Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao
Quyển thứ ba
(Phần 1)
IV. Tự
1. Lời tựa in tặng tranh Cực Lạc (viết thay)
Giáo pháp của pháp môn Tịnh Độ lớn
lao thay! Tâm này làm Phật, tâm này là Phật, pháp Trực Chỉ
Nhân Tâm c̣n phải nhường phần kỳ đặc (lạ
lùng, đặc biệt). [So với cách tu] “dùng ngay cái tâm
này niệm Phật, niệm niệm thành Phật” th́ lợi
ích đạt được do trải bao kiếp tu chứng
vẫn phải kém hơn. Độ khắp thượng
trung hạ căn, thống nhiếp Luật, Giáo, Thiền
Tông, như mưa đúng thời nhuần thấm muôn vật,
như biển cả dung nạp các sông. Hết thảy các
pháp Thiên, Viên, Đốn, Tiệm, không pháp nào chẳng từ
pháp giới này lưu xuất; hết thảy hạnh Đại
- Tiểu, Quyền - Thật, không hạnh nào chẳng quy về
pháp giới này. Chẳng đoạn Hoặc nghiệp mà
được dự vào Bổ Xứ, ngay trong một
đời này viên măn Bồ Đề. Chúng sanh trong chín pháp
giới ĺa môn này th́ trên chẳng thể viên thành Phật
đạo; mười phương chư Phật bỏ
pháp này th́ dưới chẳng thể lợi khắp quần
manh. Do vậy, Hoa Nghiêm hải chúng hết thảy đều
tuân theo mười đại nguyện vương. Pháp Hoa
xưng niệm một tiếng[1]
đều chứng Thật Tướng các pháp.
Hạnh
phương tiện tối thắng, ngài Mă Minh dạy trong
luận Khởi Tín. Đạo dễ hành chóng đến,
ngài Long Thọ xiển dương trong luận Tỳ Bà Sa.
Ngài Trí Giả là hậu thân của Phật Thích Ca, nói Thập
Nghi Luận, chuyên chí Tây Phương. Ngài Vĩnh Minh là Phật
Di Đà thị hiện, soạn Tứ Liệu Giản, suốt
đời niệm Phật. Hội tam thừa ngũ tánh[2]
cùng chứng chân thường, dẫn thượng thánh hạ
phàm cùng lên bờ kia. V́ thế, [pháp này] được chín
pháp giới cùng quy về, mười phương cùng khen
ngợi. Ngàn kinh cùng xiển dương, vạn luận
đều tuyên nói. Thật có thể gọi là lời bàn luận
tột cùng trong giáo pháp cả một đời [đức
Phật], là đại giáo Nhất Thừa vô thượng
vậy! Chẳng gieo cội đức, dù trải bao kiếp
vẫn khó thể gặp gỡ. Đă được thấy
nghe, hăy nên siêng năng tu tập!
Bất
Huệ sanh nhằm đời Mạt, may mắn gặp
được môn này, thẹn không có sức tự lợi
lợi tha, nhưng hơi có tâm tự lập, lập
người, muốn cho sang, hèn, trí, ngu, Tăng, tục,
nam, nữ, bỏ nẻo khách trở về nước
ḿnh, buông cơi uế sanh về Liên Bang; do vậy, vẽ bức
h́nh y báo chánh báo trang nghiêm của cơi Cực Lạc để
nêu bày cảnh tịnh, nhằm phát sanh ḷng tin tưởng.
Cạnh bức vẽ ghi Niệm Phật Khởi Chỉ
Nghi (nghi thức niệm Phật) và pháp môn Thập Niệm
để ai nấy tùy phần tùy sức tu tŕ hằng ngày.
Đầu đời Minh, ở Cẩn Giang có một vị
đại thiền sư tên là Diệu Hiệp triệt ngộ
Thiền Tông, thông hiểu sâu xa giáo lư, tự hành, dạy
người chuyên chú trọng Tịnh Tông. Tác phẩm Bảo
Vương Tam Muội Niệm Phật Trực Chỉ[3] của
Ngài văn lẫn lư đều hay, hay tuyệt xưa nay! Thiên
sách luận về y báo, chánh báo Cực Lạc của Ngài
tŕnh bày rơ diệu cảnh của Lạc Bang, bao quát các kinh
Tịnh Độ, cùng bức tranh Cực Lạc nói trên chiếu
rọi lẫn nhau không sót chút nào. Do vậy, bèn y theo nguyên bản,
chép lại ở dưới, ngơ hầu người thấy
nghe lễ tụng biết đạo trọng yếu để
thoát khổ, biết cái nhân thật sự để tu thành
Phật. Tín nguyện tùy ư phát sanh, chấp tŕ Phật hiệu
không ngơi.
Từ
đây, cùng ĺa cơi uế, cùng sanh về nước tịnh,
cùng hầu Di Đà nơi chín phẩm sen, cùng viên măn Chủng
Trí trong một niệm. Lợi ích như vậy làm sao diễn
tả được nổi? Ấy là dùng Quả Địa
Giác làm Nhân Địa Tâm (cái tâm để tu nhân) cho nên nhân trùm
biển quả, quả thấu nguồn nhân. In thạch bản
(lithography) một vạn tấm để kết tịnh
duyên. Lại mong thiện tín xoay vần lưu thông để
hết thảy hữu t́nh trong mười phương pháp
giới cùng về lại quê nhà sẵn có của chính ḿnh,
luôn trụ trong Tịch Quang Tịnh Độ vậy!
2. Lời tựa in lại Phật Thuyết A Di Đà Kinh (viết thay)
Trộm nghĩ giáo pháp Tịnh Độ
được khởi đầu bởi Di Đà đạo
sư, được diễn bày bởi Thích Ca Thế Tôn,
mười phương chư Phật hiện tướng
lưỡi rộng dài tán dương, thánh hiền hai cơi
phát tâm Kim Cang lưu truyền. Nói tóm lại, giáo pháp suốt
cả một đời đức Phật, trăm ngàn
pháp môn, không pháp nào chẳng khiến cho con người dùng Văn
Tự Bát Nhă để khởi Quán Chiếu Bát Nhă. Do Quán Chiếu
Bát Nhă bèn chứng Thật Tướng Bát Nhă. Đă chứng
Thật Tướng Bát Nhă th́ “tâm
tịnh, cơi tịnh, t́nh không, cảnh không”, như một
vầng trăng in bóng khắp ngàn con sông, như vạn ống
tiêu cùng kêu bởi một trận gió. Quang minh, thọ mạng
tột cùng chiều ngang, thông thấu chiều dọc, cùng
tồn tại lâu dài giống như đức Di Đà Thế
Tôn. Như vậy th́ kinh nào chẳng phải là kinh Tịnh
Độ, hạnh nào chẳng phải là hạnh Tịnh
Độ?
Ước
trên bề mặt, chỉ có ba kinh Tịnh Độ là chuyên
giảng về Tịnh Độ đến tột cùng.
Nhưng mở bày rộng lớn nguyện luân, minh thị
sâu xa duyên khởi th́ chỉ có kinh Vô Lượng Thọ.
Chuyên xiển dương pháp quán, dạy thêm về nhân văng
sanh th́ chỉ có Thập Lục Quán Kinh. Hai kinh nói trên pháp
môn rộng lớn, đế lư tinh vi, kẻ độn
căn đời Mạt thật khó được lợi
ích. T́m một bản kinh văn tự đơn giản,
nghĩa lư phong phú, chữ nghĩa gọn ghẽ, lư dồi
dào, thích hợp khắp ba căn, chín pháp giới cùng tuân phụng,
hạ thủ dễ, thành công cao, dùng sức ít mà được
hiệu quả nhanh chóng, dốc sức tu một hạnh
mà viên thành vạn đức, khiến cho cái tâm tu nhân nhanh
chóng khế hợp quả giác th́ chỉ có Phật Thuyết
A Di Đà Kinh mà thôi! Ấy là v́ vừa nghe “y báo, chánh báo
trang nghiêm, thượng thiện nhân cùng nhóm hội” th́ ḷng
tin thật sự sẽ nẩy sanh, nguyện thiết tha sẽ
phát, ắt sẽ có cái thế cuồn cuộn như sông
ng̣i không sao ngăn được. Từ đấy,
khăng khắng ǵn giữ, chấp tŕ vạn đức hồng
danh, niệm đâu chú tâm vào đó cho đến khi nhất
tâm bất loạn. Làm được như vậy th́ trong
đời này đă dự vào ḍng thánh, lâm chung theo Phật
văng sanh, khai tri kiến Phật, cùng được thụ
dụng như Phật. Do vậy, biết rằng: Một
pháp Tŕ Danh chứa đựng trọn vạn hạnh, toàn
sự chính là lư, toàn vọng chính là chân, nhân tột biển quả,
quả thấu nguồn nhân, thật có thể gọi là “đường
tắt để trở về nguồn, là môn trọng yếu
để nhập đạo” vậy! Cổ đức
nói: “Học đạo nơi
những môn khác như con kiến trèo lên núi cao. Niệm Phật
văng sanh như buồm căng gió thuận nước”,
thật có lư!
Tôi
túc nghiệp sâu nặng, rất hâm mộ Tịnh tông, tuy
không có sức tự lợi lợi tha, nhưng khá có tâm tự
lập, lập người, nên in lại kinh này để
rộng lưu truyền khiến cho người đọc
đến ai nấy đều chấp tŕ danh hiệu,
đều cùng nhất tâm. Vượt khỏi trần thế,
tu lên Cực Lạc, dùng nguyện luân “nhiếp thủ chúng
sanh” của ngài Pháp Tạng, nương theo cảnh duyên Tịnh
Độ tiến thẳng về Phật Quả, ngơ hầu
kinh “không ai hỏi, Phật tự nói này” chẳng trở
thành giảng xuông, có ai nghe được hạnh này đều
thật sự hành, bèn dập đầu nói kệ tụng
để kính cẩn khuyên lơn như sau:
Người thấy
nghe, tùy hỷ,
Đều
phát tâm Bồ Đề,
Hết một
báo thân này,
Cùng sanh
cơi Cực Lạc.
3. Lời tựa khắc lại cuốn
Di Đà Lược Giải Viên Trung Sao, khuyên nên thọ tŕ
Một pháp Niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ chính là đạo trọng yếu để phổ
độ chúng sanh của mười phương chư Phật,
là diệu môn để mau chứng Phật quả của
chúng sanh trong chín giới. Các kinh Đại Thừa đều
dạy về pháp trọng yếu này; nhưng ba kinh Tịnh
Độ chuyên giảng pháp này đến cùng tột. Thế
gian thường quen thói chẳng suy xét, coi là pháp thiển cận,
cho rằng chẳng rộng sâu như biển Giáo, chẳng
thẳng chóng như Thiền Tông, thường xiển
dương Tông, Giáo, đè nén Tịnh Độ, chuộng
tự lực, ghét Phật lực. Thấy việc nhân mà
nhường, thấy chuyện nghĩa chẳng làm, đến
nỗi bi tâm triệt để của Như Lai bị khuất
lấp chẳng thông suốt được, đường
tắt thoát khổ của chúng sanh bị bế tắc chẳng
thông. Nay chẳng nề hà bị chê trách, nêu chứng cứ
đại lược mong sao người thấy nghe tùy hỷ
cùng sanh về liên bang. Lúc Như Lai mới thành Chánh Giác, v́ bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ diễn giảng kinh Đại Hoa Nghiêm. Đến
phẩm Nhập Pháp Giới, Thiện Tài do tâm Thập Tín
đă măn, vâng lời ngài Văn Thù dạy, tham học với
khắp các tri thức. Thoạt đầu gặp ngài Đức
Vân, vừa được nghe pháp môn Niệm Phật liền
chứng Sơ Trụ. Từ đó hễ tham học liền
chứng, cho đến chỗ của vị tri thức thứ
năm mươi ba là ngài Phổ Hiền. Phổ Hiền
dùng oai thần gia bị, ngay lập tức, sở chứng
của Thiện Tài bằng với Phổ Hiền, bằng
với chư Phật, ngài Phổ Hiền bèn giảng
mười đại nguyện vương khuyến khích
Thiện Tài và Hoa Tạng hải chúng hồi hướng
văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Trong
Quán kinh, hàng Ngũ Nghịch Thập Ác khi tướng địa
ngục hiện, niệm Phật mười tiếng liền
được văng sanh. Pháp Thân đại sĩ đều
nguyện văng sanh, A Tỳ tội nhân c̣n dự vào phẩm
chót. Pháp môn rộng sâu, thẳng chóng, có pháp ǵ hơn
được nữa!
Thật có thể gọi
là kim chỉ nam trong biển Giáo, là Bắc Cực của
Thiền Tông. Hết thảy các pháp, không pháp nào chẳng
lưu xuất từ pháp giới này; hằng sa diệu
nghĩa, không nghĩa nào chẳng quy hoàn pháp giới này.
V́
thế, bên Tây Thiên: Văn Thù, Phổ Hiền, Long Thọ,
Mă Minh, bên Đông Độ: Viễn Công (tổ Huệ Viễn),
Trí Giả, Thiện Đạo, Vĩnh Minh hoặc phát nguyện
nói kinh (ngài Văn Thù có kinh phát nguyện, ngài Phổ Hiền
nói phẩm Hạnh Nguyện), hoặc
chú giải kinh, tạo luận, không vị nào chẳng dùng
pháp môn này để tự hành, dạy người, lợi
khắp hàm thức. Cổ nhân muốn cho cả cơi đời
cùng tu nên đem kinh A Di Đà xếp vào khóa tụng hằng
ngày. Do kinh này lời lẽ ngắn gọn, nghĩa lư phong
phú, hành giản dị mà hiệu quả nhanh chóng, nên bậc
hoằng pháp đại sĩ chú sớ, tán dương, từ
xưa đến nay không biết bao nhiêu mà kể! Trong số
ấy, t́m lấy bản thật rộng lớn, thật
tinh vi th́ không ǵ bằng bộ Sớ Sao của ngài Liên Tŕ.
C̣n bản thẳng chóng, quan trọng, hay khéo th́ không ǵ bằng
bộ Yếu Giải của ngài Ngẫu Ích. U Khê pháp sư[4] nắm
giữ pháp ấn Đế Quán Bất Nhị của Thiên
Thai Giáo Quán, soạn bộ Lược Giải Viên Dung Trung
Đạo Sao, lư cao sâu nhưng hàng sơ cơ vẫn hiểu
được, văn lưu loát, thông đạt, khiến
người tu lâu đều khâm phục. Hiềm v́ lưu
thông đă lâu, bị sai ngoa quá nhiều. Do vậy, tôi giảo
chánh, cho khắc ván lại, ngơ hầu khôi phục diện mạo
cũ. Kinh Di Đà có được ba bộ sớ giải
này th́ không pháp ǵ chẳng hoàn bị, không căn cơ nào chẳng
thâu tóm. Tùy ư nghiên cứu một bản nào cũng đều
có thể biết chỗ chỉ quy. Đọc trọn cả
ba bộ sách ấy mới kham thấu hiểu triệt
để điều sâu xa yếu diệu. Từ đấy,
phát trọn vẹn ba tâm, chấp tŕ thánh hiệu, mong thoát
khỏi đời ác ngũ trược, mong chứng được
Tứ Đức[5]
sâu thẳm. Như vậy, đến lúc lâm chung, chắc chắn
được Phật Di Đà tiếp dẫn, thánh chúng đều
tiếp nghênh, gởi chất nơi thai sen, ĺa đường
hiểm, ở yên nơi bảo sở[6].
Nghe pháp thọ kư, từ Đồng Cư bèn nhanh chóng chứng
Tịch Quang, xắn tay hành ngay, nào ai chẳng có phần.
Giăi bày tấm ḷng ngu muội dám thưa cùng đồng nhân.
4. Lời tựa giảo chánh khắc in lại
sách Tùy Tự Ư Tam Muội
Phật pháp rộng
lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không. Muốn
tu tập nhưng chẳng nắm được chỗ trọng
yếu, ắt đến nỗi dơi nh́n biển rộng thở
than, sanh ư tưởng lui sụt. Nếu đạt
được chỗ trọng yếu, dù có vô lượng
pháp môn, vô biên hành tướng, nhưng một khi đă nắm
được th́ càng rộng càng thấy gọn, càng phức
tạp càng thấy giản dị. Tuy Lư tánh rộng lớn
cao sâu như trời, như đất, như núi, như biển,
nhưng phàm phu sát đất vẫn có thể tiến trên
đạo này. Nhờ pháp này bèn đoạn Phiền Hoặc,
chứng tam-muội, trọn vẹn phước huệ
để chứng Tứ Đức, tiến thẳng
đến Quả Giác, thành Vô Thượng Đạo, huống
ǵ thánh nhân đă đạt những địa vị Thập
Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập
Địa ư! Chỗ trọng yếu ấy như thế
nào? Chính là “thật thể, thật
tánh của hết thảy các pháp: Căn, Trần, Thức
v.v… đều là không, vô sở hữu”. Hiểu rơ điều
này th́ bốn tướng vốn là không, tam luân thể không[7]. Vạn
pháp sâm la, nhất đạo thanh tịnh. Phàm phu do mê nên
pháp ǵ, chuyện ǵ cũng đều thành chướng ngại,
đối với Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập Nhị
Xứ, Thập Bát Giới, Thất Đại đều
khởi phiền hoặc, tạo nghiệp sanh tử. Thánh
nhân do ngộ nên pháp ǵ, chuyện ǵ cũng là Chân Như.
Đối với Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập Nhị
Xứ, Thập Bát Giới, Thất Đại đều
chứng viên thông, thành đạo Bồ Đề. Mê - ngộ
tuy khác, tánh vốn không hai; tánh tuy không hai nhưng khổ -
vui thật khác.
Nam
Nhạc đại sư[8]
thương xót bèn soạn sách Tùy Tự Ư Tam Muội. Trong
sáu oai nghi đi - đứng - nằm - ngồi - ăn uống
- nói năng, chỗ nào cũng chỉ bày Thật Tướng
các pháp. Có nghĩa là: tánh của Căn - Trần - Thức
là không, vô sở hữu và tam luân thể không, tứ tướng[9] chẳng
hề có được v.v… khiến cho con người
đối với một cơ, một cảnh đều
tự thấy được Thật Tướng, đều
hiểu rơ tự tâm. Đâu đâu cũng chỉ dạy diệu
hạnh thù thắng sáu Ba La Mật, khiến cho con người
trong mỗi một động tịnh đều có thể
thượng cầu hạ hóa, tự lợi, lợi tha. Những
chỉ dạy ấy và Ấm, Nhập, Giới, Đại
trong kinh Lăng Nghiêm đều là Như Lai Tạng Diệu
Chân Như Tánh, những chuyện như ngôn ngữ, cư xử
trong đời, nghề nghiệp mưu sinh… trong kinh Pháp
Hoa đều thuận theo chánh pháp, đều chẳng trái
nghịch Thật Tướng, những nghĩa lư “chẳng trụ vào đâu để
sanh tâm, chẳng trụ vào Sắc, Thanh, Hương, Vị,
Xúc, Pháp để hành bố thí, độ thoát hết thảy
chúng sanh, nhưng chẳng thấy kẻ độ, người
được độ” trong kinh Kim Cang thảy đều
phù hợp khít khao! Đấy chính là đem pháp chính ḿnh
đă ngộ đă chứng giăi bày triệt để,
phơi trọn hết ra, thí cho khắp hậu thế
để mong ai nương theo pháp này mà tu sẽ cùng ngộ
cùng chứng đó thôi!
Hơn nữa, Sơ Phát Tâm Bồ Tát được
nói trong sách này vốn có hai nghĩa: Một là hàng phàm phu sát
đất phát đại tâm; hai là hạng Sơ Phát Tâm Trụ
trong Viên Giáo, vừa phá vô minh, thấy được Pháp Tánh.
Pháp Tánh chính là tánh của Căn, Trần, Thức là không, vô
sở hữu v.v… như vừa mới nói. Nơi địa
vị phàm phu muốn hướng đến Phật quả
th́ trước hết phải ngộ được lư này
rồi mới ḥng thật chứng. Nếu không, dù có tu tŕ vẫn
thuộc vào hữu lậu, chẳng thành Bồ Đề. Như
sách chép: “Trong một niệm, ở
trước khắp chư Phật mười
phương cúng dường rộng khắp, nhận pháp
hóa của Phật; ở
trước khắp chúng sanh trong mười phương,
tùy loại hiện thân, ứng cơ thuyết pháp, khiến
cho khắp ba căn đều được lợi ích” th́
chuyện này chỉ có hàng Bồ Tát Sơ Trụ trong Viên
Giáo mới có thể làm được. Nếu chẳng biết
lư này và sự tu này thông với phàm phu, ắt sẽ mắc
lỗi “tuy đề cao thánh cảnh nhưng chính ḿnh lại
ở trong địa vị phàm phu”. Nếu không biết
hàng Sơ Trụ mới đạt được đại
thể đại dụng, ắt sẽ mắc tội
khiên “chưa đắc nói là đắc, đem phàm lạm
thánh”. Hiểu rơ điều này th́ trên kính mộ chư
thánh, dưới trọng tánh linh của chính ḿnh. Đă
không bị lỗi “đành ḷng yên phận phàm ngu”, lại
c̣n chẳng mắc tội lạm thánh, sẽ tiến thẳng
trên đường giác, mau đạt đến bảo sở
như đưa bằng khoán lấy lại vật cũ,
nào có khó khăn ǵ! Do vậy, [tác phẩm này được]
lưu thông khắp trong nước, ngoài nước. Tiếp
theo là những nhân duyên được - mất đă
được nói đầy đủ trong phần Tự
và Bạt của lần in đầu tiên, nên ở đây
không nhắc lại nữa.
Ông
Từ Úy Như là bậc thế gia ở Chiết Tây, cả
mười đời thờ Phật. Từ lúc thơ ấu
đă được dạy dỗ chu đáo, lại kiêm học
Phật thừa. Gần đây, việc công rảnh rỗi,
đọc khắp các nội điển, t́m được
bản sách này lưu truyền ở Nhật Bản, lắng
ḷng nghiên cứu, thấy bị sai ngoa quá nhiều. Do vậy,
đem đối chiếu với Đại Tạng Nhật
Bản, sửa đúng được mấy mươi chỗ
rồi cho khắc ván ḥng lợi lạc rộng khắp. V́
coi Lượng[10] tôi
là người cùng chí hướng, bèn gởi tặng mấy
bản. Do vậy, tôi thắp hương, cung kính đọc.
Thấy văn lẫn nghĩa có nhiều chỗ chẳng ổn,
như mây che lấp trăng, chẳng thấy được
chân tướng. Trộm nghĩ: Sách này lưu truyền
đến nay đă hơn một ngàn ba trăm năm, sao
không khỏi sai ngoa? Do vậy, bèn dựa theo văn, căn
cứ theo nghĩa, bỏ bớt việc để sửa
chữa, thật giống như mây tan, trăng hiện,
quang minh lẫn thể chất cùng tỏ bày, văn lẫn
lư đều thông suốt, khiến tâm mắt người
ta đều vui thích. Đem bản này gởi cho ông Từ,
được ông thiết tha tán thành, chấp thuận, lập
tức khắc in lại ngay.
Ông
lại bảo tôi viết lời tựa để thuật
duyên khởi. Lượng tôi tuy thô lậu, nhưng v́
nghĩa chẳng thể từ tạ được. Phải
biết lần khắc in này, tuy sửa chữa nhiều,
nhưng thật ra không thay đổi ǵ. Chẳng qua chỉ
là sửa cho đúng những chỗ sao chép bị sai lạc,
ngơ ḥng khôi phục bản lai diện mục cho trước
tác của ngài Nam Nhạc mà thôi. Trong đời có người
bệnh, thầy thuốc chẩn mạch c̣n biết
được tạng phủ là hư hay thực, huống
chi tác phẩm này văn nghĩa hiển lộ, có thể lấy
làm chỗ căn cứ được, há chẳng thể
biết được chỗ bị chép sót, sai lầm hay
sao? Bậc đại phương gia ắt chẳng cho là
Lượng tôi sửa chữa không cẩn thận mà quở
trách sâu xa vậy!
5. Lời tựa bản thạch ấn
Phổ Đà Sơn Chí
Quán Thế Âm Bồ Tát từ vô lượng kiếp
trước thành Phật đạo đă lâu, hiệu là
Chánh Pháp Minh, nhưng do ư niệm độ sanh khẩn thiết,
tâm cứu khổ ân cần, chẳng ĺa Tịch Quang, hiện
h́nh trong sáu nẻo. Trong các cơi Phật nhiều như vi trần
ở khắp mười phương, hiện đủ mọi
sắc thân độ thoát chúng sanh, chứ nào phải chỉ
hiện thân Bồ Tát. C̣n Nhị Thừa, lục đạo,
không đâu chẳng hiện thân. Kinh Pháp Hoa nói: “Nên dùng thân nào để độ
được bèn hiện thân ấy thuyết pháp”. Tuy
vào khắp các cơi Phật mười phương, nhưng
Ngài có nhân duyên rất sâu với cơi Sa Bà. Tuy hiện thân khắp
mười pháp giới, nhưng căn cứ trên sự ứng
tích, thế nhân chỉ nói Ngài là Bồ Tát mà thôi. Do Ngài chứng
triệt để duy tâm, phô bày trọn vẹn tự tánh
nên vận dụng ḷng Bi đồng thể, khởi ḷng Từ
vô duyên. Do Bổn cao, Thể đại nên Tích quảng, Dụng
rộng[11]. Tùy loại, tùy
h́nh, theo tiếng cứu khổ. Thị hiện có cảm
liền ứng, không nguyện nào chẳng thuận theo,
như mặt trăng vằng vặc giữa trời, hiện
bóng trong mọi nơi có nước. Không chỉ sông, hồ,
rạch, biển đều hiện bóng toàn vẹn, dù chỉ
một chước[12], một
giọt, không đâu chẳng đều hiện bóng vẹn
toàn.
Lại
nữa, bóng trăng hiện trong sông, hồ, rạch, biển,
một người nh́n vào th́ mặt trăng ấy đối
trước người đó; trăm ngàn vạn người
ở trăm ngàn vạn nơi nh́n vào th́ mỗi một
người đều thấy trăng đối trước
chính ḿnh. Nếu người ấy đi sang Đông,
trăng cũng theo sang Đông; nếu đi sang Tây,
trăng cũng theo sang Tây. Nếu người ấy ngồi
yên chẳng động, trăng cũng chẳng ĺa nơi ấy.
Từ một người cho đến trăm ngàn vạn
người đều như vậy. Trong một niệm,
nếu khắp pháp giới cảm, Bồ Tát bèn ứng khắp
pháp giới. Cảm ứng đạo giao, không sai khác chút nào!
Giống như mặt trăng hiện bóng trong các chỗ
có nước, người nào, nơi nào cũng đều
thấy trọn vẹn bóng trăng, trọn chẳng sai
khác ǵ! Ấy là do Bồ Tát tâm gồm trọn thái hư,
lượng gồm thâu các cơi nhiều như cát. Do lấy
tâm chúng sanh làm tâm, do lấy cảnh của chúng sanh làm cảnh,
nên chẳng nghĩ tưởng mà hợp, vô duyên bèn ứng.
Há thế trí phàm t́nh ḥng tính lường được nổi
ư?
C̣n nếu như nước đục, mắt ḷa, th́ trăng chẳng thể hiện, phải đâu trăng không hiện, mà là do lỗi của nước đục, mắt ḷa ấy chứ! Xét cảm ứng trên mặt Tích, th́ có hiển cảm hiển ứng, minh cảm minh ứng (cảm ngầm, ứng ngầm), minh cảm hiển ứng, hiển cảm minh ứng, vừa hiển vừa ngầm cảm mà lại hiển ứng, vừa ngầm vừa hiển cảm mà lại ngầm ứng… sai khác (“Hiển cảm hiển ứng” là ngay trong đời này dốc ḷng thành, cạn ḷng kính lễ niệm cúng dường th́ sẽ được gia bị, gặp điều hung trở thành điều lành, gặp nạn thành may, và nghiệp tiêu chướng tận, phước tăng, huệ rạng v.v… “Minh cảm minh ứng” là trong đời quá khứ từng tu những hạnh cạn ḷng thành, tận ḷng kính lễ niệm, đời này tuy chưa tu tập, nhưng do túc nghiệp thiện căn, được Ngài gia bị mà không hay không biết, họa diệt, phước đến, nghiệp tiêu chướng tận v.v… “Minh cảm hiển ứng” là đời trước từng gieo thiện căn, đời này được gia bị. “Hiển cảm minh ứng” là đời này dốc ḷng thành, kiệt ḷng kính lễ niệm, chẳng thấy được gia bị, âm thầm được từ lực gia bị khiến hung lui, cát (tốt lành) đến, nghiệp tiêu chướng tận v.v… “Vừa hiển vừa ngầm ứng mà được hiển cảm” là đời trước đă từng gieo thiện căn, đời này dốc cạn ḷng thành lễ niệm, được gia bị rơ ràng, chuyển họa thành phước v.v… “Vừa ngầm vừa hiển cảm mà được ngầm ứng” là đời trước từng gieo thiện căn, đời này dốc ḷng thành lễ niệm, âm thầm được từ lực gia hộ, đạt được các thứ lợi ích. Hiểu rơ điều này sẽ biết công chẳng hư uổng, quả không lăng phí. Dẫu cho trọn đời chẳng thấy dấu hiệu ǵ được gia bị, cũng chẳng đến nỗi sanh tâm oán vọng, bỏ cuộc giữa đường. Đạo cảm ứng vi diệu khó thể nghĩ suy, tạm ghi đại lược để khơi gợi người sáng suốt trong mai sau).
Sự
ứng hiện ấy lớn - nhỏ, hơn - kém là do ḷng
thành đă đến mức cùng cực hay chưa mà thôi! Dẫu
cho tâm không thể tin chắc, chưa chí thành đến cùng
cực, nhưng nếu có thể nhất niệm dốc
ḷng thành ắt cũng được lợi ích. Tùy theo một
niệm chí thành của ḿnh mà chia ra hơn - kém tuy lợi ích
chẳng thể siêu tuyệt như người dốc cạn
ḷng thành, tận hết ḷng kính. Giống như trăng vẫn
hiện bóng trong nước đục, nhưng lờ mờ
không rơ. Người mù tuy chẳng thể đích thân thấy
được ánh trăng, nhưng có khi nào chẳng
được ánh trăng chiếu đến? Bồ Tát
đại từ đại bi, làm chỗ nương tựa
cho các chúng sanh trong khắp pháp giới. Do vậy, nhân dân cả
nước ai nấy đều tín phụng, v́ thế mới
thường nói “nhà nhà Quán Thế
Âm”.
Đạo
tràng ứng hóa của Ngài cố nhiên không phải chỉ một
chỗ. Như Nam Ngũ Đài Sơn, Đại
Hương Sơn ở Thiểm Tây, Thiên Trúc Sơn ở
Chiết Giang v.v… là những nơi cảm ứng rơ ràng,
hương đèn nhộn nhịp, nhưng chỉ có Nam Hải
Phổ Đà Sơn thật là bậc nhất do tên chỗ
này được ghi trong kinh Hoa Nghiêm, năm xưa Thiện
Tài đích thân tham học [tại đây]. Ân trọn khắp
mọi loài, hoàng đế các đời sắc kiến,
nên được cả cơi đời sùng kính, các nước
ngưỡng mộ. Tưởng nghĩ Bồ Tát ứng
hóa cho hàng căn cơ Đại Thừa trong tam thừa thiên
tiên, nên trải bao kiếp thường trụ nơi núi
này, chứ nào phải chỉ dài lâu như trời như đất.
Nhưng về phía thị hiện ứng tích cho phàm phu th́
trong năm Trinh Minh thứ hai (916) nhà Châu Lương[13]
thời Ngũ Đại, Huệ Ngạc đại sư
thỉnh tượng Quán Âm bằng đồng từ núi
Ngũ Đài muốn đưa về Nhật Bản.
Đi đến đây, thuyền bị ách lại không
đi được nữa, mới bèn khai sơn. Đến
nay đă hơn một ngàn năm, sự tích, thi văn được
biên soạn thành tập với tựa đề là Phổ
Đà Sơn Chí. Tôi thường hay bệnh nên đối với
những sự - lư cảm ứng chẳng thể nghĩ
bàn của Bồ Tát thật khó phát huy. Tính đọc khắp
Đại Tạng, xem trọn các sách, phàm những sự
tích Bồ Tát tùy cơ ứng theo ḷng cảm đều ghi
chép đầy đủ, khắc bản lưu thông, một
là để xiển dương đạo mầu độ
sanh của Bồ Tát, hai là khải phát duyên lành thoát khổ
cho chúng sanh; nhưng do bệnh mắt chưa lành, chưa thể
như nguyện.
Cư
sĩ Hà Liêm Thần ở Cối Kê, thấu hiểu tâm tủy
đạo Nho, y thuật được xưng là quốc
thủ[14], chí hạnh cao khiết,
tín tâm thuần chân, từng kêu gọi đồng nhân lập
Tang Du Xă[15], với ư nghĩa cảnh
chiều tà không c̣n nhiều, nghĩ cách quay về, đồng
tu Tịnh nghiệp, cầu sanh An Dưỡng. Lại do hết
thảy chúng sanh đắm ch́m trong biển khổ đă
lâu, chẳng nương vào pháp lực không cách nào vượt
ra được, tính đem những sự tích ứng hóa
của Bồ Tát làm thuyền cứu mạng, thả trong
biển khổ, vung tay kêu gấp để dẫn dắt
những kẻ ch́m đắm lên thuyền, ngơ hầu cùng
lên được bờ kia, về thẳng quê nhà, vĩnh viễn
ĺa khỏi các khổ, chỉ hưởng những sự
vui. Do vậy, bèn cho in thạch bản cuốn Phổ
Đà Sơn Chí để rộng lưu truyền ḥng đền
ân Đại Sĩ độ sanh, tạo nẻo cho chúng
sanh gieo ḷng thành. Ông bảo tôi viết lời tựa, khôn
ngăn hoan hỷ, quên phứt ḿnh kém hèn, liền đem những
chuyện cảm ứng mầu nhiệm của Bồ Tát
phát huy đại lược. Những sự tích khác, cố
nhiên đă chép trọn vẹn trong sách, cần ǵ phải dài
ḍng nữa!
6. Lời tựa cho bức khánh đồ
(tranh diễn tả chuyện vui mừng) nhà ông Hà Lăng Tiên ở
Thiệu Hưng
Xuân về trên cơi đất, trăm loài cây cỏ
đều được sanh thành, gió lùa trên không, vạn ống
sáo đều cùng trỗi tiếng. Trong đời chẳng
có quả không nhân, cũng chẳng có cái nhân không quả. Ví
như trồng dưa được dưa, trồng đậu
được đậu, thanh ḥa th́ tiếng vang thuận,
h́nh thẳng th́ bóng ngay! Đấy là những điều cả
cơi đời đích thân thấy biết, tin tưởng
chắc thật không nghi! Hai chữ “nhân quả” bao trùm khắp
hết thảy các pháp thế gian xuất thế gian trọn
vẹn không c̣n sót. Thánh nhân thế gian không vị nào chẳng
dạy rơ nhân quả, nhưng do các ngài chuyên chú nơi việc
đời, muốn cho đạo ấy được tiếp
nối, được truyền thừa, nên chỉ hạn
cuộc trong đời này và đời cha, đời con,
chứ không giảng rơ chuyện trước lúc sanh ra, chuyện
sau khi đă chết, và những chuyện từ vô thỉ
trước, chuyện tận vị lai sau. Những kẻ
hậu học chẳng thể lănh hội sâu xa ư thánh nhân, bèn
cho người và vật được sanh ra là do bẩm
thụ khí trời đất, ngẫu nhiên tụ hợp
thành h́nh hài mà thôi! Đến khi chết đi, h́nh đă mục
nát th́ hồn cũng phiêu tán. Không nhân, không quả, thành
Đoạn Diệt Kiến! Họ cô phụ thánh giáo, mê mất
tánh linh của chính ḿnh quá mức! Khổng Tử khen ngợi
sách Châu Dịch[16],
vừa mở đầu liền nói: “Nhà tích thiện ắt sự vui có thừa. Nhà tích
điều bất thiện ắt tai ương có thừa!”
Cơ Tử soạn sách Hồng Phạm[17],
cuối sách bèn nêu rơ chuyện hưởng dụng ngũ
phước, oai dùng lục cực.
Hai là nếu chẳng luận đến tam thế
quá khứ, hiện tại, vị lai, th́ sự ban tặng
của trời đất, ngôn luận của thánh nhân, chánh
lệnh của minh quân, phần nhiều sẽ mâu thuẫn
nhau (như gian đảng được vinh hoa, phú
quư, trung thần bị tru lục, Nhan Uyên đoản mạng,
Đạo Chích[18]
trường thọ v.v…) Nếu biết
tiền nhân hậu quả th́ cùng - thông, được - mất
đều do ta tự chuốc lấy. Dẫu gặp phải
nghịch cảnh, chẳng oán, chẳng hờn, chỉ thẹn
đức ḿnh chưa xứng, chẳng thấy lỗi lầm
của trời hay người, vui theo mạng trời,
không chuyện ǵ chẳng tự tại tiêu dao. Người
ta chỉ thấy ông Hà một nhà từ hiếu, cả bốn
đời cùng ở chung một nhà là vui, nhưng chẳng
biết nguyên do là v́ họ đă nhiều đời vun bồi
nên được như vậy.
Phải
biết thế giới Sa Bà thọ mạng ngắn ngủi,
trăm năm là thượng thọ, nhưng mấy ai
đạt được. Nay ông Hà may mắn có mẹ sống
thọ đă tṛn sáu mươi, nên mở tiệc hoa để
mừng thượng thọ. Bày ra đủ loại thi
văn để giúp vui cho tiệc chúc thọ. Có thể nói
là dốc ḷng thờ mẹ, lấy thân ḿnh làm gương.
Lại phải biết cái “tột cùng tam thế chẳng dời,
chẳng biến, trải muôn đời chẳng giảm,
chẳng tăng” mới là thọ lượng chân thật
sẵn có nơi tự tâm của lăo phu nhân. Bởi một
niệm hiện tiền của chúng ta vốn tự linh
minh đỗng triệt, trạm tịch thường hằng[19],
quả thật chẳng hai chẳng khác ǵ với tam thế
chư Phật. Nhưng do trái nghịch giác, xuôi theo trần
lao, mê tâm chấp cảnh nên đến nỗi vốn chẳng
dời, chẳng biến, chẳng tăng, chẳng giảm
lại thường bị dời, biến, tăng, giảm,
trọn chẳng lúc nào đạt được một niệm
thường trụ bất động. Đức Đại
Giác Thế Tôn ta thương xót, thị hiện sanh trong thế
gian, thành Đẳng Chánh Giác, tùy thuận cơ nghi, rộng
lưu ngôn giáo, khiến cho khắp hết thảy chúng sanh
trái nghịch trần lao, hiệp theo tánh giác, khôi phục
tâm tánh vốn có, diệt được huyễn nghiệp
vốn chẳng có, hiểu rơ chân tâm vốn sẵn có. V́ vậy,
kinh Hoa Nghiêm nói: “Lạ thay! Lạ
thay! Hết thảy chúng sanh đều đầy đủ
trí huệ đức tướng của Như Lai,
nhưng do vọng tưởng, chấp trước nên chẳng
thể chứng đắc. Nếu ĺa vọng tưởng
th́ Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên Trí liền được
hiện tiền”.
Phải
biết: Trí huệ - đức tướng và vọng
tưởng - chấp trước chỉ là một tâm, vốn
không phải là hai vật. Mê th́ toàn thể trí huệ - đức
tướng liền trở thành vọng tưởng, chấp
trước; ngộ th́ toàn thể vọng tưởng, chấp
trước liền thành trí huệ, đức tướng.
Ví như nước đông thành băng, băng tan thành
nước; cũng như say thấy nhà xoay, chứ nhà thật
sự không xoay. Mê th́ cho là phương hướng thay
đổi, chứ phương hướng thật sự
không đổi dời. Nói “vạn
cảnh vốn nhàn, chỉ có tâm tự ồn náo. Một
tâm không sanh, vạn pháp đều dứt”, chính là ư này.
Lư này ngộ th́ dễ, nhưng chứng thật khó. Nếu
chẳng phải túc căn chín muồi, ai có thể tự
chứng, tự đạt được! V́ thế, đức
Thế Tôn ta riêng ban phương tiện, lập ra pháp môn
tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
Bất luận thánh hay phàm, ngu hay trí, cho đến những
hàng thiên tiên, Tu La, những loài địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh, chỉ cần chí thành phát nguyện tŕ danh
hiệu Phật, thánh th́ nhanh chóng thành Phật đạo,
những loài khác đều đới nghiệp văng sanh.
Đă được văng sanh th́ Hoặc chẳng mong đoạn
mà tự đoạn, đức chẳng mong chứng mà tự
chứng. Ví như một mảnh tuyết rớt vào ḷ lớn,
chưa đến nơi đă tan; đă gặp được
người có đức th́ ư niệm hèn tệ hoàn toàn
tiêu.
Con
hiếu đối với cha mẹ th́ trước hết
phải chú trọng cái gốc rồi mới lo đến
cái ngọn, phụng dưỡng cái thân nhưng phải
hướng dẫn cái tâm. Nếu chỉ biết hầu hạ,
phụng dưỡng để cha mẹ được
yên thân, lập thân hành đạo để cha mẹ
được vẻ vang, chẳng biết dùng đạo
vô sanh thường trụ, pháp Niệm Phật văng sanh
để khuyên dụ cha mẹ tu tŕ, sao cho sống th́ niệm
Phật hiệu, chết sanh về cơi Phật, từ tạ
huyễn khổ sanh tử, hưởng chân lạc thường
trụ, hầu hạ Phật Di Đà, dự trong hải
chúng, nghe viên âm[20],
Tam Hoặc[21] hết sạch, thấy
diệu cảnh, tứ trí[22]
viên minh, chẳng rời An Dưỡng, vào khắp mười
phương, thượng cầu hạ hóa, rộng làm Phật
sự, triệt chứng Phật tánh vốn sẵn có
nơi tâm, rộng làm thuyền từ độ người
trong biển khổ, th́ có thể nói là “thấy sự nhỏ quên mất chuyện lớn,
được gần bỏ xa, chỉ là cái thấy hạn
hẹp của kẻ tầm thường, chẳng phải
tầm mắt rộng lớn của bậc thông đạt”.
Nếu
có thể làm cho mẹ cùng với ḿnh và gia quyến cùng thoát
Sa Bà, cùng sanh về An Dưỡng, cùng chứng vô lượng
quang thọ, cùng hưởng pháp lạc tịch diệt,
cùng làm pháp vương tử của Phật Di Đà, cùng
làm đại đạo sư cho trời - người,
th́ mới là tận hết ḷng từ hiếu, trọn t́nh nuôi
dạy. Từ hiếu, giáo dục như vừa nói đó
chẳng phải là từ hiếu giáo dục như thế
gian thường nói. Đấy chính là chỗ khởi đầu
và kết thúc cùng cực của bức gia khánh đồ
này. Nếu chẳng cho lời tôi nói là sai, đợi đến
khi cùng sanh về Tịnh Độ xong, sẽ dùng Đại
Viên Kính Trí thâu nhiếp lấy h́nh ảnh trong Liên Tŕ Hải
Hội tặng cho khắp những đồng bào trong biển
khổ, tôi cũng sẽ dốc cạn ḷng ngu thành viết
tựa khen ngợi.
7. Lời tựa quyên mộ làm chay cúng
dường ngàn vị Tăng
(viết thay cho hàng thiện nhân tại gia)
Rồng đất tuy chẳng thể làm
mưa, nhưng cầu mưa ắt phải tế rồng
đất. Phàm Tăng tuy chẳng thể giáng phước,
nhưng cầu phước phải cúng phàm Tăng. Huống
chi Quán Âm đại sĩ hiện thân trong các cơi nước
nhiều như bụi trần, theo tiếng cứu khổ,
ứng hóa lưu dấu tại Phổ Đà. Do vậy, bao
triều đại khâm kính, cả cơi đời tôn sùng.
Tăng chúng trong núi ấy và các vị từ mười
phương đến đều là đệ tử của
Như Lai, là con cháu của Đại Sĩ. Nhằm hội
dâng hương, gần như có đến hai ngàn vị.
Trong số ấy, thánh - phàm xen lẫn, hạnh - vị khó
thể phân biệt. Há chẳng nên nghĩ đến ân
Đại Sĩ, vun bồi nhân xuất thế, dùng tâm chí
thành, b́nh đẳng cúng dường ư? Nếu tâm chân thật,
thiết tha th́ không những các bậc đại A La Hán trụ
thế như ngài Tân Đầu Lô Phả La Đọa tôn
giả[23] chắc chắn
đến nhận cúng dường, ngay cả Đại
Sĩ cũng rất có thể thị hiện thân phàm
tăng quang lâm pháp hội. Công đức lợi ích ấy
sao diễn tả được nổi? Ông X… muốn trong
tháng Hai năm sau kiền thành tổ chức đại Trai
Tăng một ngàn vị Tăng ở Pháp Vũ Thiền Tự
để rộng kết duyên lành, nhưng sức của
ông ta yếu kém, thật sự muốn cho người khác
làm lành. Do vậy, quyên mộ thiện tín tùy tâm vui vẻ
giúp đỡ, vào núi báu chớ trở về tay không, đă
tắm gội pháp ai nấy phải báo ân Phật.
8. Lời tựa khắc in lại sách Hộ
Pháp Lục của Tống Văn Hiến Công đời
Minh
Năm Kỷ Mùi, ông Tôn Ngọc Tiên ở Phụng
Hóa khắc xong bộ Tống Văn Hiến Công[24]
Toàn Tập. Lại đem những trước tác chuyên xiển
dương Phật học, cũng như y theo bản Hộ
Pháp Lục đă được ngài Liên Tŕ và ông Mục Trai
giảo đính in riêng ngoài Toàn Tập. Có những phần
không liên tục, cũng khắc in riêng. Hai tập sách ấy,
mỗi thứ đều gởi cho pháp sư Đế
Nhàn ở chùa Quán Tông một bộ, Quang đến chùa Quán
Tông trông thấy, hoan hỷ khôn cùng, cầu Ngài thỉnh cho
ḿnh một bộ Hộ Pháp Lục. Trước kia, ông Tôn
tính khắc riêng bộ Hộ Pháp Lục, xin ngài Đế
Nhàn viết tựa. Sư do hằng ngày phải diễn giảng
giáo nghĩa Thiên Thai cho học chúng nên chẳng rảnh rỗi
để viết. Do vậy, bởi Quang thỉnh sách, ông
Tôn bèn cầu ngài Đế Nhàn sai Quang gượng viết.
Quang tâm như bị nút chặt, kiến giải như nh́n
vào vách, sao có thể phát huy đạo của bậc thừa
nguyện tái lai, hiện thân tể quan văn chương lừng
lẫy, dùng thân - khẩu - ư tam nghiệp để chép Hoa
Nghiêm Đại Kinh nhằm hoằng truyền tâm yếu của
Phật, Tổ? Nhưng đă được ủy thác,
nào dám nại cớ kém hèn để thoái thác! Do vậy,
đại lược nêu lên những điều quan trọng
liên quan đến mối nghi ngờ bàn luận của cả
cơi đời mà thôi. C̣n như văn chương của
tác giả hùng hồn, biện bác, viên dung, thẳng chóng,
phát minh tâm tông của Nho và Phật, vĩnh viễn là con mắt
của trời - người, khác nào mặt trời chói ngời
giữa hư không, ai có mắt đều thấy, thật
chẳng cần đến Quang lấy sự hiểu biết
hạn hẹp bàn chen vào nữa!
Lời
tựa rằng: A Di Đà Phật chứng Bồ Đề
đă lâu, an trụ Thường Tịch Quang Tịnh Độ,
thường hưởng pháp lạc tịch diệt,
nhưng v́ chúng sanh vô tận, nguyện của ta vô tận
nên chẳng ĺa Tịch Quang Tự Thọ Dụng Độ,
vào khắp mười phương vô tận thế giới
hiện đủ mọi sắc thân độ thoát chúng
sanh, hoặc hiển hiện hay thầm kín, hoặc chiết
phục, hoặc nhiếp thọ, ắt sao cho rốt ráo
ĺa khỏi hai thứ sanh tử mới thôi! Đó gọi là
đối với những kẻ thiện căn chưa
gieo, chưa chín, chưa thoát liền làm cho họ gieo, chín,
thoát, nên dùng thân nào để độ được bèn
hiện thân ấy thuyết pháp. Đạo lớn, sự
rộng ấy dù dùng hết biển mực cũng chẳng
thể viết hết được; đành nhờ vào
chuyện của Văn Hiến Công để tŕnh bày đại
khái.
Cứ
dựa theo lời tựa khen ngợi của ông Văn Hiến
đối với việc ngài Thích Huyễn Diệt trích máu
chép kinh Hoa Nghiêm, cuối bài ông tự nêu túc nhân như sau: “Vô Tướng cư sĩ (đạo
hiệu của Văn Hiến Công) khi chưa ra khỏi thai mẹ,
mẹ nằm mộng thấy một ông Tăng lạ lùng,
tay viết kinh này, đến bảo với mẹ: ‘Ta chính
là Vĩnh Minh Diên Thọ, ở nhờ nhà này để viết
cho xong quyển này’. Bà mẹ tỉnh giấc, liền sanh
ra cư sĩ. Nay gặp được nhân thù thắng này,
chợt nhớ lại chuyện cũ”. Trong các trước tác khác cũng tự
thuật sự này, nhưng những kẻ câu nệ, hư
giả trong đời thường hay nghi, nói: “Vĩnh Minh
chính là hóa thân của Phật Di Đà, hóa thân của Di
Đà chưa liễu thoát sanh tử hay sao? Đă v́ chép kinh
mà ở nhờ nơi nhà người, nhưng xét trong
văn tập, chưa hề nhắc nhở đến, chẳng
phải là uổng thọ thân này, chẳng thỏa
được nguyện cũ hay sao?” Tôi nói: Đây chính là
dùng phàm t́nh để suy lường thánh trí, chẳng những
không biết Văn Hiến Công, mà c̣n là chưa hiểu ngài
Vĩnh Minh và Phật Di Đà nữa!
Muốn
phát huy đến cùng cực, thẹn chẳng có tài văn
chương khéo léo, nhưng lời lẽ cốt đạt
được ư, nào ngại bàn thẳng vào chuyện này. Phật
Di Đà đă chứng cùng tột pháp giới, đối với
mọi chuyện trong pháp giới, không ǵ Ngài chẳng tùy ư
hóa hiện. Chánh báo là thân Phật, thân Bồ Tát, thân Nhị
Thừa, thân lục đạo, tùy loại hiện khắp
để giáo hóa. Y báo là lầu, đài, điện, gác, thức
ăn, y phục. Chỉ cần có lợi ích th́ không ǵ chẳng
hóa hiện. Ngài Di Sơn nói: “Đời
tật dịch hiện làm dược thảo, lúc đói
kém hóa làm thóc gạo”. Do trong cơi Thường Tịch
Quang thân và cơi nước chẳng hai, Lư và Trí như một;
thân có thể hiện cơi nước, cơi nước có thể
hiện thân, thân lại hiện thân, cơi lại hiện cơi.
Kinh Di Đà nói: “Các con chim ấy
đều do A Di Đà Phật biến hóa ra”. Ngài Duy Ma Cật
nói: “Do hết thảy chúng sanh
bệnh cho nên ta bệnh”. Phật Di Đà thân và cơi hiện
lẫn nhau, nào ngại ǵ hiện thân Vĩnh Minh rồi lại
hiện thân Văn Hiến!
Thêm
nữa, ngài Vĩnh Minh hiện thân Văn Hiến chính là
nương vào bi nguyện thị hiện hóa sanh, há có nên
nói ngài Vĩnh Minh chưa liễu thoát sanh tử, vẫn phải
theo nghiệp lực thọ sanh ư? Do chúng sanh bệnh nên
Bồ Tát cũng bệnh. Muốn độ thoát chúng sanh
nhưng không thuận theo cơ nghi, thị hiện sanh trong
thế gian ḥa quang đồng sự để hành giáo hóa,
th́ v́ phàm - thánh khác nẻo, không cách ǵ thí giáo được!
Những loài chim nhiều màu kỳ diệu như hạc,
chim công v.v… Phật c̣n chịu biến hóa ra, huống ǵ hiện
thân làm vua trong chốn văn chương, phong nhă, tài hoa,
làm bậc thuần Nho chế lễ, soạn nhạc, phù tá
thánh chúa mà lại có trở ngại ǵ ư?
Ngài
Vĩnh Minh là Phật Di Đà hóa hiện, Văn Hiến
Công do ngài Vĩnh Minh hóa hiện, chính là chứng theo chiều
dọc thân lại hiện thân. Những kinh như kinh Vô
Lượng Thọ… nói “trong
quang minh hóa Phật và các Bồ Tát vô lượng vô biên”
chính là gồm thâu trọn khắp hai nghĩa dọc và ngang,
v́ Phật quang trọn khắp chiều ngang, cùng tột chiều
dọc, không lúc nào, không nơi đâu chẳng trọn khắp.
Ngài Vĩnh Minh ở nhờ nhà họ Tống để
chép kinh Hoa Nghiêm chính là dùng thân để chép, dùng nghĩa
để chép; chớ nên câu nệ vào văn tự ngôn ngữ
để luận! Phàm những chuyện cả đời
Văn Hiến Công đă làm và những ǵ ông ta trước
thuật đều nhằm chép kinh Hoa Nghiêm. Đức hạnh
cùng tột, hạnh hay đẹp của ông đă được
chép trong Minh Sử nhưng vẫn chỉ là chép đại
lược một hai điều, c̣n bị thiếu sót nhiều
lắm; văn ông được truyền tụng trong
đời chỉ có bộ Toàn Tập và tập sách này mà
thôi! Đọc đến ắt có thể h́nh dung
được đạo đức, tu dưỡng của
ông. Bộ Toàn Tập tuy chẳng chuyên nói về Phật
pháp, nhưng văn tự thế gian chưa hề chẳng
bao gồm tông yếu Phật pháp.
Như
trẻ nhỏ bị bệnh chẳng chịu uống thuốc,
bèn bôi thuốc lên vú, th́ nó không uống cũng thành uống,
bệnh liền lành mạnh. Những kẻ không biết Phật
pháp, đọc bộ Toàn Tập của Văn Hiến
Công, liền khâm phục văn chương lưu loát, rộng
lớn của ông, lại khâm phục lư cao sâu, sao không
đoạn nghi sanh tín, càng vào càng sâu, hiểu rơ tâm pháp của
Nho và Phật, mong thoát khỏi lồng rọ sanh tử
ư? Huống chi Phật pháp được phát huy trong
sách ấy nhiều hơn một trăm bảy mươi
thiên. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Hoặc
riêng dùng chú ngữ để nói Tứ Đế, hoặc
khéo dùng mật ngữ để nói Tứ Đế, hoặc
dùng ngay lời lẽ của con người để nói Tứ
Đế, hoặc là dùng mật ngữ của chư Thiên
để nói Tứ Đế”, chính là bằng chứng
vậy!
Nếu bảo: “Kinh Lăng Nghiêm cấm chẳng
tiết lộ mật nhân (nhân thầm kín) của Phật,
ông Văn Hiến lại tự nói ḿnh là hậu thân của
Vĩnh Minh, không phải là trái nghịch lời răn dạy
thanh tịnh của Phật, bày đầu cho bọn cuồng
vọng đời sau, tạo thành đầu mối
đem phàm lạm thánh ư?” Tôi nói: Đối với bậc
xuất cách, chẳng thể dùng cách thức thông thường
để phán định! Ông chẳng thấy Phó Đại
Sĩ tự xưng là Di Lặc hiện thân ư? Đă chẳng
coi chuyện đó là trái nghịch, sao lại chỉ coi chuyện
này là trái nghịch? Hơn nữa, cuồng vọng lạm
thánh sẽ tự chuốc nhục, như khắc phân
người thành h́nh chiên-đàn, há có thể lẫn lộn
cùng chiên-đàn được ư?
Nếu
nói: “Như Lai trí đoạn rốt ráo, công đức, trí
huệ, thần thông đạo lực chẳng thể
nghĩ bàn; Vĩnh Minh tuy cao, c̣n cách Phật xa lắm, huống
ǵ là Văn Hiến?” Tôi nói: Chắc ông cũng biết chuyện
hoàng đế vi hành chớ? Người trí biết là hoàng
đế, kẻ ngu coi là b́nh dân, c̣n có khi nghi là gián điệp,
là đạo tặc nữa kia! Sao lại riêng nghi chuyện
trong bí mật, bề ngoài hiện này nọ của Như
Lai? Phải biết: Đây chính là phương tiện khéo
léo lập cách giáo hóa của Như Lai, ngầm nêu “chúng
sanh chính là Phật, Quyền chính là Thật, sanh diệt
chính là tịch diệt, Đồng Cư chính là Tịch
Quang”, những ngôn ngữ, xử thế, nghề nghiệp
mưu sinh v.v… đều thuận theo chánh pháp, đều
chẳng trái nghịch ư chỉ Thật Tướng nhỏ
nhiệm. Bậc thượng căn thoạt nh́n bèn hiểu,
hàng trung - hạ phải do giải thích mới có thể hiểu
rơ được.
Do
đại từ bi bèn dùng chuyện từ Tích hiển Bổn
này để người hiểu biết nông cạn có thể
biết được trọn vẹn chuyện hiện khắp
các sắc thân chẳng thể nghĩ bàn của bậc Pháp
Thân đại sĩ. Như chuyện trong cơi âm,
dương gian chẳng biết; nhưng Thượng
Đế cực lực mong muốn người đời
cải ác tu thiện nên cũng thường đem người
dương gian vào cơi âm, chỉ bày ngục trong cơi âm cho
dương thế. Phương tiện quyền xảo dạy
người của Thượng Đế t́nh kiến phàm
phu c̣n chưa thể suy lường được, huống
chi Bồ Tát thần biến vô phương? Do vậy, tôi
nêu ra ngơ hầu ai nấy tuân hành, cùng thoát Sa Bà, cùng sanh Tịnh
Độ, ḥng thỏa tâm Phật Di Đà đại từ
bi bao lượt hiện thân, mà cũng chẳng cô phụ
ngài Văn Hiến chép kinh, một phen ông Tôn dốc ḷng khắc
bản. Phàm con ngựa nào mong được như ngựa
Kư th́ cũng là hạng ngựa Kư, người mong
được như Nhan Uyên th́ cũng là hạng như
Nhan Uyên. Tôi chưa từng biết mặt ông Tôn. Nếu
không phải đời trước ông ta từng được
Phật phó chúc, th́ cũng phải là đă gội ân sâu của
họ Tống, cho nên mới thừa nguyện tái lai, cực
lực lưu thông, khiến cho hữu t́nh hiện tại,
vị lai cùng được đượm nhuần pháp lợi
không sót. Tốt đẹp thay! Cao quư thay!
9. Lời đề từ và tựa bản
in lại Long Thư Tịnh Độ Văn
(viết thay cho ông Vương Hoằng Nguyện)
Tâm tánh chúng sanh bằng với chư Phật,
do mê trái nên luân hồi chẳng ngơi. Như Lai từ mẫn,
tùy cơ thuyết pháp, khiến cho khắp hàm thức đều
theo đường về nhà. Hiềm rằng căn tánh
muôn thứ chẳng giống nhau, nếu không phải
người lỗi lạc sẽ khó thể thoát khỏi!
Nhân đấy, bèn đặc biệt mở ra một môn Tịnh
Độ để nhiếp khắp hết thảy: Thượng
trung hạ căn, Ngũ Nghịch, Thập Ác tướng
địa ngục hiện, nhất niệm dốc ḷng
thành, liền lên được bờ kia. Đẳng Giác Bồ
Tát đức bằng với Phật, c̣n phải văng sanh mới
chứng được Bồ Đề. Phàm phu sát đất,
đầy đủ phiền năo, chẳng chịu niệm
Phật, làm sao tốt lành cho được? Nhắn với
người đời, cùng sanh tín nguyện, chấp tŕ Phật
hiệu, từ đầu đến cuối không thay đổi,
đến lúc lâm chung được Phật tiếp dẫn,
mau ra khỏi Ngũ Trược, lên thẳng chín phẩm,
thấy Phật nghe pháp, tự chứng Vô Sanh, nương
đại nguyện luân phổ độ hữu t́nh.
Pháp môn Tịnh
Độ là pháp môn do Như Lai tâm bi triệt để phổ
độ chúng sanh, khiến cho những kẻ không có sức
đoạn Hoặc, hàng phàm phu sát đất tín nguyện
tŕ danh liễu thoát ngay trong đời này, cùng làm bầu bạn
với Quán Âm, Thế Chí. Trên đến Đẳng Giác Bồ
Tát địa vị gần với Phật Quả, c̣n cần
phải văng sanh, mới thành Chánh Giác. Chí viên, chí đốn,
thông trên thấu dưới, vượt trội các pháp môn
đă được nói trong một đời giáo hóa tại
một phương. V́ thế, khi đức Phật giảng
kinh Di Đà, sáu phương chư Phật hiện tướng
lưỡi rộng dài cùng một giọng khen ngợi,
xưng là kinh Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn
Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm.
Lại khen đức Thích Ca Thế Tôn ta có thể làm
được chuyện hy hữu rất khó, đức Thế
Tôn ta tự nêu túc nhân rằng: Ta ở trong đời ác
Ngũ Trược, làm chuyện khó khăn này, chứng
được Bồ Đề, v́ hết thảy thế
gian nói pháp khó tin này, thật là rất khó, khiến cho
người nghe tin nhận phụng hành, diễn bày rốt
ráo bổn hoài xuất thế vậy.
Nhưng
pháp môn này rất sâu khó lường, dẫu được
Bổn Sư và chư Phật cùng khuyên tin tưởng, thế
nhưng kẻ nghi trong đời vẫn c̣n rất nhiều!
Chẳng những thế trí phàm t́nh không tin, ngay cả những
hàng tri thức thâm hiểu sâu xa Tông, Giáo vẫn c̣n nghi hoặc.
Không những bậc tri thức không tin mà ngay cả Thanh
Văn, Duyên Giác đă chứng Chân Đế, nghiệp tận
t́nh không cũng vẫn c̣n nghi hoặc! Chẳng những
hàng Tiểu Thánh không tin, ngay đến bậc Quyền Vị
Bồ Tát hăy c̣n nghi ngờ! Cho đến ngay cả bậc
Pháp Thân đại sĩ tuy có thể tin chắc, nhưng vẫn
chưa thể thấu nguồn tột đáy. Ấy là v́
pháp môn này lấy Quả Giác làm cái tâm để tu nhân, toàn
thể là cảnh giới Phật. Chỉ có Phật với
Phật mới có thể rốt ráo thấu hiểu cùng tột,
trí của những hạng người kia dễ ḥng biết
được nổi! Bọn phàm phu chúng ta ngửa tin lời
Phật, y giáo phụng hành, tự được lợi
ích chân thật. Nếu được nghe pháp môn chẳng
thể nghĩ bàn này chính là nhiều kiếp đă trồng
sâu thiện căn, huống chi c̣n tin nhận phụng hành nữa
ư?
Truy
nguyên, từ khi đại giáo truyền sang Đông, Viễn
Công sáng lập Liên Xă. Từ đấy trở đi, bậc
cao nhân trong Tông, trong Giáo, không ai chẳng hoằng
dương, khen ngợi, như Trí Giả, Từ Ân, Thanh
Lương, Vĩnh Minh v.v… v́ pháp này là môn trọng yếu
nhất để nhập đạo cho người sơ
cơ, là bước cuối cùng để thành Phật trong
kinh Hoa Nghiêm. Do vậy, hạng phàm phu đầy dẫy phiền
năo nương theo Phật lực để liễu sanh tử,
không thể dùng toán số thí dụ để biết
được nổi! Nhằm vào thời Nam Tống, bậc
tiên đức trong tông ta có cư sĩ Long Thư, tên là [Vương]
Nhật Hưu, tự là Hư Trung, thừa nguyện tái
lai, dùng thân thuyết pháp: Tuy sống trong trần tục,
nhưng chẳng lập gia đ́nh, tuy đậu quốc học
nhưng chẳng làm quan, phát huy tâm tông Nho - Phật, dạy
dỗ hàng đệ tử có đủ ḷng tin. Lại muốn
cho đồng nhân đều cùng sanh Tịnh Độ, nên
soạn sách này để hướng dẫn rộng khắp.
Lời lẽ đơn giản nhưng mẫu mực, lư
lẽ sâu xa nhưng rơ rệt, thuận theo căn cơ kém
cỏi, khéo léo dẫn dụ dần dần, dốc ḷng
đau đáu chiều theo tâm họ, không ǵ chẳng thấu.
Sợ họ ngại khó chẳng vào, nên dùng cách Thập Niệm
buổi sáng để làm phương tiện tối thắng
nhiếp trọn các căn cơ; đợi đến khi
vào sâu dần dần, như được thức ăn
ngon lành, đă biết mùi vị, liền đối với
những pháp nhật dụng sẽ tự khăng khắng
vâng giữ, chỉ nghĩ đến Phật, nào phải chỉ
hạn cuộc trong [thời gian niệm Phật chừng bằng]
một bữa trà; lấy đó làm nề nếp nhất
định! Nếu có thể đầy đủ tín nguyện,
cả đời kiên tŕ Thập Niệm, ắt quyết
định văng sanh. Huống chi lại gia công dụng hạnh!
Chẳng
phải chỉ có thế, dù cho hoàn toàn không có tín nguyện,
không tu tŕ, nhưng biết đến thánh hiệu Di Đà th́
cũng là thiện căn chẳng thể nghĩ bàn. V́ sao vậy?
Là v́ do biết [ Phật hiệu] nên hễ gặp cảnh
đụng duyên, sẽ có thể đề khởi. Như
Trần Xí bị oán quỷ [là những kẻ từng bị]
chính ông ta giết chết, kéo đến bức bách; nhờ
niệm Phật, quỷ bèn chẳng hiện nữa. Do vậy,
cả đời niệm Phật. Lâm chung văng sanh lại
c̣n có thể quay trở lại tự thuật tiền nhân,
đích thân hiện diệu tướng sanh Tây của chính
bản thân. Nếu trước kia, chưa từng
được nghe biết [danh hiệu Phật] ắt sẽ
bị quỷ đoạt mạng, măi măi luân hồi. Do vậy,
ba phước trong Quán Kinh th́ phước đầu tiên là
những điều thiện thế gian, đều có thể
dùng để hồi hướng, và trong chín phẩm th́ phẩm
cuối cùng chính là những kẻ tướng địa
ngục đă hiện c̣n được văng sanh. C̣n những
ai nhất tâm bất loạn, diệu quán viên thành, chứng
tam-muội mà văng sanh th́ không cần phải bàn đến nữa!
Do vậy, biết pháp môn Tịnh Độ nhiếp khắp
mọi căn cơ hoàn toàn chẳng bỏ sót ai, tốt
lành thay, cao quư thay, lớn lao thay!
Sách
ấy lấy ḷng tin chân thật, nguyện thiết tha, tŕ
danh hiệu Phật, ngay trong đời này quyết định
được văng sanh làm Tông. Đọc kỹ sẽ
đoạn nghi sanh tín, khuyên khắp mọi người tu
tŕ. Riêng nêu những sự tích văng sanh để khuyên
lơn, cũng như những việc cả một đời
Vương cư sĩ đă làm, cuối sách chỉ rơ: Thượng
trung hạ căn không căn nào chẳng được
thâu tóm. Ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh không pháp nào chẳng phô
bày rơ ràng. Do vậy, bèn khắc in phổ biến rộng khắp
để ḥng đáp tạ chừng bằng một giọt
nước biển trong trần sát[25] “công
Phật Thích Ca thuyết pháp, chư Phật chứng minh, liệt
tổ truyền đăng, tâm đại từ bi soạn
sách của Vương cư sĩ” mà thôi!
10. Tựa chung cho các sách Phật Học
Chỉ Nam, Phật Học Khởi Tín Biên và Lục Đạo
Luân Hồi Lục
Nhất niệm
tâm tánh của hết thảy chúng sanh thật sự không
hai không khác với tam thế chư Phật, nhưng do
chưa ngộ nên chẳng thể thọ dụng. V́ thế
phẩm Như Lai Xuất Hiện trong kinh Hoa Nghiêm có câu: “Hết thảy chúng sanh đều
có trí huệ của Như Lai, nhưng do vọng tưởng,
chấp trước, nên chẳng thể chứng đắc.
Nếu ĺa vọng tưởng th́ Nhất Thiết Trí, Tự
Nhiên Trí, Vô Ngại Trí sẽ được hiện tiền”.
Nên biết: Trí huệ và vọng tưởng chấp
trước vốn chẳng phải là hai vật! Mê th́ toàn
thể trí huệ biến thành vọng tưởng, chấp
trước. Ngộ th́ toàn thể vọng tưởng, chấp
trước biến thành trí huệ. Ví như nắm bàn tay
lại hay x̣e bàn tay ra, vốn chỉ là một bàn tay. Kết
thành băng hay tan thành nước vốn chỉ là một
thứ nước. Ấy là do Tâm Thể bất biến, Dụng
thường tùy duyên, nhưng Thể thường bất
biến. Tại phàm chẳng giảm, nơi thánh không
tăng, ở trong trần không nhiễm, ĺa cấu chẳng
tịnh, ở trong sanh tử chẳng bị luân hồi, chứng
Niết Bàn nhưng chẳng thuộc Tịch Diệt. Không
có h́nh tướng nhưng làm chủ của muôn h́nh tướng,
không có pháp nào nhưng là tông của muôn pháp.
Từ
trước đến nay, thường tự như
như, trọn chẳng có phàm - thánh, chúng sanh - Phật sai
khác! Ngộ th́ gọi là Hiền, chứng th́ gọi là
Thánh. Nếu chỉ sẵn có nhưng chưa ngộ, tuy có
Tánh Đức, trọn chẳng có Tu Đức th́ chỉ
là phàm phu luân hồi trong lục đạo mà thôi! Do Dụng
tùy duyên nên có tứ thánh lục phàm[26],
khổ - vui thăng trầm sai khác. Nhưng duyên có nhiễm
- tịnh, ắt theo một trong hai thứ đó. Theo nhiễm
duyên th́ khởi Hoặc, tạo nghiệp, luân hồi sáu nẻo.
Theo tịnh duyên th́ đoạn Hoặc chứng Chân, thường
trụ Niết Bàn. Do Hoặc nghiệp có nặng - nhẹ
nên có đường lành trời - người và đường
A Tu La thiện - ác xen tạp, cũng như ba đường
ác: súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Do Hoặc khởi
Hoặc, do nghiệp tạo nghiệp, hoặc thiện hay
ác, trọn không có tướng nhất định cho nên chỗ
thọ sanh lần lượt đổi dời như bánh
xe [xoay tṛn] không có khởi đầu, thoạt lên thoắt
xuống. Đă có đủ Phiền Hoặc th́ đều
bị nghiệp ràng buộc, theo nghiệp thọ sanh, chẳng
thể tự chủ.
Do
đoạn chứng có nông - sâu, nên người đoạn
Kiến Tư th́ chứng quả Thanh Văn. Người dứt
được tập khí th́ chứng quả Duyên Giác. Người
phá vô minh chứng quả Bồ Tát. Nếu phá sạch hết
vô minh, phước huệ viên măn, công tu đức đến
cùng cực, tánh đức phơi bày trọn vẹn, th́ chứng
Phật Quả. Chứng Phật Quả chẳng qua
cũng chỉ là chứng triệt để rốt ráo công
đức lực dụng sẵn có nơi tâm tánh trong địa
vị phàm phu, nay tự thọ dụng được toàn
thể mà thôi, chứ chẳng hề thêm mảy may ǵ vào cái
sẵn có ban đầu cả! Như Thanh Văn, Duyên Giác,
Bồ Tát tuy sở chứng cao - thấp bất đồng,
nhưng đều chưa thể thọ dụng hoàn toàn
công đức sẵn có nơi tánh.
Ngược
lại, hết thảy phàm phu dùng sức tâm tánh chẳng thể
nghĩ bàn này để khởi tham - sân - si nơi sáu trần
cảnh, tạo giết - trộm - dâm, đến nỗi
đọa trong ba ác đạo, vĩnh viễn luân hồi.
Toàn là như vậy, chẳng đáng buồn ư? Dù cho tận
lực tu Ngũ Giới, Thập Thiện, được
làm thân trời - người, nhưng phước lạc
trong nhân gian chính là căn bản của đọa lạc.
Phiền Hoặc trong cơi trời tuy chẳng mănh liệt sắc
bén như trong nhân gian, nhưng một khi phước trời
vừa hết, chắc chắn phải sanh xuống cơi thấp
hơn. Do túc phước chưa hết, nên được
hưởng phước. Do hưởng phước bèn tạo
nghiệp. Đă tạo nghiệp rồi, phải đọa
ác đạo đúng là trong nháy mắt! Huống chi có
người do mạng trời đă hết, bèn v́ sức của
ác nghiệp đời trước đă chín muồi, đọa
thẳng vào ác đạo! Do vậy, cổ đức nói người
tu hành nếu không chánh niệm tu tŕ Tịnh nghiệp, chỉ
được phước báo nhân thiên, gọi là “mối
oán đời thứ ba”.
Kinh
Pháp Hoa dạy: “Tam giới không
yên như nhà lửa cháy, các khổ đầy dẫy, thật
là đáng sợ!” Người biết tốt - xấu ắt
sẽ coi chuyện gấp cầu thoát ĺa, ḥng được
an ổn là kế sách bậc thượng. Đại
trượng phu sanh trong thế gian, đă biết một
niệm tâm tánh của chính ḿnh không khác ǵ chư Phật, lại
biết nhân quả tu chứng trong mười pháp giới
chẳng ra ngoài tự tâm. Cho nên, sẽ phát đại Bồ
Đề [tâm], tận lực tu Định Huệ, mong
đoạn Hoặc chứng Chân, thành ngay Phật đạo,
khiến cho chúng sanh trong khắp pháp giới cùng ra khỏi
đường mê, cùng lên bờ giác, rốt ráo tự chứng
được tâm tánh vốn sẵn có mới thôi. Nếu
là kẻ căn cơ kém cỏi, chưa thể làm
được như thế, th́ phải dùng ḷng tín nguyện
sâu dốc sức tu Tịnh nghiệp, nương vào Phật
từ lực văng sanh Tây Phương. Để đến
khi chứng Vô Sanh Nhẫn, lại nương theo nguyện
trở lại độ thoát chúng sanh. Nhưng trước
lúc văng sanh phải phát Bồ Đề tâm, tự hành, dạy
người, dẫu chẳng thể hiện tướng
lưỡi rộng dài, vang rền Hải Triều Âm th́
cũng nên đối với kinh luận của Phật, Tổ,
di thư của bậc tiên hiền, t́m lấy bộ nào khế
lư khế cơ, dễ dàng lănh hội được, biên tập
thành sách để lại cho tương lai. Phàm là nhân quả
ba đời, lục đạo luân hồi và công đức
Tam Bảo, lợi ích của Phật pháp, và “đạo
độ khắp ba căn, pháp phàm thánh cùng tu”, bèn phân môn
chia loại, tŕnh bày phân tích rạch ṛi, khiến cho người
đọc xem đến, tự nhiên tự biết chỗ
lấy - bỏ. Từ đó, đoạn nghi sanh tín, quy tâm
đại giác, hoặc là liễu sanh tử ngay trong đời
này, hoặc trở thành nhân duyên đắc độ trong vị
lai.
Nếu
không có được tai mắt ấy, chớ nên mạo
muội theo đuổi, hăy nên in khắc lưu truyền các
sách khế lư khế cơ của cổ nhân, ngơ hầu những
sách ấy được lần lượt truyền bá,
xiển dương, vĩnh viễn dùng làm thuyền từ,
quả thật không c̣n công đức nào lớn hơn. Những
điều vừa nói trên đây tuy chí nhằm lợi
người, nhưng công giáo hóa thật sự quy về
chính ta. Do vậy, trong đời hiện tại phước
huệ tăng cao, lâm chung lên thẳng Thượng Phẩm.
Há chẳng phải là bậc trượng phu đường
đường, oai nghi tốt lành rạng rỡ hay sao? Nếu
không biết nghĩa này, chỉ căn cứ theo Thế
Đế tu dưỡng, dẫu cho đời này nắm
thật vững đạo “ư thành tâm chánh”, chỉ e một
khi chuyển sang đời khác, lại bị mê hoặc, bị
nghiệp buộc ràng, theo nghiệp thọ báo. Như lá cuốn
theo gió đùa chẳng thể tự chủ, hoặc rơi
trên nệm, hoặc rớt vào nhà xí. Nghĩ rồi chẳng
thấy thật đáng sợ lắm ư?
Cư
sĩ Đinh Phước Bảo chuyên tinh học Y kể
đă mấy năm. Kế đó, nghĩ bệnh sanh từ
thân, thân do nghiệp sanh, nghiệp do tâm sanh. Nếu chỉ
trị thân, quả thật chẳng phải là đạo
nhổ rễ lấp nguồn rốt ráo vậy. Do vậy
bèn nghiên cứu Phật học, tiên chú[27]
các kinh, muốn cho hàng sơ cơ dễ lănh hội, nên dùng
phương cách huấn hỗ[28] của
Hán Nho sao cho dù văn hay nghĩa đều thông suốt. Ấy
là v́ kinh Phật sâu xa, uyên áo, ư nghĩa vô cùng, chú sớ của
cổ đức đa phần chú trọng nêu lên
cương lănh, xiển dương chỗ nhiệm mầu,
không giải thích tường tận từng câu từng chữ,
khiến cho hàng sơ cơ thật khó thể lănh hội! Nếu
dùng phương pháp huấn hỗ để nhập môn th́
sẽ tự có thể đăng đường nhập
thất, sau đấy mới nghiên cứu chú sớ của
cổ đức ắt sẽ như mặt trời chói lọi
giữa không trung, không điều ǵ nhỏ nhặt chẳng
chiếu thấu, bất tất phải chấp [những
ǵ được giải thích sơ khởi] ở đây
là rốt ráo vậy.
Lại
do Nho gia trong đời quen chấp vào sự thấy nghe,
không tin con người chết đi thần minh bất diệt,
không tin những chuyện nhân quả ba đời, luân hồi
lục đạo. Người bậc thượng chỉ
có thể làm kẻ tự lo giải thoát cho chính ḿnh, hoàn
toàn chẳng thể thay đổi phong tục, giác thế dạy
dân[29].
Kẻ bậc hạ bèn cho rằng “đă không có nhân quả,
chết đi bèn vĩnh viễn diệt mất”, sao không muốn
ǵ bèn làm đấy để cả một đời này
được khoái lạc ư? Từ đó, phóng túng không
kiêng dè, yên tâm làm ác, đến nỗi thế đạo
nhân tâm ngày càng đi xuống. Do vậy, ông Đinh đem tất
cả sự tích rơ ràng về nhân quả báo ứng trong kinh
luận của Phật, Tổ và các di thư của những
bậc hiền nhân Tăng -Tục xưa nay chép thành ba bộ:
1) Thứ
nhất là Lục Đạo Luân Hồi Lục, nhằm chỉ
rơ chuyện thăng trầm trong lục đạo về mặt
Lư lẫn mặt Sự, những cảnh tượng trong
chốn u minh, trạng huống của quỷ thần.
Đồng thời chỉ rơ muốn thoát khỏi nỗi
khổ trong đường tăm tối, mà bỏ đại
pháp của Như Lai th́ hoàn toàn chẳng thể nương
cậy vào đâu được. Quả là bộ sách cải
ác tu thiện, xả mê quy ngộ, kính cẩn sùng mộ Phật
pháp, là bước ban đầu khiến cho người ta
hâm mộ chân thừa.
2) Bộ
kế tiếp tên là Phật Học Khởi Tín Biên. Bộ kế
đó là Phật Học Chỉ
Quang
túc nghiệp sâu nặng, có mắt như mù, lạm dự
vào Tăng chúng, uổng hưởng của tín thí, thẹn
chẳng có năng lực tu Định Huệ đoạn
Hoặc chứng Chân, chỉ mong nương theo Phật từ
lực, đới nghiệp văng sanh. May sao ông Đinh chẳng
v́ đó mà chê bỏ, hễ có trước thuật ǵ đều
gởi đến cho. Nhưng chữ nhỏ mắt quáng, bất
quá giở xem qua loa để kết duyên tùy hỷ mà thôi. Gần
đây, được thấy ba bộ sách này, khôn ngăn
cảm động, muốn lưu truyền rộng răi, hiềm
là nghèo không chỗ cắm dùi, bèn chẳng nề hà kém cỏi,
viết tựa giới thiệu đại lược.
Mong sao nơi nơi chốn chốn, những người
có tâm lo cho thế đạo sẽ lần lượt
lưu thông, truyền bá nhiều nơi. Như thế chẳng
những sẽ thỏa ḷng đúc kết, biên tập của
ông Đinh mà quả thật c̣n là thay cho Phật, Tổ, hiền
nhân, hiện tướng lưỡi rộng dài rền tiếng
hải triều không ngớt vậy. Sẽ thấy phong tục
đổi thay, nhanh chóng đạt đến đại
đồng b́nh trị, dân ḥa, thời thế tốt đẹp,
cùng hưởng niềm vui vô vi. Công đức lợi ích ấy
sẽ có thọ lượng bằng với mười
phương hư không, há có thể dùng văn tự ngôn ngữ
để h́nh dung được nổi ư? Nếu chẳng
v́ người kém cỏi mà vứt bỏ hoàn toàn lời này
th́ may mắn lắm thay!
11. Lời tựa tái bản bộ An
Sĩ Toàn Thư (lời tựa thứ nhất)
Cái đạo sẵn có trong tâm chúng ta lớn
lao thay! Pháp sẵn có trong tâm chúng ta nhiệm mầu thay! Tịch
- Chiếu bất nhị, Chân - Tục viên dung. Ly niệm,
ly t́nh, bất sanh bất diệt. Đó gọi là “có mà chẳng có, không có mà có”,
hoặc: “Không mà chẳng không, chẳng
không lại không”. Chúng sanh và Phật đều do đây
mà ra, thánh hay phàm đều chẳng thể diễn tả
được. Giống như gương sáng trọn chẳng
có một vật nào, nhưng hễ Hồ đến, Hán hiện[30].
Như các tướng xa xôi trong thái hư chẳng trở
ngại mặt trời chiếu qua mây đùn. Đấy
chính là “nơi Thật Tế lư
địa chẳng nhiễm mảy trần, trong tâm Bổn
Giác có đủ trọn vẹn các pháp”. Đấy chính
là vô thượng giác đạo do đức Như Lai
đă chứng, đó cũng là chân tâm thường trụ
của chúng sanh đang mê.
Tam
giáo thánh nhân nương theo tâm tánh này, đều lưu lại
ngôn giáo, rộng hướng dẫn quần manh. Do vậy,
Ni Sơn[31] nêu ư chỉ “thành
minh” sâu xa để làm đường lối tu - tề - trị
- b́nh; Trụ Sử[32]
nói Đạo Đức Kinh, chỉ bày thuật trường
sanh. Đại Giác Thế Tôn xứng pháp giới tánh, chỉ
bày tâm Chân Như, diễn giảng đạo “nghịch trần
hiệp giác”, lập tông “bất sanh bất diệt”. Tuy cạn
- sâu, lớn - nhỏ bất đồng, thế gian, xuất
thế gian khác biệt, nhưng chủ yếu đều
chẳng ngoài việc phát huy, diễn bày thông suốt cái lư sẵn
có trong tâm chúng ta khiến cho khắp các hàm thức đều
xứng tánh khởi tu, do tu hiển tánh, tiêu tan huyễn vọng
vốn dĩ không có, khôi phục thiên chân sẵn có, vĩnh
viễn thoát đường mê, chứng ngay lên bờ giác mới
thôi.
Văn
Xương Đế Quân trong đời xa xưa, tâm giữ
vẹn Ngũ Thường, tận lực phụng tŕ Tam
Giáo, tự hành, dạy người, chỉ muốn đạt
đến chí thiện, công cao đức cả, nên bèn
được cai quản văn học. Chỉ sợ hàng
mạt học vô tri, mê muội tánh thường trụ bao
kiếp, bèn soạn văn dạy dỗ rộng răi, thuật
chuyện một trăm mười bảy đời về
trước. Diệu nghĩa vô tận, ai lường
được uyên nguyên. Chú giải dẫu nhiều, chẳng
thể phô bày hết lẽ uyên áo mênh mông. Cho nên ngàn đời
trước, ngàn đời sau, người dạy dỗ,
kẻ được dạy dỗ thảy đều nuối
tiếc chưa thỏa ư.
An
Sĩ tiên sinh xưa đă trồng cội đức, thừa
nguyện tái lai, xem rộng răi cùng tột các sách, thâm nhập
kinh tạng, tự đặt trách nhiệm tỉnh giác cơi
đời, khai hóa dân trí, giữ thân tốt đẹp, thay
đổi phong tục để nêu khuôn mẫu tốt
đẹp. Dùng học thức kỳ tài diệu ngộ,
dùng tâm pháp Linh Sơn - Tứ Thủy[33]
để soạn bản chú giải cho bài văn tùy cơ
thuyết pháp của Đế Quân khiến cho kẻ nhă,
người tục cùng được xem. Lư vốn nơi
tâm, từ ngữ nêu được chỗ trọng yếu,
dẫn chứng sự thật, xé toạc mây mê nơi cơi ư,
xiển dương nghĩa lư, ư chỉ, giương cao vầng
mặt trời trí huệ trên bầu trời tâm tánh khiến
cho người đọc đối với pháp ǵ, chuyện
ǵ cũng đều có chỗ để phỏng theo, tâm
tâm, niệm niệm thường biết kinh sợ, dè dặt.
Thật là đă vạch toang tấm ḷng đau đáu của
Đế Quân, giăi bày hết cả ra, ngơ hầu ngàn đời
trước, ngàn đời sau, người dạy dỗ,
kẻ được dạy dỗ đều thỏa
thích, không c̣n nuối tiếc mảy may ǵ nữa!
Nhưng
bi tâm chưa hết, từ nguyện chẳng cùng, muốn
khiến cho nhân dân đề cao ḷng trung hậu, khoan thứ
như đối với người ruột thịt, dứt
đao binh, hưởng tuổi trời, giữ lễ
nghĩa để vẹn luân thường, chuộng đức,
xa ĺa sắc đẹp. Do vậy, ông bèn soạn bộ sách
răn kiêng giết tên là Vạn Thiện Tiên Tư, bộ
sách răn kiêng dâm tên là Dục Hải Hồi Cuồng. Ấy
là v́ người đời sát nghiệp nhiều nhất,
dâm nghiệp dễ phạm. Do vậy, chẳng ngại phiền
nhọc, ra rả khuyên răn. Lại v́ tu tràn lan những
chuyện lành thế gian chỉ được phước
trời - người, khi hết phước sẽ đọa
lạc, khổ độc làm sao dứt cạn cho
được? Do vậy, từ những kinh luận Tịnh
tông, ông chọn lấy những lời lẽ phù hợp
căn cơ, gộp thành một bộ sách, đặt tên
là Tây Quy Trực Chỉ, khiến cho khắp những ai giàu
sang, nghèo hèn, già, trẻ, trai, gái, dù trí hay ngu, dù Tăng hay tục,
đều cùng niệm A Di Đà Phật cầu sanh Cực
Lạc, thoát khỏi luân hồi, lên thẳng Bất Thoái, từ
tạ những nỗi khổ do vọng nghiệp cảm
thành, hưởng sự vui tâm ta sẵn có.
Ba bộ
sách trước tuy giảng về việc tu hành điều
thiện thế gian, nhưng cũng có pháp liễu sanh thoát
tử. Bộ sách cuối cùng này tuy nói về pháp liễu
sanh tử, nhưng cũng phải tu hành các thiện pháp thế
gian. C̣n như những chuyện thuận lư dẫn đến
điều lành, trái nghịch dẫn đến điều
xấu đều phân tích rạch ṛi, dứt nghi, giải
đáp những vấn nạn, lư trọn, văn khéo. Nỗi
niềm lay động kẻ điếc, làm sáng mắt
người mù càng thống thiết hơn cứu người
bị chết đuối hay đang bị lửa thiêu. Thật
có thể nói là dựng thiên địa, lập quỷ thần,
bổ trợ sáu kinh, nâng đỡ danh giáo, đáng là bộ
kỳ thư tốt lành nhất trong đời, chẳng
thể xem giống như những bộ thiện thư tầm
thường khác. Nếu bảo tiên sinh chẳng phải là
Bồ Tát thừa bổn nguyện luân, hiện thân cư
sĩ, thuyết pháp độ sanh th́ tôi chẳng tin.
Bất
Huệ lúc bé đọc sách Nho, chẳng biết tâm truyền
của Khổng Mạnh, lớn lên học Phật thừa,
chưa ngộ được tánh thể của Như Lai.
Đến nay tuổi sắp tri mạng (năm
mươi), kiến giải như nh́n vào vách, chỉ có cái
tâm ham thiện, chẳng có mảy may sức lợi người
ǵ, muốn đem sách này in khắc lưu truyền, hiềm
rằng nghèo không chỗ cắm dùi, lại lười mộ
duyên. Do vậy, nhiều năm chưa thỏa được
nguyện. Cư sĩ Lư Thiên Quế ở Tây Thục có linh
căn từ xưa, dốc ḷng hành thiện mong chứng
đắc vô thượng Phật pháp, đến triều
bái danh sơn Phổ Đà. Ở Pháp Vũ Thiền Tự,
ngẫu nhiên gặp gỡ, nếu không có sẵn túc duyên,
sao lại giải cấu[34]
như thế? Ông bèn khuất ḿnh hỏi pháp, cầu xin lẽ
xuất yếu (đạo lư trọng yếu để giải
thoát). Nhân đó, tôi bèn dạy “tận lực giữ luân
thường, tinh tu Tịnh nghiệp, tự lợi, lợi
tha, chỉ lấy đó làm trọng”. Nếu có thể tận
lực thực hành không tỳ vết th́ mới cảm hóa
được đồng nhân. Nếu hành vi chẳng phù hợp
lời nói th́ phụng pháp lại trở thành hoại pháp. Những
kẻ chẳng tu đức thế gian, chẳng tận lực
làm lành, không phải là v́ không có tư chất để tu
đức, làm lành, mà là v́ không có thầy tốt bạn lành
để hướng dẫn. Nên bèn tặng cho ông ta cuốn
sách này, bảo hăy đọc kỹ, chăm chú sao cho hành vi
cử chỉ của ḿnh đều phù hợp với những
ǵ được chỉ bày, dạy dỗ trong sách này, không
sai khác chút xíu nào th́ mới nên. Ông ta khác nào được vật
quư báu nhất, mừng rỡ khôn cùng, phát nguyện khắc
in để rộng lưu truyền. Lại xin tôi viết
tựa để bảo khắp đồng nhân. Do vậy
chẳng nề hà kém cỏi, lược thuật đầu
đuôi. Những ai có chí thờ vua giúp dân, tu thân, tề gia,
dạy con cháu mong thành thánh thành hiền, ngộ tâm tánh liễu
sanh tử th́ xin hăy đọc kỹ rồi tận lực
thực hành, đừng cho lời tôi là hư vọng, sai
quấy vậy!
12. Lời tựa tái bản bộ An
Sĩ Toàn Thư (lời tựa thứ hai)
Hai nghiệp dâm - sát chính là căn bản sanh tử
của hết thảy chúng sanh. Khó đoạn nhất chỉ
có dâm, dễ phạm nhất chỉ có sát. Trong hai thứ
này, đối với dâm th́ những ai biết tự ái
đôi chút c̣n có thể tự chế chẳng phạm.
Nhưng muốn cho ư địa thanh tịnh, trọn chẳng
có mảy may ǵ th́ chỉ bậc A La Hán đoạn Hoặc
chứng Chân mới có thể làm được. C̣n ngoài ra,
tuy tập khí ái nhiễm dày - mỏng khác nhau, nhưng đều
đă cố kết triền miên trong tâm thức, từ kiếp
này sang kiếp khác, chưa thể giải thoát. Sát th́ thế
gian đều coi là chuyện đương nhiên, cậy
ḿnh mạnh, lấn áp kẻ yếu, dùng thịt chúng nó
để no bụng ḿnh. Chỉ cốt sướng miệng
một lúc, ai tin phải bao kiếp đền bồi? Kinh
Lăng Nghiêm dạy: “Do người
ăn dê, dê chết thành người, người chết
thành dê. Như vậy cho đến mười đời,
chết chết, sống sống, ăn nuốt lẫn
nhau, do ác nghiệp cùng nhau sanh cho đến cùng tột
đời vị lai”. Cổ đức nói: “Muốn cho thiên hạ không binh kiếp,
trừ phi chúng sanh không ăn thịt”. Lại nói: “Muốn biết kiếp đao
binh trong thế gian, hăy nghe tiếng ḷ mổ thịt nửa
đêm”.
Đă có nhân ấy ắt phải chuốc lấy
quả ấy. Chẳng nghĩ đến th́ thôi, hễ
nghĩ tới bèn rất sợ hăi. An Sĩ tiên sinh kính vâng
lời Phật sắc truyền, riêng rủ ḷng từ mẫn,
do vậy soạn bộ Dục Hải Hồi Cuồng
để răn kiêng dâm, soạn bộ Vạn Thiện
Tiên Tư để răn kiêng giết. Dẫn chứng sự
thật, nêu rơ nhân quả. Thiết tha mong người khắp
cơi đời cùng giữ tấm ḷng chân thật “cha trời
mẹ đất, coi dân như ruột thịt, nghĩ loài
vật cũng như ḿnh”, vĩnh viễn dứt bỏ
chuyện thương tổn thuần phong, loạn hoại
luân lư, dứt ác niệm cậy mạnh hiếp yếu. Lại
muốn cho đồng nhân đừng làm các điều ác,
vâng làm các điều thiện; do vậy, bèn chú thích tường
tận bản Âm Chất Văn của Văn Xương
Đế Quân, để những hành vi thường ngày,
khởi tâm xử sự, chuyện lớn như trị quốc
an dân, chuyện nhỏ như một lời, một niệm,
đều tuân thủ theo lời dạy răn, đều
giữ khuôn phép. Do vậy, thuyết “giữ ḷng kính, dè dặt,
cẩn thận, chánh tâm thành ư” của cổ thánh tiên hiền
chẳng đến nỗi thành chuyện bàn xuông mà thôi! Ba bộ
sách trên đây văn từ, lư lẽ, không ǵ chẳng trội
tuyệt xưa nay, bổ trợ kinh điển, giúp cho
b́nh trị.
Bởi
tiên sinh do kỳ tài diệu ngộ, dùng bút mực phát huy tâm
pháp của Phật, Tổ, thánh hiền cho kẻ nhă lẫn
người tục cùng xem vậy. Tuy nhiên, người
đă có thể kiêng dâm, kiêng sát, không làm các điều ác,
vâng làm các điều lành, nhưng nếu chẳng liễu
sanh thoát tử, làm sao đảm bảo đời đời
kiếp kiếp chẳng quên mất tu tŕ? Người luôn
sanh trong thiện đạo, rộng tu phước huệ,
chẳng đọa đường ác để đền
trả lẫn nhau, há được mấy ai? Liễu sanh
thoát tử, nào có dễ đâu? Chỉ người tận
lực tu Định Huệ, đoạn Hoặc chứng
Chân th́ mới có thể rốt ráo tự do. Ngoài ra, dù có tôn
quư như Thiên Đế, tột bậc là Phi Phi Tưởng
Thiên, phước thọ tám vạn đại kiếp, vẫn
thuộc trong ṿng trói buộc của nghiệp lực thiện
ác, bị nghiệp lực thiện ác xoay chuyển! Do vậy,
riêng nương theo một pháp “cậy vào Phật từ lực
đới nghiệp văng sanh” của đức Như Lai, thâu
thập rộng răi những nghĩa trọng yếu trong
kinh luận Tịnh Độ, soạn thành một bộ
sách, đặt tên là Tây Quy Trực Chỉ. Nếu đọc
đến sách này, tin tưởng chắc chắn không nghi,
sanh tín, phát nguyện, cầu sanh Tây Phương, bất luận
căn cơ lợi hay độn, tội nghiệp nặng
hay nhẹ, cũng như công phu cạn hay sâu, cốt sao tín
nguyện chân thành, thiết tha, tŕ danh hiệu Phật, đến
lúc lâm chung không ai chẳng được Phật từ lực
tiếp dẫn văng sanh. Đă văng sanh bèn siêu phàm nhập
thánh, liễu sanh thoát tử, ngộ tự tâm ngay trong
đương niệm, chứng giác đạo trong
tương lai. Nghĩa lư, lợi ích ấy chỉ có chứng
mới biết được, cố nhiên ng̣i bút chẳng
thể diễn tả được nổi. Điều
này thuộc về chuyện dùng tín nguyện của chính
ḿnh để cảm Phật từ bi, cảm ứng đạo
giao, đạt được lợi ích lớn lao như
thế. So với chuyện cậy vào tự lực để
đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử th́
khó - dễ khác biệt vời vợi như trời với
đất.
Hiện
nay, các nước bên Tây Phương đại chiến
đă mấy năm, nước ta thoạt đầu do ư
kiến bất đồng, rốt cuộc thành
Nhớ
năm Mậu Thân xưa kia, từng khuyên ông Lư Thiên Quế
khắc bản tại đất Thục (Tứ Xuyên), ông
ta liền xin tôi viết tựa. Về sau, nhân duyên không
đủ, rốt cục việc chẳng thành. Nay
được ông Lưu kiên quyết tán thành, quả chẳng
phải là duyên nhỏ. Trộm thấy những lời hay
cải ác hướng lành trong Liễu Phàm Tứ Huấn, bài
kư Du Tịnh Ư[35]
là hạnh tốt đẹp chí thành thấu trời, phát
huy sự lư công phu tu dưỡng, thật là đẹp
đẽ, thuần thành, tinh tường, trọn vẹn.
Nhân đó, đem ghép vào sau bộ Âm Chất Văn Quảng
Nghĩa gồm ba cuốn. Bài Giới Sát Phóng Sanh Văn của
đại sư Liên Tŕ là bậc chúa soái từ bi diệt sạch
ma quân tàn nhẫn, bài tụng Bất Tịnh Quán của ngài
Tỉnh Am v.v… là mănh tướng tịnh hạnh diệt trừ
ma quân tham dục, bài Khuyến Phát Bồ Đề Tâm
Văn của ngài Tỉnh Am là thuyền từ phổ độ
chúng sanh trầm luân trong biển khổ. Do vậy, xếp
những bài này vào sau ba thứ pháp môn[36].
Ví như gấm dệt thêm hoa, đặt đèn cạnh
gương, rực rỡ chói ngời, vui mắt đẹp
dạ người ta. Nếu như đọc đến,
ắt những ư niệm chẳng trung hậu, chẳng
khoan thứ sẽ đột nhiên băng tiêu, tâm tự lợi
- lợi tha đột nhiên như mây nhóm. Từ đó, từng
bước càng thù thắng hơn, càng vào càng sâu hơn, phàm
t́nh trở thành thánh trí mà chẳng biết, chẳng hay, ngơ
hầu liễu sanh thoát tử, vĩnh viễn thoát luân hồi.
Tận mặt lễ Phật Di Đà, đích thân được
thọ kư. Kính v́ những người đọc sách này mà
chúc mừng rằng: “Ch́m trong
biển khổ đă lâu, chợt gặp được thuyền
từ, tuân hành trung thứ, quy mạng Giác Hoàng[37], tín chân, nguyện
thiết, hết chấp quên t́nh, cảm ứng đạo
giao, hầu Vô Lượng Quang”. Những điều
khác đă nói tường tận trong lời tựa viết
năm Mậu Thân, ở đây không nhắc lại.
13. Lời tựa đúc bản kẽm lưu
thông sách Tứ Huấn của ông Viên Liễu Phàm
Đạo thánh hiền chỉ có Thành và Minh.
Phân ra thánh và cuồng chỉ trong một niệm. Thánh mất
niệm thành cuồng, cuồng khắc chế được
niệm bèn thành thánh. Để h́nh dung sự thao túng
được - mất th́ ví như thuyền chèo ngược
nước, chẳng tiến ắt lùi, không thể không gắng
sức tu dưỡng, không sanh phóng túng chút nào! Phải biết
một chữ Thành chính là chân tâm cả thánh lẫn phàm
đều có, giống hệt như nhau, không hai. Một chữ
Minh là hàm dưỡng[38]
phản tỉnh, là đạo để từ phàm đạt
thánh. Trong địa vị phàm phu, trong sanh hoạt thường
nhật, vạn cảnh xen lẫn, nếu chẳng quan sát
nhận biết sẽ khó tránh khỏi những t́nh tưởng
trái lư nẩy sanh trong chớp mắt. Tưởng ấy
đă sanh, chân tâm liền bị ngăn lấp, những việc
làm cử chỉ đều đánh mất lẽ trung chánh.
Nếu
chẳng một phen dùng công phu thiết thực để khắc
chế, trừ khử cho hết sạch th́ ngày càng đi
xuống, không biết đến đâu là cùng tận. Uổng
để cái tâm làm thánh ch́m đắm măi măi trong phường
hạ ngu, chẳng đáng buồn ư? Nhưng làm thánh chẳng
khó, chỉ là tự làm sáng Minh Đức. Muốn làm sáng Minh
Đức th́ phải khởi đầu từ cách vật
trí tri. Nếu chẳng thể cực lực cách trừ (trừ
bỏ) “món vật” là ḷng dục của con người th́
chân tri vốn có chắc chắn khó thể triệt để
hiển hiện. Muốn cho chân tri hiển hiện th́ trong
lời lẽ hành vi hằng ngày phải thường khởi
giác chiếu, chẳng để cho hết thảy t́nh
tưởng trái lư tạm chớm trong tâm. Thường khiến
cho tâm này rỗng sáng thông suốt, như gương đặt
trên đài, hễ có cảnh liền hiện bóng, chỉ chiếu
cảnh trước gương, chẳng bị cảnh
chuyển. Xấu - tốt tự nó, can chi đến ta? Đến
chẳng mong ngóng, đi không lưu luyến. Nếu t́nh
tưởng trái lư vừa mới chớm nẩy, liền
nghiêm ngặt đối trị, trừ khử cho hết sạch,
như đối địch cùng quân giặc, chẳng những
không cho chúng xâm lấn lănh thổ của ḿnh, mà c̣n chém
tướng đoạt cờ, trừ sạch dư đảng.
Về
cách cầm quân th́ chính ḿnh phải nghiêm ngặt ǵn giữ,
đừng lười nhác, đừng coi thường. Khắc
kỷ, giữ lễ, trọng ḷng kính, giữ ḷng thành, khí
giới phải dùng đến “bốn điều không” của
Nhan Tử[39], “ba lượt phản
tỉnh”[40]của Tăng Tử,
cách “ít lỗi biết sai” của Cừ Bá Ngọc, lại
thêm dè dặt, kiêng sợ như đang đi vào vực sâu,
như đi trên băng mỏng, th́ quân oai lan xa, tặc
đảng kinh hăi, sợ bị tàn sát diệt chủng,
mong được hưởng hồng ân vỗ về. Do
vậy, kéo nhau đầu hàng, quy thuận, chịu giáo hóa, đổi
hết tâm trước, dốc ḷng tu đức sau. Tướng
không ra khỏi nhà, binh không đổ máu, toàn bộ giặc
thù đều thành con đỏ, kẻ phản nghịch
đều thành dân lành. Trên hành, dưới bắt chước
theo, toàn cơi yên b́nh, chẳng dấy can qua, ngồi hưởng
thái b́nh.
Những
điều vừa nói trên đây là do cách vật (trừ khử
vật dục) nên trí tri (hiểu thấu suốt). Do trí tri
nên tự nhiên sáng tỏ đức sáng, Thành và Minh nhất
trí, phàm biến thành thánh. Nếu như căn khí kém hèn,
chưa thể đạt được hiệu quả,
th́ hăy nên bắt chước ông Triệu Duyệt Đạo,
ban ngày làm điều ǵ, tối đến ắt thắp
hương tâu cùng Thượng Đế, chuyện ǵ chẳng
dám báo th́ chẳng dám làm. Viên Liễu Phàm không làm các điều
ác, vâng làm các điều thiện. Mạng do chính ta lập,
phước do ta tự cầu, khiến cho tạo hóa chẳng
thể chuyên quyền độc đoán. Thọ tŕ Công Quá
Cách, phàm khởi tâm động niệm và ngôn ngữ, hành
vi, thiện - ác mảy may đều nhớ, để mong
thiện ngày một tăng, ác ngày một giảm. Thoạt
đầu th́ thiện - ác xen tạp, lâu dần sẽ chỉ
có thiện không ác. V́ thế, có thể chuyển vô phước
thành có phước, chuyển yểu thọ thành trường
thọ, chuyển không con cháu thành đông con cháu. Hiện
đời đă dự vào hạng thánh hiền; báo hết,
cao đăng cơi Cực Lạc. Hạnh làm khuôn mẫu cho
đời, lời lẽ làm pháp tắc cho đời.
Người ta là trượng phu, ta cũng là trượng
phu; sao lại tự khinh, đành chịu thua kém?
Nếu
có kẻ hỏi:
- “Cách
vật” là cùng tận cái lư của sự vật trong thiên hạ.
“Trí tri” chính là thúc đẩy tri thức của chúng ta đến
tột bậc, sao cho mỗi mỗi đều hiểu rơ.
Sao lại coi ḷng ham muốn của con người là vật,
coi chân tri là tri, coi khắc phục, đối trị không
cho vật dục hiển hiện là cách trí vậy?
Đáp:
-
Thành và Minh Đức đều là ước theo bản thể
của tự tâm mà nói. Danh tuy có hai, vốn chỉ là một.
[Nói] Tri và ư tâm là gộp chung Thể và Dụng của tự
tâm để nói. Chứ thật ra, cả ba điều này
đều là một. Cách, trí, thành, chánh, minh (ở
đây chỉ “minh” trong “minh Minh Đức” và “minh” trong
“thành minh”), năm thứ này đều
ước trên phương diện dứt ḷng tà, giữ
ḷng thành, phản vọng quy chân mà nói. Trong công phu kiểm
điểm, phản tỉnh, quán sát, tu tập th́ Minh là cương
lănh chung, Cách Trí, Thành, Chánh là những mục riêng vậy. Tu
thân, chánh tâm, thành ư, trí tri do vậy đều là “minh Minh
Đức” (làm sáng tỏ đức sáng). Nếu chân tri sẵn
có nơi tự tâm bị vật dục che lấp th́ ư chẳng
thành, tâm chẳng chánh! Nếu có thể trừ khử được
th́ gió huệ quét sạch mây chướng, tâm nguyệt riêng
sáng vằng vặc giữa trời. Đây chính là thánh nhân dạy
cho con người thứ tự quyết định từ
lan man hướng đến thiết thực, từ
sơ đến thân vậy!
Nếu
phải hiểu cùng tận cái lư của sự vật trong
thiên hạ khiến cho tri thức nơi tâm ta đă rơ thấu
hết cả rồi mới có thể thành ư th́ chỉ những
người đọc rộng các sách, đi khắp thiên hạ
mới có thể thành ư chánh tâm để làm sáng tỏ Minh
Đức! Những người chưa thể đọc
rộng các sách, đi khắp mọi nơi, dẫu có thiên
tư thuần hậu cũng chẳng có phần nơi
chánh tâm thành ư, huống ǵ những kẻ kém cỏi hơn họ
ư? Có đạo lư ấy hay chăng? Nhưng hết thảy
những người chẳng hiểu sâu xa tận cùng lư và
những ai vô tri vô thức nếu nghe đến lư tánh
đa số đều đề cao thánh cảnh, riêng ḿnh
cam phận phàm ngu, chẳng chịu mạnh mẽ gắng
sức theo đuổi tu tập. Nếu nói đến nhân
quả ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai,
dù thiện hay ác đều có quả báo, ắt là họ sẽ
sợ ác quả mà đoạn ác nhân, tu thiện nhân để
cầu thiện quả. Thiện - ác chẳng ngoài ba thứ
thân - khẩu - ư. Đă biết nhân quả sẽ tự giữ
ǵn thân - khẩu, rửa tâm gột ư, dù ở trong nhà tối
pḥng kín vẫn thường như đối trước
Thượng Đế, chư thiên, chẳng dám manh nha chút
tâm tà vạy để phải chuốc lấy tội lệ!
Đấy chính là đại pháp đức Thế Tôn dùng
để dạy cho khắp hết thảy thượng
trung hạ căn trí tri thành ư chánh tâm tu thân. Nhưng kẻ
cuồng sợ bị bó buộc, cho là chấp tướng;
kẻ ngu giấu diếm sự đáng hổ thẹn, trá
ngụy của chính ḿnh nên bảo là mờ mịt. Trừ
hai loại người ấy ra, có ai không tin nhận chuyện
này? Do vậy, ngài Mộng Đông nói: “Người khéo bàn tâm tánh, ắt chẳng ĺa bỏ
nhân quả. Tin sâu nhân quả rốt cuộc sẽ hiểu
rơ tâm tánh”. Lư này thế tất nhiên như vậy.
Phải
biết: Từ địa vị phàm phu cho đến khi
viên chứng Phật quả đều chẳng ra ngoài nhân
quả. Kẻ nào chẳng tin nhân quả đều là hạng
người tự vứt bỏ thiện nhân thiện quả,
thường tạo nhân ác, ắt thường thọ quả
ác, trải trần điểm kiếp[41],
luân chuyển trong ác đạo, không cách ǵ thoát ra, buồn
thay! Thánh hiền ngàn lời vạn lẽ, không ǵ chẳng
nhằm làm cho con người phản tỉnh, khắc chế
ư niệm, ngơ hầu Minh Đức sẵn có trong tâm chúng ta
chẳng đến nỗi bị vùi lấp, đích thân
được thụ dụng. Chỉ v́ con người
không biết nhân quả nên thường hay buông lung càn rỡ,
dù suốt đời đọc sách vẫn chỉ là học
từ chương, chẳng quyết ư mong thành thánh thành hiền.
Do vậy, ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ! Bốn
thiên sách dạy con của tiên sinh Viên Liễu Phàm văn lẫn
lư đều thông suốt, mở rộng tâm mắt con
người. Đọc đến có niềm vui lâng lâng, có
khuynh hướng muốn học theo, quả thật là
khuôn mẫu tốt lành để yên đời vậy. Cư
sĩ Châu Quần Tranh ở Vĩnh Gia bội phục sách ấy
đến cùng cực, mong Thương Vụ Ấn Thư
Quán ở Thượng Hải đúc bản kẽm để
làm của chung cho những người cùng chí hướng.
Lại ấn tống bao nhiêu đó để kết pháp
duyên, xin tôi viết lời tựa. Nhân đấy, tôi bèn tóm
tắt ư “khắc kỷ, giữ lễ, dứt ḷng tà, giữ
ḷng thành của thánh hiền” cho xong trách nhiệm vậy.
14. Lời tựa tái bản sách Tứ
Thư Chú Giải của ngài Ngẫu Ích
Đạo nơi tâm người như nước
trên mặt đất, tuy nơi cao nguyên hay đất bằng
hoàn toàn chẳng trông thấy nước, nhưng nếu
đào đất để t́m th́ không nơi đâu chẳng
được. Nước ví như Minh Đức sẵn
có trong tâm chúng ta, đất ví như vật dục huyễn
hiện trong tâm ta. Nếu có thể cách vật trí tri th́
không một ai chẳng thể làm sáng tỏ Minh Đức.
Nhưng đào đất lấy nước, không một
ai chẳng đổ công t́m, bởi không có nước sẽ
không thể sống c̣n. Đối với cái đạo sẵn
có nơi tâm, con người đa số chẳng chịu
ra sức, đến nỗi vật dục che lấp Chân Tri,
chẳng biết mong thành thánh thành hiền, cam tâm tự ruồng
rẫy ḿnh, tự vứt bỏ. Do vậy, chôn Pháp Thân, mất
huệ mạng, sống làm thây đi thịt chạy, chết
mục nát cùng cỏ cây, chẳng đáng buồn ư?
Tứ
Thư là đại kinh đại pháp của Khổng giáo
để trên kế tục cổ thánh, dưới mở
mang cho hàng hậu học để họ dùng cách vật
trí tri tự làm sáng tỏ Minh Đức (cái đức sáng);
sau đó, áp dụng cho gia đ́nh, đất nước,
thiên hạ, sao cho người trong gia đ́nh, đất
nước, thiên hạ, ai nấy đều làm sáng tỏ Minh
Đức. Trước khi có bộ sách này th́ tuy có những
lời bàn luận tỉ mỉ hay đại lược
khác nhau, nhưng ư chỉ đều tương đồng.
Sau bộ sách này th́ tuy căn cơ lợi - độn khác
biệt, nhưng hiệu quả không khác. Thật có thể
nói là tiên thiên chẳng trái nghịch trời, hậu thiên[42] lại
hợp thiên thời, [Khổng Tử quả là] bậc thầy
gương mẫu của muôn đời, trăm đời
Nho Gia tôn sùng vậy.
Đại
cương của sách nằm ở chỗ tu đạo
“làm sáng tỏ Minh Đức”, mà chuyện hạ thủ tối
thân thiết là riêng ở chỗ “cách vật trí tri, khắc
kỷ, giữ lễ, dứt ḷng tà, giữ ḷng thành”. Nếu
với mỗi chữ, mỗi câu, người học đều
đem thân tâm lănh hội th́ dù chỉ là một gă thất
phu cũng sẽ góp phần tán trợ đạo sanh thành
dưỡng dục trùm trời tột đất, nào khó
đạt được bản tâm, khiến cho thánh hiền
một phen khổ tâm lưu lại giáo huấn chẳng trở
thành uổng công đặt để! Càn khôn đại phụ
đại mẫu càng sáng hơn, chẳng thẹn cùng trời
đất xưng là Tam Tài! Há chẳng tự gắng công
ư? Đại pháp của đức Như Lai được
truyền qua phương Đông từ đời Hán, đến
đời Đường các tông đều có đủ,
Thiền đạo đại hưng, cao nhân xuất hiện
như rừng, tùy cơ tiếp độ người. Do
vậy, cho đến đời Nguyên - Minh những nhà Nho
vùng Liêm, Lạc, Quan, Mân[43] ,
ai nấy đều dùng yếu nghĩa của Phật pháp
để phát huy Nho tông, khiến cho tâm pháp của Khổng
Tử, Nhan Hồi đă dứt tuyệt lại được
tiếp nối. Họ dùng tịnh tọa tham cứu để
mong khai ngộ, không ai chẳng coi Phật pháp là pháp tắc
để phỏng theo. Do vậy, có những vị công sâu
lực trọn, lâm chung biết trước lúc mất, ngồi
cười nói qua đời rất nhiều. Họ thành ư
chánh tâm, đáng làm bậc thầy gương mẫu trong
Nho môn, nhưng v́ muốn giữ lấy môn đ́nh nên đối
với những ǵ họ đă phỏng theo, chẳng những
không tỏ bày ra, trái lại c̣n chê trách, để những
kẻ đời sau học theo sẽ tôn trọng đạo
của chính họ, chẳng đi theo Phật pháp. Nhưng
làm vậy cũng uổng công, họ chẳng nghĩ ḿnh bên
trong ngầm tu, ngoài mặt bài xích, hậu học há chẳng
thấy được lỗi thầy ư? Cho thấy tâm
lượng họ nhỏ nhen, thành ư chánh tâm không ǵ chẳng
bị tỳ vết, ṛ rỉ, thật đáng đau tiếc
lắm!
Cuối
đời Minh, Ngẫu Ích đại sư vốn là Pháp
Thân đại sĩ, thừa nguyện thị hiện trong
đời, thoạt đầu đọc sách Nho, liền
bắt chước tiên Nho bài Phật, chứ thật ra
chưa biết v́ sao Phật thành Phật! Về sau đọc
kinh Phật, mới hối tội trước, liền
chuyên tinh nghiên cứu, mới biết Phật pháp là gốc
của hết thảy các pháp. Những kẻ bài xích nếu
không là phường bịt tai trộm linh th́ cũng là những
kẻ chưa thấy màu sắc đă biện luận mù
quáng. Ngài bèn phát tâm xuất gia, hoằng dương pháp hóa.
Một đời chú giải, trước thuật kinh luận
hơn bốn mươi loại, số quyển đến
cả mấy trăm, không ǵ chẳng phải là “chữ nào chữ nấy thấy
được sự thật, lời nào lời nấy
siêu việt”, như gảy bàn tính lợi ích vô tận.
Lại
nghĩ trong Nho Tông người bậc thượng dùng Phật
pháp để tự lợi ích, rốt cuộc khó thể
quán thông rốt ráo; kẻ kém hơn chỉ nghĩ tập
tành từ chương là đủ, phần nhiều tạo
ác nghiệp báng pháp. Trong tâm đau thương, muốn cứu
giúp họ; do vậy, dùng Phật pháp giải thích Tứ
Thư, Châu Dịch. Chú giải sách Luận Ngữ, Mạnh
Tử th́ nêu đại lược đại nghĩa. Chú
giải sách Trung Dung và Đại Học th́ chỉ thẳng
nguồn tâm. Ấy là vận dụng nghĩa Khai Quyền
Hiển Thật trong kinh Pháp Hoa, dùng lư viên đốn để
chú thích những lư lẽ yên trị cơi đời, ngơ hầu
tâm pháp Linh Sơn, Tứ Thủy được hiển lộ
triệt để, không c̣n che giấu chút nào. Những kẻ
lấy Phật pháp để tự lợi ḿnh sẽ
được lợi ích rốt ráo thật sự, những
phường chuyên tập tành từ chương sẽ do
đây biết được Phật pháp rộng lớn,
chẳng dễ suy lường, cũng mau chóng dứt tà kiến,
dần dần sanh chánh tín, biết khử trừ vật dục
đề tự sáng tỏ được Minh Đức.
Do vậy, bèn tận lực t́m cầu, sẽ trực tiếp
lănh hội được tâm truyền của Khổng Tử,
Nhan Hồi, lợi ích ấy há nhường cho các nhà Nho
đời Tống, Nguyên, Minh riêng hưởng ư?
Gần
đây, các giới mở rộng tầm mắt, những
người thiên tư cao không ai chẳng nghiên cứu Phật
pháp. Một người xướng trăm người
ḥa, không ai chẳng ngả theo. Đă biết tâm sẵn có
Phật tánh, vô thỉ vô chung, đầy đủ công
đức chân thật thường - lạc - ngă - tịnh,
há thấy việc nhân chịu nhượng, thấy điều
nghĩa không làm, đề cao thánh cảnh, tự làm phàm ngu
ư? Do vậy, vĩ nhân danh sĩ đa phần đua
nhau ăn chay niệm Phật, dốc sức tu tịnh nghiệp,
mong cho sống th́ thấy được Phật tánh, chết
đi sanh về Phật quốc mới thôi.
Hai
vị cư sĩ Úc Cửu Linh và Thi Điệu Mai xưa
có linh căn, dốc ḷng tin tưởng Phật pháp, vừa
thấy bộ chú giải Tứ Thư của ngài Ngẫu
Ích liền khôn ngăn hoan hỷ, bảo sách này chỉ thẳng
vào nhất niệm của đương nhân, minh thị
rơ ràng tâm pháp của đạo Nho, đạo Thích, quán triệt
dung thông pháp thế gian lẫn xuất thế gian, khiến
cho thượng, trung, hạ căn tùy theo căn cơ
đều được lợi ích. Người sâu xa sẽ
thấy sâu xa, chẳng ngại khế hợp thẳng vào Bồ
Đề, kẻ nông cạn cũng sẽ dần dần
gieo thiện căn. Cho nên họ muốn khắc in để
lưu thông rộng răi. Đem công đức này kính chúc xuân
huyên[44]
được thêm tuổi thọ, đến khi trăm tuổi
thần thức về An Dưỡng, quá khứ phụ mẫu
tiêu trừ túc nghiệp, được Phật tiếp dẫn
văng sanh Tịnh Độ. Xin Quang viết lời tựa
để bảo cùng những người sáng suốt trong
tương lai. Quang tự thẹn xưa kia làm gă Xiển
Đề hủy báng Phật pháp đến nỗi nghiệp
chướng lấp tâm, không cách ǵ ngộ chứng. Vui mừng
được họ thỉnh, mong cho hết thảy mọi
người đối với Phật pháp đều sanh
chánh tín, ngơ hầu nghiệp chướng cùng tiêu, tâm quang
đều cùng phát hiện. Sách Châu Dịch Thiền Giải,
Kim Lăng [Ấn Kinh Xứ] đă khắc xong. Sách Mạnh
Tử Trạch Nhũ do chiến tranh nên đă thất truyền,
cư sĩ Dương Nhân Sơn t́m bên Nhật vẫn chẳng
thấy, cũng chẳng đáng tiếc lắm ư!
15. Lời tựa sách Pháp Hoa Nhập Sớ
Suốt một đời đức Như Lai
nói các pháp môn Đại - Tiểu, Quyền - Thật, Thiên -
Viên, Đốn - Tiệm, không pháp nào chẳng tùy cơ lập
giáo, đối bệnh phát thuốc. Cho đến hội
Pháp Hoa, khai Quyền hiển Thật, hội tam quy nhất
(quy ba thừa về Nhất Thừa), khai Tích hiển Bổn,
nêu thọ lượng nơi Bổn, giơ tay, cúi đầu[45] đều
thành Phật đạo. Lời lẽ, xử sự đều
thuận chánh pháp. Từ hết thảy pháp hiển thị
Thật Tướng, từ ngay nơi cái tâm bị mê chỉ
ra bản thể giác đạo. Phàm mọi duyên do của cả
một đời giáo pháp đều được hiển
lộ, xiển dương, khen ngợi, chỉ dạy triệt
để không nghi, khiến cho khắp thượng trung hạ
căn đều được khai thị ngộ nhập
tri kiến Phật, rốt ráo tỏ rơ bổn hoài xuất
thế của Phật. Hay đẹp thay! Mầu nhiệm
thay! V́ thế, nghĩa lư sâu xa, u viễn, chẳng dễ
suy lường.
Khi
kinh Pháp Hoa được truyền đến Chấn
Đán (Trung Hoa), hơn một ngàn năm qua, chú giải tuy
nhiều, nhưng chỉ có bản của ngài Thiên Thai Trí Giả
là nêu bật được tông chỉ. Do v́ Ngài dùng ngũ
trùng huyền nghĩa[46]
để giải thích tổng quát tên kinh, dùng nhân duyên,
ước giáo, bổn tích, quán tâm để giải thích trọn
vẹn kinh văn, đặt tên là [Pháp Hoa] Văn Cú. Có thể
nói: “Không nghĩa nào chẳng được hiển lộ,
không căn cơ nào chẳng được thâu gồm!”
Lại dùng Chỉ Quán để phát minh hành tướng,
khiến cho ba thứ giáo - hạnh - lư của Pháp Hoa
được phơi bày trọn vẹn triệt để,
không c̣n che lấp chút nào. Do vậy, xưa kia những
người y theo sách ấy tu tập đắc đạo
như rừng. Đến đời Đường, Kinh
Khê tôn giả[47]
cho rằng ba bộ sách lớn ấy văn nghĩa quá sâu
xa, chẳng thuận tiện cho hàng sơ cơ, nên đối
với mỗi sách [Pháp Hoa] Huyền Nghĩa, [Pháp Hoa] Văn
Cú, [Ma Ha] Chỉ Quán đều soạn chú thích. Bản chú
thích sách Văn Cú mang tên là Văn Cú Kư. Xưa kia, Kinh, Sớ,
Kư[48]
đều lưu hành, người mới học xem đến,
khá phí tâm lực. Pháp sư Tứ Minh Đạo Oai đời
Tống bèn tóm lược sách Văn Cú và Văn Cú Kư, gom chép
vào bên dưới kinh văn, đặt tên là Pháp Hoa Nhập
Sớ để người học khỏi mất công t́m
đọc liền hiểu ngay, có lợi rất lớn. Do
vậy, sách được lưu thông trong nước,
ngoài nước, từ thời Nguyên - Minh trở đi,
sách bị thất truyền ở Trung Quốc. Cuối
đời Quang Tự nhà Thanh, Thức Định đại
sư thỉnh Đại Tạng Kinh bản in mới của
Hoằng Giáo Thư Viện ở bên Nhật, trong đó có
sách này. Do vậy, ngài giao mấy trăm đồng cho pháp
sư Diệt Tận ở chùa Tịnh Giới tại Kim
Lăng bảo khắc in sách ấy. Thầy Diệt Tận
chia thành hai mươi quyển. Bản thảo chép xong, giảo
chánh hoàn thành, chỉ mới in được sáu quyển
th́ thầy Diệt Tận tạ thế. Do vậy, việc
ấn loát bị gác lại mấy năm.
Vào
năm Dân Quốc thứ tám (1919), Quang do khắc in các sách
như An Sĩ Toàn Thư v.v… từ Phổ Đà đến
Duy Dương[49],
mới biết chuyện này. Ư muốn tiếp tục cho sách
được hoàn thành, nhưng khổ v́ không tài lực. Có
cư sĩ Trương Thụy Tăng xưa đă gieo cội
đức, dốc ḷng tin tưởng Phật thừa, khá
thương cho thế đạo nhân tâm ngày càng xuống dốc,
cho rằng nếu không dùng đại pháp của Như Lai
làm sao văn hồi cho được! V́ thế, đối với
việc kiêng giết phóng sanh đều tận lực phụng
hành. Đối với văn giới sát phóng sanh đều
lưu thông nhiều nơi. Cũng như đối với
những loại cách ngôn khuyến thiện đều chẳng
tiếc tiền của để khắc in truyền bá. Chỉ
muốn cho đồng nhân cùng nghĩ đến cái tâm của
cha trời mẹ đất, ai nấy ôm ư niệm coi dân
như đồng bào, coi loài vật như chính ḿnh, đều
mong tự lập, lập người, tự lợi, lợi
tha, cùng lên cơi thọ, đều gội Phật ân mới
thôi!
Nghe
Quang đến Duy Dương, ông nhiều lần đến
thăm. Nhân đó, đem chuyện này thuật lại, mong
ông thành tựu cho. Ông vui vẻ bằng ḷng, bảo Quang lo
giảo chánh đối chiếu. Hiềm v́ sách lưu truyền
đă lâu, sai ngoa quá nhiều. Thoạt đầu chưa xem
kỹ, tưởng thầy Diệt Tận đă giảo
chánh rồi, ắt không sai lạc nhiều lắm. Đến
khi khắc xong, soát lại, mới biết sót lỗi quá nhiều.
Do vậy, bèn dựa theo sách Văn Cú và Văn Cú Kư, sửa
lại cho đúng. Trong ấy, có những chữ, những
câu không trọn vẹn, thông suốt, tựa hồ bị
thiếu sót, hay sai lạc, nhưng không gây trở ngại
ǵ đến đại ư th́ cứ để nguyên v́ bản
in đă khắc xong, không tiện sửa chữa. Mong ai
đọc đến sách này, đều trong một niệm
tâm của chính ḿnh, liền được khai thị ngộ
nhập tri kiến Phật, sẽ chẳng phụ Phật
tánh chính ḿnh sẵn có, cũng như chẳng phụ Như
Lai nói kinh, Trí Giả tạo sớ, Kinh Khê tạo kư, Đạo
Oai hội nhập, cũng như công Thức Định
đại sư, cư sĩ Thụy Tăng lưu thông. Khắc
đă xong bèn tự thuật duyên khởi.
16. Lời tựa cho tác phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Sớ Sao Hiệt (trích yếu bộ Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Sớ Sao)
Pháp môn Tịnh Độ không ǵ lớn lao
vượt ra ngoài nó được. Hết thảy chư
Phật và pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của
hết thảy chư Phật đều từ đây mà
ra. Hết thảy Bồ Tát và đạo thượng cầu
hạ hóa xứng tánh Bồ Tát đang tu đều do
đây mà vào. Ấy chính là “không
ǵ chẳng từ pháp giới này lưu xuất; không ǵ chẳng
quy hoàn pháp giới này”. Như Lai v́ một đại sự
nhân duyên mà xuất hiện trong đời. Dẫu tùy cơ
lập giáo đủ mọi thứ khác biệt, nhưng
t́m lấy một pháp dù thánh hay phàm, thượng trung hạ
căn, cho đến phường nghịch ác đều
có thể liễu sanh thoát tử ngay trong đời này, giă
biệt tam giới, cao đăng chín phẩm th́ chỉ có
mỗi một ḿnh pháp Tịnh Độ là được
như vậy mà thôi.
Ôi!
Như Lai đại từ phổ độ chúng sanh, chỉ
có một pháp này mới bộc lộ hết bổn hoài.
Chúng sanh tu hành mong thoát sanh tử, chỉ do một pháp này chắc
chắn được toại nguyện. Pháp môn rộng lớn,
lợi ích rộng sâu. V́ vậy, hết thảy Phật tử
đều phụng hành. Ngờ đâu, gần đây kẻ
ngu phu ngu phụ, phần nhiều dốc kiệt ḷng thành
quy mạng, c̣n bậc thông Tông thông Giáo lại coi thường,
bỏ qua, tợ hồ chẳng nghe biết đến, là
v́ lẽ nào? Do kẻ nghiên cứu Giáo dùng giáo lư thông thường
để luận Đoạn - Chứng, chẳng tin có chuyện
đới nghiệp văng sanh, thường khư khư ở
trong sanh tử độ sanh, chẳng nguyện làm người
được mau thoát sanh tử! Chẳng biết chén bát
chưa nung, gặp mưa liền ră. Phiền Hoặc
chưa đoạn, sanh sang kiếp khác liền mê; tự lợi
c̣n khó, huống ǵ lợi tha! Ấy là v́ chẳng lượng
đức ḿnh, là hạng phàm phu sát đất vừa có
chút huệ tánh bèn tưởng ḿnh có bản lănh của bậc
Pháp Thân đại sĩ, đến nỗi một phen lầm
lạc, vĩnh viễn lầm lạc! Người tham Thiền
chuyên chú tham cứu để minh tâm kiến tánh, chẳng
biết kẻ căn cơ hơi kém chẳng thể minh
tâm kiến tánh rất nhiều. Dẫu cho đă minh tâm kiến
tánh, nhưng Hoặc nghiệp chưa đoạn th́ vẫn
luân hồi sanh tử y như cũ, chẳng thể thoát khỏi,
lại càng nhiều hơn nữa! Ngũ Tổ Giới, Thảo
Đường Thanh, Hải Ấn Tín, Chân Như Triết
v.v… đều là những bằng chứng xác thực! Ôi! Tử
sanh cũng lớn lao thay! Há có nên chuyên cậy vào tự lực,
không nương vào Phật lực ư? Hay là tự lực
quả thật trội hơn Phật lực chăng? Làm
người sống trong cơi đời, lớn như sáng lập
cơ nghiệp truyền lại cho đời sau, nhỏ
như một manh áo, một bữa ăn, không ǵ chẳng cậy
vào sức của mọi người để thành tựu
chuyện của chính ḿnh. Đối với đại sự
liễu sanh thoát tử, dù có Phật lực vẫn chẳng
chịu nương tựa, muốn tỏ rơ bản lănh phi
thường, chỉ e kém xa gă ngu phu. Chí ấy có thể nói
là lớn, nhưng tiếc rằng không biết đấy
chỉ là nói năng lớn lối!
Chẳng
thấy trong kinh Hoa Nghiêm, là [bản kinh] vua cả Tam Tạng,
do đức Như Lai khi mới thành Chánh Giác v́ bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ đă vượt ngoài các giới, giảng ra Phật
pháp thành tựu ngay trong một đời. Thật nghĩa
rốt ráo quy tông kết đảnh của đạo thành
Phật trong một đời ấy nằm ngay ở chỗ
dùng mười đại nguyện vương hồi
hướng văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, ngơ hầu viên măn Phật quả. Sở chứng của
Thiện Tài đă bằng với Phổ Hiền, bằng với
chư Phật, đáng gọi là bậc Đẳng Giác Bồ
Tát. Đẳng Giác chỉ kém đức Phật mà vẫn
phải hồi hướng văng sanh, các đại Bồ
Tát trong toàn thể Hoa Nghiêm thế giới hải đều
vâng lănh lời dạy này, cùng tu pháp này. Căn tánh những
người thông Tông, thông Giáo hiện thời có nhạy
bén, chứng nhập có sâu xa hơn những vị Bồ Tát
ấy hay chăng? Ngàn kinh vạn luận đâu đâu
cũng chỉ quy, văng thánh tiền hiền người
người hướng về. Há có phải những kinh
luận ấy chẳng đáng để tuân theo ư? Há
các vị thánh hiền ấy đều là ngu phu ngu phụ
ư? Tóm gọn một lời: Nghiệp chướng sâu nặng,
chưa kham giải thoát! Bởi thế cho nên “dùng thường ngày chẳng biết,
quen làm mà chẳng xem xét” vậy!
Phổ
Hiền Hạnh Nguyện Phẩm: Trong phẩm cuối cùng
là phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm bản
tám mươi quyển, Thiện Tài tham học với
năm mươi ba vị tri thức viên măn, đến chỗ
ngài Phổ Hiền, được Phổ Hiền khai thị,
và nương sức oai thần, liền chứng Đẳng
Giác. Phổ Hiền bèn nói ra bài kệ, xưng tán công đức
mầu nhiệm thù thắng của Như Lai. Do kinh văn [truyền
sang Trung Hoa] chưa hết, nên pháp hội chưa xong mà kinh
đă chấm dứt. Thanh Lương quốc sư soạn
riêng Sớ Sao để hoằng dương lớn lao
đạo này. Đến niên hiệu Trinh Nguyên đời
Đường Đức Tông, quốc vương Ô Trà ở
Nam Ấn Độ mới cống nạp toàn bản Phổ
Hiền Hạnh Nguyện Phẩm bằng tiếng Phạn,
dịch thành bốn mươi quyển. Ba mươi chín
quyển đầu chính là phẩm Nhập Pháp Giới trong
bộ Bát Thập Hoa Nghiêm, nhưng văn nghĩa tường
tận hơn. Cuốn thứ bốn mươi chính là phẩm
Phổ Hiền Hạnh Nguyện đang được
lưu hành. Khi ấy, ngài Thanh Lương cũng dự vào
dịch trường, cực lực tán dương, phụng
mạng soạn sớ.
Sớ
văn của toàn bộ bốn mươi quyển ở
Trung Quốc thất truyền đă lâu. May là trong tạng
kinh ở Nhật, vẫn c̣n bộ sách này. Bắc Kinh Khắc
Kinh Xứ chuyên khắc những tác phẩm của cổ
đức, chẳng bao lâu nữa sẽ lại được
lưu truyền. Quyển kinh này lại được Ngài
soạn cuốn Biệt Hành Sớ để cho những
người thích giản lược và tu Tịnh Độ
nghiên cứu đến cùng tận. Học tṛ Ngài là Khuê
Phong[50]
viết lời sao, đă được lưu thông trong
nước lẫn ngoài nước. Nhưng do văn từ
phong phú, nghĩa lư quá nhiều, chẳng tiện cho kẻ
sơ cơ. Cư sĩ Phạm Cổ Nông do thấy thế
gian đă ghép ba kinh Tịnh Độ và một phẩm Hạnh
Nguyện thành Tịnh Độ Tứ Kinh, chú giải của
ba kinh rất nhiều, chẳng trở ngại tùy theo
căn cơ mà chọn đọc, c̣n kinh này chỉ có mỗi
bộ Sớ Sao, tuy phát huy đến tận cùng, nhưng kẻ
sơ cơ thường hay bị mờ mịt. Do vậy,
đối với bộ Sớ Sao, ông Phạm trích lấy
những nghĩa trọng yếu, cho khắc bản lưu
thông. Văn tuy giản lược, nhưng nghĩa vẫn
đầy đủ. Có thể nói là xét căn cơ, lập
giáo pháp thích hợp, có ích không ít cho pháp môn! Nếu người
học trước hết đọc “hiệt bản” (bản
trích yếu) này, rồi mới đọc toàn văn th́ chẳng
những thấu hiểu tấm ḷng hoằng truyền, tán
dương của ngài Thanh Lương mà c̣n thấu hiểu
được tấm ḷng khuyến phát của đức
Phổ Hiền, tâm xuất thế của Như Lai. Dám thỉnh
những vị thông Tông thông Giáo cùng thuận theo các vị Bồ
Tát trong Hoa Tạng hải hội và những kẻ ngu phu
ngu phụ nhất trí tiến lên, cùng sanh Tây Phương
để khỏi phụ ân Phật dạy dỗ, chẳng
phụ linh tánh của chính ḿnh!
17. Lời tựa cho tác phẩm Kim Cang Thứ
Hỗ[51]
Kinh Kim Cang từ nơi Hữu bàn về Không,
chẳng đọa nơi Không; từ Không luận về Hữu,
chẳng đọa vào bên Hữu. Không lẫn Hữu cùng mất,
Chân - Tục bất nhị, chúng sanh và Phật nhất trí,
lư - sự viên dung, hạnh khởi giải tuyệt, tiến
thẳng vào biển giác. Hết thảy Bồ Tát
nương theo đây tu nhân, tam thế chư Phật
nương vào đây chứng quả. Kinh này chính là
cương yếu của giáo pháp suốt cả một
đời đức Như Lai, quả thật là chuẩn
mực để thượng hoằng hạ hóa của
hàng Bồ Tát. Chỉ bày bổn thể của Như Như,
cơ lẫn lư đều khế hợp. Chứng Không
Không tam-muội, giải lẫn hạnh đều viên. Diệu
lại càng diệu, huyền càng thêm huyền. Khéo thay, cao
quư thay! Há có thể nghĩ bàn được nổi ư?
Thế gian thường chẳng xem xét, cho là Không Tông, cô phụ
Phật ân quá đáng! Độ tận hết thảy chúng
sanh chẳng thấy tướng người độ, kẻ
được độ, chẳng trụ vào Sắc, Thanh,
Hương, Vị, Xúc, Pháp để hành bố thí, cho
đến lục độ cũng như vạn hạnh.
Dùng không “ngă, nhân, chúng sanh, thọ giả” để tu hết
thảy thiện pháp, không trụ vào đâu để sanh
tâm, tuy thuyết pháp nhưng không có pháp ǵ để thuyết;
tuy thành Phật nhưng không có Bồ Đề để
đắc. Ấy là mây bay biển Hạnh, sóng dậy cửa
Độ, chính là đạo xứng tánh duyên khởi, không
có sự để hành.
Do vậy,
trong chẳng thấy có cái ta là người độ, ngoài
chẳng thấy có người và chúng sanh được
độ, giữa chẳng thấy có tướng thọ
giả để chứng Vô Dư Niết Bàn. Cái thấy “có
ḿnh lẫn người” cùng mất, t́nh kiến phàm lẫn
thánh đều hết. Tam luân thể không, một đạo
thanh tịnh. Thật Tướng diệu lư như như bất
động, triệt để phô bày trọn vẹn. V́ thế
được phước đức bằng với
mười phương hư không vậy! C̣n như thọ
tŕ kinh này, v́ người khác nói, dù chỉ bốn, ba, hai, một
câu, phước ấy c̣n hơn dùng bảy báu đầy
khắp tam thiên đại thiên thế giới để bố
thí suốt vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp,
hơn phước của việc hằng ngày ba thời
dùng thân mạng nhiều như số cát sông Hằng để
bố thí. Ấy là v́ hết thảy chư Phật và pháp
vô thượng giác đạo của chư Phật đều
từ kinh này mà ra. Do đó, người thuyết pháp chính
là dùng sự trang nghiêm của Phật để tự trang
nghiêm và trang nghiêm hết thảy chúng sanh. Công đức
chân thật tự hành hóa độ người ấy được
gọi là Không, há chẳng đáng sao!
V́
thế, dù chỉ nói kinh này bốn, ba, hai, một câu th́ hết
thảy trời người đều nên cúng dường
như cúng dường tháp miếu Phật. Do người
tŕ kinh tâm hợp với đạo, tâm hợp với Phật,
nên chuyển được hậu báo nặng nề nhất
thành hiện báo nhẹ nhàng nhất, lại c̣n sẽ đắc
Bồ Đề. Do tự hành, dạy người, tâm chẳng
trụ vào tướng chính là dùng Trí Như Như để
khế hợp Lư Như Như, ngay khi đó dung hợp thành
một với Bồ Đề, Niết Bàn, như nước
lẫn vào nước, như không trung hợp với không
trung. Dù có thánh trí, chẳng thể phân biệt được!
Những pháp môn đức Như Lai đă giảng trong suốt
một đời đều dùng trí này chiếu thấu
để tu th́ nước chảy đến liền thành
kênh, mây tan trăng rạng, một trần chẳng lập,
vạn đức trọn phô!
Cư
sĩ Mă Thông Bạch xưa đă trồng cội đức,
dốc ḷng tin tưởng Phật thừa, phẩm hạnh
thanh cao, trước thuật phong phú, thật là bậc
văn chương lỗi lạc hiện thời, có học
thức cao tuyệt. Nhưng do dốc chí nơi Nho Tông,
chưa rảnh rỗi tinh chuyên nội điển. Măi
đến khi tuổi tṛn hoa giáp (sáu mươi), thấy lẽ
tang thương biến đổi, ngộ thân thế vô
thường, bèn buông bỏ hết thảy, chuyên xem kinh Phật.
Mới biết lời Như Lai nói đều chỉ tâm
ta, viên châu sẵn có nơi vạt áo cơ hồ quên mất.
Mừng rỡ cùng cực, chuyển thành bi cảm. Về
sau đọc kinh này, tâm hoa bừng nở; do đấy,
thuận theo kiến giải của ḿnh soạn thành bộ
Kim Cang Thứ Hỗ. Đối với chỗ văn từ
quyện lẫn vào nhau bèn phân chương đoạn cho
rơ, đối với nghĩa huyền diệu bèn dùng lời
lẽ b́nh dị để giảng rơ. Khế lư, khế
cơ, thông trên thấu dưới, đúng là hướng dẫn
tốt lành cho hàng sơ cơ, thật là cửa trọng yếu
để nhập đạo. Các môn nhân muốn khắc bản
để lưu truyền măi măi, ngơ hầu những Nho
sĩ thông suốt thảy đều ngưỡng mộ học
theo, lợi ích ấy chỉ có đức Phật mới
có thể biết được nổi. Gắng đem nỗi
niềm ngu thành để làm lời tựa dẫn nhập.
18. Lời tựa cho bản đúc kẽm
tác phẩm Kim Cang Kinh Tuyến Thuyết
Một quyển kinh này người người
đều có, ai ai chẳng không. Nhưng do mê chân đuổi
theo vọng, trái giác, hợp trần, chẳng biết phản
quán nội chiếu đến nỗi chẳng thể tự
thụ dụng. V́ thế, phẩm Như Lai Xuất Hiện
trong kinh Hoa Nghiêm có câu: “Lúc
Như Lai thành Chánh Giác, than rằng: ‘Lạ thay! Lạ thay!
Hết thảy chúng sanh đều có đủ trí huệ,
đức tướng củaNhư Lai, chỉ v́ vọng
tưởng, chấp trước mà chẳng chứng đắc.
Nếu ĺa vọng tưởng th́ Nhất Thiết Trí, Tự
Nhiên Trí, Vô Ngại Trí đều được hiện tiền”.
Trong đoạn mở đầu kinh này, do ngài Tu Bồ
Đề thấy oai nghi của Phật nên khen ngợi: “Đức Thế Tôn hy hữu!
Khéo hộ niệm phó chúc các Bồ Tát”, muốn khiến
cho pháp hộ niệm phó chúc được rạng rỡ
trong thế gian, nên hỏi: “Bồ
Tát phát vô thượng Bồ Đề tâm, nên trụ
như thế nào? Nên hàng phục cái tâm như thế nào?”
Hai câu này chính là yếu chỉ của hộ niệm, phó
chúc vậy.
Như
Lai lấy chuyện “làm cho tất
cả hết thảy chúng sanh trong chín pháp giới đều
được nhập Vô Dư Niết Bàn để
được diệt độ, nhưng chẳng thấy
có tướng chúng sanh được diệt độ”
để đáp câu hỏi “hàng
phục” ; lấy chuyện “Bồ
Tát đối với pháp hăy nên không trụ vào đâu, chẳng
trụ vào Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp để hành bố thí”
để đáp câu hỏi “nên
trụ như thế nào?” Lại nói: “Chẳng trụ vào Sắc để sanh tâm, chẳng
trụ vào Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp để sanh tâm,
hăy nên không trụ vào đâu để sanh tâm”. Lại c̣n
khen ngợi sâu xa phước đức chẳng trụ
vào tướng để bố thí, [nói phước đức
ấy] lượng chẳng thể suy lường giống
như mười phương hư không vậy. V́ sao độ
tận hết thảy chúng sanh lại nói là “không thấy có chúng sanh được diệt độ?”
Là v́ Vô Dư Niết Bàn chính là tánh thể sẵn có của
chúng sanh. Do mê trái nên không biết, thoạt đầu
chưa từng bị mất, được Bồ Tát chỉ
dạy bèn hiểu rơ hạt châu trong chéo áo, đầu nằm
ngay trên cổ. Đă hiểu rơ như vậy th́ xong rồi,
chứ nào phải lại có? Chẳng qua chúng sanh tự tánh
tự độ, há nào có ta là người độ, nào có
người và chúng sanh được độ? Cũng
như nào có tướng thọ giả để nhập
Vô Dư Niết Bàn ư?
Bốn
tướng đă là không th́ tam luân thể không, nhất
đạo thanh tịnh. Do tam luân thể không, nhất đạo
thanh tịnh, nên vạn hạnh như mây nhóm, tâm không trụ
vào đâu. Dẫu cho vạn hạnh như mây nhóm, thật ra
không có một pháp nào để lập. Thấy t́nh và vô t́nh
đều cùng một Thật Tướng; cho nên núi, sông,
đại địa hoàn toàn hiển lộ thân Pháp Vương.
Kinh Lăng Nghiêm coi Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập
Nhị Xứ, Thập Bát Giới, Thất Đại đều
là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh, chính là bằng
chứng. Do vậy, biết: Như Lai trí huệ, đức
tướng vốn tự đầy đủ, không thiếu,
không thừa. Nhưng v́ mê trái nên bỗng dưng huyễn khởi
vọng tưởng, chấp trước, đến nỗi
trí huệ, đức tướng bị ẩn mất chẳng
hiện. Nếu chịu suy xét đến cùng cực, xét xem
vọng tưởng, chấp trước này từ nơi
đâu mà có, th́ mây mù phủ kín bầu trời ắt sẽ
triệt để tiêu diệt. Vầng mặt trời sẵn
có sẽ hiển hiện toàn thể. Lúc mây mù phủ kín, mặt
trời cũng chưa hề bị mất; lúc mây mù tan tác,
mặt trời cũng chưa hề có lại! Độ tận
hết thảy chúng sanh mà chẳng thấy một chúng sanh
nào được độ chính là ư này.
Ai
thấy được lư này, hành được hạnh
này, dùng “không trụ vào đâu” để sanh tâm, ắt thấy
các tướng không có tướng. Người như thế
thọ tŕ kinh này, v́ người khác diễn nói dẫu chỉ
bốn, ba, hai, một câu th́ phước đức của
người dùng bảy báu đầy ắp tam thiên đại
thiên thế giới để bố thí vẫn chẳng thể
bằng được! Do một câu nhiễm vào thần thức,
vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo. Trụ
vào tướng để bố thí th́ quả báo ở
nơi nhân thiên! Do vậy, nói: “Chỗ
nào có kinh, chỗ ấy chính là tháp miếu. Kinh ở tại
chỗ nào, chỗ ấy có đủ Tam Bảo”. V́ vậy,
hết thảy thế gian trời, người, A Tu La
đều phải nên cúng dường. Do người nói chẳng
chấp vào tướng, như như bất động,
dùng Như Như Trí khế hợp Như Như Lư, Phật
như, chúng sanh như, nhất như, vô nhị như. Nói
cả ngày nhưng thật ra chưa từng nói, dù nín lặng
không nói cũng chưa từng chẳng nói. Do người ấy
đi, đứng, nằm, ngồi, qua lại, cúi, ngửa,
mặc áo, ăn cơm, giơ nắm tay, dựng ngón tay,
không ǵ chẳng phải là Vô Dư Niết Bàn bất sanh bất
diệt, là toàn thể đại dụng của vô trụ
sanh tâm. Ruộng đất vượt ngoài kiếp,
trăng gió nơi quê cũ, mặc người tự
được, nào ai ngăn trở? Do vậy, ông bán củi[52]
nghe được một câu liền được nối
Tổ truyền đăng, lẫy lừng vũ trụ.
Người ta là trượng phu, ḿnh cũng thế, chẳng
nên tự khinh để rồi thua kém. Như vậy,
người thọ tŕ nên phát đại Bồ Đề
Tâm như thế nào? Nên sanh tâm không trụ vào đâu như
thế nào?
Cuối
triều Đạo Quang nhà Thanh, có Vô Trụ Lăo Nhân Trần
Trụ xưa có huệ căn, nhược quan (20 tuổi)
bèn tụng kinh này, đến ngoài bảy mươi, xem rộng
các bản chú giải, gạn lọc lấy những
nghĩa lư tạo thành bộ Tuyến Thuyết. Dùng một
sợi dây “chẳng trụ vào tướng” để xâu
dính lại triệt để. Câu chữ giản dị, dễ
hiểu, có ích cho hàng sơ cơ. Nếu nắm được
chỗ chỉ quy từ sách này th́ đối với chú giải
của cổ đức, đối với kinh của
Như Lai sẽ như mở được kho báu, tùy ư thụ
dụng.
Hai
anh em ông Giản Chiếu Nam, Giản Ngọc Giai ở Việt
Đông (Quảng Đông), do mẹ mất, các thân hữu
đến phúng điếu, ai nấy đều gởi những
bài ai điếu, liễn đối phúng viếng. Họ
gom lại cho khắc in, đặt tên là Ai Tư Lục. Lại
muốn v́ mẹ làm lợi cho hết thảy nên bèn cho đúc
bản kẽm cuốn Kim Cang Kinh Tuyến Thuyết in thành
mấy ngàn cuốn, để cùng với bộ Ai Tư Lục
dùng tặng các thân hữu đă phúng điếu để
tạ ơn những lời chúc tụng hay đẹp. Một
là mong cho mẹ được cao thăng phẩm sen, hai là
mong cho thân hữu tăng trưởng thiện căn. Thật
đúng là: “Hiếu tử bất
quỹ, vĩnh tứ nhĩ loại” (tạm dịch: Hiếu
tử chẳng cùng khốn, vĩnh viễn ban cho
ngươi).
Nếu
nghi Kim Cang vô tướng, Tịnh Độ hữu tướng,
hai pháp làm sao dung thông nhau được? Tôi nói: Kinh Kim Cang dạy
độ tận hết thảy chúng sanh, nhưng chẳng
thấy tướng độ, chẳng trụ vào Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp để hành bố thí. Bố
thí đứng đầu lục độ vạn hạnh;
đă dạy chẳng trụ vào tướng bố thí th́
tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định,
trí huệ, cùng với vạn hạnh, không ǵ chẳng phải
như vậy. Như thế, kinh Kim Cang chính là quy củ chuẩn
mực cho con người hành khắp lục độ vạn
hạnh, phổ độ hết thảy chúng sanh, chính là
cương yếu của khắp hết thảy các pháp
môn trong cả một đời giáo hóa. Ấy chính là ngay
nơi tướng mà ĺa tướng, sao không thể dung
thông với Tịnh Độ cho được? Phàm pháp
độ sanh, chỉ có mỗi Tịnh Độ thật
là bậc nhất. Muốn sanh về Tịnh Độ th́
phải tịnh cái tâm. Hễ tâm tịnh th́ cơi Phật tịnh.
Dùng tâm thanh tịnh chẳng trụ vào tướng để
niệm Phật th́ tâm này làm Phật, tâm này là Phật, văng
sanh Tây Phương, chứng Vô Sanh Nhẫn, chính là lư sự
quyết định chẳng thay đổi vậy, nào c̣n ngờ
ǵ nữa?
19. Lời tựa tái bản bộ Tán Lễ
Địa Tạng Bồ Tát Sám Nguyện Nghi
Tâm thể vốn tịnh, do căn trần mà trược
niệm khởi lên. Phật tánh thường tồn, do mê
trái nên phàm t́nh hừng hực. Do vậy, khiến cho sức
tịch chiếu bị biến thành duyên tối tăm, loạn
động. Trong thường trụ, lầm chịu nỗi
khổ sanh tử. Chấp trước Ngũ Ấm, chẳng
biết rốt ráo đều là không. Ngăn lấp nhất
tâm, nào hiểu vốn chẳng thể được!
Đắm nhiễm lục trần huyễn cảnh, đọa
lạc đường khổ tam đồ. Dẫu trải
qua vi trần kiếp số, chẳng thể thoát khỏi
luân hồi lục đạo. Do vậy, đức Thế
Tôn ta rủ ḷng từ mẫn, nhân Địa Tạng Bồ
Tát thưa hỏi, bèn nói pháp luân thập lực của Phật
để nghiến nát Phiền Hoặc, thành tựu đạo
khí. Do đấy, vứt bỏ ác pháp, đoạn trừ hết
thảy Vô Y Hạnh[53],
tu tŕ thiện pháp, đầy đủ hết thảy Hữu
Y Hạnh. Nhưng muốn đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn th́
phải sám trừ tội khiên đời trước. Nếu
chẳng chấp vào Ngũ Ấm sẽ tự chứng
được ba thân. Bên ngoài th́ nhờ vào Phật lực,
pháp lực, Bồ Tát thệ nguyện lực, trong
nương vào sức thành kính, sức sám hối, sức tự
tánh công đức nên sương tội ngập trời bị
tiêu diệt triệt để; bầu trời chân tánh sẵn
có được hiển hiện toàn thể.
Do vậy,
biết rằng ba kinh Thập Luân, Bổn Nguyện, Chiêm
Sát[54]
đều là v́ Địa Tạng đại bi nguyện lực
khiến cho chúng sanh côi cút không nơi nương cậy
trong đời Mạt có chỗ nương cậy lớn
lao. Ngẫu Ích đại sư đă chứng Pháp Thân, thừa
nguyện tái lai, thoạt đầu thị hiện làm kẻ
Xiển Đề, sau trở thành sứ giả Như Lai,
một đời hạnh giải, lư sự viên dung. Suốt
đời trước thuật, tánh - tu cùng trọn đủ.
Ngài muốn làm cho trược trí trở thành tịnh trí,
bèn dựa theo ba kinh trên, soạn ra Sám Nghi, ngơ hầu biến
phàm tâm thành Phật tâm, dùng Thập Luân để làm sáng tỏ
sự tán thán, sám hối. Gương báu đă mài, quang minh tự
phát. Ma-ni đă gột rửa, bèn tuôn ra trân bảo. Thật
có thể nói là diệu pháp để phản bổn hoàn
nguyên, là đạo để đạt “tâm này làm Phật”
vậy. Hoằng Nhất Thượng Nhân từ trước
đă khâm phục trước thuật của đại
sư, bèn cho khắc bản bộ sám nghi này để
lưu truyền rộng răi, khiến cho người có chí
diệt Hoặc nghiệp huyễn vọng, chứng chân tâm
sẵn có, trên nối tiếp huệ mạng Như Lai,
dưới tạo thành điển h́nh cho đời sau
đều được thọ tŕ vậy!
20. Lời tựa khắc lại bộ
Giản Ma Biện Dị Lục
Người học đạo suy nghĩ lập
hạnh đều phải chất trực, trung chánh, chẳng
được có mảy may có tướng thiên vị, riêng
tư, lươn lẹo. Nếu có chút thiên lệch, cong quẹo
ǵ th́ sẽ như bàn cân không chuẩn, cân các vật nặng
- nhẹ đều sai. Như thể chất gương
chẳng sạch, chiếu các h́nh tượng khó thể
phân biệt tốt - xấu. Sai chỉ hào ly, mất đi
ngàn dặm! Xoay vần sai lầm, không thể ngăn dứt
được! Kinh Lăng Nghiêm nói: “Mười phương Như Lai đồng một
đạo, nên thoát ĺa sanh tử đều dùng trực tâm”.
Do bảo tâm là trực (ngay thẳng) nên từ địa vị
đầu đến địa vị cuối, trong những
địa vị trung gian, vĩnh viễn chẳng có tướng
cong quẹo. Kinh Thư nói: “Tâm con
người khi gặp hoàn cảnh quyến rũ th́ tâm
đạo bị nhỏ đi, hăy tập trung tư tưởng,
chuyên nhất [ǵn giữ đạo tâm], giữ cho thiên tánh
không đổi dời[55]”. Pháp Tạng[56]
đời trước, vốn có linh căn cho nên đời
này giải ngộ và kiến địa đều chẳng
nông cạn. Nhưng do cái gốc ngă mạn sâu xa, muốn
làm bậc cao nhân thiên cổ đệ nhất, tự ḿnh lập
bừa ra những tông chỉ, danh tướng, viết bộ
Ngũ Tông Nguyên những mong hậu học suy tôn ông ta, rốt
cuộc trở thành tri kiến của tà ma, ngoại đạo.
Nếu như khi ấy cứ một bề vâng giữ trực
tâm trực hạnh, ắt sẽ thấy trong hội của
ngài Mật Vân[57] không
ai bằng được, đạo phong lừng lẫy
khó ǵ chẳng vượt trội các phương! Tiếc
là ông ta chẳng chú trọng thực ngộ, thực chứng,
lại mưu tính, lập cách để ḿnh được
vượt trội hết thảy, khiến cho ngài Mật
Vân ba lần, bảy lượt quở trách để uốn
nắn ông ta!
Con
người chẳng phải là thánh hiền, ai không vướng
lỗi? Nếu thật sự là người anh hùng, quả
cảm sẽ tự hổ thẹn, sám hối, biết lỗi
sửa lỗi, cầu thật ngộ, thật chứng,
th́ pháp mạch Lâm Tế, Như Lai huệ mạng sao không
trực tiếp truyền thừa cho được? Lẽ
đâu dựng cao tràng kiêu mạn, giữ dở, che lỗi,
khiến cho những gă học tṛ như Hoằng Nhẫn
v.v… càng thêm cuồng vọng, phô phang ư kiến ức
đoán của chính ḿnh, viết sách Ngũ Tông Cứu, biến
chánh thành tà, biến tà thành chánh, báng pháp, báng tăng, tự
lầm, lầm người. So với Pháp Tạng, lại
càng sâu nặng gấp mười. Kẻ đui dẫn
lũ mù, kéo nhau vào lửa. Ôi! Đáng buồn thay! Đương
thời, Pháp Tạng, Hoằng Nhẫn mặc t́nh tô vẽ,
khiến cho môn đ́nh rất thạnh, hàng sĩ đại
phu đa phần thành ngoại hộ. Do vậy, những tà
thuyết lầm lạc trong các bộ ngữ lục
Ngũ Tông Nguyên, Ngũ Tông Cứu của cha con họ đều
được đưa vào Đại Tạng.
Đến
năm Ung Chánh thứ mười một (1733), Thanh Thế
Tông muốn tuyển chọn ngữ lục, đọc khắp
các trước tác của họ, biết họ mang ư kiến
lầm lạc, đến nỗi làm mù chánh nhăn của
người khác, bèn truyền hủy sạch những bản
ấy. Lại sắc truyền các tùng lâm trong thiên hạ,
phàm có sách hay ván in sách ấy, phải hủy trừ cho hết.
Nếu giấu diếm, bị phát giác sẽ kết tội
phạm luật. Lại sợ có người bị trúng
độc sâu xa, không thể ói ra hết được, do
sách Ngũ Tông Cứu cuồng vọng, trái nghịch quá mức,
vua bèn trích lục hơn tám mươi điều [từ
sách ấy], vạch trần, phê phán từng điều,
truyền đưa vào Đại Tạng ḥng mở con mắt
chánh cho người, báo ân Phật, ân Tổ. Nhưng do muôn
vàn điều không rảnh rỗi, đến mùa Xuân
năm Ung Chánh 13 (1735) mới hoàn thành bản cảo,
chưa sửa chữa hoàn chỉnh, xe rồng đă lên làm
khách cơi trời. Cao Tông (Càn Long) kế vị, mới cho khắc
ván. Chỉ v́ chẳng giao phó cho người thông hiểu,
nên với những chữ viết giả tá theo lối chữ
Thảo đa phần sửa thành lối chữ Chân
Phương, chẳng hạn như chữ Vị 謂 (nói) sửa thành chữ Vị 為 (v́), nhiều đến hơn cả
trăm chỗ[58].
Những kinh sách được Thế Tông khắc in đều
giảo chánh, đối chiếu tinh xác, nghiêm cẩn, chỉ
có ḿnh sách này sai ngoa quá nhiều. Do vậy, biết sách ấy
được khắc sau khi nhà vua đă lên làm khách cơi trời.
Hơn
nữa, mùa Xuân năm Ung Chánh thứ 13, khởi công khắc
ván Đại Tạng Kinh, vua đă truyền dụ đem
sách này nhập Tạng để lưu thông, nhưng rốt
cuộc không nhập, là v́ Cao Tông lên ngôi chưa lâu, chuyên lo
chánh trị, không rảnh rang đề xướng. C̣n những
hàng Tăng tục khác th́ do đồ đảng của
Pháp Tạng quá đông, nên đều sợ nếu đề
xướng [nhập tạng sách này] ắt phải chuốc
họa. Do vậy, gác lại không bàn đến, cho nên không
nhập. Bản ván khắc sách của triều đ́nh
được giữ trong đại nội, trừ phi
hoàng đế hạ chỉ, không cách nào ấn loát
được. V́ thế, sách này chẳng được
lưu truyền trong đời. Nhưng pháp bảo này ắt
có thần, vật thủ hộ, khiến cho sách được
giấu kín đă lâu lại xuất hiện, được
lưu truyền rộng răi. Nhân duyên này được ghi đầy
đủ trong lần in thạch bản. Nay tính khắc lại
bản gỗ, bèn lắng ḷng giảo duyệt, ḥng khôi phục
lại bản lai diện mục cho tác phẩm của Thế
Tông. Cư sĩ Ưng Quư Trung nguyện bỏ tiền khắc
lại, nên tôi bèn viết lời tựa nêu rơ đầu
đuôi để thuật cùng người thông suốt
trong mai sau.
Phàm
muốn liễu sanh thoát tử, ắt phải thật chứng.
Nếu chỉ ngộ chưa chứng th́ Phiền Hoặc
vẫn c̣n, phải nỗ lực vô cùng. Nếu có thể
khăng khắng dốc sức, trải duyên rèn luyện,
tâm luôn giác chiếu, thầm phù hợp thánh trí, phàm t́nh nhân
ngă thị phi không do đâu khởi được. Nếu
chẳng gắng giác chiếu, phàm t́nh vẫn cứ lừng
lẫy như cũ th́ công hạnh càng cao, t́nh kiến càng nặng;
từ ngộ nhập mê sẽ khó thể tránh khỏi!
Như người tỉnh ngủ không ngồi dậy, hồi
lâu sau lại ngủ tiếp. Cổ nhân nói: “Đại sự đă sáng tỏ, như chôn cha mẹ”[59]. Chính là v́ Phiền
Hoặc chưa đoạn, chỉ sợ lại mê. Phải
biết người đoạn Hoặc, không c̣n phàm t́nh.
Đă không c̣n phàm t́nh, nào c̣n có sanh tử? Người đại
ngộ dẫu ngộ bằng chư Phật, nhưng Hoặc
chưa đoạn trừ th́ phải niệm niệm giác
chiếu, hầu tránh khỏi dùng phàm t́nh xử sự.
Cha
con Pháp Tạng, Hoằng Nhẫn, tuy ngộ xứ cao sâu,
nhưng chỉ v́ ngă mạn quá đáng đến nỗi
hoàn toàn bị vùi lấp trong t́nh kiến nhân ngă, lại toan
muốn làm bậc cao nhân đệ nhất nối tiếp
huệ mạng Phật, đến nỗi một phen lầm
lẫn vĩnh viễn lầm lạc, không sao quay lại
được! Dốc cạn trí lực, chỉ thành thân
phận một kẻ tầm thường, chẳng
đáng buồn ư? Như Lai biết sâu xa chúng sanh đời
mạt Phiền Hoặc khó đoạn nên riêng mở ra pháp
môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ
khiến cho lúc lâm chung được Phật tiếp dẫn,
văng sanh Tây Phương. Đă được văng sanh liền
siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, hầu cận
Di Đà, theo gót hải chúng. Từ đấy phá trọn vô
minh, triệt chứng tự tâm, thẳng đến khi
thành Phật mới thôi. Nếu như Pháp Tạng, Hoằng
Nhẫn biết được điều này, ắt sẽ
thượng phẩm thượng sanh, chứng Vô Sanh Nhẫn,
hiện đủ mọi sắc thân, rộng độ quần
mê. Đâu đến nỗi bóng bẩy, màu mè, mong được
hư danh vượt Phật trội Tổ, muốn
lưu danh thơm trăm đời! Lúc bị người
sáng mắt thấy thấu suốt, bèn lộ tiếng tà ma
ngoại đạo, để tiếng xấu muôn năm!
Ô hô, buồn thay!
Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao,
Quyển thứ ba
(Phần 1 hết)
[1] Kinh Pháp Hoa, phẩm Phương Tiện, có câu: “Nhược nhân tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhất xưng nam-mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo” (Nếu ai tâm tán loạn, vào trong nơi tháp miếu, niệm mô Phật một tiếng, đều đă thành Phật đạo)
[2] Tam thừa ngũ tánh: Tam thừa là Thanh
Văn, Duyên Giác và Bồ Tát. Ngũ tánh: Theo Hoa Nghiêm Kinh Sớ,
chúng sanh có năm chủng tánh thành Phật bất đồng:
1) Bất định
tánh: Tức căn tánh không nhất định, gần
gũi Thanh Văn th́ tu pháp Thanh Văn, gần Duyên Giác bèn tu
pháp Duyên Giác v.v…
2) Vô chủng tánh tức
hạng người không có chánh tín, thiện căn, bác không
nhân quả, chẳng cầu giải thoát.
3) Thanh Văn Tánh.
4) Duyên Giác tánh.
5) Bồ Tát tánh.
Duy Thức Học lại
phán định Ngũ Tánh như sau:
1) Bồ Tát Định
Tánh
2) Thanh Văn Định
Tánh
3) Duyên Giác Định
Tánh
4) Tam Thừa Bất
Định Tánh
5) Vô Tánh Hữu T́nh.
Ba chủng tánh đầu
quyết định thành tựu thánh quả, hai chủng
tánh sau không nhất định.
[3] Bộ luận này
được xếp vào tập 47 trong Đại Chánh Tân
Tu Đại Tạng Kinh, đánh số 1974. Nội dung gồm
hai mươi hai môn, môn đầu tiên chính là phần Y Báo
Chánh Báo Cực Lạc được Tổ nhắc đến
trong lời tựa trên đây. Quyển thượng gồm
chín môn như Cực Lạc Y Chánh, Phá Vọng Hiển Chân,
Ha Mậu Giải (quở trách kiến giải sai lầm)
v.v… chú trọng về phương diện lư luận, đả
phá quan điểm hẹp ḥi, chấp trước vào Thiền,
vào Lư, biện giải Cực Lạc là cơi chân thật không
phải là hóa thành v.v… Quyển thứ hai gồm 13 môn, phân
tích tỉ mỉ đường lối, phương pháp,
khắc trừ chướng ngại, cũng như lược
nêu công hạnh của chư Tổ Tịnh Độ tông.
Bài “mười điều tâm niệm” thường thấy
trong các tùng lâm Việt
[4] Ngài U Khê là một vị cao tăng thuộc
tông Thiên
[5] Tứ Đức là thường - lạc - ngă - tịnh.
[6] Bảo sở: Kinh Pháp Hoa, phẩm Hóa Thành có nêu thí dụ một người dẫn đường, khéo thông hiểu phương tiện, dẫn đại chúng đến chỗ có kho báu (bảo sở). Đại chúng đi đường xa, chán mệt, muốn bỏ về, vị hướng đạo bèn hóa ra cái thành cho đại chúng nghỉ ngơi. Khi mọi người đă nghỉ khỏe, liền nói: “Đây chỉ là hóa thành, chưa phải bảo sở chân thật”. Bảo sở ví như Phật quả, hóa thành ví như những địa vị trong tam thừa.
[7] Lúc bố thí thấy người bố thí, người nhận, vật dùng để bố thí cả ba thứ vốn đều không.
[8] Nam Nhạc Huệ Tư (515-577) là cao
tăng thời Nam Bắc Triều, người xứ
Vũ Tân (nay thuộc tỉnh Hà Nam), thường được
người đời gọi là Nam Nhạc tôn giả, hay
Tư Đại Ḥa Thượng. Ngài là vị tổ sư
đời thứ hai của tông Thiên Thai (có thuyết nói là
tam tổ). Ham thích Phật pháp từ nhỏ, rất quư mến
kinh Pháp Hoa, từng mang kinh vào nghĩa trang đọc tụng.
Ngài đọc kinh, nhỏ lệ ṛng ṛng. Trong mộng thấy
Phổ Hiền Bồ Tát đến xoa đầu. Do vậy,
đỉnh đầu nổi lên nhục kế. Sau khi xuất
gia Ngài đến tham yết Huệ Văn thiền sư ở
Hà
[9] Tứ tướng là tướng ta, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thọ giả.
[10] Tổ Ấn Quang pháp húy là Thánh Lượng.
[11] Bổn: có thể tạm hiểu Bổn là quả vị chứng đắc thật sự, c̣n Tích là sự thị hiện. Thể là bản chất, c̣n Dụng là tác dụng, hoặc Thể là bản tánh, là thật quả, c̣n Dụng là tác dụng hóa độ, tùy cơ hiện tướng ứng hóa.
[12] Chước là đơn vị đo lường dung tích rất nhỏ.
[13] Nhà Lương thời Ngũ Đại do Châu Ôn sáng lập nên sử gọi là Châu Lương để phân biệt với nhà Tiền Lương của Lương Vơ Đế (Tiêu Diễn) thuộc thời Nam Bắc Triều.
[14] Ư nói tài chữa bệnh rất giỏi. Khi xưa, những người giỏi về một tài nghệ nào thường được gọi là quốc thủ, chẳng hạn người đánh cờ vây giỏi cũng được xưng là “vi kỳ quốc thủ”.
[15] Dựa theo ư câu thơ cổ: “Nhật lạc tang du” (mặt trời lặn bên nương dâu) diễn tả cảnh chiều tà. Sau này thơ văn thường dùng chữ “nương dâu” để chỉ tuổi già.
[16] Gọi là Châu Dịch v́ người Trung Hoa tin rằng từ thời Phục Hy đă có kinh Dịch. Theo truyền thuyết, ngay từ thời nhà Hạ, kinh Dịch đă được chú giải với tên gọi là Liên Sơn Dịch. Qua đời Thương được diễn giải bổ sung thêm, gọi là Quy Tàng Dịch. Các bản này bị thất truyền. Châu Văn Vương là người tinh thông Dịch Lư và diễn giải kinh Dịch một cách có hệ thống, hệ thống này về sau lại được Khổng Tử san định lần nữa, và thường gọi là Châu Dịch.
[17] Theo từ điển Từ Hải, Hồng Phạm là một bộ cổ thư giảng về đại pháp trong thiên hạ.
[18] Đạo Chích là một tên trộm nổi danh thời cổ.
[19] “Linh minh đỗng triệt, trạm tịch thường hằng”: Đây là tám chữ tổ Liên Tŕ dùng để giảng về chân tánh. Trong bộ A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa, pháp sư Cổ Đức đă giảng như sau: “Linh minh là thuần chân, linh minh chiếu suốt thấu trọn vẹn (đỗng triệt). Bản thể của Chiếu là trọn khắp mười phương. Trạm tịch là Tịch nhưng thường hằng, ư nói: bản thể của Tịch là thông suốt ba đời”. Nói cho dễ hiểu hơn: Tịch là tâm tánh thường tồn, chẳng nhiễm, không bị trần cảnh lay động, c̣n Chiếu là tác dụng quán sát, nhận biết của tâm nhưng không vướng mắc. Cổ nhân thường ví tâm như gương. Gương trong suốt, không nhơ (đó là Tịch), vật ǵ đến trước gương đều hiện bóng (đó là Chiếu). Hiện bóng nhưng không giữ lại vật ǵ (Chiếu mà thường Tịch), không giữ lại vật ǵ nhưng không ǵ chẳng hiện bóng trong gương (Tịch mà thường Chiếu).
[20] Viên âm: âm thanh viên măn. Đức Phật dùng một âm thanh thuyết pháp mà mỗi loài nghe thấy đức Phật nói bằng ngôn ngữ của loài ḿnh. Đức Phật nói một chữ mà tùy theo căn tánh người nghe sẽ hiểu vô lượng nghĩa. Do vậy, gọi âm thanh thuyết pháp của Phật là “viên âm”.
[21] Kiến Hoặc, Tư Hoặc, Trần Sa Vô Minh Hoặc là Tam Hoặc.
[22] Tứ trí: C̣n gọi là Tứ Chủng
Trí, tức bốn trí nơi Phật quả là Đại
Viên Kính Trí, B́nh Đẳng Tánh Trí, Diệu Quán Sát Trí, và Thành
Sở Tác Trí. Tứ Trí do tám thức chuyển thành; thức
thứ tám chuyển thành Đại Viên Kính Trí, thức thứ
bảy chuyển thành B́nh Đẳng Tánh Trí, thức thứ
sáu thành Diệu Quán Sát Trí, và năm thức trước trở
thành Thành Sở Tác Trí. Mật Giáo c̣n đặt thêm một
trí nữa là Pháp Giới Thể Tánh và mỗi trí được
biểu hiện bằng một vị Phật. Trong Kim Cang
Giới, Pháp Giới Thể Tánh Trí là Phật Tỳ Lô Giá
Na, Đại Viên Kính Trí là A Súc Bệ Phật (Bất Động
Phật), B́nh Đẳng Tánh Trí là Bảo Sanh Phật, Diệu
Quán Sát Trí là A Di Đà Phật, và Thành Sở Tác Trí là Bất
Không Thành Tựu Phật. Trong Thai Tạng Giới, Đại
Viên Kính Trí là Bảo Tràng Phật, B́nh Đẳng Tánh Trí là
Khai Phu Hoa Phật, Diệu Quán Sát Trí là Vô Lượng Thọ
Phật, Thành Sở Tác Trí là Thiên Cổ Lôi Âm Phật.
[23] Tôn giả Tân Đầu Lô Phả La Đọa là một vị đại đệ tử của đức Phật. Do Ngài hiển lộ thần thông tranh tài cùng ngoại đạo nên đức Phật cấm Ngài nhập diệt, phải thường trụ trong thế gian để làm phước điền cho nhân thiên. Những buổi lễ Trai Tăng nếu được tổ chức chí thành, Ngài sẽ thị hiện thân phàm tăng đến thọ cúng.
[24] Tống Văn Hiến Công là Tống
Liêm (1310-1381), tự Cảnh Liêm, hiệu Tiềm Khê, biệt
hiệu Huyền Chân Tử, là người huyện Bồ
Giang, tỉnh Chiết Giang, là một đại văn học
gia đầu thời Minh. Tuổi thơ bần hàn,
nhưng hết sức hiếu học. Từng theo học
với các bậc đại danh gia như Ngô Lai, Liễu
Quán, Hoàng Tấn v.v... Ông suốt đời cần cù học
hành, chưa một ngày nào tay rời sách, từng ba lần
đọc hết Đại Tạng Kinh. Ông được
Nguyên Thuận Đế vời ra làm Hàn Lâm Viện Biên Tu,
nhưng nại cớ c̣n cha già phải phụng dưỡng
để từ tạ. Khi Châu Nguyên Chương diệt Mông
Cổ, xưng đế, lập ra nhà Minh, ông được
đề cử làm người giảng kinh sách cho nhà vua.
Năm Hồng Vũ thứ hai (1369), ông vâng chiếu, chịu
trách nhiệm chính biên tập bộ Nguyên Sử. Quan
thăng dần đến chức Hàn Lâm Viện Thừa Chỉ,
chuyên soạn chiếu chỉ cho nhà vua. Năm Hồng
Vũ thứ 10 (1377), cáo quan hồi hưu. Về sau, do con
trưởng là Tống Thận dính líu vào vụ án Hồ
Duy Dung, toàn gia bị đày đi Mậu Châu. Ông mất trên
đường đi lưu đày. Trước tác của
ông rất phong phú, c̣n để lại bộ Tống Học
Sĩ Văn Tập (hoặc Tống Văn Hiến Công Toàn
Tập) rất đồ sộ. Châu Nguyên Chương từng
gọi ông là khai quốc công thần trong giới văn
quan. Bộ Hộ Pháp Lục do chính ngài Liên Tŕ thâu thập
những đoạn luận về Phật pháp từ những
trước tác của Tống Liêm. Bộ sách này được
Tiền Khiêm Ích giảo đính.
Tiền Khiêm Ích tự
là Thụ Chi, hiệu Mục Trai, biệt hiệu Đông Giản
Di Lăo, là một văn gia nổi tiếng vào cuối đời
Minh, một trong những lănh tụ của Đông Lâm
Văn Đàn Tế Tửu, ông cùng với Ngô Vĩ Nghiệp
và Cung Đỉnh Tư được xưng tụng là
Giang Tả Tam Đại Gia. Giang Tả là vùng hạ lưu
sông Dương Tử, thuộc địa phận tỉnh
Giang Tô ngày nay. Đông Lâm là một học viện lập ra
thời Tống gọi là Đông Lâm Thư Viện ở
thành phố Vô Tích (nay thuộc Giang Tô). Thời Vạn Lịch
nhà Minh, Cố Hiến Thành tu chỉnh lại thư viện
này và cùng Cao Phàn Long dạy học tại đây. V́ họ
phê b́nh triều chính nên nhiều sĩ đại phu tụ
tập, tham dự vào nhóm này. Khi thái giám Ngụy Trung Hiền
thao túng triều chính, rất căm ghét đảng Đông
Lâm, ra sức truy bức những lănh tụ đảng
Đông Lâm, nên Tiền Khiêm Ích từng bị đi tù.
[25] Trần sát là một thuật ngữ trong kinh Hoa Nghiêm, diễn tả số cơi nước Phật nhiều như số vi trần.
[26] Tứ thánh là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. Lục phàm là trời, người, A Tu La, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục.
[27] Tiên chú: Chú thích, giải thích ư nghĩa kinh điển.
[28] Huấn hỗ là giải thích ư nghĩa văn tự: Từ giải thích từng chữ đến giải thích trọn vẹn ư nghĩa cả đoạn văn, cả chương sách. Vận dụng những từ ngữ b́nh dị, thông dụng để giải thích những văn chương, trước tác phức tạp.
[29] Nguyên văn “giác thế phiến dân” (làm cho cơi đời tỉnh giác, khai thông dân trí).
[30] Nói gọn của
câu “Hồ đến Hồ hiện,
Hán đến Hán hiện”
[31] Ni Sơn là tên một ngọn núi ở quê Khổng Tử. Cha mẹ Ngài cầu tự được Ngài từ núi này nên Khổng Tử có tên tự là Trọng Ni.
[32] Trụ Sử là gọi tắt của Trụ Hạ Sử, là một chức quan thời nhà Châu, nhà Tần, tương đương với chức quan Ngự Sử thời Hán. Lăo Tử Lư Đam từng làm chức quan này thời Châu. Như vậy, Trụ Sử ở đây chính là Lăo Tử.
[33] Tứ Thủy là tên một con sông ở tỉnh Sơn Đông, chảy qua huyện Khúc Phụ, quê hương Khổng Tử. Khổng Tử là người nước Lỗ (nay thuộc địa phận tỉnh Sơn Đông). Sau khi tạ thế, Ngài được chôn cạnh sông Tứ Thủy. Ở Sơn Đông, nay cũng có huyện Tứ Thủy. Như vậy, “dùng tâm pháp Linh Sơn Tứ Thủy” chính là dùng tâm pháp của Phật và Nho.
[34] Giải cấu: Vô
t́nh gặp gỡ nhau. Truyện Kiều có câu: “May thay giải cấu
tương phùng. Gặp tuần đố lá thỏa ḷng
t́m hoa”.
[35] Tức bài kư Du Tịnh Ư Gặp Táo Quân, là một tác phẩm khuyên đời, không rơ ai là tác giả, có nội dung khuyên con người tin sâu nhân quả, vui theo mạng trời, cải ác hướng thiện.
[36] Ba thứ pháp môn ở đây chỉ Âm Chất Văn Quảng Nghĩa, phần trích lục từ Liễu Phàm Tứ Huấn và bài kư Du Tịnh Ư.
[37] Giác Hoàng là một danh hiệu tôn xưng đức Phật, có nghĩa là vị giác ngộ tối thắng nhất.
[38] Nguyên văn là “tồn dưỡng”, ngụ ư tu dưỡng, kiềm chế vọng niệm, huân tập thiện niệm, thiện tâm.
[39] Nhan Tử tức Nhan Hồi (Nhan Uyên), một người học tṛ nổi tiếng của Khổng Tử. Theo sách Luận Ngữ, Nhan Uyên hỏi Khổng Tử thế nào là khắc kỷ giữ lễ, Khổng Tử đáp: “Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động” (phi lễ th́ không ngó, phi lễ th́ không nghe, phi lễ th́ không nói, phi lễ th́ không làm). Bốn điều này về sau thường gọi là “Nhan Tử tứ vật” (bốn điều không của Nhan Uyên).
[40] Tăng Tử tên là Sâm, tự Tử Dư, là người học tṛ khác của Khổng Tử. Theo sách Luận Ngữ, ông thờ mẹ chí hiếu, mỗi ngày thường tự ba lần phản tỉnh để xét lỗi ḿnh. Tuy tư chất không thông duệ bằng những học tṛ khác, ông được coi là người thực sự nắm được đạo trung thứ của Khổng Tử.
[41] Trần điểm kiếp: Số kiếp nhiều như vi trần.
[42] Theo Dịch Học, tiên thiên là những ǵ bẩm sinh, hậu thiên là những ǵ do nuôi dưỡng, đào tạo mà có. Như vậy, câu này có thể hiểu là đạo của Khổng Tử chẳng trái với bẩm tánh của con người, dùng để giáo dục con người th́ lại hợp thời.
[43] Liêm chính là Liêm Giang,
c̣n có tên là An Viễn Giang, thuộc vùng Tây
[44] Xuân huyên (cha mẹ): Theo từ điển Từ Hải, Xuân là một loại cây thân mộc, rụng lá vào mùa Đông, lá non có mùi thơm có thể ăn được, chất gỗ cứng chắc, có thể chế thành đồ dùng. Theo truyền thuyết, cây Xuân sống lâu hơn tám ngàn năm nên thường được ví cho cha với ư nghĩa chúc thọ. Do vậy, cha c̣n được gọi là Xuân Đ́nh. V́ chữ Xuân 椿tự dạng khá giống với chữ Thung 樁nên thường bị dùng lẫn với chữ Thung. Huyên萱 (Huyên Thảo, tên khoa học là Hemerocallis fulva), c̣n gọi là Vong Ưu Thảo, Nghi Nam Thảo, hoặc Kim Châm Thảo. Chỗ mẹ ở thường trồng loại cỏ này nên mẹ c̣n được gọi là “huyên đường”. Người Trung Hoa thường dùng câu “xuân huyên tịnh mậu” (cây xuân lẫn cỏ huyên cùng tươi tốt) để chúc tụng cha mẹ luôn khỏe mạnh.
[45] Kinh Pháp Hoa, phẩm
Phương Tiện có câu: “Nếu
người tâm tán loạn, chỉ dùng một cành hoa, cúng
dường nơi tượng vẽ, dần thấy vô số
Phật. Hoặc có kẻ lễ bái, hoặc lại chỉ
chắp tay, cho đến giơ cánh tay, hoặc chỉ khẽ
cúi đầu, dùng đó cúng dường tượng, tự
thành vô thượng đạo”…
[46] Ngũ Trùng Huyền Nghĩa: là năm tầng huyền nghĩa để giải thích một bộ kinh do ngài Thiên Thai Trí Giả đề ra, gồm: thích danh, biện thể, minh tông, biện dụng, phán giáo (giải thích đề mục kinh, biện luận bản thể của kinh, nêu rơ tông thú của kinh, luận về công dụng của kinh, phán định kinh này thuộc về giáo pháp nào trong Ngũ Thời Giáo, Tứ Hóa Nghi). Xin xem bộ A Di Đà Kinh Yếu Giải để hiểu rơ hơn về Ngũ Trùng Huyền Nghĩa.
[47] Ngài Trạm Nhiên (711-782), là cao tăng
đời Đường, là Tổ thứ năm của
tông Thiên
[48] Kinh là kinh Pháp Hoa, Sớ là các bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa, Pháp Hoa Văn Cú, Kư là bộ Văn Cú Kư.
[49] Duy Dương là một thành phố thuộc tỉnh Giang Tô.
[50] Khuê Phong Tông Mật (780-841), tổ thứ
năm của tông Hoa Nghiêm, người xứ Quả Châu, sống
vào thời Đường, thường được gọi
là Khuê Phong Thiền Sư hay Khuê Sơn đại sư, thụy
hiệu là Định Huệ thiền sư. Năm Nguyên Ḥa
thứ 2 (807) lên kinh ứng thí, đi ngang qua Toại Châu,
nghe Đạo Viên ḥa thượng thuyết pháp bèn xin xuất
gia và thọ giới Cụ Túc. Theo lời khuyên của ngài
Đạo Viên, Sư đến tham học với ngài Ích
Châu Nam Ấn chùa Tịnh Chúng, rồi tham yết ngài Thần
Chiếu chùa Báo Quốc tại Lạc Dương. Năm
Nguyên Ḥa thứ năm (810), gia nhập vào đồ chúng của
ngài Thanh Lương Trừng Quán, thọ tŕ giáo học kinh
Hoa Nghiêm. Năm Nguyên Ḥa 11 (811), trụ tích tại chùa Trí Cự
ở núi Chung Nam, tự thệ không xuống núi, đọc
hết Đại Tạng Kinh trong ba năm, soạn ra bộ
Viên Giác Kinh Khoa Văn. Sau ngài qua chùa Thảo Đường
cũng thuộc núi Chung Nam lắng tâm tu học, soạn ra
bộ Viên Giác Kinh Đại Sớ. Rồi lại dời qua
Khuê Phong Lan Nhă cũng thuộc núi ấy, chuyên chú tụng
kinh tu Thiền. Tướng quốc Bùi Hưu cùng mọi
nhân sĩ trong triều, ngoài nội đều rất kính
trọng. Sư từng được thỉnh vào cung giảng
kinh, nhưng không lâu lại xin trở về núi. Ngày mồng
Sáu tháng Giêng năm Hội Xương nguyên niên, Sư tọa
hóa tại Hưng Phước Tháp Viện, thọ sáu
mươi hai tuổi, pháp lạp ba mươi tư
năm.
[51] Hỗ là giải thích những nghĩa lư trong sách cổ bằng những ngôn từ b́nh dị, đương thời cho người ta dễ hiểu. Do cư sĩ Mă Thông Bạch đem nghĩa lư kinh Kim Cang giải thích bằng văn tự hiện thời một lần nữa, trước ông đă có nhiều người làm chuyện đó, nên đặt tên tác phẩm là Thứ Hỗ (giải thích bằng thể văn đơn giản một lần nữa).
[52] Khi chưa xuất gia, tổ Huệ Năng làm tiều phu, gánh củi đến bán cho ông trưởng giả, nghe ông đọc kinh Kim Cang bèn ngộ chân tâm, phát tâm xuất gia.
[53] Kinh Địa Tạng Bồ Tát Thập
Luân dạy có mười Hữu Y Hạnh Luân và mười
Vô Y Hạnh. Hữu Y nghĩa là những hạnh nghiệp
có thể nương nhờ vào, dùng chữ Luân với ư
nghĩa giống như bánh xe lăn, nghiền nát Hoặc
nghiệp. Như vậy, Hữu Y Hạnh Luân là những hạnh
nghiệp có thể đoạn phiền hoặc, chứng Bồ
Đề. Vô Y Hạnh là những hạnh nghiệp không thể
nương tựa v́ chúng tăng trưởng phiền năo,
vọng tưởng, chấp trước.
Mười Hữu Y Hạnh
Luân là:
1) Đầy đủ
ḷng tin trong sạch, trọn tín tâm thanh tịnh.
2) Có đủ ḷng hổ
thẹn.
3) An trụ trong luật
nghi, nhiếp thân khẩu ư, an trụ tịnh giới.
4) An trụ từ tâm.
5) An trụ bi tâm.
6) An trụ hỷ tâm.
7) An trụ xả tâm.
8) Có chánh quy y, y chỉ
nơi Tam Bảo.
9) Đầy đủ
tinh tấn, tùy thuận tu học, dũng mănh, siêng tinh.
10) Thường lạc
tịch tịnh, ḷng lắng tịnh, tư duy đúng lư, dứt
các vọng tưởng.
Mười Vô Y Hạnh
là:
1) Gia Hạnh hoại
nhưng ư lạc không hư hoại.
2) Ư lạc bị hoại
nhưng gia hạnh không hoại.
3) Gia hạnh, ư lạc
đều hoại.
4) Giới hoại,
nhưng kiến không hoại.
5) Kiến hoại,
nhưng giới không hoại.
6) Kiến, giới
đều hoại.
7) Gia hạnh, ư lạc,
giới, kiến đều không hoại, nhưng y chỉ
vào sức bạn ác.
8) Tuy y chỉ thiện
hữu và có gia hạnh, nhưng ngu độn như dê câm,
không phân biệt các sự lư, nghe thiện pháp nói là bất
thiện pháp, chẳng lănh ngộ được ư nghĩa.
9) Đối với
các thứ của cải, thường không chán đủ,
miệt mài theo đuổi nên tâm bị loạn.
10) Bị các bệnh tật
bức bách nên cúng bái thần quỷ, cầu chú thuật.
[54] Trong Đại Tạng có ba bộ kinh: Địa Tạng Bồ Tát Thập Luân Kinh, Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh và Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh đều do đức Địa Tạng khải thỉnh Phật bèn nói pháp, hoặc do một vị Bồ Tát khác khải thỉnh, Phật bèn giảng diễn về công hạnh của Địa Tạng Bồ Tát.
[55] Nguyên văn: “Nhân tâm duy nguy, đạo tâm duy vi, duy tinh, duy nhất, doăn chấp quyết trung”. Câu này được hiểu nhiều cách khác nhau, chúng tôi dịch theo cách diễn giải của Thân Hà Vĩnh trong bộ Trung Hoa Văn Hóa Tâm Lư Học Tâm Yếu. Theo ông Thân, Nguy ở đây là những nguy hiểm, thử thách, chẳng hạn như danh dự, lợi lộc, của cải v.v… Đạo tâm là cái tâm tự nhiên, tâm thiên phú, thiên lương v.v… “duy tinh duy nhất” là tập trung tư tưởng, ǵn giữ đạo tâm. “Doăn quyết kỳ trung” nghĩa là giữ cho thiên tánh chẳng dời. Như vậy câu này có thể hiểu là: “Tâm con người do bị hoàn cảnh quyến rũ, tâm đạo ngày càng nhỏ đi. Phải tập trung tư tưởng, ǵn giữ đạo tâm cho không thay đổi”.
[56] Tức Hán Nguyệt Pháp Tạng, người sống vào cuối đời Minh, viết sách Ngũ Tông Nguyên cực lực đề cao tông Lâm Tế, chỉ trích mạt sát các tông phái Thiền khác, nhất là tông Tào Động, lập ra những dị thuyết, gây nên những tranh luận ồn ào cho đến tận thời Ung Chánh hoàng đế nhà Thanh. Học tṛ ông ta là Hoằng Nhẫn lại c̣n viết sách Ngũ Tông Cứu cực đoan hơn nữa, coi bốn phái Thiền c̣n lại đều là tà ngụy. Phái Thiền của Pháp Tạng chủ trương phá chấp triệt để nên ăn mặn, uống rượu, không giữ giới luật cũng không trở ngại ǵ, khiến cho các tôn đức tông Lâm Tế cũng phải quở trách.
[57] Mật Vân Viên Ngộ (1566-1642) là vị cao tăng tông Lâm Tế đời Minh. Sư người huyện Nghi Hưng, tỉnh Giang Tô, họ Tương, tự Giác Sơ, hiệu Mật Vân, thụy hiệu Huệ Định thiền sư. Ngài là con nhà nông, nhân đọc Lục Tổ Đàn Kinh liền hâm mộ Thiền Tông. Một ngày nọ nh́n đống củi có chỗ ngộ, bèn xuất gia với ngài Huyễn Hữu Chánh Truyền ở viện Long Tŕ vào năm 29 tuổi. Năm Vạn Lịch (1602), Chánh Truyền lên kinh đô, Sư được cử làm giám viện chùa Vũ Môn. Một ngày nọ đi qua núi Đồng Quan, hốt nhiên đại ngộ, được ngài Chánh Truyền trao y bát vào năm 39 tuổi. Năm 45 tuổi, được kế nhiệm trụ tŕ tổ đ́nh Long Tŕ. Về sau lần lượt trụ tại các chùa Thiên Thai, Hoàng Bá, Thiên Đồng… trước sau 30 năm, đại chấn tông phong, được xưng là Tổ trung hưng tông Lâm Tế. Đệ tử hơn 3 vạn người, nổi tiếng nhất là Đạo Mân, Thông Dung, Pháp Tạng v.v… Tổ Huệ Nguyên của tông Hoàng Bá tại Nhật cũng là đệ tử của ngài Mật Vân. Sư tịch năm Sùng Trinh thứ 15 (1642) tại chùa Thông Huyền, thọ 77 tuổi.
[58] Do viết chữ Hán theo lối Thảo thường bỏ bớt nét và dùng h́nh thức giả tá (tức là dùng chữ đồng âm, ít nét hơn, để viết cho tiện, cho nhanh). Khi đọc, phải căn cứ theo ngữ cảnh để hiểu tác giả thật sự muốn dùng chữ ǵ. Điều này đ̣i hỏi người đọc phải thông hiểu nội dung, thâm hiểu Phật pháp mới viết cho đúng chữ chân phương được.
[59] Ư nói đă ngộ rồi, th́ càng phải nghiêm túc tu tập, như con làm đám ma cho cha mẹ, chẳng dám khinh thường, đăi bôi chút nào.