| |
A. Thích Ðề
1. Ðề Luận
Vãng sanh Tịnh Ðộ Luận nguyên tên là Vô Lượng
Thọ Kinh Ưu Bà Ðề Xá Nguyện Sanh Kệ. Luận có 2 loại: Tôn Kinh Luận và Thích Kinh
Luận. Tôn Kinh luận là chư Tổ dựa vào ý kinh tự lập ra luận. Thích Kinh Luận là
các Tổ cứ y theo kinh văn giải thích thành luận. Bộ Luận Vãng Sanh Tịnh Ðộ này
là Tôn Kinh Luận, do đó luận cũng chính là Ðề Kinh.
Kinh Vô Lượng Thọ là một trong 3 bộ kinh cốt yếu lập thành tông Tịnh Ðộ; đó là
kinh Vô Lượng Thọ, kinh A Di Ðà và Quán Vô Lượng Thọ Kinh. Luận này dựa vào kinh
Vô Lượng Thọ lập nghĩa nên được gọi là Vô Lượng Thọ Kinh Luận. Vô Lượng Thọ là
hồng danh của Ðức Phật, tiếng Phạn là AMITABHA, dịch âm là A Di Ðà có nghĩa là
Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, nhưng chủ yếu là Vô Lượng Thọ, nên hầu hết các
kinh đều dịch Vô Lượng Thọ.
Chữ Vô có nghĩa là Không, chữ Lượng có nghĩa là số lượng. Riêng về chữ Lượng có
4 loại:
1. Không gian lượng là chỉ thể tích trong không gian, những vật có chiều rộng,
dài, cao chiếm một khoảng trong không gian. Toán Kỷ Hà Học đã tính được lượng
này.
2. Thời lượng: Tính bằng thời gian lấy sát na làm đơn vị đến giây, phút, giờ,
ngày, tháng, năm…gọi là thời lượng.
3. Trọng lượng: Tính sức nặng đơn vị nó là lượng, cân, ký, tấn…
4. Số lượng: Tính từ số 1 đế A Tăng Kỳ số. Thế nào gọi là vô lượng? Phàm cái gì
có thể dùng lời mà nói được, dùng ý thức có thể suy nghĩ đều thuộc về 4 lượng
tính toán trên. Nếu vượt qua các lượng tức là hết tất cả tính toán trên. Nếu
vượt qua các lượng tức là hết tất cả tướng nói năng, lìa hết tướng tâm có thể
duyên. Thực mà nói: Dứt cả lời nói, tâm làm đều tịch diệt, tình cảnh không thể
nghĩ bàn gọi là Vô Lượng.
Thọ là sống lâu. Nếu lấy trăm ngàn tuổi tính đến kiếp số của sự thọ mạng, bất cứ
cái gì còn tính được đều không thể gọi là vô lượng. Cái gì không thể tính lấy
ngôn ngữ, tư tưởng có thể suy gọi là vô lượng.
KINH: Phàm những lời Phật nói ra hoặc đệ tử nói ra mà Phật ấn khả gọi đó là
“kinh”. Kinh còn gọi là Khế Kinh tức là trên khế hợp với lý Phật, dưới khế hợp
căn cơ chúng sanh. Các Bồ Tát y theo Tông Yếu mà sáng tác, hoặc chú thích thuật
tác theo Kinh gọi là Luận. Lúc Phật còn ở trong đời, hằng ngày sinh hoạt với đệ
tử, quy định những điều luật để đệ tử thực hành gọi là Luật.
Vô Lượng Thọ là đề kinh, Ưu Bà Ðề Xá là nghị luận nghĩa lý, mục đích phát huy
hết yếu nghĩa của Kinh nên gọi là Luận. Trong luận này chia làm 2 phần.
Trước tiên Ngài làm kệ để phát nguyện vãng sanh, kế đó Ngài làm Luận để giải
thích rõ ràng văn kệ nên cũng gọi là Vô Lượng Thọ Kinh Nguyện Sanh Kệ Luận. TỊNH
ÐỘ: Trong kinh dạy: "Hư không vô biên thế giới vô số". Ngày nay, những nhà thiên
văn đã xử dụng kính viễn vọng có thể thấy được Hỏa Tinh, trong ấy có người đang
sống và các hành tinh vô số trong vũ trụ. Trong vô số thế giới ấy, đương nhiên
sẽ có thế giới khổ, vui, nhơ, sạch, tốt xấu nhiều thứ sai biệt. Những thế giới
trong sạch an vui, tốt đẹp trang nghiêm được gọi là Tịnh Ðộ. Từ đó suy ra các
nhà thiên văn học đều dễ dàng công nhận.
Thế giới Ta Bà là thế giới đau khổ, người luôn bị khổ đau ép ngặt. Vì thế, Ðức
Thích Ca Mâu Ni đặc biệt chỉ dạy cho chúng sanh một thế giới thanh tịnh vô cùng
an lạc và chỉ cho mọi người phương pháp tu để được vãng sanh về cõi tịnh ấy, vì
nếu tu nghiệp nhơn Tịnh Ðộ sẽ có quả Tịnh Ðộ. Ngài dạy: Từ đây hướng về phía
Tây, cách mười muôn ức cõi Phật, có một thế giới tên là Cực Lạc. Bằng nhãn quang
và trí tuệ, Ngài thấy chắc có thế giới này nên dạy khuyên chúng sanh trong thế
giới tai nạn khổ ách cõi Ta Bà này hãy phát tâm cầu sanh về thế giới Cực Lạc,
siêng tu tịnh nghiệp chắc chắn được vãng sanh về Tây Phương Tịnh Ðộ.
Căn cứ vào Ðệ Nhất Nghĩa Ðế mà nói, cõi Phật cứu kính thanh tịnh là Chơn Pháp
Giới lìa tất cả tướng, lìa tất cả phân biệt, ngôn thuyết. Chơn Pháp Giới này
trùm khắp cả chỗ, mọi người có đủ nhưng không hiển hiện được vì bị ngăn ngại
phiền não nghiệp chướng. Dù nói có mặt khắp tất cả chỗ nhưng không tương ưng nên
phải ở trong cuộc sống huyễn mộng sanh tử không dứt. Nếu có thể phá được nghiệp
báo phiền não huyễn mộng, một niệm giác ngộ là một niệm Tịnh Ðộ tương ưng. Ðó
chính là "Vãng sanh không chỗ sanh và sanh không có chỗ sanh". Ðó là nghĩa của
vãng sanh vậy.
Nếu căn cứ vào Tục Ðế mà nói vãng sanh là "Vãng thì quyết định vãng, sanh thì
quyết định sanh". Do nhơn tu Tịnh nghiệp nên khi lâm chung lìa cõi Ta Bà này
vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Nếu hợp Chơn Ðế và Tục Ðế mà nói vãng sanh là "Vãng thì không chỗ sanh, sanh thì
quyết định sanh" vì người vãng sanh căn cứ trên báo thể tức A Lại Da thức. Năng
lực A Lại Da thức trùm khắp tất cả chỗ, sanh vào cõi này là do nghiệp lực năng
sanh thuần thục mà báo thể cõi này thành tựu. Như thế, được sanh Tịnh Ðộ là do
nghiệp thành thục tức là báo thể sanh Tịnh Ðộ thành thục. Nên nói: "Vãng thì
không có chỗ vãng, sanh thì quyết định sanh”.
Lại nữa, chúng sanh nhận báo thân ở cõi Ta Bà khi chưa bỏ thân mạng, nếu bỏ thân
mạng này vãng sanh về cõi Cực Lạc là "vãng thì có chỗ vãng". Nhưng năng sanh, sở
sanh không thực tại, xét cho kỹ thì từ chỗ nào sanh về cõi Ta Bà, từ chỗ nào
sanh về Cực Lạc? Nếu là tự sanh, lúc chưa sanh tự thể nó là không làm sao có thể
tự sanh? Nếu đó là tha sanh thì dối tự nói tha sanh vì tự mình đã không sanh
người khác làm sao sanh? Nếu không có cái nhơn sanh thì tất cả đều vô sanh.
Trong Trung Luận nói: "Các pháp không tự sanh, cũng không từ cái khác sanh,
không cùng đều là nhơn nên nói vô sanh", nên có thể nói: "Vãng thì có chỗ vãng
mà sanh thì không có chỗ sanh". Vì thế bốn trường hợp trên không nên thiên chấp.
Quả nếu có thể lìa chấp thời có thể tùy cơ phương tiện mà nói đó.
2. Người tạo luận
Luận này do Bồ Tát Thiên Thân tạo, Ngài có hai
người anh là Bồ Tát Vô Trước và Tôn Giả Sư Tử đều là bậc Luận Sư nổi tiếng đương
thời. Ngài tạo rất nhiều luận được người đời tôn xưng là "Thiên Bộ Luận Sư". Ban
đầu Ngài học theo Tiểu Thừa, tạo ra 500 bộ Luận Tiểu Thừa, sau bỏ Tiểu Thừa sang
Ðại Thừa cũng tạo ra 500 bộ Luận Ðại Thừa. Vãng Sanh Tịnh Ðộ Luận này là một
trong 500 Bộ Luận Ðại Thừa ấy.
Bồ Tát nói cho đủ là Bồ Ðề Tát Ðỏa là Giác Hữu Tình, là những bậc đã chứng được
quả Chánh Biến Tri, quyết tâm độ thoát tất cả chúng hữu tình gọi là Bồ Tát. Công
hạnh Bồ Tát có gần xa, công hạnh có sâu cạn. Vị Thập Tín là Sơ Phát Tâm Bồ Tát.
Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Tứ Gia Hạnh Vị gọi là Tam Hiền Bồ Tát. Bồ
Tát Thiên Thân đã chứng Tứ Gia Hạnh Vị thuộc về Bồ Tát Tam Hiền.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni sinh ra ở xứ Ấn Ðộ, những lời thuyết giáo được ghi lại
bằng Ấn văn. Ðến đời Nguyên Ngụy, Ngài Bồ Ðề Lưu Chi dịch sang Hoa Văn và Ngài
Thái Hư Ðại Sư giảng chỗ Yếu Nghĩa.
|