Trung Phong Tam Thời Hệ
Niệm
Pháp Sự Toàn Tập Giảng
Kư,
phần 5
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh
Không
Giảng tại: Tịnh Tông Học
Viện Úc Châu
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Tập 13
Trong phần Y Báo giảng
đến:
Kỳ quốc chúng sanh vô hữu
chúng khổ, đản thọ chư lạc. Cố danh Cực
Lạc.
其國眾生。無有眾苦。但受諸樂。故名極樂。
(Chúng sanh trong cơi ấy không có
các nỗi khổ, chỉ hưởng các sự vui, nên có
tên là Cực Lạc).
Loại thứ nhất trong “chúng khổ” (các khổ) là
Khổ Khổ. Trong Khổ Khổ có tám thứ: Sanh, lăo,
bệnh, tử, cầu bất đắc, ái biệt ly, oán
tắng hội – bảy thứ này là quả báo của
Khổ; nỗi khổ cuối cùng là nói tổng quát,
khổ rốt cuộc từ đâu có? Đức Phật
dạy: Ngũ Ấm Xí Thạnh (năm Ấm hừng hực).
Ngũ Ấm là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Sắc là vật chất, thân thể của chúng ta là
một phần vật chất thuộc về Sắc, [thân
thể thuộc] Sắc pháp. Nay ta gọi Tưởng,
Thọ, Hành, Thức là “tinh thần”. Tất cả hết
thảy động vật, chúng ta gọi là “hữu t́nh
chúng sanh”, đều là thân Ngũ Ấm. Nói cách khác, sanh
mạng là do tinh thần và vật chất tổ hợp
thành. Vật chất là nhục thể (cái thân xác thịt);
v́ thế, phải gánh chịu sanh - lăo - bệnh - tử;
nơi tinh thần luôn phải hứng chịu những
nỗi khổ cầu bất đắc (cầu chẳng
được), ái biệt ly (thương yêu mà bị chia
ĺa), oán tắng hội (chán ghét mà cứ phải gặp
gỡ).
Thọ - Tưởng - Hành - Thức,
Thức là thân nhân duyên của hết thảy khổ.
Phật pháp nói trong A Lại Da Thức chứa đựng
các chủng tử tập khí, những chủng tử
ấy là thân nhân duyên của hết thảy khổ, vui.
Tưởng, Hành là Sở Duyên Duyên, là Vô Gián Duyên[1].
Thọ (受) là quả báo, Thọ là ǵ? Quư vị
cảm nhận, chịu khổ, chịu vui. Quư vị gây
tạo thiện duyên, thiện nhân, bèn có lạc thọ. Nếu
tạo tác ác nhân, ác duyên, những ǵ quư vị cảm
nhận là khổ thọ. Toàn bộ tam giới chẳng ra
khỏi định luật này. Nói thật ra, bọn phàm
phu chúng ta chẳng biết đến đạo lư này, đâu
có hiểu trong thế gian có chuyện này. Đức
Phật xuất hiện trong thế gian nói cho chúng ta biết
chân tướng của nhân sanh.
Thực sự hiểu rơ chân
tướng sự thật này, chúng ta mới ḥng
được cứu, mới biết ḿnh phải nên làm
ǵ. Hết thảy chúng sanh dù thọ sanh trong
đường nào, cũng đều có nhân duyên. Phật
pháp gọi cái dẫn ta đi đầu thai trong một
đường nào là “dẫn nghiệp”. Nghiệp lực
làm chủ tể, tự ḿnh chẳng làm chủ
được, nghiệp lực lôi ta đi. Nhất
định phải hiểu sự việc này! Phật,
Bồ Tát chẳng thể làm chủ cho chúng ta;
Thượng Đế, vua Diêm La cũng chẳng thể
làm chủ cho ta. Ai làm chủ tể? Nghiệp lực làm
chủ tể, nghiệp chướng lôi ta đi!
Quư vị sanh vào nhân đạo,
rốt cuộc là do nghiệp lực ǵ? Đức Phật
dạy chúng ta: Trong đời trước, ta đă
từng tu Ngũ Giới, Thập Thiện. Nghiệp
lực Ngũ Giới, Thập Thiện dẫn ta
đầu thai vào nhân đạo. Sanh vào thiên đạo là
thượng phẩm Thập Thiện, lại c̣n phải
có Tứ Vô Lượng Tâm: Từ - Bi - Hỷ - Xả; tu
thượng phẩm Thập Thiện, do nghiệp lực
ấy lôi kéo, sanh vào Dục Giới thiên. Dưới đó là
ba ác đạo. Tâm tham không chán, nghiệp lực ấy
dẫn sanh vào đường ngạ quỷ, quỷ tham
lam! Tâm sân khuể dẫn vào đường địa
ngục, ngu si dẫn vào đường súc sanh. Đó là
dẫn nghiệp, dẫn quư vị sanh vào một
đường nào đó.
Sanh vào một đường
nào đó xong, hiện nay trên thế giới này có gần
bảy mươi ức người, những
người ấy sanh vào địa cầu này đều
được mang thân người. Nói cách khác, trong
đời quá khứ họ từng đă tu Ngũ
Giới, Thập Thiện, đời này được
thân người; nhưng được làm thân
người rồi, ngay trong một đời này, có
người hưởng thụ vinh hoa phú quư, có
người cả đời chịu khổ thọ
nạn, bần cùng, hèn hạ, là do nguyên nhân ǵ? Đức Phật
gọi đó là “măn nghiệp”. Nghiệp có hai thứ:
1) Một là dẫn nghiệp, dẫn quư
vị sanh vào một con đường nào đó.
2) Măn nghiệp là t́nh trạng cuộc
sống của một đời trong đường
đó, tức cuộc sống tinh thần và cuộc
sống vật chất của quư vị. Đó là ǵ?
Phật pháp nói là do quư vị tu phước hay tạo
nghiệp trong quá khứ.
Điều trọng yếu nhất trong
việc tu phước là Bố Thí; bởi thế, bố
thí chẳng bị thiệt tḥi. Trong đời quá khứ,
quư vị thường thích tu Tài Bố Thí, trong một
đời này sẽ được giàu có. Nói cách khác, nhất
định được hưởng cuộc sống
vật chất rất tốt, nhưng chưa chắc quư
vị thông minh, trí huệ. Thật đấy! Chúng ta
thấy trong thế gian này có rất nhiều chủ xí
nghiệp rất giàu có, thậm chí c̣n chưa học
đến Trung Học, chỉ học xong Tiểu Học, hoặc
tốt nghiệp Sơ Trung (cấp 2, Trung Học Đệ
Nhất Cấp), nắm giữ gia tài ức vạn. Trong kinh,
đức Phật giảng đó là do trong quá khứ tu
phước nhưng không tu huệ, tức là tu Tài Bố
Thí, chẳng biết tu Pháp Bố Thí. Có của cải,
nhưng không thông minh, trí huệ.
Loại người thứ hai thông minh,
trí huệ tót vời, nhưng chẳng có của cải ǵ,
đời sống vật chất khá gian nan. Tôi thấy
rất nhiều, các giáo sư đấy! Tiên sinh
Phương Đông Mỹ, tiên sinh Hồ Thu Vân đúng là
thông minh tuyệt đỉnh, có đại trí huệ,
nhưng chẳng có của cải ǵ. Phần lớn,
một bộ sách họ không có tiền mua, phải sống
nhờ dạy học, suốt đời phải dạy
học, lănh một chút lương tháng hay lương
giờ. Trong kinh Phật nói những vị ấy trong quá
khứ chỉ chú trọng Pháp Bố Thí, coi thường
Tài Bố Thí. Bởi thế, đức Phật dạy
chúng ta phải nỗ lực tu tập cả hai thứ
bố thí, tu phước và tu huệ th́ quả báo mới
viên măn.
Phước huệ song tu, phước
là Tài Bố Thí, huệ là Pháp Bố Thí; đương nhiên
trong ấy cũng bao gồm Vô Úy bố thí. Thương xót
chúng sanh khổ nạn, tùy thời giúp đỡ chúng sanh
khổ nạn, sẽ được quả báo mạnh
khỏe sống lâu. Nếu từ kinh điển, quư
vị tham cứu thấu suốt đạo lư này, sau
đó lắng ḷng quan sát những người chung quanh ta,
quư vị sẽ thấy rất rành rẽ, sẽ tự
biết một đời này ḿnh phải nên làm ǵ.
Học Phật, quư vị noi theo
Phật, lúc chúng ta niệm Tam Quy Y: “Quy y Phật, nhị túc tôn”. Nhị là hai sự
việc, hai sự ǵ? Phước và Huệ. Túc (足) là trọn đủ, là viên măn. Đức
Phật viên măn cả Phước lẫn Huệ. Tôn (尊) là tôn kính, tôn trọng, tôn quư. So với hết
thảy người xuất thế gian và thế gian,
Phật phước huệ bậc nhất, không có thể
sánh bằng Phật. V́ thế, Phật là “phước
huệ nhị túc tôn”. Từ vô lượng kiếp đến
nay, đức Phật tu phước, tu huệ. Thích Ca Mâu
Ni Phật một đời dạy học suốt bốn
mươi chín năm. Dường như chúng ta chẳng
thấy trong kinh nói đức Phật Thích Ca Mâu Ni Phật
bố thí tài vật lớn lao chi cả! Thích Ca Mâu Ni
Phật đă xuất gia, toàn bộ tài sản chỉ là ba
y một bát, tay chẳng cầm đến tiền, mỗi
ngày khất thực, người ta cúng dường chỉ
một bát cơm, chẳng cúng dường tài vật. “Phật
không tu Tài Bố Thí”, nếu quư vị thấy như
vậy là đă thấy trật rồi!
Tài có nội tài, có ngoại tài. Ngoại tài
là vật ngoài thân, tiền tài là vật ngoài thân! Nay chúng tôi
nói đến Tài Bố Thí, mọi người đều
nghĩ đến ngoại tài, chẳng nghĩ đến
nội tài. Nội tài là ǵ? Thân thể! Thân thể là nội
tài, nay chúng ta gọi là “nghĩa công” (làm công quả, làm
việc thiện nguyện - volunteer). Chúng ta phục vụ
người khác chẳng cần báo đáp, hoàn toàn là
nghĩa vụ. Dùng ǵ? Dùng chính thân ta để bố thí,
dùng sức lực và thời gian của ḿnh, đó gọi
là “nội tài”. So với ngoại tài, bố thí nội tài được
phước c̣n lớn hơn nhiều. Ngoại tài: Quư
vị có tiền bố thí một chút, đúng là không
đáng kể ǵ, không phải nhọc ḷng, chẳng phải
mệt sức. Bởi thế, lao tâm lao lực thuộc
về Nội Tài bố thí, Tài Bố Thí đấy!
Quư vị thấy Thích Ca Mâu Ni Phật hằng
ngày dạy học, dạy dỗ, giảng kinh, thuyết
pháp, nội dung là pháp, dùng thân thể biểu diễn cho
đại chúng xem, miệng v́ đại chúng giải thích,
thuyết minh tường tận. Trong khi dạy học, có
đủ cả ba thứ bố thí. Tài Bố Thí (nội
tài bố thí), đức Phật biểu diễn nhất
cử nhất động đều nhằm khải phát sự
giác ngộ cho chúng sanh, mỗi câu mỗi chữ trong ngôn
ngữ hoàn toàn là Pháp Bố Thí, khuyên mọi người
đoạn ác tu thiện, khuyên mọi người phá mê
khai ngộ; đấy chính là Vô Úy Bố Thí.
Đức Phật suốt đời
giáo hóa chúng sanh, chẳng lấy học phí của
người đời, chẳng yêu cầu người
khác cúng dường, Ngài là tấm gương tốt
nhất cho chúng ta. Bởi vậy, tu phước, tu
huệ, tu trường thọ như thế đều
trọn vẹn. Phàm phu chẳng biết bỏ ḿnh v́
người khác, chẳng biết tu ba thứ bố thí. V́
vậy, mạng vận khuyết tài, khuyết trí huệ,
lại c̣n bị quả báo đoản mạng. Quả báo
đoản mạng là do đâu? Trong kinh, đức
Phật thường nói là do sát sanh hại mạng. V́
thế, Ngũ Giới dạy rất rơ rệt: Chẳng
sát sanh! Chẳng giết sẽ được khỏe
mạnh, sống lâu; quả báo là trường thọ,
khỏe mạnh; chẳng trộm cắp, được
giàu có lớn; chẳng dâm, được đoan nghiêm,
tướng mạo trang nghiêm; chẳng uống
rượu, được trí huệ, không mê hoặc, không
điên đảo; chẳng vọng ngữ,
được tin cậy, lời nói được
nhiều người tin tưởng, học theo.
Mỗi một
khoa mục tu học đều có quả báo thù
thắng. Phàm phu
chẳng
hiểu đạo lư này, chẳng hiểu chân tướng
sự thật, cứ mê hoặc, điên đảo.
Những chủng tử trong A Lại Da Thức, chủng
tử thiện chẳng hiện hành, chủng tử ác
khởi hiện. V́ sao? Do gặp duyên, nghĩ đến ư
niệm chẳng thiện! Hành vi chẳng lành, làm sao được
hưởng vui ư? Tư tưởng chẳng lành, hành vi
chẳng lành, nhất định phải chịu khổ,
chẳng được vui. “Ngũ Ấm Xí Thạnh
Khổ”. Phiền năo nơi thân tâm bức bách quư vị,
hiện thời gọi là “bị áp lực”, đó là
Khổ Khổ.
Loại lớn thứ hai là Hoại
Khổ. Đức Phật dùng sự kiện này để
cảnh cáo chúng ta: Dẫu cho măn nghiệp của quư vị khá
lắm, trong đời quá khứ tu được chút
thiện nghiệp, trong một đời hiện tại
này có địa vị, có quyền lực, có quyền
thế, có của cải, măn nghiệp tốt, sung
sướng nhỉ! Nhưng quư vị có nghĩ tới lời
cổ nhân nói: “Lạc cực
sanh bi” hay chăng? Niềm vui đạt đến cùng
cực sẽ khó ǵn giữ, “bất
cửu trụ cố” (chẳng tồn tại lâu dài), “lạc thị Hoại Khổ” (lạc
là Hoại Khổ). V́ sao vậy? Vui đến mức cùng
cực, bèn có biến hóa, khổ bèn xảy ra. Chúng ta
thường nói là “lạc
cực sanh bi”. Cổ nhân nói rất hay, nói cũng
nhiều, nhưng mọi người nghe qua rồi thôi,
chẳng lưu tâm, thường hay không chú ư, coi
thường, lúc hưởng lạc bèn tạo ác
nghiệp.
Đừng nói ǵ khác, người
đời coi những ǵ là vui? Nói chung, chẳng ngoài tài,
sắc, danh, ăn uống, ngủ nghê; những
điều này dễ khiến tâm tham phát khởi nhất.
Nhất là sắc dục và thực dục, ham ăn ngon!
Thích ăn ngon chẳng tránh khỏi sát sanh. Quư vị sát
hại chúng sanh, ăn thịt chúng nó, lúc đó cảm
thấy rất sướng, có nghĩ trong tương lai sẽ
phải đền nợ hay không? Những lời đức
Phật nói trong kinh điển đều là sự
thật. Người chết thành dê, dê chết thành
người, ăn nuốt lẫn nhau, oan oan tương
báo. Mang thân dê là do nghiệp chẳng lành, gặp phải
duyên không lành, đọa làm thân súc sanh. Hôm nay gặp
phải quư vị, quư vị ăn nó, nó chẳng cam tâm t́nh
nguyện cho quư vị ăn thịt. Hiện tại, chúng
tôi thường nghe có kẻ nói: “Nhược
nhục cường thực, thích giả sanh tồn” (Mạnh
ăn thịt yếu là hợp lẽ sanh tồn). Hai câu này
khiến hết thảy chúng sanh lầm lạc. Ai thốt
ra câu ấy phải chịu trách nhiệm nhân quả. Hai câu
ấy là sai lầm. Nếu làm theo hai câu ấy, quư vị
phải hiểu là c̣n hai câu tiếp theo nữa, nhưng quư
vị không biết. Hai câu sau đó là ǵ? “Oan oan tương báo, chẳng lúc nào xong”. Nếu
quư vị niệm cả bốn câu ấy, tâm tỉnh giác
sẽ được nâng cao; chứ lúc quả báo hiện
tiền mới hối th́ chẳng kịp nữa.
Ấn Quang đại sư lăo nhân gia
suốt đời giáo hóa chúng sanh, Ngài hết sức coi
trọng nhân quả báo ứng. Nói đến nhân quả báo
ứng, Ngài luôn nhắc đến An Sĩ Toàn Thư, [khen
sách đó] giảng nhân quả báo ứng rất thấu
triệt, giảng rơ ràng nhất. Kế tiếp, Ngài c̣n
giới thiệu, khuyên người ta nhất định
phải đọc Cảm Ứng Thiên Vựng Biên.
Đại sư khuyên người đời đọc
hai cuốn sách ấy. Sự t́nh nhân quả báo ứng thiên
chân vạn xác (ngàn phần đúng, vạn phần chính xác),
quư vị phải lắng ḷng quan sát sẽ thấy nhân
quả báo ứng luôn hiển hiện sống động
quanh chúng ta. Những kẻ mê hoặc, điên đảo
không nhận thấy, hết sức đáng sợ, hết
sức kinh hăi. V́ thế, người giác ngộ,
người hiểu rơ ràng, có đại phước báo, có
đại quyền thế th́ có chịu hưởng
chăng? Không hưởng ǵ!
Tiên sinh Phạm Trọng Yêm là
người được Ấn Quang đại sư
bội phục nhất. Ông ta là người đời
Tống, làm Tể Tướng, từng làm Nguyên Soái,
đúng là “xuất tướng, nhập tướng”[2],
đại phú, đại quư. Cuộc sống thường
ngày trong nhà ông hết sức đơn giản, chất
phác. Ông đem tiền tài nuôi sống những gia đ́nh
bần cùng khốn khổ, hơn ba trăm gia đ́nh! Nói
như bây giờ là “sự nghiệp từ thiện”, ông ta làm
việc đó. Chúng ta thấy trong sách Liễu Phàm Tứ
Huấn, tiên sinh Liễu Phàm làm tri huyện Bảo Tŕ, thâu
nhập khá dư giả, nhưng cuộc sống cũng
rất đơn giản, tiết kiệm, dùng tiền
của dư ra để giúp người nghèo cùng.
Qua sách ấy, chúng ta thấy
một điều: Trời mùa Đông, vợ ông ta cho con
mặc áo bông do chính tay bà ta may, chứ không thuê người
ngoài làm để đỡ tốn tiền một chút. Thấy
vợ dùng bông vải[3]
để may áo bông, tiên sinh Liễu Phàm hỏi: “Nhà ḿnh có
bông sợi rất nhiều, sao không dùng bông sợi mà lại dùng bông vải?” Bà vợ
đáp: “Bông sợi bán hết rồi, bông sợi đắt
tiền, bông vải rẻ hơn. Em bán bông sợi, mua thêm một
tấm bông vải nữa, con có áo mặc, lại c̣n có
thể may áo cho người nghèo mặc”. Quư vị
thấy bà ta ôm tấm ḷng ǵ? Niệm niệm nghĩ
đến người khổ trong thế gian rất
nhiều, niệm niệm nghĩ giúp đỡ những
người đó. Tâm ấy chẳng tầm thường!
Giúp người khác chẳng cầu báo đáp; quư vị
giúp những người nghèo cùng, họ có báo đáp
được chăng? Không thể được!
Chẳng cầu báo đáp, tích phước đức
lớn lao!
Thời thời khắc
khắc, niệm niệm đều nghĩ đến
người khổ sở trong thế gian, xưa nay
những ai đọc sách hiểu lư giác ngộ không ai
chẳng vậy. Bởi thế nhà họ Phạm, tiên sinh
Phạm Trọng Yêm một đời tích được
phước đức lớn lao, măi cho đến
hiện tại, con cháu gia đ́nh ở Tô Châu đều khá.
Suốt đời Ấn Quang đại sư tôn kính
Khổng lăo phu tử nhất, kế đó là Phạm
Trọng Yêm; khi giảng kinh, thuyết pháp, Sư thường
nhắc đến. Họ đều là những tấm
gương, là khuôn thước cho chúng ta.
Nay chúng ta hiểu rơ:
Hưởng thụ lớn nhất trong đời
người là ǵ? Đọc sách. Thiện sự lớn
nhất là “giảng học”. Đọc sách thánh hiền,
truyền cái đạo của thánh hiền, đấy là
sự nghiệp thế gian bậc nhất, không có ǵ thù thắng
bằng! Nhưng không phải ai cũng có duyên ấy, chúng
ta phải hiểu, phải nhận thức rơ ràng. Thực
sự hiểu biết rơ ràng, quư vị sẽ nỗ
lực tích cực giống như cổ nhân, dũng mănh
tinh tấn, chẳng buông lung.
Nghiêm túc đọc sách th́
phải ghi bút kư, đó là ǵ? Là thành tích mỗi ngày. Nội
dung bút kư có thể chia thành hai bộ phận lớn:
Một bộ phận là trích yếu những câu kinh điển
trọng yếu. Kinh điển quá dài chẳng dễ ǵ
nhớ, nhưng những câu trọng yếu nhất phải
ghi vào bút kư để đọc cho nhuần. Phần
thứ hai là tâm đắc, cảm tưởng. Mỗi ngày
quư vị chỉ cần ghi hai loại này. Lâu ngày chầy
tháng nghiêm túc nỗ lực làm như vậy, dăm ba
năm sẽ đổi khác, không giống như cũ
nữa. Giống như đi học trong trường,
phải ghi bút kư, phải viết báo cáo; trên đại
học phải viết luận văn, quư vị phải
làm thực sự! Nếu chẳng làm theo cách này, cứ
hằng ngày nghe, nghe bao nhiêu năm nhưng cái ǵ cũng không
biết. Nghe tai này lọt qua tai khác; bởi thế, lâu ngày
chầy tháng chẳng thâu thập được ǵ,
chẳng bằng chất phác niệm Phật! Quư vị
nghĩ xem có đúng vậy hay không? Chẳng thực sự
đổ công học tập, nhưng quư vị thật thà
niệm Phật, chuyên tu Tịnh nghiệp th́ cũng thành
tựu chẳng thể nghĩ bàn.
Thế Tôn nêu lên Hoại
Khổ, nhằm khiến cho chúng ta tỉnh giác cao
độ; đấy là chuyện kinh điển
thường nói đến: “Thế
gian vô thường quốc độ nguy thúy” (Thế gian
vô thường, cơi nước mong manh), thường
nghĩ đến Thành - Trụ - Hoại - Không,
người hiện thời gọi là “định luật
tự nhiên”.
Loại thứ ba là Hành Khổ.
Hành (行) là ǵ? Không
khổ, không vui. Không khổ không vui là chuyện tốt, sao
lại bảo là Khổ? V́ chẳng thể giữ
được lâu dài, v́ tánh nó đổi dời, chẳng
thể giữ được vĩnh viễn; đó là
khổ! Dục Giới khổ nào cũng có đủ.
Nếu quư vị tu Thiền Định, tu Tứ Vô
Lượng Tâm, sanh vào Tứ Thiền Thiên của Sắc
Giới. Tứ Thiền Thiên không có Khổ Khổ, tức
Sanh, Lăo, Bệnh, Tử, Cầu Bất Đắc, Ái
Biệt Ly, Oán Tắng Hội, Ngũ Ấm Xí Thạnh
đều không có; họ đă đoạn dục hay chưa?
Thưa cùng quư vị: Họ chưa đoạn! Dục
chưa đoạn, làm sao ly dục được? Công
năng Thiền Định của họ đă khuất
phục dục, khiến dục không c̣n khởi tác dụng
nữa, công phu Thiền Định sâu xa!
Lúc nào chịu Hoại Khổ? Đến
khi thọ mạng sắp chấm dứt, thân thể
bị biến đổi, hoàn cảnh
cư trú cũng nẩy sanh biến hóa. Lúc ấy, họ
cảm thấy rất khổ. B́nh thường, họ
chẳng biết đến khổ, thực sự
vui. Người Sắc Giới hóa sanh, không bị Ái
Biệt Ly, không bị Oán Tắng Hội (chán ghét mà phải
gặp gỡ), v́ sao vậy? Người trong cảnh
giới ấy đều tu Định, đều có công
phu Thiền Định, đều có thiện hạnh, tu
Từ - Bi - Hỷ - Xả. Quư vị chẳng hội
đủ những điều kiện
ấy, chẳng thể sanh vào cảnh giới ấy
được. V́ vậy, đức Phật đă
từng nói đến ba thứ Thiền, đệ tam
Thiền chính là “thế giới Cực Lạc”[4]
trong thế giới Sa Bà này, sung sướng lắm!
Sướng như thế nào? Không khổ, nhưng phải
nhớ rơ, đến lúc hết thọ mạng,
Hoại Khổ bèn hiện tiền. Bởi vậy, họ
có Hoại Khổ, có Hành Khổ; trời Sắc Giới có
hai mối Khổ sau, không có mối khổ đầu tiên
(Khổ Khổ).
Lên cao hơn là trời Vô
Sắc Giới, Vô Sắc Giới thiên không có thân thể.
Không có thân thể, đương nhiên chẳng cần cung
điện lầu gác, không cần thiết! V́ thế,
Hoại Khổ cũng không có. Họ không có Khổ Khổ,
Hoại Khổ cũng không, nhưng có khổ ǵ? Có Hành
Khổ. Hành Khổ tức là cảnh giới của họ
chẳng thể giữ vĩnh viễn, nó có thời gian
tánh. Lên tầng trời cao nhất là Phi Tưởng Phi Phi
Tưởng thiên, đức Phật nói thọ mạng
của họ là tám vạn đại kiếp; nhưng đến
khi thọ mạng hết, vẫn phải đọa
lạc. Hết lối đi lên chỉ c̣n cách đọa
xuống. Bởi đă đạt đến cảnh
giới ấy, họ (chư thiên Vô Sắc Giới) đều
lầm tưởng ḿnh đă thành Phật, tưởng ḿnh
đă chứng đắc Đại Bát Niết Bàn. Thọ
mạng c̣n có lúc hết là không được rồi!
Cổ thánh tiên hiền, chư Phật, Bồ Tát dạy “bát
Niết Bàn là giả”, các Ngài nói bất sanh bất diệt,
v́ sao ḿnh c̣n có sanh diệt? Nguyên do như sau: Vừa
khởi lên ư niệm báng Phật, báng Pháp, báng Tăng,
hủy báng Tam Bảo; do tội nghiệp ấy,
đọa vào địa ngục A Tỳ, đó gọi là
“trèo cao, ngă đau”. Ḅ lên tới đỉnh điểm, ngă
lăn xuống, rớt tơm vào địa ngục A Tỳ.
V́ thế, đức Phật nói “ba cơi đều khổ”.
Kinh Pháp Hoa dùng tỷ dụ: “Tam
giới hỏa trạch” (ba cơi như nhà bốc
lửa).
Trái lại, trong Tây Phương
Cực Lạc thế giới những nỗi khổ ấy
đều chẳng có. Chúng ta phải hiểu như
vậy. Từ Vân đại sư từng nói (Ngài là
người sống vào thời Càn Long nhà Thanh): “Cơi này (tức thế giới
Sa Bà) so với thế giới
Cực Lạc có mười thứ khó - dễ. Nơi
thế giới của chúng ta có mười điều khó,
thế giới Cực Lạc có mười điều
dễ”. Bọn họ chẳng có khổ, tức là “hưởng các sự vui”.
Thứ nhất, không có nỗi
khổ tội báo. Văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới không có ác báo, v́ sao không có ác báo? Không có cơ
hội hưởng thụ để tạo ác nghiệp;
cũng là nói người ở Tây Phương Cực
Lạc thế giới nhất định không có ác
niệm, nhất định chẳng nói lời ác, nhất
định chẳng tạo ác nghiệp. Ba nghiệp thân - ngữ
- ư thuần tịnh, thuần thiện, làm sao có khổ báo?
Dẫu là đới nghiệp văng sanh, nhưng đó là mang
theo chủng tử của ác nghiệp trong đời quá
khứ. Chúng ta biết chủng tử nếu chẳng
gặp duyên sẽ chẳng thể khởi hiện. Tây
Phương Cực Lạc thế giới chẳng có ác
duyên, cho nên những chủng tử mang theo ấy vĩnh
viễn chẳng thể hiện hành được.
Tức là trong hoàn cảnh Tây Phương Cực Lạc
thế giới, hết thảy người, sự,
vật đều thuần thiện, thuần tịnh. Chúng
ta mong mỏi văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, chẳng thể không hiểu chuyện này. Phải
tu thuần thiện thuần tịnh ngay từ bây giờ,
há c̣n đợi đến lúc nào nữa đây?
Tâm thuần tịnh, tu tâm thanh
tịnh, chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, từ bi,
chẳng để mảy may bất tịnh xen tạp,
quyết định chẳng vướng ô nhiễm. Tu tâm
thanh tịnh bằng cách nào? Phải buông xuống vạn
duyên. Trong thế gian này, tùy duyên cho qua ngày tháng, không tranh
với người, không cầu nơi sự, tâm quư vị
mới thanh tịnh. Nếu quư vị phải tranh, phải
cầu, sẽ chẳng thể thanh tịnh. Có đồng
học hỏi: “Tôi tranh đấu với chính ḿnh là
đúng hay sai?” Tranh đấu với chính ḿnh tâm đă
chẳng thanh tịnh, huống hồ tranh với
người khác? Tất nhiên phải buông bỏ vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước của chính
ḿnh, hết thảy thuận theo sự dạy răn
của đức Phật, tùy thuận những giáo
huấn trong kinh luận th́ mới có thể thực sự
thoát ly biển khổ Sa Bà, chẳng tạo nghiệp
nữa. Chẳng những là không tạo ác nghiệp, mà ngay
cả thiện nghiệp cũng không tạo. Vậy th́
chúng ta có cần đoạn ác tu thiện không? Cần
chứ! Đoạn ác tu thiện chẳng phải là
vừa tạo thiện nghiệp vừa đoạn ác
nghiệp hay sao? Đúng rồi, đó là Sự. Về
mặt sự th́ phải làm như vậy, nhưng trong tâm
chẳng chấp trước.
Đoạn ác chẳng phải
là đoạn ác về mặt h́nh tướng, tu thiện
chẳng phải là tu thiện trên mặt h́nh tướng. Tâm
quư vị thanh tịnh; tâm tịnh th́ cơi Phật tịnh,
đấy là điều kiện hết sức quan
trọng để văng sanh. Lục Tổ Đàn Kinh có câu: “Vốn chẳng có một
vật, chỗ nào nhuốm bụi trần?”, kinh Kim Cang
nói: “Phàm hữu sở tướng,
giai thị hư vọng” (Phàm những ǵ có tướng
đều là hư vọng). Đâu đâu cũng
đều nhằm cảnh tỉnh chúng ta, khởi tâm
động niệm là trật rồi. Chúng ta đoạn ác
tu thiện, đoạn ác là tiêu nghiệp chướng, tu
thiện là vun đắp phước huệ, chẳng
để lại dấu tích là vượt thoát. Để
lại dấu tích (chấp trước) th́ sao? Chẳng
thể ra khỏi lục đạo; quư vị đoạn
ác chẳng đọa vào ba đường ác, tu thiện
sanh vào ba thiện đạo, chẳng phải là chuyện
dễ! V́ thế, phải thông thuộc, phải hiểu
thấu tường tận kinh giáo, th́ chính ḿnh mới là
người hiểu rơ ràng, mới thực sự có thể
liễu sanh tử xuất tam giới. A! Bây giờ đă
đến giờ rồi.
*
Chúng ta lại tiếp tục xem
phần “thọ chư lạc”
(hưởng các sự vui). Ở trên đă nói sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới, chẳng
những không tạo ác nghiệp mà ngay cả ác niệm
cũng chẳng sanh. Đấy chính là hoàn cảnh tốt đẹp
ở nơi ấy, thánh hiền đông đảo,
đều là thượng thiện nhân cùng họp mặt
một chỗ. “Thượng thiện” là Đẳng
Giác Bồ Tát, bậc Địa Thượng Bồ Tát
rất nhiều. Những ǵ lục căn quư vị
tiếp xúc đều là thuần thiện, thuần tịnh;
v́ thế, nhất định chẳng có ác duyên, những
chủng tử tập khí mang theo trong A Lại Da Thức của
quư vị không có ǵ để dẫn khởi phát xuất
cả. Ở nơi ấy, Định lực dần
dần thành thục, mở mang trí huệ, phiền năo
tự nhiên chuyển thành Bồ Đề, chuyển
phiền năo thành Bồ Đề!
Thứ hai, sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới chẳng thoái
chuyển, dẫu người Hạ Hạ phẩm văng sanh
thuộc Phàm Thánh Đồng Cư độ cũng
đều viên chứng ba thứ Bất Thoái, “vô cầu tịch diệt chi thoái
chuyển, vô tu đạo chi chướng ngại” (không
bị thoái chuyển trong việc cầu Tịch Diệt,
tu đạo không bị chướng ngại). Cầu
Tịch Diệt: Tịch Diệt là Đại Bát Niết
Bàn, thanh tịnh tịch diệt, đấy là mức
độ tu hành cao nhất. Quư vị sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới là thấp
hơn mức độ ấy một chút, v́ sao? A Duy
Việt Trí Bồ Tát là Vô Sanh Pháp Nhẫn Bồ Tát. Trong bài
kệ Hồi Hướng, ta thường niệm “hoa khai kiến Phật, ngộ Vô
Sanh”, đấy chính là A Duy Việt Trí Bồ Tát. Cao
hơn nữa là quả địa Như Lai, tức
Tịch Diệt Nhẫn. Bởi vậy, cầu Phật
quả viên măn rốt ráo, chỉ có tiến, chứ không lùi
sụt, chẳng giống như những thế giới
khác, thế giới Sa Bà của chúng ta dĩ nhiên không
cần phải nói nữa, tiến th́ ít, lui th́ nhiều,
chẳng
thể
thành tựu dễ dàng!
Nói đến tu đạo, tu
hành, chướng duyên rất nhiều. Bao nhiêu người
tu hành chúng ta vừa phát tâm, giống như người
chạy đua, nhớm chân từ mức xuất phát, có
người vọt lên dẫn đầu, có người
tụt lại đằng sau, có người bị
loại. Do nguyên nhân nào? Quá nhiều chướng duyên
chướng ngại ḿnh. Có người chướng
ngại ta, có sự chướng ngại ta, có vật
chướng ngại ta, lại c̣n có oán thân trái chủ
chướng ngại ta, hữu h́nh, vô h́nh rất nhiều.
Đó là chướng duyên. Ai có thể vượt khỏi tầng
chướng duyên ấy? Ai có thể thành tựu
được? Chẳng có ǵ khác cả! Một dạ
hướng về đạo! Ngày ngày đọc kinh, ngày
ngày nghiên cứu giáo pháp, không biếng nhác một ngày nào,
tất cả chướng duyên chẳng cần quan tâm
đến, cốt sao tâm ta nơi đạo, hạnh ta
nơi đạo. Tự ḿnh chú ư quán sát, tư duy, nếu
tâm hạnh ḿnh chẳng rời khỏi đạo,
chẳng trái nghịch sự giáo huấn của Phật,
tất cả hết thảy chướng duyên chẳng
quan tâm đến là được rồi! Ngàn vạn
phần chẳng được dùng tinh thần lẫn
thời gian để nghiên cứu cách đối phó
chướng ngại. Nếu làm như vậy, chướng
ngại càng lớn.
Chẳng hạn như
người ta hủy báng ḿnh, quư vị muốn t́m cách
trả đũa, chẳng phải tự ḿnh chuốc
phiền đó ư? Lúc ấy, sẽ như thế nào?
Một khi có ư niệm ấy, tâm quư vị đă trái
nghịch đạo nghĩa, Phật chẳng dạy chúng
ta trả đũa! Đức Phật dạy chúng ta
phương pháp nào? Mặc Tẫn. Mặc Tẫn nghĩa
là ǵ? Hoàn toàn không đếm xỉa đến, anh hủy
báng cứ việc hủy báng, tôi đi đường tôi.
Giống như anh đấm tôi, tôi không phản kháng, cái
đấm đó như không. Người ta hủy báng, ḿnh
liền trả đũa. A! Vậy th́ đôi bên
đập lộn. Bị chửi không trả miếng,
bị đánh không đập lại, để tâm nơi
đạo, hạnh dốc nơi đạo, dũng mănh,
tinh tấn, nói thật ra, việc đó khó lắm!
Người tầm thường chẳng thể nhẫn
được. Khó nhẫn mà nhẫn được, khó
hành mà hành được th́ mới đi xuông sẻ trên
đường Bồ Đề được! Càng
đến gần cửa ải quan trọng, càng gặp
nhiều chướng duyên nghiêm trọng, chúng ta phải
dùng những chướng duyên ấy để khảo
nghiệm chính ḿnh.
Hiện tại, chúng ta đă
đạt đến mức độ công phu ấy th́
phải vượt được cuộc khảo thí
ấy. Bởi vậy, chướng duyên chẳng có ǵ là
xấu. Trong kinh giáo, đức Phật thường
dạy chúng ta: Thế gian, xuất thế gian chẳng có ǵ
là đúng hay sai tuyệt đối cả. Cát - hung, họa
- phước do đâu? Nói thật ra, đều do một
niệm của chính ḿnh. Một niệm của chính ḿnh
“chánh” sẽ hóa hung thành cát, chuyển họa thành
phước, có ǵ không tốt đâu? Công phu tu hành của
quư vị hữu dụng, khởi tác dụng. Nếu quư
vị chẳng thể nhẫn, có một niệm sân
hận, có một niệm báo thù, sẽ bị thoái
chuyển một mức rất lớn, quư vị bị
đào thải khỏi đường Bồ Đề.
Người như vậy chẳng phải chỉ là chín mươi chín phần trăm
đâu nhé, không phải vậy! Chỉ sợ là trong
một ngàn người, trong một vạn người,
người thực sự có thể đột phá chỉ
là một phần vạn; nói thật ra c̣n chưa
được một phần vạn nữa cơ
đấy!
Quư vị nghĩ xem:
Người học Phật nếu thực sự là
một phần vạn [có thể đột phá
được] mà người học Phật chẳng ít,
có đến trăm vạn, ngàn vạn; nếu là một
phần vạn, th́ người thực sự có thành
tựu cũng được vài trăm, cũng có thể
cả ngàn người, [nhưng trên thực tế] đâu có
được như vậy! Do đó, quư vị mới
hiểu chuyện này rất khó, phải hàng phục
phiền năo tập khí của chính ḿnh. Chúng tôi hết
sức may mắn, nếu quư vị hỏi v́ sao chúng tôi có
thể hàng phục được phiền năo tập khí ư?
Chẳng có ǵ khác cả, ngày ngày đọc kinh, ngày ngày
giảng kinh, ngày ngày nghiên cứu, toàn bộ tinh thần tâm
lực đều đặt nơi kinh giáo. Do vậy không
có tinh thần, không có thời gian để quan tâm
đến ǵ khác, thực sự là như vậy. Chẳng
những không có thời gian quan tâm đến thứ ǵ khác,
mà cũng chẳng có tinh thần. Rất nhiều
đồng tu viết thư cho tôi, tôi không có thời gian
đọc. Bởi thế, tôi hay khuyên mọi người
đừng gởi thư cho tôi, tôi thực sự chẳng
muốn xem.
Vô t́nh giở sách cũ thấy
thư kẹp trong đó, b́ thư chưa xé, mở ra xem,
đại khái là bảy tám năm trước, quên bẵng
luôn! Bởi vậy, tôi hy vọng mọi người
đọc kinh, niệm Phật. Nếu có vấn
đề th́ niệm Phật nhiều, đọc kinh
nhiều sẽ tự nhiên hiểu ra. Việc tốt
bậc nhất trong pháp thế gian lẫn xuất thế
gian là đọc kinh, niệm Phật, v́ người khác
diễn nói, trong kinh, đức Thế Tôn gọi là “đọc tụng thọ tŕ, v́
người diễn nói”. Đấy chính là việc
tốt lành bậc nhất, thiện hạnh bậc
nhất, thuần tịnh thuần thiện trong các pháp
thế gian và xuất thế gian. Pháp thế gian và xuất
thế gian đều chẳng nhiễm trước,
đấy mới thực sự là đại tự
tại. Dẫu chẳng đạt được tự
tại, nhất định đạt được
tiểu tự tại. Trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới, tu hành chẳng có chướng ngại,
ở bên ấy không có chướng duyên.
Do vậy, đức Thế Tôn
mới giới thiệu cho chúng ta biết “kỳ quốc chúng sanh” (chúng sanh trong cơi ấy),
chúng sanh cơi ấy đều là những người sanh
về Tây Phương Cực Lạc thế giới,
họ chẳng có các sự khổ, “đản thọ chư lạc” (chỉ
hưởng các sự vui). Những niềm vui trong các
sự vui ấy rất nhiều, chỉ nêu lên hai
điều: Một là chẳng thoái chuyển, hai là không có
chướng ngại, “cố
danh Cực Lạc” (nên gọi là Cực Lạc).
6.3.1.2.2. Địa lợi chi
lạc (sự vui nơi hoàn
cảnh cư trú)
Lại xem tiếp đoạn
thứ hai, đoạn thứ hai là “địa lợi chi lạc”. Bốn câu trên đây
là nói tổng quát, phần tiếp theo cho biết: Rốt
cuộc cơi ấy có những sự vui nào. “Địa lợi chi lạc” là sự vui về
mặt cư trú, sự vui nơi hoàn cảnh cư trú. Chúng
ta hăy đọc kinh văn:
Hựu Xá Lợi Phất! Cực
Lạc quốc độ, thất trùng lan thuẫn,
thất trùng la vơng, thất trùng hàng thụ, giai thị
tứ bảo, châu táp vi nhiễu. Thị cố bỉ
quốc danh vi Cực Lạc.
又舍利弗。極樂國土。七重欄楯。七重羅網。七重行樹。皆是四寶。周匝圍繞。是故彼國名為極樂。
(Lại này Xá Lợi Phất!
Cơi nước Cực Lạc, bảy tầng lan can,
bảy tầng lưới mành, bảy tầng hàng cây,
đều bằng bốn báu, bao quanh trọn khắp. V́
thế, cơi ấy tên là Cực Lạc).
Đoạn này nói đến
địa lợi. “Chúng
bảo lan thụ” (lan can, cây cối bằng các thứ
báu), sự vui về mặt địa lợi. [Sách Yếu
Giải viết]: “Thất trùng
biểu thị thất khoa đạo phẩm, hựu biểu
viên măn chi ư, tứ bảo biểu Thường, Lạc, Ngă,
Tịnh tứ đức” (Bảy tầng biểu
thị bảy khoa đạo phẩm, c̣n biểu thị ư
nghĩa viên măn. Tứ bảo biểu thị bốn
đức Thường, Lạc, Ngă, Tịnh). Ta nhất
định phải hiểu ư nghĩa biểu pháp trong
đoạn kinh văn này. Đức Phật v́ chúng ta
giảng kinh, thuyết pháp trọn chẳng ngoài những ư
này. Bảy khoa Đạo Phẩm chính là ba mươi
bảy Đạo Phẩm. Ba mươi bảy Đạo
Phẩm chia thành bảy loại lớn, những môn này các
đồng học đă biết rồi: Tứ Niệm
Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ư Túc, Ngũ Căn,
Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Chánh
Đạo. Khoa (科)
là loại, [thất khoa Đạo Phẩm] nghĩa là ba
mươi bảy Đạo Phẩm xếp thành bảy
loại. Những Đạo Phẩm này thông cả
Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa, Hiển lẫn
Mật, Tông lẫn Giáo, dùng ba mươi bảy Đạo
Phẩm này đại diện cho toàn bộ Phật pháp.
Do đây biết rằng: Chẳng riêng
ḿnh đức Phật thuyết pháp, mà sáu trần cũng đều
thuyết pháp, biểu thị pháp mà! Biểu thị ba
mươi bảy Đạo Phẩm, có ǵ không thuyết
pháp? T́nh và vô t́nh thảy đều thuyết pháp. Quư vị
nghĩ thử xem, trong hoàn cảnh ấy, quư vị có thoái
chuyển được chăng? Chẳng thể
được! Không có chướng duyên! Ở nơi này, người,
sự, hoàn cảnh vật chất thường xuyên gây
chướng ngại, Tây Phương Cực Lạc
thế giới chẳng vậy! Số Bảy biểu
thị ư nghĩa viên măn, bởi vậy, đọc kinh này
nhất định phải hiểu ư nghĩa. Có rất
nhiều người đọc đến đoạn kinh
văn
này, bảo tôi:
- Thưa pháp sư! Thế giới
Cực Lạc hay ở chỗ nào? Chỗ nào cũng
giống hệt nhau. Đâu đâu cũng là bảy tầng
lan can, bảy tầng lưới mành, chỗ nào cũng giống
vậy, có đẹp mắt ǵ đâu? Chẳng như
thế giới của chúng ta. Tới đâu cũng
giống hệt nhau, chẳng ra nghĩa lư ǵ! Xem một
chỗ xong, đâu c̣n muốn đi coi chỗ khác!
Họ chẳng biết Bảy chẳng
phải là con số, con số ấy nhằm biểu
thị pháp, tượng trưng cho viên măn. Điều ǵ
viên măn? Quư vị thích thấy như thế nào, [cảnh tượng] bèn biến hóa như thế
đó th́ mới gọi là “viên măn”! Thật đó, hoàn
cảnh cư trú của Tây Phương Cực Lạc
thế giới thuận theo ḷng muốn, quư vị nghĩ
đến điều ǵ liền biến ra giống hệt
như vậy. Y phục cũng như vậy, thức
ăn cũng như vậy, tuyệt đối chẳng
cần đến sức người lo liệu. Hoàn
cảnh cư trú chẳng cần dùng đến
sức người xây đắp, tạo dựng, mà là do biến
hóa ra, tùy thuận ḷng muốn nên gọi là “viên măn”. Quư
vị thấy trong kinh có nói, kinh Vô Lượng Thọ, kinh
Quán Vô Lượng Thọ Phật đều có nói: Quư
vị thích nhà cửa to, nhà cửa liền biến ra to. Quư
vị thích nhà cửa hẹp, thích ở trong pḥng nhỏ,
pḥng bèn rất nhỏ. Quư vị thích nhà ở trên mặt
đất, liền ở trên mặt đất; thích nhà
trên không, nhà cửa liền bay lên không trung.
Thuận theo ḷng muốn,
đúng là tự tại như ư, đấy mới là sung
sướng thực sự, quyết định chẳng
trở ngại người khác, chẳng xung đột
quyền lợi với người khác, không hề có! Tây
Phương Cực Lạc thế giới chẳng có
lợi - hại, chẳng có xung đột, chỉ có tôn
trọng lẫn nhau, cùng nhau hợp tác. Chẳng có phiền
năo, chẳng có vọng tưởng, chẳng có phân
biệt, chẳng có chấp trước, hoàn cảnh sinh
hoạt tốt như thế đó, thù thắng như
thế đó! Bởi vậy, con số Bảy ấy
biểu thị sự viên măn. “Bảy” có nghĩa là bốn
phương, trên, dưới, chính giữa; Bảy biểu
thị điều này. Đấy chính là viên măn, chẳng có
chút nào khuyết hăm.
“Tứ
bảo” (bốn món báu) cũng là biểu pháp. Báu ǵ vậy?
“Thường, Lạc, Ngă,
Tịnh” là báu. Thường: Vĩnh hằng bất
biến, chẳng giống như thế giới chúng ta vô
thường. Hiện thời mọi người
đều biết chuyện này. Lúc nhỏ, chúng tôi
đọc sách thấy nói “thương
hải tang điền” (biển xanh, ruộng dâu),
chẳng biết nghĩa là ǵ! Mấy năm gần đây
thiên tai nhân họa quá nhiều, một trận đại
địa chấn (động đất), không c̣n núi nữa,
ruộng nương cũng không c̣n nữa, hồ ao
cũng không c̣n nữa, đến lúc ấy mới thực
sự hiểu thế nào là “thương
hải tang điền”. Thuở bé, tôi sống ở nông
thôn, thôn trang không lớn, thôn trang
nhỏ thôi, chỉ có mười mấy gia đ́nh.
Trước mặt thôn trang là một cái hồ, lúc nhỏ
chúng tôi thường chơi bên hồ, nhặt vỏ
ốc, bắt cá. Chúng tôi xa quê nhà năm mươi năm,
lúc trở về lần thứ nhất, vừa đúng năm
mươi năm. Lúc trở về, hồ không c̣n nữa,
cạn khô rồi. Nay cái hồ ấy đă biến thành
đất canh tác, biến đổi quá nhiều! Tôi ra đi
năm hai mươi tuổi, trong năm đó, có trở
về một lần, ở lại hai tháng, không thấy thay
đổi ǵ nhiều. Trở về lần này, hoàn toàn khác
hẳn, rất khác với những ǵ trong kư ức.
Đấy là vô thường! Thân thích, bè bạn chơi
chung lúc nhỏ không c̣n ai nữa. Thấy rồi vô hạn
cảm khái, hơn bảy mươi năm chỉ là
một cái khảy ngón tay. Nghĩ đến chuyện thuở
xưa tợ hồ chuyện mới vừa hôm qua!
Đời người há c̣n có bảy mươi năm
nữa ư? Chẳng thể! V́ vậy, trong kinh
đức Phật dạy chúng ta chân tướng sự
thật: “Thế gian vô
thường, quốc độ nguy thúy” (Thế gian vô
thường, cơi nước mong manh). Cơi nước c̣n mong
manh, cái thân này thấm vào đâu?
Quư vị sanh về Tây Phương
Cực Lạc thế giới khác hẳn! Tây Phương
Cực Lạc thế giới là chân thường, bất
biến! Nếu chúng ta hỏi v́ sao cơi ấy bất
biến, c̣n tại sao cơi chúng ta lại biến ư?
Nơi này bị biến đổi là do ta có vọng
niệm, ư niệm sanh diệt trong từng sát-na, niệm
niệm chẳng trụ. Hoàn cảnh biến đổi
theo ư niệm; gần đây chúng tôi càng lănh hội ư
niệm này sâu hơn qua thí nghiệm kết tinh nước
của một khoa học gia Nhật Bản. Nước là
một loại vật chất thuộc hoàn cảnh, biến
hóa theo ư tưởng của chúng ta, trong từng sát-na
chẳng trụ. Nếu quư vị hỏi v́ sao hoàn cảnh
của Tây Phương Cực Lạc thế giới
chẳng biến đổi ư? Tất cả cư dân
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, trên
từ A Di Đà Phật, dưới đến những ai
văng sanh trong Hạ Hạ Phẩm thuộc Phàm Thánh
Đồng Cư độ, đều chẳng có vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước. Ĺa khỏi
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, cho nên
bất biến.
V́ vậy, kinh Hoa Nghiêm nói “duy tâm sở hiện”: Chỉ
biến hiện bởi tâm. Chín pháp giới chỉ do
thức biến, Cực Lạc do tâm hiện, chẳng
phải do thức biến. Bởi thế, cơi ấy
thường hằng là hợp lư! Do đây biết
rằng: Chỉ cần chúng ta có ư niệm, khởi tâm
động niệm sẽ chắc chắn phải
biến. Lúc biến chính là vô thường. Lúc nào không có
vọng niệm, không có vọng tưởng, hoàn cảnh
bên ngoài sẽ chẳng biến đổi. Đạo lư này
chúng ta có thể hiểu được. Chúng ta thấy Tây
Phương Cực Lạc thế giới có ư niệm hay
không? Nói thật ra, do oai thần và bổn nguyện của
A Di Đà Phật gia tŕ, chư thượng thiện nhân
làm bạn đạo đồng tham của chúng ta, chúng ta
có muốn khởi tâm động niệm cũng không
được. Nhất Chân pháp giới mà!
“Ngă” (我) có nghĩa là ǵ? Ngă nghĩa là chủ
tể, tự ḿnh có thể làm chủ. Ngă có nghĩa là
tự tại, tự ḿnh được đại tự
tại, tự ḿnh làm chủ. Chúng ta ở đây chẳng
thể làm chủ. Chẳng hạn như: Ta không muốn
già, nhưng cứ già dần đi, chẳng làm chủ
được! Ḿnh không muốn sanh bệnh, cứ
bệnh hoài, việc trái nghịch với tâm. Đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới, ḿnh làm chủ
được. Thân thể muốn to liền biến thành
cao to, muốn nhỏ một chút liền nhỏ đi, làm
chủ được! Nhà cửa ḿnh ở như tôi
vừa mới nói, muốn to bèn to, mong nhỏ bèn nhỏ,
nghĩ thế nào biến ra như thế nấy, thuận
theo ḷng muốn, chính ḿnh làm chủ được. Qua
thế giới khác lễ Phật, nhà cửa ḿnh ở cũng
tùy thân, chẳng cần ra khỏi nhà, nhà cửa bay đi
được, nhà cửa cũng là công cụ giao thông. Đấy
chỉ là nói về Phàm Thánh Đồng Cư Độ!
Đức Thế Tôn giới thiệu cơi Tây Phương
Cực Lạc thế giới cho chúng ta, hầu như toàn
là cảnh giới của Phàm Thánh Đồng Cư Độ,
khiến cho quư vị thấy nó tốt đẹp
đến thế đó.
Nếu sanh về Thật Báo Độ,
Thật Báo Độ mỗi ngày đều tham phỏng
mười phương hết thảy chư Phật
Như Lai, có cần phải đi qua đó tham phỏng,
đi qua rồi trở về hay không? Chẳng cần. V́
sao? Đạt đến cảnh giới ấy, thời
gian, không gian không c̣n nữa. Chỉ cần quư vị muốn
thấy một đức Phật nào, đức Phật
ấy liền ở ngay trước mặt. Ngài giảng
kinh, thuyết pháp trong thế giới kia, dường
như quư vị đến trong đạo tràng của Ngài,
chứ thật ra, quư vị bất động! Không có
trước - sau, không xa - gần. Không có trước - sau
là chẳng có thời gian, quư vị có thể thưa
hỏi quá khứ Phật, cũng có thể thưa hỏi
vị lai Phật. Tam thế chư Phật đều
ở ngay trước mặt, cảnh giới chẳng
thể nghĩ bàn. Đó là Ngă!
Tam Học Giới - Định
- Huệ tăng thượng, mỗi ngày trên cầu
Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, khoái
lạc khôn sánh! Đó là Lạc. Người thế gian có
lạc, nhưng chẳng thanh tịnh; người trong thế
giới Cực Lạc có lạc, đại lạc thanh
tịnh. Thanh tịnh như thế nào? Cơi ḷng chẳng
tơ hào nhiễm trước, chân tịnh! Người
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới có vào
trong lục đạo hay chăng? Vào chứ! Thường
vào để giúp đỡ lục đạo chúng sanh,
chiếu cố lục đạo chúng sanh, giáo hóa lục
đạo chúng sanh. Tâm địa thanh tịnh, quyết
định chẳng tiêm nhiễm. Trong thiên đường
tuyệt đối chẳng tham luyến, trong địa
ngục quyết định chẳng phiền năo. Trong tâm
họ, mười pháp giới b́nh đẳng. Người
trong lục đạo mười pháp giới có khổ - vui,
có thọ; Phật, Bồ Tát đến giáo hóa chúng sanh không
có khổ hay vui. Tuy không khổ - vui, nhưng có lúc làm bộ
tợ hồ có khổ - vui. V́ sao? Để an ủi chúng
sanh; chẳng muốn chúng sanh lấy làm lạ: “Sao Ngài khác
với ḿnh?” Nếu như vậy là chưa khéo dạy
rồi!
Bởi Phật, Bồ Tát
hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức, nói chung
là khiến cho hết thảy chúng sanh cảm thấy
Phật, Bồ Tát chẳng khác ḿnh lắm, có vậy
mới ḥng khơi dậy chí hướng của họ:
“Họ thành tựu được, sao ḿnh không thể?” Khích
động đạo tâm kẻ đó. Do đây biết
rằng: Không ǵ chẳng nhằm giáo hóa chúng sanh, không ǵ
chẳng nhằm giúp đỡ chúng sanh. Thật ra,
chẳng những mảy trần chẳng nhiễm, mà c̣n
chẳng đến, chẳng đi, cùng một lúc có
thể phân thân vô lượng vô biên, cùng một lúc có
thể trụ trong vô lượng vô biên pháp giới, chân
lạc, chân tịnh. Thế gian không có bốn tịnh
đức Thường - Lạc - Ngă - Tịnh, thế gian
vô thường, ba cơi thế gian đều khổ, nào có
vui chi? Khổ Khổ, Hoại Khổ, Hành Khổ. Thế
gian vô ngă, chỉ có giả ngă, chẳng làm chủ, chẳng
tự tại. Thế gian chẳng thanh tịnh, khởi tâm
động niệm đều nhiễm ô, tự tư
tự lợi, tham, sân, si, mạn. Đấy là chân
tướng sự thật. Tiếp đó, [sách Yếu Giải]
viết:
“Tự
đức thâm, tha hiền biến”: [Nghĩa là] đức
của chính ḿnh ngày càng sâu, ngày càng rộng, đức sâu,
trí rộng; đồng học với ḿnh đều là
thánh hiền. “Thánh” là
địa thượng Bồ Tát (Bồ Tát từ phẩm
vị Sơ Địa trong Viên Giáo trở lên). “Hiền” là Tam Hiền (Thập
Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng).
Tất cả những người mà quư vị tiếp xúc
đều là Tam Hiền Thập Thánh Bồ Tát. Trong Tam
Hiền Thập Thánh th́ Thập Thánh chẳng cần
phải nói nữa, địa vị Tam Hiền trong Tây Phương
Cực Lạc thế giới đều là A Duy Việt Trí
Bồ Tát, đấy là oai thần bổn nguyện của
A Di Đà Phật gia tŕ, chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta
nghĩ coi: T́m đâu ra hoàn cảnh sinh hoạt tu học
như thế? Trong các thế giới của chư
Phật tại mười phương, có [những thế
giới khác tốt đẹp như vậy] chứ chẳng
phải là không có; nhưng vấn đề là quá nhiều
điều kiện, quư vị không đến đó được!
Muốn về Tây Phương Cực
Lạc thế giới chẳng khó, [để sanh vào] các
thế giới khác quư vị phải đoạn Hoặc th́
mới đến được. Nói cách khác, đoạn Kiến
Tư phiền năo rồi mới có thể sanh về
Phương Tiện Hữu Dư Độ của các
đức Phật khác. Phương Tiện Hữu Dư
Độ là ǵ? Chúng ta thường nói đến Tứ
Thánh Lục Phàm, lục đạo là Phàm Thánh Đồng Cư
Độ, bốn thánh pháp giới là Phương Tiện
Hữu Dư Độ, vượt khỏi mười pháp
giới. Vượt khỏi mười pháp giới là
Nhất Chân pháp giới. Nhất Chân pháp giới là Thật
Báo Trang Nghiêm Độ, phải là hạng người nào mới
đến được? Phải đoạn Kiến
Tư, phải đoạn Trần Sa, Vô Minh, tối
thiểu là phá được một phẩm vô minh. Quư
vị có đủ điều kiện ấy th́ mới có
thể sanh vào Thật Báo Độ của chư Phật
trong các thế giới ở những phương khác.
Tây Phương Cực Lạc thế
giới thù thắng ở chỗ nào? Phàm Thánh Đồng
Cư độ và Thật Báo Trang Nghiêm độ không hai,
không khác. Đức Thế Tôn nói: Trong mười
phương thế giới, chưa từng nghe nói tới
[điều ấy]. Trong hết thảy các cơi Phật,
chỉ có cơi nước của A Di Đà Phật là
đặc biệt, bốn cơi cùng hợp lại. Các cơi
Phật khác, bốn cơi đều phân biệt, chẳng
hợp lại. Thế giới Sa Bà này của Thích Ca Mâu Ni
Phật có bốn cơi: Phàm Thánh Đồng Cư Độ,
Phương Tiện Hữu Dư Độ, Thật Báo
Trang Nghiêm Độ, Thường Tịch Quang Độ,
có hết, nhưng không ở cùng một chỗ! [Bốn cơi
Tịnh Độ trong] thế giới Cực Lạc
ở cùng một chỗ, chúng ta phải biết như
vậy. Chúng ta lại xem tiếp đoạn kế:
“Thị Cực
Lạc chi chân thật nhân duyên” (Là nhân duyên chân thật của Cực Lạc). Câu này
rất quan trọng, đây là tổng kết. Nhân duyên thực
sự của cơi Cực Lạc được câu này nêu lên rất chính xác, hiển thị
điều ǵ? Y báo chuyển theo chánh báo. Bản thân quư
vị không có phiền năo, lại có đạo đức,
có trí huệ, những người khác đều là
hiền thánh, th́ nói cách khác, chính quư vị cũng là hiền
thánh. Đối với hoàn cảnh cư trú của
hiền thánh, ắt quư vị có thể suy ra biết được
hoàn cảnh ấy sẽ biến thành như thế nào? Biến
thành cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta xem
tiếp đoạn dưới:
“Thử đẳng
trang nghiêm, Đồng Cư thị tăng thượng thiện
nghiệp sở cảm” (Đối
với những sự trang nghiêm như vậy, cơi
Đồng Cư là do thiện nghiệp tăng
thượng cảm ứng) - thiện nghiệp tăng
thượng ở đây là niệm Phật, “diệc Viên Ngũ Phẩm Quán sở
cảm” (cũng do Ngũ Phẩm Quán trong Viên Giáo cảm
thành). Viên là Viên Giáo, Viên Ngũ Phẩm Quán là Ngũ Phẩm
Quán của Viên Giáo. Ngũ Phẩm Quán sẽ giảng ở
phần dưới, bao gồm “tùy
hỷ, đọc tụng, giải nói, kiêm hành lục
độ, chánh hành lục độ”, đều là tu
hành cả. Nếu chúng ta thắc mắc: Kẻ Hạ
Hạ Căn văng sanh, những trường hợp như
vậy rất nhiều, thời cổ cũng có, hiện tại
cũng có, họ không biết chữ, chưa từng đi
học, cũng chưa từng nghe kinh, điều ǵ cũng
không biết, nhưng như thế nào? Chính người
ấy biết đời người rất khổ, có
người bảo họ: “Niệm A Di Đà Phật
cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới
sẽ ĺa khổ được vui”. Họ tin là thật,
như có được món quư báu nhất, chết sạch
ḷng mong ngóng, khiêm hư sát đất, niệm một câu A
Di Đà Phật. Họ thành công, thực sự văng sanh. V́
sao vậy? Đó là như phần trên đă nói: “Tăng thượng thiện
nghiệp sở cảm” (Do thiện nghiệp tăng
thượng cảm thành).
Quư vị phải hiểu thế nào là
thiện nghiệp tăng thượng? Niệm A Di Đà
Phật là thiện nghiệp tăng thượng. Quư
vị nghĩ xem: Người nhất tâm niệm A Di Đà
Phật, Thập Thiện, Ngũ Giới đều
trọn đủ, họ c̣n có ư niệm hại
người hay chăng? Chẳng có ư niệm hại
người, há c̣n sát sanh ư? Chẳng thể nào! Họ
cũng chẳng trộm cắp, cũng chẳng dâm
dục, cũng chẳng nói dối, họ giữ
được hết những giới ấy. Họ hoàn
toàn buông thế giới này xuống, không tham, không sân, không
si. Không si là niệm một câu Phật hiệu suốt ngày
từ sáng đến tối, họ chẳng ngu si đâu,
thiện nghiệp tăng thượng đấy!
Người căn tánh trung thượng
th́ như Trí Giả đại sư đă thị hiện cho
chúng ta thấy: Ngài là tổ sư tông Thiên Thai, thị
hiện cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Ngài là pháp sư vừa giảng kinh thuyết pháp,
lại c̣n lănh đạo đồ chúng, lúc sắp mất
đồ đệ hỏi: “Sư phụ văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới, đạt
phẩm vị nào nơi đó?” Ngài bảo cùng đại
chúng: “V́ ta lănh chúng, lănh chúng phải lo liệu công việc,
bận tâm, chẳng thể chuyên tinh; v́ thế, chỉ văng
sanh trong Ngũ Phẩm Vị”. Ngài thị hiện văng sanh
trong Ngũ Phẩm Vị. Ngũ Phẩm Vị là
địa vị ǵ? Là Phàm Thánh Đồng Cư Độ.
Chúng ta biết Trí Giả đại
sư là Thích Ca Mâu Ni Phật tái lai, chẳng phải là phàm
nhân! Ở Nhật Bản cũng nói như vậy. Năm
ngoái, tôi sang thăm Nhật Bản, thấy người
Nhật vẫn thờ tượng Trí Giả đại
sư. Lúc tôi tham bái, tôi bảo những pháp sư Nhật:
“Theo truyền thuyết của Trung Quốc, Trí Giả
đại sư là hóa thân của Thích Ca Mâu Ni Phật”.
Họ bảo: “Người Nhật chúng tôi cũng nói
như thế!” Thị hiện cho chúng ta xem! V́ sao?
Phương pháp tu hành cao không làm được, cũng
không sao! Tùy hỷ quư vị có làm được chăng?
Chẳng khó đâu, tùy hỷ công đức mà!
Thông thường, “tùy hỷ” để đối trị một món
phiền năo rất nghiêm trọng của chúng ta, món ǵ
vậy? Ganh ghét. Nếu quư vị ganh ghét, sẽ không thể
tùy hỷ được. Lúc tùy hỷ, tâm ganh ghét không có.
Ganh ghét phát xuất từ sân khuể. Ai không có tâm ganh ghét,
chắc chắn tâm sân khuể rất mỏng yếu. Dù
chưa đoạn hết, tâm ấy rất yếu ớt.
“Đọc tụng” là ngày
ngày chẳng ĺa Phật. Vậy th́
người ấy có thể tùy hỷ, có thể
đọc tụng. “Giải
nói” là v́ người khác diễn nói. “Kiêm hành lục độ” là tùy hỷ bố thí, tŕ
giới, nhẫn nhục, tinh tấn, Thiền Định,
Bát Nhă. “Chánh hành lục
độ” là kiêm hành lẫn chánh hành đều có. “Chánh hành” là nhất tâm
nhất ư v́ chúng sanh, “kiêm hành”
là tùy duyên, gặp việc ǵ bèn tùy hỷ làm, tùy duyên làm,
chánh hành là chủ động làm.
Chẳng hạn như tu Bố Thí, trông
thấy người ta làm những việc bố thí ǵ,
chúng ta cũng tùy hỷ một chút, đó là Kiêm Hành. Nếu
tự ḿnh phát khởi làm chuyện ǵ tốt cho xă hội,
chủ động làm, đấy là Chánh Hành. Kiêm tu, chánh
hành đều phải làm. Chẳng hạn như chính
quyền thành phố Đồ Văn Ba (Toowoomba), ông
thị trưởng muốn xướng xuất lập
trung tâm cai nghiện ma túy cho thanh thiếu niên, đó là
chuyện tốt, chúng ta tùy hỷ bố thí. Đấy là
kiêm tu Lục Độ. Nếu chúng ta thấy trong xă
hội này có nhiều thanh thiếu niên lầm lạc
như thế, chúng ta muốn phát động xây dựng
một trung tâm cai nghiện, th́ là chánh tu. Kiêm và Chánh có
nghĩa là như vậy. Bây giờ đă hết giờ
rồi!
Tập
14
Xin xem tiếp tiểu đoạn thứ
ba, [sách Yếu Giải viết]: “Nhân
dân biểu nhân duyên sanh pháp, Thanh Văn biểu tức Không,
Bồ Tát biểu tức Giả, Phật biểu tức
Trung, viên dung vô ngại dă” (Nhân dân biểu thị các pháp
do nhân duyên sanh, Thanh Văn tức là Không, Bồ Tát tức
là Giả, Phật tức là Trung; viên dung vô ngại vậy).
Đoạn này rất trọng yếu. Trong cảnh
giới Như Lai, chẳng những chúng sanh b́nh
đẳng, không chỉ hữu t́nh chúng sanh mà vô t́nh báo
độ[5]
cũng là b́nh đẳng. V́ thế, gọi chung là “Nhất
Chân pháp giới”. Trong Nhất Chân pháp giới có Phật, có
Bồ Tát, có chúng sanh hay chăng? Không có! Nếu vẫn c̣n
phân biệt, chấp trước ấy th́ đâu phải
là Nhất Chân! Trong Nhất Chân có tịnh độ, uế
độ hay chăng? Có bốn cơi, ba bậc, chín phẩm
hay chăng? Thảy đều chẳng có th́ mới
gọi là Nhất Chân! Đấy mới là chân tướng
sự thật. Tâm hiện, thức biến, phải chú tâm thấu
hiểu, quán sát lư này th́ quư vị mới có thể hiểu
được chân tướng.
Đối với thế giới Hoa
Tạng và thế giới Cực Lạc, trong kinh
đức Phật thường nói “duy Phật nhất nhân cư Tịnh Độ” (chỉ
ḿnh đức Phật ở Tịnh Độ). “Chỉ một ḿnh đức
Phật” không có nghĩa là chỉ có một người,
đừng hiểu lầm như vậy! Người
đạt đến Phật quả viên măn rốt ráo
rất nhiều, chỗ của những vị Phật
quả viên măn rốt ráo ở gọi là Nhất Chân pháp
giới thực sự. Chỗ Đẳng Giác Bồ Tát
ở là Tương Tự Nhất Chân pháp giới, không
phải là chân thật. V́ sao? Họ vẫn c̣n một
phẩm sanh tướng vô minh chưa đoạn sạch,
đạo lư là đây. Bốn mươi mốt
địa vị Pháp Thân đại sĩ trong thế
giới Hoa Tạng, bốn mươi mốt đẳng
cấp ấy do đâu mà có? Quư vị hăy nghĩ xem: Vô minh
phiền năo chưa đoạn hết. Bốn mươi
mốt phẩm vô minh, cứ phá một phẩm liền
thăng lên một cấp, duyên do là như vậy! Nhưng
quư vị phải hiểu, Vô Minh, Trần Sa, Kiến Tư
phiền năo tánh Không, trong Chân Như tự tánh vốn không
có!
Khởi Tín Luận nói rất hay: “Bổn giác vốn có, bất giác
vốn không”. Vô minh là bất giác, phân biệt, chấp
trước đều là bất giác, bất giác vốn
không! Trong ấy há có giai cấp? Trong ấy há nào có
Phật, há có chúng sanh? Trong cảnh giới ấy, không có
Phật, không có chúng sanh, đó là Đệ Nhất
Nghĩa. Phải rơi vào Đệ Nhị Nghĩa
mới có Phật, có chúng sanh; trong Đệ Nhất
Nghĩa không có. Trong Đệ Nhị Nghĩa có
Thường Tịch Quang, có Thật Báo Độ, có
Đồng Cư độ; trong Đệ Nhất
Nghĩa không có. Đấy mới là chân tướng, Thật
Tướng của các pháp. Nếu có những vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước như
vậy th́ đều là tướng hư vọng! Kinh Kim
Cang dạy: “Phàm sở hữu
tướng, giai thị hư vọng” (Phàm những ǵ
có tướng đều là hư vọng). Nghĩa là sao? Chúng
sanh trong chín pháp giới, kể cả Đẳng Giác
Bồ Tát, trong những cảnh giới của họ, tất
cả những ǵ có tướng th́ đều là hư
vọng.
Nơi Thật Tế Lư địa
của Như Lai, phàm những ǵ có tướng đều
là Thật Tướng, kỳ diệu thay! Tuyệt
diệu ở chỗ Thật Tướng và vọng
tướng (tướng hư vọng) dung hợp thành
một, chẳng thể phân ra. Vọng tướng không
c̣n, Thật Tướng cũng không c̣n. Thật Tướng
giống như thân người, vọng tướng
giống như bóng người khi ánh nắng chiếu vào
thân. Quư vị nghĩ xem: Bóng và thân có tách rời nhau
được chăng? Không tách rời được! Có
trở ngại nhau hay chăng? Không trở ngại! Thân ta
chẳng trở ngại bóng, bóng chẳng trở ngại
thân, lư sự vô ngại, sự sự vô ngại. Quư vị
phải giác! Nếu bất giác th́ bất giác là bậy
rồi, là coi cái bóng như chính ḿnh, quên mất chính ḿnh.
Đó là ǵ? Chúng sanh trong chín pháp giới cùng mắc phải căn
bệnh này. Chân thân của chúng ta là thanh tịnh Pháp Thân,
tứ thánh, lục phàm, y báo, chánh báo trang nghiêm đều là
bóng; kinh Kim Cang đă chẳng nói rất hay đó ư?
Như mộng, huyễn, bọt, bóng!
Y báo, chánh báo trang nghiêm trong mười
pháp giới là mộng, huyễn, bọt, bóng, là tương
tự Thật Tướng trong Nhất Chân pháp giới,
phải là quả vị Như Lai th́ mới là Thật Tướng
chân thật. Phải hiểu đạo lư này! Nếu quư
vị chẳng hiểu, học tập tu hành sẽ không có
phương hướng, chẳng có mục tiêu, rốt
cuộc chẳng có kết quả. Nếu quư vị
hiểu được, thấy rơ, th́ ta có phương
hướng, ta có mục tiêu, tương lai ta sẽ
chứng nhập cảnh giới ấy, đó là cảnh
giới Phật. Chẳng cần biết quư vị
chứng đắc cảnh giới ấy sâu hay cạn,
chứng đắc rộng, chứng đắc hẹp, [cảnh
giới ấy] sẽ giúp ích rất lớn trong việc
nâng cao phẩm vị khi cầu sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới trong tương lai. Bởi thế,
nhất định phải hiểu y báo, chánh báo trang nghiêm
là mộng, huyễn, bọt, bóng, do đâu mà có? Do từ
vọng
tưởng của chúng ta biến hiện ra!
Ở đây, nói nhân dân là “nhân duyên sanh pháp”, “nhân duyên sanh pháp” (pháp được
sanh bởi nhân duyên) là ǵ? Nói cách khác,
mọi người sẽ dễ hiểu hơn: Nhân dân là
nhân quả báo ứng, điều này mọi
người hiểu được. Pháp do nhân duyên sanh là
nhân quả báo ứng, không ǵ chẳng sanh từ tâm
tưởng. Tâm quư vị nghĩ điều lành,
được quả báo lành, y báo, chánh báo trang nghiêm
đều lành. Tâm quư vị nghĩ chuyện chẳng lành,
y báo, chánh báo đều bất thiện. Chẳng phải do
ai khác tạo ra cho ḿnh gánh chịu, mà là tự ḿnh tạo,
tự ḿnh gánh chịu. Không hiểu lẽ “tự làm,
tự chịu”, đổ thừa người khác, oán
trời, trách người: “Lăo trời già không công bằng,
khiến tôi phải khổ đến thế này,
đối đăi tốt với người khác như thế,
xử tệ với tôi dường này!” Chẳng hiểu
người khác tốt lành là do thiện tâm, thiện
nghiệp của người ấy biến ra, những
điều xấu của chính ḿnh do tâm bất thiện,
nghiệp bất thiện của ḿnh biến ra, chẳng
liên can đến ai cả! Bởi thế, người thực
sự giác ngộ, thấu hiểu, sẽ sửa
đổi quan niệm lầm lạc ấy, chẳng oán
trời, chẳng trách người, biết chuyện đó
chẳng ăn nhập đến ai, đúng là “tự làm,
tự chịu”. Đó là chân tướng sự thật.
Trong thế giới Cực Lạc có nhân
dân, nhân dân là những người đới nghiệp văng
sanh trong Phàm Thánh Đồng Cư Độ, sanh vào Tây Phương
Cực Lạc thế giới. Thật ra, họ vẫn
thuộc trong cảnh giới nhân thiên, thù thắng ở
chỗ nào? Điều thực sự thù thắng chẳng
thể nghĩ bàn là được bổn nguyện oai
thần của A Di Đà Phật gia tŕ. Được trí
huệ phước báo của A Di Đà Phật gia tŕ, nâng
cao [cảnh giới, phẩm vị] lên, chẳng do chính
họ tu chứng. Điều thù thắng nhất của
Tây Phương Cực Lạc thế giới chính là chỗ
này!
“Thanh
Văn tức là Không”: Thanh
Văn là nói về Phương Tiện Hữu Dư
độ, cảnh giới cao, biết vạn pháp
đều là Không: “Nhất thiết
vô sở hữu, tất cánh không, bất khả đắc”
(Hết thảy pháp vô sở hữu, rốt ráo không,
bất khả đắc). Bởi thế, tâm họ
định. Dẫu có định, công phu định
vẫn chưa đủ, v́ sao? Chưa khai trí huệ. V́
thế, đức Phật bảo họ trụ vào Thiên
Chân Niết Bàn, Chân là Chân Không. Trụ Thiên Chân Niết Bàn
chỉ có tự thọ dụng, không có tha thọ dụng.
Tự thọ dụng là chẳng được tự
tại, chẳng viên măn nơi thanh tịnh tịch
diệt.
Trong kinh, đức Phật dạy: A La
Hán trụ Thiên Chân Niết Bàn lâu nhất là hai vạn
đại kiếp, nghĩa là họ ở trong cảnh
giới ấy lâu đến như thế bèn hồi
đầu, bèn giác ngộ, giác ngộ hồi đầu!
Bích Chi Phật thông minh hơn, Bích Chi Phật cũng
trụ Thiên Chân Niết Bàn, thời hạn dài nhất là
một vạn đại kiếp, một vạn kiếp
bèn hồi đầu, Thanh Văn tối đa hai vạn
kiếp mới hồi đầu. Chúng ta thường
gọi “hồi đầu” là “hồi Tiểu
hướng Đại”; họ không c̣n mong nghỉ
ngơi nữa, thời gian nghỉ ngơi đă đủ
rồi, lại phải nỗ lực cầu học. Thiên
Chân Niết Bàn của Thanh Văn giống như lúc ta
nghỉ học. Ví như đi học đến lúc
tốt nghiệp Trung Học, tốt nghiệp rồi không
học nữa, tạm ngừng học. Ngừng học
độ mấy năm, biết là chưa được,
vẫn phải học, lại thi vào Đại Học.
Đại Học giống như Đại Thừa.
“Bồ Tát
tức là Giả”, chữ “tức” ở đây có
nghĩa là “hết thảy”. Một thứ Không, hết
thảy đều Không. Một thứ giả th́ hết thảy
đều giả. Bồ Tát biết y báo và chánh báo trang
nghiêm trong mười pháp giới là giả tướng;
giả tướng ấy chẳng trở ngại Chân Không.
V́ thế, tâm trụ vào Chân Không, trong giả tướng,
Bồ Tát có thể giáo hóa chúng sanh, giáo hóa không chướng
ngại. Chúng ta hiện đang là phàm phu, nếu chúng ta giáo
hóa chúng sanh sẽ gây ra chướng ngại cho tâm thanh
tịnh của chính ḿnh, tâm chẳng được thanh tịnh.
Nếu là Bồ Tát th́ chẳng có chướng ngại;
suốt ngày từ sáng đến tối bận bịu
phục vụ hết thảy chúng sanh, nhưng quyết
định chẳng chướng ngại cái tâm thanh
tịnh của chính ḿnh, quyết định chẳng
chướng ngại công phu tu hành của chính ḿnh. Bồ
Tát tu lục độ vạn hạnh. Người
niệm Phật chúng ta tu nhất tâm bất loạn, tâm
chẳng điên đảo, đó là Niệm Phật
tam-muội. Bất luận làm việc ǵ, bất luận
bận bịu đến thế nào đi nữa, tâm
chẳng điên đảo, nhất tâm bất loạn.
Tâm của Bồ Tát vĩnh viễn
định, chẳng bị cảnh giới bên ngoài xoay
chuyển. Phàm phu chúng ta tiếp xúc cảnh giới bên ngoài
bèn bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, rất đáng
thương! Bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển là
gặp phải cảnh giới bèn lập tức dấy lên
phản ứng, chẳng có công năng Thiền Định.
V́ thế, có thể nói là từ lúc sanh ra cho đến
hiện tại, ư niệm ngày đêm không hề gián
đoạn, niệm trước vừa diệt, niệm
sau liền sanh, tốc độ rất nhanh, quyết
định chẳng có hai niệm nào giống nhau. Ư
niệm nhanh hơn thời gian, thời gian tính bằng phút,
bằng giây; theo như kinh Phật nói, ư niệm của
chúng ta khởi lên, diệt mất trong một phần
vạn giây. Nói cách khác, trong khoảng thời gian chừng
một giây, ư niệm của chúng ta đă một vạn
lần sanh diệt. Đấy là những điều được
nói trong kinh Nhân Vương. Tôi đă thưa cùng các vị
đồng học rồi, đấy chưa phải là
chân thật, chỉ là đức Phật phương
tiện nói. Nói phương tiện mà đă phi
thường lắm rồi! V́ sao?
Theo kinh Nhân Vương, có bao nhiêu ư
niệm sanh diệt trong một giây? Hai mươi mốt
vạn sáu ngàn niệm, hai mươi mốt vạn sáu ngàn
niệm sanh diệt đấy nhé! Bản thân ta không tự
biết, điều không biết đó được
gọi là “thô tâm đại ư”. Một niệm sanh khởi
chính là hiện ra tướng trạng giống như chúng
ta xem phim: Tấm ảnh vừa lọt vào ống kính
của máy chiếu phim th́ tấm ảnh đó bèn
được rọi lên màn bạc. Màn bạc là hư
không, là thế giới, chúng sanh sanh trong đó thoáng một
cái rồi diệt mất. Diệt rồi lại lập
tức sanh: Tấm ảnh thứ hai hiện ra, tốc
độ rất nhanh. Chúng ta thấy dường như là
thực sự có [một cảnh tượng đang diễn
biến liên tục], chứ thật ra là từng tấm phim
riêng rẽ, h́nh ảnh trong mỗi tấm lại khác nhau,
tuyệt đối chẳng có hai tấm ảnh nào
giống nhau! Đó là tướng “tương tục”
(tiếp nối).
Kinh Kim Cang nói: “Như
lộ, diệc như điển”, Lộ (露) là sương móc. Lộ ví như
tướng tương tục, Điển (電: chớp)
ví như chân tướng. Mỗi một tấm phim
được chiếu lên là chân tướng, bao nhiêu
tấm tiếp nối nhau là tướng tương
tục. V́ sao h́nh ảnh trong mỗi tấm không giống
nhau? Các ư niệm của chúng ta không giống nhau. Kinh
Phật giảng ư niệm là “thức”, chỉ là do thức
biến hiện. Mỗi niệm khác nhau biến hiện
tướng trạng cảnh giới khác nhau. Bồ Tát đă
giác ngộ, Ngài có thể hằng thuận chúng sanh, tùy
hỷ công đức. Công đức là ǵ? Công đức là
bất biến, chẳng chuyển theo cảnh giới bên
ngoài. Đó là công đức. Chuyển theo cảnh giới
bên ngoài th́ chẳng có công đức, mà là phiền năo, v́ quư
vị lệ thuộc vào cảnh giới bên ngoài.
Người học Phật nói đến “công phu”, vậy
công phu là ǵ? Là chẳng chuyển theo cảnh giới bên
ngoài, ấy là Định; hiểu rơ rệt rành rẽ
cảnh giới bên ngoài, hiểu thấu suốt th́ là
Huệ. Định Huệ cùng học cân bằng, cùng vận
dụng Định và Huệ th́ chẳng thể nghĩ
bàn. Cảnh giới ấy sâu lắm.
V́ sao Bồ Tát luôn độ chúng sanh,
Tiểu Thừa trụ Niết Bàn rất tự tại,
sao Bồ Tát chẳng trụ Niết Bàn? Bồ Tát trụ
trong Niết Bàn, nhưng Niết Bàn ấy lại chẳng
trở ngại việc độ chúng sanh, tuyệt
diệu! Niết Bàn là như như bất động,
thanh tịnh tịch diệt. Bởi vậy, Niết Bàn
chứng bởi Đại Thừa Bồ Tát gọi là Vô Trụ
Niết Bàn, nơi quả địa Như Lai cũng giống
như vậy. Thế nào là Vô Trụ Niết Bàn? Chẳng
trụ vào sanh tử, chẳng trụ vào hai bên. Nói cách khác, chẳng
trụ vào Niết Bàn bèn có sanh tử, chẳng trụ sanh
tử chính là Niết Bàn. Nếu nói Niết Bàn lẫn sanh
tử hai bên đều trụ cả, đều chiếu
cố cả hai th́ hai bên không xung đột, hai bên không mâu
thuẫn, hai bên viên dung, hai bên tự tại, viên dung vô
ngại! Bởi thế, đạt đến địa
vị Bồ Tát th́ thực hiện được
điều đó, bởi Không - Giả - Trung hoàn toàn dung hợp,
vừa là Không, vừa là Giả, vừa là Trung.
Do trong cảnh giới phàm phu, vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước hết sức
nghiêm trọng, Không - Giả - Trung chẳng thể viên dung,
Không chẳng phải là Giả, Giả chẳng phải là
Trung! Trí huệ chân chánh hiện tiền, biết chúng là
một, một mà ba, ba nhưng một; giống như cái
nắp của chén trà, chúng ta hăy quan sát như sau: Nếu
lật ngửa lên nó bị lơm xuống; lật
ngược lại, nó bèn lồi lên. Người chẳng
liễu giải chân tướng sự thật, chỉ đứng
tại một bên [để nh́n sự việc] ắt
sẽ đôi co. Kẻ này nói: “Tôi thấy nó lơm xuống”,
người kia bảo: “Tôi thấy nó lồi lên”. Hai
người căi cọ, tri kiến khác nhau, chẳng thấy
chân tướng sự thật. Nếu lật nó lại th́
mới hoảng nhiên đại ngộ: Lơm vốn là
lồi, lồi vốn là lơm, là một, chứ không phải
hai.
Phật, Bồ Tát thông minh ở chỗ
nào? Mặt nào cũng thấy cả. Phàm phu và Tiểu
Thừa chỉ thấy được một bên, v́
thế, có chấp trước. V́ chỉ thấy một
bên nên nếu quư vị nói cái này lơm xuống, họ
chẳng tin: “Rơ ràng là nó lồi lên, sao anh lại nói lơm
xuống?” Người thấy bên kia bèn nói: “Rơ ràng là nó lơm
xuống, sao anh bảo nó lồi lên?” Tranh luận chẳng
thôi! Họ không thấy mọi mặt, thấy mọi
mặt là trí huệ viên măn. Đức Phật dạy chúng
ta đối với pháp giới, hư không, thế
giới, chúng sanh, vi trần phải nh́n mọi mặt, có như
thế mới viên dung vô ngại.
6.3.1.2.3. Bảo tŕ đức
thủy (nước tám công
đức trong ao báu)
Lại xem tiếp đoạn kế là “bảo tŕ đức thủy”
(nước tám công đức trong ao báu), chúng ta đọc
kinh văn một lượt. Trong đoạn này không trích
đoạn sách Yếu Giải.
Hựu Xá Lợi Phất! Cực
Lạc quốc độ, hữu thất bảo tŕ, bát
công đức thủy sung măn kỳ trung. Tŕ để
thuần dĩ kim sa bố địa, tứ biên giai
đạo, kim, ngân, lưu ly, pha lê hiệp thành.
又舍利弗。極樂國土。有七寶池。八功德水。充滿其中。池底純以金沙布地。四邊階道。金銀琉璃。玻璃合成。
(Lại này Xá Lợi Phất!
Cơi nước Cực Lạc có ao bảy báu, nước
tám công đức đầy ắp trong ấy. Đáy ao
thuần dùng cát vàng trải đất. Bốn phía là
bậc lên, lối đi, dùng vàng, bạc, lưu ly, pha lê
hợp thành).
Trong đoạn này, vàng là
một thứ, bạc là một thứ, lưu ly là một
thứ, pha lê là một thứ, ở đây nói đến
bốn thứ. Nay chúng ta gọi Lưu Ly là Phỉ Thúy
(Jadeite), tức một thứ ngọc màu xanh lá cây; Pha Lê nay
gọi là thủy tinh. Trước kia, chưa chế ra pha
lê (crystal), pha lê được cổ nhân nói đến
cũng như pha lê trong kinh Phật, đều là thủy
tinh, là một chất t́m thấy trong thiên nhiên, hoàn toàn trong
suốt. Hiện tại, chúng ta biết thủy tinh
được chế thành rất nhiều thứ,
thường thấy nhất là tṛng mắt kiếng.
Mắt kiếng thủy tinh bảo vệ tṛng mắt.
Lại xem tiếp đoạn dưới:
Thượng hữu lâu các.
上有樓閣。
(Phía
trên có lầu gác).
Ư nói phía trên bờ ao bảy báu,
“lại có lầu gác”,
những lầu gác ấy…
Diệc dĩ kim, ngân, lưu ly,
pha lê.
亦以金。銀。琉璃。玻璃。
(Cũng dùng vàng, bạc,
lưu ly, pha lê).
Lại c̣n thêm:
Xa cừ, xích châu, mă năo, nhi nghiêm
sức chi.
硨磲。赤珠。瑪瑙。而嚴飾之。
(Xa cừ,
xích châu, mă năo để trang hoàng).
Đấy là bảy báu, nói
đến bảy báu là chỉ những thứ đó.
Tŕ trung liên hoa.
池中蓮華。
(Hoa
sen trong ao).
Trong ao sen báu ấy lại có hoa
sen.
Đại như xa luân, thanh
sắc thanh quang, hoàng sắc hoàng quang, xích sắc xích quang,
bạch sắc bạch quang, vi diệu hương
khiết.
大如車輪。青色青光。黃色黃光。赤色赤光。白色白光。微妙香潔。
(To như
bánh xe, màu xanh ánh sáng xanh, màu vàng ánh sáng vàng, màu đỏ ánh
sáng đỏ, màu trắng ánh sáng trắng, vi diệu
thơm sạch).
Đến đây là một
đoạn. Chúng ta nói đến nước tám công
đức trong ao báu, đă đọc qua kinh văn
rồi. Nghĩa thú trọng yếu trong đoạn này là “không có cái khổ lăo - tử”.
Dưới đây, chúng tôi chia thành hai tiểu đoạn “thượng minh trụ xứ,
thử tiết minh sanh xứ” (đoạn trên nói về
trụ xứ, tiết này nói về chỗ để văng
sanh). Các cây báu, lan can báu được nói trong phần trên
chính là “địa lợi chi
lạc”, tức là hoàn cảnh cư trú như hàng cây
bảy báu v.v... C̣n ao báu, nước tám công đức là nói
đến “sanh xứ” (chỗ
hóa sanh) của chúng ta khi văng sanh thế giới Cực
Lạc. Thế giới Cực Lạc chẳng giống
với thế gian của chúng ta. Trong thế giới chúng
ta là thai sanh, thai sanh rất khổ. Tây Phương Cực
Lạc thế giới là hóa sanh, hóa sanh là biến hóa.
“Thử
độ Đồng Cư thị hữu lậu Hoặc
nghiệp sở cảm” (Đồng Cư trong cơi này (Sa
Bà) là do Hoặc nghiệp hữu lậu cảm vời). “Thử độ” tức là
thế gian, là quả địa cầu của chúng ta,
địa cầu này là Phàm Thánh Đồng Cư
độ. Cơi này do đâu mà có? Trong kinh, đức Phật
dạy “do Hoặc nghiệp
hữu lậu”. Lậu là tên khác của phiền năo.
Hữu Lậu là có phiền năo, có tập khí. Chỉ
cần quư vị có phiền năo, tập khí, quư vị không có
cách chi thoát khỏi luân hồi lục đạo
được. Lục đạo luân hồi do Hoặc
nghiệp hữu lậu cảm thành. Chúng ta thấy trong
kinh luận, đức Phật giảng như thế
rất nhiều lần, đúng là vô số lần, ngàn kinh
muôn luận đều giảng cho chúng ta biết chân
tướng sự thật này.
Lục đạo do Kiến Tư phiền
năo biến hiện. Bởi thế, đức Phật nói
chỉ cần buông Kiến Tư phiền năo xuống
được th́ lục đạo luân hồi chẳng
c̣n nữa. Trong Chứng Đạo Ca, Vĩnh Gia
đại sư có viết rất hay: “Mộng lư minh minh hữu lục thú” (Trong mộng
rành rành phân sáu nẻo), “lục
thú” chính là lục đạo. “Giác
hậu không không vô đại thiên” (tỉnh rồi, ba
cơi rỗng toang hoang). Lục đạo luân hồi
chẳng thật, nó là cảnh giới trong mộng, do mê
hoặc, điên đảo biến hiện, nhưng quư
vị chẳng biết đấy là mộng, nên phải
chịu đựng trong giấc mộng đó. Bởi
thế, quư vị tạo thiện nghiệp sẽ
hưởng phước trong mộng, có lạc thọ;
tạo ác nghiệp th́ thọ tội trong mộng, có
khổ thọ. Quư vị chẳng tỉnh giấc mộng
ấy. Đến lúc nào mới tỉnh? Khi nào đoạn
được nghiệp nhân lục đạo, quả sẽ
không c̣n nữa. Nghiệp nhân chính là Kiến Tư phiền
năo.
Trong Kiến Tư phiền năo có một
thứ là Thân Kiến: Chấp trước thân này là Ta. Quư
vị suy nghĩ xem: Lục đạo chúng sanh có ai không v́
chính thân ḿnh hay không? Hành thiện cũng v́ cái thân này,
tạo ác cũng v́ cái thân này, tưởng thân này là Ta,
đó là sự lầm lạc thứ nhất. Bởi
vậy, tôi thường khuyên lơn các đồng học:
Nếu chúng ta thực sự mong được giác
ngộ, mong được thấu hiểu, thấu
suốt, th́ phải dụng công nơi đâu? Đầu
tiên là phải bỏ được ư niệm tự tư
tự lợi mới ḥng vào được cửa. Quan
niệm tự tư tự lợi sai lầm, hành vi sai
lầm ấy nếu chẳng thể triệt để
buông xuống được, dù quư vị có duyên phận
tốt tới đâu đi nữa, quư vị vẫn
chẳng thể vào được cửa nhà Phật. “Cửa nhà Phật” nghĩa là
ǵ? Chẳng thể tiến nhập cảnh giới
Phật được!
Lục đạo phàm phu đáng
thương! Từ vô lượng kiếp đến nay
lăn lóc trong luân hồi, thời gian trong ba
đường thiện ngắn ngủi, thời gian trong
ba đường ác dài lâu. Quư vị nói xem v́ lẽ nào
vậy? V́ tự tư tự lợi. Tự tư tự
lợi làm hại quư vị, khiến quư vị đời
đời kiếp kiếp phải chịu khổ báo trong tam
đồ. Đức Phật đúng là từ bi
đến cùng cực, đem toàn bộ chân tướng
sự thật, nhân quả trước sau giảng rơ ràng,
minh bạch cho chúng ta, hiềm rằng chẳng ngộ!
Thế nào là ngộ? Buông tự tư tự lợi
xuống th́ người ấy liền giác ngộ! Buông tự
tư tự lợi xuống không được, không
thể giác ngộ. Nghiêm trang như tượng, nói
đến nỗi hoa trời rơi lả tả, nhưng
không buông tự tư tự lợi xuống
được, vẫn chưa thực sự giác ngộ!
Kinh giáo gọi kẻ đó là “thế trí biện thông”,
chẳng phải trí huệ chân thật. Kẻ trí huệ chân
thật thay đổi quan niệm, đó là tu hành! Sửa
đổi quan niệm lầm lạc cho đúng, khởi
tâm động niệm là tâm ǵ? Tâm chân thành, tâm thanh tịnh,
tâm b́nh đẳng, tâm chánh giác, tâm từ bi; khởi tâm
động niệm trong cuộc sống thường
nhật toàn là những tâm ấy.
Trong những tâm ấy không có tự
tư tự lợi, trông thấy chúng sanh khổ sở bèn
muốn giúp họ, toàn tâm toàn lực xả kỷ v́
người. Quư vị thấy Thích Ca Mâu Ni Phật
chẳng phải giống như thế hay sao? Vứt
bỏ cuộc sống an vui, giàu có của chính ḿnh, vứt
bỏ địa vị xă hội, vứt bỏ hết
thảy quyền thế, dùng thân thể, dùng trí huệ của
Ngài để giúp hết thảy chúng sanh giác ngộ, giúp
hết thảy chúng sanh đoạn ác tu thiện, giúp
hết thảy chúng sanh ĺa khổ được vui, giúp
hết thảy chúng sanh chuyển phàm thành thánh. Những việc
Ngài thị hiện suốt ngày từ sáng đến
tối là v́ người khác diễn nói, hy sinh, phụng
hiến, không có chút nào tự tư tự lợi. Hành vi luôn
lợi ích xă hội, lợi ích hết thảy chúng sanh. Có
vậy Phật mới có thể nhập cảnh giới
Phật. Cảnh giới Phật chính là cảnh giới
của tánh đức chính ḿnh, minh tâm kiến tánh.
Sở dĩ phàm phu, Quyền Tiểu tu
hành bao kiếp chẳng thể khế nhập, nguyên nhân v́
đâu? Chưa buông tự tư tự lợi xuống
được. Đấy chẳng phải chuyện
dễ! Nói chung, chúng ta căn tánh hạ liệt rất sâu,
phiền năo tập khí quá nặng, há dễ dàng buông
xuống được ư? Phật gặp những chúng
sanh như vậy th́ làm sao? Không khuyên kẻ ấy buông
xuống, v́ sao? Không có cách chi hết, không thực hiện
được! Khuyên họ làm ǵ? Khuyên họ tạo
thiện nghiệp, chớ tạo ác nghiệp, Phật giáo
hóa chúng sanh tu Ngũ Giới, Thập Thiện, mục
đích chẳng nhằm dạy họ thoát luân hồi,
mục đích là ngăn ngừa khỏi bị đọa trong
ba ác đạo. Do tư tưởng, ngôn ngữ, hành vi của
quư vị chẳng lành; chẳng lành th́ quư vị sẽ chiêu
cảm khổ báo trong tam đồ, rất đáng
thương, rất thê thảm! Quư vị có thể
đoạn ác tu thiện, quư vị tŕ Ngũ Giới, tu
Thập Thiện th́ đời sau sẽ hưởng
phước báo trời - người. Quư vị chẳng thể
buông tự tư tự lợi xuống được, quư
vị chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi,
[nên đành phải] giúp cho quư vị hưởng phước
báo trời - người. Đức Phật giáo hóa chúng sanh
đúng là ứng cơ thuyết pháp (thuyết pháp ứng
theo căn cơ), căn cơ quư vị như thế nào,
nguyện vọng như thế nào, Phật đều
thỏa măn quư vị. Đấy là nói [về những
điểm mà] thế giới Sa Bà của chúng ta khác
với Tây Phương Cực Lạc thế giới.
“Bỉ độ
năi vô lậu tịnh nghiệp sở thành, hựu vị A
Di Đà Phật nguyện hạnh chi sở trang nghiêm” (Cơi kia do tịnh nghiệp vô lậu
cảm thành, lại được trang nghiêm bằng
nguyện hạnh của A Di Đà Phật). Câu “được trang nghiêm” có
nghĩa là gia tŕ. Bốn mươi tám nguyện của A Di
Đà Phật, công đức tu hành trong vô lượng
kiếp của A Di Đà Phật gia tŕ chúng ta. Quư vị
muốn tu vô lậu tịnh nghiệp th́ quư vị phải
cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới, không thể chẳng hiểu đạo lư này.
Lại thưa cùng quư vị: Trong tâm quư vị c̣n oán hận
kẻ nào đó, vẫn c̣n có kẻ nào ta thấy gai
mắt, sẽ chẳng đến được thế
giới Cực Lạc. V́ sao? Tâm thái ấy chính là Lậu
nghiêm trọng, chưa phải là Vô Lậu, mà là Hữu Lậu.
Hữu Lậu tu Tịnh nghiệp th́ nghiệp ấy
cũng chẳng tịnh, cũng biến thành Hoặc
nghiệp. Bởi thế, muốn sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới, sao không nh́n vào
những bà cụ già niệm Phật, lúc văng sanh rất
tự tại dường ấy? Quư vị phải chú tâm
quan sát họ, lúc họ c̣n sống có oán hận ai chăng?
Không có! V́ sao? Đều một nét bút sổ toẹt cả
rồi! Tôi muốn sanh về thế giới Cực
Lạc; đợi khi tôi thành Phật, tôi sẽ trở
về độ mấy người. Đó là một
điều kiện hết sức quan trọng để
được văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới.
Tu hành trọng yếu nhất là phải
sửa đổi những hành vi lầm lạc. C̣n có
một ai chẳng vừa ư, có chuyện ǵ chẳng khoan
khoái th́ đều là những thứ chướng ngại
văng sanh, tâm ḿnh chưa thanh tịnh. Điều ấy
giải thích v́ sao văng sanh khó, một vạn người
niệm Phật chỉ có một, hai người
được văng sanh; đạo lư là đây. Nếu quư
vị chưa chuyển được phiền năo th́ dùng
một câu A Di Đà Phật đè xuống, đè chặt
cho nó khỏi khởi tác dụng. Nếu trông vào vận may
th́ lúc lâm chung, trong hơi thở cuối cùng, không đè
giữ được phiền năo, nó bộc phát ra; bộc
phát rồi bèn đọa tam đồ.
V́ vậy, b́nh thời phải dùng công phu
để chuyển biến nó, ta không oán hận nữa,
càng tăng thêm từ bi. Người ta đem tâm oán hận
ḿnh, ḿnh dùng tâm từ bi đối đăi họ, ta dùng tâm
cảm ơn đối xử với họ. Nếu quư
vị hỏi: Kẻ ấy đối với ta có ân ǵ
vậy? Thành tựu Nhẫn Nhục Ba La Mật cho ta,
đó là ân. Thành tựu Tŕ Giới Ba La Mật cho ta. V́ sao
nói thành tựu Tŕ Giới? Ta đối với kẻ
ấy chẳng báo thù, đó là Tŕ Giới, giới chẳng
sát sanh, chẳng có ư niệm báo thù. Chẳng có ư niệm sân
khuể là Nhẫn Nhục. Chẳng có ư niệm báo thù là
không sát sanh, chẳng sát là Tŕ Giới. Thành tựu sáu Ba La
Mật cho quư vị, đấy chẳng phải là ân
huệ th́ là ǵ? Phiền năo tập khí từ vô thỉ
kiếp đến nay từ đây được hóa
giải, niệm Phật như vậy sẽ chẳng
chướng ngại văng sanh, mới thực sự cảm
được A Di Đà Phật tiếp dẫn lúc lâm
chung. Bởi thế, nếu có một chuyện trong thế
gian nào ḿnh không buông xuống được th́ đều
là phiền phức cả!
Nếu quả thật thân tâm, thế
giới, hết thảy đều buông xuống
được, phiền năo, tập khí chẳng khởi
hiện hành, người ấy niệm Phật văng sanh
hết sức b́nh an, ổn thỏa, thích đáng, lúc lâm
chung Phật đến tiếp dẫn. V́ thế, thế
giới Cực Lạc hoàn toàn do vô lậu tịnh
nghiệp tạo thành. Vô lậu là chuyển biến
được phiền năo, tập khí, câu này rất
trọng yếu. Đới nghiệp văng sanh chỉ có
thể mang theo những chủng tử tập khí trong A
Lại Da thức, chứ chẳng thể mang theo những
nghiệp hiện hành. Hiện hành là ǵ? Trong hiện tại
vẫn thường phát tác, đó gọi là “hiện hành”,
những nghiệp ấy không mang theo được! Chúng
ta mỗi ngày từ sáng đến tối sanh sống, làm
việc, xử sự, đăi người, tiếp vật
đều là tu hành, sửa đổi hết những
chứng bệnh, tập khí từ trước.
Trước kia, ta hận người, nay ta yêu
thương người; trước kia ḿnh chán ghét
người, nay ḿnh có thể giúp đỡ họ. Bây
giờ đă đến giờ rồi.
*
Chúng ta xem tiếp đoạn
dưới [trong sách Yếu Giải]. Phần thứ
năm:
“Tứ sắc
liên hoa, vô thai sanh khổ, vô ái biệt ly khổ” (Hoa sen bốn màu, không có nỗi khổ
thai sanh, không có nỗi khổ ái biệt ly): Trong thế gian
này, chúng ta là thai sanh, thai sanh có nỗi khổ mười
tháng thai ngục. Thai sanh có duyên rất sâu với cha mẹ
nên có nỗi khổ ân ái biệt ly. Đấy là
điều hết thảy chúng sanh thai sanh chẳng thể
tránh khỏi được, trong ấy có ân t́nh. Thế
giới Tây Phương không như vậy, hóa sanh trong hoa
sen. V́ thế, chắc chắn không có mười tháng thai
ngục, không có hiện tượng ấy. Sanh về
thế giới Cực Lạc hóa sanh trong hoa sen, nên không có
các hiện tượng ân t́nh, ân ái; hiện tượng
t́nh chấp cũng không có. Thế giới Cực Lạc
chẳng giống như thế giới của chúng ta. Chúng
ta lại xem tiếp đoạn dưới nói ǵ.
“Liên hoa đại
tiểu quang sắc bất đồng. Kinh vân: ‘Chúng sanh phát
tâm tín nguyện tŕ danh, tŕ trung tức sanh nhất liên nhụy,
tiêu danh ư thượng. Nhược tinh tấn niệm Phật,
hoa tắc nhật đại, quang sắc nhật tiển.
Như trung đồ thoái tâm, hoặc tập tha pháp môn, tắc
liên tiệm khô” (Hoa sen
lớn, nhỏ, ánh sáng, màu sắc khác nhau. Kinh nói: ‘Chúng sanh
phát tâm tín nguyện tŕ danh, trong ao liền sanh một búp sen,
đề tên người ấy. Nếu tinh tấn
niệm Phật, hoa càng ngày càng to, ánh sáng, màu sắc ngày càng
tươi tắn. Nếu giữa chừng ngă ḷng, hoặc
đổi sang tu pháp môn khác, hoa ấy dần dần tàn khô).
Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới quả
thật chẳng thấy có hiện tượng sanh - lăo - bệnh
- tử, chẳng trông thấy hiện tượng sanh - trụ
- dị - diệt. Chẳng hạn như nói người
văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, sanh
vào Tây Phương Cực Lạc thế giới
đều là hóa sanh, chứ không phải là sanh làm
đứa bé con trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới dần dần lớn lên. Nếu là như vậy,
sẽ thành ra có sanh - lăo - bệnh - tử. Sanh vào thế
giới ấy sắc thân không khác ǵ Phật A Di Đà,
chứ không phải hiện làm một đứa bé con
dần dần lớn lên, chẳng phải vậy! V́
thế, họ không có sanh trưởng. Sắc thân
được hiện không khác ǵ như trong bốn
mươi tám nguyện đă nói, đều là thân vàng ṛng sắc
tía được giồi mài, đầy đủ
tướng hảo, quang minh viên măn. Đó là do bổn
nguyện oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ, chẳng
phải chỉ có ba mươi hai tướng, tám
mươi vẻ đẹp phụ, mà là thân có vô
lượng tướng, mỗi tướng có vô
lượng hảo, nhưng tất cả chúng sanh
đều như nhau. Thế giới Cực Lạc là
thế giới b́nh đẳng, rất chẳng thể
nghĩ bàn!
Chỉ riêng hoa sen trong ao là thấy có
tướng sanh diệt. Hoa sen từ đâu có? Đúng
như trong Đại Thừa Phật giáo thường nói:
“Từ tâm tưởng mà sanh”. Mười
phương ba đời hết thảy chúng sanh, chẳng
hạn như bản thân chúng ta, trong tâm muốn sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới, thân cận A
Di Đà Phật, trong ao bảy báu bên thế giới
Cực Lạc bèn mọc lên một búp sen, “liên nhụy” (蓮蕊) là búp sen, nhưng trên búp sen ấy có ghi
tên tuổi quư vị. Quư vị niệm Phật rất tinh
tấn, tinh tấn niệm Phật, hoa sen ấy sẽ
dần dần ngày càng to, tinh tấn niệm Phật hoa bèn
to ra. Màu sắc và quang minh của hoa hoàn toàn tương
ứng với độ lớn của hoa. Ánh sáng, màu
sắc tươi sáng. Đấy là nói niệm Phật
rất tinh tấn.
Nếu quư vị niệm một
khoảng thời gian, về sau không niệm nữa, do nhân
duyên nào khác chướng ngại quư vị, quư vị bị
ảnh hưởng, đổi sang học môn khác, chẳng
tu Tịnh Độ nữa, đổi sang học pháp môn
khác, đóa sen ấy của quư vị dần dần bị
héo khô, không c̣n nữa. V́ vậy, trong thế giới
Cực Lạc chỉ có thể thấy hiện
tượng sanh diệt nơi hoa sen trong ao sen. Chuyện hoa
sen mỗi ngày lớn lên lại vừa to vừa
đẹp là có; mỗi ngày cũng thường có rất
nhiều hoa bị khô héo đi. Chúng tôi suy tưởng:
Chắc chắn là trong số các hoa sen, búp sen rất
nhiều, nhưng những hoa thực sự nở hoa
kết quả trong tương lai chẳng nhiều; rất
nhiều búp sen bị héo khô đi. Giống như thầy
Lư đă nói: “Một vạn
người niệm Phật, chỉ có hai ba người
được văng sanh”. Đấy chẳng phải là
nói một vạn búp sen, chỉ có hai ba búp tương lai
nở hoa, c̣n hơn chín ngàn chín trăm búp kia đều
bị héo khô! Nhưng quư vị phải hiểu đấy
là hiện tượng hiện tại trong thế giới
Sa Bà của chúng ta, thế giới phương khác không
nhất định phải giống như vậy.
Trong kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy có
rất nhiều thế giới thuần tịnh,
người trong những nơi ấy rất khá, rất
có thể là một vạn người niệm Phật,
một vạn người văng sanh. Tổ sư đại
đức nói “vạn
người tu, vạn người đến”,
chẳng sót một ai. Chỉ trong thế giới này
của chúng ta rất tệ, các đồng học niệm
Phật không chịu đựng nổi khảo nghiệm. Nhất
là trong thời kỳ Mạt Pháp hiện tại, tà tri tà
kiến rất nhiều, người chánh tri chánh kiến quá
hiếm hoi. Người tà tri tà kiến rất nhiều,
trong xă hội nhất định nẩy sanh hiện
tượng “sai lầm
chất chứa lâu ngày trở thành đúng”. Ai nấy
đều tà kiến nên tà kiến trở thành chánh
kiến, người chánh kiến hiếm hoi, chánh kiến
biến thành tà kiến. Đó là khảo nghiệm nghiêm
trọng đối với người niệm Phật
cầu sanh Tịnh Độ.
Muốn đảm bảo chẳng
bị tà tri tà kiến ảnh hưởng, chỉ có
một phương pháp: Hằng ngày đọc kinh, hằng
ngày nghiên cứu giáo pháp, giống như đạo tràng
của chúng ta đang duy tŕ. Nếu quư vị hỏi v́ sao
có thể duy tŕ ư? Mỗi ngày giảng kinh, mỗi ngày
đều học tập, không cần biết quư vị
tích cực hay không tích cực, không tích cực cũng không
ăn nhằm ǵ, cốt sao mỗi ngày quư vị thực
hành thực sự, hành lâu ngày, giả cũng biến thành
chân. Dần dần, từ từ, mỗi ngày hiểu
một chút, mỗi ngày hiểu một tí, dần dần!
Quư vị tích lũy mười năm, hai mươi
năm, chẳng biến thành chân hay sao? V́ thế, công phu
chẳng được gián đoạn. Chúng ta sanh trong
thời đại này - trong thời đại của
Ấn Quang đại sư không có vấn đề,
thời đại Ngài thiện căn vẫn rất sâu
dầy, v́ sao? Hết thảy người đọc sách không
ai chẳng đọc sách cổ, không ai chẳng hiểu Văn
Ngôn, người niệm Phật đều có căn
bản kha khá. V́ thế, lăo nhân gia chủ trương chân
chánh tu hành cầu sanh Tịnh Độ, đạo tràng
chẳng được lớn, đạo tràng nhỏ
thôi; đồng học chẳng được nhiều,
chẳng được quá hai
mươi người. Thực sự ra, Ngài dạy
như vậy quả thật đều là v́ nghĩ
đến chúng ta hiện tại.
Nay theo đường lối dân chủ,
tự do, cởi mở, tự viện không có hằng
sản (tài sản cố định), thâu nhập chẳng
ổn định. Đạo tràng lớn, người
đông, chi tiêu nhiều, chẳng dễ duy tŕ, quư vị
phải nhọc ḷng. Nếu nhọc ḷng sẽ chẳng
thể văng sanh, v́ tâm chẳng thanh tịnh. V́ thế,
người ít, đạo tràng nhỏ, chi phí duy tŕ tiêu xài
ít, dễ dàng duy tŕ, chắc chắn không cần hóa duyên,
chắc chắn không phải quyên góp, trong đạo tràng chẳng
làm pháp hội, không có kinh sám Phật sự, không truyền
giới, không giảng kinh, chỉ có niệm Phật. Hằng
ngày đả Phật thất, Phật thất suốt
năm, công khóa thường nhật chiếu theo nghi
thức Phật thất phổ thông, chiếu theo cách
thức tu tập tại núi Linh Nham ở Tô Châu. Nếu thực
sự có thể tuân theo lời lăo pháp sư khai thị,
không ai chẳng thành tựu. Trong số hai
mươi người ấy, hai mươi người sẽ
văng sanh trong tương lai. Chính xác! Hết sức chính xác,
chẳng cầu lấy náo nhiệt! Cầu lấy náo
nhiệt th́ đạo tâm và tâm thanh tịnh của ta
ắt bị chướng ngại; đúng là dạy chúng ta
thân cận A Di Đà Phật.
Nhưng hiện tại có khó khăn, khó
khăn ở chỗ nào? Chúng ta biết kinh giáo quá ít,
thiện căn chẳng sâu dầy như người
đời trước. Đấy là nói so với những
người thuộc năm đầu Dân Quốc,
người thuộc lứa tuổi cao hơn một Giáp
Tư (sáu mươi năm), chúng ta không bằng họ, họ
có căn bản sâu dầy hơn chúng ta. V́ thế,
người hiện tại nếu hiểu rơ Tịnh tông
được mấy phần th́ sẽ có ích rất
lớn cho tín tâm và nguyện tâm của quư vị. V́ thế,
chúng tôi tuân thủ mỗi điều tổ Ấn Quang
răn dạy, ngoại trừ điều răn “không
giảng kinh”, chúng tôi đổi thành “nhất định
phải giảng kinh”, Giải lẫn Hạnh cùng coi
trọng.
Chúng ta niệm Phật ở đây
phải thực sự đảm bảo có trí huệ, có
định lực mới ḥng pḥng chống tà tri tà kiến.
Mỗi ngày tối thiểu giảng kinh hai tiếng, th́ quư
vị mới được che chở, chẳng bị dao
động bởi tà tri tà kiến. Đương nhiên,
mỗi ngày có thể giảng bốn tiếng sẽ chắc
chắn an toàn. Theo tôi nghĩ, đạo tràng lư
tưởng là mỗi ngày giảng kinh bốn tiếng, hai
mươi giờ kia niệm Phật, một ngày hai
mươi bốn tiếng đồng hồ Niệm
Phật Đường không để gián đoạn. Con
người cũng cần phải nghỉ ngơi th́ thay
phiên nhau nghỉ ngơi; luân lưu không cần quy
định. Hễ quy định bèn có áp lực, phải
làm sao? Phải làm như cách lăo ḥa thượng Đế
Nhàn dạy người đồ đệ vá nồi:
Mệt cứ nghỉ, nghỉ khỏe rồi lại vào
Niệm Phật Đường niệm Phật tiếp.
Chẳng có mảy may áp lực nào, thực sự tinh
tấn.
Người niệm Phật chân chánh
niệm Phật trong Niệm Phật Đường, lúc
mệt bèn nghỉ, tôi nói chẳng cởi áo hải thanh.
Chúng ta đắp y, lúc nghỉ ngơi, phải cởi y,
nhưng không cởi áo hải thanh. Lúc nghỉ khỏe
lại đắp y, lập tức lên Niệm Phật
Đường, có như vậy th́ mới ḥng thành
tựu. Phần đầu kinh A Di Đà có nhắc
đến Bất Hưu Tức Bồ Tát và Thường
Tinh Tấn Bồ Tát để làm gương mẫu
về mặt Hạnh môn cho chúng ta. Giải môn nhằm giúp cho
tín tâm và nguyện tâm của ta sâu thêm, tăng trưởng Định
- Huệ. Chúng ta có Định, có Huệ, có Tín, có Nguyện
th́ tự nhiên hết thảy tà tri tà kiến chẳng
thể xâm nhập tâm ta, chẳng thể lọt vào tai chúng
ta, khiến chúng ta có thể giữ ǵn sự thuần
tịnh thuần thiện.
Hết thảy chuyện bên ngoài
chẳng ăn nhập ǵ đến ta, chúng ta không hỏi
tới. Bởi vậy, truyền h́nh, tạp chí, radio,
nhật báo chẳng cần phải xem, nghe, ngày ngày thiên
hạ thái b́nh, ngày ngày chẳng có việc ǵ, tâm
định, tâm tịnh. Chỗ như vậy mới
gọi là “đạo tràng”, tịnh nghiệp đạo
tràng. Những người đến đạo tràng, chúng
ta phải khuyên dạy họ buông xuống vạn duyên, cùng chúng ta niệm Phật, cùng nhau nghe
kinh. Hết thảy mọi sự thế gian rối ren
tạp nhạp trong xă hội chẳng cần bàn
đến ở nơi đây th́ nơi đây là Tịnh Độ,
nơi đây thiên hạ vốn vô sự. Chúng tôi tin
hoa sen trong ao bảy báu của những người phát
nguyện cầu văng sanh trong đạo tràng nhỏ ấy
nhất định mỗi ngày tăng trưởng, quang
minh, màu sắc đẹp đẽ. Lại xem tiếp
đoạn kế:
“Tín tâm kiên
cố, nhất sanh bất cải, tắc lâm mạng chung
thời, Phật tŕ thử hoa, tiếp dẫn văng sanh, tức
sanh thử liên trung, danh vi thác chất liên thai, thanh tịnh
thọ sanh. Hoa khai kiến Phật” (Tín tâm kiên cố, một đời chẳng
thay đổi, đến lúc lâm chung, Phật cầm hoa
ấy tiếp dẫn văng sanh, [hành giả Tịnh
Độ] liền sanh trong hoa ấy, gọi là ‘thác
chất liên thai’ (gởi thân
trong hoa sen), thanh tịnh thọ sanh, hoa nở thấy
Phật). Tín Tâm Kiên Cố, bốn chữ này trọng
yếu hơn hết, một đời chẳng thay đổi.
Thầy Lư truyền bản hội tập kinh Vô
Lượng Thọ cho chúng tôi, đó là sự truyền pháp
trong Tịnh tông chúng ta. Tôi tiếp nhận rồi, trong
mười mấy năm hoằng dương toàn thế
giới. Theo con số dè dặt nhất mà chúng tôi có
được, th́ tối thiểu bản hội tập
này được lưu thông phải hơn hai trăm
vạn cuốn trên toàn thế giới, phải từ hai
trăm vạn cuốn đến ba trăm vạn cuốn đang lưu thông trên toàn thế giới, rất nhiều người đọc tụng, thọ tŕ,
hưởng lợi ích chân thật.
Hai năm
gần đây, kể từ tháng Mười,
tháng Mười Một năm 2000 trở đi, chúng
tôi mới bắt đầu nghe thấy những tiếng
hủy báng, phản đối, công kích bằng lời
lẽ, công kích bằng văn tự, công kích đích danh
rất nhiều, đều nhắm vào tôi. Tôi có ngă ḷng hay
không? Nếu tôi tín tâm chẳng kiên cố, nếu tôi thoái
chuyển, đổi sang học tập bản khác, quư
vị nghĩ xem làm sao tôi xứng đáng với thầy?
Như vậy “tri ân, báo ân” chẳng phải là chuyện
dối người hay sao? Thầy truyền bản ấy
cho tôi, phó thác pháp môn ấy cho tôi, lúc tôi nghe người ta
hủy báng, liền lập tức thay đổi, c̣n ra
thể thống ǵ? Bởi thế, tôi đă từng nói
với các đồng học: “Dù người trong cả
thế giới phản đối, tôi vẫn cứ kiên
tŕ, tôi quyết định không thay đổi!” Tôi không
phụ ḷng thầy, thầy chẳng nh́n lầm tôi!
Nếu như tôi biến đổi, tín
tâm dao động, thầy đă nh́n lầm người
rồi, tôi chẳng xứng đáng. Tất cả những
ai hủy báng, tôi đều cảm tạ. Cảm tạ
chuyện ǵ? Họ khảo nghiệm xem tín tâm tôi có
đủ kiên cố hay chăng? Tôi chịu đựng
được thử thách, dùng điều đó để
dạy hàng hậu học: Con người chỉ cần có
tín tâm kiên định, bất luận tu học một pháp
môn nào, nhất định thành tựu. Bởi thế, tám
chữ sau đây rất trọng yếu: “Tín tâm kiên cố, một đời chẳng
đổi”. Không có áp lực lớn
lao ngần ấy, không bị đả kích nghiêm trọng như
vậy th́ sự kiên định, tín nguyện, định
huệ của quư vị sẽ do đâu được
biểu hiện? Làm sao biết “Tín, Nguyện, Định,
Huệ” của ḿnh đạt đến mức độ
nào? Từ đây vỡ lẽ ra: Càng bị đả kích
nghiêm trọng, khảo nghiệm nghiêm trọng, cảnh
giới của ḿnh càng thực sự được nâng
cao.
Bởi thế, thuận cảnh, nghịch
cảnh, thuận duyên, ác duyên, thuận - nghịch,
thiện - ác không có tiêu chuẩn, hoàn toàn do Định - Huệ
của chính quư vị. Nếu quư vị có Định, có Huệ,
ác duyên sẽ biến thành thiện duyên, nghịch cảnh
chuyển thành thuận cảnh, tự ḿnh đối
với pháp môn này càng thêm kiên định, hạnh nguyện
càng khẩn thiết, đó là chuyện tốt chứ không
phải xấu. Nếu chúng ta cứ phải chống
đỡ, phải biện bạch th́ sai mất rồi.
Quư vị mắc lỡm to rồi, đă tự trái
nghịch lời Thích Ca Mâu Ni Phật răn dạy. Thích Ca
Mâu Ni Phật răn dạy chúng ta điều ǵ? Mặc
Tẫn. Mặc Tẫn có nghĩa là hoàn toàn chẳng quan tâm
đến! Người ta hủy báng, tùy ư người ta,
người ta sỉ nhục cứ để người
ta sỉ nhục, quyết định chẳng đếm
xỉa tới. Người ta chửi ḿnh, chúng ta chẳng
đáp lại một câu nào. Người ta đánh ḿnh,
quyết định chẳng đánh trả! Thích Ca Mâu Ni
Phật dạy chúng ta như vậy! Như vậy th́ chẳng
phải là thiệt tḥi ư? Không sai! Thiệt tḥi là
phước, phước về sau này! Chỉ cần quư
vị cam chịu thiệt tḥi, phước báo hiện
tiền, trí huệ hiện tiền, vĩnh viễn giữ
ḷng lắng tịnh, chớ nên bộp chộp. Tịnh sanh
Huệ, thiện sanh phước, vĩnh viễn giữ
được tâm hạnh thuần tịnh, thuần
thiện.
Đời này, chúng ta sanh vào thế gian
này, chúng ta hiểu rơ mục đích là “liễu sanh tử,
xuất tam giới”. Chẳng những liễu sanh tử,
xuất tam giới, mà c̣n là văng sanh Tây Phương, thân
cận Di Đà. Ta sống trong thế gian này, phương
hướng và mục tiêu của ta là như vậy,
những thứ khác đều không phải. Ngoài ra, bất
luận người ta làm chuyện ǵ cũng chẳng
ăn nhập ǵ đến ta cả, ta đi
đường ḿnh.
Rất nhiều năm trước
(khoảng mười mấy năm trước), tôi ở
Đạt Lạp Tư (Dallas), có một bữa, cư
sĩ Doăn Kiến Duy hỏi tôi: “Nếu đối với hết
thảy kinh, Đại Tạng Kinh bày ra ngay đây, nếu
chỉ được phép chọn một bộ kinh
để tu hành, th́ xin hỏi pháp sư sẽ chọn
bộ nào?” Tôi bảo ông ta: “Tôi sẽ chọn Di Đà Kinh
Yếu Giải, chẳng chọn bộ thứ hai, nói
thật đấy! Hoằng dương kinh Vô Lượng
Thọ là v́ thầy tôi phó chúc, giảng kinh Hoa Nghiêm là v́
rất nhiều vị đại đức xuất gia và
tại gia khải thỉnh. Bản thân tôi tu học chỉ
đơn giản một môn, thiết yếu, tôi không thích
rắc rối, càng đơn giản càng hay! Di Đà
Yếu Giải quá tuyệt, Ấn Quang đại sư coi
trọng bản này, tôi cũng coi trọng bản này”.
Nhưng tu Tịnh Độ th́ kinh Vô Lượng
Thọ rất trọng yếu. Kinh Vô Lượng Thọ
tường thuật cặn kẽ toàn bộ Tây
Phương Cực Lạc thế giới cho quư vị
được hiểu trọn vẹn. Hiểu trọn
vẹn rồi sẽ chân chánh tu hành, những chỉ dạy
trong sách Yếu Giải là thù thắng bậc nhất. Nói
cách khác, Vô Lượng Thọ kinh tiếp dẫn quư
vị, giúp quư vị kiến lập tín tâm kiên cố. Giúp
quư vị phát nguyện cầu sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới phải nhờ vào kinh Vô
Lượng Thọ. Có tín tâm, có chí nguyện, vậy th́ tu
hành như thế nào? Sách Yếu Giải tốt nhất! Sách
Yếu Giải giúp chúng ta tu hành.
Bởi thế, kiên định, kiên tŕ
pháp môn này, một đời chẳng thay đổi,
bất biến. Lúc lâm chung, A Di Đà Phật cầm hoa sen
ấy đến tiếp dẫn; hoa sen đó do chính tâm
tưởng của chính quư vị biến hiện. Càng tinh
tấn, hoa sen càng to, màu sắc, quang minh càng đẹp,
đấy là chỗ xuất sanh, tức là chỗ hóa sanh trong
tương lai của quư vị nơi Tây Phương
Cực Lạc thế giới, chuyện này rất
trọng yếu! Bởi thế, bây giờ người ta nói
tới chuyện tranh giành, th́ ḿnh tranh cái ǵ? Tranh sao cho hoa
sen của ḿnh to hơn, sáng đẹp hơn, đấy mới
là đúng. V́ sao? Đấy là điều quư vị có
thể đạt được trong tương lai, c̣n
ngũ dục, lục trần, danh văn, lợi
dưỡng của thế gian này là giả, không mang theo
được ǵ cả. V́
vậy, cổ nhân thường luôn cảnh tỉnh rất
cao độ: “Sanh bất đới
lai, tử bất đới khứ” (Sanh không mang theo ǵ đến,
chết chẳng mang theo ǵ đi). Bởi vậy,
đối với hết thảy người, sự,
vật trong thế gian này, chẳng lưu luyến mảy
may, phải chuyển biến cái tâm tham luyến những
thứ ấy thành cái tâm tham luyến hoa sen trong ao bảy
báu. Lúc tâm tưởng ta biến hiện ra cái hoa sen ấy,
hoa sen của ta phải to, quang sắc phải đẹp,
phẩm vị phải cao. Ta chỉ chuyên tâm cầu
chuyện đó, quyết định chẳng nên có ư
niệm nào khác. Có ư niệm ǵ khác, sẽ biến thành
chướng ngại.
Do vậy, đức Phật cầm
đóa hoa này tiếp dẫn văng sanh, [hành nhân Tịnh nghiệp]
liền sanh trong hoa ấy, trong kinh thường gọi là “thác chất liên thai”, thanh
tịnh thọ sanh. So với nằm trong thai mười
tháng, nằm trong thai không thanh tịnh. Lúc quư vị nhập
thai chẳng thanh tịnh, ư niệm chẳng thanh tịnh,
dâm dục mà! Quư vị ở trong thai mười tháng,
tức trụ xứ chẳng thanh tịnh, chung quanh
trụ xứ của ḿnh là ruột già, ruột non. Trong
ruột già, ruột non có thứ ǵ vậy? Phẩn uế, nước
tiểu bao vây quư vị, chẳng thanh tịnh. Thế
giới Cực Lạc khác hẳn: Hoa sen thanh tịnh
chẳng nhiễm mảy trần, lại c̣n là liên hoa hóa
sanh. Vừa sanh vào thế giới ấy, thân thể
liền cao lớn, sắc tướng trang nghiêm. Thế
giới Cực Lạc chẳng có người già, kẻ
trẻ, mỗi một người h́nh dáng giống hệt
nhau. Thế giới b́nh đẳng, v́ thế, tâm họ
b́nh.
Tâm con người trong thế giới
này bất b́nh, tướng mạo sai biệt. Người
có phước báo tướng mạo xinh đẹp,
tự nhiên có tâm kiêu mạn. Người thiếu phước
báo, nghèo hèn, khổ sở, trước mặt người
khác không ngóc đầu lên được, sanh tâm tự ty. Đấy
là những hiện tượng ta thường thấy
trong xă hội. Tây Phương Cực Lạc thế
giới không có những chuyện ấy, mọi
người tướng mạo giống hệt như
nhau, thể chất giống hệt, t́nh trạng cuộc
sống đồng nhất, học tập như nhau,
chẳng có ǵ bất b́nh đẳng. V́ thế, họ
chẳng sanh khởi phiền năo. Quư vị thấy: Phiền
năo ngạo mạn chẳng thể sanh khởi trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới, mỗi cá nhân
chẳng khác ǵ nhau. Phiền năo tự ty cũng chẳng
thể sanh khởi được, v́ ḿnh b́nh đẳng với
hết thảy mọi người. V́ thế, dẫu vẫn
có tập khí phiền năo, nhưng đến nơi ấy,
không có duyên lôi kéo, dẫn dụ những phiền năo đó.
Tây Phương Cực Lạc thế giới thù thắng
khôn sánh như thế đó, mười phương chư
Phật khen ngợi. Cảnh giới chẳng thể nghĩ
bàn như vậy đều do bổn nguyện oai thần
và công đức tu hành trong vô lượng kiếp của A
Di Đà Phật gia tŕ.
Thanh tịnh thọ sanh, “hoa nở thấy Phật,
ngộ vô sanh”, hoa nở thấy Phật th́ cái quư vị
thấy chính là báo độ của Như Lai, chúng ta
thường gọi là Thật Báo Trang Nghiêm Độ. Phàm
Thánh Đồng Cư Độ và Phương Tiện
Hữu Dư Độ ở đâu? Thưa cùng quư vị: Ở trong hoa sen! Lúc hoa sen
chưa nở, những cơi ấy ở ngay trong hoa sen. Chúng
ta xem trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, văng sanh
Hạ Hạ Phẩm thuộc Phàm Thánh Đồng Cư
Độ, phải bao lâu hoa mới nở? Mười hai
kiếp. Đấy là thời gian dài nhất ở Tây
Phương Cực Lạc thế giới, sau mười
hai kiếp hoa mới nở. Trong mười hai kiếp hoa
chưa nở, t́nh trạng sinh hoạt trong hoa như
thế nào? Đọc kinh Hoa Nghiêm mới hiểu, kẻ
ấy ở trong hoa cảm nhận hoa là thế giới,
thế giới ở trong hoa. Thế giới trong hoa không
khác ǵ Tây Phương Cực Lạc thế giới. Không
đọc Hoa Nghiêm sẽ chẳng hiểu cảnh giới
này!
Kinh Hoa Nghiêm dạy cho chúng ta biết: Đại
thế giới, đại vũ trụ này và thế
giới trong một vi trần không hai, không khác. Trong một
hạt vi trần là một thế giới, vào thế
giới trong vi trần đó và vào trong đại thế
giới không khác ǵ nhau, không lớn, không nhỏ. V́ vậy,
thế giới trong hoa thật ra hoàn toàn tương
đồng với thế giới Cực Lạc; về
căn bản, bản thân quư vị chẳng biết ḿnh
đang ở trong hoa. Ở trong hoa, ngày ngày quư vị
thấy Phật, ngày ngày cùng các vị thượng
thiện nhân ở chung một chỗ. Do đây biết: Thế
giới Cực Lạc vô lượng vô biên. Nơi mỗi
một đóa sen đă có người thác chất nơi
liên thai th́ hoạt động trong hoa sen ấy và hoạt
động trong cả thế giới Cực Lạc
chẳng khác ǵ nhau. Đúng là ở trong hoa ấy, quư vị
trưởng dưỡng thánh thai, tu hành trong ấy.
Dẫu hoa chưa nở, quư vị
muốn đến mười phương thế giới
tham phỏng chư Phật chẳng bị trở ngại!
Theo như kinh nói, quư vị thấy rất nhiều
đại chúng, mỗi ngày cúng Phật, nghe pháp. Cúng
Phật là tu phước báo, nghe pháp mở mang trí huệ,
phước huệ song tu. Nghe Bổn Sư A Di Đà
Phật giảng kinh, thuyết pháp; đồng thời
lại có thể nghe mười phương hết
thảy chư Phật giảng kinh, thuyết pháp. C̣n có nhân
duyên thế gian, xuất thế gian nào thù thắng hơn
được nữa? T́m không thấy! V́ thế,
mười phương chư Phật khen ngợi A Di
Đà Phật “quang trung cực
tôn, Phật trung chi vương” (quang minh cao quư nhất,
vua trong các Phật). Nếu chúng ta hiểu được
như vậy th́ sau đấy tâm ta mới định,
không c̣n có vọng tưởng nữa.
Nếu các đồng học muốn
học kinh giáo, trước hết phải nắm chắc
Tịnh Độ rồi mới học những kinh giáo khác;
dẫu có chướng ngại cho việc nâng cao phẩm
vị, nhưng quư vị quyết định
được văng sanh. Nếu quư vị chẳng nắm
chắc ḿnh sẽ văng sanh thế giới Cực Lạc,
trong hiện tại, quư vị học kinh giáo rất nhiều,
tinh lực lẫn thời gian đều bị phân tán. Nói
cách khác, đến lúc lâm chung có được văng sanh hay
không vẫn là ẩn số, vẫn là một câu hỏi
bỏ ngỏ! Từ cổ đến nay, rất nhiều
pháp sư giảng kinh, nhân v́ một ư niệm sai lầm nên
lầm lỡ. Một phen lầm lỡ rất phiền! Đời
đời kiếp kiếp vẫn luân hồi trong lục
đạo y như cũ. V́ người ấy đời
trước làm pháp sư, giảng kinh, thuyết pháp, [đấy
là thực hiện] pháp bố thí và tài bố thí! Giảng
kinh là nội tài bố thí, đổi lấy phước
báo trong đời sau!
Quư vị hăy nhớ đến
đồng học của ngài An Thế Cao. Ông ta thông hiểu
kinh, thích bố thí, nhưng tâm sân khuể chưa
đoạn. Ḷng sân khuể của ông ta không nghiêm trọng
lắm. Ông ta đi khất thực – lúc bấy giờ c̣n
theo chế độ khất thực – thí chủ cúng
dường ông ta cơm, thức ăn không ngon, tâm ông
cảm thấy rất khó chịu, có một chút như vậy
thôi mà đọa làm thân súc sanh! Đọa vào loài rắn,
trở thành long vương, tức long vương hồ Củng
Đ́nh. Vị đồng học của An Thế Cao khi
thọ mạng sắp hết, tự biết ḿnh sẽ
đọa địa ngục, v́ sao? Lúc làm long vương,
ông ta đă tạo không ít tội nghiệp. Tâm sân nặng
nề: “Ngươi đến lễ ta, cúng dường
ta, ta đối xử với ngươi rất tử
tế, che chở ngươi thượng lộ b́nh an.
Nếu ngươi không lễ ta, không cung kính ta, không cúng
dường ta, cho ngươi nếm một chút ma
thuật, khiến đường ngươi đi
chẳng được b́nh an, thậm chí ngươi
bị lật thuyền”; tạo rất nhiều tội
nghiệp! Có thần thông như thế th́ có thể
quậy phá chúng sanh, nhưng quả báo sau khi chết đi
chẳng kham tưởng tượng nổi. May là An
Thế Cao chưa đọa lạc, Ngài là một vị
cao tăng khai ngộ, đắc đạo, nên long
vương bèn cầu Sư siêu độ.
Mẫu chuyện này được chép
trong truyện kư về ngài An Thế Cao, quư vị
đều đọc cả rồi. Vàn muôn phần chớ
tạo ác nghiệp! Nhất định phải hiểu “một miếng ăn, một
hớp uống, không ǵ chẳng phải tiền
định”. Nhân quả của mỗi người,
người ấy phải tự gánh vác, không ai có thể gánh
chịu giùm! Ấn Quang đại sư là một vị
đại thiện tri thức thời cận đại,
cả đời giáo hóa của Ngài nói thật ra chỉ là
hai việc: Một là khuyên người ta niệm Phật
cầu sanh Tịnh Độ; hai là khuyên người ta hăy chú
trọng nhân quả báo ứng. Trong các sách nhân quả báo
ứng, Ngài nói sách An Sĩ Toàn Thư tốt nhất,
kế đến là Cảm Ứng Thiên Vựng Biên;
suốt đời Ngài dùng những sách này để giáo hóa
chúng sanh.
Nhân quả báo ứng là định
luật thăng - trầm trong lục đạo luân
hồi, quư vị làm lành nhất định cảm
được thiện báo, quư vị làm ác nhất
định có ác báo. Cát - hung, họa - phước,
thiện - ác báo ứng thuộc quyền quư vị,
chẳng do ai khác cả! Bị người khác hăm hại
không sao cả! Nói thật ra, bị người khác hăm
hại mà chính ta không có tâm sân khuể, không có tâm báo thù, tai
nạn bèn tiêu. Chính ḿnh trong đời quá khứ từ vô
lượng kiếp đă tạo tội nghiệp, mọi
người thường nghe nhà Phật nói “tội nặng, báo nhẹ”, thế nào là “tội
nặng báo nhẹ”? Ta bị người khác sỉ
nhục, bị người khác hủy báng, bị
người khác hăm hại, đấy đều là quả
báo. Rất có thể tội ta rất nặng, do những
chuyện ấy, ta trả báo từng chút một. Ta gặp
phải những chướng nạn ấy, không có tâm sân
khuể, không có tâm báo thù, ḿnh phải tự khéo kiểm
điểm. Cổ đức từng nói: “Hữu tắc cải chi, vô tắc gia miễn”
(có lỗi bèn sửa đổi, không có lỗi th́ càng thêm
cố gắng). Nghiệp chướng tiêu trừ, tội
nặng báo nhẹ!
Bởi vậy, đối với
người hủy báng, người hủy nhục,
người hăm hại, ta chỉ cảm ơn! Nếu
họ gặp phải chướng nạn, ta sẽ toàn tâm
toàn lực giúp đỡ họ, chớ nên oán hận
mảy may. Đó gọi là “học Phật”, đó gọi
là “chân chánh thọ dụng Phật pháp, hưởng lợi
ích nơi Phật pháp”. Oán kết hóa giải, oan gia nên
mở đừng nên buộc, chớ kết oán cùng
người. Lúc kết oán sẽ oan oan tương báo,
đời đời kiếp kiếp chẳng xong, hai bên
cùng đau khổ, c̣n làm liên lụy người khác.
Bởi thế, phải nghĩ kỹ những lư sự
ấy, v́ muốn tránh khỏi những buộc ràng
đời đời kiếp kiếp, quư vị phải hạ
quyết tâm, trong một đời này nhất định
phải sanh về Cực Lạc thế giới, nhất
định phải thấy A Di Đà Phật! Chuyện ǵ
cũng bỏ ra sau, không quan trọng, chẳng đáng
kể. A! Bây giờ đă hết giờ rồi.
Tập 15
Xin xem tiếp tiểu đoạn
thứ ba của phần “hoa
sen bốn màu”:
“Quang sắc
thật vô lượng, lược ngôn tứ sắc nhĩ”
(Thật ra, quang minh, màu
sắc vô lượng, chỉ lược nói bốn màu mà
thôi). Trong kinh này chỉ nói bốn màu là xanh, vàng, đỏ,
trắng; nhưng thật ra, quang minh và ánh sáng rất
nhiều thứ. Bốn màu ấy nay được
gọi là “nguyên sắc” (màu gốc)[6],
bốn màu ấy pha chế thành vô lượng màu sắc.
Điều cuối cùng:
Cực Lạc quốc độ, thành
tựu như thị công đức trang nghiêm.
極樂國土,成就如是功德莊嚴。
(Cơi
nước Cực Lạc thành tựu công đức trang
nghiêm như thế).
Câu này tổng kết cả đoạn.
“Di Đà nhân địa, dĩ
tứ thập bát nguyện, nhiếp thủ nhị bách nhất
thập ức Phật sát” (Lúc Phật Di Đà c̣n tu nhân,
dùng bốn mươi tám nguyện nhiếp thủ hai
trăm mười ức cơi Phật), chúng ta đă đọc
thấy điều này trong kinh Vô Lượng Thọ. Con
số “hai trăm mười ức” hàm nghĩa viên măn.
Trong Mật giáo - Phật pháp có Hiển giáo và Mật giáo -
Hiển giáo thường dùng con số Bảy, con số Mười,
hoặc con số Một Trăm để biểu thị
ư nghĩa viên măn, Mật giáo dùng con số Mười Sáu hay
con số Hai Mươi Mốt để biểu thị ư
nghĩa viên măn. Hai Trăm Mười Ức là đại
viên măn! V́ thế, hai trăm mười ức không phải
là con số [thực sự], v́ nếu đúng là một con
số [cố định] th́ hai trăm mười ức
chưa phải là nhiều lắm. Con số này biểu
thị ư nghĩa đại viên măn, không sót một cơi
Phật nào, trọn pháp giới hư không giới không sót
một cơi Phật nào.
Chẳng những không sót một cơi
Phật nào, mà như nay ta đă biết, chúng ta đọc
kinh Hoa Nghiêm hiểu được thế giới trùng
điệp, trùng trùng vô tận. Trong mỗi một vi
trần đều có thế giới, trong mỗi thế
giới lại có vi trần, trong mỗi vi trần lại
có thế giới, đó là Tánh Đức chẳng thể
nghĩ bàn! “Hai trăm mười ức” hoàn toàn bao quát,
trùng trùng vô tận thế giới đều
được gộp trong ấy. Nói cách khác, khi A Di Đà
Phật c̣n là Bồ Tát, vô lượng vô biên trùng
điệp cơi nước thuộc pháp giới hư không
giới Ngài đều từng đến thăm. Mục
đích thăm viếng là ǵ? Lấy ưu điểm,
bỏ khuyết điểm để kiến lập
một hoàn cảnh tu học tối hảo, tức là
thế giới Cực Lạc!
Thế giới Cực Lạc do đâu mà
có? Chẳng phải do A Di Đà Phật bỗng dưng
tưởng tượng ra. Ví như một người thực
sự có trí huệ, có đại phước đức,
mong kiến lập một quốc gia, sao cho quốc gia
ấy thù thắng nhất, tốt đẹp nhất trong
hết thảy tất cả các quốc gia trên thế
giới này; chí nguyện ấy rất hy hữu, thực
hiện bằng cách nào đây? Người ấy phải
đi thăm mỗi quốc gia, đến học hỏi
những ưu điểm của mỗi một quốc
gia. Ưu điểm th́ chọn lấy, khuyết
điểm th́ hết thảy phải sửa đổi;
lẽ đương nhiên quốc gia ấy đứng
đầu thế giới. Phải rất nghiêm túc học
tập một cách không thành kiến, ngay cả những
quốc gia rất lạc hậu, nay ta gọi là “quốc
gia chưa khai hóa”, vẫn có những điểm đáng để
học hỏi.
Chẳng hạn như mấy năm
trước đây, có một vị đồng học
đề nghị tôi xem cuốn sách Âm Thanh Hoang Dă do một
người Mỹ viết. Bà ta vào nội địa châu
Úc, sống cùng thổ dân một thời gian, [trong cuốn
sách ấy, bà ta] miêu tả t́nh h́nh cuộc sống của
chính bọn họ. Điều đáng quư nhất là bọn
họ có tâm yêu thương, đoàn kết, niệm
niệm luôn quan tâm đến bộ lạc của ḿnh, hoàn
toàn quay về sống trong thiên nhiên, không tự tư
tự lợi, không có dục vọng chiếm hữu. Quư
vị nghĩ xem: Mọi người chúng ta hiện nay ai
nấy đều chiếm hữu, tôi sống trong căn nhà
này là tôi chiếm hữu, đất đai quanh nhà tôi
thuộc quyền tôi chiếm hữu! Thổ dân châu Úc không
có những quan niệm ấy, họ cảm thấy
rất lạ lùng [trước những quan niệm
ấy], đất đai thuộc thiên nhiên, là của chung
của hết thảy chúng sanh, sao anh lại có thể
chiếm hữu một khoảnh được? Quan
niệm ấy hay lắm! Bởi thế, từ
trước đến nay họ chưa hề có tranh
chấp về quyền chiếm hữu, không hề có.
Mọi người cùng chung hưởng thụ, b́nh
đẳng hưởng thụ, hy hữu thay!
Vậy th́ quư vị nói họ không có
văn tự, không có văn hóa, nhưng họ có rất
nhiều quan niệm tốt, cách nghĩ tốt, hành tŕ
tốt đáng cho chúng ta học hỏi, ta không thể coi
thường họ được. Đặc biệt là y
dược, những thổ dân ấy có cách chữa
trị riêng, chúng ta hoàn toàn không hiểu được. Có
một thổ dân bị thương rất nghiêm trọng,
bọn họ dùng một loại thảo dược bôi lên.
Mấy giờ sau, người ấy khôi phục, hoàn toàn
b́nh thường; tuy trước đó bị ngă găy ḷi xương!
Loại y dược ấy có đạo lư riêng, chúng ta
không hiểu nổi. Kinh nghiệm được lưu
truyền cả mấy ngàn năm, vạn năm,
đời đời truyền cho nhau. Sống ngoài hoang dă
gặp phải độc xà, mănh thú, họ biết loại
dược thảo nào có thể giải độc, thực
sự trị được bệnh. Họ chẳng
hề có máy móc, pḥng thí nghiệm hóa học, cũng
chẳng có lư luận ǵ để bàn thảo, nhưng trong
ấy có đại đạo lư.
Bởi vậy, dẫu cho những
thổ dân chưa được khai hóa, họ cũng có
văn hóa riêng, có đặc sắc riêng. Nếu chúng ta
đều học hỏi tất cả những ưu
điểm, sửa đổi tất cả các khuyết
điểm, quốc gia của quư vị sẽ đứng
đầu thế giới. A Di Đà Phật sử
dụng biện pháp ấy. Ngài chu du tất cả hết
thảy cơi nước trong pháp giới hư không giới,
chọn lấy ưu điểm, loại bỏ khuyết
điểm, kiến lập thế giới Cực Lạc.
V́ thế, thế giới Cực Lạc biến thành
đệ nhất.
“Xứng tánh
công đức chi sở thành tựu dă” (Được thành tựu bởi công
đức xứng tánh): Chẳng thể nghĩ bàn bậc
nhất, hoàn toàn do tánh đức lưu lộ, chẳng phải
là tuyệt vời ư? A Di Đà Phật chẳng có mảy
may ḷng riêng tư, niệm niệm đều v́ giúp
đỡ rất nhiều người hữu chí học
đạo trong pháp giới, hư không giới. Hết
sức đáng tiếc là bọn họ chẳng có hoàn
cảnh tu học rất tốt, thường gặp
phải chướng ngại, đạo nghiệp khó thành
tựu. Phật v́ những người như vậy, tạo
nên một hoàn cảnh tu học tối hảo, hoàn cảnh
tu học ấy chẳng phải do Ngài vắt kiệt trí
óc tưởng tượng ra, mà do tham phỏng khắp pháp
giới. Sau đây, chúng tôi phải nêu lên một chi tiết
để các đồng học tham khảo.
“Độc
kinh sử nhiếp thủ cổ nhân chi kinh nghiệm” (Đọc kinh sử để thâu
thập kinh nghiệm của cổ nhân). Ngàn vạn
phần chớ nghĩ cổ nhân chẳng bằng
người hiện tại, nếu nghĩ như vậy th́
lầm mất rồi. Trí huệ, kinh nghiệm của
cổ nhân thường cao hơn người hiện nay
rất nhiều. Đương nhiên người
đời nay cũng có những phát minh, ta không thể
phủ nhận được. Học hỏi từ
cổ nhân th́ học vấn của chúng ta sẽ có căn
bản. “Tham học nhiếp thủ
kim nhân chi thành quả” (Tham học, thâu thập thành
quả của người hiện thời). Cổ nhân
trong nước, ngoài nước ta đều phải
học, học theo A Di Đà Phật. A Di Đà Phật
thông minh, tâm rỗng rang cầu học, thâu gom những thành
tựu lớn lao nơi kinh nghiệm, học thuyết
trong ngoài xưa nay để kiến lập thế
giới Cực Lạc, đấy đúng là “độc vạn quyển thư,
hành vạn lư lộ” (đọc vạn quyển sách,
đi vạn dặm đường), chúng ta phải “sư pháp A Di Đà hạnh” (thờ
A Di Đà Phật làm thầy, học theo hạnh A Di Đà
Phật). Những ǵ A Di Đà Phật dạy chúng ta ở
đây, chúng ta phải học tập theo, trọn chẳng
coi thường người khác th́ mới có thể thành
tựu học vấn, đức hạnh chân chánh.
Trung Quốc lần này bất hạnh
gặp phải bệnh truyền nhiễm SARS tấn công. Qua
lịch sử, ta có thể thấy rơ từ cổ
đến nay, tại mỗi một quốc gia, khu vực
đều có ôn dịch phát sanh. Cứ mỗi lần ôn
dịch phát sanh, cũng đều có người t́m ra cách
trị liệu. Chúng ta thấy nhà tiên tri Nặc Tra Đan Mă
Tư (Nostradamus) người Pháp sống vào thế kỷ
16, cũng là một thầy thuốc. Ông ta sanh nhằm
thời đại bị ôn dịch nghiêm trọng, ông ta cũng
là danh y, phương thuốc của ông chữa trị
bệnh dịch ấy rất hữu hiệu. Trong lịch
sử Trung Quốc cũng có mấy lần ôn dịch rất
nghiêm trọng, đều có những thầy thuốc cao
minh t́m ra phương thuốc hóa giải được
những bệnh ôn dịch ấy.
Tinh thần khoa học rất đáng tán
dương, nhưng nếu tinh thần khoa học đi
theo hướng thiên kiến, quá khích, hẹp ḥi, không bao
dung, chẳng thể nghiên cứu, học tập rộng
răi, th́ khoa học chuốt nhọn sừng trâu chạy vào
tử lộ. Chúng ta hăy nghĩ xem phương pháp học
tập của A Di Đà Phật có hợp với khoa
học hay chăng? Ngài cái ǵ cũng học, quyết
chẳng buông bỏ một phương diện, lănh
vực nào, cổ kim trong ngoài đều học hết,
thành tựu học vấn và đức năng cho chính ḿnh,
đấy là một tấm gương tốt.
6.3.1.2.4. Thiên nhạc vũ hoa (nhạc trời, mưa hoa)
Lại xem tiếp đoạn thứ sáu
kế đó, “thiên nhạc
vũ hoa”. Chúng tôi đọc đoạn kinh văn này
một lượt.
Hựu Xá Lợi Phất! Bỉ Phật
quốc độ thường tác thiên nhạc, hoàng kim vi
địa. Trú dạ lục thời, vũ thiên
mạn-đà-la hoa. Kỳ độ chúng sanh, thường
dĩ thanh đán, các dĩ y kích, thạnh chúng diệu hoa,
cúng dường tha phương thập vạn ức Phật,
tức dĩ thực thời, hoàn đáo bổn quốc,
phạn thực kinh hành.
又舍利弗。彼佛國土。常作天樂。黃金為地。晝夜六時。雨天曼陀羅華。其土眾生。常以清旦。各以衣裓。盛眾妙華。供養他方十萬億佛。即以食時。還到本國。飯食經行。
(Lại
này Xá Lợi Phất! Cơi nước Phật ấy
thường tấu nhạc trời, vàng ṛng làm
đất. Ngày đêm sáu thời, tuôn mưa hoa
mạn-đà-la cơi trời. Chúng sanh cơi ấy, thường
vào sáng sớm, ai nấy dùng y kích đựng hoa trời
cúng dường mười vạn ức Phật phương
khác, chỉ trong thời gian một bữa cơm, trở
về nước ḿnh, dùng cơm, kinh hành).
Đoạn kinh văn này chúng tôi phải
phân thành mấy tiểu đoạn để giới
thiệu. Đoạn này giảng về thiên thời, nói về
sự vui về mặt thiên thời: “Y kích thạnh hoa”, “tha phương cúng Phật”,
“phạn thực kinh hành”. Chúng ta đọc đoạn
kinh văn này, văn tự không nhiều, cảnh giới
đúng là có thể hiển hiện ngay trước
mắt. “Y kích thạnh hoa”
(giỏ hoa đựng hoa), “y
kích” giống như cái người Hoa gọi là “hoa lam”
(giỏ hoa), vật dụng mà người cổ Ấn
Độ dùng để đựng hoa được
gọi là “y kích”. Cũng có
người nói [“y kích thạnh
hoa” là] dùng y phục túm lại đựng hoa[7], điều
này không [có cách giải thích] nhất định; bởi
lẽ, chúng ta không hiểu rơ phong tục tập quán
thời ấy cho lắm; nhưng để đựng hoa
th́ người Hoa dùng giỏ hoa đựng hoa. Đây chính
là “vô Cầu Bất Đắc
khổ, y thực hành lạc” (không có nỗi khổ
Cầu Chẳng Được, cơm áo sung sướng).
Quần áo tự tại, uống ăn tự tại, trong
phần ăn uống th́ “phạn
thực, kinh hành” (dùng cơm, kinh hành). Chủ yếu
vẫn là “không có nỗi
khổ Cầu Bất Đắc”.
Chúng ta qua các thế giới phương
khác cúng Phật “cúng
dường tha phương thập vạn ức Phật”,
hoa để cúng Phật. Quư vị thích loại hoa nào, trên
không bèn rơi xuống loại hoa ấy, “vũ thiên mạn-đà-la hoa” (mưa hoa
mạn-đà-la cơi trời). Chữ Vũ (雨) có nghĩa là từ trên rơi xuống,
đọc [theo âm Quan Thoại] là Yù, là động từ
chỉ hành động rơi xuống. Hoa trời rơi
xuống, từ trên không trung rơi xuống. “Mạn-đà-la” là tiếng
Phạn, có nghĩa là ǵ? Dịch sang tiếng Hán là Thích Ư. Quư
vị thích hoa nào, loại hoa đó sẽ rơi vào y kích
của quư vị.
Quư vị thích hoa sen, sẽ thấy hoa
rơi xuống là hoa sen. Quư vị thích hoa mai, sẽ
thấy hoa mai rơi xuống. Thích hoa mẫu đơn, hoa
mẫu đơn rơi xuống. Thích hoa lan, hoa lan rơi
xuống. Thích Ư nghĩa là vừa ư ḿnh, tự ḿnh thích hoa
ǵ, hoa đó bèn rơi xuống. Đó gọi là Mạn
Đà La, bởi thế, Mạn Đà La không phải
chỉ một thứ. “Không có
nỗi khổ Cầu Bất Đắc”, đúng là tâm
tưởng sự thành, thuận theo ḷng muốn. Chuyện
này trong thế gian chúng ta không thể có được,
thế giới của chư Phật cũng ít có, thế
giới Cực Lạc do được Di Đà bổn
nguyện oai thần gia tŕ, công đức viên măn không
khiếm khuyết.
“Tha
phương cúng Phật” là “cúng dường tha phương
thập vạn ức Phật” (cúng dường
mười vạn ức Phật ở các phương khác),
“đắc thần thông lạc,
thị Phật lạc” (niềm vui do có thần thông,
niềm vui hầu nhiều đức Phật). Trong
thế gian này, chúng ta muốn thân cận một đức
Phật chẳng dễ dàng, chẳng có phước báo
lớn như thế! Quư vị văng sanh Tây Phương
Cực Lạc thế giới cũng giống như văng
sanh hết thảy thế giới chư Phật, phải
hiểu điều này! Có rất nhiều người không
hiểu đạo lư này! Lúc tôi c̣n trẻ, có những
đồng tham đạo hữu hết sức
ngưỡng mộ Di Lặc Bồ Tát, nhất tâm nhất
ư cầu sanh về tịnh độ Di Lặc. Tịnh
độ Di Lặc ở đâu? Trên trời Đâu
Suất là tầng trời thứ tư của Dục
Giới. Đâu Suất thiên là Phàm Thánh Đồng Cư
độ, có nội viện và ngoại viện. Ngoại
viện là phàm phu, tức chư thiên của tầng
trời thứ tư trong Dục Giới. Nội viện
là tịnh độ của Di Lặc Bồ Tát. Trên
trời Đâu Suất, những thiên chúng b́nh phàm của trời
Đâu Suất không thấy được Di Lặc Bồ
Tát.
Tốt! Rất hy hữu! Trong tương
lai, Di Lặc Bồ Tát giáng sanh trong thế gian này thị
hiện thành Phật, bọn họ đều là
đại đệ tử của Di Lặc Bồ Tát,
giống như những vị Xá Lợi Phất, Mục Kiền
Liên trong pháp hội này của Thích Ca Mâu Ni Phật. Nhưng
quư vị có dám chắc được sanh về Đâu
Suất nội viện hay không? Yêu cầu của Đâu
Suất nội viện rất cao, điều kiện
rất nghiêm ngặt, người b́nh thường
chẳng đạt được tiêu chuẩn ấy, quư
vị không có cách nào văng sanh được! Chúng ta biết
Di Lặc Bồ Tát là chuyên gia về Duy Thức, Ngài thực
sự là tổ sư của Pháp Tướng Duy Thức Tông,
đương nhiên phải tu học
tương ứng với Ngài, Ngài tu pháp môn nào? Duy Tâm
Thức Định. Trong Pháp Tướng Tông có nói tới
năm thứ Duy Thức Quán; quư vị phải tu thành tựu
th́ mới có thể văng sanh [Đâu Suất nội viện].
Năm thứ Duy Thức Quán chẳng phải là chuyện
dễ, khó hơn Niệm Phật rất nhiều!
Tu Tịnh Độ Di Lặc có bao nhiêu
người? Thực sự được văng sanh về
nội viện có mấy người? Chúng ta biết trong
thời cận đại có lăo ḥa thượng Hư Vân
sanh về Di Lặc nội viện. Trong Niên Phổ của
Ngài, chúng tôi thấy Ngài đă từng nhập Định
lên được trời Đâu Suất, Di Lặc Bồ
Tát đang giảng kinh ở đấy. Tại pháp ṭa, có
mấy người quen biết với đại sư.
Đó là những người tu Tịnh Độ Di
Lặc thành công mà lăo ḥa thượng Hư Vân quen biết, Ngài
kể ra. Những người ấy chắc chắn
được sanh. Vẫn c̣n có rất nhiều người
tu Tịnh Độ Di Lặc mà lăo ḥa thượng Hư
Vân không thấy, không biết họ lưu lạc trong
đường nào rồi! Bởi vậy, khó lắm,
rất ư là khó! Tôi từng nói với các đồng tham
đạo hữu, tôi nói rất cặn kẽ: “Quư vị
khéo gắng tu. Nếu quư vị thực sự thành tựu,
văng sanh Di Lặc nội viện, tôi có thể thường
đến thăm quư vị”. Họ sững sờ: “Ông có bản
lănh ǵ mà thường đến thăm tôi?”
Tôi nói:
- Ông không biết đâu! Tôi tu Tịnh
Độ Di Đà, sau khi tôi văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới, ông thấy đó “cúng dường tha phương thập vạn
ức Phật”, tôi mỗi ngày đều có thể
đến Di Lặc nội viện đi chơi rong. Quư
vị tu thành công, tu đến Di Lặc nội viện,
nhưng không đến được thế giới
Cực Lạc. Tôi có thể thường đến
chỗ quư vị dạo loanh quanh, quư vị không có cách chi
đến chỗ tôi được. Do nguyên nhân nào? Di
Lặc Bồ Tát thường đến Tây Phương
Cực Lạc thế giới, đến làm chi? Đến
để dạy học! Pháp Tướng Duy Thức là môn
học tại Tây Phương Cực Lạc thế
giới do Di Lặc Bồ Tát dạy, Ngài là thầy dạy
học, là giáo viên của thế giới Cực Lạc,
chúng tôi là học sinh. Học sinh của A Di Đà Phật
th́ vị Phật nào, Bồ Tát nào cũng đều
rất tôn trọng. Chúng tôi thưa cùng Di Lặc Bồ Tát:
“Hôm nay con đến nội viện Ngài chơi”; chắc
chắn Di Lặc Bồ Tát rất hoan nghênh: “Đến
đi, xin mời!”, cho nên đi được!
Như vậy, sanh về Tây Phương
Cực Lạc thế giới là sanh về thế giới
của hết thảy chư Phật, Bồ Tát, bất
luận một Tịnh Độ
Phật, Bồ Tát nào, muốn đến bèn đến,
chẳng thể nghĩ bàn! Quư vị muốn tu Tịnh Độ
Di Lặc chưa chắc đă thành tựu, nhưng tôi
thực sự có thể thành tựu. Quư vị tu cái khó, tôi
tu cái dễ. Tôi “một thành, hết thảy đều
thành”; quư vị có tu thành tựu th́ chỉ thành tựu
được một cái đó, chẳng thể
đến thế giới chư Phật ở những phương
khác được! Chớ nên không hiểu đạo lư
này. Hiểu rơ chân tướng sự thật của
đạo lư này, th́ đối với pháp môn Tịnh
Độ, quư vị sẽ chết sạch ḷng mong ngóng, khiêm
hư sát đất. Bởi vậy, sanh vào thế giới
Cực Lạc có sự vui hầu hạ nhiều
đức Phật, mười phương tam thế
hết thảy chư Phật Như Lai, thảy
đều thân cận hết thảy Pháp Thân Bồ Tát.
Trong điều thứ hai, giảng
về “cúng dường tha
phương thập vạn ức Phật”, nhất
định phải hiểu ư nghĩa câu “đặc vị thử độ chúng sanh nhi thuyết”
(riêng v́ chúng sanh cơi này mà nói). “Ư
hiển văng sanh chi hậu, hữu năng lực tùy
thời phản lai, cúng dường Bổn Sư, Di
Lặc, phổ độ oán thân, giai bất nan nhĩ” (Nêu
rơ ư: Sau khi văng sanh, có năng lực tùy thời quay lại
cúng dường Bổn Sư, Di Lặc, phổ độ
kẻ oán người thân, đều chẳng khó khăn ǵ).
Mười vạn ức cơi Phật rất gần, không
phải là khoảng cách xa. Phàm ai văng sanh Tây Phương
Cực Lạc thế giới, đều có thể cúng
dường vô lượng vô biên các đức Phật
Như Lai trong các cơi Phật phương khác, há chỉ
mười vạn ức cơi! Mười vạn ức cơi
đáng kể chi! Sở dĩ nói “mười vạn
ức cơi” là v́ thế giới Sa Bà chỉ cách thế
giới Cực Lạc mười vạn ức cơi, nên
đặc biệt nói như vậy với hàm ư:
Mười vạn ức cơi thường có thể qua
lại, ngày ngày đều qua lại, muốn qua là qua.
Đó là v́ có một loại chúng sanh c̣n
lưu luyến thế giới Sa Bà [mà nói]. Trong thế
giới này (thế giới Sa Bà) vẫn c̣n có rất
nhiều người nhà quyến thuộc, vẫn c̣n có bạn
bè thân thiết, thường nghĩ tới họ, ta
về thế giới Cực Lạc rồi, có trở
lại gặp họ được hay chăng? Thưa
cùng quư vị: Quư vị sanh về thế giới Cực
Lạc, bất cứ lúc nào đều có thể quay
về! Nếu chúng ta hỏi: Bất cứ lúc nào
đều có thể quay về, có ai đă văng sanh thế
giới Cực Lạc mà quay về đâu? V́ sao họ không
quay về? Có phải là họ đă quên hết rồi hay chăng?
Chúng ta hằng ngày nhớ đến họ, họ cũng
không quay về. Phải hiểu rơ chân tướng sự
thật này, kinh Vô Lượng Thọ giảng rất rơ,
người văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới thuộc Hạ Hạ Phẩm, được
bổn nguyện oai thần của A Di Đà Phật gia
tŕ, thiên nhăn thấy thấu suốt, thiên nhĩ nghe thông
triệt, Tha Tâm Thông biết khắp mọi chuyện. Không
hề có chuyện họ chẳng nghe được,
thấy được, chẳng biết được
t́nh h́nh chúng ta! Không hề có chuyện ấy!
V́ sao họ chẳng trở về? Không trở
về chắc chắn là có nguyên nhân không về! Nguyên nhân ǵ
vậy? Thiện Đạo đại sư nói: “Nói chung là gặp duyên bất
đồng”, v́ duyên chưa chín muồi! Hễ duyên đă
chín muồi bèn đến. Ở trên, tôi đă nói cùng quư
vị, pháp sư Giao Quang soạn Lăng Nghiêm Kinh Chánh
Mạch, A Di Đà Phật đến tiếp dẫn
Sư, thực sự có đến. Sư v́ muốn chú
giải kinh Lăng Nghiêm, xin khất lại cùng A Di Đà
Phật, A Di Đà Phật chấp thuận, Phật
liền rời đi. Sư đang mắc bệnh,
bệnh liền khỏi.
Trong Tịnh Độ Thánh Hiền
Lục, chúng ta thấy pháp sư Oánh Kha đời Tống,
nhất tâm cầu sanh Tịnh Độ, một câu
Phật hiệu niệm suốt ba ngày ba đêm, thực
sự niệm được A Di Đà Phật
đến. A Di Đà Phật bảo Sư, đúng là chí
thành cảm thông, đức Phật bảo: “Ngươi
c̣n thọ mười năm nữa. Ngươi hăy khéo
niệm Phật dụng công, đến mười năm
sau ngươi hết tuổi thọ, ta lại đến
tiếp dẫn ngươi”. Oánh Kha thông minh: “Con không
cần sống thêm mười năm, con muốn theo
Phật ngay bây giờ!” Thực sự buông xuống
được! A Di Đà Phật cũng đáp ứng,
bảo Sư: “Tốt! Ba ngày sau nữa ta đến
tiếp dẫn ngươi!” Ba ngày sau quả thật
được văng sanh. Sư không sanh bệnh. Lúc văng sanh,
đại chúng trong tự viện niệm Phật trợ
niệm Sư. Niệm chưa được bao lâu, Sư
bảo mọi người: “A Di Đà Phật đến
rồi, đến tiếp dẫn tôi, nay tôi theo Ngài”. Nói
xong bèn mất.
Phàm mọi sự ắt có thời
tiết, nhân duyên, chẳng phải họ không đến
gặp chúng ta, chỉ v́ chính chúng ta có nghiệp
chướng, nghiệp chướng của chúng ta sanh ra
chướng ngại. Chướng ngại chẳng do nơi
họ, mà do nơi chúng ta. Trước kia, Chương Gia
đại sư bảo tôi: “Chỉ
cần tích cực sám trừ nghiệp chướng,
cảm ứng tùy thời hiện tiền chẳng thể
nghĩ bàn”. Bởi vậy, chúng ta phải hiểu rơ ư
nghĩa câu “mười vạn
ức cơi Phật” là cố ư nói với chúng sanh thế
giới Sa Bà, tỏ rơ ư nghĩa: Sau khi văng sanh, quư vị có
thần thông, có năng lực tùy thời qua lại như
thế, nếu đối với Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật, đối với Đương Lai Hạ Sanh Di
Lặc Phật vẫn c̣n có t́nh chấp, vẫn có ḷng
tưởng niệm, thường mong đến gặp
gỡ, được! Không có vấn đề ǵ! Trong nhà
quư vị c̣n có cha mẹ anh em, thân thích bằng hữu, “phổ độ kẻ oán
người thân” đều chẳng khó khăn, tùy
thời đều có thể đến. Lúc ấy, quư
vị có năng lực quán sát căn cơ, lúc nào cơ
duyên thành thục, lúc nào nên đến.
“Phạn
thực kinh hành”: Lúc ăn
cơm; “thanh đán”: sáng
sớm, “thường dĩ
thanh đán” (thường vào sáng sớm), [sách Yếu Giải giảng] “cố viết tức dĩ, minh kỳ thần túc bất
khả tư nghị, bất ly bỉ độ, thường
biến thập phương, bất giả du thời hồi
hoàn” (v́ thế nói “tức dĩ” (ngay trong lúc ấy), nhằm
chỉ rơ Thần Túc Thông chẳng thể nghĩ bàn,
chẳng ĺa cơi kia, mà thường ở khắp
mười phương, chẳng tốn thời gian
trở về). “Thần túc chẳng
thể nghĩ bàn” ta gọi là Thần Túc Thông, phi hành
tự tại. Kinh nói “tức
dĩ thực thời” (ngay trong giờ cơm), nghĩa
là trong thời gian ăn một bữa cơm, thời gian
không lâu! Trong khoảng thời gian một bữa ăn
đă đến được vô lượng vô biên cơi
Phật tham phỏng rồi trở về.
Tham phỏng các cơi Phật cùng một lúc
th́ đi bằng cách nào? Hóa thân mà đi. Một thân có
thể hiện vô lượng thân. Nếu chẳng hiện
vô lượng thân, đến gặp mỗi đức
Phật, phải cần không ít thời gian! Ở chỗ
mỗi đức Phật chừng một giờ, không
cần nói nhiều chư Phật Như Lai, chỉ nói
mười vạn ức cơi như ở đây thôi, đă phải
mất mười vạn ức giờ, c̣n nói ǵ được
nữa! Phân thân đi. Đồng thời trong mỗi cơi
Phật, trước mỗi một đức Phật
đều có quư vị. Quư vị ở đó dâng hoa, cúng
dường bằng hoa, nghe Phật thuyết pháp. Quư
vị chẳng ĺa thế giới Cực Lạc, vẫn
nghe A Di Đà Phật giảng kinh, thuyết pháp, nhưng phân
vô lượng thân đi cúng dường hết thảy
Phật, nghe hết thảy chư Phật thuyết pháp. Mỗi
ngày học không biết là bao nhiêu!
Trong thế gian này của chúng ta, quư
vị ở trong lục đạo, chẳng thoát khỏi
lục đạo. Trong lục đạo, quư vị
học vô lượng kiếp, th́ ở Tây Phương
Cực Lạc thế giới chỉ một ngày là xong.
Bởi vậy, nghĩ đến chỗ này, cần ǵ phải
học kinh giáo siêng khổ dường ấy? Học
rất khổ sở! Do đó, những người thông
minh bậc nhất sẽ buông xuống vạn duyên, ngay
cả kinh giáo cũng buông luôn, v́ sao? Đến thế
giới Cực Lạc sẽ học tiếp; hiện
thời, phải thủ đắc (nắm chắc)
thế giới Cực Lạc một cách ổn thỏa,
thích đáng cái đă! Học một kiếp ở đây
vẫn không bằng học một ngày trong thế giới
Cực Lạc. V́ sao? Trong khoảng thời gian một ngày,
người ta có thể đi tham phỏng vô lượng
vô biên Phật, nơi mỗi một đức Phật
chẳng cần nghe nhiều, nghe một câu là đă
tuyệt diệu rồi! Quư vị dạo một ṿng
như thế nghe được vô lượng vô biên
Phật pháp. V́ thế, quư vị ắt hiểu rơ v́ sao
ở Tây Phương Cực Lạc thế giới thành
Phật dễ dàng dường ấy!
Ở đây, chúng ta học rất
khổ sở, gian nan ngần này, bên kia người ta
học rất dễ. Đă thế, họ chẳng
phải nghe những pháp sư tầm thường
giảng, tuyệt đại đa số pháp sư chưa
khai ngộ, c̣n là phàm phu! C̣n ở bên kia, quư vị đi nghe
giảng kinh thuyết pháp là nghe từ chư Phật
Như Lai, không phải là Đẳng Giác Bồ Tát, không
phải là Bồ Tát Ma Ha Tát, quư vị học trực
tiếp với chư Phật Như Lai. Hoàn cảnh tu
học như vậy quư vị t́m ở đâu ra? Ngoại
trừ thế giới Cực Lạc, không t́m
được ở đâu hết! Bởi vậy, ở
đây có hai câu: “Bất ly bỉ
độ, thường biến thập phương” (Chẳng
ĺa cơi ấy, thường ở khắp mười
phương). Hai câu này rất trọng yếu. Đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới, do năng
lực của Thần Túc Thông, có thể phân vô lượng
vô biên thân; Tôn Ngộ Không chẳng thể sánh kịp! Tôn
Ngộ Không chỉ có bảy mươi hai phép biến hóa,
thua xa lắc!
Đoạn tiếp đó viết: “Thử văn” (Văn này),
tức là đoạn kinh văn này, “hiển thị Cực Lạc thế giới,
nhất thanh, nhất trần, nhất sát-na, năi chí khoa
bộ, đàn chỉ, tất dữ thập phương
Tam Bảo, quán triệt vô ngại” (hiển thị trong thế
giới Cực Lạc, một âm thanh, một hạt
bụi, một sát-na, cho đến cất bước,
khảy ngón tay, thảy đều quán triệt vô ngại
mười phương Tam Bảo). Quư vị phải
hiểu chữ “mười
phương” ở đây có nghĩa là trùng trùng vô
tận mười phương thế giới. Trùng trùng vô
tận thế giới, phải đọc kinh Hoa Nghiêm
mới có một chút ấn tượng! Nếu không
đọc Hoa Nghiêm [sẽ không h́nh dung được,
bởi] các kinh Đại Thừa khác rất ít khi nhắc
tới thế giới trùng trùng vô tận! Hết thảy
chư Phật Như Lai, Bồ Tát, Thanh Văn, Tam Bảo
ở trong ấy. “Quán
triệt” là thông đạt, không có chướng
ngại.
“Hựu hiển
thị Sa Bà, tắc trược trọng ác chướng, dữ
Cực Lạc bất cách nhi cách” (Lại hiển thị Sa Bà do trược nặng,
ác chướng [nên Sa Bà] không cách ngăn Cực Lạc mà
thành ra ngăn cách). Câu này nói rơ ư nghĩa được
hiển thị bởi đoạn kinh văn này. Nay chúng ta là
chúng sanh trong thế giới Sa Bà dẫu không tệ lắm,
v́ trong đời quá khứ từng có thiện căn, có
phước đức, nên nghe được pháp môn này,
nhưng thế giới của chúng ta đúng là ngũ
trược ác thế, nghiệp chướng sâu nặng!
Cực Lạc đúng là chẳng ngăn cách ǵ với ta,
như thiền sư Trung Phong đă nói rất hay: “Tâm ta chính là A Di Đà Phật, A
Di Đà Phật chính là tâm ta”, “Tịnh Độ chính là phương
này, phương này chính là Tịnh Độ”, chẳng
ngăn cách! Thiền sư Trung Phong không bị ngăn cách,
nhưng chúng ta bị. V́ sao chúng ta bị cách ngăn? Chưa
tiêu nghiệp chướng, chưa chuyển
được ngũ trược! Ngài chuyển
được, ta chưa chuyển được; Ngài
đă tiêu nghiệp chướng, chúng ta chưa tiêu, [do vậy,
Sa Bà và Cực Lạc] chẳng ngăn cách mà thành ra ngăn
cách!
“Tại Cực
Lạc tắc công đức thậm thâm, dữ Sa Bà cách
nhi bất cách, tư ư cực thâm hỹ” (Trong Cực Lạc th́ công đức
rất sâu, tuy ngăn cách với Sa Bà mà chẳng ngăn
cách. Ư ấy rất sâu): Ư nghĩa này rất sâu, cũng
nhằm giảng rơ v́ sao chúng ta tu pháp môn này, v́ sao mong
cầu Tịnh Độ? Đến Tây Phương
Cực Lạc thế giới, tất cả chướng
ngại đối với chúng sanh trong tất cả
hết thảy pháp giới không c̣n nữa, tất cả
hết thảy chướng ngại đều bị phá
trừ. Chẳng phải là lúc ấy quư vị có thể nói
là ḿnh nhớ được đời trước, một
đời, hai đời, ba đời, các đời trong
quá khứ, vô lượng đời đều nhớ
lại hết, kư ức hoàn toàn khôi phục ư? Thấy
hết oán thân trái chủ trong đời đời
kiếp kiếp, cá nhân nào cơ duyên đă chín muồi, quư
vị nhất định giúp đỡ, đến
độ kẻ đó. Lúc đó tâm rộng mở, tâm thực
sự bao trùm thái hư, lượng trọn khắp các cơi
nhiều như cát, đối với kẻ oán người
thân nghĩ là b́nh đẳng, người oán lẫn kẻ
thân đều là những người có duyên với ḿnh.
Phật chẳng độ kẻ vô duyên, chỉ cần có
duyên với ta, ta đều có phương pháp giúp
đỡ kẻ ấy, thành tựu kẻ ấy. Quư vị
nói xem có tự tại lắm hay chăng? Ư nghĩa này sâu xa
lắm thay! Nay đă hết giờ rồi!
*
6.3.1.2.5. Thuyết pháp trang
nghiêm
Phục thứ, Xá Lợi
Phất! Bỉ quốc thường hữu chủng
chủng kỳ diệu tạp sắc chi điểu,
bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá-lợi,
ca-lăng-tần-già, cộng mạng chi điểu.
Thị chư chúng điểu trú dạ lục thời
xuất ḥa nhă âm. Kỳ âm diễn sướng Ngũ
Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát
Thánh Đạo Phần, như thị đẳng pháp,
kỳ độ chúng sanh, văn thị âm dĩ, giai
tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
復次舍利弗。彼國常有種種奇妙雜色之鳥。白鶴。孔雀。鸚鵡。舍利。迦陵頻伽。共命之鳥。是諸眾鳥。晝夜六時。出和雅音。其音演暢五根。五力。七菩提分。八聖道分。如是等法。其土眾生。聞是音已。皆悉念佛念法念僧。
(Lại
nữa Xá Lợi Phất! Cơi ấy thường có các loài
chim kỳ diệu nhiều màu như chim: Bạch hạc,
khổng tước, anh vũ, xá-lợi,
ca-lăng-tần-già, cộng mạng. Các loài chim ấy, ngày
đêm sáu thời, hót tiếng ḥa nhă. Tiếng ấy
diễn nói lưu loát Ngũ Căn, Ngũ Lục, Thất
Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần, các
pháp như vậy. Chúng sanh cơi ấy, nghe tiếng ấy
rồi, thảy đều niệm Phật, niệm Pháp,
niệm Tăng).
Đến đây là một đoạn,
tức là đoạn kinh thuyết minh “chúng điểu hóa tích” (các loài chim do đức Phật
hóa hiện). Ở đây chúng ta phải hiểu rơ: Như
trong phần sau đức Phật sẽ thuyết minh,
những loài chim bên cơi ấy đều là do A Di Đà
Phật biến hóa ra, tuyệt đối chẳng
thuộc vào súc sanh đạo. V́ sao đức Phật
chẳng hiện thân Phật thuyết pháp, lại phải
biến ra những thân chim ấy để thuyết pháp?
Đó là v́ Phật thương yêu, che chở chúng sanh không
một điều cỏn con nào Ngài chẳng quan tâm.
Nếu Phật hiện thân Phật để thuyết
pháp, học tṛ nghe pháp sẽ nhất định cung kính,
quy củ ngồi ở đó, chẳng thể không giữ
oai nghi. C̣n nếu chim thuyết pháp, họ sẽ rất
thoải mái, không bị bó buộc, có thể tùy tiện
một chút! Ngồi nghe cũng được, đứng
nghe cũng xong, vừa đi vừa nghe cũng
được, nằm nghe cũng chẳng sao. Đấy
là v́ A Di Đà Phật thương yêu, săn sóc chúng sanh, chúng
ta phải hiểu rơ điều này!
Trước kia, tôi cũng thường
nghĩ đến đạo tràng trong thế kỷ 21. Tôi
nói đạo tràng của thế kỷ 21 chẳng cần
phải là tự viện, am đường, không mang h́nh thức
ấy. Đạo tràng tu hành của đại chúng
phải giống như làng nghỉ hưu của Úc châu, Úc
châu thực hiện làng nghỉ hưu rất tốt. Chúng
tôi đă đến rất nhiều quốc gia và các nơi
trên thế giới; mỗi lần đến địa
phương nào, trước hết tôi đều t́m
hiểu sự nghiệp phước lợi (benefits) dành cho
người già. Tại Mỹ, Gia Nă Đại, tôi
thường đến thăm khu chung cư dành cho
người già. Tôi đến Úc châu, trước hết
đi thăm làng nghỉ hưu của bọn họ. Tôi
ghé thăm sáu bảy làng nghỉ hưu, tôi hết sức
vui mừng, những nơi ấy đáng là đạo tràng
của thế kỷ 21, thực sự học Phật,
niệm Phật.
Về nghỉ hưu, trong làng nghỉ
hưu có giảng đường, có thư viện, có
rạp chiếu bóng, có thiết bị dạy học
từ xa; âm thanh niệm Phật cũng giống như bên
chỗ A Di Đà Phật, học theo Ngài hóa hiện các loài
chim. Nay bản thân chúng ta không cách ǵ biến hóa, chúng ta có
thể đặt những cái loa nhỏ trên cây, âm thanh
thuyết pháp từ trên cây truyền ra. Con người nhàn
tản thong dong dưới gốc cây, có thể nghe kinh hay
niệm Phật theo. Nếu có lầu, đài, đ́nh, gác,
th́ trong tiểu đ́nh có thể đặt máy truyền
h́nh dây cáp (cable TV), mấy người ngồi trong đ́nh
vừa nghe kinh vừa có thể thấy h́nh ảnh pháp
sư. Với kỹ thuật khoa học hiện tại, có
thể làm được những chuyện này.
Mỗi đạo tràng có khóa tŕnh tu chánh
yếu, có thể nói là mỗi một tông phái đều có
thể thực hiện được. Nghỉ hưu
rồi ở những nơi đó, bất luận ở
bất cứ chỗ nào trong làng nghỉ hưu cũng là
đạo tràng, có phải rất tự tại hay không?
Đại chúng cùng tu học một chỗ, nhưng không
nhất định phải tụ tập vào một
giảng đường. Quy mô các làng nghỉ hưu ở
Úc Châu đều rất lớn; v́ thế, mỗi một
làng nghỉ hưu giống như một công viên, diện
tích đất đai rất lớn. Trong ấy, hoa cỏ
cây cối, cầu nhỏ, suối nước, quư vị
vào đó thăm quả thật rất đáng lưu
luyến. Nếu có thể gắn thêm những thiết
bị điện tử, tùy thời có thể thấy h́nh
ảnh, nghe tiếng niệm Phật, tiếng giảng
kinh, nơi đó sẽ giống như thế giới
Cực Lạc. Thời thời khắc khắc đều
nhắc nhở chính ḿnh đừng quên niệm Phật.
“Lục thời
diễn pháp” (sáu thời
diễn pháp), nghe kinh, nghe pháp ngày đêm chẳng gián
đoạn, đó là “sáu
thời”, cũng như nay ta nói là hai mươi bốn
giờ. Ở đây, nói sáu thời là theo người
Ấn Độ thời cổ. Cổ Ấn Độ
chia mỗi ngày làm sáu thời thần, ban ngày ba thời
thần, ban đêm ba thời thần. Trong kinh, ta
thường thấy nói Sơ Nhật Phần, Trung
Nhật Phần, Hậu Nhật Phần của ban ngày,
tức là mười hai giờ ban ngày. Đêm xuống
cũng có Sơ Dạ Phần, Trung Dạ Phần, Hậu
Dạ Phần; đó là ba thời ban đêm. Bởi
thế, một Thời của họ bằng với
bốn giờ hiện thời của chúng ta.
Lúc đức Phật c̣n tại thế,
thời gian nghỉ ngơi của Tăng đoàn là Trung Dạ.
Trung Dạ là lúc ngủ nghỉ. Trung Dạ là từ
mười giờ đêm đến hai giờ sáng. Bởi
vậy, mười giờ đêm đi ngủ, hai giờ
sáng thức dậy. Phật dạy mọi người
phải tinh tấn, chẳng được giải
đăi, chẳng được ham ngủ, con người
hiện tại phải ngủ tám tiếng, quá nhiều!
Bởi vậy, phải tinh tấn, phải dũng mănh,
thời gian quư hơn bất cứ ǵ khác, chẳng
được lăng phí thời gian.
Nhưng con người hiện tại
nghiệp chướng nặng hơn trước, vọng
niệm nhiều, chẳng ngủ nghỉ th́ thể
lực chẳng thể khôi phục. V́ thế, chúng ta
hết sức khen ngợi lời răn dạy của lăo
ḥa thượng Đế Nhàn: “Chẳng cần biết
ngày đêm, cứ mệt bèn nghỉ ngơi, cái ǵ cũng
buông xuống, nghỉ ngơi cho khỏe, nghỉ ngơi
xong lại lập tức làm tiếp. Lúc nào mệt nghỉ
ngơi lúc ấy, lúc nào nghỉ khỏe khoắn rồi bèn
làm lúc ấy”. Phương pháp này phải nói là đối
với chúng ta không có áp lực, đúng là phương pháp
tốt. Nếu công phu đắc lực, quư vị sẽ
càng ngày càng ngủ ít, tinh thần ngày càng sung măn.
Sáu thời diễn pháp, ngày đêm không
gián đoạn, điều này hiện thời chúng ta có
thể làm được. Chúng ta có thể dùng băng ghi
h́nh để giảng kinh, niệm Phật. Mỗi ngày
giảng kinh suốt hai mươi bốn tiếng
đồng hồ không gián đoạn bằng cách chiếu
băng ghi h́nh. Niệm Phật cũng hai mươi
bốn tiếng đồng hồ không gián đoạn,
niệm Phật bằng máy. Mỗi chỗ đều có thiết
bị, bên cạnh thiết bị có nút bấm. Quư vị
muốn nghe niệm Phật, ấn nút, Phật hiệu bèn
phát ra; muốn nghe kinh, ấn nút th́ màn h́nh bèn hiện ra [h́nh
ảnh]. Nếu ta chẳng muốn nghe cũng chẳng
muốn nh́n th́ tắt đi, có phải rất tự
tại hay không? Nghe kinh, nghe pháp không lúc nào gián đoạn, đó
là “văn chánh pháp lạc” (niềm
vui do nghe chánh pháp).
“Tất niệm
Tam Bảo, đắc chánh niệm lạc, minh vô tam đồ”
(Đều niệm Tam
Bảo, được niềm vui chánh niệm, chỉ rơ
không có tam đồ), thuyết minh thế giới Cực
Lạc không có ba ác đạo, nên chẳng có nỗi khổ
đọa lạc. Những loài chim ấy đều do A Di
Đà Phật biến hóa ra, “đều
niệm Tam Bảo”: Ở đây, Tam Bảo
được hiểu theo nghĩa rộng, niệm
Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Phật là giác
ngộ, giác chứ không mê; Pháp là chánh tri chánh kiến, chánh
chứ không tà; Tăng là thanh tịnh bất nhiễm,
tịnh chứ không nhiễm. Tăng c̣n biểu thị
sự ḥa hợp và lục ḥa kính. Mười phương
tam thế hết thảy chư Phật giảng vô
lượng vô biên các pháp, đều chẳng thể
vượt khỏi ba loại lớn này: Giác - Chánh - Tịnh
là ba loại lớn. Giác là Huệ học, Chánh là
Định học, Tịnh là Giới học. Tam Học
Giới - Định - Huệ, hết thảy chư
Phật, Bồ Tát giáo hóa chúng sanh chẳng ngoài ba loại
lớn này. Ở đây, lấy Phật - Pháp - Tăng làm
đại biểu, quư vị phải hiểu: Nếu dùng
Tam Tạng để luận th́ Phật tượng
trưng cho Luận Tạng, Pháp tượng trưng cho Kinh
Tạng, Tăng tượng trưng cho Luật Tạng.
Tam Tạng Kinh Luật Luận, đều niệm Tam
Bảo!
Tây Phương Cực Lạc thế
giới quyết định chẳng có ba ác đạo.
Không có ba ác đạo th́ rơ ràng chỉ có nhân thiên
đạo. Trong Phàm Thánh Đồng Cư độ là nhân
thiên đạo, bởi quư vị là đới nghiệp
văng sanh, đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát. A Duy
Việt Trí Bồ Tát chẳng phải do quư vị tu
được, mà do A Di Đà Phật bổn nguyện oai
thần gia tŕ, khiến cho trí huệ, thần thông,
đạo lực của quư vị rất giống với
A Duy Việt Trí Bồ Tát. Chuyện này chẳng thể
nghĩ bàn! Chẳng phải do quư vị tự chứng
đắc! Lúc quư vị tự chứng đắc là khi hoa
khai kiến Phật. Quư vị phải hiểu lúc “hoa khai
kiến Phật” chính là lúc quư vị tự chứng
đắc. Lúc hoa chưa nở, quư vị đă được
dự vào hàng A Duy Việt Trí Bồ Tát là v́ Phật lực
gia tŕ, điều này hết sức chẳng thể
nghĩ bàn!
Lại xem tiếp đoạn thứ
hai: “Cực Lạc phổ nhiếp
pháp giới chúng sanh” (Cực Lạc thâu nhiếp chúng
sanh trọn khắp pháp giới). Câu này rất trọng
yếu. “Pháp giới” là
tất cả hết thảy chúng sanh trọn khắp pháp
giới. Do vậy, quư vị thấy: Phạm vi giáo hóa chúng
sanh trong thế giới Cực Lạc rất rộng
lớn, không có ngằn mé. Giống như trong một
trường học, học sinh đến học từ
rất nhiều địa phương; nhưng
trường học nơi Tây Phương Cực Lạc
thế giới có một điểm khá giống với
chương tŕnh dạy học hàm thụ hiện tại, dù
xa đến đâu cũng không bị ngăn trở.
Mười phương vô lượng vô biên thế
giới đều thuộc phạm vi giảng dạy
của trường này. Thế giới Cực Lạc không
chỉ là một tam thiên đại thiên thế giới,
chẳng giống các cơi Phật khác. Các cơi Phật đúng
là một trường học, chỉ có một học khu,
tức là có phạm vi nhất định. Chỉ riêng Tây
Phương Cực Lạc thế giới không có phạm
vi; tất cả hết thảy trường học
đều thuộc phạm vi của nó. Nghĩa là hết
thảy các cơi Phật đều là phạm vi giáo hóa
của A Di Đà Phật, quư vị nói xem: Có phải là phạm
vi rất lớn hay chăng?
“Căn trần
nhất nhất viên diệu” (Mỗi
một căn và mỗi một trần đều viên măn vi
diệu). Viên là viên măn, Diệu là vi diệu. “Tri thủ văn diệc đặc
vị thử độ nhi thuyết” (Phải biết
kinh văn này cũng chỉ là riêng v́ thế giới này mà
nói). Đây là đức Thích Ca Mâu Ni Phật nói phương
tiện, đặc biệt v́ thích ứng với căn
cơ của chúng sanh trong thế giới Sa Bà mà nói.
Phật đặc biệt v́ chúng ta mà nói phương
tiện như thế; chứ trên thực tế, phạm
vi giáo hóa của A Di Đà Phật rộng lớn vô
hạn. Bởi lẽ, đệ tử của A Di Đà Phật
đến bất cứ cơi Phật nào, đều
được hoan nghênh đặc biệt, đều
được tiếp đăi như khách quư,
được hưởng lây vinh dự của A Di Đà Phật.
Người ta vừa thấy ḿnh là đệ tử A Di
Đà Phật, bèn đối đăi khác với đệ
tử của chư Phật khác. Đoạn tiếp đó
nói về nội dung thuyết pháp:
“Đại
Trí Độ Luận vân: Tam thập thất phẩm” (Đại Trí Độ Luận nói: ‘Ba
mươi bảy phẩm’), tức ba mươi bảy Đạo
Phẩm, “vô sở bất nhiếp,
tức vô lượng Đạo Phẩm, diệc tại kỳ
trung” (không ǵ chẳng nhiếp, dẫu cho vô lượng
Đạo Phẩm cũng đều được gộp
trong ấy). Chúng ta nhất định phải hiểu
điều này; nếu không, quư vị sẽ thấy
phạm vi thuyết pháp của những loài chim ấy
rất bó buộc, tựa hồ chỉ nói pháp Tiểu
Thừa. Mọi người nghĩ ba mươi bảy Đạo
Phẩm là pháp Tiểu Thừa, có ǵ hiếm có, lạ lùng
đâu? Đại Trí Độ Luận nói rất rơ: “Ba
mươi bảy Đạo Phẩm không ǵ chẳng nhiếp”.
Nói cách khác, nếu triển khai ra th́ tất cả hết
thảy pháp do mười phương chư Phật đă
nói, không một pháp nào thoát khỏi phạm vi của ba
mươi bảy Đạo Phẩm; cũng có nghĩa là
ba mươi bảy Đạo Phẩm là cương
yếu của Phật pháp, là pháp môn tổng tŕ của
Phật pháp. Mở rộng ra là hết thảy pháp, hết
thảy pháp quy nạp lại chẳng ngoài ba mươi
bảy loại lớn này! Quư vị phải hiểu như
vậy! Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới,
Phật thuyết pháp, Bồ Tát thuyết pháp, các loài chim
thuyết pháp đều là rốt ráo viên măn. Nói cách khác, quư
vị muốn học bất cứ pháp môn nào cũng đều
rất dễ dàng. Bất luận muốn học một
pháp môn nào, không có ǵ chẳng thành tựu; bởi lẽ,
trong mười hai thời quư vị không gián đoạn.
Đến được thế
giới Cực Lạc rồi, nếu chúng ta hỏi trong
Phàm Thánh Đồng Cư độ có c̣n phải ăn
uống hay không, có c̣n phải ngủ nghỉ hay không? Không
cần nữa! Chúng ta biết trong lục đạo
của thế giới Sa Bà, Sắc Giới Thiên không
cần ăn uống, không cần ngủ nghỉ, quư
vị nghĩ xem: Rất tự tại! Chẳng cần
ăn uống giảm bớt biết bao phiền phức! Ăn
uống tốn rất nhiều thời gian, lăng phí biết
bao tinh thần. Trong thế gian pháp, ăn uống thuộc
về Ngũ Dục; tài, sắc, danh, ăn uống,
ngủ nghỉ là dục vọng, ngũ dục đấy!
Trong Phật pháp, chúng c̣n được gọi là Ngũ Cái
(năm thứ che đậy), Cái (蓋) là tỷ dụ, ư nói chúng che đậy
Tánh Đức. Cái là chướng ngại. Tài, sắc, danh
vọng, ăn, ngủ là chướng ngại,
chướng ngại Bát Nhă trí huệ sẵn có trong Tánh Đức,
chướng ngại vô lượng đức năng
nơi Tánh Đức, chướng ngại tướng
hảo, quang minh của Tánh Đức. Đó là năm
thứ chướng ngại.
Vậy th́ trong Sắc Giới Thiên,
từ Sơ Thiền Thiên trở lên, dưỡng thân
bằng dưỡng chất nào? Lấy Thiền Duyệt
làm thức ăn, dùng Thiền Duyệt để thay
thế. Người thế gian chúng ta cũng có cách nói
giống như vậy: “Nhân phùng
hỷ sự tinh thần sảng” (Người gặp
chuyện vui tinh thần sảng khoái).
Nếu không cần, sao vẫn c̣n có
những hiện tượng ăn uống? Đó là v́ tập
khí phiền năo. Ở đấy lâu ngày sẽ không c̣n ăn
nữa. V́ sao không ăn uống? Tâm vừa nghĩ
đến ăn, cơm bèn hiện ra. Cơm bày ngay
trước mặt, nếu nghĩ ḿnh nay là Bồ Tát trong
Cực Lạc thế giới không c̣n là phàm phu, chẳng
cần đến những thứ này nữa; vừa
nẩy sanh ư niệm đó, cơm và thức ăn bèn
lập tức không c̣n, chúng được biến hóa ra mà!
V́ thế, trong Phàm Thánh Đồng Cư Độ của
Tây Phương Cực Lạc thế giới có hiện
tượng như vậy, trong Phương Tiện
Hữu Dư Độ không có. Thích Ca Mâu Ni Phật toàn
giới thiệu Phàm Thánh Đồng Cư Độ cho
chúng ta. V́ thế, phải hiểu vô lượng
đạo phẩm đều được gộp trong
ấy. Tiếp đây, chúng tôi giới thiệu đơn
giản bảy khoa của ba mươi bảy Đạo Phẩm,
tức là bảy loại lớn.
Thứ nhất là Tứ Niệm Xứ, “dĩ trí quán cảnh” (dùng trí
quán cảnh) tức là thấy thấu suốt; v́ thế,
Tứ Niệm Xứ là trí huệ. Trong thế giới Sa Bà
của chúng ta, trong kinh điển, đức Thế Tôn
thường nói bốn phép quán chính là trí huệ chân chánh.
Thứ nhất “quán thân bất
tịnh”, thứ hai là “quán
Thọ là khổ”, thứ ba là “quán tâm vô thường”, thứ tư là “quán pháp vô ngă”. Quư vị
phải thường quán như thế th́ mới mở
mang trí huệ được.
Thân rất nhơ bẩn, chẳng
sạch sẽ! Con người hiện tại không tắm rửa
ba ngày, thân hôi hám rất khó chịu. Mùi hôi trên thân do đâu mà
có? Từ bên trong phát xuất ra, bên trong rất dơ
bẩn; các đại đức bên Thiền tông
thường ví thân người như cái ǵ? Như “xú b́ nang” (cái đăy da thối)!
Cái đăy da này bên trong chứa đựng những thứ
ǵ? Đựng toàn phân, tiểu, máu, mủ, không có ǵ
sạch sẽ cả, ba mươi sáu thứ vật
bất tịnh[8],
trong túi da này chứa những thứ đó. Nếu quư
vị giác ngộ, thực sự thấu hiểu rơ ràng,
thấy minh bạch, sẽ chẳng lưu luyến cái thân
này nữa.
Làm cách nào? Chúng ta nhờ cái thân giả
này để tu chân, minh tâm kiến tánh là chân. Chúng ta phải
nhờ vào giả tướng này để tu chân. Ngàn vạn
phần đừng bị sắc thân này lừa gạt! Yêu
tiếc sắc thân này, tham luyến sắc thân này, phải
dùng các thứ chất bổ để ǵn giữ sắc
thân này, là trật rồi! Đức Phật chẳng nói
chúng ta không cần yêu tiếc thân thể này, nếu bảo
“chẳng cần” là hiểu lầm ư Phật mất
rồi. Phật dạy ta phải thực sự nhận
thức sắc thân này là ǵ, phải nhận hiểu rơ ràng,
rồi mới khéo lợi dụng thân này, nhờ vào giả
để tu chân, như vậy mới là đúng!
Thứ hai là “quán
Thọ”. Thọ (受) là hưởng nhận, sự cảm
nhận trong cả một đời. Bất luận là thân
phận nào, là phú quư hay nghèo hèn; nói chung, nếu quư vị chú
tâm quán sát, những ǵ quư vị nhận lănh là khổ hay vui?
Ở trên, tôi đă thưa cùng quư vị, sanh, lăo, bệnh,
tử, cầu chẳng được, yêu thương chia
ĺa, chán ghét cứ phải gặp mặt, ngũ ấm
lừng lẫy, quán Thọ là khổ! Nếu quư vị nói
nay ta vẫn có lạc, rất khoái lạc ư? Lạc là
Hoại Khổ. C̣n “chẳng khổ chẳng vui” th́ sao?
Chẳng khổ chẳng vui là Hành Khổ. Tam giới
đều khổ! Kinh Pháp Hoa ví von [tam giới] như nhà
lửa, thân giống như một cái nhà, bên trong bốc
lửa. Giác ngộ như vậy. Chẳng giác ngộ
sẽ không biết “quán Thọ
là khổ”.
Thứ ba là “quán
tâm vô thường”. Tâm ở đây là niệm. Niệm
sanh –diệt không trụ, bởi nó sanh diệt chẳng
ngừng nên nó là vọng niệm. Vô thường, nói
đơn giản là không có niệm nào giống niệm nào!
Sanh diệt trong từng sát-na, biến hóa trong từng
sát-na, tự ḿnh không thể làm chủ được.
Tự ḿnh không làm chủ được nên mới gọi
là Vô Ngă (Ngă là chủ tể). Không làm chủ
được! Tự ḿnh làm chủ được th́ ḿnh
không muốn già, không muốn đổ bệnh, không muốn
chết, có được hay không? Không được! Kinh
điển không gọi tâm ấy là chân tâm, mà gọi là
vọng tâm. Vọng tâm là ǵ? Kinh Hoa Nghiêm giảng là vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước. Tâm vọng
tưởng, tâm phân biệt, tâm chấp trước, vô
thường, thiên biến, vạn hóa.
Câu thứ tư là “quán pháp vô ngă”, có nghĩa là hết thảy pháp
không có chủ tể. Hết thảy pháp là nhân duyên sanh pháp
(pháp do các nhân duyên ḥa hợp mà sanh ra), không có chủ tể,
không tự tại.
Quư vị có bốn pháp quán ấy, nói chung
là gần như hiểu “thân
bất tịnh, thọ là khổ, tâm vô thường, pháp vô
ngă” quư vị mới ḥng thấy thấu suốt
được. Thấy thấu suốt rồi mới có
thể buông xuống, buông xuống những ǵ? Buông
xuống tự tư, tự lợi, buông xuống danh
văn, lợi dưỡng, buông xuống ngũ dục
lục trần, buông xuống tham - sân - si - mạn. V́ sao
người ta không buông xuống được? V́
chẳng thấy thấu suốt; thấy thấu suốt
sẽ tự nhiên buông xuống được!
Thế giới Cực Lạc chẳng
giống thế giới chúng ta. Trong thế giới Cực
Lạc, “thường - lạc
- ngă - tịnh” là sự thật, liên hoa hóa thân nên là
tịnh, chẳng phải là bất tịnh. Thân thể
trong suốt, một mảy nhiễm ô cũng không có. Thân
thể chúng sanh ở Tây Phương Cực Lạc thế
giới trong suốt, không nhiễm ô! Khi nào chúng ta
đoạn sạch được vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, tập khí phiền năo, thân
thể chúng ta sẽ trong suốt; hễ c̣n một mảy
phân biệt, chấp trước, vọng tưởng nào
th́ toàn thân đen thui!
Thế giới Tây Phương
không có các sự khổ, chỉ hưởng các sự vui, thực
sự có vui. Ở đây, chúng ta quán tâm vô thường,
người ta ở bên kia “nhất
tâm bất loạn”, nhất tâm bất loạn là
Thường. “Tự tại
chủ tể” chính là Ngă. Do đây biết rằng:
Ở đây, chúng ta phải tu Tứ Niệm Xứ,
đến Tây Phương Cực Lạc thế giới,
Tứ Niệm Xứ kết quả hiển hiện, thành
tựu, đến thế giới ấy sẽ
được viên măn. V́ thế, kinh Di Đà chẳng nhắc
đến ba khoa trước, mà nói từ Ngũ Căn,
Ngũ Lực trở đi. Chúng ta phải tu Tứ
Niệm Xứ Quán ở đây, nhưng trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới, [Tứ Niệm
Xứ] không được nhắc tới v́ không cần
đến nữa. Ở bên đó, họ không có những
vấn đề [bất tịnh, khổ, vô thường,
vô ngă] ấy.
Lại xem tiếp Tứ Chánh Cần.
Tứ Chánh Cần cũng là chuyện chúng ta phải tu, nhưng
thế giới Cực Lạc không cần đến.
Tứ Chánh Cần là “đoạn ác, sanh thiện”. Cần (勤) là siêng gắng, nỗ lực, Chánh (正) là chánh xác, chánh đáng. Trong cuộc sống
thường nhật, trong hết thảy thời, hết
thảy chỗ, chúng ta chẳng được quên,
phải thực sự tu tập. Đoạn ác gồm hai
câu:
1) “Dĩ sanh
ác linh đoạn” (Ác đă sanh phải đoạn): Đối
với tiêu chuẩn thiện - ác, Phật dạy kẻ
sơ học dùng “Thập Thiện Nghiệp đạo”,
tức là Thập Thiện Nghiệp; trái với Thập Thiện
nghiệp gọi là Thập Ác. Đối với những
ác niệm đă sanh khởi và những ác nghiệp đă
tạo, ta phải giác ngộ, nhanh chóng đoạn trừ.
Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, nói đôi chiều,
ác khẩu, nói thêu dệt, tham, sân, si, là ác! Những ư
niệm ấy vừa sanh khởi th́ phải lập tức
đoạn trừ!
2) “Vị
sanh ác bất sanh” (Ác chưa sanh đừng sanh): Ta lại
c̣n phải không có những ư niệm ấy. Quư vị
phải nhớ rơ: Chẳng được sanh khởi
những ác niệm ấy. Chẳng những chúng gây tổn
hại nghiêm trọng cho ḿnh, mà c̣n gây tổn hại cho
người khác.
“Ác đă
sanh phải đoạn, ác chưa sanh đừng sanh”, không có chuyện ác, không có ư niệm ác,
hành vi ác cũng không có!
Đoạn ác th́ phải sanh thiện, “dĩ sanh thiện tăng trưởng,
vị sanh thiện linh sanh” (thiện đă sanh phải
tăng trưởng, thiện chưa sanh phải sanh).
Chỉ có thiện! Không có ác, chỉ có thiện! Thiện - ác
vẫn lấy Thập Thiện Nghiệp làm tiêu chuẩn,
chúng ta là kẻ sơ học phải lấy những
điều này làm cơ sở; sau đấy, mới nâng cao
lên, sau đấy mới khuếch đại. Thập Thiện
Nghiệp là căn bản. Chẳng giết, chẳng
trộm, chẳng dâm, chẳng nói dối, chẳng nói
đôi chiều, chẳng thêu dệt, chẳng ác khẩu,
không tham, không sân, không si, thường phải sanh khởi
những tâm niệm này. Nếu những tâm niệm này
chưa sanh, phải nhanh chóng sanh khởi. Ác niệm
phải đoạn, thiện niệm phải sanh; hành vi ác
phải đoạn, hành vi thiện phải sanh. Tâm hạnh
của quư vị phải là “không
ác, chỉ có thiện” như thế, “tịnh niệm tiếp nối, vô thượng
Bồ Đề”, vô thượng Bồ Đề
được kiến lập từ đây.
Bốn câu này thông hết thảy pháp,
chẳng hạn như Lục Độ trong Đại
Thừa pháp: Keo tham là ác, bố thí là thiện; ư niệm keo
lẫn, ư niệm tham cầu đều chẳng thiện,
phải đoạn. Ư niệm bố thí, hành vi bố thí,
bố thí cúng dường là thiện, phải sanh. Ác
nghiệp là bất thiện, tŕ giới là thiện. Sân khuể
là bất thiện, nhẫn nhục là thiện. Giải
đăi là bất thiện, tinh tấn là thiện. Tán
loạn là bất thiện, Thiền Định là
thiện. Ngu si là bất thiện, Bát Nhă là thiện. Nói
chung, mười thiện nghiệp đạo là cơ
sở tiêu chuẩn tối sơ (đầu tiên trước
hết), nâng cao dần lên, nâng dần lên thành hết
thảy pháp. Hết thảy pháp thế gian và xuất
thế gian đều có hai mặt thiện và ác,
đoạn ác, tu thiện.
Đoạn thứ ba là Tứ Như Ư
Túc, Túc (足) là măn túc
(trọn đủ). Măn Túc (滿足) là như ư. Bởi thế, đức Phật
dạy chúng ta: Nếu chúng ta làm trọn vẹn bốn
thứ này, sẽ được như ư. “Phóng đắc hạ, hồi thủ như ư, hồi
đầu thị ngạn” (Buông xuống
được, như ư quay đầu lại, quay
đầu là bờ). Bởi vậy, bốn điều này
là Định, là Phước, [Tứ Như Ư Túc là] bốn
thứ Định, bốn thứ Phước.
Người Trung Quốc thường nói “hồi thủ
như ư” (cây Như Ư gập đầu xuống). Quư
vị thấy xưa kia trong tay những kẻ phú quư
thường cầm một cây Như Ư. Cầm cây Như Ư
có nghĩa là ǵ? Đầu cây Như Ư[9]
cong ngược lại, tức là thời thời khắc
khắc cảnh tỉnh chính ḿnh, bất luận làm ǵ không
được quá lố, phải biết hồi
đầu! Chẳng biết hồi đầu rắc
rối lắm, nẩy sanh mối loạn liền.
Người bây giờ gọi là “tiết chế”, biết
tiết chế! Bất luận làm chuyện ǵ cũng có
một chừng mực nhất định, đến khi
đó phải biết tiết chế. Cổ nhân Trung
Quốc gọi là “phải
biết quay đầu”. Phàm tạo tác tội lỗi,
oan nghiệt đều là do không biết tiết chế,
chẳng biết quay đầu, đúng là “mặc sức
tự làm”, rắc rối xảy đến liền,
đến khi quả báo hiện tiền, có hối cũng không
kịp nữa!
Đức Phật
dạy chúng ta bốn việc, thứ nhất là Dục
Như Ư Túc. Dục (欲) là dục vọng, nhất định
phải biết tri túc, biết đủ, ắt
thường vui. Điều thứ hai là Tinh Tấn, Tinh
Tấn Như Ư Túc th́ thường vui. Để giải
thích tôi dùng hai câu: “Biết
đủ, thường vui, tâm an, lư đắc”. Tôi
giải thích như vậy ắt mọi người
dễ hiểu. Cổ đức giải thích bốn câu này
chẳng dễ hiểu, quư vị đọc lời
giải thích của tôi, đọc xong hiểu liền.
Việc ǵ sung sướng nhất? Ngày ngày có tiến
bộ, đúng là sung sướng, thực sự pháp hỷ
sung măn. Trong Luận Ngữ, Khổng phu tử nói: “Học nhi thời tập chi, bất
diệc duyệt hồ” (Học rồi thường tu tập
theo, cũng chẳng vui ư?) Hằng ngày có tiến bộ;
tinh tấn là hằng ngày có tiến bộ, khổ là ǵ?
Chẳng có tiến bộ là khổ.
“Niệm
Như Ư Túc” c̣n gọi là “Tâm Như Ư Túc”. Trong
tương lai, quư vị thấy trong Phật pháp nhắc
đến Tứ Như Ư Túc, có khi dùng chữ Niệm, có
khi dùng chữ Huệ; nhưng cũng có chỗ dùng “Tâm Như Ư Túc” hoặc “Tư Duy Như Ư Túc”. Dùng
“niệm” và “tâm” tôi đều đă từng thấy
rồi. Trong kinh có những cách nói như vậy,
đều là một cả! Niệm Như Ư Túc là an tâm! An
tâm là nếu tâm quư vị biết tri túc, tâm bèn an! Tinh
Tấn Như Ư Túc, hôm nay tinh tấn, hôm nay ta thực
hiện công khóa viên măn, luôn có tiến bộ, luôn thực
hiện được, thường vui sướng. Tinh
tấn chẳng thể không tri túc; chẳng tri túc sẽ
tinh tấn quá lố, phải quay đầu lại kẻo
tổn hại thân thể! Công khóa một ngày phải
thực hiện xong trong một ngày, chẳng
được trong một ngày toan tính hoàn tất công khóa
của mười ngày, mất mạng đấy!
Đức Phật không dạy
người như thế, đức Phật dạy tùy
theo căn tánh, tŕnh độ của quư vị, dạy bảo
những thứ nhất định thích hợp với
căn tánh và tŕnh độ của quư vị. Trước
kia, trẻ đi học trong trường tư, thầy
dạy học tṛ mỗi đứa mỗi khác, mức
độ tiến bộ của mỗi trẻ mỗi khác.
Đứa có tư chất cao, trí nhớ tốt, hiểu
biết khá, khóa tŕnh mỗi ngày (trước kia gọi là “thượng thư”, tức
là tốc độ dạy ta đọc), đứa
thượng thượng căn có thể dạy
đọc hai mươi hàng, mỗi hàng gồm hai
mươi chữ. Hai mươi hàng là bốn trăm
chữ, mỗi ngày nó có thể tiêu hóa được
chừng ấy th́ là thượng căn. Căn tánh bậc
trung mỗi ngày đọc được mười
lăm hàng, từ mười hàng cho đến mười
lăm hàng. Căn tánh hạ đẳng rất đần,
trí nhớ không tốt, dạy nó bao nhiêu hàng? Từ ba hàng
đến năm hàng, ba hàng là ba mươi sáu chữ,
năm hàng là một trăm chữ, phải đọc
thuộc, phải học thuộc.
Tiêu chuẩn để trắc nghiệm
học tṛ, nói đúng ra trắc nghiệm khá dễ dàng.
Thầy kêu học tṛ đọc, ví dụ như: “Ta
dạy tṛ đọc hai mươi hàng, thử coi tṛ có
phải là thượng căn hay không? Mười lần phải
thuộc, lấy đó làm tiêu chuẩn!” Nếu mười
biến không thuộc, được! Lập tức giảm
xuống, nhất định mười lần bèn
thuộc, thích hợp với tŕnh độ của nó: Nếu
mười biến không thuộc là [thầy đă bắt nó
đọc] quá nhiều. Bởi thế, trẻ đó
phải là hạ căn, dạy nó ba hàng tức sáu
mươi chữ, đọc ba lần bèn thuộc là
tốt. Đứa trẻ nào đọc một trăm
chữ, mười lần thuộc được, tư
chất nó cao hơn đứa kia một chút. V́ thế,
cùng dạy một bài giống nhau, nhưng mức độ
tiến bộ của mỗi cá nhân mỗi khác. Mười
lần thuộc rồi thầy bèn đốc thúc trẻ,
đọc lớn lên, đọc một trăm lần,
nh́n vào sách lớn tiếng đọc, đọc cả trăm
lần. Đọc một trăm lần xong, xếp sách
lại, đọc nhẩm một trăm lần, có
tiến bộ! Đó là bài học ngày hôm nay, ngày mai có bài
học của ngày mai. Đó là Tinh Tấn Như Ư Túc.
Tôi nêu thí dụ trên đây chắc
mọi người dễ hiểu. Mỗi ngày phải có
tiến bộ. Tiến bộ có chừng mực, thích
hợp tŕnh độ và căn tánh của ḿnh th́ chẳng
khó khăn chút nào. Hằng ngày đều có tiến bộ, hằng
tháng có tiến bộ, hằng năm có tiến bộ; sao
không vui sướng cho được? Niệm Như Ư Túc
(Tâm Như Ư Túc) tâm an. Huệ Như Ư Túc (Tư Duy Như Ư Túc)
là hiểu thấu suốt minh bạch. Lư giải minh
bạch, tâm bèn an, tâm đă an th́ lư bèn minh bạch, “thành tựu nhất tâm, bất
thoái Bồ Đề”, tôi nói như vậy chắc
mọi người hiểu được. Có thể áp
dụng vào cuộc sống thường nhật, áp
dụng vào dạy học, áp dụng vào niệm Phật, áp
dụng vào tu hành, đó là cương lănh, là nguyên tắc.
A! Nay đă hết giờ rồi, hôm nay chúng tôi giảng
đến đây thôi!
Trung Phong Tam Thời Hệ
Niệm
Pháp Sự Toàn Tập Giảng
Kư,
phần 5 hết
[1] Thân nhân duyên: Nhân duyên trực tiếp, thân mật, có công năng sanh khởi các pháp hữu vi.
Sở duyên duyên: Sở
duyên là đối tượng của nhận thức,
chẳng hạn như sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp là sở duyên của sáu thức. Nếu khi đối
tượng được nhận thức bởi tâm và
tâm sở trở thành nguyên nhân làm cho tâm và tâm sở sanh ra
kết quả, th́ nó sẽ được gọi là Sở
Duyên Duyên. Ví dụ như Sắc là sở duyên duyên của
Nhăn Thức và pháp. Câu Xá Luận, quyển 7 giải thích: “Tánh
của sở duyên duyên tức tất cả pháp, tâm và tâm
sở ứng hiện tùy theo sở duyên duyên này. Như nhăn
thức và Pháp tương ứng lấy tất cả
Sắc làm sở duyên duyên”.
Vô gián duyên: Sự sanh khởi của tâm và tâm sở
do niệm trước dẫn sanh niệm sau không xen hở
(theo Huệ Quang tự điển).
[2] “Xuất tướng nhập
tướng” (出將入相): Tướng (將) là tướng quân cầm quyền
bên ngoài biên cương hay các tỉnh, nên gọi là “xuất
tướng”, c̣n Tướng (相) là Thừa Tướng trong triều đ́nh, thân
cận vua nên gọi là “nhập tướng”. Câu này ca ngợi
những người nắm quyền cao chức trọng
trên cả phương diện văn lẫn vơ.
[3] Bông vải, nguyên tác là “miên hoa” tức quả của cây bông vải (cotton) chưa đánh thành sợi.
[4] Thật ra, Đệ Tam Thiền không
phải là thế giới Cực Lạc. Đây chỉ là
cách nói ví von v́ cơi trời ấy có sự hưởng thụ
tự nhiên, không có Khổ Khổ, cơm áo tự nhiên, không
bị ái dục chi phối nên tạm gọi là Cực
Lạc.
[5] Báo độ: Cơi nước do quả
báo biến hiện, thường chỉ cơi nước có
Báo Thân Phật ngự. Do “báo độ” không có t́nh thức,
nên gọi là “vô t́nh báo độ”.
[6] Nguyên sắc (primary colors) là những màu
cơ bản, phối hợp, pha trộn chúng theo những
tỷ lệ khác nhau sẽ có được nhiều màu
sắc khác. Trong hội họa, ba màu cơ bản chính là
đỏ, xanh dương và vàng. Màu trắng thật ra
không phải là màu nguyên bản, nhưng thường
được dùng để giảm độ đậm
của các màu khác. Chẳng hạn, pha vàng với đỏ
ta sẽ có màu cam, pha xanh dương với màu vàng, ta
sẽ có màu xanh lá cây v.v...
[7] Đây là cách giải thích dựa theo
văn tự, “kích” (裓) là cái vạt áo.
[8] Theo kinh Đại Bát Niết Bàn, ba
mươi sáu thứ vật bất tịnh nơi thân
được chia thành ba loại lớn:
1. Mười hai món bên ngoài: Tóc, lông, móng, răng, ghèn,
nước mắt, nước miếng, đờm,
nước tiểu, phân, hờm (cáu ghét), mồ hôi.
2. Mười hai món nằm bên trong thân gồm:
lớp da ngoài cùng, lớp da bên trong, máu, thịt, gân,
mạch, xương, tủy, mỡ, mỡ sa, năo, những
mô bao bọc quanh các nội tạng hoặc cơ quan
(như nhăn mô, hoành cách mô, niêm mạc, màng nhầy ở mặt
trong của ruột...)
3. Những nội tạng gồm: gan, mật,
ruột, bao tử, tỳ, thận, tim, phổi, sanh
tạng (phần trên của cơ quan tiêu hóa, như
lưỡi gà, thực quản v.v..), thục tạng
(phần dưới của cơ quan tiêu hóa, như các
tuyến tiết chất enzyme tiêu hóa, thục tạng bao
gồm cả ruột già ruột non v.v..), đàm
đỏ, đàm trắng.
[9] Như Ư là một vật trang trí,
thoạt đầu là dụng cụ để găi lưng,
về sau dùng để tượng trưng cho những
điều tốt lành, chúc tụng. Như Ư làm bằng
xương, sừng, trúc, gỗ quư, ngọc, đá,
đồng, sắt có cán dài chừng ba tấc, hơi
uốn cong trông như như chữ S bị kéo dài ra.
Đầu to có uốn cong lên hơi hướng về phía
cán, chạm h́nh nấm Linh Chi hoặc áng mây, ở giữa
thường nấm Linh Chi gắn ngọc hay đá quư,
hoặc chạm tổ nhiều vờn mây uốn
lượn, bao quanh một chữ Thọ, Phước,
Lộc v.v... khắc theo kiểu chữ triện. Chỗ
tay cầm cũng làm hơi to ra, thường khắc
chữ Tâm, chữ Phước, hoặc chữ Thọ,
hoặc không khắc chữ. Trong nhà Phật cũng
thường dùng Như Ư làm pháp khí để vị pháp
sư chủ pháp cầm trong các pháp hội như Du Già
Diệm Khẩu hoặc Thủy Lục. Đối với
những cây Như Ư dùng trong các nhà phú quư, cán thường
gắn thêm một đôi tua kết bằng chỉ màu
đỏ hoặc vàng. Đây cũng là vật dụng mà
vua thường ban tặng cho các quan trong những dịp
khánh hạ, nhất là ban cho mẹ hay phu nhân của các quan
cao cấp.