Hoa Nghiêm Kinh Yếu Giải
華嚴經要解
宋溫陵白蓮寺比丘戒環集
Đời
Tống, tỳ-kheo Giới Hoàn chùa Bạch Liên ở Ôn
Lăng biên tập
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Đức Phong và Huệ Trang
Thay lời dẫn nhập
Khi bộ Di Đà Sớ Sao được chuyển
ngữ, một đồng tu quen biết chúng tôi đọc xong tác phẩm ấy, đă vô cùng hâm mộ kinh Hoa Nghiêm. Nhất là sau khi
phẩm Tịnh Hạnh được chuyển ngữ,
chị càng ao ước có một tài liệu khái lược
kinh Hoa Nghiêm ḥng dễ ghi nhớ, góp phần củng cố
niềm tin nơi Tịnh Độ. Tuy bộ Hoa Nghiêm Kinh
Sớ Sao của ngài Thanh Lương đă có bản dịch
tiếng Việt, nhưng theo chị, văn chương của
Tổ quá cô đọng, cao huyền, bản dịch tiếng
Việt thiếu hẳn chú thích, lời văn lại không trôi chảy, rơ
ràng cho lắm, khiến cho nhiều chỗ chị đọc
đi đọc lại mà không hiểu ư Tổ muốn dạy
điều ǵ. Bài giảng kinh Hoa Nghiêm của Ḥa Thượng
Tịnh Không lại quá dài, quá rộng, nên nghe giảng xong, rất
khó nắm vững và ghi nhớ ư chính
trong mỗi phẩm kinh. Hơn nữa, cho đến nay, lăo ḥa thượng giảng kinh Hoa Nghiêm chưa hoàn tất, mà những phần Ḥa
Thượng đă giảng cũng chưa được chuyển ngữ đầy đủ. Do
đó, muốn học thấu đáo kinh Hoa Nghiêm đă khó, lại càng khó hơn. Vô
t́nh, chúng tôi t́m thấy bản Hoa Nghiêm Kinh Yếu Giải của
pháp sư Giới Hoàn đời Tống vừa ngắn gọn,
vừa hệ thống hóa giáo nghĩa trong kinh Hoa Nghiêm khá
đơn giản và rành rẽ, nên đánh liều dịch
ra. Ưu điểm của tác phẩm này là đă nêu ra những
điểm chánh yếu của mỗi phẩm, vạch ra
rành rẽ cấu trúc của kinh, khiến cho người
đọc gần như có một tấm bản đồ
về Hoa Nghiêm trong tay. Điểm đáng tiếc là có những
giáo nghĩa hết sức đặc sắc như tứ
pháp giới vô ngại, thập huyền môn… lại hoàn toàn
không được ngài Giới Hoàn nhắc
tới. Chúng tôi chỉ hy vọng bài chuyển ngữ thô lậu
này sẽ giúp cho những ai căn cơ hèn kém như chúng
tôi dễ nắm được những ư chính của kinh
Hoa Nghiêm để rồi khi có cơ duyên đọc bộ
Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao sẽ thấy dễ hiểu hơn.
Mùa Vu Lan năm
2018, Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa kính bạch.
Lời mở đầu
Mùa Đông năm
Canh Tuất, tiên sư là lăo ḥa thượng Minh Quán thị
tịch, ngoài chuyện bận bịu lo liệu tang ma, buồn
thương, lo nghĩ vấn vít nhiều nỗi. Do vậy,
nhớ lại trong các trước tác do thầy để
lại, đă từng ghi chép khi Ngài hành hóa tại Chiết
Đông, có hành tŕ, tu tập Hoa Nghiêm đạt được
cảnh giới thần diệu chẳng thể nghĩ
bàn, ngay lập tức dấy khởi phép Quán, nghiệp tận,
t́nh không, rỗng rang vô ngại. Do vậy, tôi liền ẩn
cư tại giảng đường Quang Minh ở
Hương Cảng, đọc tụng đại kinh
để hồi hướng cho thầy tôi, vừa đọc,
vừa ghi chép để giúp cho việc cầu học,
nghiên cứu, và cũng tra duyệt toàn bộ các trước
thuật thuộc loại biên tập những điểm
trọng yếu trong kinh Hoa Nghiêm để làm tài liệu
tham cứu. Trong số đó, có bộ Hoa Nghiêm Yếu Giải
của tỳ-kheo Giới Hoàn ở Ôn Lăng đời Tống,
giải thích khéo léo, ư nghĩa phong phú, đọc đi
đọc lại chẳng chán. Do vậy, tôi vội đem
in ra nhằm mong giúp đỡ người đọc sau
này, tôi cũng đem chương Hoa Nghiêm Tam Muội của
quốc sư Hiền Thủ[1] in ghép vào sau,
ḥng cùng mở toang kho báu vậy.
Tháng Mười
Một năm Phật lịch 2514 (1971), Thích Linh Chân viết
tại Chân Lô núi Đại Dự.
Đại Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh Yếu Giải
Tống
Ôn Lăng Bạch Liên Tự tỳ-kheo Giới Hoàn tập
大方廣佛華嚴經要解
宋溫陵白蓮寺比丘戒環集
(Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Yếu Giải
Đời
Tống, tỳ-kheo Giới Hoàn chùa Bạch Liên biên soạn)
Giới Hoàn đă
từng v́ Hoa Nghiêm hải tạng mênh mông khó thể thấu
đạt mà đọc đi đọc lại bộ Sớ Luận
của Phương Sơn trưởng giả (Lư Thông Huyền),
[nhờ bộ sớ luận ấy đă] tŕnh bày những
ư nghĩa trọng yếu tổng quát, sớ giải cặn
kẽ ư chỉ của kinh, tôi mới hơi biện định
được đầu mối. Kế đó, nhờ biên
tập bộ Tu Chứng Nghi của thiền sư Quả
Minh đời Thanh mà hiểu đại lược sự biểu thị
pháp của các thánh hiệu, nhiều lần thưa hỏi
bậc hiền năng thông đạt, nguyện thấu suốt
tận cùng điểm sâu mầu trong chín hội. V́ thế,
đă đem bộ Cương Yếu của quốc
sư Thanh Lương đối chiếu với Sớ Luận
[của Lư Trưởng Giả], soạn riêng thành tác phẩm
chú giải này, chủ yếu là dựa theo ư của ngài
Phương Sơn, phụ trợ bằng những luận
thuyết của ngài Thanh Lương, tham cứu thấu suốt
tám vạn bốn ngàn chữ trong cả tạng, ngơ hầu
người đọc sẽ chẳng khác ǵ mổ lấy
đại kinh trong một vi trần, thấy pháp giới
trong một cái khảy ngón tay vậy!
Ngày Thượng
Nguyên (Rằm tháng Giêng) năm Mậu Thân (1128) trong niên hiệu
Kiến Viêm[2].
I. Giải thích về huyền nghĩa
Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh chỉ thẳng đức
dụng vốn chân thật của Phật Tánh mà Phật và
chúng sanh đều b́nh đẳng, ba đời chư Phật
cùng chứng, mười phương Bồ Tát cùng tu, các bậc
thánh trong đại thiên thế giới đều tôn trọng,
chúng sanh trong pháp giới đều cùng trọn đủ vậy.
Khi Thích Ca Như
Lai vừa mới thành Chánh Giác, muốn nêu rơ cái nhân đă tu
và cái quả đă chứng, muốn khiến cho ai nấy
đều cùng tu, cùng chứng, cho nên Ngài đă hiện thân
Lô Xá Na cao ngàn trượng để diễn nói. Văn Thù
Bồ Tát và ngài A Nan đă kết tập kinh này trong biển
vây quanh núi Thiết Vy; do đối ứng với các
căn cơ thượng, trung, hạ, bèn chia thành ba bộ.
Thượng bộ có mười ba ngàn đại thiên thế
giới vi trần số kệ[3], một tứ
thiên hạ vi trần số phẩm. Trung bộ có bốn
mươi chín vạn tám ngàn tám trăm bài kệ, một
ngàn hai trăm phẩm. Hạ bộ có mười vạn bài
kệ và bốn mươi tám phẩm, đều do một
âm thanh diễn bày, mà [chúng sanh trong mười phương pháp giới] tùy theo từng loài, sẽ hiểu biết riêng biệt:
1) Bậc thượng
căn nghe kinh này, sẽ xứng tánh trọn khắp, sát
độ nói, vi trần nói, dày đặc chẳng gián
đoạn, ngay cả số vi trần trong các cơi nước
khắp đại thiên thế giới vẫn chưa đủ để diễn tả trọn hết được, chỉ dùng
những danh xưng ấy để diễn tả số lượng quá nhiều đó thôi!
2) Hàng trung căn
nghe kinh này, chỉ ngộ giải kinh được nói
trong hội này, chưa thấu đạt tột cùng những
giáo pháp được diễn tả nhiều như số
các vi trần trong cơi nước. V́ thế, số kệ và
số phẩm ít hơn.
3) Kẻ hạ
căn nghe kinh này, [sẽ chỉ thấu hiểu] những
ư nghĩa hạn cuộc trong ngôn từ, kiến giải có
hạn lượng. Do vậy, chỉ gồm mười vạn
kệ, [hợp thành] bốn mươi tám phẩm. [Hạ
bộ] truyền đến [Trung Hoa] chẳng đầy
đủ, nay kinh này [trong Đại Tạng Kinh] chỉ có
bốn vạn năm ngàn kệ, ba mươi chín phẩm.
Thuở trước,
sau khi đă kết tập, kinh được ẩn kín trong
cung rồng, Long Thọ Bồ Tát vận thần thức
vào kho tàng trong biển, thấy hai bộ trước
(thượng bộ và trung bộ) mênh mang như biển thẳm,
nhân gian chẳng thể thấu hiểu được, bèn
học thuộc hậu bộ (hạ bộ), đem về
Ngũ Thiên Trúc. Do vậy, kinh được truyền tới
Trung Hoa. Tuy kinh văn phức tạp, nghĩa lư mênh mông, lư tột cùng pháp giới, sự cùng tột số
vi trần trong cơi nước, nhưng đều nhằm
nêu tỏ đức năng cố hữu nơi tự tánh
của con người.
Bởi lẽ, Đại
Phương Quảng là Thể, muôn vật đều thành
tựu viên măn, chỉ v́ hạn cuộc bởi t́nh thức,
cho nên bị bó buộc, nhỏ hẹp. Phật Hoa Nghiêm là Hạnh,
ai nấy vốn sẵn có, chỉ v́ ch́m đắm trong trần
lao, mà đánh mất Hoa Nghiêm! Kinh này chẳng rời khỏi
thức t́nh, thị hiện biển trí, từ ngay trong các
trần lao, ồ ạt hưng khởi các diệu dụng.
Viên chứng ngay trong một niệm chính là cái Thể Đại
Phương Quảng. Cái hạnh
Phật Hoa Nghiêm hiện tiền ngay tại nơi ấy,
chẳng do ǵ khác mà đạt được! Tín có
nghĩa là [tin tưởng Hạnh và Thể ấy] vốn
sẵn có trong tự tánh, đấy chính là điều trọng
yếu được diễn tả, chỉ bày trong kinh
này, chớ nên không thấu đạt vậy.
Những điều
được diễn đạt trong kinh này lấy Tỳ
Lô Pháp Thân làm Thể, lấy diệu trí Văn Thù làm Dụng.
Nương vào Trí để đoạn Tập, tức là
dùng diệu hạnh Phổ Hiền làm cái nhân. Tập đă
hết, Trí sẽ vẹn toàn, tức Di Lặc Bổ Xứ
là quả. Chỗ trọng yếu trong bản thể của
cả một tạng kinh (kinh Hoa Nghiêm) chẳng ngoài bốn
điều này. V́ thế, coi đức Tỳ
Lô (Tỳ Lô Xá Na Phật) là giáo chủ, cho nên lập ra Thể. Do ngài Văn
Thù đứng đầu nơi Tín, cho nên dấy lên Dụng.
Dùng ngài Phổ Hiền để phát khởi hạnh, cho
nên chỉ bày cái nhân. Khởi đầu từ Thập Tín,
kết thúc bằng ngũ vị (Thập Trụ, Thập Hạnh,
Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng
Giác), bèn thấy Di Lặc. Do vậy, nêu bày cái quả.
Nhưng Thể, Dụng, nhân, quả ắt nương vào
Tỳ Lô, Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc, v́ lẽ nào
vậy?
Tỳ Lô Xá Na (毗盧舍那, Vairocana)
trong tiếng Phạn, cơi này dịch là Quang Minh Biến Chiếu
(光明遍照), nơi Phật là Pháp Thân thanh tịnh, nơi con
người th́ là diệu tánh bổn giác. Hoa Nghiêm lấy điều này làm Thể, nhằm thẳng
thừng muốn cho chúng sanh thấy diệu tánh mà chứng
Pháp Thân.
Văn
Thù Sư Lợi (文殊師利, Mañjuśrī) trong tiếng Phạn, cơi này dịch là Diệu
Đức (妙德), nơi Phật th́ là phổ quang đại
trí, nơi người th́ là quán sát diệu tâm. Hoa Nghiêm dùng điều
này làm Dụng, nhằm thẳng thừng muốn cho chúng sanh hiểu rơ diệu tâm mà chứng đại trí.
Phổ Hiền (普賢, Samantabhadra): Đức
không ǵ chẳng trọn khắp là Phổ (普), giúp bậc thượng lẫn
lợi lạc bậc hạ th́ gọi là Hiền (賢). Nơi Phật th́ là chân tịnh
diệu hạnh, nơi người th́ là nghiệp dụng
trần lao. Hoa Nghiêm dùng điều này làm nhân là v́ thẳng
thừng muốn cho chúng sanh chuyển trần lao thành diệu
hạnh.
Di Lặc (彌勒, Maitreya)
trong tiếng Phạn, cơi này dịch là Từ Thị (慈氏), nơi Phật
th́ là bậc đứng đầu hàng Bổ Xứ [Bồ Tát], nơi người th́ là cái thân lấy bỏ. Hoa
Nghiêm dùng điều này làm quả là v́ thẳng thừng muốn
cho chúng sanh ĺa sự lấy bỏ để hướng
đến Bổ Xứ.
Như vậy th́
đối với Thể, Dụng, nhân và quả của Hoa
Nghiêm, chư Phật và chúng sanh như một, nhưng chư Phật ứng hợp giác, chúng sanh
ứng hợp trần lao, cho nên có sự cách biệt. Nếu
đối với kinh này, một niệm phản chiếu,
diệt trần lao, ứng hợp giác, ắt sẽ gạt
bỏ phàm nhập thánh ví như lật bàn tay, Tỳ Lô, Văn
Thù, Phổ Hiền, Di Lặc của chính ḿnh sẽ hiển
hiện trọn vẹn ngay nơi đây, đó gọi là “khi mới phát tâm liền thành
Chánh Giác” thật sự chẳng sai!
II. Giải thích tựa đề kinh
Đại
Phương Quảng Phật (大方廣佛) là nêu ra bổn trí. Hoa Nghiêm Kinh (華嚴經) là nói đến diệu hạnh. Bổn
trí chính là Phật Tánh b́nh đẳng. Diệu hạnh là
đức dụng vốn chân thật.
1) “Đại” là nói
đến cái Thể tột cùng, không có ǵ ra ngoài được,
các loài hàm linh xuẩn động[4], hiền hay
ngu thảy đều sẵn có.
2) “Phương” là nói đến
pháp giới tương đồng, chánh đáng, b́nh đẳng,
chẳng đổi dời, bất động.
3) “Quảng” là nói đến Dụng
(tác dụng, công
dụng) bằng với thái hư, chứa
đựng trọn khắp, không chỗ nào ngăn ngại.
4) “Phật” chính là quả hiệu
(果號, danh hiệu nơi cái quả) của bổn trí.
6) “Hoa” là cái nhân của
vạn hạnh; do đối ứng với quả mà nói là
hoa.
7) “Nghiêm” là dùng cái nhân hoa ấy
để trang nghiêm quả Phật. Tâm dứt bặt mà chiếu
xa, chẳng trang nghiêm mà trang nghiêm. Sau đấy, phước,
trí, hạnh, nguyện, mười đức viên măn, bèn chứng
mười thân Tỳ Lô Giá Na. Ngài Thanh Lương nói: “Đại Phương Quảng
là pháp để chứng. Phật Hoa Nghiêm chính là người
có thể chứng [cái pháp ấy]”. Pháp được chứng
ấy chẳng rời bổn trí. Người có thể chứng
pháp ấy chẳng rời diệu hạnh, do chúng cùng một
đạo vậy.
8) “Kinh” là xuyên suốt,
thâu tóm pháp đă được giảng nói, là cái Thể nhất
định, muôn đời chẳng thay đổi.
Kinh này được
đặt tên [theo phương cách] “trước quả, sau nhân”, lại c̣n cùng nêu lên [cả hai], v́ sao? [Đặt tên kinh theo phương thức] “trước quả, sau nhân”
nhằm nêu bày quả Phật, trước hết là nêu ra cái
vốn sẵn có, đặc biệt nhờ vào nhân hoa trang nghiêm
mà sau đấy được hiển lộ rơ rệt. “Cùng nêu lên” là muốn cho nhân và quả giúp lẫn nhau; bởi
lẽ, chẳng có quả th́ nhân chẳng thể lập
được; không có nhân th́ quả chẳng do đâu mà
thành. Do vậy, kinh này trước hết là nêu ra cái quả
để khuyên tu, kế đó, lại nêu ra
cái hạnh dẫn đến cái quả. Từ tựa
đề, có thể thấy được cái Thể của
một bộ kinh.
III. Khoa giải (giảng giải theo từng khoa
một)
3.1. Thập Hội
Bốn
mươi phẩm kinh, đại lược chia thành ba phần
là Tự, Chánh Tông và Lưu Thông:
a) Phẩm Thế
Chủ Diệu Nghiêm là Tự Phần.
b) Từ phẩm
Như Lai Hiện Tướng trở đi là Chánh Tông Phần.
c) Từ phẩm
Như Lai Xuất Hiện trở đi là Lưu Thông Phần.
Ngài Thanh Lương cho rằng từ câu: “Nhĩ thời, Văn Thù tùng Thiện Trụ Lâu Các xuất” (Lúc bấy giờ, ngài Văn Thù ra khỏi Thiện
Trụ Lâu Các) của phẩm Nhập Pháp Giới trở đi
là Lưu Thông Phần.
Trong ba khoa, mỗi
khoa đều có ngũ vị pháp môn, gọi là “tam châu nhân quả, nhị chủng
thường đạo” (ba ṿng nhân quả, hai loại
thường đạo).
3.1.1. Ngũ vị pháp môn (五位法門)
Là Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng, Thập Địa, Thập Nhất Địa
(Đẳng Giác).
3.1.2. Tam châu nhân quả (三周因果)
a) Từ phẩm
đầu tiên là Thế Chủ [Diệu Nghiêm] cho đến
phẩm Tỳ Lô Xá Na, sáu phẩm ấy hợp thành một
châu (周), chính
là đức Phật đă tự phân định nhân quả
của ngũ vị, tức là phần “cử quả khuyến tu kiến đạo” (舉果勸修見道, nêu ra cái quả, khuyên tu ḥng thấy đạo).
b) Từ hội
thứ hai tới hội thứ tám, tức là từ phẩm
Phật Danh Hiệu cho đến phẩm Như Lai Xuất
Hiện gồm ba mươi hai phẩm, hợp thành một
châu, chính là tấn tu theo nhân quả của ngũ vị.
Đấy chính là phần Thiết Pháp Trị Tập Tu Chứng
(設法治習修證, lập
bày cách đối trị tập khí ḥng tu chứng). Hội
thứ chín tức phẩm Ly Thế Gian nói rơ thường
đạo (đạo thường hằng) lợi lạc
chúng sanh sau khi đă chứng quả, thông với phần Thiết
Pháp Trị Tập Tu Chứng.
c) Hội thứ
mười tức phẩm Nhập Pháp Giới, Thiện
Tài đi về phương Nam, từ đầu đến
cuối [phẩm ấy] hợp thành một châu, nhằm phô
bày trọn vẹn nhân quả của ngũ vị và ân cần
khuyên nhủ. Đấy là phần Khử Ngôn Y Hạnh Viên
Chương Pháp Giới (去言依行圓彰法界, dứt bỏ ngôn từ, nương theo hạnh,
ḥng phô bày trọn vẹn pháp giới).
3.1.3. Nhị chủng thường đạo
1) Phẩm Ly Thế
Gian là “cùng ở trong cơi trần mà chẳng nhiễm”, đó
là thường đạo lợi lạc chúng sanh.
2) Phẩm Nhập
Pháp Giới là vong tu tuyệt chứng (忘修絕證, quên bẵng và dứt bặt tu lẫn chứng),
đấy là thường đạo nơi Phật quả.
Đấy chính
là [cách phân định] khoa mục chung của cả tạng
kinh. Ngài Thanh Lương coi sáu phẩm thuộc hội
đầu tiên là phần Cử Quả Khuyến Nhạo
Sanh Tín (舉果勸樂生信, nêu ra cái quả để khuyên
lơn hăy ưa thích, sanh ḷng tin), từ hội thứ hai tới
hội thứ bảy gồm ba mươi mốt phẩm
là phần Tu Nhân Khế Quả Sanh Giải (修因契果生解, tu nhân phù hợp
với quả, sanh trưởng sự giải ngộ), một
phẩm Ly Thế Gian chính là phần Thác Pháp Tấn Tu Thành Hạnh
(托法進修成行, nương vào pháp tấn tu để thành tựu
hạnh), phẩm Nhập Pháp Giới là phần Y Nhân Chứng
Nhập Thành Đức (依人證入成德, nương vào người chứng nhập ḥng
thành tựu đức), tức là đều dùng bốn chữ
“Tín, Giải, Hành, Chứng”
để phán định trọn hết một bộ
kinh.
Nói “kinh gồm có mười hội,
bốn mươi phẩm”, tức là nói tới sự
biểu thị pháp trong kinh này, bao gồm mười chỗ,
mười hội, nhằm diễn giảng các pháp tu chứng
Thập Tín, Thập Địa v.v… Mỗi pháp đều
dùng mười loại
đại chúng tương xứng
với Thập Ba La Mật. Đối với mỗi điều,
đều nói là “mười” v́ “mười” là con số viên măn. Do đó, [kinh này luôn dùng số
mười] nhằm phô bày trọn vẹn đốn pháp.
1) Hội thứ
nhất tại Bồ Đề Tràng gồm sáu phẩm.
2) Hội thứ
hai tại Phổ Quang Điện gồm sáu phẩm.
3) Hội thứ
ba tại Đao Lợi Thiên gồm sáu phẩm.
4) Hội thứ
tư tại Dạ Ma Thiên gồm bốn phẩm.
5) Hội thứ
năm tại Đâu Suất Thiên gồm ba phẩm.
6) Hội thứ
sáu tại Tha Hóa Thiên gồm một phẩm.
7) Hội thứ
bảy tại Tam Thiền Thiên gồm một phẩm.
8) Hội thứ
tám tại Phổ Quang Điện gồm mười một
phẩm.
9) Hội thứ
chín tại Phổ Quang Điện gồm một phẩm.
10) Hội thứ
mười tại vườn Cấp Cô Độc gồm
một phẩm.
Đấy là “mười hội, mười
chỗ, bốn mươi phẩm”. Hoặc nói là “bảy chỗ, chín hội”,
v́ Phổ Quang Điện bao gồm ba hội, cho nên bớt
đi hai chỗ, do phần kinh văn [chép về pháp
được giảng tại] Tam Thiền
Thiên bị khuyết, nên lại giảm bớt một hội
và một chỗ. Nhưng dẫu [nói là] “mười hội,
mười chỗ”, chẳng rời điện Đại
Trí Phổ Quang, đấy là kinh đô của Pháp Giới Hoa
Tạng. Nói “một chỗ,
một hội” chỉ
là thuận theo hành tướng để tấn tu, nhờ
vào địa vị để biểu thị pháp, chẳng
phải là như trong t́nh kiến mà có tướng trước
sau, qua lại. Do vậy, từng đoạn trong kinh luôn
nói “lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn chẳng rời Phổ Quang
Minh Điện tại Bồ Đề Tràng mà thăng
lên nơi nào đó”.
3.2. Tam châu nhân quả
3.2.1. Đệ nhất châu
Đức Phật
tự phân định nhân quả của ngũ vị để
khuyên tu là pháp được nói trong sáu phẩm đầu
tại Bồ Đề Tràng, hiển lộ đức Phật
đă tự ḿnh tu nhân từ bao kiếp lâu xa và những sự
lợi sanh (lợi lạc
chúng sanh) để trang nghiêm thanh tịnh
các sát hải[5]
nhằm khuyến tấn hàng hậu học, khiến cho họ
trông thấy những sự ứng tích chân thật, bèn phát
tâm tấn tu. Ngài Thanh Lương phân định phần
này thuộc về phần Cử Quả Khuyến Nhạo
Sanh Tín (nêu ra cái quả để khuyên ưa thích, sanh ḷng
tin) cũng là cùng một ư nghĩa. [Phần này gồm các phẩm],
một là phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm, hai là phẩm
Như Lai Hiện Tướng, ba là phẩm Phổ Hiền
Tam Muội, bốn là phẩm Thế Giới Thành Tựu,
năm là phẩm Hoa Tạng Thế Giới, sáu là phẩm Tỳ
Lô Xá Na.
3.2.1.1. Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm
Đầu tiên là
phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm (世主妙嚴) chính là phần Thông Tự để phát khởi
mười hội, [giới thiệu đại lược]
các vị Bồ Tát trong hội Hoa Nghiêm. Hội này
được nói tại Bồ Đề Tràng, nêu rơ những
sự tu chứng từ bao kiếp lâu xa. V́ thế, phải
nói tại Bồ Đề Tràng. Chỉ có Phổ Hiền Hạnh
th́ mới có thể chứng nhập, cho nên phải cậy
vào Phổ Hiền Bồ Tát khởi xướng.
Chư thần, chư thiên đều được gọi
là Thế Chủ (世主, chúa tể của thế gian), ư nói các Ngài đă
dùng phước đức và thần lực để chủ
tŕ bảo hộ thế gian. Trong hội Hoa Nghiêm, nói chung có
bốn mươi mốt loại đại chúng. Trước
hết là [mỗi loại đại chúng] nhóm họp tại
pháp hội, mỗi loại đều nói kệ tán thán, nhằm
tỏ lộ đức Như Lai khi c̣n tu nhân đă
tu pháp môn ngũ vị. Mỗi
một loại đại chúng đều rộng lớn
như biển cả, oai đức lừng lẫy. Mười
thân của đức [Tỳ Lô] Xá Na rạng ngời
viên dung, cùng trang nghiêm pháp hội. V́ thế, có tên là phẩm
Diệu Nghiêm.
Phẩm này
trước hết nói Bồ Đề Tràng là chỗ
[đức Phật] thành Chánh Giác, và [miêu tả] ṭa sư tử
[của đức
Phật] được trang
nghiêm bằng các món báu. [Trong mỗi
món báu] lần lượt hiện cảnh tượng
[trong những món báu khác]. Đức Phật ngự trên ṭa
báu, thành Chánh Giác tột cùng, trí nhập ba đời, thân trọn
khắp mười phương. Ví như hư không chứa
đựng trọn đủ các thứ h́nh tượng.
Phẩm này nêu chung quả giác thù thắng, y báo và chánh báo thù
thắng, đặc biệt, đức dụng vô biên. Kế
đó, nói có bốn mươi mốt loại đại
chúng nhóm họp trong pháp hội, biểu thị nhân quả
ngũ vị của chính đức Phật, ḥng làm cội
gốc chánh yếu để tấn tu.
Trước hết,
mười vị Bồ Tát như ngài Phổ Hiền họp
thành một loại đại chúng, biểu thị pháp Thập
Tín. Kế đó, mười vị Bồ Tát như Hải
Nguyệt Quang Bồ Tát, Chấp Kim Cang Thần, Thân Chúng Thần,
Túc Hành Thần, Đạo Tràng Thần, Chủ Thành Thần,
Chủ Địa Thần, Chủ Sơn Thần, Chủ Lâm
Thần, Chủ Dược Thần gồm mười loại
đại chúng, biểu thị pháp Thập Trụ. Lại
nữa, kế đó là Chủ Giá Thần (thần trông coi
mùa màng) cho đến Chủ Trú Thần (thần trông coi ban
ngày) gồm mười loại đại chúng, biểu thị
pháp Thập Hạnh. Kế đó là từ A Tu La cho đến
Nhật Thiên Tử gồm mười loại đại
chúng biểu thị pháp Thập Hồi Hướng. Kế
đó, từ Tam Thập Tam Thiên cho đến Đại Tự
Tại Thiên bao gồm mười loại đại chúng,
biểu thị pháp Thập Địa. Các loại đại
chúng ấy đă nhóm họp, mỗi loại đều có
thể thuyết pháp, tán dương nêu rơ pháp hạnh
ngũ vị mà Như Lai đă tu tập. Sau đấy, các
pháp tấn tu được lập ra, đều dựa
vào chỗ này làm gốc. V́ thế, phẩm này là cội gốc
chánh yếu để tấn tu.
Đầu tiên,
kinh nêu ra đại chúng của pháp Thập Tín, có mười
Phật sát vi trần[6] số, Phổ Hiền Bồ Tát làm Thượng Thủ, nhằm
biểu thị sự vô tận của Phổ Hiền Hạnh.
[Mười vị Bồ Tát đứng đầu] đều
có danh hiệu bắt đầu bằng chữ Phổ[7], biểu thị
hạnh Phổ Hiền viên dung. Những chữ sau chữ
Phổ [trong danh hiệu của các vị ấy] nhằm biểu
thị tự hạnh (自行, hạnh
của chính ḿnh) đều là cùng một đạo với
chư Phật. Dùng các danh hiệu này để biểu thị
Thập Tín đều là cùng một đạo với
chư Phật, đều nương vào đại hạnh
Phổ Hiền để phát khởi ḷng tin, ḥng làm cơ sở
ban đầu để nhập pháp.
Kế đó là
đại chúng biểu thị pháp Thập Trụ. Đầu
tiên là Hải Nguyệt Quang, mười vị Bồ Tát
khác tên[8], biểu thị
quả hạnh Thập Trụ. Ngay sau mười vị Bồ
Tát có danh hiệu bắt đầu bằng chữ Phổ
[của Thập Tín], nêu ra mười danh hiệu khác nhau
[thuộc vào Thập Trụ], biểu thị nương
vào Phổ Hiền Hạnh mà khởi lên các hạnh sai biệt.
Kế đó, từ Chấp Kim Cang cho đến Chủ Dược
Thần bao gồm chín loại đại chúng nhằm biểu
thị nhân hạnh của Thập Trụ. Mỗi chúng
đều có Phật sát trần số người, đều
nhằm biểu thị sự viên dung của mỗi địa
vị ấy:
- Chấp Kim Cang
biểu thị ứng thân hộ pháp, giữ cho những
pháp chánh đáng chẳng bị hư hoại.
- Thân Chúng Thần
(身衆神) biểu
thị dùng vô lượng thân để phụng sự vô
lượng Phật.
- Túc Hành Thần (足行神) biểu
thị các hạnh trọn đủ, thuận theo chánh
đạo.
- Đạo Tràng
Thần (道場神) biểu thị đại nguyện trang nghiêm,
hưng khởi sự cúng dường rộng lớn.
- Chủ Thành Thần
(主城神) biểu thị khéo thủ hộ tâm thành, trang nghiêm,
thanh tịnh Phật quốc.
- Chủ Địa
Thần (主地神) biểu
thị nguyện lực sâu nặng, thành tựu quần
sanh.
- Chủ Sơn Thần
(主山神) biểu
thị sự tích tập thiện căn, xuất thế
cao trỗi, thù thắng.
- Chủ Lâm Thần
(主林神) biểu
thị trí làm hạnh hoa, thuyết pháp rộng khắp.
- Chủ Dược
Thần (主藥神) biểu
thị sự hiểu biết căn tánh, khéo cứu vớt,
sử dụng pháp dược.
Quả Thập
Trụ rất nhiều, khởi đầu bằng Hải
Nguyệt Quang Đại Minh [Bồ Tát], biểu thị sự bao dung, cứu tế rộng
khắp, trừ phiền năo, mở mang giác ngộ; vị Bồ
Tát cuối cùng là Đại Phước Quang Trí Sanh, biểu
thị lợi hạnh minh túc, chắc chắn sẽ thành tựu
Chủng Trí, đều là hạnh để thành tựu
đức vậy. Cái nhân của Thập Trụ cũng rất
nhiều, khởi đầu là Chấp Kim Cang, biểu thị
giữ ǵn chánh pháp bất hoại, kết thúc bằng Chủ Dược Thần, biểu thị sự hiểu
biết căn cơ, khéo cứu tế, đều là các hạnh
để thăng tấn vậy. “Thần” biểu thị trí thông thấu vạn hữu,
không tạo tác mà ứng hiện. Dùng trí thông thấu ấy,
nương vào chỗ trụ của Phật, thoạt
đầu là giữ ǵn chánh pháp, cuối cùng là khéo cứu tế,
chẳng nghĩ, chẳng làm, ngầm tiến nhập đạo
này. Do vậy, thành tựu hải nguyệt đại
phước quả.
Thập Trụ
th́ địa vị đầu tiên có tên là Sơ Phát Tâm Trụ.
Trước hết, dùng loại đại chúng thuộc về
quả (tức mười vị Bồ Tát do Hải Nguyệt
Quang Đại Minh Bồ Tát làm Thượng Thủ) để
biểu thị “khi mới phát
tâm liền thành Chánh Giác”. Những loại đại
chúng khác (từ Chấp Kim Cang Thần trở đi) lần
lượt biểu thị danh hiệu [của các địa
vị trong] Thập Trụ, và cũng lần lượt biểu
thị Thập Ba La Mật. Trong luận (Hoa Nghiêm Sớ Luận)
đă nói tường tận. Nhưng đối với mỗi loại đại chúng, đều
nêu ra mười danh hiệu, biểu thị mỗi Ba La
Mật lại trọn đủ cả mười loại
Ba La Mật, viên dung nhiếp lẫn nhau, trùng trùng vô tận.
Đấy là diệu dụng của một tánh, là bản
thể của muôn pháp. Trong cùng một loại đại
chúng, lại có tên khác nhau, [biểu thị] do tùy theo từng
địa vị, hạnh sẽ khác nhau. V́ vậy, sự
biểu thị pháp cũng sai khác, cốt ư là sự viên dung
thông đạt rộng răi. Nếu vướng mắc
nơi một pháp, hạnh sẽ chẳng thể thông suốt
trọn khắp, trí chẳng thể sáng thêm,
không có ǵ để trọn đủ vô tận hạnh,
không có ǵ để thành tựu cái quả Chủng Trí. Từ
Chấp Kim Cang Thần cho đến các vị rồng, trời,
quỷ, đều là hàng Bồ Tát tùy thuận cảm ứng
mà thị hiện h́nh tích đủ mọi loài khác nhau, chẳng
phải là quỷ thần thật sự.
Kế đó là
đại chúng biểu thị pháp Thập Hạnh:
- Đầu tiên
là Chủ Giá Thần (主稼神, thần trông coi mùa màng), biểu thị dùng pháp
tư lương để thành tựu chúng sanh.
- Chủ Hà Thần
biểu thị: Mạnh mẽ làm cho chúng sanh trong sạch
trọn khắp ḥng lợi ích chúng sanh.
- Chủ Hải
Thần biểu thị sự dung hội giữa thiện
và ác, đều vào gịng pháp.
- Chủ Thủy
Thần biểu thị tùy theo từng loại chúng sanh mà thấm
nhuần, lợi ích họ, có thể gột sạch các trần
cấu.
- Chủ Hỏa Thần
biểu thị tùy duyên phát quang, phá trừ ám chướng.
- Chủ Phong Thần
biểu thị dùng trí b́nh đẳng diệt tan ngă mạn.
- Chủ Không Thần
(主空神, thần
trông coi hư không) biểu thị sự sáng sạch rộng
lớn, vạn hạnh chẳng vướng mắc.
- Chủ Phương
Thần (主方神, thần
trông coi mười phương) biểu thị trí chiếu
mười phương, viên măn đại thiên thế giới.
- Chủ Dạ
Thần biểu thị dùng trí soi sáng đêm dài sanh tử.
- Chủ Trú Thần
(主晝神, thần trông coi ban ngày) biểu thị nhất tâm
chẳng biếng trễ, xiển minh Phật nhật.
Kế đó,
mười loại đại chúng [kể từ] Chủ
Giá Thần [cho đến Chủ Trú Thần] biểu thị
mười hạnh, nhằm chỉ bày “từ
Trụ mà khởi Hạnh”. Đấy
chính là nhân quả của việc lợi lạc chúng sanh.
Trong phần trước, dùng các vị Bồ Tát để
biểu thị cái quả, dùng các loại thần để
biểu thị cái nhân. Nhưng ở đây, từ đầu
đến cuối đều dùng các loại thần để
biểu thị, ḥng chỉ bày pháp Thập Hạnh, [hàm ư] “nhân chính là quả, quả chính là nhân”, là địa vị chuẩn bị
tư lương cho Nhất Thừa. Ấy là v́ dùng Thập
Hạnh của Phật quả để giúp đỡ
đại tâm chúng sanh tiến nhập địa vị Phật,
giúp đỡ hàng kiến đạo Bồ Tát trưởng
dưỡng ḷng đại bi. Đấy
chính là ư nghĩa “nhân và quả bổ trợ cho nhau”.
Trong tam thừa
th́ nói [các địa vị] Tín, Trụ, Hạnh, Hướng
là bốn loại tư lương thuộc về Địa
Tiền (trước khi chứng nhập quả vị
Sơ Địa), từ Sơ Địa trở lên là gia hạnh
của Kiến Đạo. Kinh này (kinh Hoa Nghiêm) chẳng giống
như vậy, kể từ địa vị Thập Tín
cho đến sơ tâm (Sơ Trụ, tức địa vị
Sơ Phát Tâm Trụ) trong Thập Trụ, đều gọi
là Kiến Đạo; các địa vị Trụ, Hạnh,
Hướng đều gọi là Gia Hạnh,
đều là tư lương. Ba thứ ấy (kiến
đạo, tư lương, gia hạnh) cùng tồn tại,
bổ trợ và
phát khởi lẫn nhau; bỏ
mất một thứ, sẽ dính dáng Tiểu Thừa, chẳng
phải là pháp viên đốn. Cần phải
dùng cái quả để trang nghiêm cái nhân, dùng cái nhân để
trang nghiêm cái quả ḥng thành tựu Phật Hoa Nghiêm. Mười loại đại chúng
này đều nhằm biểu thị ư nghĩa của hạnh
lợi lạc chúng sanh. Kế đó, lần lượt biểu
thị tên gọi [của các địa vị trong] Thập
Hạnh, và cũng lần lượt biểu thị Thập
Ba La Mật, và tùy theo từng địa vị mà hạnh
khác nhau, nhiếp lẫn nhau viên dung, giống hệt như
trong phần giải thích trước đó. Đối với
những địa vị sẽ nói trong phần sau,
cũng tuân theo cách này. Bởi lẽ, ngũ vị đều
cùng tu Thập Ba La Mật, mà muôn hạnh của Bồ Tát
đều chẳng rời điều này (Thập Ba La Mật).
Kế đến
là đại chúng biểu thị pháp Thập Hướng
(Thập Hồi Hướng):
- Đầu tiên
là chúng Tu La biểu thị: Ở trong biển sanh tử,
ḥa đồng Chân và Tục.
- Chúng Ca Lâu La biểu
thị dùng đại phương tiện cứu bạt
chúng sanh.
- Chúng Khẩn Na
La biểu thị chẳng phải thánh, chẳng phải phàm,
đồng hạnh tự tại.
- Chúng Ma Hầu
La Già, biểu thị thủ hộ già-lam, cắt đứt
lưới si.
- Chúng Dạ Xoa
biểu thị thủ hộ, cứu tế chúng sanh
đang sống khổ sở.
- Chúng trời rồng
biểu thị dấy khởi pháp vân, pháp vũ, che chở,
nhuần thấm.
- Chúng Cưu Bàn Trà
biểu thị vào các đường, rủ ḷng Từ lợi
sanh.
- Chúng Càn Thát Bà biểu
thị nương vào năm phần hương, khiến
cho chúng sanh vui sướng.
- Chúng Nguyệt Thiên
Tử biểu thị sự làm mát mẻ các nhiệt năo, hiển
hiện, phát khởi sự sáng ngời trân quư.
- Chúng Nhật
Thiên Tử biểu thị ở địa vị cao mà lợi
lạc những kẻ thấp hơn, chiếu soi muôn vật
khiến cho được thành tựu.
Dùng mười
loại đại chúng từ Tu La cho đến Nhật Thiên
Tử biểu thị Thập Hướng, do các địa
vị trước đó là Thập Trụ và Thập Hạnh
chỉ tu bi và trí xuất thế, chưa trọn hết hạnh
“ở trong cơi tục lợi sanh”. Địa vị này là hồi
Chân hướng Tục, hồi Trí hướng Bi, khiến
cho Chân lẫn Tục đều được viên dung, Trí
và Bi bất nhị, ở trong biển sanh tử, tự tại
như vua. Địa vị càng cao, hạnh càng hạ thấp.
V́ thế, thoạt đầu dùng vua Tu La để biểu
thị, cuối cùng là dùng Nhật Thiên Tử để biểu
thị những chúng khác đều có các hạnh
thuận theo địa vị.
Kế đó là
hai loại đại chúng biểu thị pháp Thập Địa.
Trước hết là năm loại thiên chúng thuộc Dục
Giới:
1) Đầu tiên
là Tam Thập Tam Thiên Vương khen ngợi rằng:
“Phát khởi phước nghiệp
thế gian rộng lớn”. Kinh ca ngợi phẩm đức
của họ là “đều
siêng năng phát khởi hết thảy các nghiệp rộng
lớn trong thế gian”. Vị thiên vương này chính
là Đế Thích, ngự trên Đao Lợi Thiên, có phước
nghiệp rộng lớn, thiểu dục, tịnh cư,
khiến cho thế gian ngưỡng mộ, nguyện cùng tu
thiện hạnh. Điều này được nói là “phát khởi nghiệp rộng lớn”.
2) Thứ hai là Dạ
Ma Thiên tán thán, kinh chép: “Tu tập
đại thiện căn, tâm thường trọn đủ”.
Luận[9] viết: “Cơi trời này ngày đêm thường
sáng ngời, biểu thị đại trí. Có các đức
diệu lạc, biểu thị pháp lạc”.
3) Thứ ba là Đâu
Suất Thiên tán thán, kinh chép: “Siêng
tŕ danh hiệu của hết thảy chư Phật”. Luận
chép: “Đủ Giới, Định,
Huệ, sẽ được sanh vào cơi trời này”.
4) Bốn là Hóa Lạc
Thiên tán thán, kinh chép: “Đều
siêng điều phục chúng sanh, khiến cho họ
được giải thoát”. Luận chép: “Biến hóa để lợi lạc
hết thảy, coi đó là niềm vui của chính ḿnh”.
5) Năm là Tha Hóa
Thiên tán thán, kinh chép: “Đều
siêng tu tập pháp môn phương tiện tự tại rộng
lớn”. Luận chép: “Biểu
thị Bồ Tát biến hóa [ḥng phụng sự] người
khác để tự vui sướng”.
Kế đó là
năm loại thiên chúng thuộc Sắc Giới:
1) Sơ Thiền Đại Phạm Thiên tán thán, kinh chép: “Từ bi thương xót chúng
sanh, tỏa quang minh chiếu khắp, khiến cho họ được vui sướng”. Luận chép: “Ly dục
thanh tịnh th́ gọi là Phạm”.
2) Nhị Thiền Quang Âm Thiên tán thán, luận viết: “Cơi trời này đă diệt
ưu khổ, thốt lời th́ trong miệng sanh ra quang
minh, biểu thị giáo quang (教光,quang minh giáo hóa) hóa độ trọn khắp”.
3) Tam Thiền Thiền Biến Tịnh Thiên tán thán, luận chép: “Đă không có ưu khổ, chỉ
có Thiền duyệt”.
4) Tứ Thiền Quảng Quả Thiên tán thán, kinh
chép: “Dùng pháp tịch tĩnh làm
cung điện”. Luận chép: “Phước
đức rộng lớn là Quảng Quả”.
5) Sắc Giới Đảnh Đại Tự Tại Thiên tán thán, kinh chép: “Đều siêng quán sát pháp vô tướng, sở hành b́nh
đẳng”. Luận chép: “Biểu
thị viên măn Thập Địa, vô tướng trí đă
thành”.
Những câu kinh vừa
dẫn trên đây đều là lời lẽ tán thán phẩm
đức, dùng mười loại thiên chúng để biểu
thị Thập Địa, do từ Tam Hiền mà dự vào
Thập Thánh[10].
Đạo này sáng suốt tột cùng, cho nên dùng Thiên để
biểu thị, các nghĩa khác giống như trong phần
trước. Điều này giống như trong hội Pháp
Hoa, [cả hai kinh Hoa Nghiêm và Pháp Hoa] đều không có thiên
chúng của Vô Sắc Giới, do thiên chúng trong các tầng trời
ấy không có Sắc Uẩn, cho nên chẳng thể trông thấy.
Trên đây là phần giải thích về đại chúng vân
tập đă xong.
[Phẩm kinh này] gọi chung Thanh
Văn, Bích Chi, Bồ Tát, Phật nhóm họp là Tứ Thánh,
tức là các vị Thanh Văn làm Ảnh Hưởng Chúng
trong hội pháp giới và các vị tỳ-kheo, tri thức. Trời,
người, quỷ, súc sanh, lục đạo là Lục Phàm,
tức là tám bộ thiên thần vân tập và tri thức thuộc
thế tục. Các loại đại chúng đều đến
nhóm họp. Dẫu là các loài như Dạ Xoa, Ma Hầu La
Già, Cưu Bàn Trà, quỷ, súc sanh, ai nấy đều
cũng nói pháp môn này, đủ biết họ đều là
những vị thánh nhân [trọn đủ] Tam Thân Tứ
Trí quyền biến thị hiện vậy.
Pháp chúng đă
nhóm họp, khi ấy, từ trong pháp tọa của đức
Như Lai, trong hết thảy các vật trang nghiêm, mỗi
thứ đều xuất hiện Phật sát trần số
Bồ Tát, do những vị như Hải Huệ Tự Tại
Thần Thông Vương v.v… làm Thượng Thủ. Mỗi vị đều hưng khởi sự
cúng dường, nói kệ tán thán đức Phật, nhằm
minh thị “xưa nay cùng một đạo” và khen ngợi pháp chúng
vân tập, lại c̣n làm cái nhân để hiện tướng
thuyết pháp. Đức Phật do sự tán thán, thỉnh
cầu của họ, bèn phóng quang minh từ giữa hai mày,
hiện các tướng thù thắng, v́ đại chúng thuyết
pháp. Do vậy, kế tiếp bèn có phẩm Như Lai Hiện
Tướng.
Luận (Tân Hoa
Nghiêm Kinh Luận) coi các đại chúng trên đây biểu
thị pháp ngũ vị, cho đến Thập Địa,
chẳng có đại chúng biểu thị pháp Thập Nhất
Địa (Đẳng Giác). Nay tôi đoán bừa rằng
đại chúng loại này (Thập Nhất Địa) đă có cùng một đạo với chư Phật, cái
đáng nên nêu bày là pháp thuộc về quả vị của
Thập Nhất Địa, chứ chẳng cần bắt
buộc phải nêu bày đại chúng biểu thị pháp ấy.
V́ thế, kinh lược đi [không nói tới], hoặc là
kinh văn chẳng nêu ra thánh hiệu của họ,
nhưng xét theo phẩm vị, hễ địa vị phù hợp
với phẩm vị th́ sẽ bổ sung, hoặc nêu rộng
răi nhiều thánh hiệu nhằm biểu thị pháp duy nhất,
hoặc có khi là do chẳng thể kể xiết, bèn nói
đại lược, với dụng
ư: Lời văn đơn giản mà ư nghĩa sáng tỏ,
khiến cho người lễ tụng dễ vui thích hâm mộ,
chẳng phiền chán.
Hơn nữa, sự
giải thích hiện thời cũng là dựa theo pháp mà luận định để tóm gọn những nghĩa trọng yếu
ḥng nêu bày đại cương, hoặc là do ư nghĩa kinh
văn ẩn tàng bèn dùng một quyển khác để nói
kèm theo cho rơ. Hoặc là theo cách nói cũ, ngôn từ giản
lược, cho nên chọn lọc những điều
đă được nghe để lời văn được
lưu loát, hoặc là tuân theo ư xưa để sửa
đổi [ngôn từ] đôi
chút, đều là chú trọng giải thích rành rẽ những điều tinh yếu, rơ ràng,
ngơ hầu người nghiền ngẫm pháp vị sẽ dễ thấu đạt sâu xa, chẳng
bị ngăn lấp, trở ngại vậy!
Những điều
trên đây đều là nói về phẩm Thế Chủ Diệu
Nghiêm thuộc Tự Phần đă xong (phẩm này gồm
năm quyển).
3.2.1.2. Phẩm Như Lai Hiện Tướng
Phẩm Như
Lai Hiện Tướng (如來現相) là khởi đầu của phần Chánh Tông. Trong
phẩm này, Bồ Tát, thần, chư thiên, Thế Chủ
đă vân tập, yên lặng thỉnh pháp, có ba mươi bảy
câu hỏi. Trước hết là hỏi về mười
tám loại Phật pháp, kế đến hỏi về
mười chín loại Bồ Tát hải, đều là
đức dụng nơi cảnh giới trí hạnh của
chư Phật, nhằm phát khởi hết thảy các pháp
môn trong kinh này. Kinh nói: “Nhĩ
thời chư Bồ Tát, cập nhất thiết thế
gian chủ, tác thị tư duy, vân hà thị trí hải?”
(Lúc bấy giờ, các vị Bồ Tát và hết thảy các
vị chủ tể thế gian suy nghĩ như thế
này, thế nào là biển trí?) V́ thế, đức Như
Lai hiện tướng phóng quang minh để đáp lời
hỏi. Trước hết là tổng đáp (總答, lời đáp
chung), kế đến là biệt đáp (別答, trả lời
từng câu hỏi riêng biệt), bèn thành một bộ kinh gồm
bốn mươi phẩm.
Trước hết
là tổng đáp, gồm hai phần:
1) Hiện trí cảnh,
tức là phẩm này.
2) Hiện hành cảnh,
tức là những phẩm kế tiếp.
Trong phẩm này,
từ nơi diện môn[11], giữa
các răng, [đức Phật] phóng ra mười loại
quang minh, chiếu khắp mười phương. Do thần
lực của đức Phật, các quang minh ấy có thể
nói kệ tụng, triệu tập các vị Bồ Tát trong
thế giới hải đều đến nghe pháp. Trong mỗi
lỗ chân lông của các vị Bồ Tát ấy, hiện các
thứ quang minh. Trong mỗi quang minh, hiện các Bồ Tát
nhiều như số vi trần trong một cơi nước,
phụng sự trọn khắp chư Phật nhiều
như số vi trần trong một cơi nước, độ
trọn khắp chúng sanh nhiều như số vi trần
trong một cơi nước. Đấy là hiện tướng
trí bi tự tại vô ngại vô tận nơi pháp giới thể
tánh của Hoa Nghiêm. Đức Như Lai lại phóng [quang
minh từ] tướng bạch hào giữa hai mày, trong
tướng bạch hào, hiện ra các vị Bồ Tát, mỗi
vị đều nói kệ tán thán nhằm hiển thị sức
thần thông có cảnh giới vô biên của đức Như
Lai. Kinh chép: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn v́ muốn
cho hết thảy Bồ Tát đạt được thần
lực có cảnh giới vô biên của đức Như
Lai, bèn phóng quang minh từ giữa hai mày, chiếu trọn
khắp mười phương. Trong mỗi vi trần, hiện
ra vô số Phật. Lại có Bồ Tát tên là Pháp Thắng Âm
v.v… cùng thế giới hải trần số Bồ Tát cùng
lúc xuất hiện, nói kệ tụng tán thán Phật. Đấy
là hiển hiện pháp “sát hải vô chướng ngại”, là hiện tướng trí cảnh
để đáp chung cho các câu hỏi trên đây. V́ thế,
gọi là phẩm Hiện Tướng (phẩm này gồm một
quyển).
3.2.1.3. Phẩm Phổ Hiền Tam Muội
Phẩm Phổ
Hiền Tam Muội (普賢三昧) là hiện hạnh cảnh để đáp chung
các câu hỏi trên đây. Phổ Hiền là “không đức nào chẳng trọn khắp”, biểu thị Hạnh
Môn của Phật. Cơi này dịch Tam-muội (Samādhi) là Chánh Định, tức là thần lực của
Phật gia bị Phổ Hiền, khiến cho nhập Chánh
Định, hiện hạnh cảnh. Kinh nói, lúc bấy giờ,
ngài Phổ Hiền nương vào thần lực của Phật,
nhập hết thảy Tỳ Lô Tạng Thân tam-muội, có thể
thị hiện các tướng trong pháp giới, xuất
sanh hết thảy các pháp tam-muội, thành tựu biển
công đức của hết thảy chư Phật. Khi ấy,
mười phương pháp giới, trong mỗi vi trần
có sát trần Phật (Phật nhiều như số vi trần
trong một cơi nước), trước mỗi đức
Phật, đều có ngài Phổ Hiền nhập tam-muội
này, cho đến khiến cho các vị Bồ Tát, ai nấy đều
đắc các hạnh môn tam-muội nhiều như số
lượng vi trần. Đấy là hiện hạnh cảnh
để đáp chung các câu hỏi trong phần trước;
v́ thế gọi là phẩm Phổ Hiền Tam Muội.
Đă đáp trí cảnh và hạnh cảnh xong, từ
đây trở đi là các pháp môn trong cả một tạng
kinh, hết thảy nhân quả không ǵ chẳng được
gồm thâu trong trí và hạnh. V́ thế, trước hết dùng hai
môn này (trí và hạnh) để đáp chung. Những cái
được gọi là “cảnh
giới của chư Phật” cho đến các pháp nhằm
phát khởi, tiến hướng của hàng Bồ Tát,
đều được gồm trọn trong hai pháp [trí và
hạnh] này. Ba mươi bảy phẩm sau đó chính là biệt
đáp.
3.2.1.4. Phẩm Thế Giới Thành Tựu
Phẩm Thế
Giới Thành Tựu (世界成就) là lời biệt đáp cho câu hỏi về thế
giới hải và chúng sanh hải. Dụng ư của phẩm
này nhằm giảng giải [cho thính chúng biết] chúng sanh
và thế giới của chư Phật có h́nh tướng
muôn vàn sai khác, khổ, lạc, tịnh, uế, chuyển biến
sai biệt, đều là do tự hạnh nghiệp lực
(nghiệp lực
do các hạnh của chính ḿnh) cảm
vời mà thành tựu. V́ thế, kinh nói: “Các thế giới hải có vi trần số chuyển
biến sai biệt”. Có nghĩa là chúng sanh ô nhiễm sống
[trong thế giới ấy] th́ nó sẽ chuyển biến
thành ô nhiễm. Chúng sanh phát Bồ Đề tâm sống
trong ấy, nó sẽ chuyển biến thành thanh tịnh. Cho
đến [thế giới nào có] các vị Bồ Tát nhóm họp,
sẽ chuyển biến thành đại trang nghiêm. Chư Phật
nhập Niết Bàn, [thế giới ấy] sẽ chuyển
biến thành trang nghiêm diệt. V́ thế, nói chuyện này để khiến
cho chúng sanh biết cảnh nhiễm hay tịnh, tướng
khổ hay lạc v.v... đều do nghiệp mà sanh, bèn
sanh chánh tâm, tu đạo xuất yếu, ḥng vào biển trí
huệ của Phật, vào biển Hoa Tạng của Phật. Do đó, trước hết bèn nói phẩm Thế Giới
Thành Tựu, kế đó nói phẩm Hoa Tạng Thế Giới.
Phẩm Thế Giới Thành Tựu nhằm khởi đầu
cho lời biệt đáp (phẩm này và phẩm Phổ Hiền
Tam Muội trước đó hợp thành một quyển).
3.2.1.5. Phẩm Hoa Tạng Thế Giới
Phẩm Hoa Tạng
Thế Giới (華藏世界) là lời biệt đáp cho câu hỏi về Phật
hải và Ba La Mật hải. Phẩm này nói về cảnh
trang nghiêm mầu nhiệm trong Tỳ Lô vô tận pháp giới.
Do nương vào trí thể của Pháp Thân và nguyện hạnh Phổ
Hiền, tu Thập Ba La Mật của ngũ vị mà cảm
báo. Đấy là nói về Phật hải và Ba La Mật hải.
Kinh nói, thế giới hải Hoa Tạng Trang Nghiêm này ở
trên mười tầng phong luân, bên trong một hoa sen to có tên là [Quang Minh] Nhụy Hương Tràng (蕊香幢) trong Hương Thủy Hải (biển nước thơm). Có vô số Hương Thủy Hải và các thế
giới chủng số nhiều như vi trần,
nương vào nhau để trụ, được gọi
là Thế Giới Vơng (世界網, lưới thế giới). Thế giới chủng
ở chính giữa có hai mươi tầng, thế giới
Sa Bà thuộc tầng thứ mười ba, chính
là nơi ở của Tỳ Lô Như Lai. Có mười thế
giới chủng vây quanh. Kế đó, ở ngoài mười
[thế giới chủng ấy], lại có một trăm
thế giới chủng vây quanh, được bao bọc
bằng núi Kim Cang Đại Luân Vi. Tính ra, có một trăm
mười một thế giới chủng, mỗi thế
giới chủng đều có [núi Kim Cang Đại Luân] bao
bọc.
Mười tầng
phong luân duy tŕ Hương Thủy Hải, sanh ra hoa sen to, số
nhiều như vi trần trong một cơi nước
nương vào nhau, biểu thị đại nguyện
phong luân duy tŕ biển đại trí, xuất sanh vô biên hoa
diệu hạnh, trang nghiêm, duy tŕ vững chắc thân và cơi nước, tạo thành Tịnh Độ
của Phật. Một thế giới chủng ở trung
tâm, biểu thị địa vị Phật nhiếp chung
hết thảy, trọn khắp hết thảy, là cái gốc
của vạn pháp.
Kế đó, “mười” biểu thị ngũ vị (Thập
Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập
Địa và Đẳng Giác), mỗi địa vị
đều có một nhân và một quả. Kế đó, “trăm” nhằm biểu thị
nhân quả của ngũ vị, mỗi địa vị đều trọn đủ Thập Ba La Mật. Mười
một thế giới chủng trong ấy, mỗi mỗi
đều có hai mươi tầng, biểu thị ngũ
vị thăng tấn ḥng đạt đến địa
vị Phật, mỗi địa vị đều có
mười nhân và mười quả. Mỗi thế giới
có vi trần số Phật đều là chuyện thuở
trước của chính Tỳ Lô Như Lai. Đối với
mỗi thế giới, kinh nêu danh xưng của một vị
Phật, đều nhằm biểu thị cái quả
thăng tấn từ nơi địa vị hiện tại.
Trong một trăm thế giới chủng, thế giới
chủng ở ṿng ngoài cùng có bốn tầng, mỗi tầng
đều có bốn vị Phật, biểu thị Tứ
Nhiếp Pháp. Dụng ư nhằm nêu rơ Thập Độ vạn
hạnh, dùng Tứ Nhiếp Pháp là Lợi Hành, Ái Ngữ,
Đồng Sự… để ngăn ngừa bên ngoài. Thế
giới vơng ấy trọn đủ hết thảy các sự
trang nghiêm thù thắng, nhiệm mầu, đều là trí hạnh
của Phật trọn khắp, nhiếp hóa cảm vời.
Trong ấy cũng có thế giới tạp nhiễm, biểu
thị ḷng Từ của Phật nhiếp hóa chẳng bỏ
nơi ấy. V́ thế, kinh nói: “Tạp
nhiễm và thanh tịnh đều do nghiệp lực khởi,
được Bồ Tát hóa độ”.
Nói “thế giới chủng, thế
giới hải” th́ Chủng (種) là xuất sanh nhiều thứ, c̣n Hải (海) th́ bao gồm nhiều thứ, từ
một vài tam thiên đại thiên cho tới hằng sa [tam
thiên đại thiên] hợp thành một thế giới chủng.
Hằng sa thế giới chủng hợp thành một thế
giới tánh (世界性). Hằng sa thế giới tánh hợp thành một
thế giới hải. Những thứ này đều chứa
đựng trong Nhụy Hương Tràng Đại Liên Hoa;
v́ thế, gọi là thế giới Hoa Tạng. Luận nói từ
vài đại thiên cho tới hằng sa [đại thiên] hợp
thành một thế giới hải, hằng sa thế giới
tánh hợp thành một thế giới chủng, tức là [Sớ Luận cho rằng] “thế giới chủng có thể bao trùm thế giới
hải”, nhưng kinh dạy, “trong thế
giới hải có thế giới chủng”. Nay tôi tuân theo lời kinh dạy.
Đấy là Tỳ Lô Như Lai trong quá khứ đă đích thân phụng
sự chư Phật, biểu
thị cái quả thăng tấn nơi địa vị
hiện tại (phẩm này gồm ba quyển).
3.2.1.6. Phẩm Tỳ Lô Xá Na
Phẩm Tỳ Lô
Xá Na (毗盧舍那) nói cổ Phật Tỳ Lô Như Lai trước
kia cũng ở trong thế giới Hoa Tạng thuyết
pháp lợi sanh, pháp chúng và pháp môn cũng chẳng khác hiện
thời, nhưng Phật hiệu bất đồng. Ấy
là thuận theo căn cơ mà sai khác, chẳng phải là Phật
có sai khác. Do trong năm phẩm trước đă nêu bày những
chuyện thành đạo, nhân quả lợi sanh của
đức Tỳ Lô hiện tại; ở đây bèn dẫn
xưa để chứng nay, nhằm chỉ rơ “ba đời cùng một đạo,
nhân quả chẳng khác”, khiến cho hàng hậu tấn
cùng chứng cái quả này. V́ thế, lại nói phẩm này,
lại c̣n giống như những phần
trước, đều nhằm nêu ra cái quả để
khuyên tu, thuộc về Kiến Đạo Phần. Bởi lẽ, chẳng thấy đạo
thể, sẽ khó thể tấn tu. Do vậy, từ sau phẩm
này trở đi, bèn chỉ bày, lập ra những pháp để đối trị
tập khí, thuộc về Tu Đạo Phần.
Phẩm này nêu
bày: Từ xưa kia, trong các kiếp số nhiều như số
lượng vi trần trong một cơi nước, có chư
Phật lần lượt xuất hiện. Có vương
tử tên là Đại Oai Quang lần lượt thừa sự chư Phật, chứng đắc hết
thảy các pháp môn, hết thảy lợi hạnh (hạnh
lợi lạc chúng sanh), hết thảy tam-muội. Kinh lần
lượt nêu ra bốn vị Phật, nhưng phẩm này
không có chỗ kết thúc là v́ kinh văn của phẩm này
chưa được truyền đến [Trung Hoa] đầy
đủ. Ngài Thanh Lương coi Đại Oai Quang là tiền
thân của đức Tỳ Lô, trong kinh chẳng nói điều
này. Ngài lại bảo sáu phẩm kinh này thuộc về phần
Cử Quả Khuyến Nhạo Sanh Tín (nêu ra cái quả,
khuyên ưa thích, sanh ḷng tin - Phẩm này gồm một quyển).
Thoạt đầu,
tại Bồ Đề Tràng nói sáu phẩm kinh, tổng cộng
gồm mười một quyển, nói rơ pháp môn y báo và chánh
báo của đức Như Lai. Trên đây là giải thích
châu thứ nhất trong tam châu đă xong.
3.2.2. Đệ nhị châu
Châu thứ hai từ
hội thứ hai tới hội thứ tám, là nhân quả
ngũ vị của người tấn tu. Phần này chánh
thức chỉ bày hạnh tấn tu ngũ vị cho người
học. Trước hết là nương vào tín tâm, để
phát khởi tỏa rạng chánh trí, chiếu tan vô minh. Kế
đó, dựa vào ngũ vị để rèn luyện ḥng đối
trị các hoặc tập (惑習, tập khí phiền năo), t́m ṭi tột cùng chánh quả.
Phần này được gọi là lập ra phương
cách để đối trị tập khí ḥng tu chứng, gồm ba mươi hai phẩm:
1) Sáu phẩm thuộc
địa vị Thập Tín.
2) Sáu phẩm thuộc
địa vị Thập Trụ.
3) Bốn phẩm
thuộc địa vị Thập Hạnh.
4) Ba phẩm thuộc
địa vị Thập Hướng (Thập Hồi
Hướng).
5) Một phẩm
thuộc địa vị Thập Địa.
6) Một phẩm
thuộc Thập Nhất Địa (Đẳng Giác).
7) Mười một
phẩm thuộc địa vị Phật quả.
Ngài Thanh
Lương khoa phán phần này là Tu Nhân Khế Quả Sanh Giải
(修因契果生解, tu nhân khế hợp quả, sanh ngộ giải),
tức là viên nhân (圆因, cái
nhân viên măn) để tu ngũ vị ḥng khế nhập Diệu
Giác cực quả, khiến cho chúng sanh khéo hiểu tướng
nhân quả. Đối với [mỗi địa vị
trong] ngũ vị đều nói “mười”,
v́ mỗi địa vị đều nương vào mười
pháp để thăng tấn. Từ Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa
cho đến Thập Nhất Địa là ngũ vị, lấy
Tín vị (các địa vị thuộc Thập Tín) làm nhân,
coi quả vị là quả. Đấy gọi là nhân quả
của ngũ vị, gồm trọn các hạnh môn của
pháp giới. Trước là Tín, sau là quả, cùng với
ngũ vị thành bảy, nhưng đặc biệt nói tới
ngũ vị, v́ Tín vốn là cái Thể của quả, bao gồm
trọn vẹn trước lẫn sau, chẳng lập ra tầng
cấp khác biệt; do đó, chẳng đánh số. Từ Tín mà ra, do
hướng đến quả mà chuyển, do địa vị
có tăng tấn, cho nên nhờ vào con số để nói rơ[12]. Tín như hạt
giống, địa vị như nẩy mầm, sanh
trưởng; quả giống như kết trái. Trong giai đoạn
phát khởi, sanh trưởng, có tŕnh tự nứt vỏ nẩy
mầm, trổ lá, đơm hoa, nhưng [xét ra], giữa hạt
giống và quả, tuy trọn đủ mà chẳng thể tách rời; bởi lẽ, đạo vốn vô số, tức
là [xét giữa] tín và quả [cái quả do ḷng tin sanh ra sẽ
là vô số], nhưng pháp tắc th́ có hạn lượng, tức
là [nói theo danh xưng] th́ có năm địa vị (Trụ,
Hạnh, Hướng, Địa, Đẳng Giác).
Địa vị
chỉ hạn lượng thành năm là do thiên số có
năm, địa số có năm, số của vạn
pháp cũng là năm. V́ thế, thiên kinh là Ngũ Tinh,
địa vĩ là Ngũ Nhạc[13], hạnh của
con người gồm Ngũ Thường,
bên trong th́ Ngũ Tạng, ngoài là Ngũ Thể[14], hội
thông đến tột cùng th́ cũng là năm mà thôi. Suy rộng
ra, [sẽ là] ngũ phương, ngũ sắc, ngũ hành,
ngũ âm… chẳng thể nêu trọn! Vậy th́ Hoa Nghiêm
đặt ra năm địa vị, cũng là thuận
theo con số tự nhiên của vạn pháp.
Pháp môn ngũ vị
lấy Tín làm cái nhân ban đầu, khiến cho kẻ tu Hoa
Nghiêm ngoài th́ tin tưởng pháp ngũ vị đều là
đức dụng của tự tâm, trong th́ tin vào đức
Phật trong tự tâm có cùng một Thể với đức
Tỳ Lô. Tâm và pháp tương ứng, sau đấy tấn
tu, ắt trí và hạnh chẳng mê, cho tới khi đạt
đến quả vị cuối cùng, chẳng rời khỏi
pháp Sơ Tín. Ví như hạt giống, trước đó,
nó đă có đủ toàn thể, sau đấy phát triển,
sanh trưởng, cho đến khi kết trái, vẫn là hạt
giống ban đầu. Đây chính là nhân quả chẳng
đổi dời, gốc và ngọn thấu triệt lẫn
nhau, thật sự là một môn trọng yếu trong Hoa
Nghiêm vậy.
3.2.2.1. Thập Tín
Pháp môn Thập
Tín chính là sáu phẩm được nói trong hội thứ
hai tại Phổ Quang Điện: Một là phẩm Phật
Danh Hiệu, hai là phẩm Tứ Thánh Đế, ba là phẩm
Quang Minh Giác, bốn là phẩm Vấn Minh, năm là phẩm
Tịnh Hạnh, sáu là phẩm Hiền Thủ. Hội này,
[đức Phật] ngự tại Phổ Quang Điện,
sai ngài Văn Thù làm người diễn giảng, biểu
thị Diệu Tín nương vào bổn trí phổ quang mà
sanh khởi, nương vào trạch pháp diệu huệ (擇法妙慧, trí
huệ mầu nhiệm chọn lựa pháp) để trụ.
Nếu không có huệ ấy, chỉ đạt được
Nhị Thừa, chẳng thể chứng nhập Như Lai
Thừa, thành Chánh Giác.
3.2.2.1.1. Phẩm Phật Danh Hiệu
Phẩm Phật
Danh Hiệu (佛名號) là danh hiệu của Phật được
phương tiện lập bày nhằm thuận theo pháp, ứng
hợp căn cơ, phù hợp cái tâm của chúng sanh, cho nên
mỗi danh hiệu đều bất đồng. Kinh chép:
Hết thảy chư Phật biết chúng sanh mong muốn,
ưa thích khác nhau, nên thuận theo mà thuyết pháp
tương ứng để điều phục. V́ vậy,
trong một tứ thiên hạ của thế giới Sa Bà
này, đức Như Lai đă thị hiện đủ loại
thân, đủ loại danh hiệu, hoặc tên là Nhất
Thiết Nghĩa Thành (一切義成), cho đến tên là Đạo Sư (導師), số lượng
[danh hiệu] đến mười ngàn. Trong một tứ
thiên hạ là như thế, mà mười phương thế
giới cũng là như thế, danh hiệu mỗi nơi
đều đến số mười ngàn. Trong Sa Bà là
như thế, mà tận pháp giới hư không giới
cũng lại giống như thế, thị hiện đủ
loại thân, đủ loại danh hiệu.
Trong hội thứ hai này, do các vị Bồ Tát từ những phương
khác đến nhóm hội, đă nêu ra bốn mươi câu
hỏi. Đối với phần đầu tiên của phần
kinh văn nói về giai đoạn thứ ba là Hành [trong
Tín, Giải, Hành, Chứng], ngài Thanh Lương đă phán
định kinh văn thành mười vấn đề: Một
là Phật sát (佛剎, cơi Phật), hai là Phật trụ, ba là sự trang
nghiêm trong cơi Phật, bốn là Phật pháp tánh, năm là Phật
sát thanh tịnh, sáu là pháp do đức Phật đă nói, bảy
là thể tánh của cơi Phật, tám là oai đức của
Phật, chín là sự thành tựu nơi cơi Phật, mười
là đại Bồ Đề của Phật.
Ngài Thanh
Lương nói: “Mười vấn
đề ấy được chia thành năm cặp,
đều là câu trên hỏi về y báo, câu dưới hỏi
về chánh báo. Kế đến, lại hỏi về Thập
Trụ, Thập Hạnh, cho đến sự tối thắng
và quang minh của Như Lai, kèm thêm [lời hỏi về]
Thập Tín, thành ra ba mươi câu hỏi. Tính chung (gộp
chung ba mươi câu hỏi với mười vấn
đề trước đó) là bốn mươi câu hỏi”.
Ngài Phương Sơn (Lư Trưởng Giả) đối
với phần này, đă chấm câu dựa theo chữ “Phật sát”, nên chỉ phán
định thành bốn câu hỏi về cơi Phật, tức
là thiếu sáu vấn đề. [Ở đây, chúng ta] hăy
nên tuân theo cách chấm câu của ngài Thanh Lương[15].
Ở đây,
trước hết, trong phần hỏi về Phật sát
và Phật trụ, [các vị Bồ Tát dự hội] đă
hỏi về Chánh Giác và thần lực ứng hóa của
Như Lai, cho nên [đức Phật sai ngài Văn Thù] nói phẩm
này để đáp, và cũng để đáp lời hỏi
về biển danh hiệu của Phật trong phần
trước. Phẩm này trả lời [câu hỏi] về
Phật sát và Phật trụ ḥng nói rộng răi thân của
Như Lai sẽ tùy theo cơi nước mà hiện, danh hiệu
[Phật được đặt ra] nhằm
ứng hợp [căn tánh của] chúng sanh mà phô bày, khiến cho kẻ do ḷng tin mà vào, sẽ biết
đức Phật trong tự tâm vốn trọn khắp pháp
giới, hết thảy mọi nơi không chỗ nào chẳng
phải là cơi Phật, chẳng nơi đâu không phải là
chỗ Phật trụ, danh hiệu nào cũng đều là
danh hiệu Phật, Thể đều là Phật thể.
Đấy chính là Hoa Nghiêm diệu quán hiện tiền trong
mỗi niệm.
Bốn
mươi câu hỏi của đại chúng ở đây
đại đồng tiểu dị với ba mươi
bảy câu hỏi trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm.
Ở đây, hỏi lại là v́ phần trước chính là
phần Cử Quả Khuyến Tu (舉果勸修, nêu lên cái quả để khuyên tu), lời hỏi
trong phần ấy nhằm nêu rơ pháp đă thành tựu
nơi Phật quả, c̣n ở đây là phần Thiết
Pháp Trị Tập (設法治習, lập bày phương cách để đối trị
tập khí), lời hỏi trong phần này nhằm nêu rơ pháp
để nương vào nơi nhân hạnh (因行, cái hạnh
trong khi đang tu nhân). Đối với cái pháp đă thành tựu
nơi quả, chẳng dùng ngôn từ để diễn tả; v́ thế, đức Như Lai hiện tướng
để đáp chung. Đối với pháp để
nương vào [ḥng tu nhân] th́ cần phải diễn giải
ḥng khơi gợi; v́ thế, ngài Văn Thù dùng ngôn thuyết
để đáp riêng. Các phẩm từ đây trở đi
đều là lần lượt biệt đáp (trả lời
riêng cho từng vấn đề một).
Khi sắp nói pháp
Thập Tín, mười phương Bồ Tát từ các thế
giới như Kim Sắc, B́nh Đẳng Sắc… tức là mười thế giới có chữ Sắc trong
tên gọi, [các thế giới ấy] là trụ xứ của
mười vị Phật có chữ Trí trong danh hiệu[16], cùng với
sát trần Bồ Tát nhóm đến, nhằm biểu thị
mười nhân và mười quả của Tín môn. Quả chính
là mười vị Phật có chữ Trí trong danh hiệu,
nhân là mười vị Bồ Tát như Văn Thù v.v… Mười
Sắc thế giới (Kim Sắc, Diệu Sắc, Liên Hoa Sắc
v.v…) chính là pháp môn được tu. Nói chung, đó chính là
các sắc pháp, nhằm chỉ ra pháp nơi tự tâm. Đối
với các pháp thuộc mười địa vị này, [có
một pháp] xuất sanh từ trí thể căn bản bất
động, chín pháp khác đều là tác dụng của trí
đức bất động. Nương vào Thể để
tấn tu bèn có mười địa vị, gom Dụng
quy vào Thể th́ chỉ có một pháp mà thôi. Đấy là
Tịch và Chiếu cùng vận dụng, tu và chứng đồng
thời, chẳng c̣n lần lượt theo thứ tự.
Do đó, kinh nêu ra Phật và Bồ Tát cùng lúc, nhằm biểu
thị nhân và quả cùng được phô bày. Nhưng pháp
được biểu thị nơi các địa vị
này là chuyện của Phật, Bồ Tát, từ ngay nơi
pháp mà minh tâm [sẽ nhận biết các pháp ấy] đều là Tánh Đức của chính ḿnh. Pháp
trong kinh Hoa Nghiêm toàn là thuận theo từng căn cơ mà
nói ra, đừng cho đó là chuyện thuộc về thánh
hiền, tự nhủ chính ḿnh chẳng có phần! V́ thế,
Triệu pháp sư (ngài Tăng Triệu) nói: “Thánh viễn hồ tai, thể chi tức thần”
(Thánh trí có xa xôi ǵ đâu, hễ chứng nhập th́
tác dụng thần diệu của thánh trí sẽ phát khởi)[17].
3.2.2.1.2. Phẩm Tứ Thánh Đế
Phẩm Tứ Thánh
Đế (四聖諦) nêu bày các pháp do đức Phật đă nói đều xứng
tánh, ứng hợp căn cơ, mỗi mỗi đều
bất đồng. Kinh nói: Mười
phương thế giới nói Tứ Thánh Đế, mỗi
nơi đều có bốn trăm ức mười ngàn tên gọi.
Cho đến tận pháp giới hư không giới nói Tứ
Thánh Đế, mỗi nơi đều có trăm ức vạn
loại tên gọi, đều là thuận theo tâm của
chúng sanh, đều làm cho họ điều phục. Dụng
ư của phẩm này nhằm chỉ rơ: Các pháp
do đức Phật đă nói đều lấy Tứ
Đế, tức Khổ, Tập, Diệt, Đạo, làm
Thể. Do Tứ Đế mà nói đủ
loại pháp. Tánh vốn thiên chân, pháp chẳng nói năng, chỉ
bày, do vô minh mà dấy lên nghiệp, Khổ và Tập tạo
thành duyên, thánh nhân bất đắc dĩ, ứng theo
đó mà thuyết giáo. V́ thế, các kinh đều lấy Tứ
Thánh Đế và mười hai duyên làm Tông, mà kinh này là pháp
xứng tánh cũng nêu ra [pháp Tứ Đế] trước
hết. Bởi lẽ, từ chỗ này mà tánh mê, [và
cũng] từ chỗ này mà tánh hiện, vậy th́ giải
thoát Căn và Trần, bản tánh sẽ thật sự
sáng suốt. Nói “Tứ Thánh
Đế” nhằm làm cho [thính chúng] hiểu rơ Đệ
Nhất Nghĩa trong Khổ và Tập của Thế Gian Tứ
Thánh Đế, đúng lư dung thông, chẳng c̣n chán ghét,
đoạn trừ, đúng như pháp giới tánh, chẳng
trừ bỏ, chẳng giữ lấy. Nương vào
đó làm nhân ḥng thăng tấn ngũ vị, thảy đều là
như thế, th́ sẽ có thể đạt được
Phật quả. Đây là lời đáp cho câu hỏi về
biển diễn thuyết (diễn thuyết hải, 演说海) trong phần
trước (phẩm này và phẩm Phật Danh Hiệu trong
phần trên hợp thành một quyển).
3.2.2.1.3. Phẩm Quang Minh Giác
Phẩm Quang Minh
Giác (光明覺) là đức Phật trong hội đầu tiên,
đă phóng quả quang (果光, quang minh từ nơi Phật quả) từ giữa
hai mày chiếu mười phương xong, [quang minh] ấy
lại nhập vào ḷng bàn chân [đức Phật]. Đến
phẩm này, quang minh lại từ chân Ngài tỏa ra, quang
minh ấy chiếu từ một đại thiên cho đến
mười đại thiên, dần dần mở rộng
hơn, chiếu trọn khắp pháp giới, khiến cho kẻ
phát khởi ḷng tin cảm nhận trí cảnh của Phật
rộng lớn vô tận, tự nhận biết Pháp Thân trí
hạnh của chính ḿnh cũng đều b́nh đẳng. Do
đó, tiến nhập ngũ vị, mở sáng trí nhăn, thành
quả địa giác. Do vậy, [phẩm này] có tên là phẩm
Quang Minh Giác. V́ thế, từ dưới chân tỏa ra quả
quang nhằm biểu thị nương vào quả để
tu nhân, giúp nhau phát khởi. Hễ là từ
nhân hướng đến quả, ắt trọn đủ
bốn pháp Tín, Giải, Hành, Chứng. Ba phẩm trước
giảng về Tín, ba phẩm sau [trong hội này] chính là Giải,
Hành, và Chứng.
3.2.2.1.4. Phẩm Vấn Minh
Phẩm Vấn
Minh (問明) là ngài Văn Thù và chín vị Bồ Tát có chữ Thủ
trong danh hiệu (Giác Thủ, Tài Thủ, Bảo Thủ…) hỏi
đáp lẫn nhau để làm sáng tỏ vạn pháp, ḥng chỉ
bày [cho thính chúng] hiểu về Thập Tín.
Trước hết,
ngài Văn Thù hỏi ngài Giác Thủ: “Tâm và tánh là một, thiện, ác, khổ, lạc, nghiệp
khác nhau như thế nào?” Ngài Giác Thủ đáp: “Các pháp chẳng có tác dụng, do
vọng tâm, phân biệt mà có. Theo đúng lư mà quan sát th́ hết
thảy đều là vô tánh”. Ư Ngài nói cái Thể của
nghiệp vốn là chân, do trái nghịch giác nên thành vọng.
Nương vào Chân để khởi giác th́ hết thảy
đều là chân.
Mười vị
Bồ Tát ấy nói ra mười pháp rất sâu. Giác Thủ Bồ
Tát nói về duyên khởi rất sâu, Tài Thủ nói về
giáo hóa rất sâu, Bảo Thủ giảng về nghiệp
quả, Đức Thủ (Công Đức Thủ) giảng
về thuyết pháp, Mục Thủ giảng về phước
điền, Cần Thủ (Tinh Tấn Thủ)[18] nói về
chánh giáo, Pháp Thủ nói về chánh hạnh, Trí Thủ nói về
trợ đạo, Hiền Thủ nói về nhất đạo
rất sâu, ngài Văn Thù nói về Phật cảnh rất
sâu, đều nhằm hiển lộ pháp thể chân tịnh.
Sau mười lần
hỏi ấy, hết thảy các pháp sai biệt trong tận
pháp giới, chúng sanh giới, do thần lực của
đức Phật đều cùng hiện rơ. V́ thế, gọi
[tên phẩm này] là Vấn Minh (phẩm này và phẩm Quang Minh
Giác trước đó, hợp thành một quyển).
3.2.2.1.5. Phẩm Tịnh Hạnh
Phẩm Tịnh
Hạnh (淨行) là rộng phát đại nguyện, [giảng về]
hạnh của Thập Tín. Có ư nói: Chúng sanh v́ vô minh tham ái,
nhiễm các trần lao mà đánh mất Phật Hoa Nghiêm. Do
chẳng có nguyện lực, đă phát ḷng tin thanh tịnh,
cần phải nương vào đại nguyện để
trừ sạch trần lao. Điều cốt yếu là từ
ngay trần lao mà thành tựu tịnh hạnh (hạnh thanh
tịnh).
Phẩm này là do
Trí Thủ Bồ Tát nêu ra một trăm mười câu hỏi,
từ “làm thế nào để
đắc thân ngữ ư nghiệp” cho đến “hết thảy công đức
thù thắng, mầu nhiệm”, ngài Văn Thù bèn nói ra một
trăm bốn mươi đại nguyện[19]. Ngài nói
đại lược: “Bồ
Tát tại gia, đương nguyện chúng sanh, miễn kỳ
bức bách. Hiếu sự phụ mẫu, đương
nguyện chúng sanh, hộ dưỡng nhất thiết” (Bồ
Tát tại gia, nguyện cho chúng sanh, thoát sự bức bách.
Hiếu dưỡng cha mẹ, nguyện cho chúng sanh, bảo
vệ, phụng dưỡng hết thảy) cho đến
cuối cùng là “thùy miên thỉ
ngụ, đương nguyện chúng sanh, nhất thiết
trí giác” (ngủ nghỉ
vừa xong, nguyện cho chúng sanh, hết thảy
trí giác)… đều nhằm khiến cho [hành nhân] từ ngay những chuyện trần lao mà đổi thành diệu
hạnh. Do các đại nguyện ấy thanh tịnh thân,
miệng, ư, liền đạt được hết thảy
công đức thù thắng, mầu nhiệm. Do vậy, chắc
chắn sẽ thành tựu biển hạnh vô tận của
ngũ vị, hết thảy các nhiễm pháp sẽ chẳng
thể trái nghịch, ngăn ngại. Đấy là Tịnh Hạnh (phẩm
này cùng quyển thượng của phẩm Hiền Thủ
hợp thành một quyển).
3.2.2.1.6. Phẩm Hiền Thủ
Phẩm Hiền
Thủ (賢首) nhằm nói rơ: Nương
vào pháp môn Thập Tín, phát tâm tu tấn,
công đức khó lường, bằng với chư Phật,
chỉ bày sự chứng nhập Thập Tín. Kinh chép: Lúc bấy giờ, Văn Thù Bồ Tát nói đại công đức thanh tịnh
hạnh chẳng ô trược, tán loạn xong, muốn hiển thị công đức của Bồ Đề tâm, bèn hỏi
ngài Hiền Thủ: “Tôi nay
đă v́ các vị Bồ Tát nói hạnh thanh tịnh do đức
Phật đă tu thuở trước. Trong hội này, nhân giả
cũng nên diễn nói công đức tu hành thù thắng”.
Ngài Hiền Thủ dùng kệ đáp rất rộng, thuật
cặn kẽ công đức do phát tâm tu hành, quả đạt
được càng tăng nhiều hơn, lợi lạc
chúng sanh, phụng sự Phật, cho đến xuất nhập
Phương Vơng tam-muội, ẩn và hiển đồng thời,
tự tại vô ngại, đều giống như Tỳ
Lô, Văn Thù, Phổ Hiền. Đức dụng của quả
hạnh được nêu bày qua các pháp trong sáu phẩm của
phần Thập Tín, phát Bồ Đề tâm, giải và hạnh
tương ứng, tức là đă chứng đắc
địa vị này. Từ đó, nhanh chóng tiến vào Thập
Trụ.
Phương Vơng tam-muội
(方網三昧) là từ một phương nhập Chánh Định,
từ các phương c̣n lại xuất định. Từ
các phương nhập Chánh Định, do một
phương xuất định, giống như cái lưới
của thiên đế, xen lẫn, dung nhiếp
nhau cùng tột. Cho đến từ thân nam tử nhập
Chánh Định, từ thân nữ nhân xuất định,
đều như cái lưới của thiên đế.
Đấy chính là tác dụng của pháp giới tánh, vốn
tự là như thế, ngàn điều sai khác, nhưng chúng
có cùng một Thể, chẳng hai, chẳng khác! Chỉ thuận
theo cái Thấy của chúng sanh mà thấy sai khác. Nếu chứng
tánh dụng vô tác của Như Lai, sẽ xuất nhập tự
tại, do tâm vô sai biệt cho nên cảnh chẳng sai biệt.
Chứng trọn vẹn Thập Tín sẽ đạt tới
điều này. Đấy chính là hạnh chứng của
ngài Hiền Thủ, tức là khởi đầu từ phàm
phu, trước hết nhập Phật trụ, hết sức
gần với bậc á thánh. Đó gọi là Hiền Thủ.
V́ thế, đặt tên là phẩm Hiền Thủ. Từ
phẩm Quang Minh Giác cho đến chỗ này đều nhằm
giải đáp câu hỏi về biển phát khởi và tiến
hướng của Bồ Tát. Bởi lẽ, sự tăng
tấn tiến nhập ngũ vị phát xuất từ Thập
Tín (phẩm này gồm hai quyển).
3.2.2.2. Thập Trụ
Thập Trụ là
do Tín chứng nhập, sanh vào nhà Như Lai, nương vào
trí vô trụ, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển, nên gọi
là Trụ (住). Pháp
môn Thập Trụ chính là hội thứ ba, được
nói tại Đao Lợi Thiên trên đỉnh núi Tu Di,
cũng gồm có sáu phẩm: Một là phẩm Thăng Tu Di
Sơn, hai là phẩm Tu Di Đảnh Kệ Tán, ba là phẩm
Thập Trụ, bốn là phẩm Phạm Hạnh, năm
là phẩm Phát Tâm Công Đức, sáu là phẩm Minh Pháp.
3.2.2.2.1. Phẩm Thăng Tu Di Sơn
Phẩm Thăng
Tu Di Sơn (昇須彌山) dùng nơi chốn để biểu thị pháp.
Phổ Quang Điện trong phần trước là cơi đất
thuộc nhân gian. Nương vào địa giới để
nói Thập Tín nhằm biểu thị: Thoạt
đầu từ địa vị phàm phu mà phát khởi
ḷng tin. Nay núi Tu Di (Sumeru) cao tột tận trời, nói pháp Thập Trụ ở
đó, nhằm biểu thị Tín đă thăng tấn, nhập
vào bờ mé rộng lớn. Phẩm Thập Trụ nói: “Trụ xứ của Bồ Tát rộng
lớn bằng với pháp giới hư không”. Núi này ở
trong biển [được bọc quanh] bằng bảy
kim sơn, cao chót vót chọc trời, chẳng thể dùng
chân trèo tay nắm để lên được, biểu thị: Pháp
Thập Trụ vươn lên từ biển diệu trí, cao
vượt t́nh cảnh (情境, cảnh giới hạn cuộc trong t́nh thức),
chẳng thể dùng tâm tưởng nắm níu mà đạt
được! Phẩm này nói đến chuyện viên măn
Thập Tín, tăng tấn cao hơn, và tường thuật
chuyện Đế Thích bày pháp ṭa, đón tiếp đức
Phật.
Lại nói: Khi ấy,
đức Thế Tôn chẳng ĺa dưới hết thảy
các cây Bồ Đề, mà thăng lên Tu Di, hướng về
cung điện của Đế Thích. Đế Thích bày ṭa
sư tử Phổ Quang Minh Tạng, thỉnh Phật an tọa.
Đấy chính là thân pháp giới thanh tịnh trọn khắp
hết thảy mọi nơi, tùy duyên ứng hiện, ví
như một vầng trăng hiện bóng nơi ngàn sông. Do
thuyền đi mà thấy trăng xuôi Nam lên Bắc,
nhưng [thật ra], trăng chưa hề đến hay đi!
Đế Thích thỉnh Phật, nói mười bài kệ
tán thán. Bài kệ thứ nhất nói: “Ca Diếp Như Lai cụ đại bi, bỉ Phật
tằng lai nhập thử điện” (Ca Diếp
Như Lai đủ đại bi, Phật ấy từng
đến vào điện này). Cho đến bài kệ thứ
mười có câu: “Nhiên
Đăng Như Lai đại quang minh, bỉ Phật tằng lai nhập thử điện”
(Nhiên Đăng Như Lai quang minh lớn, Phật ấy từng
đến vào điện này). Luận chép: “Ba vị trước là Phật trong kiếp này, bảy
vị sau là Phật trong kiếp trước”[20], ư nói: Vừa
mới nhập Thập Trụ, xưa nay sẽ giống
như nhau, Phật pháp chẳng khác.
3.2.2.2.2. Phẩm Tu Di Kệ Tán
Trong phẩm Tu Di
Kệ Tán (須彌偈讚), mười vị Bồ Tát như ngài Pháp Huệ
v.v… tán thán nhằm nêu rơ pháp thuộc địa vị này
(Thập Trụ), ḥng khuyên dạy hăy thăng tấn. Do Thập
Trụ lấy Trí làm Thể, dùng Huệ làm Dụng th́ mới
có thể thăng tấn, cho nên nhờ vào ngài
Pháp Huệ tán thán, nêu rơ. Khi sắp nói pháp Thập Trụ, từ
mười phương, có mười vị Bồ Tát có
chữ Huệ trong danh hiệu, mỗi vị từ [mỗi thế giới trong] mười thế giới có chữ Hoa trong tên gọi,
như thế giới Nhân Đà La Hoa... cùng với sát trần Bồ Tát nhóm đến. Các vị Bồ
Tát ấy đều từ nơi mười vị Phật
danh hiệu có chữ Nguyệt[21] tịnh tu
phạm hạnh, biểu thị “pháp Thập
Trụ nương vào trí khởi huệ làm nhân, lại
thành cái quả trí nguyệt”. Đắc quả pháp ấy, sẽ nhanh chóng thấu
triệt vô minh, nhanh chóng trừ bỏ phiền năo, mát mẻ
như vầng trăng.
Các vị Phật ấy biểu thị quả, Bồ Tát biểu thị
nhân, cũng giống như trong phần Thập Tín, nhân và quả [của các pháp Thập Trụ] cùng được phơi bày. Mười thế
giới có chữ Hoa trong danh xưng chính là các pháp
môn được tu tập; nói tóm gọn là từ ngay trong
nhân hoa mà nở bừng trí quả. Kinh chép: Khi ấy, mười
vị Bồ Tát có chữ Huệ trong danh hiệu nói kệ
tán thán xong, Pháp Huệ Bồ Tát liền nhập vô lượng
phương tiện tam-muội. Từ mười
phương, mỗi phương đều có Phật nhiều
như số lượng vi trần trong một ngàn cơi Phật
cùng hiệu là Pháp Huệ, cùng hiện trước mặt
Ngài (Pháp Huệ Bồ Tát) mà tán thán, gia bị. Luận viết:
“Chúng sanh có trí huệ của
Như Lai Pháp Thân, v́ mê duyên mà tự chướng. Phàm những
ai có thể tu phương tiện tam-muội để hiển
lộ [trí huệ ấy], sẽ ngầm thấu hiểu
trí huệ nơi Pháp Thân của chư Phật, Do vậy,
chư Phật có cùng tên [Pháp Huệ] đều hiện
trước Ngài”.
3.2.2.2.3. Phẩm Thập Trụ
Phẩm Thập
Trụ (十住) nói thẳng vào danh nghĩa của [các địa vị
trong] Thập Trụ, chỉ bày hạnh phải hành trong mỗi
địa vị ấy:
1) Phát Tâm Trụ
(發心住, Prathamacittotpādika): Khởi đầu nương vào chánh trí, phát Bồ
Đề tâm.
2) Trị Địa
Trụ (治地住, Ādikarmika):
V́ lợi lạc chúng sanh, mở rộng tâm địa.
3) Tu Hành Trụ (修行住, Yogācāra): Khéo quán các pháp, tăng trưởng chánh hạnh.
4) Sanh Quư Trụ
(生貴住, Janmaja): Do hạnh
tôn quư, sanh trong nhà Phật pháp.
5) Phương Tiện
Cụ Túc Trụ (方便具足住, Pūrvayogāsampanna): Mang theo Chân tùy thuận Tục, ḥa quyện ḥng
giáo hóa thích hợp.
6) Chánh Tâm Trụ
(正心住, Śuddhādhyāśaya): Gặp cảnh thiện hay ác, tâm bất động.
7) Bất Thoái Trụ
(不退住, Avivartya):
Hướng theo chánh diệu đạo, duyên bất hoại.
8) Đồng
Chân Trụ (童真住, Kumārabhūta): Hàm chân băo nhất[22], trí hạnh
chẳng mất.
9) Pháp
Vương Tử Trụ (王子住, Yauvarājya):
Đắc pháp của đấng Pháp Vương, sẽ nối
tiếp địa vị Phật.
10) Quán Đảnh
Trụ (灌頂住, Abhiṣeka):
Thành tựu mười trí, sẽ thành Phật. Như Thái Tử
của vua phô bày nghi thức quán đảnh.
Trong kinh văn của
phẩm Thập Trụ, mỗi Trụ đều nói thành tựu
mười pháp, nhằm chỉ bày hạnh của địa
vị ấy. Lại đối với mỗi trụ
đều khuyên nên học mười pháp, nhằm chỉ rơ mỗi địa vị sau đều tăng
tấn thù thắng hơn địa vị trước.
Trong đoạn kinh văn kết thúc mỗi địa vị,
đều nói: Đối với pháp đă được
nghe liền tự khai giải, chẳng do người khác
dạy, có liên quan đến phần cuối phẩm Phạm
Hạnh. Lại nói: “Nếu các
vị Bồ Tát có thể tương ứng với quán hạnh
như thế, biển hết thảy Phật pháp sẽ
đều cùng hiện tiền”. Khi mới phát tâm, liền
đắc Bồ Đề, biết hết thảy các pháp
chính là tự tánh trong tâm, thành tựu huệ thân, chẳng
do người khác mà ngộ. Đấy là muốn nói rơ “hăy tăng tấn đức vốn
sẵn có, đừng cầu từ bên ngoài” (phẩm này
và hai phẩm trước gộp thành một quyển).
3.2.2.2.4. Phẩm Phạm Hạnh
Phẩm Phạm
Hạnh (梵行) nói: Trong Thập Trụ, quán sát mười pháp là “thân, thân nghiệp, ngữ, ngữ nghiệp, ư, ư nghiệp,
Phật, Pháp, Tăng, Giới”. Trong số ấy, pháp nào là Phạm Hạnh? Biết
tam nghiệp như thân, ngữ, ư và trong Phật, Pháp,
Tăng, Giới, hễ là pháp hữu vi hữu tác, thảy đều
chẳng phải là Phạm Hạnh, vậy th́ sẽ chẳng
chấp giữ thân, chẳng chấp vào tu, chẳng trụ
vào pháp, mà cũng chẳng có cái tên Phạm Hạnh, tâm chẳng
có chướng ngại, phương tiện tự tại.
Như thế th́ được gọi là Phạm Hạnh
thanh tịnh. Lại nêu ra mười loại trí lực của
Như Lai để hành giả thuộc địa vị ấy
tu tập. Đấy là pháp để thành tựu huệ
thân.
3.2.2.2.5. Phẩm Phát Tâm Công Đức
Phẩm Phát Tâm Công
Đức (發心功德) nêu ra những công đức chẳng thể ước
lượng sẽ đạt được do tu pháp Thập
Trụ. Kinh nêu hơn mười thí dụ, so sánh từng tầng
một, [đều nói là] chẳng thể sánh ví chút phần.
Bởi lẽ, đă phát cái tâm ấy, công đă bằng với
quả hải chẳng có ngằn mé (phẩm này và phẩm Phạm
Hạnh trước đó hợp thành một quyển).
3.2.2.2.6. Phẩm Minh Pháp
Trong phẩm Minh
Pháp (明法), Tinh Tấn Huệ Bồ Tát hỏi Pháp Huệ Bồ
Tát về hạnh để thăng tấn trong mỗi
địa vị, ḥng khiến cho [hành nhân] càng hiểu rơ
hơn. [Những hạnh ấy] là cái nhân của Thập Hạnh.
V́ thế, tiếp đó nói pháp Thập Hạnh (phẩm này
gồm một quyển).
3.2.2.3. Thập Hạnh
Thập Hạnh là
nương vào Phổ Trí để phát khởi ḷng tin, trụ
nơi Phật trụ, bèn có thể hưng khởi dồi
dào muôn hạnh, tự lợi, lợi lạc người
khác. V́ thế, nói đến Thập Hạnh. Pháp môn Thập
Hạnh chính là bốn phẩm kinh được nói trong hội
thứ tư tại trời Dạ Ma: Một là phẩm
Thăng Dạ Ma Thiên, hai là phẩm Dạ Ma Kệ Tán, ba là
phẩm Thập Hạnh, bốn là phẩm Vô Tận Tạng.
3.2.2.3.1. Phẩm Thăng Dạ Ma Thiên
Tu Dạ Ma (須夜摩, Suyāma)
cơi này dịch là Thiện Thời Phần (善時分), là
Không Cư Thiên[23], không có mặt
trời và mặt trăng mà thường sáng sủa, dùng
hoa sen nở hay khép để phân định ngày đêm. V́
thế, nói là Thiện Thời Phần. Nói Thập Hạnh ở
nơi đây nhằm biểu thị: Hạnh nương
vào Pháp Không, chẳng bị vướng mắc, trầm trệ,
khéo ứng hợp thời nghi. Phẩm này nói về chuyện từ
Thập Trụ thăng tấn, và tường thuật chuyện
Dạ Ma Thiên Vương hóa ra pháp ṭa nghênh đón đức
Phật. Dạ Ma Thiên vương thỉnh Phật, nói ra
mười bài kệ tán, cũng kể ra mười vị
Như Lai đă từng vào điện ấy, hiển thị
chuyện nhập lư và trí của Thập Hạnh trong hiện
thời chẳng khác xưa kia.
3.2.2.3.2. Phẩm Dạ Ma Kệ Tán
Trong phẩm Dạ
Ma Kệ Tán (夜摩偈讚), mười vị Bồ Tát như ngài Công Đức
Lâm v.v… tán dương ḥng hiển thị pháp thuộc mỗi
địa vị [trong Thập Hạnh] nhằm khuyên dạy
[hành nhân] hăy thăng tấn. Do tận tụy tích lũy hạnh,
đức sẽ che phủ rộng khắp. V́ thế, dùng Công Đức Lâm Bồ Tát tán
dương, hiển thị. Lúc sắp nói phẩm Thập
Hạnh, mười vị Bồ Tát có chữ Lâm[24] trong danh hiệu
từ mười phương, mỗi vị từ các thế giới như Thân Huệ, Phạm Huệ
v.v… cùng sát trần Bồ Tát đều nhóm đến. Các vị
Bồ Tát ấy đều từ chỗ các đức Phật
có chữ Nhăn trong danh hiệu tịnh tu phạm hạnh, biểu
thị địa vị này là từ huệ mà khởi hạnh
che chở, nhiếp thọ, hóa độ. Các vị Bồ
Tát dùng chữ Lâm trong danh hiệu, biểu thị diệu hạnh
“che phủ rộng răi”. Địa vị này đă đạt
được mắt trí huệ của Như Lai, nên Phật
dùng chữ Nhăn trong danh hiệu, biểu thị mắt trí
huệ lợi lạc chúng sanh. Đây cũng là dùng nhân hạnh
đă được hành trong Thập Hạnh để chỉ
bày pháp, muốn khiến cho hành nhân sẽ phỏng theo (hai
phẩm này và phần thượng của phẩm Thập
Hạnh hợp thành một quyển).
3.2.2.3.3. Phẩm Thập Hạnh
Phẩm Thập
Hạnh (十行) nói thẳng vào danh nghĩa của Thập Hạnh,
chỉ dạy hạnh phải hành của từng địa
vị:
1) Hoan Hỷ Hạnh
(歡喜行): Dùng ba thứ thân mạng, tài và pháp để bố
thí ngơ hầu ta lẫn người đều vui sướng.
2) Nhiêu Ích Hạnh
(饒益行): Dùng tam tụ là luật nghi, thiện pháp và nhiếp
sanh để [ta lẫn người] đều cùng được
lợi ích.
3) Vô Vi Hạnh (無違行): Nhẫn
thuận theo lư của chúng sanh, chẳng trái nghịch.
4) Vô Khuất Nhiễu
Hạnh (無屈撓行): Tinh tấn nơi đạo, chẳng thoái chuyển,
khiếp nhược.
5) Ly Si Loạn Hạnh
(離癡亂行): Định và Huệ sáng suốt, chánh đáng,
không bị mê hoặc.
6) Thiện Hiện
Hạnh (善現行): Bát Nhă chiếu trọn vẹn, hiểu thấu suốt
trí lẫn cảnh.
7) Vô Trước
Hạnh (無著行): Ḥa lẫn cùng với Hữu,
tâm chẳng chấp trước.
8) Nan Đắc
Hạnh (難得行): Đại nguyện thành tựu th́ mới có thể
đạt được.
9) Thiện Pháp Hạnh
(善法行): Dùng diệu thiện lực để thuyết
pháp ứng hợp với căn tánh của muôn vật.
10) Chân Thật Hạnh
(真實行): Thấu hiểu trí chân thật, hết thảy
đều chân thành, đúng thật.
Thập Hạnh
dùng ngay Thập Ba La Mật làm gốc, chẳng có hạnh
nào không được nhiếp thọ (phẩm này gồm
hai quyển).
3.2.2.3.4. Phẩm Vô Tận Tạng
Phẩm Vô Tận
Tạng (無盡藏) nói đến mười loại tạng là Tín, Giới,
Tàm, Quư, Văn, Thí, Huệ, Niệm, Tŕ, Biện. Bảy tạng
đầu được gọi là Thất Thánh Tài, dùng hai
món (Niệm và Tŕ) để bảo vệ, món cuối cùng
là đă tích tập bèn có thể chia sẻ. Lại nữa,
chín món đầu là tích tụ, món sau cùng là xuất sanh. Mỗi
hạnh đều có lượng và bản thể bao trùm
pháp giới, đức dụng bất tận, nên gọi
là Tạng. Dùng những điều này để thành tựu
pháp Thập Hạnh trên đây, khiến cho mỗi hạnh đều vô tận,
ḥng thành tựu Thập Hướng trong phần sau, khiến
cho [hành nhân] thăng tấn vô tận. Do đó, kế tiếp
phẩm này bèn nói pháp Thập Hồi Hướng (phẩm
này gồm một quyển).
3.2.2.4. Thập Hồi Hướng
Thập Trụ
và Thập Hạnh trong phần trước phần nhiều
là tâm xuất ly thế tục, hạnh đại bi kém cỏi,
đến chỗ này bèn dùng trí đă đắc bởi
chư Phật nơi Thập Trụ và hạnh xuất thế
đă hành trong Thập Hạnh để giúp bi nguyện, ở trong cơi tục lợi lạc
chúng sanh, hồi Chân hướng Tục, hồi Trí hướng
Bi, khiến cho Chân và Tục viên dung, Trí và Bi chẳng hai,
ḥng hồi hướng Bồ Đề Thật Tế, dung
thông cả năm địa vị, lợi lạc hết
thảy. Do vậy, gọi là Hồi Hướng (Parinama, 回向). Trí đoạn và ân đức do vậy
mà được trọn đủ, Pháp Thân, Báo Thân và Hóa
Thân nhờ vậy mà thành tựu. Pháp môn Thập Hồi
Hướng chính là hội thứ năm được nói
tại Đâu Suất Thiên, gồm
ba phẩm: Một là phẩm Thăng Đâu Suất Thiên,
hai là phẩm Đâu Suất Kệ Tán, ba là phẩm Thập
Hồi Hướng.
3.2.2.4.1. Phẩm Thăng Đâu Suất Thiên
Đâu Suất (兜率, Tuṣita) cơi này dịch là Tri Túc (知足, biết đủ). Cơi trời này chẳng rời
khỏi Dục Giới, nhưng ở trong dục cảnh mà chẳng bị đắm nhiễm;
do vậy, gọi là Tri Túc. Cơi trời này thuộc tầng
thứ năm trong Dục Giới. Nói Thập Hồi Hướng
ở chỗ này, biểu thị hồi Chân hướng Tục,
hồi Trí hướng Bi. Tuy dính líu trần lao, nhưng chẳng
bị đắm nhiễm, thường ở nơi Trung
Đạo, chẳng bị vướng mắc, trầm trệ. Phẩm này nói đến sự thăng tấn của
Thập Hạnh, và tường thuật chuyện Đâu Suất
Thiên Vương trải ṭa nghênh tiếp đức Phật.
Kinh nói: Đâu Suất Thiên Vương ở trong điện
này, bày ṭa báu ma-ni có trăm vạn ức tầng cấp.
Các vật để trang nghiêm cúng dường mỗi thứ
trăm vạn ức. Có các vị Bồ Tát Thập Tín, Thập
Trụ… số lượng cũng đến trăm vạn
ức vừa trông thấy ṭa ấy, ai nấy đều
được lợi ích nơi pháp, biểu thị pháp Hồi
Hướng dung thông trọn ngũ vị, viên dung vô tận.
Pháp ṭa [trong hội]
Thập Trụ có trăm ngàn tầng cấp, pháp ṭa Thập
Hạnh có trăm vạn [tầng cấp], Thập Hướng
có đến trăm vạn ức, đều nhằm biểu
thị sự thăng tấn, mỗi địa vị sau
cao trỗi hơn địa vị trước. Bởi lẽ,
từ Thập Trụ cho đến đây, trí, hạnh, bi
nguyện đă toàn vẹn, đạo pháp Bồ Tát đă
đầy đủ. Tuy hai địa vị sau đều
chẳng ra ngoài pháp tạng này, nhưng đều dung thông
mà hồi hướng hết thảy, ắt công đức,
lợi ích, đức dụng sẽ viên dung vô tận. V́ thế,
đối với pháp hay sự, mỗi thứ đều
là trăm vạn ức.
Đâu Suất
Thiên Vương thỉnh Phật, cũng
nói mười bài kệ, nêu danh hiệu của mười
đức Như Lai[25] từng vào
điện này. Luận nói: “Điều
này nói lên dấu tích hành đạo của chư Phật, vốn
tự trọn khắp, xưa nay chẳng khác” (Phẩm
này gồm một quyển).
3.2.2.4.2. Phẩm Đâu Suất Kệ Tán
Trong phẩm
Đâu Suất Kệ Tán (兜率偈讚), mười vị Bồ Tát như Kim Cang Tràng… tán
thán, hiển thị pháp thuộc về địa vị của
chính ḿnh, khuyên dạy thăng tấn, biểu thị địa
vị này, [vận dụng] bi và trí lợi sanh, phá Hoặc
(phiền năo), dẹp tan tà mà chẳng khuynh động. V́
thế, lấy ngài Kim Cang Tràng[26] tán thán, hiển
dương (phẩm này và phần đầu phẩm Hồi
Hướng gộp thành một quyển).
3.2.2.4.3. Phẩm Thập Hồi Hướng
Phẩm Thập
Hồi Hướng (十回向) nhằm nói trực tiếp vào danh nghĩa của
Thập Hướng, chỉ dạy các hạnh
thuộc về mỗi địa vị:
1) Cứu Sanh Ly
Tướng (救生離相): Đại bi cứu tế rộng răi, đại
trí chẳng chấp trước.
2) Bất Hoại
Hồi Hướng (不壞回向):
Đối với Tam Bảo, đạt được tín tâm bất hoại.
3) Đẳng Nhất
Thiết Phật (等一切佛): Học theo pháp hồi hướng đă tu của
ba đời chư Phật.
4) Chí Nhất Thiết
Xứ (至一切處): Các hạnh thuộc về bi nguyện nơi mặt
Sự đều tương xứng, trọn khắp pháp
giới.
5) Vô Tận Công
Đức Tạng (無盡功德藏): Duyên vô tận cảnh, thành vô tận công đức,
đắc vô tận quả.
6) Tùy Thuận
Kiên Cố (隨順堅固):
Thiện hạnh thường thuận theo pháp
tánh b́nh đẳng kiên cố th́ hết thảy các thiện
căn đều kiên cố.
7) Đẳng Thuận
Chúng Sanh (等順眾生):
Dùng tâm b́nh đẳng, thuận theo chúng sanh mà tạo lợi
ích.
8) Chân Như
Tướng (真如相):
Thấu hiểu lẽ chân, thực hành ḷng Từ, không có
tướng Hữu Tác.
9) Vô Trước
Vô Phược Giải Thoát (無著無縛解脫): Chẳng chấp trước, chẳng bị trói
buộc, tác dụng tự tại.
10) Pháp Giới Vô
Lượng (法界無量): Xứng tánh mà dấy lên tác dụng,
vượt trỗi các hạn lượng.
Pháp Hồi Hướng
này dùng đại nguyện lực để dung hội trí, bi, sanh tử, Niết Bàn thành một pháp giới,
pháp thật sự tự tại, tạo cơ sở cho quả
đức thuộc hai địa vị sau (Thập Địa
và Đẳng Giác), dung hợp ba địa vị trước
(Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh) để
thành tựu hạnh Thập Địa; v́ thế, kế tiếp
bèn nói pháp Thập Địa (phẩm này gồm mười
một quyển).
3.2.2.5. Thập Địa - Phẩm Thập Địa
Thập Địa
(十地) là tích lũy các pháp trên đây đă đạt
đến mức độ thành thục, hết thảy
Phật pháp sẽ nương vào đây để phát sanh;
v́ thế gọi là Địa (Bhūmi, đất). Kinh chép: “Hướng
đến, tiến nhập hạnh thuộc các địa
vị Bồ Tát này, hết thảy Phật pháp sẽ theo
đó mà sanh”. Pháp môn Thập Địa chính là một phẩm
được nói trong hội thứ sáu nơi Tha Hóa Thiên.
Tha Hóa Thiên (Parinirmita-vaśavartin) là tột đỉnh của Dục Giới.
Nương vào nơi đó mà nói pháp
Thập Địa, nhằm biểu thị hạnh Thập
Địa nương theo chúng sanh để ứng hóa, chứ
không tự ḿnh biến hóa. Bởi lẽ, ba địa vị
trước là Tam Hiền, vẫn là tự lợi, ở
đây là Thập Thánh, thuần là lợi tha. Do đó, chẳng
tự biến hóa. Ở đây, dùng trí Phổ Quang Minh làm Thể,
đó gọi là “đă bước trên đất Phổ Quang Minh của
Như Lai”. Bốn ngôi vị trước tuy chẳng rời
cái Thể này, nhưng công năng tích lũy chưa toàn vẹn,
nên chẳng được gọi là Địa. Địa
vị này thông đầu thấu cuối, công hạnh
đă toàn vẹn, cho nên bốn ngôi vị trước
đó dung hợp thành một pháp. Do đó, gọi là Trí
Địa của chư Phật. Từ đây cho đến
Thập Nhất Địa (Đẳng Giác), chẳng có một
pháp nào khác. Luận chép: “Pháp Thập
Địa này thông đầu thấu cuối, là một pháp môn thông suốt”.
Các vị Bồ
Tát trong hội này đều là đại chúng vân tập
trong hội, ngài Kim Cang Tạng làm Thượng Thủ,
nương vào thần lực của Phật, v́ đại
chúng nói danh hiệu Thập Địa xong, [đại
chúng] chẳng hiểu nghĩa ấy. [Điều này] biểu
thị pháp thuộc về Trí Địa của Phật chẳng
dễ dăi truyền trao. Lúc đó, ngài Giải Thoát Nguyệt
và các vị Bồ Tát ân cần thỉnh cầu ba lượt,
sau đó, ngài Kim Cang Tạng mới nói. V́ thế nói là “thỉnh pháp chủ bạn”.
Trong đại
chúng ấy, danh hiệu của ba mươi bảy vị [Bồ
Tát] đầu tiên đều có chữ Tạng, chỉ ḿnh
vị cuối cùng tên là Giải Thoát Nguyệt[27], biểu thị:
Địa vị này nương vào trí Kim Cang, tích lũy các
pháp trước, cộng thêm ba mươi bảy đạo
phẩm, ḥng giúp cho thêm phong phú, rộng lớn, đầy
đủ, nên gọi là Tạng (藏). Đạt tới cái quả viên măn th́ gọi là
Giải Thoát Nguyệt (解脫月). Kinh văn đối với các địa phần
nhiều nói là: Bồ Tát đă trụ trong địa này, do
đại nguyện lực, được thấy nhiều
vị Phật. Tức là thấy hơn trăm đức
Phật, hơn ngàn đức Phật, cho đến
hơn trăm ngàn ức na-do-tha Phật, thảy đều
dùng thâm tâm tôn kính, phụng sự, cúng dường.
Đấy chính là công do nương vào địa mà viên măn,
trí do nguyện mà được vẹn toàn, có thể đối
với Phật cảnh mà tham cứu thấu triệt trọn
khắp. Do đó, được thấy nhiều vị Phật
như vậy để thừa sự, cúng dường.
Từ trong thân
ngài Kim Cang Tạng, xuất hiện Trí Phật: Kinh văn
đến phần giảng về Pháp Vân Địa có
đề cập các loại trí lực thần thông vô
lượng của hàng Bồ Tát thuộc địa vị
ấy, đại chúng đều nghi. V́ thế, Kim Cang Tạng
Bồ Tát nhập Nhất Thiết Phật Quốc Thể
Tánh tam-muội. Khi đó, đại chúng dự hội
đều thấy thân của chính ḿnh ở trong thân của
ngài Kim Cang Tạng. Lại thấy trong đó, nơi cội
Bồ Đề, trên ṭa sư tử, có Phật hiệu là
Nhất Thiết Trí Thông Vương, các tướng trang
nghiêm, chẳng thể nói trọn hết. Luận chép: “Thể tánh của hết thảy
cơi Phật chính là vô tác pháp tánh thân. Cây Bồ Đề chính
là giác thể trong pháp tánh. Trí Thông Vương Phật chính
là diệu trí trong pháp tánh, ai nấy đều sẵn có, chỉ
v́ chính ḿnh không có gia hạnh để hiển lộ, phát
khởi đó thôi!” Kẻ ngu này cho rằng: Nếu hành
nhân có thể tự hiển lộ, phát khởi, sẽ không
chỉ chẳng ngờ vực thần thông trí lực của
bậc Thập Địa Bồ Tát, mà c̣n biết trọn
đủ hết thảy Phật đức (đức hạnh của Phật) đă nói trong kinh Hoa Nghiêm đều là phẩm
đức thường hằng trong tánh của chúng ta.
“Sát trần đồng danh”: Kim Cang Tạng Bồ Tát nói Thập Địa
xong, mỗi phương trong mười phương đều
có mười Phật sát trần Bồ Tát, cùng có tên là Kim
Cang Tạng, từ chỗ Kim Cang Tràng Phật đến làm
chứng, biểu thị hành pháp thuộc toàn thể Thập Địa [ở nơi đây] “mười
phương cùng một đạo”, đều là cái quả nơi trí địa, dẹp
tan hết thảy, mà tự thể bất động (phẩm
này gồm sáu quyển).
3.2.2.6. Thập Nhất Địa
Thập Nhất
Địa chính là địa vị Đẳng Giác, do
vượt trỗi Thập Địa, nên gọi là Thập
Nhất Địa, tức một phẩm được
nói trong hội thứ bảy tại Tam Thiền Thiên. Do
Sơ Thiền ly ưu, Nhị Thiền diệt khổ, Tam
Thiền chỉ có niềm vui mầu nhiệm là pháp duyệt
(法悅, niềm hỷ duyệt nơi pháp). Nương vào
chỗ này để nói Thập Nhất Địa, biểu
thị công tấn tu đă thành, vượt ĺa các nỗi khổ,
thường hưởng pháp lạc. Phẩm này có tên là Phật
Hoa, kinh văn của phẩm này chưa được truyền
đến [Trung Hoa]. Nói là “Phật Hoa”, tức là vừa mới dự lên Phật địa,
quả hạnh chưa măn; bởi lẽ, hoa là đối với
quả mà nói. V́ thế, kế tiếp phẩm này, bèn nói các
hạnh thuộc về Phật quả (phần kinh văn tiếng Phạn
của phẩm này chưa được truyền sang [Trung Hoa]).
Ước theo
ngũ vị cho đến chỗ này, để trả lời
những câu hỏi trong phần trước th́:
Phần Thập Trụ nhằm đáp câu hỏi về trí
hải của Bồ Tát, phần Thập Hạnh nhằm
trả lời câu hỏi về hạnh hải của Bồ
Tát, phần Thập Hướng trả lời câu hỏi về
thệ nguyện hải của Bồ Tát, phần Thập
Địa là trả lời câu hỏi về địa hải
(biển địa vị) của Bồ Tát, phần Thập
Nhất Địa nhằm trả lời câu hỏi về
xuất ly hải (biển xuất
ly) của Bồ Tát. Đó là nói tới các biển Bồ Tát Ba La Mật, Bồ Tát thần
thông, Bồ Tát thừa, Bồ Tát trợ đạo v.v… . đều
trọn đủ ở đây.
Kế đó, từ
phẩm Thập Định cho tới phẩm Thọ
Lượng, phẩm Bất Tư Nghị, phẩm Phổ
Hiền Hạnh, gồm mười một phẩm, đều
nhằm trả lời [các câu hỏi về] biển thọ
lượng, biển biến hóa, biển giải thoát của
Phật, những điều được giải
đáp đă trọn hết. Sau đó là phẩm Nhập
Pháp Giới nhằm phô bày trọn vẹn, khuyên dụ lần nữa về
nhân quả của ngũ vị, tức là ba mươi bảy
phần trả lời đều dựa theo [những câu hỏi]
trong phần trước để phô bày trọn vẹn,
khuyên dụ lần nữa vậy.
Nói đến
pháp thuộc ngũ vị th́ khởi đầu tại
Đao Lợi, kết thúc tại Tam Thiền, chư thiên tiếp
đăi đức Phật, thoạt đầu là xếp
đặt pháp ṭa, cuối cùng là bày biện pháp ṭa. Do trụ
chỗ Phật trụ, mà cũng chẳng ĺa chỗ trụ
ấy. V́ thế, pháp Thập Trụ ở trong Địa
Cư Thiên, nói tại Đao Lợi, pháp ṭa được
xếp đặt, chưa đến mức biến hóa. Các hạnh thuộc Thập Hạnh
đều là thật, vượt trỗi, dứt
bặt thế tục. Do vậy, pháp Thập Hạnh
được nói tại trời Dạ Ma thuộc Không
Cư Thiên, pháp ṭa được biến hóa, nhưng
chưa đến mức trải ṭa, thật sự là tự
lợi, chẳng nhằm lợi tha. Biến hóa th́ phải
dựa vào hư không, do chẳng nhằm nhập Hữu, ắt
cần phải hồi Chân nhập Tục, vận dụng
Trí hành Bi, khiến cho trên là có thể vượt thoát dục
cảnh, dưới là có thể giống như muôn vật. Do đó, [pháp Thập Hồi Hướng]
được nói tại trời Đâu Suất thuộc tầng
trời thứ năm, pháp ṭa được trải rộng, không chỉ là có thể xếp đặt, có thể
biến hóa mà thôi. Từ đấy, chất chứa
công hạnh thành thật, rộng răi như đất, diệu dụng phát
khởi, vượt trỗi, chẳng nương theo thứ
tự. Do vậy, pháp Thập Địa vượt khỏi trời Hóa Lạc, nói tại Tha Hóa Thiên. Vượt
khỏi địa vị này, sẽ dự vào
địa vị Đẳng Giác, vượt thoát hẳn
khỏi các nỗi khổ, thường hưởng pháp lạc. Do vậy,
Thập Nhất Địa vượt khỏi Nhị Thiền,
nói trong Tam Thiền Thiên. Điều này biểu thị: Ngôn
từ và ư nghĩa một chữ chẳng giả, công hạnh
ngũ vị đă viên măn, Phật quả hiện tiền.
Luận phán định
phần này thuộc địa vị Đẳng Giác. Do các
địa vị Trụ, Hạnh, Hướng, Địa
chia thành hiền và thánh, hạnh có cạn hay sâu, công chưa viên măn, nên
giác chưa b́nh đẳng. Tuy nói là Đăng Địa,
mà là Bồ Tát quả, chẳng phải là Phật quả.
Bao gồm cả bốn pháp trước, tiến nhập
địa vị này, th́ mới viên măn, mới b́nh đẳng,
cho nên có thể đạt được Phật quả. Kế
đó, kinh nói tới quả vị Phật.
3.2.2.7. Phật Quả Hạnh
Phật Quả Hạnh
là địa vị Diệu Giác. Từ Thập Tín là cái nhân
ban đầu, trải qua pháp ngũ vị, tu tập, đối
trị tập khí phiền hoặc. Tập khí đă hết,
trí sáng suốt, bèn nương vào hạnh này để thành
Phật quả, tức là hội thứ tám được
nói tại Phổ Quang Điện, bao gồm
mười một phẩm, tức là các phẩm Thập
Định, Thập Thông, Thập Nhẫn, A Tăng Kỳ,
Như Lai Thọ Lượng, Bồ Tát Trụ Xứ, Bất
Tư Nghị Pháp, Thập Thân Tướng Hải, Tùy Hảo
Công Đức, Phổ Hiền Hạnh và Như Lai Xuất
Hiện. Ngài Thanh Lương bảo sáu phẩm trước
nhằm nói “cái nhân Đẳng Giác đă viên măn”, năm phẩm
sau là “cái quả Diệu Giác đă măn”.
Nhân hạnh của
Thập Tín và quả hạnh này đều nương vào Phổ
Quang Điện để nói, chỉ rơ: Tu Hoa Nghiêm hạnh,
thoạt đầu nương vào bổn trí Phổ Quang
để dấy lên ḷng tin, lần lượt thăng tấn qua các địa vị, cho tới
khi hạnh trọn khắp, quả viên măn, chưa hề
ĺa khỏi bổn trí. Đây chính là nhân và quả chẳng dời,
Bổn Giác và Thỉ Giác chẳng hai, ba đời một
niệm, thoạt đầu và cuối cùng chẳng chuyển dời, tương ứng với Phật trí bất
động mà chứng cực quả pháp giới bất
sanh bất diệt. Đấy thật sự là ư chỉ chánh
yếu của kinh Hoa Nghiêm vậy.
3.2.2.7.1. Phẩm Thập Định
Phẩm Thập
Định (十定) chỉ bày trí thể căn bản mà Phật và
chúng sanh cùng có, là nguồn cội của Tịch và Dụng,
chỉ có quả Phật mới có thể thấu hiểu
tận cùng sự diệu kỳ ấy. Đức dụng
không bờ bến, do ngụ ư hiển lộ viên dung mà nói
thành mười thứ:
1) Phổ Quang
Đại Định.
2) Diệu Quang
Đại Định.
3) Biến Văng Phật
Quốc Đại Định (đại định
đến trọn khắp các cơi Phật).
4) Thanh Tịnh Thâm
Tâm Đại Định.
5) Tri Quá Khứ Trang
Nghiêm Tạng Đại Định.
6) Trí Quang Minh Tạng
Đại Định.
7) Liễu Nhất
Thiết Phật Trang Nghiêm Đại Định.
8) Chúng Sanh Sai Biệt
Thân Đại Định.
9) Pháp Giới Tự
Tại Đại Định.
10) Vô Ngại Luân
Đại Định.
Nói tới Thập Định, đại thể nơi Tịch và Dụng của
chư Phật xưa nay tự tại trọn khắp. V́
thế, dung ḥa ngũ vị, thành một pháp thể, không có
khởi đầu, chẳng có kết
thúc, chẳng dời, chẳng động, “một,
nhiều, thuần, tạp, giống, khác” tự
tại. V́ thế, đức Phật nói ra danh xưng của
Thập Định; trước tiên, tại Phổ Quang
Điện, Ngài nhập sát-na tế tam-muội nhằm chỉ rơ cái Thể của môn Định này hoàn toàn là cái Thể
của trí Phổ Quang, chẳng c̣n có các tướng “xưa,
nay, kéo dài, rút ngắn, đầu, cuối, dời, động” v.v… đều
là đốn viên (nhanh chóng trọn vẹn) trong khoảng khảy
ngón tay. V́ thế nói là sát-na tế tam-muội (剎那際三昧, tam-muội trong khoảng một sát-na).
Đạt
được môn tam-muội ấy, sẽ đều có thể
đồng hạnh với đức Tỳ Lô [Xá Na Như Lai], Tịch và Dụng tự tại. Đấy chính
là cái Thể của bổn trí mà chúng sanh và Phật đều
cùng có, là nguồn cội của Tịch và Dụng vậy.
Trong phẩm này, đức Phật tự nói danh xưng của
Thập Định, sai ngài Phổ Hiền nói về Dụng
của Thập Định, nhằm chỉ rơ: Phật là
trí thể căn bản, Phổ Hiền là tác dụng của Sai Biệt Trí. Hai đằng giúp lẫn nhau, Tịch và Dụng bèn
có thể tự tại.
Trong đại chúng
có một trăm vị, ba mươi vị đầu danh
hiệu cùng có chữ Huệ, bảy mươi vị sau mỗi
vị đều khác tên. Luận cho rằng ba mươi vị
nhằm biểu thị sự giải thoát, bảy
mươi vị nhằm biểu thị bảy giác hạnh, ư nói: Các vị Bồ
Tát ấy nương vào Tam Giải
Thoát Huệ (Văn, Tư,
Tu), hành Thất Giác Hạnh[28] để
giác ngộ và lợi lạc quần sanh. Huệ của các
ngài tương đồng, mà hạnh khác nhau. Như Tam
Không (Ngă Không, Pháp Không,
Ngă Pháp Câu Không), Thất Giác là
sơ hạnh để tấn tu, được thực
hiện nơi quả vị. Đấy là hạnh của
bậc thánh nhân đă hạ ḿnh cho giống với chúng sanh. Do vậy, phẩm này đă chép: Ma-ni châu
vương có thể tùy theo ḷng mong cầu mà
có cùng màu sắc với các vật, nhưng chẳng đánh
mất đặc tánh của viên châu ấy. Ví như bậc
đă đắc quả bảo vương, tùy thuận
căn cơ mà lợi sanh, thuận theo căn cơ để
[thị hiện] giống như muôn loài, nhưng chẳng đánh
mất phẩm đức nơi cái quả của chính ḿnh
vậy (phẩm này gồm bốn quyển).
3.2.2.7.2. Phẩm Thập Thông
Phẩm Thập
Thông (十通) là nói từ Định khởi tác dụng thành
mười loại trí thông:
1) Tha Tâm Thông.
2) Thiên Nhăn Thông.
3) Túc Mạng.
4) Tri Vị Lai
(biết tương lai).
5) Thiên Nhĩ.
6) Văng Nhất Thiết
Sát (đến hết thảy các cơi).
7) Thiện Sai Biệt
Ngôn (khéo phân định các ngôn từ sai khác).
8) Vô Số Sắc
Thân.
9) Đạt Nhất
Thiết Pháp (đạt hết thảy các pháp).
10) Nhập Nhất
Thiết Diệt Tận Tam Muội.
Đây chính là triển
khai Lục Thông thành Thập Thông. [Các thông như] Thiên Nhăn,
Thiên Nhĩ, Thần Túc và Lậu Tận mỗi món đều được tách thành hai, c̣n Tha Tâm và
Túc Mạng chẳng tách ra. Thiên Nhăn tức món thông thứ
hai và thứ tư, món thứ hai ước theo hiện tại,
món thứ tư ước theo tương lai. Thiên Nhĩ là
món thứ năm và thứ bảy, món thứ năm là ước
theo khéo nghe, c̣n món thứ bảy là ước theo khéo phân biệt.
Thần Túc là món Thông thứ sáu và thứ tám, món thứ sáu
nói theo lực dụng, c̣n món thứ tám nói theo sự hiện
thân. Lậu Tận là món thứ chín và thứ mười,
món thứ chín nói theo Lậu Tận trong trí, c̣n món thứ
mười là Lậu Tận trong Định. Những món
này đều lấy đại trí vô
chướng ngại làm Thể, hàng tiểu thánh chẳng
thể bằng được! Phẩm này kế tiếp phẩm
Thập Định ḥng giảng về chuyện từ
Định khởi Dụng; do đó có mười loại
trí thông này.
3.2.2.7.3. Phẩm Thập Nhẫn
Phẩm Thập
Nhẫn (十忍) chỉ bày phương tiện nhiếp hóa, tùy hành
pháp nhẫn. Quả hạnh đến đây đă viên măn,
do Thông mà thành tựu Nhẫn, quả hạnh viên măn, rốt
cuộc b́nh đẳng. Luận chép: “Trước khi đạt đến Thập Địa,
do Nhẫn mà thành tựu Thông. Sau khi đă đạt tới
Thập Nhất Địa, sẽ do Thông mà thành Nhẫn. Trong
những quả vị trước đó, Phục Nhẫn
là tùy theo từng địa vị mà tấn tu, c̣n ở
đây chính là Pháp Nhẫn tùy hạnh lợi sanh. Quả hạnh
đến đây th́ Phổ Hiền Hạnh đă măn, thuần
là Diệu Giác Như Lai, nhưng chẳng xả
phương tiện của Bồ Tát. V́ thế nói là quả
hạnh hoàn thành viên măn”.
Hạnh của bậc
Diệu Giác Bồ Tát chính là Pháp Nhẫn. Kinh chép: Bồ Tát
có Như Hưởng Nhẫn, Như Ảnh Nhẫn,
Như Hóa Như Không v.v… mười thứ Nhẫn, tức
là dựa theo từng sự việc lợi lạc chúng sanh [mà có danh xưng khác biệt], chứ thật ra
chẳng có giống hay khác! Ví như tiếng vang từ
trong hang, theo duyên mà dấy lên, chẳng trái nghịch, chẳng
xen tạp đối với Pháp Tánh. Lại như ánh nắng
mặt trời soi bóng trong hết thảy, ở trong dầu
mà chẳng phải là dầu, ở trong nước mà chẳng
phải là nước, nơi sông chẳng trôi, nơi giếng
chẳng ch́m, cùng là một Thể chẳng khác biệt, mà
có đây, kia, chẳng thuận theo muôn vật mà có gần hay xa.
Trong pháp Vô Nhị, Bồ Tát phân biệt hai tướng,
khéo léo thông đạt, tùy hạnh Pháp Nhẫn đều là
như thế đó. Mấy phẩm này trước sau không
nêu ra danh hiệu Bồ Tát, bèn dựa theo ư kinh để bổ
sung [ư nghĩa khi giảng giải] (phẩm này và phẩm Thập
Thông trước đó gộp thành một quyển).
3.2.2.7.4. Phẩm A Tăng Kỳ
Phẩm A Tăng
Kỳ (阿僧祇) và phẩm Tùy Hảo Công Đức (隨好功德) nói
về hai pháp ngu do mê mất Phật quả, tức là cái
ngu đối với cách tính toán rộng lớn và cái ngu
đối với tùy hảo công đức. Chỉ có đức
Phật hiểu thấu suốt hai chuyện này, hàng Bồ
Tát vẫn c̣n ngu đối với hai chuyện ấy. V́ thế,
trong bốn mươi phẩm
kinh, chỉ có hai phẩm này là do đức Phật tự
nói, những phẩm khác đều do hàng Bồ Tát thuộc
từng địa vị nói. Do vậy, nói rơ về
sự tính toán rộng lớn ḥng phô bày Phật đức
(佛德, phẩm đức của Phật) chẳng thể
dùng số lượng để nêu trọn hết
được. V́ thế, trong phần Trường Hàng,
đă biện định con số Vô Lượng có thể
tính đếm; trong phần Kệ Tụng, biện định
đức năng được tính đếm vô biên.
Như vậy th́ phẩm A Tăng Kỳ nói về trọn
khắp hết thảy các con số, phẩm [Như Lai] Thọ
Lượng nhằm nói cùng tột hết thảy các thời.
Phẩm [Bồ Tát] Trụ Xứ là nói trọn khắp hết
thảy các chỗ.
Luận về A
Tăng Kỳ (Asaṃkhyeya), cơi này dịch là Vô Số. Những con số
được nói trong phẩm này đều là chẳng có
cách nào tính toán, chẳng có cách nào diễn tả, nhưng
kinh nói: “Như thế ba đời
chẳng có ngằn mé, hết thảy Bồ Tát đều
hiện rơ ràng”. Phẩm này và phẩm Tùy Hảo Công Đức
đều nói đến hai pháp nơi Phật quả [mà những
ai chưa chứng đắc Phật quả] sẽ đều
ngu tối, [chẳng thể lănh hội hai pháp ấy]. Bồ
Tát c̣n ngu nơi hai pháp ấy, chỉ có Phật hiểu thấu
đáo. V́ thế, nói là “Phật địa pháp môn” (pháp môn thuộc vào địa vị
Phật). Phẩm này do Tâm Vương Bồ Tát thưa hỏi,
phát khởi. Từ đây cho đến phẩm Như Lai
Xuất Hiện, đă nói rơ ba nghiệp và hai trí rộng lớn
tự tại nơi Phật quả. Đấy
chính là do Thông mà thành tựu Nhẫn. Tâm nghiệp
rộng lớn, tự tại như vua. V́
thế, nhờ vào Tâm Vương Bồ Tát để khởi
xướng vậy.
3.2.2.7.5. Phẩm Như Lai Thọ Lượng
Kế đó, phẩm
Như Lai Thọ Lượng (如來壽量) nói về Thật Báo nơi địa vị Phật.
Thọ mạng xứng tánh, cùng tột
thời gian vô tận trong sát hải (biển các cơi Phật),
[phẩm này chỉ] nêu ra vài cơi Phật để biểu
thị. Tán thán rằng: “Dĩ
nhật đẳng kiếp, vô diệt, vô sanh” (Coi một
ngày bằng với cả kiếp, vô diệt, vô sanh) v.v…
Kinh chép: Khi ấy, Tâm Vương Bồ
Tát bảo đại chúng rằng: “Một kiếp trong thế giới Sa Bà này, tức
cơi của Phật Thích Ca, là một ngày một đêm trong
thế giới Cực Lạc là cơi của Phật Di
Đà. Một kiếp trong Cực Lạc là một ngày một
đêm trong thế giới Ca Sa Tràng là cơi của Kim Cang Kiên
Phật”. Nêu ra mười thế giới như thế,
cứ mỗi kiếp trong thế giới trước sẽ
là một ngày một đêm trong thế giới sau. Kinh nói lần
lượt như thế hơn một trăm vạn
A-tăng-kỳ thế giới. Trong thế giới cuối
cùng, cũng giống như trong những thế giới
trước, một kiếp trong [cơi trước] là một
ngày một đêm trong thế giới cuối cùng. Các vị
Bồ Tát có hạnh giống như Phổ Hiền Bồ Tát
đầy ắp trong ấy, có nghĩa là nơi Thật
Báo trong địa vị Phật, thọ mạng xứng
tánh vô tận, trí căn bản vô sanh diệt. Đây là do
tâm nghiệp rộng lớn tự tại, khiến cho mạng
nghiệp rộng lớn tự tại.
3.2.2.7.6. Phẩm Bồ Tát Trụ Xứ
Kế đó, phẩm
Bồ Tát Trụ Xứ (菩薩住處) chỉ rơ: Không phương nào chẳng nhiếp thọ,
hóa độ, chẳng xả thế gian. V́ thế, nêu ra
tám phương, dù là núi hay biển đều có bậc
thánh cư trụ, không nơi nào chẳng trọn khắp.
Tán thán rằng: “Không
phương nào chẳng nhiếp thọ, hóa độ”…
Khi ấy, Tâm Vương Bồ Tát bảo đại chúng rằng:
Phương Đông có chỗ gọi là núi Tiên Nhân, từ
xưa các vị Bồ Tát ở trong nơi ấy. Hiện
tại đang có Bồ Tát tên là Kim Cang Thắng cùng với
các vị Bồ Tát thường thuyết pháp tại
đó. Phương Nam có chỗ tên là núi Thắng Phong,
phương Tây có chỗ tên là núi Kim Diễm, cho đến
núi Hương Tích ở phương Bắc, núi Thanh
Lương ở phương Đông Bắc, núi Kim Cang ở
trong biển, núi Chi Đề ở phương Đông Nam,
núi Quang Minh ở phương Tây Nam, núi Hương Phong ở
Tây Bắc, tính ra là chín chỗ, đều giống như
đă nêu trên đây. Sau đấy, Ngài lại nói rộng
thành hai mươi hai chỗ. Chỉ có chín chỗ ấy là
có [nêu ra] danh hiệu Bồ Tát. Đấy là kể đại
lược theo một Diêm Phù Đề mà thôi, trụ xứ
của Bồ Tát thật sự trọn khắp pháp giới,
chẳng có nơi chốn. Luận chép: “Điều này nhằm nói về hạnh của Phật,
Bồ Tát là tuyên dương, giáo hóa trọn khắp, thường
thực hiện chẳng ngưng dứt, chẳng xả thế
gian”. Đây là do mạng nghiệp rộng lớn, tự
tại, khiến cho hạnh nghiệp to rộng, tự tại.
Mạng nghiệp và hạnh nghiệp đều lấy tâm
làm gốc. V́ thế, [những điều này] đều
do Tâm Vương Bồ Tát nói ra. Núi Thanh Lương chính là
núi Ngũ Đài hiện thời (phẩm này và hai phẩm
trước gộp thành một quyển).
3.2.2.7.7. Phẩm Phật Bất Tư Nghị
Kế đó, phẩm Phật Bất Tư Nghị (佛不思議) nói
về trí đức trong quả pháp của Phật, sâu rộng,
vượt trỗi, chẳng do thức t́nh, suy nghĩ, bàn
luận mà ḥng thấu đạt được. Tán thán rằng:
“Tác dụng chẳng nghĩ bàn
của Căn Bản Trí” v.v… Trước
hết, nói về những chuyện nhiếp thọ và hóa
độ trong hạnh của Phật, Bồ Tát, chỉ rơ
trí Phật có thể biến hóa chẳng thể nghĩ bàn,
chẳng thể dùng t́nh, thức, danh từ, ngôn ngữ mà
ḥng thấu đạt được. Phẩm này do thần lực
của đức Phật gia tŕ Thanh Liên Hoa Tạng Bồ
Tát diễn nói. Luận chép: “Thanh
Liên Hoa Tạng biểu thị bổn trí chẳng nhiễm,
có Sai Biệt Trí”. Luận lại nói, Liên Hoa Tạng biểu
thị Bổn Trí và Biệt Trí hai đằng thành tựu lẫn
nhau, nhằm hiển thị diệu dụng chẳng thể
nghĩ bàn của vị Phật trong tâm. Đấy chính là
sự tự tại rộng lớn của hai trí vậy
(phẩm này gồm hai quyển).
3.2.2.7.8.
Phẩm Thập Thân Tướng Hải
Kế đó, phẩm
Thập Thân Tướng Hải (十身相海) minh thị đại trí nhiếp
thọ, giáo hóa, cảm vời chánh báo có mười loại
thân, tức là Bồ Đề thân, nguyện thân, hóa thân, lực
tŕ thân, tướng hảo thân, oai thế thân, ư sanh thân,
phước đức thân, trí thân, và pháp
thân. Lại có mười Hoa Tạng thế giới hải
vi trần số tướng trang nghiêm. V́ thế, gọi
là Thập Thân Tướng Hải.
[Kinh luận] thường
nói “ba mươi hai tướng”, đấy chính là Hóa Thân.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói “tám vạn bốn
ngàn tướng”, đấy chính là Báo Thân. Nay [nói đến]
mười Hoa Tạng vi trần số tướng, chính
là Pháp Thân. Tán rằng: “Trí vạn đức trang nghiêm chẳng nghĩ bàn”…
Kinh nêu ra chín
mươi bảy tướng đại nhân, c̣n như mười
Hoa Tạng hải vi trần số thân tướng được gọi là “thập thân tướng hải, vạn đức
trang nghiêm”.
Luận chép: “Trong phần
trước nói đến tác dụng chẳng thể
nghĩ bàn của tâm Phật nhị trí, phần này là nói về quả báo chẳng thể nghĩ bàn của tâm Phật
nhị trí. V́ thế, gọi là quả Phật thanh tịnh
trí chẳng thể nghĩ bàn”.
3.2.2.7.9. Phẩm Tùy Hảo Công Đức
Kế đó, phẩm
Tùy Hảo Công Đức (隨好功德) chỉ rơ, thuận theo các tướng nhiều
như số vi trần, mà có các hảo nhiều như số
vi trần. “Tướng” (相) là nói h́nh trạng, c̣n “hảo” (好) là nói đến vẻ đẹp của tướng.
Trong mỗi hảo, có nhiều quang minh có thể thanh tịnh
vô biên cơi, [khiến cho chúng sanh] thoát khỏi tội Vô Gián,
công đức khó thể nghĩ tưởng! Tán rằng: “Quang tướng trang nghiêm bất tư nghị hạnh” (Tướng quang minh trang nghiêm, hạnh chẳng thể nghĩ bàn) v.v…
Kinh chép:
Như Lai có tùy hảo tên là Viên Măn Vương, phóng đại quang minh tên là Thanh Tịnh Công Đức có thể
chiếu các cơi số nhiều như vi trần, tùy theo các hạnh
nghiệp và sự ưa thích của chúng sanh, đều khiến
cho thành tựu. Do chánh trí thuận theo hạnh mà phá các
chướng năo, cho nên thành quang minh này để tự
trang nghiêm thân, và cũng dùng để trang nghiêm chúng sanh. V́
thế nói là Tùy Hảo Trang Nghiêm. “Tùy hảo” (隨好) là sự tốt đẹp tùy thuộc h́nh tướng.
Trong phần trên
là nói về trí báo (智報, quả
báo của trí huệ) mà thành tướng đại nhân, ở
đây nói về hạnh báo (行報, quả
báo do hạnh cảm vời) mà thành tùy hảo tướng.
Do vậy, nói là “bất tư nghị hạnh thanh
tịnh quả Phật”. Hai
phẩm này đă nêu chung các pháp về quả báo của ba
nghiệp và hai trí rộng lớn, tự tại. Trong phẩm
này, [đức Thế Tôn] sai Bảo Thủ Bồ Tát nói,
nhằm biểu thị: Tánh quang của Pháp Thân tùy thuận
hạnh để tiếp dẫn. Hai thánh hiệu[29] kế
đó là chuyện được tường thuật trong
phẩm này (Phẩm này và phẩm Thập Thân Tướng Hải
trên đây hợp thành một quyển).
3.2.2.7.10. Phẩm Phổ Hiền Hạnh
Tiếp đó, phẩm
Phổ Hiền Hạnh (普賢行) nói về biển hạnh của Phật, dung hội
trí môn trong phần trước, rộng thực hiện lợi
hạnh (利行, hạnh lợi lạc chúng sanh). Tán rằng: “Dung tiền trí môn” (Dung thông
trí môn trong phần trước) v.v… Phẩm này nói rộng về
hạnh pháp Phổ Hiền, dung hội quả trí trong phần
trên, dùng bát trần để lợi
lạc chúng sanh. Chư Phật cùng hành quả hạnh của
Như Lai cho đến chỗ này là tột bậc. V́ thế,
kế đến sẽ nói phẩm Như Lai Xuất Hiện
rồi nhắc đến Phổ Tràng Phật. [Kinh chép]: Lúc bấy giờ, ngài Phổ Hiền nói pháp này xong, mười
phương sát trần Bồ Tát cùng tên Phổ Hiền, mỗi
vị đều từ thế giới Phổ Thắng là
cơi của Phổ Tràng Tự Tại Phật, đến cơi
này làm chứng, biểu thị Thể và Dụng nơi Phổ
Hiền Hạnh của chư Phật. Ứng xử khiêm
nhu là Phổ Thắng, dẹp tan Tự lẫn Tha là Phổ
Tràng. Lư trí bi nguyện trọn đủ tùy duyên là tự tại,
thăng tấn địa vị tột cùng, ngầm tạo
đạo này. Đấy chính là “đến
cơi này”. “Làm chứng như thế” nhằm biểu thị
Phổ Hiền hạnh của Phật trọn khắp hết
thảy mọi nơi, mười phương có cùng một
đạo, chẳng hai, vô tận (phẩm này gồm một
quyển).
3.2.2.7.11. Phẩm Như Lai Xuất Hiện
Kế đến
là phẩm Như Lai Xuất Hiện (如來出現). Trước hết, Như Lai Tánh Khởi Diệu
Đức Bồ Tát (如來性起妙德菩薩) chính là một danh hiệu khác của vị đứng
đầu về Tín, tức Văn Thù. Ở đây, Ngài thỉnh
vấn về pháp Như Lai Xuất Hiện, chỉ rơ: Từ Thập Tín nương theo
trí để tấn tu, đến chỗ này th́ trí hạnh
và bi hạnh thế gian lẫn xuất thế gian đă măn, tức là bổn trí Như Lai từ tự tánh
dấy khởi, diệu đức trọn đủ. V́ thế,
dùng Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức Bồ Tát để
thưa hỏi về pháp Như Lai Xuất Hiện. Phẩm
này cùng phẩm trước là ḥa hợp
ba nghiệp và hai trí thành công rộng lớn, tự tại.
Lại tán rằng: “Tự tánh
Như Lai pháp vũ sở nhuận” (Được pháp vũ từ tự tánh Như Lai nhuần thấm) v.v…
Kinh nói đức
Như Lai xuất hiện, có mười
loại tướng lợi hạnh vô lượng. Cho
đến tướng thứ mười, tức là tướng
âm thanh, bèn nói như sau: “Như
Lai muốn dùng chánh pháp để giáo hóa
chúng sanh, trước hết vây bủa thân vân (身雲, mây thân thể) che rợp pháp giới, thị hiện
đủ loại quang minh và tia chớp, xuất sanh vô
lượng tiếng sấm tam-muội. Từ vô ngại
bi tâm, dấy lên đại trí phong luân. Sau đấy, từ
nơi mây Pháp Thân, tuôn rộng răi các thứ mưa pháp.
Đó gọi là v́ bậc Bồ Tát ngồi đạo tràng (thành
Chánh Giác) mà tuôn pháp vũ pháp giới chẳng sai biệt, v́ vị Bồ Tát nơi thân cuối cùng (Nhất Sanh Bổ Xứ) mà tuôn mưa giáo pháp du hư bí mật của Như Lai, cho
đến v́ người cầu Độc Giác Thừa mà tuôn mưa pháp ‘biết sâu xa duyên khởi, rời
ĺa hai bên, chẳng hoại giải thoát’. V́ người cầu Thanh Văn Thừa, tuôn pháp vũ ‘dùng gươm trí huệ đoạn
phiền năo oán”. Những
điều khác chẳng thể kể trọn, đều
nói rơ tự tánh Như Lai công viên măn, trí hiện tiền, hạnh
lợi sanh vô tác, vô hạn tự tại.
Kế đến
là hai loại đại chúng được thọ kư thành
Phật. Phổ Hiền Bồ Tát nói pháp Như Lai Xuất Hiện
xong, mười phương sát trần Như Lai cùng có tên
là Phổ Hiền đến làm chứng, lại nói lời
này: “Nay trong hội này, mười
phương sát trần Bồ Tát đă đắc hết
thảy thần thông và tam-muội của Bồ Tát, ta đều
thọ kư họ trong một đời sẽ đắc Bồ
Đề. Lại có sát trần chúng sanh phát Bồ Đề
tâm, ta cũng thọ kư họ trong tương lai qua khỏi
bất khả thuyết sát trần số kiếp, đều
được thành Phật, có danh hiệu là Thù Thắng Cảnh
Giới”. Điều nhằm nêu rơ: Chính ḿnh đă tu hành
đắc quả, nay những đại chúng được
hóa độ cũng sẽ đắc quả. Đối với
hàng Bồ Tát bèn nói là “một
đời” v́ các Ngài căn cơ đă chín muồi, dễ
dàng thông đạt, vượt trỗi. Đối với
chúng sanh bèn nói là “trần kiếp”
(塵劫, số kiếp nhiều như vi trần) là v́ họ
tích lũy mê muội đă lâu, khó thể thông đạt
vượt trỗi! Đó là đặc biệt nói theo
căn cơ. Trong Thật Tánh, xưa nay là cùng một thời,
ba đời là trong cùng một niệm; v́ thế, nhanh chóng chứng
trong một sát-na.
Lại do sát-na
tam-muội, hiển lộ biển chánh trí huệ của Như Lai, tức là cái mê trong vô biên kiếp sẽ bị
nhanh chóng diệt trừ ngay lập tức; đó là “trải qua bất khả thuyết kiếp, đều
được thành Phật, hiệu là Thù Thắng Cảnh
Giới”, v́
đă vượt khỏi cái cảnh so đo trong t́nh thức.
Khởi đầu
là ngài Văn Thù phát khởi tín tâm, [lần lượt] trải qua các địa vị mà tấn tu cho đến
Đệ Thập Nhất Địa, Phật quả
đă thành. Lại nữa, vốn sẵn có Định Thể,
từ Định khởi tác dụng, thuận theo hạnh
mà thành tựu Nhẫn, thông đạt nhị ngu[30], hưởng
tuổi thọ của Thật Báo, nhiếp thọ và hóa độ chẳng ngằn
mé, chẳng xả thế gian, thành
tựu trí chẳng nghĩ tưởng, đạt được
quả báo thập thân. Lại dùng đại hạnh Phổ
Hiền để tạo lợi ích viên dung, rộng lớn.
Đấy chính là phẩm đức của tự tánh
Như Lai. Do vậy, nói rơ tột cùng: Xưa kia bị vọng
che lấp, đến đây mới hiển hiện.
V́ thế, nói
đến cuối cùng, phẩm Như Lai Xuất Hiện
đă bao gồm chung cả quả lẫn hạnh, lại
nói phẩm Ly Thế Gian, nhằm chỉ rơ thường
đạo lợi lạc chúng sanh sau khi đă đắc quả.
Phẩm này cũng liên thuộc phần Thiết Pháp Trị Tập Tu Chứng (lập phương pháp để đối trị tập khí, tu chứng). Phẩm
này gồm ba quyển.
Ngài Thanh
Lương phán định ba mươi mốt phẩm trên
đây thuộc phần Tu Nhân Khế Quả Sanh Giải (修因契果生解, tu nhân, khế nhập quả, sanh sự giải
ngộ), phẩm Ly Thế Gian là phần Thác Pháp Tấn Tu Thành Hạnh (托法進修成行, cậy vào pháp tấn tu để thành tựu hạnh). Từ trên cho đến chỗ
này đă giải thích xong đệ nhị châu.
3.2.3. Đệ Tam Châu
Đệ tam châu chính là phẩm Nhập Pháp
Giới (入法界) trong hội thứ mười. Thiện
Tài (Sudhanakumâra, 善財) đi về phương Nam, [nội dung của phẩm
này nhằm] nhắc lại nhân quả
của ngũ vị, đấy là phần Khử Ngôn Y Hạnh
Viên Chương Pháp Giới (去言依行圓彰法界, bỏ ngôn từ, nương vào hạnh để
phô bày trọn vẹn pháp giới). Các phần trước
là diễn tả, chỉ dạy pháp môn, phần này là [thực hiện để] mong [thính chúng] sẽ thấu hiểu, hành theo. V́ thế,
nương vào [những cuộc tham học của] Thiện
Tài nhằm khuyên lơn, nhắc lại [những giáo
nghĩa trong phần trước]. Lại do công tu trong phần
trước đă hoàn tất, bèn quên sạch ngôn từ, chứng
nhập pháp môn này. V́ thế, gọi là Khử Ngôn Y Hạnh.
Kinh văn trong phẩm
này là từ cái nhân mà suy rộng ra, được tỏ lộ
qua việc Thiện Tài đi qua một
trăm ṭa thành, từ nơi cái quả của chính ḿnh mà
suy xét; v́ thế, chỉ bày lầu gác của đức Di
Lặc. Hạnh môn trong ngũ vị, pháp giới, lư, sự,
đều tận mắt được thấy trọn hết,
đấy là Viên Chương Pháp Giới (圓彰法界, phô
bày trọn vẹn pháp giới). Do nương vào đây
để chứng nhập, nên gọi là phẩm Nhập
Pháp Giới, tức là những điều được
nói cuối cùng tại Thệ Đa Lâm Cấp Cô Viên (Kỳ Thụ Cấp Cô Độc
Viên). Lâm viên ấy ở tại Tây Vực thuộc nhân gian. Nói phẩm Nhập Pháp
Giới tại đó, nhằm dạy “chẳng ĺa nhân gian chính là Phật pháp giới”.
Đại chúng nhóm họp trong hội pháp giới đều
ngầm thị hiện thần thông biến hóa nhằm phô
rơ quả hạnh. Đại chúng trong hội
do được chỉ dạy ngầm như vậy,
cũng đều ngấm ngầm đắc tam-muội.
Đấy chính là nghĩa Khử Ngôn Y Hạnh (去言依行, đoạn
tuyệt nói năng, nương theo hạnh). Bởi lẽ,
hễ c̣n trầm trệ nơi nói năng th́ rốt cuộc
sẽ mê nơi pháp đă chứng; nếu
không có hạnh, rốt cuộc sẽ trở thành cuồng
giải.
V́ thế, cuối
cùng lập riêng pháp môn “bỏ
nói năng, nương vào hạnh”. Cậy vào chuyện
Thiện Tài đi về phương Nam để trở về
địa vị, chẳng phế bỏ sự tấn tu.
Lập ra pháp, đặt để khuôn mẫu, khiến
cho mọi người phỏng theo, đó gọi là Đạo
Hậu, có thể chánh đáng tu hành, an ổn xuôi gịng mà vào
biển trang nghiêm mầu nhiệm của Phật pháp giới.
Nhưng kẻ mê hoặc, cứ chấp suông tên gọi Khử
Ngôn (去言, bỏ
đi lời nói), mê lầm nơi sự thật “nương theo hạnh”, bèn
cho rằng “dứt bỏ sự học, không làm ǵ” là
đúng, bảo “chân tu tiến nhập lẽ chánh là sai”, rốt
cuộc tự chê trách giáo pháp, quên mất tu tập, vật
vờ, không có căn cứ. Như thế th́ những lời
bàn luận chân thật và pháp tu hành xứng tánh của Hoa
Nghiêm đều trở thành sự lập bày rỗng tuếch,
những kẻ hồ nghi bác bỏ, cho [dốc công tu tập] là “uổng công, phí sức” sẽ đông nhung
nhúc trong thiên hạ. Người học hăy nên suy nghĩ cẩn
thận!
Ngài Thanh
Lương phán định phẩm này thuộc phần Y
Nhân Chứng Nhập Thành Đức (依人證入成德, nương theo cái nhân để chứng nhập ḥng
thành tựu đức). Trên đây là giải thích đệ
tam châu đă xong.
3.3. Nhị Chủng Thường
Đạo (hai loại đạo thường hằng)
3.3.1. Đồng Trần Bất Nhiễm Lợi Sanh Thường
Đạo
Đồng
Trần Bất Nhiễm Lợi
Sanh Thường Đạo (同塵不染利生常道, đạo
thường hằng ở ngay trong cơi trần lợi lạc
chúng sanh mà chẳng đắm nhiễm), tức là pháp để
thường hành sau khi đắc quả của những
người tấn tu đă thành tựu công phu nơi
ngũ vị. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Sơ tâm tu hành như lắng trong nước đục,
để yên tĩnh bất động một thời gian
dài, cát, đất tự ch́m xuống. Đó gọi là
Sơ Phục Khách Trần Phiền Năo. Gạn bỏ bùn
đi, thuần là nước, sẽ gọi là vĩnh viễn
dứt tuyệt căn bản vô minh”. Nay ngũ vị
chưa hoàn tất, công hạnh chưa thành, như cát, đất
tuy đă ch́m xuống, nhưng khuấy động th́
[nước] lại đục ng̣m, chẳng thể ḥa lẫn
trong cơi trần được. Cho đến khi công thành, hạnh
măn, như khử bùn, thuần là nước, mặc sức
khuấy đảo, chẳng c̣n bẩn thỉu, đục ngầu! V́ thế, tấn tu cho đến khi công hạnh
viên thành; sau đó, sẽ thị hiện thường đạo
Đồng Trần Bất Nhiễm Lợi Sanh (cùng chung sống
trong cơi trần để lợi lạc chúng sanh mà chẳng
nhiễm). Đấy là bậc Bồ Tát công hạnh đă
thành, vận dụng hạnh Phổ Hiền, nhập thế
lợi sanh, là hạnh vô tác, vô chỉ, vô ư, vô ngă, hết thảy
b́nh thường tự tại. V́ thế, gọi là Thường
Đạo. Đấy chính là phẩm Ly Thế Gian (離世間) được
nói trong hội thứ chín tại Phổ Quang Điện.
Phẩm này kế tiếp phẩm
Như Lai Xuất Hiện, cũng được nói tại
Phổ Quang Điện, nhằm chỉ bày công hạnh
nơi ngũ vị đă thành, tự tánh Như Lai xuất
hiện, vẫn nương vào bổn trí Phổ Quang để
lợi lạc chúng sanh, ở trong cơi đời mà chẳng nhiễm. V́ thế, gọi là phẩm Ly Thế
Gian.
Phàm phu đắm
nhiễm cơi đời, chẳng thể xuất ly. Nhị Thừa tuy ly,
chẳng thể tùy thuận, vẫn chưa phải là ly thật sự. Nay nêu
rơ quả hạnh, Bi có thể tùy thuận cơi đời,
Trí có thể chẳng nhiễm. Do vậy, thường ở
trong thế gian, từ đầu tới cuối chẳng ĺa,
chưa từng thấy tịnh, huống hồ [thấy
có] nhiễm tướng ư? Tùy thuận và xuất ly
đều cùng mất th́ mới là thật sự ly thế
gian! Trong kinh văn, ngài Phổ Huệ[31] đă nêu ra
hai trăm câu hỏi, ngài Phổ Hiền truyền trao hai
ngàn lời đáp, đều nhằm giảng rơ chuyện này!
Kế đó, tán
thán rằng: Thường hạnh lợi sanh an trụ trong
mười pháp, sẽ thường thấy mười Phật.
Đấy là [nhắc đến] câu hỏi “diễn nói Phật là như thế
nào? Thấy Phật như thế nào?” trong hai trăm câu
hỏi của ngài Phổ Huệ. Ngài Phổ Hiền
đáp: Bồ Tát thường nói đến mười Phật,
tức là:
- Thành Chánh Giác Phật,
vô trước kiến (cái Thấy chẳng chấp trước).
- Nguyện Phật,
xuất sanh kiến (thấy sự sanh ra).
- Nghiệp Báo Phật,
thâm tín kiến (thấy với ḷng tin sâu xa).
- Trụ Tŕ Phật,
tùy thuận kiến.
- Niết Bàn Phật,
thâm nhập kiến.
- Pháp Giới Phật,
phổ chí kiến (cái thấy trọn khắp).
- Tâm Phật, an
trụ kiến.
- Tam Muội Phật,
vô lượng vô y kiến (cái thấy chẳng có hạn
lượng, không nương tựa vào đâu).
- Bản Tánh Phật,
minh liễu kiến (thấy rơ ràng, rành rẽ).
- Tùy Nhạo Phật, phổ thọ kiến (thấy sự truyền
trao trọn khắp).
Nếu Bồ Tát
an trụ trong pháp này, sẽ thường được thấy
vô thượng Như Lai, có nghĩa là đối với
Chánh Giác chẳng chấp trước, xuất sanh bi nguyện,
sanh ḷng tin đối với nghiệp báo, tùy thuận sự
trụ tŕ, thâm nhập Niết Bàn, đến trọn khắp
pháp giới, an trụ nơi tâm, chẳng nương tựa
tam-muội, hiểu rơ bổn tánh, thuận theo sự ưa
thích mà trao truyền trọn khắp. “Tùy nhạo”
là thuận theo ḷng ưa thích của từng căn cơ mà
[truyền trao pháp môn] tương ứng. Có thể an trụ
trong pháp này, ắt không điều
ǵ nói ra mà chẳng phải là Phật,
không điều ǵ trông thấy mà chẳng phải là Phật. V́ thế, “thường nói thập Phật, thường thấy
thập Phật”
(phẩm Ly Thế Gian gồm bảy quyển).
3.3.1.1. Viên Chương Trùng Dụ (圓彰重諭, nhắc lại những lời khuyên bảo nhằm
phô bày trọn vẹn [cảnh giới tu chứng của
ngũ vị Bồ Tát])
Lời chú giải
chia phần này thành năm đoạn:
3.3.1.1.1. Viên Chương Hạnh Cảnh Chúng (圓彰行境眾, hàng đại chúng phô bày trọn vẹn hạnh cảnh)
Tán rằng: “Vong thuyên đốn chứng,
nhất niệm viên cai” (Quên bặt
nói năng, nhanh chóng chứng nhập, một niệm bao
trùm trọn vẹn). Đây là những đại chúng nhóm
đến đầu tiên trong hội pháp giới, biểu
thị pháp ngũ vị mà chẳng chia thành ngũ vị, dụng
ư là hiển thị chuyện “quên bặt những lời lẽ,
ngôn từ trước đó, nhanh chóng chứng hạnh cảnh”. Một niệm
bao trùm trọn vẹn, chẳng có [sự tu chứng] lần
lượt theo thứ tự.
3.3.1.1.2. Đồng hội thỉnh pháp chúng (同會請法眾, đại chúng thỉnh pháp trong cùng một hội)
Tán rằng: “Vĩnh xuất Hữu hải, ngũ bách Thanh Văn” (Vĩnh viễn thoát khỏi biển
Hữu, năm trăm vị Thanh Văn). Đấy là các vị
thị hiện thân Thanh Văn, Bồ Tát, Thế
Chủ trong hội pháp giới, cùng nhau thỉnh pháp trong mỗi
phẩm, tức là những vị như Xá Lợi Phất
v.v… được nêu trong phần sau. Kinh ca ngợi đức
của họ như sau: “Vĩnh
xuất Hữu hải, trụ vô ngại xứ. Ư Phật
trí hải, thâm tín thú nhập” (Vĩnh
viễn ra khỏi biển Hữu, trụ nơi vô ngại.
Tin sâu, tiến nhập biển trí của Phật). Lại
tán thán rằng: “Thường lợi
chúng sanh vô lượng Thế Chủ” (Vô lượng
bậc Thế Chủ thường lợi lạc chúng sanh).
Kinh tán thán đức của họ như sau: “Thường lợi chúng sanh, vi
bất thỉnh hữu” (Thường
lợi ích chúng sanh, làm bạn chẳng thỉnh), tức là
bậc Đại Quyền Bồ Tát thị hiện làm Thế
Chủ.
3.3.1.1.3. Thập phương lai tập chúng (十方來集眾, đại chúng từ mười phương nhóm
đến)
Tán rằng: “Mặc thị Phật quả” (Ngầm
nêu bày Phật quả). Hàng đại chúng trên đây đă
tụ tập, thưa hỏi mười loại pháp môn nơi cảnh trí của
Như Lai. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn do đại
bi phương tiện, nhập Sư Tử Tần Thân
tam-muội, hết thảy thế gian đều được
trang nghiêm trọn khắp
thanh tịnh. Mỗi phương
trong mười phương đều có một vị Bồ
Tát từ một cơi Phật đến[32], mỗi vị
hiện vô tận pháp môn. Trước
hết, từ trong đại chúng của Tỳ Lô Thắng
Đức Vương Phật ở phương Đông,
có Bồ Tát tên là Tỳ Lô Nguyện Quang Minh, cuối cùng là
trong đại chúng của Phổ Trí Luân Quang Âm Phật ở
phương trên, có Bồ Tát tên là Pháp Giới Sai Biệt Nguyện.
Mỗi vị và
sát trần Bồ Tát cùng đến, mỗi vị đều
dấy khởi đủ loại Phật sự để cúng dường, hoặc là chưng dọn lầu
gác trang nghiêm, hoặc xếp đặt đất báu trang
nghiêm, hoặc phô bày thân tướng trang nghiêm, cho đến
hiển hiện hết thảy các biển hạnh
của ba đời chư Phật, đều trọn khắp
pháp giới. Điều này nhằm ngầm chỉ bày bổn
hạnh nơi Phật quả trong pháp giới để trả
lời câu hỏi trong phần trước. Sở dĩ “ngầm
chỉ” là v́ muốn dứt bặt những lời lẽ
nói năng trong phần trước, ngầm tạo hạnh
cảnh. Sư Tử Tần Thân (師子頻申) là tự tại vô úy, dung mạo điềm
tĩnh, sánh ví tam-muội này nương vào Vô Tác Trí, tự
tại vô vi, điềm tĩnh thị hiện đức
dụng rộng lớn.
3.3.1.1.4. Thị hiện hiển pháp chúng (示現顯法眾, đại chúng thị hiện hiển lộ pháp)
Tán rằng: “Thâm nhập trí hải thị
đẳng mê lưu” (Thâm nhập
biển trí để chỉ bày những kẻ đang mê),
đây là chúng Thanh Văn. Do sự ngầm chỉ dạy trên
đây, tuy [các vị Thanh Văn] ở trong cùng một hội, mà
đều chẳng thể thấy [những sự trang nghiêm và thần biến
chẳng thể nghĩ bàn của Phật và Bồ Tát]. Nhưng trong lời ca ngợi phẩm đức
trong phần trước đă nói: “Ư Phật trí hải, thâm tín thú nhập” (Tin sâu,
tiến nhập biển Phật trí), há có phải là họ
thật sự là lũ mê muội! Ấy là v́ thị hiện
tuy ở trong cùng một hội mà chẳng thấy, nhằm
hiển thị hạnh cảnh chẳng thể nghĩ bàn
ḥng nhiếp thọ các vị Tiểu Thừa, khiến cho
họ cùng tiến nhập.
3.3.1.1.5. Mặc khế hạnh cảnh chúng (默契行境眾, đại chúng ngầm khế nhập hạnh cảnh)
Tán rằng: “Mông Phật quang chiếu, bất
tạ ngôn thuyên” (Nhờ quang minh của Phật chiếu
đến, chẳng nhờ vào ngôn từ diễn tả).
Hàng Thanh Văn đă mê nơi hạnh cảnh, đức
Thế Tôn muốn cho hàng Bồ Tát an trụ trong Sư
Tử Tần Thân tam-muội, bèn phóng quang minh từ tướng
bạch hào giữa hai mày, có tên là Phổ Chiếu Tam Thế
Pháp Giới Môn. Khi ấy, đại chúng nhờ vậy mà đều thấy các
thứ danh sắc trong sát hải (biển các cơi nước),
và các loại ứng hiện của Phật, Bồ Tát,
đều nhập tam-muội này, và cũng có thể hiện
đủ thứ rộng lớn, nhập vào biển bất
khả thuyết thần thông biến hóa của Phật. Những
điều này đều chẳng nhờ vào ngôn từ mà
ngầm khế nhập hạnh cảnh.
Luận nói: Những
điều trên đây đều nhằm giải đáp những
câu hỏi trong phần trước, đến đây là
đă xong, [nhằm nêu lên] cái Thể của một bộ
kinh viên măn pháp giới từ đầu đến cuối.
Tiếp đó, kinh nhờ vào những h́nh tích thị hiện
để khuyên dụ lần nữa ḥng nói rộng về hạnh cảnh.
3.3.2. Vong Tu Tuyệt Chứng Phật Quả Thường
Đạo
Vong Tu Tuyệt Chứng
Phật Quả Thường Đạo (忘修絕證佛果常道, đạo thường hằng “quên tu,
dứt chứng” về Phật quả) là phẩm đức phản
bổn hoàn nguyên thiên thành (phẩm đức do trở về
nguồn cội, vốn tự nhiên sẵn có). Nơi địa vị
Diệu Giác, nó là vô công dụng đạo.
Hai đạo (Đồng Trần Bất Nhiễm Lợi Sanh và Vong
Tu Tuyệt Chứng Phật Quả) vốn là một,
nhưng pháp trước dạy về tu chứng,
pháp này dạy về vô tu! Pháp trước là chuyện của
người học, c̣n pháp này là chuyện
của chư Phật. Tức là phẩm Nhập Pháp Giới
trong hội thứ mười đă dung thông trọn khắp
“nhân, quả, trí, hạnh” của
các địa vị trước đó thành một pháp giới,
được gọi là môn Vô Công Đại Dụng Viên
Dung Tự Tại (無功大用圓融自在). Nhờ
vào Thiện Tài đi về phương Nam, bắt đầu
từ đạo tràng của cổ Phật, đến [tham
phỏng] trọn khắp các bậc tri thức ở một trăm ṭa
thành, rốt cuộc khế nhập trọn vẹn đạo
của Di Lặc, Văn Thù, Phổ Hiền. Ư nói: Gộp
chung trọn hết nhân quả nơi Phật cảnh trong
ba đời thành Nhất Chân pháp giới một thời, một
lúc, nhằm hiển thị diệu đức mà ai nấy đều
vốn có, trọn đủ hết thảy, viên dung tự
tại. Do vậy là Vong Tu Tuyệt Chứng Phật Quả
Thường Đạo.
Kinh trăm quyển,
pháp năm vị, đối trị tập khí, tấn tu, đều
nhằm nói rơ phẩm đức vốn có ấy. Bởi
lẽ, người tu hành khi chưa phát tâm, vô minh sai khiến
tập khí phiền năo ngăn lấp bổn trí. V́ thế,
dùng pháp ngũ vị để tu luyện ḥng đối
trị từng tầng một th́ mới sáng tỏ cùng cực. Đă hiểu thấu cùng cực, sẽ
không cần phải tu vi (修為, tác ư tu
luyện) nữa. Ví như mài gương, cấu uế đă
hết, ánh sáng hiện ra, bèn ngừng đổ công dốc
sức. V́ thế, cuối cùng nói đạo Vong Tu Tuyệt
Chứng để kết thúc. Nhưng trong phần
trước, phẩm Nhập
Pháp Giới đă được
phán định là “dứt ngôn
thuyết, nương vào hạnh”, ở đây,
được phán định là “vong tu, tuyệt chứng”.
Phẩm này tổng
hợp, hoàn thành các pháp trước đó, không lư nào chẳng
trọn đủ, nhưng thuận theo ư nghĩa của những
ǵ đă được thành tựu để phán định,
sử dụng ba ṿng nhân quả, th́ phải cậy vào ngôn từ
để nói rơ. Do muốn quên bẵng ngôn từ để
nhanh chóng chứng nhập, cho nên [đến khi công hạnh] đă thành, bèn bỏ
ngôn từ, nương vào hạnh. Hai loại thường
đạo do tu mà chứng, muốn trở về nguồn
cội th́ hễ đă thành bèn “vong
tu, tuyệt chứng”. Đầu mối có sâu hay cạn,
ư nghĩa có chỗ đặc biệt riêng, nhưng chẳng trái nghịch nhau!
Nói dung hội, ba
mươi tám phẩm trước, từ đại chúng
nhóm họp để nêu bày tông chỉ, nêu ra cái quả
để phát khởi ḷng tin, trải qua ngũ vị, chứng
hai thứ giác (Bổn Giác và Thỉ Giác), rốt cuộc là
thường đạo “ḥa đồng trong cơi trần
để lợi lạc chúng sanh mà chẳng nhiễm”.
Đấy chính là khuôn mẫu thật sự để tu
hành chứng quả khởi đầu từ phàm phu cho
đến cuối cùng là thành Phật. Phẩm cuối cùng [của kinh Hoa Nghiêm] dứt bỏ ngôn từ, nương theo hạnh,
vong tu, tuyệt chứng ḥng quét sạch thẳng thừng những
dấu tích vướng mắc nơi tâm và ngôn từ, khôi
phục hoàn toàn đức dụng, mênh mang, mất sạch
các duyên, tự đạt được sự vượt
trỗi. Đấy là ư nghĩa chánh yếu xuyên suốt toàn bộ kinh, thật sự là uyên nguyên của
đạo tột bậc. So với các phần kinh văn
trước đó, những phần kinh văn ấy
như trăm sông, c̣n phẩm này như biển cả. Nếu
đạt đến chỗ
này, những nguồn cội phát xuất
cạn sâu và những phạm vi sai khác sẽ đều
nghiễm nhiên chẳng thể được! Đấy
chính là biển giáo Hoa Tạng đă đạt đến tột
bậc vậy.
Hơn nữa, dựa
vào các h́nh tích để khuyên nhủ lần nữa, th́ hành
tŕnh đi về phương Nam của Thiện Tài đă
nương vào pháp thể trên đây, ḥng nhắc lại ư
nghĩa của toàn bộ bản kinh. Sở dĩ [phán
định phẩm Nhập Pháp Giới] là “nhắc lại” v́ các phần trước là diễn
nói, chỉ bày pháp môn, c̣n phần này là do muốn cho [thính
chúng] lănh hội bèn thực hiện [các hành vi tham bái, thỉnh
pháp], [khiến cho hành nhân] sẽ ngầm lănh hội chỗ trọng yếu, chẳng cần phải nói năng.
Do đó, sự
biểu thị pháp của các vị tri thức [mà Thiện
Tài đến tham phỏng] phần nhiều được
thể hiện qua hành vi, cử chỉ của các Ngài.
Như trong phần Thập Trụ, tỳ-kheo Đức
Vân thong thả kinh hành trên một quả núi khác, nhằm nêu
bày “Tịch và Dụng chẳng
hai”. Trong phần Thập Hạnh, tỳ-kheo Thiện Kiến
kinh hành trong rừng, nhằm chỉ bày “diệu hạnh vô trụ”. Trong phần Thập Hướng, trưởng giả
Dục Hương ḥa hợp các loại hương, nhằm
nêu bày “bi và trí viên dung”. Trong
phần Thập Địa, Chủ Đương Xuân Sanh
Dạ Thần hiện thân nữ, nhằm chỉ bày sự
trưởng dưỡng ḷng đại bi. Trong phần Thập
Nhất Địa, phu nhân Ma Da huyễn sanh thành Phật, nhằm
nêu bày “ḷng Bi đến tột
cùng, Trí sẽ hiện”. Rốt cuộc trong lâu các của
đức Di Lặc, trong khoảng khảy ngón tay, [nơi
mỗi vật trong lâu các đều] nhanh chóng hiện bày vô
tận sự tướng trong mười phương pháp
giới từ nhỏ nhiệm cho tới rơ rệt, đều
là muốn cho [thính chúng] ngầm hiểu,
chẳng cần nhờ đến
ngôn từ để diễn
tả, dẫu trong ấy vẫn có nói năng nhằm đặc
biệt nêu bày một vài điều. Bởi lẽ, ngôn từ
có thể diễn tả đạo, nhưng rốt
cuộc chẳng thể diễn giải trọn hết
đạo được. Do đó, họ Khổng đă
nói: “Ngôn bất tận ư, lập tượng dĩ tận chi” (Nói chẳng hết ư, bèn lập thành h́nh tượng để diễn tả trọn hết). Thế
mà tổ sư vẫn nghĩ “như thế là chưa
được”; do đó, bác bỏ danh, ngôn[33], sắc tượng,
chỉ riêng [sử dụng những h́nh thức chỉ dạy]
bằng cách cầm dùi giơ lên, hoặc dựng phất trần.
Chính là v́ trong lúc ấy, nói năng, im lặng, dùng h́nh sắc
để giảng nói, chỉ bày đều chẳng
được, chỉ có dùng hành vi th́ mới là tột bậc
trọn hết. Đối với các pháp môn của năm
mươi ba vị tri thức đă tham phỏng, hăy nên tiến nhập như thế. Khoa mục lại chia thành
năm phần:
3.3.2.1. Sáng Hạnh Khải Mông Chúng (創行啟蒙眾, đại chúng lập hạnh nhằm khơi gợi
những kẻ c̣n mông muội)
Tán rằng: “Tự
Căn Bản Trí phát giác sơ tâm” (Từ
Căn Bản Trí phát khởi mà dấy lên cái tâm giác ngộ
ban đầu). Đây là tán thán về đức
phương tiện của ngài Văn Thù. Kinh chép: Lúc bấy
giờ, Văn Thù đồng tử từ gác Thiện Trụ
đi ra, cùng với vô lượng Bồ Tát có cùng hạnh
với Ngài, và tám bộ thiên thần thường theo hầu,
đến chỗ đức Phật, làm lễ, từ tạ
lui ra, đi về phương Nam, tới chỗ nhân gian.
Luận chép: “Điều này biểu
thị Pháp Thân bổn trí, khởi lên Sai Biệt Trí, vào cơi tục
để lợi lạc chúng sanh, lập ra hạnh nhằm
khơi gọi kẻ c̣n đang tối tăm”. Đây
chính là hạnh môn Tín vị, là khởi đầu cho sự
phát khởi hạnh của chư Phật trong pháp giới. Do bổn trí của Pháp Thân phát khởi cái
tâm giác ngộ ban sơ, cho nên ở đây ngài Văn Thù
được đổi danh xưng thành đồng tử
(童子, bé trai), biểu thị: Cái tâm ban đầu như
trẻ thơ; từ đó, phát khởi sự giác ngộ. Trong Tín
vị thuộc phần trước (ba mươi tám phẩm
trước), đă coi ngài Văn Thù đứng đầu
về Tín, gọi Ngài là Bồ Tát, c̣n trong Tín vị ở
đây, do coi Văn Thù là người khai hóa, mà gọi là Đồng Tử. Trong những phần
trước là môn tấn tu, [tức là] muốn từ cái
tâm mà sanh giải, từ nhân tiến đến quả. Ở
đây là những môn đặt nền tảng cho ngộ,
muốn sau khi đă giải
trọn vẹn bèn hướng
theo hạnh, từ chỗ mông muội mà phát khởi sự
giác ngộ, đă ngộ rồi sẽ tu tập [ḥng tiến
lên] địa vị khác. V́ thế, trong phần trước
và phần sau bèn có cách xưng hô khác nhau, nhưng trí thể
chẳng khác ǵ thuở đầu.
3.3.2.2. Tùy Hạnh Phát Tâm Chúng (隨行發心眾)
Tán rằng: “Quán sát diệu hạnh phát Bồ
Đề tâm”. Khi ngài Văn Thù đi về phương
Nam, sáu ngàn vị Thanh Văn nguyện theo Ngài. Khi ở trên
đường, ngài Xá Lợi Phất bảo các vị tỳ-kheo
như Hải Giác v.v… hăy quan sát các thứ diệu đức
của ngài Văn Thù. Ngài Văn Thù bèn khuyên họ phát Bồ
Đề tâm, trụ Phổ Hiền hạnh. Ngay lập tức,
họ đầy đủ hết thảy Phật pháp.
Đây chính là môn “cùng tấn tu, khi vừa mới phát tâm bèn
thành Chánh Giác”.
3.3.2.3. Đốn Quyên Nghiệp Thức Chúng (頓捐業識眾, đại chúng đă nhanh chóng
trừ bỏ nghiệp thức)
Tán rằng: “Trí quang phổ chiếu, nghiệp
thức đốn quyên” (Trí quang
chiếu khắp, nhanh chóng trừ sạch nghiệp thức),
thuộc về hồi hướng hạnh môn. Kinh chép: Lúc
bấy giờ, ngài Văn Thù khuyên các tỳ-kheo phát Bồ
Đề tâm rồi, đến chỗ tháp miếu của
cổ Phật tại phía Đông của Giác Thành, bèn nói Phổ
Chiếu Pháp Giới Tu Đa La. Khi đó, trong biển cả
có vô lượng trăm ngàn ức rồng đến nghe
pháp xong, hết sức chán ghét đường rồng,
đều bỏ thân rồng, sanh trong cơi trời. Một vạn
con rồng đắc Bất Thoái Chuyển nơi Vô Thượng
Bồ Đề. [Chuyện này] nhằm biểu thị:
Nương vào pháp giới hạnh, khơi gợi phát tâm ban sơ, lại do được pháp môn Trí Quang chiếu
soi, bèn thoát khỏi biển sanh tử, nhanh chóng trừ sạch
nghiệp thức. V́ thế, các con rồng từ biển cả
đến nghe pháp rồi, đều xả thân rồng. Một
vạn con rồng lại phát Bồ Đề tâm, biểu
thị: Phát khởi giác ngộ, dứt sạch nghiệp, liền
có thể [tiến nhập] môn hồi hướng vạn hạnh.
Do đó, kế tiếp có Do Giác Thú Hạnh Chúng (đại
chúng do giác ngộ mà tiến nhập hạnh).
3.3.2.4. Do Giác Thú Hạnh Chúng (由覺趣行眾, đại chúng do giác ngộ mà
tiến nhập hạnh)
Tán rằng: “Tức tục minh chân” (Ở
ngay trong cơi tục mà hiểu lẽ chân). Khi ấy, người
ở Phước Thành nghe nói ngài Văn Thù đang ở chỗ
đại tháp miếu trong rừng Trang Nghiêm Tràng Sa La, tứ
chúng mỗi chúng gồm năm trăm người, ra khỏi
thành, đến đó. Phước Thành tức là giác thành.
Trang Nghiêm Tràng tức là hạnh cảnh. Tứ chúng ra khỏi
thành đến đó, biểu thị: Do giác ngộ
mà tiến đến hạnh. Tứ chúng đều
là nam nữ thế tục, biểu thị “từ ngay cơi tục
mà hiểu rơ lẽ chân”. Mỗi chúng năm trăm người,
biểu thị: “Phô bày trọn
vẹn ngũ vị”. Kế đó, Thiện Tài tán thán: “Nương vào công đức tạng,
bày quả, nêu nhân” v.v…
Khi Thiện Tài
sanh ra, trong nhà tự nhiên có kho tàng bảy báu, năm trăm
món đồ báu, các thứ báu đầy ắp. Trong hết
thảy các kho chứa, tài vật đầy chật. Do vậy,
đặt tên [đứa trẻ
mới sanh ấy] là Thiện
Tài. Luận nói: “Đấy là
do từ đời trước đă gieo ḷng tin, tin tưởng
hạnh môn ngũ vị của Phật, bèn cảm vời
sanh ra báo ấy”. Do đó, ngài Văn Thù khen rằng: “Lành thay công đức tạng”.
Ư nói: Nương vào công đức tạng trong đời trước để hiển lộ kho tàng này. Lại nói “tích nam du, biến tham tri thức”
(thị hiện đi về phương Nam, tham phỏng
khắp các tri thức). Đấy là nương vào công
đức tạng, phô quả, bày nhân, phát khởi các hạnh
thuộc ngũ vị, lợi lạc trọn khắp quần
sanh.
3.3.2.5. Y Hạnh Thăng Tấn Chúng (依行昇進眾, đại chúng nương vào hạnh để
tu tập, tiến lên những địa vị cao hơn)
Chính là các pháp môn
của năm mươi ba vị tri thức mà Thiện Tài
đă tham phỏng trọn khắp. “Năm mươi”: Mỗi vị trong Ngũ Vị,
đều có Thập Ba La Mật. “Ba” là Văn Thù, Phổ Hiền và Di
Lặc, chính là trí hạnh, nhân và quả
của ngũ vị, dùng những điều ấy làm Thể và Dụng của mỗi pháp trọn khắp
ngũ vị. Những điều khác hăy xem Khoa Chú. Khoa này
lại chia thành sáu phần:
3.3.2.5.1. Thập Trụ Tri Thức
Tán rằng: “Tùng Tín thú Định, hội Lư khế Chân” (Từ Tín tiến vào Định, hiểu lư, khế
hợp Chân). Luận phán định những vị này thuộc
về môn “do Định mà thấu
hiểu Lư, khế nhập Chân”. Những vị
ưu-bà-tắc nói trong phần trên chính là những kẻ thuần
tín trong thế tục. Đồng tử, đồng
nữ (bé trai, bé gái) chính là đầu và ngọn của ḷng
tin. Lại nữa, Thiện Tài do đời trước
đă gieo ḷng tin mà hiển bày công đức tạng. Những
hạng đại chúng này đều nhằm biểu thị
Tín vị (các địa vị trong Thập Tín).
1) Ở đây,
trước hết Thiện Tài gặp tỳ-kheo Đức
Vân trên núi Diệu Phong, biểu thị: Từ ḷng tin, tiến
nhập Định, hiểu Lư, khế
hợp Chân. Núi biểu thị Định thể (定體, bản thể của Định),
tỳ-kheo biểu thị chân thể. Đức Vân (德雲, mây đức)
có thể tuôn mưa pháp, biểu thị lợi hạnh xuất
thế. Thiện Tài được ngài Văn Thù hướng
dẫn, lên núi Diệu Phong, quan sát trọn khắp, thấy
tỳ-kheo Đức Vân đang thong thả kinh hành trên quả
núi khác, biểu thị “chẳng trụ vào Định hay
loạn”, khiến cho người tu đạo sau khi đă
phát tín tâm, cần phải nương vào Định để
khởi Quán, Định và loạn cùng dung hội. Thân cận
Ngài rồi tạ từ, sau đấy, khế hợp lẽ
Chân, kiến đạo. Sau khi đă kiến đạo,
mới có thể khởi hạnh để tu hành, dự
vào địa vị Thập Hạnh.
2) Tại nước
Hải Môn, tỳ-kheo Hải Vân (海雲) biểu thị: Lại nương vào Quán Trí để
quán biển sanh tử, thành biển trí rộng lớn, ngầm
hưng khởi sự lợi lạc, nhuận trạch
[chúng sanh].
3) Tỳ-kheo Thiện
Trụ (善住), biểu thị địa vị này đối
trị hết sạch tập khí phiền năo trong thế giới, trụ
nơi vô sở trụ, nên gọi là Thiện Trụ.
4) Trưởng
giả Di Già (彌伽), cơi này dịch [danh hiệu của vị này] là
Năng Phục (能伏, có thể điều phục), biểu thị hai
trí Chân và Tục đă trọn đủ, có thể điều
phục tà kiến dị đạo.
5) Trưởng
giả Giải Thoát (解脫) và trưởng giả Di Già là hai vị cư
sĩ, nói rơ ba vị tỳ-kheo trước đó tu trí huệ
xuất thế, c̣n hai vị trưởng giả này tu trí
huệ thế gian. Do hiểu Lư mà khế nhập Chân, từ Chân mà nhập Tục, Chân và Tục vô ngại, nên gọi là Giải Thoát.
6) Tỳ-kheo Hải
Tràng (海幢) lại biểu thị: Hợp
hai trí trên đây (trí thế gian
và trí xuất thế gian) rộng
lớn như biển, dẹp tan hết thảy Hoặc
nghiệp (phiền năo nghiệp) của chúng sanh.
7) Hưu Xả (休捨), cơi này dịch
là ưu-bà-di Măn Nguyện, biểu thị nhập triền
từ bi, nghĩa là nhằm viên măn bổn nguyện của chính ḿnh mà
giáo hóa chúng sanh trọn khắp.
8) [Tiên nhân] Tỳ
Mục Cù Sa (毗目瞿沙), cơi này dịch là Xuất
Thanh Khả Úy (出聲可畏, phát ra tiếng đáng sợ). “Tiên nhân”
biểu thị chẳng trầm trệ nơi Chân và Tục,
ư nói là trí minh chẳng cần dụng công, đối với
ngôn luận chẳng bị trầm trệ, khéo điều
phục tà kiến, dị đạo, nên gọi Ngài là Xuất
Thanh Khả Úy.
9) Bà La Môn Thắng
Nhiệt (勝熱), biểu thị đắc pháp tự tại, thị
hiện giống như ngoại đạo, khiến cho những
kẻ tà vạy nhiếp phục phiền năo. V́ thế tên
là Thắng Nhiệt.
10) Đồng nữ
Từ Hạnh (慈行), là con gái của vua Sư Tử Tràng, biểu thị
từ Trí sanh Bi, ở trong nhiễm mà chẳng bị nhiễm.
Vị ưu-bà-di [Hưu Xả], tức vị thiện tri
thức thứ bảy trong phần trên, tuy biểu thị
đại bi, nhưng chưa đoạn tập khí yêu thích
độ sanh. Đến đây hạnh đại bi
đă viên măn, tùy ư lợi sanh, chẳng c̣n tập khí nhiễm đắm. V́ thế, dùng đồng nữ (童女, bé gái) để
biểu thị.
Các vị tri thức
thuộc ngũ vị, chỉ có vị đầu tiên biểu
thị pháp thuộc địa vị ấy, những vị
khác đều là các hạnh bi trí cùng giúp lẫn nhau để
tăng tấn. Chưa xem kinh văn, sẽ khó thể giải
thích chi tiết được. Nay đối với mỗi
vị, tôi đều nêu đại lược những điều
cương yếu trong sự tu hành đó thôi. Đại
để là do khi hành nhân chưa phát tâm, bị vô minh sai khiến,
tập khí phiền năo chướng lấp bổn trí, khiến
cho họ si mê, bất giác, luân hồi, đọa lạc
trong ác đạo. V́ thế, nay nương vào phổ quang
minh trí trong tự tâm mà phát khởi ḷng tin, tiến nhập
Thập Trụ, khế hợp Chân Trí của Phật, nên gọi
là Kiến Đạo. Đă hiểu rơ Chân Trí, vô
minh vừa mới rơi rụng, nhưng tập khí hăy c̣n,
căn cơ chưa chín muồi. V́ thế, dùng ngũ vị
nhiều tầng thuận nghịch để mài ṃn tập
khí, mở rộng chánh kiến, tăng tu phước huệ.
V́ vậy, gọi là Tu Đạo. Tập khí đă hết, bổn
trí rỗng rang, viên dung, như không gian trong lặng, thênh
thang, chẳng có chút ǵ che lấp. Mặt trời đại
từ chiếu khắp các loài u tối. Mặt trăng
đại bi trong mát nơi biển Hữu. Các hạnh muôn
đức không ǵ chẳng đầy đủ. Đó gọi
là Chứng Quả. Đạo tột cùng của Hoa Nghiêm
[đang nói] ở đây chính là chuyện thuộc về bản
lănh của chư Phật. Nếu thẳng thừng cầu
cái quả giải thoát xuất thế, sẽ là Nhị Thừa
tiểu đạo, không nhờ vào đâu để viên
thành Nhất Thiết Chủng Trí được! Do vậy,
năm mươi ba vị tri thức lập đủ hết
thảy các pháp môn, mà Thiện Tài thị hiện h́nh tích
đến tham phỏng trọn hết, nhằm dẫn dắt,
phát khởi hành nhân luyện tập đối trị rộng
răi trong hết thảy các cảnh, khôi phục nhẫn tánh
trong tâm, ḥng tăng ích những kẻ chẳng thể [giác
ngộ] sẽ đều cùng viên thành cái quả Chủng
Trí, thật đúng là khuôn phép to lớn trong việc khéo tùy
thuận muôn loài vậy. Hành nhân hăy nên vâng theo đó.
Kế đó,
[trưởng giả] Giải Thoát thấy Phật, vị
này là vị tri thức thuộc Đệ Ngũ Trụ, chỉ
bày Thiện Tài pháp môn Nhập Như Lai Vô Ngại Trang Nghiêm
Giải Thoát Môn. Từ trong tự thân, [trưởng giả
Giải Thoát] hiện vô tận sự trang nghiêm
trong các cơi Phật, tùy ư có thể thấy mười
phương chư Phật, Bồ Tát, hàm ư: Dùng ngay thân
tướng cơi tục mà chứa đựng cơi Phật.
Kế đến
là Hưu Xả đích thân phụng sự Phật, tức
là vị tri thức Đệ Thất Trụ. Do Thiện
Tài hỏi Ngài đă đắc
pháp môn này bao lâu, Ngài
bèn lần lượt nêu chuyện đă đích thân phụng
sự Phật xưa kia, chỉ rơ Ngài đă tích tập hạnh
lâu xa. Trên đây là giải thích về địa vị đầu tiên trong ngũ
vị, tức Thập Trụ, dùng trí
làm bổn môn đă xong. Kế tiếp, giải thích về
môn nương vào trí để khởi hạnh.
3.3.2.5.2. Thập Hạnh Tri Thức
Tán rằng: “Y Phật chân trí, trị tập
lợi sanh” (Nương vào chân trí của Phật, đối trị
tập khí, lợi lạc chúng sanh). Luận phán định
đây là môn Y Chân Khởi Phát Chư Hạnh (依真發起諸行, nương vào Chân để phát khởi các hạnh),
có nghĩa là nương vào trí của Thập Trụ để
phát khởi hạnh môn này, trong là đối trị tập
khí, ngoài là lợi lạc chúng sanh. Do các căn cơ bất tận, nên lợi hạnh
(利行, hạnh
lợi lạc chúng sanh) cũng vô tận.
1) Địa vị
thứ nhất dùng tỳ-kheo Thiện Kiến (善見) ở nước
Tam Nhăn để biểu thị: Cần
phải dùng trí nhăn để xem xét căn cơ. Pháp Nhăn biết
pháp, Huệ Nhăn chọn lựa, quyết đoán; đấy
là Thiện Kiến, có thể nhập hạnh môn của Bồ Tát.
2) Đồng tử
Tự Tại Chủ (自在主), biểu thị nương vào Chân để khởi
hạnh, vương đạo tự tại.
3) Ưu-bà-di Cụ
Túc (具足), biểu thị thuận theo trí mà dấy ḷng Bi. Trong
hết thảy các cảnh, thường thực hiện Phật
sự th́ gọi là Cụ Túc.
4) Cư sĩ
Minh Trí (明智), biểu thị vận dụng ḷng Bi ở
trong cơi tục, thế trí viên dung, tức là không ǵ chẳng
phải là trí sáng.
5) Pháp Bảo Kế
(法寶髻), biểu thị trí, bi, hạnh viên măn, nhiếp
chung các địa vị, như búi tóc biểu thị chung
cho năm thể.
6) Trưởng
giả Phổ Nhăn (普眼), biểu thị đạt đến hạnh môn
này, đối với pháp thế gian và xuất thế gian,
không ǵ chẳng thấy trọn khắp.
7) Vua Vô Yếm
Túc (無厭足), biểu thị sự quyền biến thị hiện
nhiếp phục, lợi lạc chúng sanh không chán.
8) Vua Đại
Quang (大光), biểu thị vô công hạnh đă măn, trí chiếu
tự tại.
9) Ưu-bà-di Bất
Động (不動), biểu thị diệu hạnh thành tựu. Đối
với ngũ dục trong cơi đời và hết thảy
các cảnh, tâm chẳng bị lay động.
10) Ngoại đạo
Biến Hành (遍行), biểu thị hạnh tinh thuần,
tâm vắng lặng, thị hiện “nhằm hóa độ bọn
tà vạy bèn làm giống như họ”.
Những vị
trên đây đều là hạnh “nương vào trí để
đối trị tập khí”.
Kế đó là
tám bộ chúng, tức là khi tỳ-kheo
Thiện Kiến kinh hành trong rừng, thiên thần tám bộ
cung kính vây quanh, biểu thị Thập Hạnh nhiếp thọ
chúng sanh, xét theo căn cơ th́ thảy đều tṛn khắp.
Trên đây là phần
giải thích về môn “nương vào trí để khởi
hạnh” đă xong. Kế đến là môn Tế
Hạnh Dĩ Nguyện (濟行以願, dùng nguyện để giúp hạnh).
3.3.2.5.3. Thập Hồi Hướng Tri Thức
Tán rằng: “Do Chân nhập Tục, dung trí
đồng bi quảng đại nguyện môn” (Từ
Chân vào Tục, dung hội Trí với Bi để thành nguyện
môn rộng lớn). Luận phán định phần này là Lư
Trí Đại Bi Nguyện Hạnh Hội Dung Môn (理智大悲願行會融門, môn
nguyện hạnh đại bi dung hội Lư và Trí), lấy
trí của Sơ Trụ làm gốc, kế đó,
nương vào trí để khởi hạnh, vẫn phần
nhiều là cái tâm xuất thế. Cho đến địa
vị này, dùng nguyện để giúp cho hạnh, bèn có thể
hồi Chân hướng Tục, hồi Trí hướng Bi. Sau
đó, Lư Sự viên dung, thành pháp giới hạnh, vượt
trỗi Tam Hiền, dự vào Thập Thánh.
1) Địa vị
đầu tiên dùng trưởng giả Dục Hương (鬻香) ở nước
Quảng Đại làm đại biểu, biểu thị vận dụng nguyện rộng lớn để
dung hội trí và bi, thành Pháp Thân hương, xông khắp hết
thảy.
2) Thuyền
sư[34] Bà Thi La (婆施羅), cơi
này dịch là Tự Tại, biểu thị hạnh hồi
hướng, ở trong biển
sanh tử, dẫn dắt, tạo lợi lạc tự tại.
3) Trưởng
giả Vô Thượng Thắng (無上勝), biểu thị tuy hóa độ trần lao,
nhưng vượt khỏi thế gian, nên gọi
là Vô Thượng Thắng.
4) Tỳ-kheo-ni
Sư Tử Tần Thân (師子頻申), biểu thị hồi Chân nhập Tục, hành
ḷng Từ vô nhiễm, vui sướng vô úy.
5) Cô gái Bà Tu Mật
(婆須密), cơi này dịch là Thế Hữu (世友, bạn
của cơi đời), c̣n dịch là Thiên Hữu (天友, bạn của trời), biểu thị nhiễm mà chẳng nhiễm, làm thầy,
làm bạn trọn khắp trời người.
6) Bệ Sắt
Thị La (鞞瑟氏羅), cơi này dịch là Bao Nhiếp (包攝), biểu thị vào cơi tục, Bi và Trí rộng
lớn, bao nhiếp hết thảy các pháp môn.
7) Quán Âm (觀音) Bồ Tát biểu
thị Đại Bi.
8) Đông
phương Chánh Thú (正趣) Bồ Tát, biểu thị chánh trí. Thiện Tài đă
gặp Quán Âm Bồ Tát, Chánh Thú Bồ Tát từ hư không
đến, chẳng đợi [Thiện Tài] đến gặp.
Hai vị thánh cùng nhóm lại, biểu thị hai địa
vị Trí và Bi đến đây đều cùng viên măn.
9) Đại
Thiên Thần (大天神), biểu thị tịnh trí không nương dựa,
rộng che chở quần sanh.
10) An Trụ
Địa Thần (安住地神), biểu thị Bi thể rộng lớn, chuyên chở,
nuôi dưỡng vạn hữu.
Hai địa vị
này đều là vô vi mà ứng, không suy nghĩ mà trọn khắp; v́ thế,
dùng thần để biểu thị. Những địa
vị trên đây đều là dung hội Trí và Bi, là
nguyện môn rộng lớn. Kế đó, ngài Bệ Sắt
Thị La thấy Phật được bao nhiếp trong một
gian pḥng, bày ṭa tháp bằng Chiên Đàn, chẳng đặt
h́nh tượng, mà mở tháp ra có thể thấy chư Phật
trong ba đời, hàm ư: Trong tự tánh của mỗi
người đều có vô tướng Phật.
Đối với
hai địa vị kế tiếp, Thiện Tài hỏi ngài
Chánh Thú: “Do điều ǵ mà đắc pháp môn này?” Ngài Chánh
Thú bảo: “Ta đắc pháp
môn này từ chỗ Phổ Thắng Sanh
Phật trong thế giới Diệu Tạng ở
phương Đông, hết thảy trời người
đều chẳng thể hiểu rơ, chỉ có hàng Bồ
Tát dũng mănh, tinh tấn, chẳng thoái thất, chẳng
khiếp nhược là có thể nghe, có thể hiểu”. Ư nói: Đối với trí cảnh trong địa
vị ấy, những kẻ giữa chừng biếng
nhác, lui sụt, sẽ chẳng thể thấu đạt được!
An Trụ Địa Thần lại nói: “Ta ở chỗ Diệu Nhăn Phật trong thế giới
Nguyệt Tràng mà đắc pháp môn này”. Nêu ra Phổ Thắng
Sanh Phật và Diệu Nhăn Phật đều nhằm biểu
thị pháp báo của trí bi diệu hạnh.
Trên đây là phần
giải thích địa vị Tam Hiền đă xong. Kế
đến là tiến nhập địa vị Thập Thánh.
3.3.2.5.4. Thập Địa Tri Thức
Tán rằng: “Chiếu sanh tử dạ, viên
trí bi công” (Soi đêm sanh tử, viên măn công Trí và Bi), những
vị dạ thần đều hiện thân nữ nhân, biểu
thị đại bi đồng thể, chiếu
soi đêm thâu sanh tử. Luận phán định đây là môn Uẩn
Tu Bi Trí Thành Đức Môn (蘊修悲智成德, tu tập, tích lũy Bi và Trí để
tạo thành đức). V́ thế nói là Viên Trí Bi Công (圓智悲功, viên
măn công hạnh Trí và Bi).
1) Địa vị
đầu tiên dùng [chủ dạ thần] Bà San [Diễn
Để] (婆珊演底) để biểu thị. Cơi này dịch Bà San Diễn
Để là Chủ Đương Xuân Sanh (主當春生),
tức là như kinh chép: “Tiến
nhập những hạnh thuộc các địa vị Bồ Tát, hết thảy Phật pháp đều được
sanh từ đó”.
2) Phổ Đức
Tịnh Quang (普德淨光), chính là thầy của Bà San [Diễn Để]
trong nhiều kiếp, nhằm biểu thị giác thể và
các hạnh thuộc về Đăng Địa đều
có cùng một Thể với giác.
3) Hỷ Mục
Quán Sát (喜目觀察) biểu thị mắt Từ nh́n chúng sanh, bố
thí các khối phước.
4) Phổ Cứu
Diệu Đức (普救妙德), biểu thị trưởng dưỡng đại
bi, thực thi bằng diệu đức.
5) Tịch Tĩnh
Âm Hải (寂淨音海), biểu thị Tịch và Dụng trọn khắp.
Tĩnh chính là Tịch, Âm là Dụng, Hải là trọn khắp.
6) Thủ Hộ
Tăng Trưởng (守護增長), biểu thị hạnh trong địa vị này
thường bảo vệ tâm thành
của chúng sanh, khiến cho họ tăng trưởng trí
huệ và oai lực.
7) Khai Phu Thụ Hoa
(開敷樹華), biểu thị pháp lực khơi mở, giác ngộ
hạnh hoa của chúng sanh, khiến cho [các hạnh hoa ấy] được nở x̣e, kết trái.
8) Đại Nguyện
Tinh Tấn (大願精進), biểu thị vô công đại nguyện, lợi
hạnh tinh ṛng mẫn tiệp.
9) Diệu Đức
Viên Măn (妙德圓滿), biểu thị diệu lợi tràn ngập hết
thảy chúng sanh.
10) Thích Nữ Cù
Ba (釋女瞿波), họ Thích là Chân, Nữ là Tục, biểu thị
đă thấu triệt hạnh Thập Địa, đắc
Chân mà chẳng chứng, đại bi ḥa đồng với
cơi tục. Đây là nói gộp chung về diệu hạnh
Phổ Hiền của Thập Địa.
Vị [tri thức]
thứ ba [trong Thập Địa] (tức Hỷ Mục
Quán Sát) trong khi nằm ngủ, do được Tịnh
Nguyệt Dạ Thần bảo rằng: “Lôi Âm Vương Phật thành Đẳng Chánh Giác
trong rừng Tịch Trụ”, bảo vị ấy hăy
đến cúng dường, bèn ở nơi đức Phật
ấy, phát Bồ Đề tâm. Lại qua một vạn kiếp,
làm con gái nhà trưởng giả, có năm trăm vị Phật
ra đời. Vị thứ nhất tên là Tu Di Tràng Tịch
Tĩnh Diệu Nhăn, vị dạ thần ấy lại dùng
phương tiện, dẫn [ngài Hỷ Mục] tới chỗ
Phật. Do vậy, [Hỷ Mục] đắc khá nhiều pháp
môn, ư nói: Tu Bồ Tát hạnh, vận dụng ḷng Bi ở
trong cơi đời đă nhiều kiếp lâu xa.
Kế đó, Hỷ
Mục đích thân phụng sự Phật. Thiện Tài hỏi
Hỷ Mục đă trụ kiếp bao lâu, cúng
dường bao nhiêu vị Phật. Do vậy, Hỷ Mục
dùng kệ tụng để đáp, gồm mười một
đoạn. Mười đoạn đầu, mỗi
đoạn có mười đức Phật đều
tương xứng với sự thăng tấn trong Thập
Địa, vị Phật cuối cùng, tương xứng
Thập Nhất Địa, chỉ bày “dùng một để gồm thâu nhiều”!
Kế đó là
ngài Phổ Cứu [Diệu Đức] phụng sự Phật,
hăy nên xem ư nghĩa trong Khoa Chú. Đoạn đầu nêu ra
mười hai vị Phật chính là phần kinh văn
Trường Hàng, đă tường thuật chung về
nhân hạnh của ngài Phổ Cứu, đoạn thứ
mười một là phần kệ tụng nói rộng về
sự phụng sự trải qua nhiều kiếp của
Ngài.
Kế đó là
ngài Tịch Hải (Tịch Tĩnh Âm Hải) phụng sự
Phật. Kinh nói ngài Tịch Hải ở chỗ mười
vị Phật, nơi mỗi vị đắc một môn
tam-muội. Sau khi mạng chung, [Tịch Hải] sanh vào Sa
Bà, trước hết gặp Cưu La Tôn Đà Phật, Câu
Na Hàm Mâu Ni Phật, Ca Diếp Phật, sau đó, gặp Tỳ
Lô Giá Na Phật, đạt được môn giải thoát
Niệm Niệm Xuất Sanh Quảng Đại Hỷ Trang
Nghiêm. Trước hết, ở nơi mười vị
Phật, nơi mỗi vị đều đạt
được tam-muội, đấy chính là hạnh nơi mỗi địa đều trọn đủ hạnh của mười địa vậy. Sau đó, Ngài gặp bốn vị Phật,
tức là từ Thập Địa nhập Thập Nhất
Địa. Những địa vị khác đă được
nhắc tới trong các môn thuộc mười địa vị
trước đó, cho nên lược đi [không nói].
Kế đó là
ngài Thủ Hộ [Tăng Trưởng] phụng sự Phật.
Thiện Tài hỏi Ngài đă chứng môn giải thoát này bao
lâu, ngài Thủ Hộ nói: “Xưa
kia có trần số Như Lai xuất hiện, vị Phật
đầu tiên tên là Pháp Hải Lôi Âm Quang Minh Vương,
lúc đó ta là con gái của Luân Vương, làm tỳ-kheo-ni,
ở nơi đức Phật ấy, phát Bồ Đề
tâm, thủ hộ Phật pháp. Lại có một trăm vị
Phật như Ly Cấu Pháp Quang Minh v.v… lần lượt
xuất thế, ta đều thân cận cúng dường,
tu hành pháp này”. Ngài trần thuật [chính ḿnh] làm con gái của
nhà vua, làm tỳ-kheo-ni, cũng nhằm biểu thị
nương vào trí để tu hạnh từ bi thế gian
và xuất thế gian. Trước hết, nêu ra một vị
Phật, sau đó nêu ra một trăm vị Phật,
cũng là từ một địa viên dung cả mười địa.
Kế đó, là
nhân địa của ngài Khai Phu [Thụ Hoa]. Thiện Tài hỏi
ngài Khai Phu về chuyện phát tâm của chính Ngài, ngài Khai
Phu cho biết thời cổ có Phật xuất thế, tên
là Phổ Chiếu Pháp Giới Trí. Trong cơi ấy, có vua tên là
Viên Măn Cái, kiếp ấy có tai nạn. Vua dấy ḷng đại
bi, bỏ ra hết thảy mọi vật để làm hội
bố thí lớn. Khi đó, ngài Khai Phu làm con gái của một
vị trưởng giả, trông thấy nhà vua bố thí rộng
răi, đạt được đại thiện lợi,
bèn nguyện như thế này: “Nay
vị đại vương này v́ vô lượng chúng sanh vô
minh làm chỗ nương cậy, nguyện tôi trong vị
lai cũng giống như thế”. Đầu tiên nêu lên
Phổ Trí Phật, kế đó là những chuyện như
vua Viên Măn Cái v.v… biểu thị nương vào trí thể phổ
quang, đầy đủ trọn vẹn trí bi lợi hạnh.
Những điều khác như trong khoa chú [đă nói]. Sự
biểu thị pháp trong các địa vị [được
tường thuật] chi tiết hay đại lược
khác nhau, bởi lẽ, từ một pháp mà rút gọn, hoặc
tách ra, khiến cho người ta theo thói quen sẽ mở rộng
hay thâu gọn chẳng ngăn ngại!
Kế đó là
nhân địa của ngài Đại Nguyện. [Hoa Nghiêm
Kinh Luận] phán định phần này là Hiệu Vị
Minh Bổn Nhân (號位明本因, danh
hiệu [của mỗi vị thiện tri thức] nhằm
nêu rơ cái nhân của từng địa vị). Thiện Tài
hỏi Ngài đă phát tâm bao lâu; ngài Đại Nguyện nói
vào thời cổ có kiếp tên là Thiện Quang, có một vạn
vị Phật ra đời. Vị Phật đầu tiên
hiệu là Pháp Luân Âm Đăng Vương. Nhà vua thuở ấy
tên là Thắng Quang. Do trong nước có nhiều kẻ phạm
Thập Ác, vua bèn lập trọng h́nh. Vua có Thái Tử tên là
Thiện Phục, thương xót các tội nhân bị đánh đập khổ sở, cầu xin
vua xá tội, lấy bản thân chịu tội thay. Thái Tử
nói: “Nếu ta không cứu những chúng sanh ấy, làm sao có thể cứu [những tội nhân] trong lao ngục ba cơi?”
Năm trăm vị đại thần thuở ấy, sợ
phép nước bị phá hoại, xin vua giết Thái Tử.
Vương hậu đau xót, xin vua cho phép Thái Tử bố
thí trong nửa tháng, mặc sức tu phước, sau đó
sẽ chịu tội. [Thái Tử] liền mở hội bố
thí, đại chúng đều nhóm đến. Khi ấy, Pháp
Luân Âm Phật biết đă tới lúc điều phục
các chúng sanh, bèn v́ họ thuyết pháp. Lúc đó, đại
chúng được lợi ích, diệt khổ trừ
chướng. Thái Tử ngay lập tức giáo hóa chúng sanh,
khiến cho họ sanh thiện căn giải thoát môn. Đấy
là nói về bổn nhân. Vị Thái Tử khi đó chính là [chủ
dạ thần] Đại Nguyện [Tinh Tấn trong hiện
thời]. Năm trăm vị đại thần muốn hại
Thái Tử là năm trăm người theo Đề Bà
Đạt Đa. Những người ấy được
đức Phật giáo hóa, sẽ thành Phật trong
tương lai. Năm trăm vị ấy lần lượt
xuất thế, vị thứ nhất tên là Đại Bi, vị
thứ hai tên Nhiêu Ích, vị thứ ba là Sư Tử, vị
thứ tư tên là Cứu Hộ, cho đến vị cuối
cùng tên là Y Vương. Các tội nhân được xá tội
chính là một ngàn vị Phật trong Hiền Kiếp, tức
Câu Lưu Tôn v.v… và trăm vạn tăng-kỳ các vị
đại Bồ Tát, ở chỗ Vô Lượng Tinh Tấn
Phật, phát Bồ Đề tâm. Nay họ ở
mười phương hành Bồ Tát đạo, giáo hóa
chúng sanh. Đấy là nói về bổn hạnh.
Lại nói: “Ta cứu tội nhân xong, xuất
gia nơi Pháp Luân Âm Phật, thành tựu khá
nhiều pháp môn. Thân sau lần lượt gặp mười
tám vị Phật như Pháp Không v.v… đều thân cận
cúng dường”. Đây là nói về sự thăng tấn.
Trước hết, nêu ra trong kiếp Thiện Quang có một
vạn vị Phật xuất thế, biểu thị trí thể
vô công dụng, do một mà ứng với vạn. Vị Phật
đầu tiên hiệu là Pháp Luân Âm Hư Không Đăng Vương,
biểu thị đức dụng lợi sanh của chánh
trí. Vua tên Thắng Quang, biểu thị cái trí thực hiện
ḷng Từ. Con vua tên Thiện Phục, biểu thị hạnh
Từ và Trí. Cơi nước có nhiều kẻ Thập Ác, biểu
thị cảnh đối trị. “Bèn lập trọng h́nh, Thái Tử xin cứu”: Thiện
ác đối chiếu. “Bèn phát
từ tâm”, “các đại thần thuở ấy” và “các tội nhân được cứu đều
thành Phật đạo”, biểu
thị những người do được giáo hóa bởi
trí và bi mà thành tựu. “Đă cứu
tội nhân xong, [Thái Tử] đến chỗ Phật xuất
gia”, biểu thị hạnh đă hoàn tất, chẳng
nhiễm. “Thân sau gặp Phật”
biểu thị cái quả thăng tấn khi công hạnh
nơi Bát Địa đă hoàn tất. Nương vào bổn
trí để dùng một ứng với cả vạn, pháp
luân xoay vần rộng răi, đèn pháp chiếu rộng, dùng
trí để hành Từ, dùng Từ để điều phục
ác, thành tựu hết thảy chúng sanh. Hạnh hoàn tất,
chẳng nhiễm, th́ có thể dựa vào đó để
tiến nhập cái quả Cửu Địa và Thập
Địa vậy!
Kế đó là
nhân địa của ngài Diệu Đức. Thuở
xưa có Phật xuất thế, hiệu là Tự Tại Công
Đức Tràng, phu nhân Hỷ Quang vợ vua Bảo Diễm
Nhăn là mẹ của Ngài. Thuở đó, Diệu Đức
làm nhũ mẫu của Phật. Khi đức Phật ấy
sanh ra, chư thiên tắm gội, trao cho nhũ mẫu.
Nhũ mẫu kính cẩn đỡ lấy, liền đắc
Bồ Tát Phổ Nhăn tam-muội, thấy trọn khắp mười
phương chư Phật. Lại đắc môn giải
thoát Nhất Thiết Xứ Thị Hiện Thọ Sanh (thị
hiện sanh ra đời trong hết thảy
các chỗ) của hàng Bồ Tát. Đấy là nhân địa
của Ngài. Vị thần ấy sống trong vườn
Lam Tỳ Ni (嵐毗尼, Lumbinī), tức là chỗ Phật giáng sanh. Thiện Tài trông thấy,
hỏi Ngài tu Bồ Tát hạnh như thế nào mà sanh trong nhà Như Lai? Diệu Đức bèn nói
mười loại thọ sanh tạng của Bồ Tát: Một
là nguyện thường cúng Phật thọ sanh tạng,
hai là nguyện phát Bồ Đề tâm thọ sanh tạng,
cho đến mười là nhập Như Lai địa thọ
sanh tạng. Nếu Bồ Tát thành tựu pháp này, sẽ
được sanh trong nhà Như Lai.
Lại nói: “Xưa kia, ta phát nguyện, nguyện
nhập Tỳ Lô vô lượng thọ sanh hải, do nguyện
lực ấy, sanh trong vườn này, chuyên niệm ‘khi nào Bồ Tát sẽ hạ sanh?’ Trải qua một trăm năm, quả nhiên đức
Thế Tôn giáng thế”. Ư nói:
Dùng các duyên thù thắng, nạp vào tạng thức, tạo
thành thánh thai của ḍng giống Phật, th́ gọi là Bồ
Tát Thọ Sanh. Tới khi công viên, hạnh măn, Phật quả
hiện tiền th́ gọi là Bồ Tát Giáng Sanh. Nói “sau một
trăm năm, quả nhiên đức Thế
Tôn giáng thế” biểu
thị từ Cửu Địa tiến lên viên thành Thập
Địa, Phật quả hiện tiền. Nhưng trước
hết, ắt phải nhờ vào duyên thù thắng
làm hạt giống, sau đó, sẽ có thể đạt
đến Phật quả. Do vậy, ở đây nói đến
Bồ Tát thọ sanh, trong phần Thập Nhất Địa
nói đức Ma Da sanh ra Phật.
Kế đó là
nhân địa của nàng Cù Ba. Hai vị đầu tiên biểu
thị từ bi che chở, dưỡng dục. Thiện
Tài t́m Cù Ba, tới giảng đường Phổ Hiện
Pháp Giới Quang Minh, có chủ cung điện thần hiệu
là Vô Ưu Đức, cùng với một vạn đại
chúng đến đón tiếp Thiện Tài. Chủ cung điện
thần và một vạn đại chúng biểu thị từ
bi che chở, dưỡng dục, làm cái Thể của muôn
hạnh. Đến đón Thiện Tài, biểu thị ḷng
Bi nơi Thập Địa đă viên măn, hạnh khế hợp
địa vị, cùng tụ hội trong diệu cảnh Phổ
Quang. Kế đó, hai vị ấy trần thuật cái nhân
của chính ḿnh: Xưa kia, khi Bảo Hoa Phật
làm quốc vương, đức Thích Ca làm Thái Tử. Lúc đó, Cù Ba là Thái Tử
Phi, mới cùng Thái Tử đến gặp
Thắng Nhật Như Lai, cúng dường rộng lớn,
nghe đức Phật thuyết pháp, liền từ trong hết
thảy các pháp đắc biển tam-muội.
Trở về, tâu với phụ vương. Nhà vua nghe nói,
vui mừng, cũng đến chỗ Phật, nghe pháp
được lợi ích, bèn xin xuất gia, liền
được thành tựu hết thảy các pháp môn. Về
sau, vua chứng quả, thành Bảo Hoa Phật.
Đối với
Thập Địa đă viên măn, bèn trần thuật cái nhân
này, Thái Tử phi biểu thị tùy duyên đại bi. Thái Tử
biểu thị cái trí đồng bi. Thắng Nhật Phật
biểu thị cái quả của Căn Bản Trí. Bảo
Hoa Phật biểu thị cái quả của Hậu Đắc
Trí. Thoạt đầu, do Thái Tử Phi và Thái Tử dẫn
đến chuyện phụ vương được gặp
Thắng Nhật
Phật, chứng Phật quả thành Bảo
Hoa Phật, nhằm nêu rơ cái hạnh ở nơi đây. Do tùy
duyên đại bi ngầm vận dụng trí, bèn phát khởi
Hậu Đắc Trí để khế hợp Căn Bản
Trí, dung thông thành một đạo. Vạn hạnh trong
ngũ vị đă được nói rơ tột cùng ở
đây, chẳng hai, chẳng khác.
Cù Ba lại nói: “Xưa kia, ta cúng dường
đức Thắng Nhật Phật. Sau khi Ngài diệt độ, trong thế giới này
có sáu mươi ức na-do-tha Phật xuất thế. Ta và
nhà vua đều thừa sự, cúng dường”. Vị Phật thứ nhất hiệu là Thanh Tịnh
Thân, cho tới vị Phật cuối cùng tên là Quảng
Đại Giải, kể ra năm mươi vị Phật
nhằm gồm trọn ngũ vị. Nói “sáu mươi
ức Phật” mà nêu tên năm mươi vị, biểu thị
tâm Thập Địa đă viên măn. Do tính gộp cả Thập
Tín mà thành lục vị, nhưng chẳng ra ngoài cái quả
của ngũ vị. Từ vị Phật
tối sơ là Thắng Nhật Phật, cho đến vị
Phật cuối cùng là Quảng Đại Giải, biểu thị tướng quả của ngũ vị, bắt đầu từ
căn bản phổ quang trí dấy lên, kết thúc bằng
môn đại giải thoát của ngài Phổ Hiền. Đầu
đuôi chính là lẫn nhau, niệm đầu niệm cuối đều cùng vào lưới Nhân Đà La[35] vô tận
pháp môn, tức là địa vị tối hậu tột
cùng của Thập Địa.
Trên đây, giải
thích về sự vượt thoát Tam Hiền, nhập địa vị Thập Thánh đă xong! Kế đó, giải thích từ
Thập Thánh đạt lên Đẳng Giác và Diệu Giác,
trước hết là địa vị Đẳng Giác.
3.3.2.5.5. Thập Nhất Địa tri thức
Tán rằng: “Bi chung trí hiện, pháp giới thể
viên” (Bi hoàn tất, trí hiện, Thể của pháp giới
viên măn). Luận phán định phần này là Bi Chung Khởi
Trí Thành Phật Môn (悲終起智成佛門). Do trước khi đạt tới Thập Địa,
nương vào bổn trí mà trưởng dưỡng ḷng Bi.
Thập Nhất Địa là công hạnh trưởng
dưỡng đă kết thúc, thuần là đại bi làm
pháp giới thể, cùng với trí hiển hiện viên măn.
Do vậy:
1) Địa vị
đầu tiên, dùng Phật Mẫu Ma Da (摩耶, Maya) biểu thị pháp, nêu bày cái Thể thuần bi, hiển
hiện viên măn trí Phật, tùy ứng lợi sanh.
2) Thiên Chủ
Quang (天主光) là con gái vua Chánh Niệm, biểu thị vô nhiễm
từ bi trong cái trí vô niệm nơi Thập Nhất Địa,
có tác dụng chiếu soi vô vi.
3) Đồng tử
Biến Hữu (遍友) chính là thầy của đồng tử Chúng Nghệ,
biểu thị trọn khắp mười phương,
làm bậc thầy khuôn mẫu cho cơi đời.
4) Đồng tử
Chúng Nghệ (眾藝)[36]
có thể giúp đỡ khiến cho pháp môn của Biến Hữu
được rơ rệt, biểu thị: Dùng đức
năng và tài nghệ để tán trợ ḥng thành tựu sự
giáo hóa.
5) Ưu-bà-di Hiền
Thắng (賢勝): Đối với chánh, tà, cát, hung, toa thuốc,
các thuật trong thế gian, [Hiền Thắng] đều thông đạt hết thảy, biểu thị: [Đối với
các pháp] khiến cho muôn loài được an ổn, duy tŕ
sanh mạng, chẳng pháp nào không hiểu rơ. Không hạnh nào
chẳng hành, không chúng sanh nào chẳng cứu giúp, ḷng từ
bi thật sự rộng lớn. V́ thế, có danh hiệu
là Hiền Thắng.
6) Kiên Cố Giải
Thoát (堅固解脫) biểu thị chẳng chấp trước hết
thảy các hạnh công đức, do rộng
tu công đức, niệm nào cũng đều chẳng chấp
trước, cho nên có tên là Kiên Cố Giải Thoát.
7) Trưởng
giả Diệu Nguyệt (妙月) biểu thị bi và trí đều viên măn, phá trừ
sự tăm tối, mê hoặc của thế gian.
8) Trưởng
giả Vô Thắng Quân (無勝軍) đắc vô tận tướng giải thoát, nói
rơ hết thảy tâm cảnh đều là Như Lai tướng,
huyễn sanh các hạnh, có thể thắng hết thảy
vô minh ma quân sanh tử tà kiến.
9) Bà-la-môn Pháp Tụ
Lạc Tịch Tĩnh (法聚落寂靜), biểu thị trong muôn cảnh như xóm làng ầm
ĩ của pháp giới, nêu bày pháp chân tịch.
10) Đồng tử
Đức Sanh (德生) và đồng nữ Hữu Đức (有德), biểu thị
trí và bi đều cùng viên măn, huyễn trụ trong cơi đời,
tự nói: “Hai người bọn
ta chứng đắc Bồ Tát huyễn trụ giải
thoát”, nêu rơ: Hoàn tất Thập Nhất Địa, chứng
trí Diệu Giác, chiếu thấu suốt tâm cảnh, thênh
thang chẳng có mảy trần. Trong pháp giới thanh tịnh,
chỉ có một chân trí, do thuận theo trí dụng (tác dụng
của trí) mà huyễn sanh hết thảy. Dù là Phật cảnh
hay chúng sanh cảnh, thảy đều nương vào trí mà
huyễn trụ. Muôn pháp trong thế gian, tánh vốn tự
ly, chẳng riêng ǵ hữu vi có bản thể như huyễn
mộng, dẫu là quả báo được sanh bởi trí
cũng đều là huyễn trụ. V́ thế, kinh nói: “Ta đắc huyễn trụ giải
thoát, thấy hết thảy thế giới đều do
nhân duyên huyễn trụ sanh ra. Hết thảy chúng sanh
đều do nghiệp lực huyễn trụ dấy khởi”.
Cho đến “hết thảy Bồ
Tát đều do hạnh nguyện huyễn trụ mà thành”.
Soi rơ như thế, [sẽ thấy] phàm và thánh cùng một
Thể, vật và ta cùng một nguồn, pháp nào cũng đều
viên dung, vi trần nào cũng đều chẳng ngăn ngại.
Mười phương chăm chú nh́n vào, không thể nhân
nhượng được. Phản quán trong ấy, chẳng
dung vật nào khác, đều là huyễn trụ. Do là huyễn
trụ, do thuận theo trí dụng, vô biên sát hải, đức
dụng trọn khắp, mười phương thân và cơi
nước, cảnh tướng nhập lẫn nhau, chẳng
một, chẳng khác, không đầu, không cuối, trọn
khắp pháp giới mà chẳng có đến đi, trải
trần kiếp mà chẳng có lâu hay chóng. Do vậy, đạt
đến trọn đủ tột cùng hết thảy
đức dụng của Hoa Nghiêm, viên dung tự tại,
chẳng nhờ điều chi khác để trần thuật,
v́ đă đắc pháp môn huyễn trụ. Do chứng đắc
các ảnh tượng huyễn diệt này, cho nên
thấy rơ lâu các trang nghiêm của đức Từ Thị
(Di Lặc), đối với Phật cảnh pháp môn, khế
nhập trọn vẹn quả pháp vậy!
Ba vị kế
đó, đều là do Thiện Tài gặp gỡ bà Ma Da. Kinh
chép: Khi ấy, Thiện Tài muốn gặp bà Ma
Da. Lúc đó, chủ thành thần là Bảo Nhăn, hiện
thân trong không trung, dạy Thiện Tài thủ hộ tâm thành
(thành tŕ nơi tâm), trang nghiêm tâm thành, cho đến trong suốt
tâm thành, phong phú, sung măn tâm thành. Do tích tập hết thảy
các thiện pháp mà [Thiện Tài] trừ sạch hết thảy
các chướng nạn, liền trông thấy thiện tri thức,
rốt ráo thành Phật. Lại có thân chúng thần là Liên Hoa Đức
tán thán bà Ma Da, liền phóng vô lượng quang, khiến cho
Thiện Tài đắc tịnh quang minh nhăn, vĩnh viễn
ĺa khỏi si ám, cho đến đắc Phổ Kiến
Nhăn, trông thấy chư Phật xuất thế trong hết
thảy các cơi. Lại có thần thủ hộ pháp đường
ở trong hư không, bảo rằng: “Bồ Tát thành tựu mười pháp và mười
tam-muội, sẽ được thân cận thiện tri thức”.
Mười pháp ấy bắt đầu từ tâm thanh tịnh,
ĺa các thứ siểm nịnh, dối trá, cuối cùng là thấy
thấu triệt các pháp, tùy thuận thiện tri thức. Các
môn tam-muội bắt đầu từ Pháp Không Thanh Tịnh
Luân, cuối cùng là Thiện Tri Vô Hữu Quá Thất (善知無有過失, khéo biết chưa từng có lỗi lầm), [những
điều này] đều biểu thị phương tiện
nhập Thập Nhất Địa. Đă có thể thủ
hộ tâm thành, khiến cho [tâm thành] thấu triệt, sung túc, lại đắc Tịnh Nhăn Phổ Kiến,
và trong tâm đă ĺa siểm nịnh, dối gạt, hạnh
không lầm lỗi, tức là Bồ Tát hạnh đă trọn
đủ. V́ thế, có thể nhập Thập Nhất
Địa.
Kế đó, từ
Sư Tử Phật trở đi cho đến nhiều vị Phật được kinh kể ra, cuối cùng [kinh] nói “như
thế cho đến Lâu Chí Như Lai”, tức là những
vị ở trong Hiền Kiếp sẽ thành Phật trong
tam thiên đại thiên thế giới này, bà Ma
Da ắt đều là mẹ của các Ngài. Trong đại
thiên này là như thế, mà trong vô lượng thế giới
hải cũng lại như thế. Ấy là v́ đức
Ma Da biểu thị Thập Nhất Địa, gộp
chung ba pháp Lư, Trí, và đại bi làm Thể, hết thảy chư Phật
đều do ba pháp mà sanh. Đối với hai vị sau,
khi xưa Tỳ Lô Như Lai làm Đại Oai Đức
Luân Vương, đức Ma Da làm đạo tràng thần tên là Từ
Đức. Có Ly Cấu Tràng Bồ Tát sắp thành Chánh Giác,
có ác ma kéo tới [toan gây chướng ngại], Luân
Vương liền hóa ra quân sĩ ủng hộ, Bồ Tát
bèn được thành đạo. Từ Đức yêu mến, tôn trọng vị vua ấy, tưởng vua như
con ruột của ḿnh, hướng về đức Phật
phát nguyện: “Nguyện vị
luân vương này ở bất cứ nơi đâu, cho
đến khi thành Phật, tôi thường được
làm mẹ Ngài”. Do nhân duyên ấy, nay là Phật mẫu.
Trên đây, giải thích về địa vị Đẳng
Giác đă xong. Kế đó là địa vị Diệu Giác.
3.3.2.5.6. Viên Khế Quả Pháp Chúng (圓契果法眾, đại chúng khế nhập
trọn vẹn quả pháp)
Tán rằng: “Huưnh siêu quả vị, bất gián sơ nhân” (Quả
vị vượt trỗi, cái nhân ban đầu vẫn chẳng
gián đoạn). Hoàn tất Thập Nhất Địa,
Đức Sanh bảo Thiện Tài đến gặp ngài Di
Lặc, biểu thị đă vượt thoát địa vị
Đẳng Giác, chứng quả Diệu Giác. Ngài Di Lặc
lại bảo Thiện Tài trở lại gặp ngài Văn
Thù, biểu thị quả tột cùng có cùng một nhân,
đầu và cuối như một, tuy đă vượt
thoát, thật sự chẳng gián cách, khác biệt! Khi ấy,
Thiện Tài lại do Văn Thù mà gặp Phổ Hiền,
bèn trọn đủ các biển hạnh nguyện Phổ
Hiền, bằng với Phổ Hiền, bằng với chư Phật. Hợp chung ba vị này, tạo thành quả pháp
viên măn tột cùng của hết thảy chư Phật, đấy
là hạnh Tịch và Dụng thường vốn như thế.
Do vậy, phần này được phán định là Viên
Khế Quả Pháp (khế nhập
trọn vẹn quả pháp), tán
thán rằng: “Tịch Dụng
thường nhiên” (Tịch và Dụng thường là
như thế). Đây chính là thường đạo “vong tu tuyệt chứng Phật quả” trong hai loại thường đạo.
Di Lặc, Văn
Thù, Phổ Hiền tuy là thánh hiệu của cổ Phật,
không một ai là chẳng trọn đủ, há cầu
nơi người khác ư? Di Lặc là như thế nào?
Quả của Căn Bản Trí trong tự tánh. Văn Thù là
như thế nào? Trí thể phổ quang trong tự tánh. Phổ
Hiền là ǵ? Trí dụng sai biệt trong tự tánh. Ba vị
ấy vốn là một Thể hội hợp, ở trong
Như Lai Tạng của chúng sanh, tùy thuận t́nh thức
mà chuyển biến, hóa thành những căn cơ sai khác. Đại
thánh thương xót, nhằm đối trị t́nh thức
ấy, khôi phục cái đă bị biến đổi ấy,
cho nên nương vào cái quả của Căn Bản Trí và phổ
quang trí thể, dấy lên tác dụng của Sai Biệt Trí,
lập ra cách đối trị tập khí cho đến khi
hết sạch tập khí, trí sẽ sáng tỏ, công hoàn
thành, ḷng Bi đă măn, sẽ là bản thể của ba vị
ấy, vô vi, vô tác, rành rành hiện
ra viên măn. Do vậy, sau năm mươi vị
[thiện tri thức], riêng lập ra ba vị này, ḥng dạy
người tu Hoa Nghiêm: Công hoàn tất, hạnh viên măn,
đều có thể chứng ba quả ấy trong tự tánh,
chẳng do điều ǵ khác mà đạt được.
Đấy là chánh vị để trở về nguồn cội,
là cái quả cùng tột vong tu tuyệt chứng. Đức
Tỳ Lô đă ban giáo pháp, Thiện Tài làm người dẫn
dắt, phát khởi, đều nhằm khiến cho ai nấy
đều đạt tới cực quả này. Các hành nhân
hăy nên dốc sức mong đạt đến, ngơ hầu
chẳng phụ ḷng Từ sâu xa dạy bảo, phát khởi,
hướng dẫn của các bậc thánh hiền thuở
trước. Hăy c̣n có những vị khác, nhưng không mang
tánh chất biểu thị pháp then chốt, sợ khiến
cho giáo ư bị xen tạp, cho nên chẳng nhắc đến
(phẩm Nhập Pháp Giới này gồm hai mươi mốt
quyển).
3.3.3. Ngũ Hối Giải (五悔解, giải thích về ngũ hối)
Phẩm Phổ
Hiền Hạnh Nguyện nói: “Nếu
muốn thành tựu công đức vô tận của Như
Lai, hăy nên tu mười thứ hạnh nguyện rộng lớn”.
Trong ấy, chính là pháp Ngũ Hối. Kinh chép: “Nếu tu pháp này, sẽ có thể
thành thục hết thảy chúng sanh, tùy thuận Vô Thượng
Bồ Đề, thành tựu viên măn biển hạnh của
Phổ Hiền”. Năm pháp có thể sám hối, trừ
diệt năm thứ chướng; v́ thế gọi là
Ngũ Hối, có nghĩa là hối hận v́ đă để
cho ḷng keo tiếc sanh khởi.
Ai mà không có lỗi,
chỉ trừ bậc đă chứng Bất Động Trí
là có thể không lầm lỗi. Nhưng trí thể bất
động bị nghiệp trần tích lũy ngăn
chướng, nếu muốn chứng đắc, ắt phải
sám trừ, gột rửa, th́ sau
đó mới hiện ra sáng ngời. Do vậy, có năm
pháp, lấy sám hối làm đầu. Trần đă tiêu, giác
sẽ tịnh, tâm và Phật sẽ tương ứng. V́
thế, kế đó, dùng khuyến thỉnh chư Phật
thuyết pháp ḥng lợi lạc chúng sanh. Đă nương cậy
Phật pháp, hăy nên tùy hỷ. Đối với phước lợi đă đạt
được, hăy nên hồi
hướng. Do hồi hướng về điều thiện,
hăy nên phát đại nguyện. Đấy là v́ thành thục
chúng sanh thành tựu Bồ Đề, viên măn hạnh Phổ
Hiền, công và dụng đều trọn đủ, sẽ
do đó mà chứng bất động trí Phật. V́ thế,
đối với Phổ Hiền hạnh nguyện, đặc
biệt lập ra pháp này. Công phu lễ tụng đă xong, ắt
phải vâng theo đó mà tu tập.
Bài kệ sám hối
có đoạn: “Ngă quán năng
chiếu pha lê kính” (Ta quán thấy sự chiếu soi giống
như gương pha lê). Trong phẩm Tùy Hảo Quang Minh,
các thiên tử hỏi: “Sám hối
trừ diệt các lỗi ác như thế nào?” Khi ấy,
có cái trống trên cơi trời, do sức tam-muội của Bồ
Tát, phát ra tiếng bảo rằng: “Các nghiệp do điên đảo mà sanh, chẳng có trụ xứ, tùy theo sự
tu tập mà thọ báo ấy”.
Ví như có tấm gương pha lê, tên là Năng Chiếu,
vô biên h́nh bóng đều hiện trong đó, nhưng chẳng có dấu
tích đến đi. Hết thảy các nghiệp tuy có thể
sanh ra quả báo thiện hay ác, chẳng có chỗ đến
đi; nếu biết như vậy, sẽ là thật sự
sám hối. Hết thảy tội ác thảy đều thanh
tịnh.
Ư nói Bổn Giác diệu
minh, muôn vật chẳng thể nhiễm. Do cái tâm điên
đảo bị hư vọng nhuốm bẩn, cho nên
vĩnh viễn diệt trừ cái tâm điên đảo, hết
thảy sẽ thanh tịnh. Kệ Khuyến Thỉnh có
đoạn nói: “Phật chẳng
xa người, chỉ có người nhiều lượt
chấp lấy Hoặc, tự trái nghịch Phật. Nếu
có thể cầu sâu xa, ắt sẽ không lúc nào chẳng hiện”.
Ba bài kệ khác đều chọn từ ư kinh, từ những
lời giải trong phần trên, sẽ có thể biết
tường tận. Những câu Tam Quy chính là đại ư của
một trăm bốn mươi đại nguyện trong
phẩm Tịnh Hạnh. Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh Yếu Giải đă xong.
Hoa Nghiêm Kinh Yếu Giải hết
[1]
Chúng tôi dịch theo bản điện tử trong trang Bát
Nhă Văn Hải của Báo Ân Phật Vơng, không thấy
đăng tải phần phụ lục này.
[2] Kiến Viêm (建炎) là niên hiệu đầu tiên của
Tống Cao Tông (Triệu Cấu). Niên hiệu này được
sử dụng từ năm 1127 đến năm 1130.
[3] Kệ ở đây không phải
là một bài kệ theo lối thơ như trong kệ tụng,
mà chỉ là cách tính độ lớn của tác phẩm theo
lối Ấn Độ. Cứ bốn câu, bất luận
số chữ bao nhiêu, có vần hay không vần
đều gọi
là một kệ.
“Đại thiên thế giới vi trần số” là số lượng vi trần
trong một tam thiên đại thiên thế giới.
Một Tứ Thiên Hạ là một
thế giới, tức bốn đại châu (Đông Thắng
Thần Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Nam Thiệm Bộ Châu và Bắc
Câu Lô Châu). Do bốn đại châu ở ngay dưới tầng
trời thứ nhất (Tứ Vương Thiên), nên gọi chung là Tứ Thiên Hạ.
[4] Xuẩn động (蠢動) là ngọ ngoạy, nói “hàm linh xuẩn động” là chỉ những loài trùng bọ.
[5] “Sát” là sát độ, tức cơi Phật. Do số
lượng các cơi Phật nhiều không kể xiết nên
dùng chữ Hải để h́nh dung, v́ vậy gọi là sát
hải (剎海).
[6] Phật sát vi trần: Số lượng vi trần trong một cơi Phật.
[7] Tên các vị ấy là Phổ Hiền,
Phổ Đức Tối Thắng Đăng Quang Chiếu,
Phổ Quang Sư Tử Tràng, Phổ Bảo Diệm Diệu
Quang, Phổ Âm Công Đức Hải Tràng, Phổ Trí Quang
Chiếu Như Lai Cảnh, Phổ Bảo Kế Hoa Tràng, Phổ
Giác Duyệt Ư Thanh, Phổ Thanh Tịnh Vô Tận Phước
Quang, và Phổ Quang Minh Tướng.
[8] Mười vị Bồ Tát ấy
là Hải Nguyệt Quang Đại Minh, Vân Âm Hải Quang Vô
Cấu Tạng, Công Đức Bảo Kế Trí Sanh, Công
Đức Tự Tại Quang, Thiện Dũng Mănh Liên Hoa Kế,
Phổ Trí Vân Nhật Tràng, Đại Tinh Tấn Kim Cang Tê,
Hương Diệm Quang Tràng, Đại Minh Đức Thâm
Mỹ Âm, và Đại
Phước Quang Trí Sanh.
[9] “Luận” ở đây là bộ Tân Hoa Nghiêm Kinh Luận của
Lư Trưởng Giả (Lư Thông Huyền), thường gọi
là Hoa Nghiêm Sớ Luận.
[10] Tam Hiền là danh xưng để
gọi chung Thập Trụ, Thập Hạnh và Thập Hồi
Hướng. Thập Thánh là danh xưng để gọi mười
địa vị thuộc Thập Địa.
[11] Theo Phật Học Từ Điển,
có ba cách hiểu chữ Diện Môn (面門):
1. Toàn bộ khuôn mặt.
2. Phần mặt ở dưới
mũi phía trên miệng.
3. Diện môn chính là miệng.
[12] Ư nói trong mỗi địa vị,
chẳng hạn như ở đây là Tín vị, do trừ khử phiền năo, tập
khí mỏng dần theo từng giai đoạn, nên gọi
là tăng tấn. Do tăng tấn, tŕnh độ chứng
ngộ khác biệt, nên cảnh giới khác biệt, do so
sánh về tŕnh độ chứng ngộ khác nhau trong các cảnh
giới mà lập
ra các danh xưng Sơ Tín, Nhị Tín, Tam Tín v.v…
[13] Thiên kinh địa vĩ (天經地緯) là danh xưng phiếm chỉ những
chân lư đương nhiên trong trời đất.
Ngũ Tinh (五星) là
Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, và Thổ Tinh.
Năm ngôi sao này tương ứng với ngũ hành, và c̣n
có danh xưng khác là Thần Tinh, Thái Bạch, Huỳnh Hoặc,
Tuế Tinh và Trấn Tinh.
Ngũ Nhạc
(五嶽) là danh
xưng để gọi năm rặng núi danh tiếng tại
Trung Hoa, tức Đông Nhạc Thái Sơn (thuộc tỉnh
Sơn Đông), Tây Nhạc Hoa Sơn (thuộc tỉnh Thiểm
Tây), Trung Nhạc Tung Sơn (thuộc tỉnh Hà Nam), Bắc
Nhạc Hằng Sơn (thuộc tỉnh Sơn Tây), và Nam Nhạc
Hành Sơn (thuộc tỉnh Hồ Nam). Năm rặng núi
này phân định ranh giới của Trung Nguyên thời cổ.
[14] Ngũ Thường là nhân, lễ,
nghĩa, trí, tín.
Ngũ Tạng là tim, gan, tỳ
(bao tử), phổi, thận.
Ngũ Thể là đầu và tứ
chi. Khi nói “ngũ thể đầu
địa” (năm vóc gieo xuống đất) chính là
đảnh lễ, áp trán, hai ḷng bàn tay và cánh tay xuống đất, hai gối đặt sát đất.
[15] Để thuận tiện theo
dơi cách lập luận ở đây, xin trích dẫn nguyên
văn lời hỏi của các vị Bồ Tát được
chép trong phẩm Như Lai Danh Hiệu như sau: “Thời chư Bồ Tát tác thị
tư duy: - Nhược Thế Tôn kiến mẫn ngă đẳng,
nguyện tùy sở nhạo, khai thị Phật sát, Phật
trụ, Phật sát trang nghiêm, Phật pháp tánh, Phật sát
thanh tịnh, Phật sở thuyết pháp, Phật sát thể
tánh, Phật oai đức, Phật sát thành tựu, Phật
đại Bồ Đề. Như thập phương nhất
thiết thế giới chư Phật Thế Tôn, vị
thành tựu nhất thiết Bồ Tát cố, linh Như Lai
chủng tánh bất đoạn cố, cứu hộ nhất
thiết chúng sanh cố, linh chư chúng sanh vĩnh ly nhất
thiết phiền năo cố, liễu tri nhất thiết
chư hạnh cố, diễn thuyết nhất thiết
chư pháp cố, tịnh trừ nhất thiết tạp
nhiễm cố, vĩnh đoạn nhất thiết nghi
vơng cố, bạt trừ nhất thiết hy vọng cố,
diệt hoại nhất thiết ái trước xứ cố,
thuyết chư Bồ Tát Thập Trụ, Thập Hạnh,
Thập Hồi Hướng, Thập Tạng, Thập Địa,
Thập Nguyện, Thập Định, Thập Thông, Thập
Đảnh, cập thuyết Như Lai địa, Như
Lai cảnh giới, Như Lai thần lực, Như Lai sở
hạnh, Như Lai lực, Như Lai vô úy, Như Lai tam-muội,
Như Lai thần thông, Như Lai tự tại, Như Lai vô
ngại, Như Lai nhăn, Như Lai nhĩ, Như Lai tỵ,
Như Lai thiệt, Như Lai thân, Như Lai ư, Như Lai biện
tài, Như Lai trí huệ, Như Lai tối thắng. Nguyện
Phật Thế Tôn, diệc vị ngă thuyết” (Khi ấy,
các vị Bồ Tát tư duy như thế này: “Nếu đức
Thế Tôn thương xót chúng con, sẽ thuận theo sự
ưa thích mà khai thị về Phật sát, Phật trụ,
Phật sát trang nghiêm, Phật pháp tánh, Phật sát thanh tịnh,
pháp do đức Phật đă nói, thể tánh của cơi Phật,
oai đức của Phật, sự thành tựu trong cơi Phật,
đại Bồ Đề của Phật. Như chư
Phật Thế Tôn trong mười phương hết thảy
các thế giới, v́ thành tựu hết thảy các Bồ
Tát, v́ khiến cho chủng tánh Như Lai chẳng đoạn,
v́ cứu giúp, bảo vệ hết thảy chúng sanh, khiến
cho các chúng sanh vĩnh viễn ĺa khỏi hết thảy phiền
năo, v́ biết rơ hết thảy các hạnh, v́ diễn nói hết
thảy các pháp, v́ trừ sạch hết thảy các tạp
nhiễm, v́ vĩnh viễn đoạn hết thảy
lưới nghi, v́ dẹp trừ hết thảy mong mỏi,
diệt tan hết thảy những chỗ yêu đắm,
mà nói Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng, Thập Tạng, Thập Địa, Thập
Nguyện, Thập Định, Thập Thông, Thập Đảnh
của các Bồ Tát và nói đến địa vị
Như Lai, cảnh giới Như Lai, thần lực của
Như Lai, sở hành của Như Lai, Như Lai lực,
Như Lai vô úy, tam-muội của Như Lai, thần thông của
Như Lai, Như Lai tự tại, Như Lai vô ngại, mắt
Như Lai, tai Như Lai, mũi Như Lai, lưỡi Như
Lai, thân thể của Như Lai, Như Lai ư, Như Lai biện
tài, Như Lai trí huệ, Như Lai tối thắng. Mong
đức Phật Thế Tôn cũng v́ chúng con mà nói”).
[16] Trong phẩm này, do thần thông của
đức Phật, ngoài các vị đại chúng đă hiện
diện, từ mười phương có các vị Bồ
Tát như sau nhóm đến:
1) Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát từ thế giới Kim Sắc của Bất Động
Trí Phật ở phương Đông.
2) Giác Thủ Bồ Tát từ thế
giới Diệu Sắc của Vô Ngại Trí Phật ở
phương Nam.
3) Tài Thủ Bồ Tát từ thế
giới Liên Hoa Sắc của Diệt Ám Trí Phật ở
phương Tây.
4) Bảo Thủ Bồ Tát từ
thế giới Chiêm Bặc Hoa Sắc của Oai Nghi Trí Phật
ở phương Bắc.
5) Công Đức Thủ từ thế
giới Ưu Bát La Hoa Sắc của Minh Tướng Trí Phật
ở phương Đông Bắc.
6) Mục Thủ Bồ Tát từ
thế giới Kim Sắc của Cứu Cánh Trí Phật ở
phương Đông Nam.
7) Tinh Tấn Thủ Bồ Tát từ
thế giới Bảo Sắc của Tối Thắng Trí Phật
ở phương Tây Nam.
8) Pháp Thủ Bồ Tát từ thế
giới Kim Cang Sắc của Tự Tại Trí Phật ở
phương Tây Bắc.
9) Trí Thủ Bồ Tát từ thế
giới Pha Lê Sắc của Phạm Trí Phật ở
phương dưới.
10) Hiền Thủ Bồ Tát từ
thế giới B́nh Đẳng Sắc của Quán Sát Trí Phật
ở phương trên.
Trên đây, có hai thế giới
trùng tên là Kim Sắc ở phương Đông và Kim Sắc ở
phương Đông Nam. Thế giới B́nh Đẳng Sắc
như ngài Giới Hoàn đă viết chính là Diệu Sắc.
[17] Chúng tôi dịch câu này theo cách diễn
giải trong bộ Chú Triệu Luận Sớ của ngài
Tuân Thức. Ngài Tuân Thức giảng: “Thánh là người có thể chứng. Thần là trí
dụng chẳng thể lường. Thánh trí cũng chẳng
xa, bởi từ ngay Tục mà chứng Chân chính là thánh trí chẳng
thể lường vậy”.
[18] Ở đây, ngài Giới Hoàn lại
sử dụng danh hiệu của các vị Bồ Tát được
chép trong Lục Thập Hoa Nghiêm tuy đang nói về Bát Thập
Hoa Nghiêm.
[19]
Kinh chép một trăm bốn mươi
mốt đại nguyện, nhưng trong các bản chú giải
của tông Hoa Nghiêm thường nói tṛn thành một trăm
bốn mươi nguyện.
[20] Mười vị Phật
được nhắc đến trong bài kệ của
Đế Thích là Ca Diếp Phật, Câu Na Mâu Ni, Ca La Cưu
Đà, Tỳ Xá Phù, Thi Khí, Tỳ Bà Thi, Phất Sa, Đề
Xá, Ba Đầu Ma, và Nhiên Đăng.
[21] Các vị Bồ Tát, thế giới
và Phật hiệu trong hội thứ ba này lần lượt
như sau:
1) Pháp Huệ Bồ Tát từ thế
giới Nhân Đà La Hoa, Phật hiệu Thù Đặc Nguyệt.
2) Nhất Thiết Huệ Bồ
Tát từ thế giới Ba Đầu Ma Hoa, Phật hiệu
Vô Tận Nguyệt.
3) Thắng Huệ Bồ Tát từ
thế giới Bảo Hoa, Phật hiệu Bất Động
Nguyệt.
4) Công Đức Huệ Bồ Tát
từ thế giới Ưu Bát La Hoa, Phật hiệu Phong
Nguyệt.
5) Tinh Tấn Huệ Bồ Tát từ
thế giới Kim Cang Hoa, Phật hiệu Thủy Nguyệt.
6) Thiện Huệ Bồ Tát từ
thế giới Diệu Hương Hoa, Phật hiệu Giải
Thoát Nguyệt.
7) Trí Huệ Bồ Tát từ thế
giới Duyệt Ư Hoa, Phật hiệu Vô Thượng Nguyệt.
8) Chân Thật Huệ Bồ Tát từ
thế giới A Lô Na Hoa, Phật hiệu Tinh Tú Nguyệt.
9) Vô Thượng Huệ Bồ
Tát từ thế giới Na La Đà Hoa, Phật hiệu
Thanh Tịnh Nguyệt.
10) Kiên Cố Huệ Bồ Tát từ
thế giới Hư Không Hoa, Phật hiệu Minh Liễu
Nguyệt.
[22] Đây là một thành ngữ dựa
theo thuật ngữ “băo phác hàm
chân” (抱樸含真) trong Đạo gia. Theo nghĩa gốc,
“băo phác hàm chân” có nghĩa là giữ ǵn trọn vẹn tánh thiên
chân, nguyên sơ, chẳng xen lẫn hư ngụy, chẳng
bị ô nhiễm bởi những thói hư tật xấu. Ở
đây, “hàm chân băo nhất” (含真抱一) cũng có ư nghĩa tương tự,
giữ trọn vẹn chân tánh, giữ được nhất
tâm, không xen tạp vọng t́nh hư ngụy cũng như
các kiến chấp, các tư hoặc.
[23]
Các tầng trời ở lưng chừng núi Tu Di th́ gọi
là Địa Cư Thiên, các tầng trời vượt
ngoài núi Tu Di gọi là Không Cư Thiên.
[24]
Danh hiệu Bồ Tát, thế giới và Phật hiệu của
mười vị Bồ Tát trong hội Thập Hạnh là:
1)
Công Đức Lâm Bồ Tát từ thế giới Thân Huệ
của Thường Trụ Nhăn Phật.
2)
Huệ Lâm Bồ Tát từ thế giới Tràng Huệ của
Vô Thắng Nhăn Phật.
3)
Thắng Lâm Bồ Tát từ thế giới Bảo Huệ
của Vô Trụ Nhăn Phật.
4)
Vô Úy Lâm Bồ Tát từ thế giới Thắng Huệ của
Bất Động Nhăn Phật.
5)
Tàm Quư Lâm Bồ Tát từ thế giới Đăng Huệ
của Thiên Nhăn Phật.
6)
Tinh Tấn Lâm Bồ Tát từ thế giới Kim Cang Huệ
của Giải Thoát Nhăn Phật.
7)
Lực Lâm Bồ Tát từ thế giới An Lạc Huệ
của Thẩm Đế Nhăn Phật.
8)
Hạnh Lâm Bồ Tát từ thế giới Nhật Huệ
của Minh Tướng Nhăn Phật.
9)
Giác Lâm Bồ Tát từ thế giới Tịnh Huệ của
Tối Thượng Nhăn Phật.
10)
Trí Lâm Bồ Tát từ thế giới Phạm Huệ của
Cám Thanh Nhăn Phật.
[25]
Mười vị Phật được nhắc đến
trong bài tán thán của Đâu Suất Thiên Vương là Vô Ngại
Minh, Quảng Trí, Phổ Nhăn, San Hô, Luận Sư Tử, Nhật
Chiếu, Vô Biên Quang, Pháp Tràng, Trí Đăng, và Công Đức
Quang.
[26]
Cũng giống như trong các hội trước, trong hội
Thập Hồi Hướng cũng có mười vị Bồ
Tát đến từ mười thế giới ở
mười phương như sau:
1)
Kim Cang Tràng Bồ Tát từ thế giới Diệu Bảo
của Vô Tận Tràng Phật.
2)
Kiên Cố Tràng Bồ Tát từ thế giới Diệu Lạc
của Phong Tràng Phật.
3)
Dũng Mănh Tràng Bồ Tát từ thế giới Diệu Ngân
của Giải Thoát Tràng Phật.
4)
Quang Minh Tràng Bồ Tát từ thế giới Diệu Kim của
Oai Nghi Tràng Phật.
5)
Trí Tràng Bồ Tát từ thế giới Diệu Ma Ni của
Minh Tướng Tràng Phật.
6)
Bảo Tràng Bồ Tát từ thế giới Diệu Kim Cang
của Thường Tràng Phật.
7)
Tinh Tấn Tràng Bồ Tát từ thế giới Diệu Ba
Đầu Ma của Tối Thắng Tràng Phật.
8)
Ly Cấu Tràng Bồ Tát từ thế giới Diệu
Ưu Bát La của Tự Tại Tràng Phật.
9)
Tinh Tú Tràng Bồ Tát từ thế giới Diệu Chiên
Đàn của Phạm Tràng Phật.
10)
Pháp Tràng Bồ Tát từ thế giới Diệu
Hương của Quán Sát Tràng Phật.
[27]
Danh xưng của các vị Bồ Tát đến từ
mười phương trong hội Thập Địa là:
Kim Cang Tạng Bồ Tát, Bảo Tạng Bồ Tát, Liên Hoa Tạng
Bồ Tát, Đức Tạng Bồ Tát, Liên Hoa Đức Tạng
Bồ Tát, Nhật Tạng Bồ Tát, Tô Lợi Da Tạng Bồ
Tát, Vô Cấu Nguyệt Tạng Bồ Tát, Ư Nhất Thiết
Quốc Độ Phổ Hiện Trang Nghiêm Tạng Bồ
Tát, Tỳ Lô Xá Na Trí Tạng Bồ Tát, Diệu Đức Tạng
Bồ Tát, Chiên Đàn Đức Tạng Bồ Tát, Hoa Đức
Tạng Bồ Tát, Câu Tô Ma Đức Tạng Bồ Tát,
Ưu Bát La Đức Tạng Bồ Tát, Thiên Đức Tạng
Bồ Tát, Phước Đức Tạng Bồ Tát, Vô Ngại
Thanh Tịnh Trí Đức Tạng Bồ Tát, Công Đức
Tạng Bồ Tát, Na La Diên Đức Tạng Bồ Tát, Vô
Cấu Tạng Bồ Tát, Ly Cấu Tạng Bồ Tát, Chủng
Chủng Biện Tài Trang Nghiêm Tạng Bồ Tát, Đại
Quang Minh Vơng Tạng Bồ Tát, Tịnh Oai Đức Quang
Minh Vương Tạng Bồ Tát, Kim Trang Nghiêm Đại
Công Đức Quang Minh Vương Tạng Bồ Tát, Nhất
Thiết Tướng Trang Nghiêm Tịnh Đức Tạng
Bồ Tát, Kim Cang Diệm Đức Tướng Trang Nghiêm
Tạng Bồ Tát, Quang Minh Diệm Tạng Bồ Tát, Tinh Tú
Vương Quang Chiếu Tạng Bồ Tát, Hư Không Vô Ngại
Trí Tạng Bồ Tát, Diệu Âm Vô Ngại Tạng Bồ
Tát, Đà La Ni Công Đức Tŕ Nhất Thiết Chúng Sanh
Nguyện Tạng Bồ Tát, Hải Trang Nghiêm Tạng Bồ
Tát, Tu Di Đức Tạng Bồ Tát, Tịnh Nhất Thiết
Công Đức Tạng Bồ Tát, Như Lai Tạng Bồ
Tát, Phật Đức Tạng Bồ Tát, và Giải Thoát
Nguyệt Bồ Tát.
[28]
Thất Giác Hạnh chính là Thất Giác
Chi (Sapta Bodhyanga) trong ba mươi bảy đạo phẩm,
c̣n gọi là Thất Đẳng Giác Chi, Thất Biến
Giác Chi, Thất Bồ Đề Phần, Thất Giác Phần,
Thất Giác Ư, Thất Giác Chí, Thất Giác Chi Pháp… bao gồm
Ức Niệm (Smṛti), Trạch Pháp (Dharma-pravicaya), Tinh Tấn
(Viriya), Hỷ Duyệt (Prīti), Khinh An (Prasrabhi), Thiền Định (Samādhi),
và Đẳng Xả (Upekkhā).
[29]
Hai thánh hiệu được nêu ra trong phẩm này là Tỳ
Lô Giá Na Bồ Tát và phu nhân Ma Da.
[30]
“Nhị ngu” ở đây là hai cái ngu trong phần trước, tức là cái ngu đối với
cách tính toán rộng lớn và cái ngu đối với tùy hảo
công đức như đă nói trong phần giảng giải
phẩm A Tăng Kỳ.
[31]
Trong phẩm này, các vị Bồ Tát thượng thủ là
Phổ Hiền, Phổ Nhăn, Phổ Hóa, Phổ Huệ, Phổ
Kiến, Phổ Quang, Phổ Quán, Phổ Chiếu, Phổ
Tràng, Phổ Giác, có mười bất khả thuyết
trăm ngàn ức na-do-tha
Phật sát vi trần số Bồ Tát nhóm họp, các Ngài
đều cùng tu hạnh nguyện Phổ Hiền.
[32]
Danh hiệu của mười vị Bồ
Tát đến từ mười phương trong hội Nhập
Pháp Giới là:
1. Tỳ Lô Giá Na Nguyện Quang Minh Bồ
Tát đến từ thế giới Kim Đăng Vân Tràng của
Tỳ Lô Giá Na Thắng Đức Vương Phật ở
phương Đông.
2. Bất Khả Hoại Tinh Tấn
Vương Bồ Tát đến từ thế giới Kim
Cang Tạng của Phổ Quang Minh Vô Thắng Tạng
Vương Phật ở phương Nam.
3. Phổ Thắng Vô Thượng Oai
Đức Vương Bồ Tát đến từ thế
giới Ma Ni Bảo Đăng Tu Di Sơn Tràng của Pháp
Giới Trí Đăng Phật ở phương Tây.
4. Vô Ngại Thắng Tạng
Vương Bồ Tát đến từ thế giới Bảo
Y Quang Minh Tràng của Chiếu Hư Không Pháp Giới Đại
Quang Minh Phật ở phương Bắc.
5. Hóa Hiện Pháp Giới Nguyện Nguyệt
Vương Bồ Tát từ thế giới Nhất Thiết
Hoan Hỷ Thanh Tịnh Quang Minh Vơng của Vô Ngại Nhăn Phật
ở phương Đông Bắc.
6. Pháp Huệ Quang Diệm Vương Bồ
Tát từ thế giới Hương Vân Trang Nghiêm Tràng của
Long Tự Tại Vương Phật ở
phương Đông Nam.
7. Tồi Phá Nhất Thiết Ma
Quân Trí Tràng Vương Bồ Tát từ thế giới Nhật
Quang Ma Ni Tạng của Phổ Chiếu Chư Pháp Trí Nguyệt
Vương Phật ở phương Tây Nam.
8. Nguyện Trí Quang Nguyệt Tràng Bồ
Tát từ thế giới Tỳ Lô Giá Na Nguyện Ma Ni
Vương Tạng của Phổ Quang Tối Thắng Tu
Di Vương Phật ở phương Tây Bắc.
9. Phá Nhất Thiết Chướng
Dũng Mănh Trí Vương Bồ Tát từ thế giới
Nhất Thiết Như Lai Viên Măn Quang Phổ Chiếu của
Hư Không Vô Ngại Tướng Trí Tràng Vương Phật
ở phương dưới.
10. Pháp Giới Sai Biệt Nguyện Bồ
Tát từ thế giới Thuyết Phật Chủng Tánh Vô Hữu
Tận của Phổ Trí Luân Quang Minh Âm Phật ở
phương trên.
[33]
Danh ở đây là tên gọi của sự
vật, ngôn là từng chữ một.
[34]
“Thuyền sư” có thể hiểu là thuyền
trưởng trong hiện thời, hoặc là hoa tiêu, hoặc
đơn giản là người thông thạo thủy triều,
hướng gió, có thể hướng dẫn phu thuyền
chèo chống đến nơi an toàn.
[35]
Nhân Đà La chính là phiên âm của Indra, tức tên gọi của
Đế Thích Thiên. Kinh Hoa Nghiêm nói Đế Thích có cái
lưới kết bằng các chất báu, mỗi mắt
lưới là một viên ma-ni bảo châu, hiện bóng lẫn
nhau trùng trùng vô tận.
[36]
Vị thiện tri thức này có tên gọi
đầy đủ là Thiện Tri Chúng Nghệ Đồng
Tử, cho biết Ngài đă chứng đắc Thiện Tri
Chúng Nghệ Bồ Tát Tự Trí môn, thường xướng
niệm Hoa Nghiêm Tự Mẫu: “Khi
ta xướng niệm bốn mươi hai tự mẫu,
dùng bốn mươi hai môn Bát Nhă Ba La Mật làm đầu,
chứng nhập vô lượng vô số Bát Nhă Ba La Mật
môn”. Bốn mươi hai tự mẫu (theo nghi thức
tụng niệm Tự Mẫu phổ biến do Tam Tạng
Bất Không truyền thừa, hơi khác với cách phiên âm
trong kinh Hoa Nghiêm và nghi thức thông dụng. Bản của
ngài Bất Không gần với âm Phạn hơn) là: “A, ra, bả, tả, nẵng, la, na,
ma, noa, sái, phạ, đa, dă, sắt tra, ca, sa, măng, nga, tha, nhạ,
tát phạ, đà, xả, khư, cật sái, sa đa,
nương, ra tha, bà, sai, sa ma, ha phạ, đá sa, già, tha,
nĩnh, tắc ca, dă sa, thất tả, tra, trà” (Ah, rah,
pa, ca, na, la, da, ba, ḍa, ṣa, va, ta, ya, ṣṭa, ka, sa, ma, ga, tha, ja,
sva, dha, śa, kha, kṣa, sta, ña, rtha, bha, cha, sma,
hva, tsa, gha, tha, ṇa, ska, ysa, śca,
ṭa, ḍha). Xướng tụng
Hoa Nghiêm Tự Mẫu rất phổ biến tại Trung
Hoa, có một nghi thức riêng, thông thường với mỗi
tự mẫu sẽ xướng thành nhiều âm, như với
chữ đầu tiên là chữ A sẽ xướng thành: “A,
inh, âng, ông, ô, ao, ai, y, in, an, yin, an, âu, a, xướng A tự
thời, phổ nguyện pháp giới chúng sanh, nhập Bát
Nhă Ba La Mật môn”.