, Chỉ
là Dụng. Hai thứ ấy có thể làm Thể và Dụng
lẫn cho nhau. Tịch chính là Chiếu, Chiếu tức là Tịch.
Chỉ là Quán, Quán là Chỉ, là một, không hai. Chỉ Quán thật
sự [là như thế đấy]!
Trong giáo pháp Đại
Thừa, đức Phật dạy chúng ta tu hành, quư vị
hiểu đạo lư này, hiểu phương pháp này, nguyên
lư và nguyên tắc được vận dụng vào chỗ
nào? Dùng ngay trong cuộc sống hằng ngày, dùng vào công việc,
dùng trong xử sự, đăi người, tiếp vật.
Tâm địa thanh tịnh, quang minh. Thanh tịnh là Chỉ,
quang minh là Quán. Thanh tịnh là Định, quang minh là Huệ.
V́ lẽ này, Lục Tổ Huệ Năng gặp Ngũ Tổ,
đă thưa với Ngũ Tổ: “Trong tâm đệ tử thường sanh trí huệ”.
Quư vị có hiểu câu nói ấy hay không? Nếu quư vị đă
hiểu đạo lư Chỉ Quán, quư vị sẽ hiểu
rơ [hàm nghĩa trong câu nói ấy]. Tâm Lục Tổ như
nước lặng, đối với cảnh giới bên
ngoài xác thực là như kinh Kim Cang đă nói: “Chẳng giữ lấy tướng,
như như bất động”. Chẳng có ǵ Ngài không
hiểu rơ, chẳng có ǵ Ngài không thông đạt. “Thường sanh trí huệ”
có nghĩa là chẳng sanh phiền năo, chẳng dấy lên sự
đắm nhiễm. Đấy là công phu của Ngài!
Đoạn này nhằm giới
thiệu [Chỉ Quán theo cách hiểu] thông thường. Trong
buổi học sau, chúng ta lại xem cảnh giới của
Thanh Lương đại sư trong phẩm kinh này, xem lăo
nhân gia giảng giải về Chỉ Quán. A! Hôm nay đă hết
thời gian rồi, chúng ta học tới chỗ này.
Tập 1480
Chư vị
đồng học xin mời ngồi xuống. Xin xem phẩm
Tịnh Hạnh thứ mười một, đoạn thứ
tư trong phần trường hàng. Chúng ta đọc kinh
văn một lượt.
(Kinh) Vân hà đắc nhân lực, dục lực,
phương tiện lực, duyên lực, sở duyên lực,
căn lực, quan sát lực, xa-ma-tha lực, tỳ-bát-xá-na
lực, tư duy lực?
(經)云何得因力。欲力。方便力。緣力。所緣力。根力。觀察力。奢摩他力。毗缽舍那力。思惟力。
(Kinh: Làm thế nào để
đắc nhân lực, dục lực, phương tiện
lực, duyên lực, sở duyên lực, căn lực, quán
sát lực, xa-ma-tha lực, tỳ-bát-xá-na lực, tư duy lực?)
Đối với đoạn
kinh văn này, trong phần trước, chúng ta đă học
đến Xa-ma-tha và Tỳ-bát-xá-na. Đấy là tiếng
Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán sẽ là Chỉ
Quán. Trong phần trước, chúng tôi đă thưa tŕnh cùng
quư vị cách giải thích danh tướng thông thường
theo giáo pháp Đại Thừa. Hôm nay, chúng ta xem những lời
dạy của Thanh Lương đại sư trong Sớ
Sao. Chúng tôi đọc lời văn của Thanh
Lương đại sư một lượt.
(Sớ) Bát, Xa-ma-tha, thử vân Chỉ.
(疏)八奢摩他,此云止。
(Sớ: Tám, Xa-ma tha, cơi này nói
là Chỉ).
Xa-ma-tha là tiếng Phạn, “thử” (此) là
nơi đây, tức Trung Hoa, nghĩa tiếng Hán là Chỉ.
(Sớ) Đệ cửu, Tỳ-bát-xá-na.
(疏)第九毘缽舍那。
(Sớ: Thứ chín là Tỳ-bát-xá-na).
Đây là tiếng Phạn.
(Sớ) Thử vân Quán dă.
(疏)此云觀也。
(Sớ: Cơi này dịch là Quán).
Nói gộp lại, sẽ là Chỉ
Quán.
(Sớ) Du Già, Khởi Tín đẳng
luận.
(疏)瑜伽,起信等論。
(Sớ: Các bộ luận
như Du Già, Khởi Tín v.v…)
Du Già Sư Địa Luận,
Đại Thừa Khởi Tín Luận, kinh Giải Thâm Mật,
kinh Đại Niết Bàn v.v…
(Sớ) Quảng biện kỳ
tướng, cụ như biệt chương.
(疏)廣辨其相,具如別章。
(Sớ: Đều biện
định rộng răi tướng của chúng, [những điều
này] đă được nêu đầy đủ trong
chương khác).
Hai danh tướng ấy đă
được giải thích hết sức tỉ mỉ
[trong các bộ kinh luận ấy]. Trong Sớ Sao, Thanh
Lương đại sư cũng đă trích dẫn, nhưng
không [nêu ra] ở chỗ này. Trong phần sau, chúng ta sẽ c̣n
đọc thấy. Đọc đến chỗ đó, sẽ
thấy càng nói càng cặn kẽ!
Từ những phần
trước, chúng ta đă nhiều lần thấy kinh Hoa
Nghiêm nói đến điều ǵ? Vừa mở đầu,
đă giới thiệu duyên khởi của pháp giới. Phẩm
Hoa Tạng Thế Giới và phẩm Thế Giới Thành Tựu,
nói theo kiểu hiện thời, toàn là nói về khoa học.
Vũ trụ do đâu mà có? Thế giới thành tựu như
thế nào? Kinh đă nói về hoàn cảnh y báo của chúng
ta rất rơ ràng. Kế đó là nói về sự tu hành, phàm
phu như thế nào th́ mới có thể đạt tới
quả địa viên măn rốt ráo? Do vậy, các đề
mục chánh yếu của kinh này là Thập Tín, Thập Trụ,
Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa,
Đẳng Giác, Diệu Giác. Sau đó là kèm theo phần biểu
diễn, năm mươi ba lần tham học của Thiện
Tài đồng tử nhằm làm cho chúng ta thấy. Do vậy,
thuở trước tiên sinh Phương Đông Mỹ giới
thiệu bộ kinh này cho tôi, đă nói đây là một bộ
sách tuyệt diệu vô song trên thế giới, là một bộ
Phật học khái luận hoàn chỉnh. V́ sao nói là hoàn mỹ?
Nó có lư luận, có phương pháp, c̣n kèm thêm biểu diễn.
Sách giáo khoa được biên soạn như vậy, chẳng
t́m thấy bộ thứ hai trên thế giới!
Sau khi tôi đọc Hoa Nghiêm,
nghĩ đến Châu phu tử (Châu Hy) đời Tống
biên tập Tứ Thư. Châu phu tử cũng đổ công
dốc sức rất nhiều nơi Phật giáo, có khá nhiều
điều ông dùng Phật giáo để giải thích kinh
điển Nho gia. Tôi nghĩ có thể là ông ta biên tập Tứ
Thư do được gợi hứng từ kinh Hoa Nghiêm.
V́ sao? Tứ Thư gồm có bốn bộ, tức là Đại
Học, Trung Dung, Luận Ngữ, và Mạnh Tử[1].
Đại Học nói về phương pháp, Trung Dung giảng
về lư luận, Luận Ngữ và Mạnh Tử chính là sự
biểu diễn của Khổng Tử và Mạnh Tử. Làm
thế nào để áp dụng phương pháp và lư luận
ấy trong cuộc sống, thực hiện trong công việc,
thực hiện trong xử sự, đăi người, tiếp
vật? Rất có hương vị của Hoa Nghiêm! Đấy
là suy nghĩ của tôi, đương nhiên là chẳng t́m
thấy căn cứ, có thể là [Châu phu tử] do tiếp
nhận khải thị của kinh Hoa Nghiêm, do đọc
kinh Hoa Nghiêm, đột nhiên có sự linh cảm như vậy
đó. Bởi thế, Tứ Thư là sách giáo khoa hết sức
hoàn mỹ của Nho gia, chúng ta cũng có thể coi Tứ
Thư như triết học khái luận của Nho gia.
Ở đây, Thanh
Lương đại sư đă nói đại lược.
(Sớ) Kim lược hiển kỳ
tướng, dĩ vi thập môn.
(疏)今略顯其相,以為十門。
(Sớ: Nay nói đại
lược tướng ấy, gồm có mười môn).
Đây là nói về Chỉ, tức
Xa-ma-tha. Chỉ và Quán, trong phần trước, chúng tôi đă
nói, chẳng thể tách rời! Trong Chỉ có Quán, trong Quán
có Chỉ. Chỉ tức là Quán, Quán tức là Chỉ. Trong
phần trước, đă tŕnh bày ư nghĩa này rất minh
bạch. Nay chúng ta xem ở chỗ này.
(Sớ) Tâm hạnh xứng lư, nhiếp
tán danh Chỉ.
(疏)心行稱理,攝散名止。
(Sớ: Tâm hạnh
tương ứng với Lư, thâu nhiếp tán loạn, gọi
là Chỉ).
Thanh
Lương đại sư nói đơn giản, trọng
yếu, ngắn gọn. “Tâm”
là khởi tâm động niệm, “hạnh” là hành vi, ngôn ngữ, tạo tác. Tâm và hạnh
đă bao gồm ba nghiệp. Quư vị thấy “thân, ngữ, ư”, thân và ngữ
là hạnh, tâm là ư. Tam nghiệp đều xứng lư, tức
là tương ứng với Lư. Lư là ǵ? Lư là Tánh Đức,
[xứng Lư] là tương ứng với tự tánh, tương
ứng với Pháp Tánh. Tự tánh và Pháp Tánh là một tánh, trong
Nho gia gọi là “bản tánh”.
Quư vị thấy sách Nho nói hết thảy mọi người
tánh vốn lành. Tam Tự Kinh nhằm dạy trẻ nít, là sách
giáo khoa để dạy vỡ ḷng. Câu đầu tiên là “nhân chi sơ, tánh bổn thiện”
(con người thoạt đầu tánh vốn lành). Bản
tánh vốn lành là Lư. Chúng ta khởi tâm động niệm
là thiện, ngôn ngữ, hành vi tạo tác là thiện, đấy
gọi là “xứng Lư”, nhằm
phân biệt với ba nghiệp thân, ngữ, ư chẳng lành,
[ba nghiệp chẳng lành th́] sai mất rồi! Ba nghiệp
thuần tịnh, thuần thiện! Câu này là tổng cương
lănh, tổng nguyên tắc, chúng ta phải nhớ kỹ. Khởi
tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác đều phải
tương ứng với bản tánh vốn lành. Thiện
trong Nho gia là luân lư, đạo đức, ngũ luân, bát
đức. Đấy là Lư, phải tương ứng!
“Chỉ”
nghĩa là ǵ? Là “nhiếp tán”. “Tán”
(散) là ǵ? Suy nghĩ lung tung, tâm tán loạn. Chúng ta thâu hồi
cái tâm tán loạn, đó là Chỉ. Đúng như Mạnh Tử
đă dạy: “Học vấn
chi đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ” (Đạo
học vấn chẳng có ǵ khác, mong sao thâu hồi cái tâm buông
lung mà thôi). Tâm quư vị luôn rong ruổi bên ngoài, chúng ta có thể
thâu hồi cái tâm buông lung ấy; đấy chính là học vấn,
ở đây, gọi là Xa-ma-tha. Xa-ma-tha là thâu hồi cái tâm. Trong
cuộc sống hằng ngày, mắt chúng ta thấy sắc,
thấy cái ǵ hợp với ư nghĩ của chính ḿnh, tâm
tham ái bèn dấy lên, tâm chạy theo cảnh giới bên ngoài,
quư vị thường nghĩ nhớ nó. Thấy cảnh giới
nào mà chính ḿnh chẳng ưa thích, liền chán ghét, tâm sân khuể
sanh khởi. Thấy người khác tốt lành hơn chúng
ta, cái tâm ghen tỵ liền dấy lên. Thấy người
khác chẳng bằng chúng ta, tâm ngạo mạn nẩy sanh.
Những điều ấy đều gọi là “tâm tán loạn”. Suốt ngày từ
sáng đến tối, cái tâm như nổi sóng, chao động
không ngừng, chẳng thể Chỉ được. Cái tâm
của quư vị luôn động!
Chỉ là ǵ? Chỉ là khiến
cho cái tâm của chúng ta khôi phục sự b́nh lặng th́ gọi
là Chỉ. Khi nào sáu căn của chúng ta tiếp xúc cảnh
giới bên ngoài, đối với thuận cảnh, thiện
duyên, cảnh giới tốt đẹp, thường là tâm
chúng ta rất hoan hỷ, nhưng chẳng sanh tham luyến.
Tham luyến là sóng gió. Chẳng dấy lên sóng gió. Trước
nghịch cảnh, ác duyên, chúng ta nói là “oan gia đối đầu”, sau khi đă gặp
phải [oan gia đối đầu], tâm sân khuể bèn sanh
khởi. Trong khi đó, quư vị có thể giữ sao cho không
sân khuể, tâm quư vị đă Chỉ. Phải học điều
này! Tâm hạnh xứng lư, trong Phật môn gọi điều
đó là “Bồ Đề tâm,
chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi”,
lư đấy! Hạnh là Thập Thiện Nghiệp, chẳng
giết, chẳng trộm, không dâm, không nói dối, không nói đôi
chiều, không ác khẩu, không nói thêu dệt, không tham, không
sân, không si. Nếu cái tâm thật sự là tâm hạnh đều
tương ứng với Bồ Đề tâm, đều tương
ứng với Thập Thiện Nghiệp, tâm của quư vị
đă Chỉ. An trụ nơi Bồ Đề, an trụ
trong Thập Thiện. Đó là đúng, hăy nên biết để
học tập [điều này].
Ư nghĩa thứ hai:
(Sớ) Chỉ bất trệ tịch,
bất ngại quán Sự.
(疏)止不滯寂,不礙觀事。
(Sớ: Chỉ chẳng
trầm trệ nơi Tịch, chẳng trở ngại quán
Sự).
Chỉ
là Tịch. Tuy là Chỉ Tịch, nó khởi tác dụng, chẳng
phải là chết cứng, mà là sống động, giống
như nước khi gió yên, sóng lặng. Sáu căn của
chúng ta ở trong cảnh giới sáu trần đă đạt
đến mức độ nào? Chẳng chấp trước,
chẳng phân biệt, không khởi tâm, chẳng động
niệm, cái tâm b́nh lặng. Đó là Chỉ Tịch.
Nhưng sáu căn tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, bèn thấu
hiểu rành mạch, rơ ràng, [đó là] “bất ngại quán Sự”. Chỉ là Định,
Quán là Huệ. Chỉ là như như bất động,
Quán là hiểu rành mạch, rơ ràng. Chư Phật, Bồ Tát dạy
chúng ta trong cuộc sống hằng ngày, trong công việc, xử
sự, đăi người tiếp vật, hăy nên học
như thế th́ là đúng. Đấy là cảnh giới của
Phật, Bồ Tát. Các Ngài cũng là sáu căn tiếp xúc cảnh
giới sáu trần bên ngoài, chúng ta cũng thế, nhưng
tâm chúng ta chẳng định. Tâm không định, bèn suy
nghĩ loạn xạ, cho nên trong tâm cuộn sóng. Nếu là
phẫn hận to lớn, nổi cáu, sẽ là sóng to gió lớn!
Chỉ cần tâm có thất
t́nh, ngũ dục, tâm sẽ chẳng b́nh lặng, chẳng
tịnh, chẳng có Chỉ Tịch. Có thể quán Sự hay
không? Có thể, nhưng thường là nh́n nhận sự
việc sai be bét! Chuyện bày ra trước mặt quư vị
rơ ràng, [thế mà quư vị] thấy sai, nghe trật, hiểu
sai ư nghĩa! Chuyện như vậy có nhiều hay không? Quá
nhiều! Chẳng cần hỏi ai khác, cứ hỏi chính
ḿnh, [sẽ nhận thấy] chính ḿnh thường là như
vậy. Do nguyên nhân ǵ? Đọc những sách ấy sẽ
biết, tâm chẳng thanh tịnh. Tâm thanh tịnh, quư vị
thấy cũng thế, nghe cũng thế, đúng là rành mạch,
rơ ràng, chẳng có lầm lỗi! Tâm chẳng thanh tịnh, nghe
sai, hiểu sai ư nghĩa, thường nẩy sanh sai lầm!
Ở chỗ nào? Ngay trong cuộc sống hằng ngày, hằng
ngày đều gặp phải! Từ nay về sau, hễ gặp
phải những chuyện ấy, tâm quư vị hiểu rơ ràng,
đừng nên trách móc người khác! V́ sao? Tâm họ chẳng
định! Bản thân chúng ta cũng đừng nên học
theo họ, tâm nhất định phải thanh tịnh, vọng
niệm càng ít càng hay. Vọng niệm là phiền năo. Vọng
niệm ít, trí huệ sẽ tăng trưởng. V́ sao? Quán
sự sẽ hiểu rơ, thông đạt, chẳng có chướng
ngại. Đấy chính là trí huệ, trí huệ đă mở
mang!
Tiếp đó là câu thứ
ba:
(Sớ) Do Lư Sự giao triệt
nhi tất câu toại, sử Chỉ Quán vô ngại nhi song vận.
(疏)由理事交徹而必俱遂,使止觀無礙而雙運。
(Sớ: Do Lư và Sự hoàn toàn
dung thông lẫn nhau, nên đều cùng thành tựu, khiến
cho Chỉ Quán vô ngại, cùng vận dụng Chỉ và Quán).
Lư nhất định có Sự, Sự
nhất định có Lư. Trong Lư có Sự, trong Sự có Lư. Đó
gọi là “Lư Sự giao triệt”.
Chẳng nói là chỉ đơn độc có Sự, không có
Lư. Đơn độc có Lư, chẳng có Sự, chuyện này
nói chẳng suông! Đấy là cảnh sở duyên của chúng
ta, tất nhiên sẽ khiến cho Chỉ Quán vô ngại, mà có
thể vận dụng đồng thời. Chỉ Quán là năng
quán (chủ thể quán sát), Lư Sự là sở quán (đối
tượng được quán). Trong phần trước,
tôi cũng đă thưa tŕnh cùng chư vị: Chỉ là buông
xuống, Quán là thấy thấu suốt. Đấy là phương
pháp tu học do Chương Gia đại sư dạy cho
tôi trước kia. Ngài chẳng nói Chỉ Quán! Nếu Ngài dùng
danh từ Chỉ Quán, chỉ sợ tôi nghe cũng không hiểu,
sẽ rất tốn công. Tôi là kẻ mới học, vừa
mới tiếp xúc Phật pháp. Ngài thay đổi danh tướng
để nói; đấy là chỗ cao minh, chỗ trí huệ
của Ngài!
Buông xuống ǵ vậy? Buông xuống
vọng tưởng, buông xuống phân biệt, buông xuống
tiếng tăm, lợi dưỡng, buông xuống thất
t́nh, ngũ dục. Tâm của quư vị b́nh lặng, tức
là Chỉ. Chỉ cần quư vị thật sự có thể
buông xuống, trí huệ hiện tiền, nh́n cũng thế,
nghe cũng thế, tư duy cũng thế, xác thực là
cao hơn người khác một bậc, trí huệ vượt
trỗi người khác! Trí huệ do đâu mà có? Chính ḿnh vốn
sẵn có! V́ sao chúng ta đánh mất trí huệ? Vọng niệm
quá nhiều, [cho nên] Chỉ không được. Trong tâm vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước rất nhiều,
cho nên chỉ có vọng tưởng, chẳng có trí huệ,
đạo lư ở ngay chỗ này. Người công phu đắc
lực, công phu Chỉ Quán thật sự đắc lực,
thấy thấu suốt giúp quư vị buông xuống; buông xuống
lại giúp cho quư vị thấy thấu suốt. Đấy
là “Chỉ Quán song vận, Chỉ
Quán vô ngại”. Trong hết thảy thời, hết thảy
chỗ, tâm như như bất động, chẳng bị
ảnh hưởng bởi cảnh giới bên ngoài. Bất
luận là thuận cảnh hay nghịch cảnh, bất luận
là thiện duyên hay ác duyên, quyết định chẳng bị
ảnh hưởng, trong tâm như như bất động.
V́ sao người ấy có thể làm được? V́ sao
người trong thế gian chẳng làm được?
“Chuyện này ta có thể chẳng nghĩ tới ư? Chuyện
này có liên quan đến ta, có thể chẳng nghĩ tới
hay sao?” V́ thế, họ Chỉ không được. “Chỉ” không được
là v́ họ chẳng thấy thấu suốt, chẳng hiểu
chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. Giống như
kinh Kim Cang đă dạy: “Phàm những
ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng, hết thảy
các pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”.
Tâm Kinh đă nói: “Sắc chẳng
khác Không, Không chẳng khác Sắc. Sắc chính là Không, Không
chính là Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng giống
như thế”.
Đức Thế Tôn giảng
kinh Bát Nhă hai mươi hai năm, chúng tôi đọc xong, đă
nêu ra tổng kết: “Tất cả
hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian vô sở
hữu, tất cánh không, chẳng thể được!”
Nếu quư vị có thể hiểu chân tướng sự
thật này, có ǵ mà chẳng buông xuống được? Quư
vị buông xuống, đúng rồi. Quư vị chẳng buông
xuống, sai rồi! Đúng là “thiên
hạ bổn vô sự, dung nhân tự nhiễu chi” (thiên
hạ vốn chẳng có chuyện ǵ, kẻ tầm thường
tự ḿnh quấy nhiễu). Không buông xuống được,
sẽ là “dung nhân” (庸人, kẻ tầm thường, kém cỏi). Buông xuống
sẽ là “thánh nhân”. Thánh nhân:
Thánh (聖) có nghĩa là minh bạch; “thánh
nhân” là người đă minh bạch. Không buông xuống
được sẽ là “dung
nhân”, là kẻ ngu si. Phàm và thánh khác biệt ở ngay chỗ
này! V́ thế, chúng ta phải học, phải thật sự
tu hành, thật sự dụng công.
Trong phần trước, tôi
đă thưa tŕnh cùng chư vị: Niệm Phật là tu Chỉ
Quán. Ngay vào lúc trong tâm dấy lên vọng tưởng, phân biệt,
bèn ngay lập tức “nam-mô A Di
Đà Phật” để trừ khử, thay thế tạp
niệm ấy [bằng Phật hiệu]. Đấy chính là
như cổ đại đức đă nói: “Chẳng sợ niệm khởi,
chỉ sợ giác chậm”. Vọng niệm dấy lên,
không sao hết! V́ là phàm phu, đương nhiên là vọng
niệm sẽ dấy lên. Nếu chẳng dấy vọng
niệm, đấy chính là thánh nhân, quư vị đă tu thành
công. Há có lẽ nào phàm phu chẳng dấy lên vọng niệm?
Nhưng vọng niệm vừa dấy lên, quư vị có thể
nhận biết. Đó là giác ngộ! Hễ nhận biết,
sẽ ngay lập tức dùng một câu Phật hiệu
để đánh tan, dùng Phật hiệu để thay thế,
chẳng để vọng niệm tiếp tục, khiến
cho từng tiếng Phật hiệu “A Di Đà Phật” tiếp nối, vọng niệm
sẽ chẳng dấy lên. Đấy chính là công phu.
Niệm đă lâu, thông thường
th́ đại khái là bao lâu? Chúng ta thấy cổ đại
đức, tám chín phần mười là ba năm! Thật
sự dụng công ba năm, dùng một câu A Di Đà Phật
để áp chế vọng tưởng. Ư niệm dấy
lên, bất luận là thiện niệm hay ác niệm đều
chẳng quan tâm, chỉ cần ư niệm dấy lên, bèn “A Di Đà Phật” để áp
chế nó. Ba năm, công phu tốt đẹp sẽ đắc
nhất tâm, nhất tâm bất loạn. Trong số ấy, người
đắc Sự nhất tâm th́ nhiều, người đắc
Lư nhất tâm ít ỏi. Công phu nông cạn, tức công phu nhất
tâm bất loạn nông cạn nhất, chúng ta thường
gọi là “công phu thành phiến”
có nghĩa là ǵ? Đối với vọng niệm, công phu niệm
Phật của quư vị mới vừa đạt tới
mức độ có thể chế phục nó. Chẳng dấy
lên ư niệm th́ thôi; lúc dấy lên, sẽ đều là “A Di Đà Phật”. Trừ “A Di Đà Phật” ra, chẳng
khởi ư niệm nào khác! Đó gọi là “công phu thành phiến”. Đấy là mức thấp
nhất, là nhất tâm bất loạn thuộc mức sơ
cấp nhất! Công phu như vậy quyết định sanh
về cơi Phàm Thánh Đồng Cư trong thế giới Cực
Lạc. Tôi nói lời này, hy vọng các đồng học
phải lưu ư, phải nghiêm túc nghe. V́ sao? Chẳng có công
phu này, sẽ chẳng thể văng sanh! Mỗi ngày quư vị niệm
mười vạn câu Phật hiệu, một mặt niệm
Phật hiệu, mặt khác vẫn dấy vọng tưởng,
vô dụng! Phải niệm đến mức nào? Niệm
đến mức Phật hiệu chẳng có vọng
tưởng, quư vị sẽ nắm chắc văng sanh! Khi niệm
Phật c̣n có vọng tưởng, chẳng nắm chắc.
Chớ nên không biết điều này, đó gọi là công
phu thật sự!
Khi thật sự đổ
công dốc sức, pháp môn Tịnh Tông thù thắng lắm. V́
sao? Nó chẳng trở ngại Sự, không trở ngại quư
vị làm việc. Ta vừa làm việc, vừa có thể dụng
công. Nhất là [khi làm những việc] không cần suy nghĩ,
chỉ tốn sức, chẳng cần suy nghĩ, sẽ càng
dễ dàng. “A Di Đà Phật,
A Di Đà Phật”, mỗi niệm đều là A Di
Đà Phật. Trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, có
chép chuyện một người thợ rèn, rèn sắt rất
vất vả. Có một hôm, gặp một vị xuất
gia, ông ta mời vị xuất gia ấy uống một chén
nước, thỉnh giáo: “Con rèn sắt quá cực nhọc,
có phương pháp nào giúp cho con giải thoát hay không?” Vị
pháp sư ấy dạy ông ta niệm A Di Đà Phật. Sư
dặn: “Ông cầm búa đập
xuống, A Di Đà Phật; nhấc búa lên, A Di Đà Phật”.
Ông ta bèn học như thế, hằng ngày rèn sắt cứ “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”.
Người khác hỏi ông ta: “Ông vừa rèn sắt vừa
niệm Phật, có quá mệt hay không?” Ông ta thưa: “Không! Trước
đây, rèn sắt th́ mệt. Kể từ khi tôi niệm Phật,
rèn sắt chẳng thấy mệt”. Ba năm sau, ông ta đứng
văng sanh. Ngay trong lúc rèn sắt, đập một búa xuống,
“A Di Đà Phật”, ông ta chẳng
chuyển động, đă văng sanh, đứng thác! Dường
như c̣n nói thêm một bài kệ: “Beng beng, bang bang, luyện lâu thành thép, thái b́nh đă gần,
ta về Tây Phương”. Đập xuống một búa,
đă đi mất rồi. Đấy là ǵ? Công phu thành phiến!
Quư vị xem Tịnh Độ
Thánh Hiền Lục, xem Văng Sanh Truyện, [sẽ thấy] bảy
tám phần mười là ba năm, từ ba năm cho đến
năm năm, công phu bèn thành tựu. Chúng ta niệm Phật
không chỉ là ba năm, không chỉ là năm năm, v́ sao hiện
thời ngay cả tin tức của Tây Phương Cực
Lạc thế giới cũng chẳng có? Chẳng có Chỉ!
Niệm Phật hiệu hằng ngày, [nhưng là] tán niệm,
chẳng có cách nào thành tựu công phu! Làm như thế nào để
có thể thành tựu công phu? Quư vị phải biết nhiếp
tâm; câu Phật hiệu xác thực giúp chúng ta nhiếp tâm. Niệm dấy lên, bèn “A Di Đà Phật”, dùng [Phật hiệu] để
thay thế cái niệm ấy. “Niệm”
(vọng niệm, tán niệm) chẳng c̣n nữa, chỉ
c̣n lại A Di Đà Phật! Câu “A
Di Đà Phật” có
thể khiến cho vọng niệm chẳng dấy lên. Chẳng
phải là đoạn vọng niệm, chẳng hề đoạn,
mà là chế ngự nó, giống như đá đè lấp,
giằn ép cây cỏ. Ai nấy đều khởi sự luyện
tập từ chỗ này. Đó gọi là “công phu đắc lực”. Chẳng thể giằn
ép vọng niệm được, công phu sẽ chẳng
đắc lực!
Hiện thời, chúng ta thấy
người niệm Phật rất nhiều, nhưng chẳng
thể giằn ép phiền năo, quư vị hăy xem xét kỹ. Lỡ
ai đó có động tác hay nói năng không cẩn thận làm
mất ḷng họ, ngay lập tức nổi quạu liền.
Thấy thứ ǵ ưa thích, tâm tham ngay lập tức dấy
lên, chẳng có công phu. “Chẳng
có công phu” là không chịu nổi sự dụ dỗ, mê hoặc
do cảnh giới bên ngoài. Sáu căn tiếp xúc cảnh giới
sáu trần liền khởi tham, sân, si, mạn y như
cũ, khởi vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước y như cũ. Đấy là niệm Phật uổng
công mất rồi! Cổ đại đức nói: “Tối
đa là gieo chủng tử niệm Phật trong A Lại Da
Thức, chẳng thể dấy lên hiện hành trong đời
này”. Trong đời này, chẳng có cách nào hết! Chúng ta chớ
nên không biết chuyện này. Do vậy, chúng ta phải thật
sự biết niệm Phật, nhất định phải
hiểu ư nghĩa của hai chữ Chỉ Quán.
Đối với Quán, ta chẳng
phải là tách ĺa, tách ĺa là sai lầm! Ta ở trong cảnh
giới, ḥa quang đồng trần, ta thấy rơ ràng, nghe rơ
ràng, nhưng như thế nào? Không khởi tâm, chẳng
động niệm, chẳng phân biệt, không chấp
trước, chỉ có một câu “A Di Đà Phật”. Người khác cung kính ta, “A Di Đà Phật”; người
khác hận ta, “A Di Đà Phật”;
chẳng cần phải bận tâm đến cảnh giới
bên ngoài. Chẳng qua ta trả lời, cười h́ h́, đáp
bằng một tiếng “A Di
Đà Phật”! Bất luận trong cảnh giới nào, tập
khí phiền năo đều chẳng dấy lên hiện hành, [tức
là] công phu đắc lực, mới có thể văng sanh. Đấy
là mục tiêu rốt cùng của chúng ta, hy vọng có thể
thực hiện được. Nếu niệm Phật vẫn
quy về niệm Phật, khởi tâm động niệm vẫn
quy về khởi tâm động niệm, chẳng
được rồi! Đấy chẳng phải là cách
thức [niệm Phật đúng lẽ]. V́ thế, vận
dụng cả Chỉ lẫn Quán, tức là: Do thấy thấu
suốt mà buông xuống, do buông xuống mà thấy thấu
suốt.
Hăy nhớ thuở Bố
Đại ḥa thượng tại thế, vào thời đại
Nam Tống. Ngài sống cùng thời đại với Nhạc
Phi. Cũng chẳng có ai biết Ngài họ ǵ, tên ǵ, không có ai
biết cả! Do hằng ngày Ngài luôn cầm một cái túi vải
to, nên mọi người gọi Ngài là Bố Đại
ḥa thượng (布袋和尚, ḥa thượng túi vải). Bố Đại ḥa
thượng nổi danh, nói tới Bố Đại ḥa thượng
chẳng có ai không biết. Trong truyện kư, cũng chẳng
ghi tên Ngài, mà cũng viết là Bố Đại ḥa thượng.
Có người hỏi lăo nhân gia: “Phật pháp là ǵ?” Ngài buông
túi xuống đất, buông thơng hai tay, buông xuống đấy!
Phật pháp là ǵ? Buông xuống; buông xuống chính là Chỉ.
Người ta thấy dáng vẻ ấy, thấu hiểu ư
nghĩa ấy, buông xuống! Sau khi đă buông xuống th́ làm
sao? Ngài nhấc cái túi lên, khoác lên vai, bỏ đi, chẳng
nói câu nào cả! Nghĩa là ǵ? Sau khi đă buông xuống phải
nhấc lên, chẳng phải là buông xuống là đă xong
chuyện! Sau khi buông xuống, phải nhấc lên, nhấc
lên điều ǵ vậy (thực hiện điều ǵ vậy)?
Giáo hóa chúng sanh. Buông xuống nhằm thành tựu chính ḿnh;
sau khi chính ḿnh đă thành tựu, nhất định phải
thành tựu chúng sanh. Về sau, mọi người biết
Ngài là Di Lặc Bồ Tát thị hiện. V́ thế, trong các
tự viện tại Trung Hoa, hễ tạc tượng Di
Lặc Bồ Tát, đều tạc tượng Ngài (Bố
Đại ḥa thượng).
Ư nghĩa của câu thứ tư
sâu xa:
(Sớ) Lư Sự h́nh đoạt
nhi câu tận, cố Chỉ Quán lưỡng vong nhi tuyệt
kư.
(疏)理事形奪而俱盡,故止觀兩亡而絕寄。
(Sớ: Do Lư và Sự đoạt lẫn nhau, nên đều cùng
hết sạch. V́ thế, Chỉ và Quán cùng mất, chẳng
c̣n nương dựa vào đâu nữa).
Dùng Lư để đoạt
Sự, Sự chẳng tồn tại. Câu này chẳng dễ
hiểu. Ví như các nhà khoa học hiện thời đă phát
hiện: “Thời gian và không
gian chẳng phải là thật, vật chất là huyễn
tướng”. Điều phát hiện ấy chính là Lư.
Dưới một điều kiện nào đó, không gian bằng
zéro; dưới một điều kiện nào đó, thời
gian bằng zéro. Không gian bằng zéro, [tức là] chẳng có
xa hay gần; thời gian bằng zéro, chẳng có trước
hay sau! Do đâu mà có vật chất? Từ trong Vô sanh ra Hữu,
Hữu lại trở về Vô. Tốc độ dấy lên
rồi diệt mất ấy quá nhanh chóng, nhanh đến nỗi
chẳng có cách nào h́nh dung; đấy là Lư. Nếu nói theo Lư,
Sự cũng chẳng tồn tại. Thời gian và không
gian thảy đều không tồn tại. Dùng Lư đoạt
Sự, Sự chẳng có. Dùng Sự để đoạt
Lư, Lư sẽ chẳng có.
Quư vị nói “một điều kiện nào đó”, nay chúng ta xác
thực là có không gian, có thời gian, có vật chất. Cũng
có nghĩa là đối với các hiện tượng trong
vũ trụ, quư vị nh́n từ góc độ nào? Giống
như cái chén này, nh́n từ phía này, quư vị thấy nó lơm,
lơm xuống. Nh́n từ bên kia, nó lồi lên! Người nh́n
từ phía này, sẽ nói là lồi, trọn chẳng thừa
nhận nó bị lơm. Người nh́n từ mặt kia, sẽ
thừa nhận là lơm xuống, trọn chẳng thừa nhận
nó lồi lên. Đấy là chỉ nh́n vào một mặt, chẳng
thấy mặt khác. “Lư Sự
h́nh đoạt” (Lư và Sự đoạt lẫn nhau): Lư và
Sự đều chẳng tồn tại. Lư và Sự là
đối tượng của Chỉ Quán, nó là cảnh giới
được quán. Cảnh giới để quán (sở
quán) chẳng có, Quán Huệ có thể quán (năng quán) cũng
chẳng tồn tại. Nếu Năng và Sở đối
lập, sẽ có năng quán và sở
quán. Hễ thiếu một bên, hai bên đều chẳng
tồn tại. Lư này sâu lắm! “Chỉ
Quán song vong” (Chỉ và Quán cùng mất), đấy là cảnh
giới ǵ? Cảnh giới Đại Niết Bàn nơi quả
địa Như Lai, cũng là như Bố Đại ḥa
thượng bỏ cái túi xuống đất, buông thơng hai
tay, chính là cảnh giới như thế đó.
Lại xem câu thứ năm kế
tiếp:
(Sớ) Tuyệt Lư Sự vô ngại
chi cảnh, dữ mẫn Chỉ Quán vô ngại chi tâm, nhị
nhi bất nhị, cố bất ngại tâm cảnh nhi nhất
vị, bất nhị nhi nhị, cố bất hoại nhất
vị nhi tâm cảnh lưỡng thù.
(疏)絕理事無礙之境,與泯止觀無礙之心,二而不二,故不礙心境而一味,不二而二,故不壞一味而心境兩殊。
(Sớ: Do dứt tuyệt cảnh Lư
Sự vô ngại, và mất sạch cái tâm Chỉ Quán vô ngại.
Do tuy là hai mà chẳng hai, nên chẳng ngại tâm và cảnh
một vị. Do chẳng hai mà là hai, cho nên chẳng hoại
một vị mà tâm và cảnh hai đằng khác nhau).
Đây là dạy chúng ta ắt phải quán từ mỗi mặt, quư vị mới thật
sự liễu giải chân tướng sự thật. Mỗi
mặt đều nh́n trọn vẹn, chẳng dễ dàng!
Lúc chúng tôi mới học Phật, thầy Lư dạy: Người
thế gian nh́n mọi việc theo kiểu bộp chộp nuốt
trộng quả táo. Đức Phật dạy mọi người
phương pháp quan sát hết thảy các hiện tượng,
tối thiểu là quư vị phải biết cách quan sát tám mặt.
Tám mặt là ǵ? Thấy Thể, Tướng, Dụng của
nó là ba mặt. Lại thấy nhân, duyên, quả của nó, là
sáu mặt. Lại thấy Sự và Lư của nó, [cộng lại
thành] tám mặt. Như vậy, đối với mỗi
chuyện, kể như quư vị thấy chẳng sai, thấy
rơ ràng, nhưng như thế nào? Quư vị chỉ thấy bề
ngoài, chẳng có chiều sâu. Chiều sâu là ǵ? Mỗi mặt
đều có tám mặt, tám lần tám là sáu mươi bốn
mặt. Sáu mươi bốn mặt, quư vị sẽ thấy
mọi vật có chiều sâu. Sâu cỡ nào? Chẳng sâu lắm;
tuy có chiều sâu, chẳng đủ sâu! “Đủ sâu” là
như thế nào? Mỗi mặt trong sáu mươi bốn
mặt lại có tám mặt, trùng trùng vô tận!
Từ chỗ này, chúng ta mới
lănh hội trí huệ của Phật, Bồ Tát là ǵ, chúng ta
làm sao có thể sánh bằng cho được? Ư niệm tự
cho là đúng, tự cho chính ḿnh là rất lỗi lạc sẽ
ngay lập tức tiêu mất! Chẳng cần nói tám mặt,
chúng ta miễn cưỡng có thể nh́n tám mặt, chứ
sáu mươi bốn mặt th́ chẳng được rồi!
Trong Lư có Lư, có Sự; trong Lư có Thể, có Tướng, có Dụng,
có nhân, có duyên, có quả, trùng trùng vô tận, sâu không đáy,
rộng vô biên. Nay đă hết thời gian rồi, chúng ta
nghỉ ngơi mấy phút.
***
Chư vị đồng học,
xin mời ngồi xuống. Chúng ta xem tiếp phần chú giải
của Thanh Lương đại sư. Điều thứ
năm…
(Sớ) Tuyệt
Lư Sự vô ngại chi cảnh, dữ mẫn Chỉ Quán vô
ngại chi tâm, nhị nhi bất nhị, cố bất ngại
tâm cảnh nhi nhất vị, bất nhị nhi nhị, cố
bất hoại nhất vị nhi tâm cảnh lưỡng
thù.
(疏)絕理事無礙之境,與泯止觀無礙之心,二而不二,故不礙心境而一味,不二而二,故不壞一味而心境兩殊。
(Sớ: Do dứt tuyệt cảnh Lư
Sự vô ngại, và mất sạch cái tâm Chỉ Quán vô ngại.
Do tuy là hai mà chẳng hai, nên chẳng ngại tâm và cảnh
một vị. Do chẳng hai mà là hai, cho nên chẳng hoại
một vị mà tâm và cảnh hai đằng khác nhau).
Trước khi nói tới điều
này, chúng tôi đă nói Phật pháp dạy chúng ta đối với
hiện tượng đều phải quan sát trọn khắp
từng mặt. Lại c̣n phải trùng trùng khế nhập
bất tận. Điều ấy có liên quan đến hai câu
này. “Tuyệt” (絕) và
“mẫn” (泯) có
cùng một ư nghĩa. “Tuyệt Lư Sự vô ngại chi cảnh” (Dứt mất cảnh Lư Sự vô ngại),
câu này nói về ngoại cảnh. Lư chẳng ngại Sự,
Sự chẳng ngại Lư, Lư Sự vô ngại, cũng giống
như “Chỉ chẳng ngại
Quán, Quán chẳng ngại Chỉ”. “Mẫn Chỉ Quán vô ngại chi tâm”. “Mẫn”
và “tuyệt” đều là nói
“buông xuống”, “mẫn”
cũng là buông xuống, “tuyệt”
cũng là buông xuống, cảnh giới này càng cao hơn! Có
Chỉ Quán hay không? Có. Buông xuống là ǵ? Trong tâm buông xuống
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Chẳng
chấp trước Chỉ Quán, chẳng chấp trước
Lư Sự, chẳng phân biệt, không khởi tâm, chẳng
động niệm; Lư, Sự, Chỉ Quán vô ngại đều
hiện tiền.
Trong cảnh giới ấy, “nhị nhi bất nhị” (tuy
hai mà chẳng hai). Lư và Sự tuy hai mà chẳng hai, Chỉ
Quán tuy hai mà chẳng hai. Năng Quán là Chỉ Quán, Sở Quán
là Lư Sự, cũng là hai mà chẳng hai. V́ thế, “bất ngại tâm cảnh nhi nhất
vị” (chẳng ngại tâm và cảnh một vị). Tâm
là Chỉ Quán, cảnh là Lư Sự, tâm và cảnh một vị,
cảnh giới này sâu lắm. Đây là nói đến điều
ǵ? Vũ trụ là một, Năng và Sở bất nhị, đó
là cảnh giới sở chứng của Pháp Thân Bồ Tát
và chư Phật Như Lai. Đó là nói theo Lư. Nếu nói theo
sự tướng, [sẽ là] chẳng hai mà hai, [tức là]
nói theo Tục Đế. Trong phần trước là nói theo
Chân Đế, ở đây là nói theo Tục Đế, chẳng
hai. “Cố bất hoại nhất
vị nhi tâm cảnh lưỡng thù” (V́ thế, chẳng
hoại một vị mà tâm và cảnh hai đằng khác
nhau). Xác thực là có tâm, có cảnh, có Lư, có Sự, có Chỉ,
có Quán. Có chướng ngại hay không? Chẳng có! Kinh Hoa
Nghiêm nói: “Lư Sự vô ngại, Sự
Sự vô ngại”, hiển thị pháp giới chẳng có
chướng ngại.
Pháp giới vô chướng
ngại, nay chúng ta gọi pháp giới vô chướng ngại
là “hài ḥa”. Cổ nhân nói là “thái ḥa”, thái ḥa (太和) là ǵ? Thái ḥa là nói tới sự hài ḥa trong vũ trụ.
Xác thực là vũ trụ hài ḥa, các hệ tinh cầu là hài
ḥa. Quư vị thấy bao nhiêu ngôi sao trong hệ Ngân Hà đều
vận hành xoay quanh trung tâm, mỗi tinh cầu có quỹ đạo
riêng, chẳng va chạm nhau. Vũ trụ hài ḥa, thái ḥa
đấy! Nếu quan sát gần hơn, ở trên địa
cầu mà chúng ta đang sống, tất cả sinh vật,
động vật, thực vật, khoáng vật trên địa
cầu cũng là hài ḥa. V́ thế, sự cư xử giữa
người và người, sự cư xử giữa con người
và thiên địa, vạn vật, tự nhiên là hài ḥa. Vốn
là hài ḥa, nhưng hiện thời bất ḥa, nguyên nhân bất
ḥa là ở chỗ nào? Nguyên nhân là do chúng ta không biết chân
tướng của vũ trụ và vạn vật.
Do vậy, tôi thường nói
với các đồng học học Phật: Nếu quư vị
cảm thấy đạo lư này quá sâu, chẳng dễ hiểu,
hăy quan sát chính ḿnh, quan sát thân thể của chính ḿnh. Đó
là [quán theo phạm vi] nhỏ. Nếu thân thể của chính
ḿnh chẳng dễ quán, hăy nh́n vào thân thể của người
khác, quư vị hăy nh́n cẩn thận. Quư vị thấy mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, có hài ḥa hay không? Mắt thấy,
tai nghe, mắt và tai có căi nhau hay không? Mắt có nói “ta có thể
thấy, ta cũng có thể nghe, ta chẳng cần
ngươi” hay không? Tai có nói “ta có thể nghe, mà cũng có
thể thấy, ta cũng không cần ngươi” hay không? Có
căi nhau hay không? Nh́n vào bên trong, ngũ tạng, lục phủ,
có phải là hài ḥa hay không? Tự nhiên hài ḥa. V́ thế là thái
ḥa, thân thể của chúng ta là một tiểu vũ trụ,
vũ trụ cô đọng. Mỗi khí quan, thậm chí mỗi
tế bào, quư vị thấy mỗi cái vận hành theo cương
vị của nó, thực hiện viên măn, hợp tác hài ḥa với
toàn thể. Hỗ trợ hợp tác, ḥa thuận, hài ḥa, chẳng
có mảy may xung đột.
Trong thân thể của chúng
ta, có khí quan nào phát sanh xung đột với khí quan khác? Chẳng
có. Tế bào nào phát sanh xung đột với tế bào khác?
Chẳng có! Vốn là hài ḥa. Nếu bất ḥa, sẽ sanh bệnh;
bất ḥa là bệnh tật, hài ḥa là khỏe mạnh, câu này
nhằm nói về đạo lư ấy. “Tâm cảnh lưỡng thù” (Tâm và cảnh hai đằng
sai khác): Giống như các khí quan khác nhau trong thân thể chúng
ta, chúng có h́nh tướng khác nhau, có tác dụng khác nhau, nhưng
như thế nào? Chúng lại là “tuy
hai mà một”. “Bất ngại
tâm cảnh nhi nhất vị” (Chẳng trở ngại tâm
và cảnh là một vị), điều này có nghĩa là ǵ?
Khí quan dẫu nhiều, tuy hai mà chẳng hai, cùng một thân
thể, “nhất vị” là
“cùng một thân thể”. Thân thể chính là “cộng đồng thể” (cái thể chung), là
sanh mạng của tất cả các khí quan, cộng đồng
thể ấy là nhất vị. Nếu quư vị nói rộng
ra, “cộng đồng nhất
vị” của đại vũ trụ chính là ǵ? Pháp Thân!
Pháp Thân là nhất vị; đúng là tâm cảnh chẳng ngại
mà nhất vị!
Pháp Thân là toàn thể, tâm cảnh
là bộ phận, là các khí quan khác nhau! Nói theo phương diện
các khí quan khác nhau, h́nh tướng của các khí quan khác nhau,
tác dụng khác nhau, xác thực là có sai biệt. Sai biệt và
“một Thể” chẳng hai, đó là hài ḥa. Nếu sai biệt
và “một Thể” phát sanh xung đột, loài người sẽ
bị bệnh, địa cầu sanh bệnh, vũ trụ
sanh bệnh. Chúng ta thâm nhập quan sát từ chỗ này, quư
vị sẽ có thể khai trí huệ, cũng có nghĩa là quư
vị có thể thấy thấu suốt. Sau khi đă thấy
thấu suốt, quư vị sẽ có thể buông xuống. Buông
xuống những ǵ? Buông xuống chấp trước, buông
xuống phân biệt, thiên hạ vô sự, thiên hạ thái
b́nh. Tất cả hết thảy mọi chuyện đều
là do đôi bên chẳng buông xuống được, phát
sanh đối lập lẫn nhau, sanh ra sự mâu thuẫn
lẫn nhau, xung đột bèn phát sanh, hoàn toàn là sai lầm. Giữa
con người với nhau, giống như giữa các tế
bào trong một thân thể, có cùng một đạo lư. Giữa
con người và thiên địa vạn vật, cũng có
mối quan hệ hoàn toàn giống như mối quan hệ
giữa các tế bào và toàn thân.
Quan sát ở một mức
độ cao hơn nữa, [chính là] điều thứ sáu...
(Sớ) Do tức Lư chi Sự thâu
nhất thiết pháp, cố tức Chỉ chi Quán diệc
kiến nhất thiết.
(疏)由即理之事收一切法,故即止之觀亦見一切。
(Sớ: Do Sự chính là Lư gồm
thâu hết thảy các pháp, cho nên Quán chính là Chỉ cũng
thấy hết thảy).
Lư là một, Sự có vô lượng.
Lư là ǵ? Pháp Tánh, Sự là pháp tướng. Pháp tướng của
tất cả hết thảy các sự đều là do Pháp
Tánh biến hiện; do vậy, Pháp Tánh có thể gồm thâu
hết thảy các pháp. Trong Phật pháp, Pháp Tánh cũng
thường được gọi là Pháp Thân. “Pháp” là vạn pháp, là hết
thảy các pháp. Do dùng hết thảy các pháp làm thân, nên gọi
là Pháp Thân. Pháp Thân ở chỗ nào? Pháp Thân không chỗ nào chẳng
tồn tại, nó hiện diện khắp nơi. Tất cả
hết thảy các h́nh tướng đều là Pháp Thân. V́
thế, nói đến Pháp Tánh, hoặc nói đến Pháp
Thân, đều gồm thâu hết thảy các pháp. “Cố tức Chỉ chi Quán diệc
kiến nhất thiết” (V́ thế, Quán tức là Chỉ
cũng thấy hết thảy), [Quán] chính là Chỉ v́ tâm đă
định, tâm thanh tịnh. Cái tâm ấy thanh tịnh đến
một mức độ nhất định, tác dụng quán
chiếu sẽ hiện tiền. Giống như nước,
nước đạt đến thanh tịnh, chẳng nổi
sóng, hoàn toàn ở trong trạng huống yên lặng, mặt
nước giống như một tấm gương, soi
chiếu rành rẽ tất cả các hiện tướng
(tướng được biến hiện) bên ngoài, chẳng
sai sót mảy may! Chuyện này giống như “tức Chỉ chi Quán diệc kiến
nhất thiết” vậy!
Những điều này do chính
đức Phật dạy, ở đây, Thanh Lương
đại sư dạy lại chúng ta, hy vọng trong cuộc
sống hằng ngày, khi sáu căn của chúng ta tiếp xúc cảnh
giới sáu trần, sẽ biết xem, sẽ biết nghe, sẽ
có thể lănh hội cảnh giới này. Thật sự biết
xem, biết nghe, sẽ chẳng thể chấp trước,
mà cũng chẳng thể phân biệt. Chẳng phân biệt,
không chấp trước là Chỉ. Nếu quư vị dấy
lên phân biệt, chấp trước, dẫu chân tướng
của vũ trụ bày ra ngay trước mặt, quư vị
vẫn chẳng thấy! V́ sao? Tâm thủy của quư vị
bị xáo động, gợn sóng, cuộn sóng, tác dụng
chiếu kiến bị mất đi. Đạo lư ở chỗ
này.
Kế đến là câu thứ
bảy:
(Sớ) Do thử sự tức thị
bỉ sự, cố linh Chỉ Quán kiến thử tâm tức
thị bỉ tâm.
(疏)由此事即是彼事,故令止觀見此心即是彼心。
(Sớ: Do sự này chính là sự
kia, cho nên khiến cho Chỉ Quán thấy cái tâm này chính là cái
tâm kia).
Mấy câu này chẳng dễ
hiểu, xác thực là có mức độ khá sâu. “Sự này chính là sự kia” là
như thế nào? Cớ sao nói “tâm
này chính là tâm kia”? Tâm tôi và tâm quư vị có giống hệt
nhau hay không? Chẳng giống! Khi có chướng ngại, sẽ
khác nhau. [Bởi lẽ], Lư Sự có chướng ngại, Sự
Sự có chướng ngại. Hễ đạt đến
tứ vô ngại pháp giới, sẽ giống hệt như
nhau! Xác thực là cổ nhân đă thị hiện năng lực
như thế đó. Có một vị đạo nhân gặp
một tú tài. Chàng tú tài đọc văn chương của
ḿnh hết sức đắc ư. Những bài văn ấy do
chàng đă viết lúc đi thi. Đạo nhân rút một
trang giấy từ trong tay áo, đưa cho chàng ta xem. Chàng
ta trông thấy sững sờ, [bài văn ấy] do chàng viết,
đúng y hệt: “Bài văn do tôi viết sao lại ở chỗ
ông?” Đạo nhân nói: “Không chỉ là một bài văn này,
mà những văn tự do ông đă viết suốt một
đời, tôi đều có hết”. Đấy là thị
hiện, thị hiện điều ǵ? Tự và Tha là một,
không hai! Nhà Phật nói Tha Tâm Thông, nay chúng ta “tha tâm bất thông” (chẳng thông hiểu cái tâm của
người khác). Khi đă thật sự thông, người
khác khởi tâm động niệm, chẳng có ǵ mà [người
đă đắc Tha Tâm Thông] không hiểu rơ ràng!
Nói tới lục thần
thông, tức Thiên Nhăn, Thiên Nhĩ, Túc Mạng, Tha Tâm, Thần
Túc, Vô Lậu, nói theo cách diễn tả của các khoa học
gia hiện thời, khởi tâm động niệm là hiện
tượng dao động. Đối với một ao
nước, bất luận chúng ta ở góc nào bên bờ ao,
ném một viên đá nhỏ xuống ao, quư vị sẽ thấy
ao gợn sóng, những gợn sóng sẽ từ từ lan khắp
mặt ao. Một người khác ở bờ bên kia, cũng
ném xuống một viên đá nhỏ, dao động cũng
dần dần thong thả lan khắp cả ao. Chúng ta đă
thấy hiện tượng ấy, [đấy chính là] hiện
tượng dao động. Khởi tâm động niệm
là sóng tư tưởng, nay chúng ta đúng là có chướng
ngại, chẳng thể tiếp nhận luồng sóng tư
tưởng của người khác. Nếu chẳng có
chướng ngại, chúng ta có thể tiếp thu [luồng
sóng tư tưởng của] người khác, người
khác cũng có thể tiếp thu [luồng sóng tư tưởng
của] chúng ta. Như vậy th́ sẽ giống như ở
đây đă nói: “Thử sự
tức thị bỉ sự” (chuyện này chính là chuyện
kia), hiện tượng dao động đấy mà!
V́ thế, Chỉ Quán sẽ
thấy tâm này chính là tâm kia, [v́] là một tâm. Không chỉ tâm
là một, kinh Hoa Nghiêm nói vạn hữu trong vũ trụ là
“tâm hiện, thức biến”.
Tâm là một, mọi người chúng ta đều rất
dễ dàng khẳng định, thừa nhận “tâm là một”,
nhưng nếu bảo quư vị “thức là một”, quư vị
sẽ hoài nghi. Nói đến tâm, tức là chân tâm th́ nó có thể
hiện, duy tâm sở hiện. Nói đến thức th́ thức
là vọng tâm, duy thức sở biến. Y báo và chánh báo trang
nghiêm trong mười pháp giới do đâu mà có? Duy thức
sở biến. Mỗi pháp giới khác nhau, mười pháp
giới khác nhau. Tâm tưởng của chúng sanh trong mười
pháp giới khác nhau, kinh Đại Thừa đă nói về điều
này rất nhiều. “Hết thảy
các pháp sanh từ tâm tưởng”, khác nhau! Nhưng kinh Đại
Thừa lại dạy: “Đồng
phận kiến vọng, biệt nghiệp kiến vọng”,
nghĩa là chúng ta trong hiện tiền, trong thời khắc
này, cùng được làm thân người, cùng cư trụ
một chỗ, đó là “đồng
phận”, c̣n biệt nghiệp th́ sao? Đương nhiên
là đồng phận và biệt nghiệp đều có. Cảnh
giới hiện tiền có phải do tâm tôi hiện ra hay không?
Hay là do tâm quư vị hiện? Bọn chúng ta rất đông,
mỗi người chúng ta ai nấy có thức biến riêng,
hay là chúng ta có cùng chung một cái thức biến ra? Nếu
quư vị tham cứu thấu đạt chuyện này, quư vị
sẽ hiểu rơ “chuyện này,
chuyện kia” ở đây!
Như thế nào th́ mới có
thể tham cứu thấu đạt? Đương nhiên
là do Thiền Định rất sâu, trí huệ rất sâu. Định
sanh Huệ, Huệ mới có thể thấy được.
V́ thế, Định chỉ có thể chế phục Hoặc,
c̣n Huệ có thể chuyển Hoặc, chuyển mê thành ngộ,
chuyển Hoặc thành trí. Trí có thể chế phục, Huệ
có thể hóa giải, Quán chính là hóa giải. Do vậy, phải
chế phục cái tâm, sau đấy, dần dần trí sẽ
hiện tiền, sẽ hóa giải. Trong phần trước,
tôi đă từng nói những điều này, ứng dụng
ngay trong hằng ngày, khi tu hành nhập môn th́ hăy nên dùng Chỉ
trước, sau đấy sẽ dùng Quán.
Chuyện này và chuyện kia là
một chuyện, tâm này và tâm kia là một tâm. Chân tâm là một,
vọng tâm cũng là một. Chân tâm đă là một, làm sao có
thể có nhiều vọng tâm cho được? Kinh Hoa
Nghiêm nói hay lắm, “một chính
là nhiều, nhiều chính là một, một và nhiều chẳng
hai”. Chúng ta phải tham cứu đạo lư này dần dần,
chớ nên tư duy, chớ nên suy đoán, chẳng thêm vào mảy
may phân biệt, chấp trước, không khởi tâm, chẳng
động niệm, vấn đề này sẽ được
giải quyết. Nếu c̣n có khởi tâm động niệm,
sẽ chẳng thể giải quyết vấn đề này,
nghi vấn này sẽ tồn tại. Khi nào chẳng khởi
tâm, chẳng động niệm, mới thật sự trở
về cảnh giới “vạn
pháp chính là một, một chính là vạn pháp, một chính là nhiều,
nhiều chính là một”, mới có thể trở về cảnh
giới này. Trong kinh, đức Phật thường nói là “tịnh cực quang thông”.
Kế tiếp là câu thứ tám:
(Sớ) Do tiền trung, lục tắc
nhất đa tương nhập nhi phi nhất.
(疏)由前中,六則一多相入而非一。
(Sớ: Do những điều
trên đây, điều thứ sáu chính là một và nhiều
dung nhập lẫn nhau, chẳng phải là một).
Điều thứ sáu chính là
“tức Lư chi Sự thâu nhất
thiết pháp, cố tức Chỉ chi Quán diệc kiến
nhất thiết” (Sự tức Lư gồm thâu hết thảy
pháp, v́ thế, Quán chính là Chỉ cũng thấy hết thảy).
Điều thứ sáu chính là môn “nhất
đa tương nhập, nhi phi nhất” (một và nhiều
dung nhập lẫn nhau, chẳng phải là một).
Điều thứ bảy “do thử sự tức thị bỉ
sự, cố linh Chỉ Quán kiến thử tâm tức thị
bỉ tâm” (do chuyện này chính là chuyện kia, nên khiến
cho Chỉ Quán thấy tâm này chính là tâm kia). Đấy chính là
“nhất đa tương tức”
(một chính là nhiều, nhiều chính là một). Ở chỗ
này, dùng chữ Thị (是, là) cũng được. Trong kinh luận, thường
dùng “nhất đa tương
tức nhi phi dị” (một và nhiều chính là lẫn
nhau, nhưng chẳng phải là khác). Một chính là nhiều,
nhiều chính là một.
(Sớ) Thử nhị bất nhị,
đồng nhất pháp giới Chỉ Quán vô nhị chi trí,
đốn kiến tức nhập nhị môn, đồng
nhất pháp giới nhi vô tán động.
(疏)此二不二,同一法界止觀無二之智,頓見即入二門,同一法界而無散動。
(Sớ: Hai điều ấy
chẳng hai, cùng là một trí bất nhị Chỉ Quán pháp
giới, nhanh chóng thấy hai môn tương tức và tương
nhập, cùng một pháp giới mà chẳng tán loạn, dao
động).
Cảnh giới này tối
thiểu là cảnh giới của Sơ Trụ Bồ Tát
trong Viên Giáo, phá một phẩm vô minh, thấy một phần
Pháp Thân, sẽ nhập cảnh giới này. Một tức
là nhiều, nhiều tức là một, một và nhiều
dung nhập lẫn nhau mà chẳng phải là một, một
và nhiều chính là lẫn nhau mà chẳng phải là khác. V́ thế,
chẳng phải là một, chẳng phải
là khác, chẳng thể nói là một, chẳng thể nói là
nhiều. V́ sao? Chúng ta hăy suy ngẫm câu nói của pháp sư
Huệ Năng trong Đàn Kinh: “Một
và nhiều là hai pháp, hai pháp chẳng phải là Phật pháp.
Phật pháp là pháp bất nhị”. “Chẳng phải
một, chẳng phải khác” th́ là hai pháp. Hai pháp th́ chẳng
phải là Phật pháp. Hai điều ấy chẳng hai. V́
sao là chẳng hai? Cùng một pháp giới.
Nay chúng tôi nêu tỷ dụ
để nói. Mắt chẳng phải là tai, tai chẳng phải
là mắt, mắt và tai là hai pháp. Tuy là hai pháp, nhưng như
thế nào? Cùng ở trong một thân, giống như cùng một
pháp giới. Quư vị nói nó là hai, hay nói nó là một? Cùng một
pháp giới mà! V́ thế, nói theo thân thể con người,
một và nhiều đều chẳng có, cùng một Pháp
Thân! Ở đây, chúng ta tỷ dụ Pháp Thân như pháp giới,
quư vị sẽ thấy dễ hiểu. Gạt bỏ toàn
thể, chẳng nói đến nữa, chỉ nói cục bộ
th́ có thể nói: ‘Mắt và tai là hai pháp, chẳng phải là một
pháp’. Nói theo toàn thể, sẽ là chẳng hai, cùng một pháp
giới. “Chỉ Quán vô nhị”,
đấy mới là Trí. Chỉ là Căn Bản Trí, Quán là Hậu
Đắc Trí. Chỉ là nói theo Thể, Quán là nói theo Dụng.
Chỉ là đối với tâm tánh, tâm tánh chẳng sanh một
niệm, Quán là đối với ngoại cảnh. Trong phần
trước, chúng tôi đă nói cổ nhân dùng mặt gương
để tỷ dụ, dùng gương đồng, tỷ
dụ ấy hay lắm. “Chỉ” giống như mài gương,
Quán là như gương sau khi đă mài kỹ, bèn tỏa sáng,
có thể chiếu. Nói theo sự năng chiếu th́ là Quán;
xét theo phương diện nó sạch bong, chẳng nhiễm
mảy trần, th́ gọi là Chỉ. Chỉ và Quán là một,
không hai. Chỉ Quán là trí không hai. “Đốn
kiến tức nhập nhị môn” (Nhanh chóng thấy hai
môn tương tức và tương nhập). Do cùng một
pháp giới, quư vị sẽ nhập pháp môn Bất Nhị,
hai môn mà chẳng hai, cùng một pháp giới! Chỉ bất
động th́ Quán có bao giờ dao động? “Đồng nhất pháp giới
nhi vô tán động” (Cùng một pháp giới, nhưng chẳng
tán loạn, dao động), trong kinh Đại Thừa,
đức Phật đă nói đến cảnh giới này.
Các hiện tượng trong
toàn thể vũ trụ là lặng lẽ. Do quán chiếu
tinh vi, tỉ mỉ những hiện tượng ấy,
đức Phật đă dạy: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”.
Do cái tâm của chúng ta động, nên thấy cảnh giới
bên ngoài là động. Tâm chúng ta tĩnh, sẽ thấy cảnh
giới bên ngoài tĩnh lặng, cảnh chuyển theo tâm mà!
Kinh Lăng Nghiêm có nói: “Nếu
có thể chuyển cảnh, ắt giống như Như
Lai”. Tâm bọn phàm phu chúng ta là động, cho nên thấy
toàn thể vũ trụ đều là động. Tâm Như
Lai tĩnh lặng, cho nên trong cảnh giới của Như
Lai, muôn pháp đều tĩnh lặng, tướng tịch
diệt thanh tịnh! Từ những hiện tượng ấy,
chúng ta có thể lănh hội: Các tướng được
biến hiện bên ngoài đều chẳng thật. [Nếu
là] thật, làm sao có thể chuyển biến theo ư niệm
của chúng ta được? Chúng chẳng thật! Đó
là huyễn tướng, tức là Diệu Hữu! Diệu Hữu
chẳng phải là Có, Chân Không chẳng phải là Không, thể
nghiệm từ chỗ này, sẽ có thể lănh hội.
Nói cách khác, chỉ có Thiền
Định rất sâu, trí huệ rất sâu, mới có thể
thấy chân tướng của vũ trụ. Chân tướng
là ǵ? Cùng một pháp giới. Đúng như các kinh Đại
Thừa thường nói: “Mười
phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân, một
tâm, một trí huệ”, trong phần trước, chúng ta đă
từng đọc: “Một tâm,
một trí huệ, lực vô úy cũng thế”. Trong cảnh
giới ấy, há có Tự hay Tha? V́ thế, có thể biết:
Do đâu mà có Tự và Tha? Do từ phân biệt, chấp
trước. Ĺa khỏi vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, Tự và Tha đều chẳng có, đối
lập chẳng có, mâu thuẫn chẳng có, chúng ta lănh hội
từ chỗ này! Sau khi đă lănh hội, sẽ thực hiện
từ chỗ nào? Học tập như thế nào? Phải buông
xuống sự đối lập với người khác, đối
lập với vật, đối lập với sự (sự
th́ có chuyện thích làm, có chuyện chẳng thích làm) trong cái
tâm của chính ḿnh, buông xuống sự chấp trước
về đối lập, buông xuống sự phân biệt về
đối lập. Dần dần, chúng ta có thể “nhi vô tán động” (chẳng
tán loạn, dao động), trở về pháp giới. Pháp
giới là bản tánh vốn lành.
Lại xem câu thứ chín kế
đó:
(Sớ) Do Sự tắc trùng trùng
vô tận, Chỉ Quán diệc phổ nhăn tề chiếu.
(疏)由事則重重無盡,止觀亦普眼齊照。
(Sớ: Do Sự là trùng trùng vô
tận, Chỉ Quán cũng là phổ nhăn đều cùng chiếu).
Nói theo Sự, Sự là trùng
trùng vô tận, vô lượng, vô biên. Chúng ta thường nói
là “y báo và chánh báo trang nghiêm trong
mười pháp giới”; ở đây, chỉ nói tới
thế giới Sa Bà. Một đại thế giới, [xét
theo] thế giới Hoa Tạng, thế giới Hoa Tạng
có hai mươi tầng, Sa Bà và Cực Lạc đều
thuộc tầng thứ mười ba. Trong thế giới
Hoa Tạng, có bao nhiêu đại thế giới? Đại
thế giới là cơi hóa độ của chư Phật, trùng
trùng vô tận. Hai chữ “trùng
trùng” tuyệt diệu thay! Nếu chúng ta chưa đọc
kinh Hoa Nghiêm, sẽ chẳng cảm nhận ư vị của
hai chữ ấy! Phần kinh văn phía trước đă
dạy cho chúng ta biết một chân tướng sự thật:
Lớn và nhỏ chẳng hai!
Nay chúng ta nói “lớn là thế giới, nhỏ là vi trần”, lớn
và nhỏ chẳng hai. Trong thế giới có vi trần, chẳng
biết là có bao nhiêu. Trong vi trần có thế giới, cũng
chẳng biết là có bao nhiêu. Trong thế giới có vô tận
vô số vi trần, chúng ta hiểu [chuyện này] dễ dàng.
Trong vi trần cũng có vô tận vô số thế giới,
chúng ta chẳng hiểu. Nhưng chuyện này chẳng khó hiểu,
quư vị chỉ chú tâm suy tưởng, thế giới trong
vi trần và thế giới như nay chúng ta đang thấy
to như nhau! Thế giới trong vi trần chẳng phóng
to, thế giới của chúng ta chẳng rút nhỏ. Ai có thể
vào thế giới trong vi trần? Kinh Hoa Nghiêm đă dạy:
Phổ Hiền Bồ Tát có thể vào. Nếu chúng ta hỏi
Ngài: Thế giới trong vi trần c̣n có vi trần hay không? Đương
nhiên là có! Vô tận vô số vi trần. Trong mỗi vi trần
thuộc vô tận vô số vi trần ấy, có thế giới
hay không? Có thể có! Trùng trùng vô tận mà! Thế giới
trùng trùng vô tận, Lư Sự trùng trùng vô tận.
V́ thế, Chỉ Quán cũng
“phổ nhăn tề chiếu”
giống như vậy! Ai có thể chiếu trùng trùng vô tận
thế giới? Phổ nhăn th́ có thể chiếu. Ai có phổ
nhăn? Chư Phật Như Lai và bậc đại Bồ Tát
có phổ nhăn, thường nói là Địa Thượng Bồ
Tát. Nếu dựa theo cách nói trong kinh Hoa Nghiêm, vị Phổ
Hiền ấy chính là Đương Vị Phổ Hiền,
tức là bậc Đẳng Giác Bồ Tát. Đẳng Giác
Bồ Tát phổ nhăn tề chiếu, chúng ta tin tưởng,
chẳng nghi hoặc chuyện này. Mở rộng giới hạn
một chút, nới lỏng một chút, bậc Địa
Thượng Bồ Tát, tức là hàng Bồ Tát từ Sơ
Địa trở lên, hoặc nếu chúng ta nói cẩn thận
hơn một chút, [sẽ là] từ Thất Địa trở
lên, chúng ta có thể tin tưởng điều này. Kinh Hoa
Nghiêm gọi cảnh giới “phổ
nhăn tề chiếu” là “bất
tư nghị giải thoát cảnh giới”. Cảnh giới
bất tư nghị giải thoát rất khó hiểu, nhưng
từ một câu ở đây, nếu quư vị chú tâm lănh hội,
tuy chẳng hiểu rơ, sẽ có thể hiểu đôi chút.
Bởi lẽ, trí huệ và đức năng của con người
chẳng thể nghĩ bàn. Trí huệ và đức năng vốn
sẵn có trong tự tánh chẳng thể nghĩ bàn. Hôm nay đă
hết thời gian rồi, chúng tôi nói tới chỗ này.
Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 9 hết
[1] Đại Học
là một chương sách rút ra từ sách Lễ Kư bao gồm
những lời chú thích của Tăng Sâm đối với
một đoạn lời dạy của Khổng Tử.
Trung Dung là một chương sách khác rút ra từ Lễ Kư,
bao gồm những lời giảng giải của Tử
Tư (cháu nội Khổng Tử). Luận Ngữ là tuyển
tập các lời dạy của Khổng Tử, sách Mạnh
Tử là tuyển tập các lời dạy của Mạnh Tử.