Ấn Quang Văn Sao,
Quyển thứ ba
(Phần 2)
21. Lời
tựa bản thạch ấn sách Giản Ma Biện Dị
Lục
(viết thay cư sĩ Xí Giác Triệu Hy Y)
Từ
khi Phật pháp truyền vào Trung Quốc, đế
vương các đời không ai chẳng sùng phụng,
nhưng có những vị chỉ gieo hạt giống kết
duyên, có vị ngộ chứng, đủ mọi hạng bất
đồng. T́m lấy một vị thâm nhập kinh tạng,
đạt thẳng nguồn Thiền, chứng diệu tâm
Niết Bàn, có chánh nhăn Kim Cang, nhân lúc tu - tề - trị - b́nh
được rảnh rỗi, bèn xiển dương tông
chỉ “niêm hoa trực chỉ”
(cầm cành hoa giở lên để chỉ thẳng vào tâm)[1]
th́ chỉ có ḿnh Thanh Thế Tông hoàng đế là bậc nhất.
Nếu không phải là bậc Pháp Thân đại sĩ thừa
nguyện tái lai, nắm vững cốt lơi đạo Quyền
- Thật bất nhị, độ chúng sanh luân hồi không
nơi nương tựa th́ há có được như vậy
hay chăng? Về trước thuật của nhà vua, trong
Đại Tạng có Viên Minh Cư Sĩ Ngữ Lục gồm
ba quyển (Viên Minh Cư Sĩ là đạo hiệu của
Thanh Thế Tông). Ngoài ra, những tự,
bạt, truyện, kư, thấy rải rác trong những kinh,
luận, ngữ lục, thảy đều khéo léo khế hợp
tâm Phật, ngầm hợp ư Tổ. Chữ nào chữ nấy
tỏ rơ sự thật, lời nào lời nấy đều
quy tông. Như gảy bàn tính, như báu Ma Ni, phàm những ai
có đủ con mắt không ai chẳng bội phục!
Vào cuối đời
Minh, trong số đồ đệ của sư Mật
Vân Viên Ngộ, có Pháp Tạng tự là Hán Nguyệt, thiên
tư thông minh, mẫn tiệp, gốc ngă mạn sâu dầy.
Sau khi đại ngộ, bèn muốn làm bậc cao nhân thiên cổ
độc nhất không ai sánh bằng, v́ thế lập bậy
chủ kiến, viết sách Ngũ Tông Nguyên, mong muốn
vượt trội hết thảy. Chẳng biết
Như Lai tâm ấn như vầng trăng trong mát, mây ngă mạn
vừa đùn, liền che mất ánh trăng; Chân Như diệu
tánh như thái hư không, bụi ngă mạn vừa bay tung,
liền bẩn thể chất của Không. Đủ mọi
thứ bôi vẽ, trau chuốt, bẹo h́nh bẹo dạng
cuồng vọng, trái nghịch, cầu thăng hóa đọa,
biến khéo thành vụng. Mật Vân quở lên, trách xuống,
Pháp Tạng cùng với học tṛ là Hoằng Nhẫn vẫn
chấp mê chẳng tỉnh. Sư phải cứu vớt
nhiều lần nhưng ông ta lại toan lấn lướt
ngài Mật Vân, bảo “ta tự
ngộ không cần thầy”, Mật Vân bị ép phải
đem mối đạo giao phó. Những ngôn thuyết của
Pháp Tạng phần nhiều là dối lập, ít có sự thật.
Hàng tri thức thời ấy tuy biết ông ta sai, nhưng
thầy ông ta c̣n chẳng làm ǵ được; lại thêm
môn đ́nh của ông ta quá mạnh, hàng sĩ đại phu
đa phần là kẻ ngoại hộ, chỉ sợ vừa
phê phán đă khó khỏi mắc họa. Do vậy, họ
đều chẳng dám bàn đến nữa.
Đến năm Ung
Chánh mười một (1733), Thế Tông xem khắp các ngữ
lục của Mật Vân, Pháp Tạng, Hoằng Nhẫn, thấy
tri kiến của họ lầm lạc liền chép ra
hơn mấy mươi ư kiến phỏng đoán, tà thuyết
của họ để biện định chánh - tà một
phen. Tính ra đến hơn mười vạn chữ,
đặt tên là Ngự Chế Giản Ma Biện Dị Lục,
liền cho khắc thành sách để thành bản in của
triều đ́nh, lại truyền đưa sách ấy vào
Đại Tạng ḥng trừ tà thuyết để chánh
nhân tâm, chấn hưng Tông phong, sáng tỏ đạo Tổ.
Đến năm thứ mười ba (1735) khởi công khắc
in Đại Tạng, nhưng xe rồng đă lên làm khách
cơi trời. Cao Tông (Càn Long) kế vị, ngày ngày phải lo
muôn chuyện, chẳng rảnh rỗi đề xướng,
đến nỗi rốt cuộc chẳng được nhập
tạng. Sách đă khắc thành bản in chánh thức của
triều đ́nh được giữ trong đại nội,
chẳng dễ lưu thông. V́ thế, những hàng đại
gia Tăng - tục bác học đa văn hiện thời
đều chẳng biết đến tựa đề
sách này.
Năm Giáp Th́n (1904)
đời Quang Tự, bạn tôi là Tử Nhậm t́m
được hai bộ sách này ở chợ sách Bắc Kinh,
gởi một bộ cho pháp sư Đế Nhàn mong Ngài
đề xướng quyên mộ lưu thông, một bộ
giao cho ông Dương Nhân Sơn gởi qua Nhật Bản,
đưa vào Đại Tạng Kinh bản in mới của
Hoằng Giáo Thư Viện. Mùa Xuân năm nay, tôi muốn
vượt biển đến đất Hỗ (Thượng
Hải) gặp cư sĩ Địch Sở Thanh. Tôi nói: “Ông
thích truyền bá những sách cổ, sao không lấy cuốn
Giản Ma Biện Dị Lục trong Đại Tạng
Kinh của Hoằng Giáo Thư Viện để khắc
ván ấn hành? Sách này do Thế Tông đem tâm pháp của Linh
Sơn, Tứ Thủy để mở đại quang minh
tạng Kim Cang chánh nhăn cho hai đạo Nho, Thích. Nếu
sách này được lưu truyền, chẳng những
người tham Thiền lập tức biết chỗ quy
hướng, ngay cả người đề cao Khổng
Mạnh để ḍ t́m Thành Minh đến cùng cực
cũng sẽ như ngồi thuyền gặp được
gió thuận, mau đến được bờ kia!” Cư
sĩ nói: “Trước kia, ở kinh đô, con t́m được
một bộ trong đống đồ cũ nát, cất
trong rương sách đă hơn cả năm. Nếu không
nhờ thầy nói, chắc là bỏ qua mất rồi!” Liền
giao cho nhà in để họ chiếu theo thể thức in
thạch bản, in ra một ngàn bộ, xin tôi viết lời
tựa. Tôi hết sức vui mừng, quên ḿnh kém cỏi, soạn
lời tựa để phô bày cơ duyên ẩn - hiển
như vậy.
22. Lời
tựa cho sách Tam Thập Nhị Tổ Truyện Tán
Khởi
đầu từ chuyện đức Thế Tôn giơ cành
hoa, Ca Diếp mỉm cười, “chánh pháp nhăn tàng, Niết
Bàn diệu tâm” liền được phổ biến khắp
hoàn vũ. Cho đến khi đại giáo truyền sang
Đông, Tổ Đạt Ma từ trời Tây sang, những
vị viên ngộ Phật tánh, triệt chứng tự tâm,
tiếp nối huệ mạng của Như Lai, làm đạo
sư cho trời người, thật rất nhiều. Những
vị được Truyền Đăng Lục, Cao
Tăng Truyện ghi chép chỉ là mười phần, một
phần trong trăm ngàn phần mà thôi. C̣n những vị ẩn
đức chẳng phô bày, giấu kín chẳng tỏ rơ làm
sao kể xiết được?
Thanh Thế Tông Hiến
Hoàng Đế (Ung Chánh) đă chứng Pháp Thân từ lâu, thừa
nguyện tái lai, dù Tông hay Giáo không ǵ chẳng thấu nguồn
tột đáy. Kể từ khi lên ngôi, trong ṿng mười
năm, chuyên coi sóc việc chánh trị, chẳng đề
xướng Phật pháp v́ mong thiên hạ thái b́nh, phong tục
thuần mỹ. Sau đấy mới tuyên bố pháp hóa sẽ
dễ được lợi ích, như đồ đựng
đă khử chất độc có thể chứa
được cam lộ. Đến năm Ung Chánh 11, bèn
dùng thân nhân vương (vua trong cơi người) làm chuyện
pháp vương, một vai gánh vác cả Phật pháp lẫn
thế pháp. Nho giáo, Thích giáo, nhất đạo cùng hành. Lấy
tâm pháp Linh Sơn, Tứ Thủy để thuật luân âm
truyền tân tục diệm[2],
Không - Hữu bất nhị, Chân - Tục viên dung, thật
muốn cho nhân dân trong khắp cơi đời đều là
con đích thật của đấng Như Lai, hữu t́nh
trong hiện tại lẫn tương lai đều cùng
được hưởng cảnh sắc rạng rỡ
nơi bổn địa.
Vào mỗi ngày Sóc, Vọng[3],
hoặc thánh đản của Phật, Bồ Tát liền
trực tiếp bảo ban quần thần nơi triều
đ́nh, hoặc truyền chiếu chỉ tới đại
thần nơi biên cương cho đến thứ dân, làm
cho họ đều hiểu rơ tự tâm, đều hướng
đến đạo nghịch trần theo giác, chẳng
đến nỗi bỏ uổng Phật tánh, chịu nỗi
đau buồn sanh tử luân hồi oan uổng. Hoặc hạ
sắc chỉ truyền các tùng lâm trong thiên hạ phải tận
lực giữ Thanh Quy, tinh tu phạm hạnh, chân tham thật
ngộ, minh tâm kiến tánh, ngơ hầu hoằng dương
quang đại pháp đạo, hỗ trợ kế sách của
vua. Lại vào những ngày sóc - vọng, ắt đích thân nâng
ngọn bút sắc sảo, cung kính vẽ h́nh một bậc
cổ đức. Trích lấy những điều chính yếu
trong truyện kư của vị ấy, soạn thành tiểu
truyện. Lại làm một bài tán nhằm phát huy nghĩa lư
uyên áo, tự chép trên đầu bức vẽ. Cho khắc
in thạch bản giữ trong đại nội, ngơ hầu
làm bản mẫu dùng in rập ḥng được lưu
truyền. Bắt đầu từ tháng Hai năm Ung Chánh 11
cho đến tháng Ba năm Ung Chánh 13, vẽ được
tổng cộng ba mươi hai vị. Đến tháng
Tư, xe rồng lên làm khách cơi trời, khiến cho vô lượng
cổ đức chưa tỏa được quang minh sâu
thẳm, đáng tiếc lắm!
Đến năm Càn
Long thứ 9 (1744), với mục đích trang hoàng, vua đem
ba mươi hai cuốn trục bản rập h́nh Tổ ấy
ban cho chùa Lư An ở Vũ Lâm[4]. Về
sau, nhà chùa tu chỉnh Tự Chí bèn đem bộ truyện
tán ấy đặt vào đầu sách để cảm tạ
ân sủng, nhưng bộ truyện tán đó chưa
được khắc thành sách. Do vậy, cơi đời chẳng
được thấy nghe. Trộm nghĩ đạo phong
của cổ đức trời người ngưỡng
mộ, như vầng trăng vằng vặc trên không, vạn
con sông đều hiện bóng. Quang minh sáng sạch, mở rộng
tâm mắt con người, tự có thể đốn khai
tâm địa, thấy thấu suốt bầu trời chân
tánh. Lại được ngọn bút tài hoa của Thế
Tông phát huy, cùng cổ đức chiếu rọi lẫn
nhau thấu suốt không tỳ vết. Nếu một phen
được xem đến liền thấu cội đạt
nguồn, đạt được minh châu nơi chéo áo,
phá trần, ĺa chấp, mở được kinh quyển
đại thiên. Từ đó tâm tâm tương ấn,
đăng đăng tương truyền[5],
khiến cho ḿnh lẫn người cùng chứng chân thường,
khiến cho phàm thánh cùng lên bờ Giác, ngơ hầu chẳng phụ
Thế Tông một phen dốc ư soạn truyện. Do vậy,
quyên mộ cư sĩ Ưng Quư Trung bỏ tiền khắc
bản để làm của chung cho những người
cùng chí hướng. Trước mỗi truyện, đặt
đề mục, khiến cho vừa xem đến liền
hiểu rơ ngay, cũng như chép duyên khởi để bảo
cùng những người thông suốt trong tương lai.
23. Lời
tựa sách Tịnh Nghiệp Lương Đạo
Sa Bà là
đường hiểm sanh tử. Cực Lạc là quê nhà
thường trụ. Chúng sanh do một niệm bất giác,
đi vào trong đường hiểm không thể thoát ra
được. Dù có muốn ĺa đường hiểm này
trở về quê nhà, nhưng chúng sanh không có con mắt huệ
chẳng biết hướng về đâu. Nếu không có
người hướng dẫn tốt lành, chẳng những
đi nhầm vào đường rẽ, rốt cục thành
đi sai đường, lại c̣n phải lo sa hầm sụp
hố, táng thân mất mạng nữa! Tịnh Độ ba
kinh, một luận cũng như hết thảy kinh luận
Đại Thừa đều là đạo sư (người
dẫn đường). Nhưng do văn sâu xa, nghĩa
uyên áo, kẻ sơ cơ chẳng dễ lănh hội. Tuy là
vô biên diệu nghĩa, đầy đủ không sót ǵ,
nhưng do tâm thức ám độn nên thường nghi ngờ
chẳng thể quyết đoán được, tuy có ḷng
tin nhưng chẳng thể phát sanh. Do vậy, cổ đức
các đời đều lưu lại ngôn giáo ḥng thích hợp
thời tiết, căn cơ. V́ thế, pháp được
lưu truyền, không úng tắc, mọi căn cơ đều
được lợi lạc, cứu tế.
Cư sĩ Vô Danh tuy
chưa tự độ, nhưng chí thiết tha độ
người; v́ thế, bèn sao lục những câu thích hợp
thời cơ trong Lạc Bang Văn Loại và văn tập
của các vị Liên Tŕ, Tử Bách, Hám Sơn, Ngẫu Ích
được hơn mấy mươi thiên ḥng thích ứng
cho những người vừa mới nhập pháp môn.
Đợi đến khi đă hiểu được
đường lối, sẽ đọc toàn bộ những
tác phẩm gốc, ắt biết vị của một giọt
nước và vị của biển cả không hai, không
khác. Đại sự nhân duyên xuất thế của đức
Như Lai chỉ có một pháp Tịnh Độ mới có
thể rốt ráo tỏ bày bổn hoài của Phật. Cư
sĩ Vô Danh khiêm tốn, chẳng dám tự chuyên, bảo
Quang giám định. Do đó, tôi bèn đặt tựa đề
là Tịnh Nghiệp Lương Đạo (hướng dẫn
tốt lành cho Tịnh nghiệp).
24. Lời
tựa sách Phật Học Sơ Giai
Phật
pháp rộng lớn, chẳng dễ suy lường. Muốn
cho đồng nhân đều được tắm gội
pháp trạch th́ phải do mắt thấy tai nghe sự tích nhân
quả báo ứng, luân hồi sanh tử nông cạn để
chỉ bảo, dẫn dụ, khiến cho họ bỏ
đi cố chấp câu nệ, hư huyễn, thấy
được trời đất rộng lớn ḥng
đoạn nghi sanh tín, càng vào càng sâu, ắt mong triệt ngộ
tự tâm, khôi phục cái ḿnh sẵn có và nương vào Phật
từ lực văng sanh Tây Phương. Lại c̣n đem những
điều ấy giáo hóa mọi người, quyết chẳng
chịu trên cô phụ sự giáo hóa của Phật, dưới
chẳng phụ tánh linh của chính ḿnh, bao kiếp cam chịu
sanh tử luân hồi khổ độc. Cư sĩ
Đinh Phước Bảo thệ nguyện hoằng thâm, từ
bi rộng lớn, muốn cho dân chúng đều lên
được bờ giác; nhân đó, bèn thâu thập những
chuyện nhân quả luân hồi, công đức của Tam Bảo,
lợi ích của Tịnh Độ từ di tập của
các bậc danh hiền Tăng - tục cũng như từ
kinh luận của Phật, Tổ, soạn thành sách, đặt
tên là Phật Học Sơ Giai (bước đầu học
Phật), mong cho độc giả nhân đây bèn t́m cầu,
đối với đại pháp chẳng thể nghĩ
bàn “đoạn Hoặc chứng Chân, từ phàm thành thánh”
đều tự đạt được, thật sự
thực hiện được. So với những bộ
sách ông đă soạn trước đây như Phật Học
Chỉ Nam, Phật Học Khởi Tín Biên, và Lục Đạo
Luân Hồi Lục th́ tuy chi tiết hay giản lược
khác nhau, nhưng cốt yếu đều nhằm tạo bậc
thang cho người mới học mà thôi! Nếu là bậc
trượng phu quyết liệt, ắt phải
đăng phong tạo cực[6],
quyết chẳng đến nỗi vạch đất tự
hạn chế để ḥng được yên ổn chẳng
muốn tiến lên nữa!
25. Lời
tựa sách Thích Giáo Tam Tự Kinh
(viết thay cho Xuy Vạn Lăo Nhân Thích Quảng Chân[7] chùa Tụ Vân ở Trung Châu, Thục Đông, thời Thiên Khải nhà Minh)
Con
người có cùng một cái tâm, tâm có cùng một lư ấy,
phàm - thánh chẳng hai, chúng sanh và Phật như một, do
mê - ngộ sai khác đến nỗi thăng - trầm thật
khác biệt. Đại Giác Thế Tôn xót thương, thị
hiện thành Chánh Giác, chuyển đại pháp luân. Vốn từ
nhất tâm mà tạo dựng bè báu trong bến mê, muốn cho
khắp đời vị lai đều lên bờ đạo.
Do vậy, đem những ǵ đă giảng trong Ngũ Thời
Giáo[8] và
ư chỉ “truyền riêng ngoài Giáo” giao cho các đệ tử,
sai lưu thông rộng răi. Do vậy, chư Tổ các tông nối
tiếp nhau hưng khởi, hoằng Tông diễn Giáo, thay Phật
hoằng dương, giáo hóa. Đến nay lâu đời
nhiều năm, sự nhiều nghĩa rộng, nếu chẳng
đọc thấu hiểu Đại Tạng diệu ngộ
tự tâm, sẽ không thể nào suy lường đầu
mối, nắm được cương yếu. Tôi thường
muốn tóm lược đại khái để chỉ bảo
hàng hậu tấn, do nghĩ đến tiên sinh Vương
Bá Hậu[9] thời Tống Nho
soạn sách Tam Tự Kinh để tóm tắt đạo
luân thường, xử thế hằng ngày và những chuyện
tích thái b́nh hay loạn lạc của các đời, khiến
cho người học trước là biết được
đại lược, về sau sẽ dần dần hiểu
rộng. Tuổi thơ học đến, lớn lên thực
hành, lập thân hành đạo, thờ vua, giúp dân, khôi phục
điều thiện sẵn có trong tâm tánh con người.
Do vậy bèn phỏng
theo ư đó, thuật đại lược chuyện
Như Lai giáng sanh, thành đạo, thuyết pháp độ
sanh, chư Tổ tiếp nối huệ mạng Phật,
tùy cơ lập giáo, cũng như những lời hay hạnh
đẹp tự lợi, lợi người của
chư cổ đức, đặt tên là Thích Giáo Tam Tự
Kinh, để khi c̣n làm sa-di[10],
đọc tụng, tu tập, biết những nghĩa trọng
yếu của kinh Phật, hiểu rơ cương tông của
đạo Tổ. Lớn lên, xem khắp Tam Tạng, tham học
khắp năm tông, diệu ngộ tự tâm, thầm hợp
Phật ư, mới biết: “Sắc
núi, tiếng khe đều chỉ bày Đệ Nhất
Nghĩa Đế; quạ kêu, sẻ hót cùng nói vô thượng
tâm tông”. Chẳng đồng, chẳng khác, chẳng có,
chẳng không, vừa là Quyền, vừa là Thật, vừa
là Tục, vừa là Chân. Rộng th́ tột cùng hư không chẳng
thể chứa đựng được, gọn th́ t́m lấy
một chữ cũng không thể được. Sau đấy,
nương đại nguyện luân, xiển dương
pháp hóa, khiến cho pháp giới chúng sanh quy y Nhất Thể
Tam Bảo, khôi phục mặt mũi vốn có, truyền vô
tận tâm đăng. Đấy chính là điều tôi
thường mong mỏi hàng hậu tấn phát tâm tu tập
vậy!
26. Lời
tựa cho tập Mô Tượng Thi của cư sĩ
Lưu Viên Chiếu
(do ông ta khắc con dấu có chữ Chiếu trong ṿng tṛn nên mở đầu vẽ một h́nh tṛn)
O Một
đoạn quang minh này chẳng phải nhân, chẳng phải
quả, chẳng phải thánh, chẳng phải phàm, chẳng
phải đoạn, chẳng phải thường, chẳng
phải sanh, chẳng phải diệt, cổ kim thường
hằng, chiếu trời soi đất. Khi Phật chưa
xuất thế, lúc Tổ chưa từ trời Tây qua, ai nấy
vẫn sẵn đủ, chẳng thiếu chẳng thừa.
Hiềm rằng chúng sanh đang mê, ôm của báu mà chịu
túng quẫn, ngược ngạo dùng ánh sáng chiếu trời
soi đất này để khởi Hoặc tạo nghiệp,
luân hồi sáu nẻo. Do vậy, đức Thế Tôn muốn
lập cách tế độ, thị hiện thành Chánh Giác,
vào lúc cuối đêm thấy sao Mai, hoát nhiên đại ngộ,
bèn than thở: “Lạ thay! Lạ
thay! Hết thảy chúng sanh có đủ trí huệ, đức
tướng của Như Lai, nhưng do vọng tưởng,
chấp trước mà chẳng chứng đắc. Nếu
ĺa vọng tưởng, chấp trước th́ Nhất Thiết
Trí, Tự Nhiên Trí, Vô Ngại Trí đều được
hiện tiền”. Do vậy, tùy cơ giáo hóa, đối
bệnh phát thuốc.
Do chúng sanh căn cơ
chẳng giống nhau, nên Ngài nói ra pháp Tiệm hay Đốn,
hoặc Thật, hoặc Quyền, đủ mọi thứ
bất đồng. Tuy lập ra các phương tiện,
nhưng không ǵ chẳng nhằm uyển chuyển dẫn dụ
chúng sanh, khiến cho ai nấy đều triệt chứng
tâm quang này, rốt ráo thành Phật mới thôi! Đấy
chính là “lời thô, lẽ tế
đều quy về Đệ Nhất Nghĩa. Thoạt
đầu th́ ngàn căn cơ đều vun bồi, cuối
cùng th́ đồng quy một đạo”. Lại do chúng
sanh độn căn nếu chẳng liễu thoát ngay trong
một đời này th́ luân hồi sanh tử hoàn toàn không
thể chấm dứt được. V́ thế, đặc
biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật để
người chưa đoạn Hoặc nương vào Phật
từ lực đới nghiệp văng sanh, người
đă đoạn Hoặc nương theo Phật từ lực
mau chứng được Pháp Thân; khiến cho khắp
thượng trung hạ căn dù thánh hay phàm cùng chứng
chân thường, sanh lên bờ kia, phô bày cùng cực bản
hoài xuất thế của Như Lai, triệt để
đạt được Phật tánh chúng sanh sẵn có.
Cao đẹp thay ân Phật, hết kiếp không thể
khen ngợi trọn vẹn!
Đến khi đại
giáo truyền sang Đông, pháp này bèn được gọi
là Liên Tông do pháp này niệm Phật cầu sanh Tây
Phương, liên hoa hóa sanh, được dự vào Liên Tŕ
Hải Hội, thân cận Di Đà Thế Tôn và Quán Âm, Thế
Chí, các thượng thiện nhân. Về sau, tổ Đạt
Ma từ Tây Vực qua truyền Phật tâm ấn, chỉ
thẳng tâm người, kiến tánh thành Phật. Nhưng
chỗ thấy biết, thành tựu của pháp ấy chính
là chỉ ra Phật tánh thiên chân sẵn có trong tâm chúng ta, khiến
cho con người trước hết biết được
cái gốc th́ hết thảy các pháp tu chứng sẽ tự
có thể nương theo đó để tiến hướng,
cho đến khi tu cái không thể tu, chứng cái không thể
chứng mới thôi! Chứ không có nghĩa là hễ ngộ
liền được phước huệ đều vẹn
toàn, viên măn Bồ Đề, rốt ráo Phật đạo
đâu nhé! Ví như vẽ rồng điểm mắt khiến
cho tự được thụ dụng. Do vậy pháp này
thạnh hành nơi Chấn Đán, rực rỡ, rạng
ngời, đạo “tâm này chính là Phật”, pháp “không phải
tâm, không phải Phật” phổ biến khắp hoàn vũ.
Người căn cơ thiên bẩm sâu dầy th́ đối
với mỗi một cơ, một cảnh, hễ biết
được đầu mối th́ nói lời, thốt lẽ,
tự ĺa khuôn sáo, vào sanh ra tử trọn chẳng vướng
mắc, được đại giải thoát, được
đại tự tại vậy! Nếu căn cơ
hơi kém, dẫu được đại ngộ,
nhưng phiền năo tập khí chưa thể đoạn sạch
th́ vẫn là người trong sanh tử, xuất thai cách ấm,
đa phần mê mất. Bậc đại ngộ hăy c̣n
như thế, huống chi kẻ chưa ngộ!
Do đó, hăy nên chuyên tâm
dốc chí nơi pháp môn Tịnh Độ cậy vào Phật
từ lực mới là kế sách ngàn vạn phần ổn
thỏa thích đáng vậy. Cư sĩ Lưu Viên Chiếu
túc căn sâu dầy, hiện tu tập tinh thuần, đối
với hai tông Thiền - Tịnh đều nắm được
yếu chỉ, nhưng coi trọng pháp môn Niệm Phật
là đạo tự lợi, lợi người rốt ráo.
Mỗi khi có cảm xúc bèn thể hiện qua thi ca, ghi chép lại
được 108 bài, đặt tên là Mô Tượng (sờ
voi, ư nói chỉ sờ soạng, phỏng đoán, không hiểu
rơ hoàn toàn); bởi lẽ đại đạo vô ngằn,
há có thể dùng một lời tầm thường để
diễn tả trọn vẹn được nổi ư?
Bất quá mượn ư để diễn tả đó thôi.
Con ông ta và họ hàng muốn cho hậu thế đều
được hưởng nhờ, toan đưa thi tập
này vào gia phả, nhờ Quang thuật đại ư để
bảo cùng người đời sau.
27. Lời
tựa cho bản đúc kẽm lưu thông cuốn Phật
Học Thuật Yếu
Từ
khi Phật pháp truyền vào Trung Quốc đă hơn một
ngàn tám trăm năm, dù Tăng hay tục, dù nam hay nữ,
những người thâm nhập Kinh Tạng, triệt ngộ
tự tâm kể sao cho xiết! Ấy là v́ Chân Như Phật
tánh ai nấy sẵn có, chỉ v́ mê không giác, ngay từ
đầu chẳng mất, đến khi được
nghe ngôn giáo của Như Lai, được hàng tri thức
chỉ dạy liền biết hạt châu nơi chéo áo, Phật
tánh luôn tồn tại, chẳng ĺa đương xứ
được đại tự tại, tự lợi, lợi
người, thọ dụng vô tận. Thiên Thai Trần Cần
Tiên nữ sĩ xưa có huệ căn, đối với
các tông Thiên Thai, Thiền, Tánh, Tướng, Tịnh Độ
đều biết được chỗ sâu thẳm,
nhưng lại riêng khen ngợi Tịnh Độ, mong cho hết
thảy những ai chẳng thể triệt ngộ tự
tâm, đoạn Hoặc chứng chân sẽ ngay trong một
đời này liền đạt lên địa vị A Bệ
Bạt Trí. Cũng có thể gọi là “đối với
cái rộng răi nắm được cái chánh yếu, đối
với pháp rộng sâu biết được điều
quan trọng”, những điều được phát
huy đều khế hợp cả lư lẫn căn cơ.
Tuy sao lục từ nhiều chỗ tạo thành tác phẩm,
nhưng giống như rải tiền trong một nhà,
đồng nào đồng nấy dính thành một chuỗi,
khiến cho người dùng có thể cầm lấy ngay
được. Đối với những ngă ba sông,
đường rẽ đều nêu bày tường tận,
khiến cho hành giả mạnh mẽ tiến thẳng tới
trước, cũng chẳng thể nói là không có công lao ǵ!
Tiếc
rằng con bà là Viên Thọ Tuân căn tánh chẳng được
như mẹ! Đối với trước thuật của
mẹ hoàn toàn không hiểu biết, muốn sao lục để
lưu truyền, nhưng cứ lăm lăm trích yếu
rút gọn. Không biết chỗ nào nên rút gọn, chỗ nào
không nên rút gọn. Chẳng nên rút gọn mà cứ rút gọn
bừa th́ có khi bị khuyết điểm ư nghĩa không
rơ ràng, phép hành văn không thích hợp. Đă thế lại
c̣n sai ngoa đầy dẫy, đến nỗi có rất
nhiều chỗ từ ngữ chẳng thể hiện
được ư nghĩa. Đủ thấy đạo này phải
có thiện căn mới có thể chứng nhập thù thắng
được. Nếu không, dẫu chí thân như mẹ với
con, cũng chẳng thể truyền được! Cư
sĩ Tôn Ngọc Tiên ở Phụng Hóa muốn đúc bản
kẽm lưu thông, ngơ hầu bậc tu mi trượng phu,
khuê các anh hiền cùng phát tâm mong được bằng bà
ta, cùng chứng Phật tánh vốn có, nên ủy thác Quang giám
định. Nhân đó, sửa cho đúng chỗ sai ngoa, bỏ
những câu sai chỗ, đặt tựa đề là Phật
Học Thuật Yếu vậy!
28. Lời
tựa tái bản cuốn Cách Ngôn Liên Bích
Sở
dĩ con người cùng với trời đất xưng
là Tam Tài là v́ có thể cách vật trí tri, khắc kỷ, giữ
lễ để làm sáng tỏ cái Minh Đức, đạt
đến chí thiện. Bỏ đi điều này th́ chỉ
là một phường có huyết khí[11]
mà thôi, sao có thể đứng chung với trời đất
xưng là Tam Tài cho được? Mạnh Tử cho rằng
“Lúc đêm tối không duy tŕ được đầy
đủ những ư niệm trong sạch th́ chẳng khác ǵ
cầm thú cho mấy!”[12] Lại
c̣n bảo: “Nguyên do để
con người khác với cầm thú rất nhỏ nhặt,
kẻ hèn bỏ đi, quân tử giữ lấy”[13]. Do vậy biết
rằng: Nếu mặc t́nh phóng túng làm càn làm quấy th́ chẳng
qua mang danh con người, chứ chẳng khác ǵ cầm
thú, có thể c̣n kém hơn!
“Cách vật trí tri” chính là tâm pháp được truyền
dạy bởi chư thánh. Coi nhân dục (ḷng ham muốn của
con người) là vật, bởi nó sanh khởi từ ngoại
cảnh, ắt phải cách trừ (trừ khử) cho sạch
th́ lương tri sẵn có trong tâm tánh mới có thể hiển
hiện toàn thể. Lương tri đă có th́ đức phải
sáng. Cách vật và trí tri đều là nhằm để làm
sáng tỏ cái Minh Đức! Minh Đức đă sáng th́ chính
là dùng ư thành tâm chánh để tu thân vậy. Đây chính là
chuyện thất phu thất phụ đều có thể
làm được! Nếu hiểu “cách vật trí tri” là “thúc
đẩy sự hiểu biết của chúng ta đối
với cái lư của mọi sự vật trong khắp cùng
thiên hạ đến tận cùng” th́ đó chỉ là hiểu
nơi cành ngọn, không phải là cội gốc. Tuy là thánh
nhân vẫn có những điều không thể làm được.
Làm sáng tỏ được Minh Đức th́ riêng thân ḿnh
thiện. Nếu có địa vị hành đạo th́ dùng
tiên giác để giác ngộ hậu giác, khiến cho thiên hạ
cùng thiện. Chúng ta chưa thể trừ sạch ḷng ham muốn
của con người, [khiến cho] thiên lư lưu hành th́ cần
phải học biết nhiều về những lời lẽ
hành vi của cổ nhân, dùng đó để hướng dẫn
tiền đồ, hằng ngày đọc tụng suy
nghĩ, cốt sao lỗi càng ngày càng ít, đức càng ngày
càng cao cho đến khi đức thuần không c̣n lỗi
mới thôi.
Tăng Tử lúc lâm
chung c̣n nói: “Dè dặt kinh sợ
như vào vực sâu, như đi trên băng mỏng. Từ
nay trở đi, ta biết ḿnh mới tránh khỏi
được!” Cừ Bá Ngọc năm 50 tuổi, biết
49 năm trước sai trái. Khổng Tử c̣n buồn bản
thân đức chưa tu, học chưa hiểu thấu,
nghe được điều nghĩa chưa thể thực
hiện, điều bất thiện chưa thể sửa
đổi! Đến năm 70 tuổi, c̣n mong trời cho
sống thêm vài năm để học kinh Dịch ḥng tránh
khỏi lỗi lớn. Tuy nói là dùng thân để thuyết
pháp ḥng khuyến khích hậu tấn, nhưng thật ra
đă thuộc vào công phu cách vật trí tri của thánh hiền,
gắng sức không ngơi, không lúc nào nghĩ là đă xong
xuôi!
Tiên sinh Kim Lan Sanh ở
Sơn Âm[14] thâu thập những
câu nói răn nhắc thân tâm của tiên hiền, soạn
thành sách Cách Ngôn Liên Bích, khiến cho người học
như vào núi báu, tùy ư thu thập. Công ấy quả thật
chẳng cạn nhỏ! Cư sĩ Trương Thụy
Tăng ở Duy Dương từ nhỏ đă coi sách này
là khuôn phép chánh yếu, tiếp đó muốn cho sách
được truyền bá rộng răi cho mọi người,
bèn giảo đính tường tận, dùng phương pháp
bao biếm khuyên điểm[15],
chỉ rơ những điều nào nên bắt chước
theo, điều nào nên kiêng tránh, khiến cho người
đọc đỡ phí tâm lực vẫn biết
được nên chọn lấy và nên bỏ bớt những
điều nào. Dụng tâm có thể nói thật là thiết
tha. Khắc in xong, nhờ tôi viết lời tựa. Do vậy,
tôi bèn lược thuật danh nghĩa của chữ Tam Tài
và công phu cách vật trí tri của thánh hiền, nhằm giúp sáng
tỏ những điều đă được nói đến
trong tập sách này, khiến cho người học nắm
được công phu thân thiết để hạ thủ,
tiến tu đức chẳng ngơi, đáng sánh cùng trời
- đất mới thôi. Người có đủ con mắt
ắt chẳng cho lời tôi là trái lẽ, sai bậy vậy!
29. Lời
tựa tái bản sách Bất Khả Lục
Cái họa
nữ sắc cực kỳ khốc liệt. Từ xưa
đến nay do họa này mà nước mất nhà tan, diệt
thân tuyệt tự biết là bao nhiêu! Dẫu chưa đến
nỗi ấy, nhưng trong số đó, những kẻ thân
đang khỏe mạnh trở thành suy nhược, chí
đang sáng suốt thành hôn ám, biến tư chất đội
trời đạp đất, mong thành thánh thành hiền biến
thành hạng tầm thường hèn tệ, không có chí lập
thân, làm sao tính kể được nổi? Huống chi những
kẻ nghịch thiên lư, loạn nhân luân, sống làm loài cầm
thú mặc áo, đội mũ, chết đọa trong tam
đồ ác đạo, làm sao có thể thấy hết, biết
hết cho được? Ôi! Cái họa nữ sắc sao mà
khốc liệt đến mức cùng cực như vậy!
Do đó, chư thánh chư hiền đặc biệt từ
bi thương xót hoặc dùng lời cứng rắn để
răn dạy, hoặc dùng lời nhẹ nhàng để khuyên
bảo, ngơ hầu cả cơi đời đều biết
được lư “phước thiện họa dâm”. Lại
c̣n nêu ra các sự thực để răn dạy ngơ hầu
những ai biết tự ái đọc đến ắt sẽ
sợ sệt, kinh hoảng, hiểu ra, cạn ḍng lũ
nhân dục, khôi phục thiên lương sắp diệt. Từ
đấy, hết thảy đồng luân đều
hưởng phước giàu thọ khỏe mạnh, b́nh
yên, vĩnh viễn ĺa khỏi họa nghèo bệnh, chết
yểu. Đây chính là lư do bộ Bất Khả Lục
được soạn tập. Cư sĩ Trương Thụy
Tăng muốn khắc lại để ấn thí, bảo
tôi viết lời tựa nhằm phô bày nghĩa trọng yếu
của việc bớt dục.
Phải biết: Đối
trước sắc đẹp, dục tâm bừng bừng
th́ lời lẽ khuyên răn nhân quả báo ứng đều
khó thể đoạn tâm ái. Nếu [lúc ấy] có thể
quán bất tịnh th́ một trận lửa dục sẽ
băng tiêu ngay lập tức. Con em đất Trường
An ở xứ Tần (Thiểm Tây) của tôi phần nhiều
thích chơi dế. Có ba anh em tuổi đă choai choai, đêm
trăng đi bắt dế nơi g̣ mả, chợt thấy
một thiếu phụ, nhan sắc tuyệt vời, bèn cùng
đuổi theo. Người thiếu phụ ấy khuôn mặt
biến đổi, thất khiếu[16] ứa
máu, lưỡi thè ra hơn cả thước, ba đứa
nó sợ chết ngất. Ngày hôm sau người nhà đi
t́m, cứu sống được một đứa, mới
biết chuyện ấy. Đứa c̣n sống bệnh nặng
mấy tháng mới khỏi, con cháu nhà ấy chẳng dám
đi bắt dế vào ban đêm nữa! Khi thiếu phụ
đó chưa biến đổi khuôn mặt th́ ḷng yêu nhập
vào xương tủy, không thỏa ḷng dục không xong! Đến
khi mặt đă biến đổi th́ kinh hăi đến chết,
tâm ái chẳng hề c̣n nữa! Nhưng trong lúc chúng cùng nhau
đuổi theo cô ta ấy, đương nhiên chưa thấy
máu và lưỡi thè ra. Sao khi máu chưa chảy, lưỡi
c̣n ngậm bèn sanh tâm ái; lúc máu chảy, lưỡi thè ra lại
sanh tâm sợ? Hiểu rơ điều này, hễ thấy trang
sắc nước hương trời đều tưởng
như con quỷ treo cổ thất khiếu tuôn máu, lưỡi
thè ra hơn thước, sao đến nỗi bị sắc
làm mê, sống chẳng hưởng hết tuổi trời,
chết đi bị đọa vĩnh viễn trong
đường ác ư?
Do vậy, Như Lai dạy
kẻ ái dục nặng nề quán bất tịnh. Quán lâu
ngày c̣n có thể đoạn Hoặc chứng chân, siêu phàm nhập
thánh, chứ phải đâu chỉ không phạm tà dâm, tiết
dục, ǵn giữ sanh mạng mà thôi ư? Nữ nhân nhan sắc
xinh đẹp yêu kiều khiến người ta sanh tâm ái,
hành dục sự, chẳng qua chỉ là một tấm da mỏng
bên ngoài, rực rỡ diễm lệ gây mê hoặc đó
thôi! Nếu bóc lớp da mỏng ấy đi th́ chẳng những
các vật được bọc trong lớp da ấy chẳng
thể yêu mến được, mà ngay cả lớp da mỏng
ấy cũng tuyệt đối không thể yêu luyến nổi!
Nếu lại c̣n mổ xẻ thân ra th́ chỉ thấy máu
mủ dầm dề, xương thịt chằng chịt,
tạng phủ phân tiểu bầy hầy khắp đất,
hôi dơ tanh tưởi, chẳng nỡ thấy nghe. So với
h́nh dáng biến đổi của thiếu phụ trên
đây c̣n đáng sợ hăi, chán ghét hơn trăm ngàn lần!
Dẫu cho giai nhân tuyệt
thế nghiêng nước đổ thành th́ những vật
được chứa trong lớp da mỏng có ai là không
như vậy đâu? Sao con người chỉ nh́n cái vẻ
bên ngoài, chẳng xét kỹ nội dung? Yêu chút phần sắc
đẹp, chẳng tính đến nhiều phần xấu
ác? Tôi mong sao thế nhân bỏ vẻ bên ngoài, hăy xem xét nội
dung, chán cái “nhiều xấu ác” để bỏ chút vẻ
đẹp, ḥng cùng thoát biển dục, cùng lên bờ giác. Lại
trong lúc dâm dục hừng hực, không thể chế ngự,
chỉ nên nghĩ nữ âm[17]
như miệng rắn độc, như đem nam căn bỏ
vào miệng rắn, tâm thần kinh hoảng, xương tóc
run rẩy. Vô biên nhiệt năo sẽ nguội lạnh ngay lập
tức! Đấy chính là phương pháp diệt dục
giản dị nhất vậy!
30. Lời
tựa [khuyên] giữ vẹn luân lư cho sách Bất Khả Lục
Trời
là đại phụ, đất là đại mẫu. Hết
thảy nam nữ đều là con cái của trời đất,
đều là ruột thịt của ta. Đă là ruột thịt
th́ phải tận hết ḷng ḥa thuận, yêu thương,
che chở, nâng đỡ, mong cho ai nấy được
yên ổn. Như thế chính là đứa con xứng
đáng của trời đất, chẳng khiến người
sanh ra ḿnh hổ thẹn! Đă có thể che chở, nâng
đỡ con cái của trời đất, ắt trời
đất sẽ che chở nâng đỡ kẻ đó, khiến
cho phước sâu, thọ dài, mọi chuyện như ư. Nếu
như mặc t́nh hoành hành, khinh hiếp con cái của trời
đất th́ tổn phước, giảm thọ, diệt
môn, tuyệt tự. Khi một hơi thở ra không hít lại
được, vĩnh viễn đọa ác đạo trải
trăm ngàn kiếp, không lại được mang thân
người nữa! Ấy chính là tự ḿnh chuốc lấy
họa, nào phải trời đất không nhân từ
đâu!
Khoan nói đến những
chuyện khác, ḱa như vợ con, chị em, ai nấy đều
có. Nếu kẻ nào ḍm ngó vợ con, chị em ḿnh, ta liền
nổi nóng, bực tức, muốn đánh nhau, sao lại
thấy vợ con, chị em người ta có chút nhan sắc
tâm bèn khởi xằng dâm niệm, ư muốn ô nhục họ?
Cùng là con cái của trời đất, là ruột thịt của
ta; nếu với người ruột thịt khởi ư niệm
bất chánh th́ là ô nhục con cái của trời đất,
khinh khi người ruột thịt, kẻ ấy c̣n có thể
đứng trong trời đất, c̣n đáng gọi là
người nữa ư? Huống chi đạo vợ chồng
thuộc trong Tam Cương, Ngũ Thường, nam nữ
lập gia đ́nh là giềng mối lớn lao của con
người. Con người sở dĩ khác với cầm
thú là do có nhân luân. Nếu làm chuyện khinh miệt lư, loạn
luân, th́ chính là đem thân người làm chuyện cầm
thú; thân tuy là người nhưng thật ra chẳng bằng
cầm thú. V́ sao vậy? V́ cầm thú không biết luân lư, con
người biết luân lư! Biết luân lư mà vẫn khinh miệt
luân lư th́ phải ở dưới loài cầm thú!
Nhưng hết thảy
chúng sanh do dâm dục sanh, cho nên tập khí rất nặng,
phải ngăn ngừa sâu xa. Tưởng như người
thân, tưởng như kẻ oán, tưởng bất tịnh
ngơ hầu dứt bặt tà niệm, thuần toàn chánh niệm.
Oán và bất tịnh th́ trong lời tựa trước
đă nói, ở đây chỉ riêng phát huy về ư “tưởng
như người thân” ngơ hầu người đọc
cùng giữ trọn vẹn thiên luân chẳng ôm giữ ác niệm.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương dạy con người
nên xem các người nữ như sau: “Tưởng người già như mẹ, người
lớn hơn như chị, người nhỏ hơn
như em, coi đứa bé bỏng như con gái, sanh tâm độ
thoát, dứt bặt ác niệm”. Kinh Phạm Vơng dạy: “Hết thảy người nam
đều là cha ta, hết thảy người nữ đều
là mẹ ta. Đời đời không khi nào ta chẳng từ
họ sanh ra, phải sanh tâm hiếu thuận, tâm từ bi”.
Như vậy, che chở, nâng đỡ họ c̣n chưa xuể,
lẽ đâu khởi tâm xấu hèn, muốn làm ô nhục họ?
Đời Minh có một
người học tṛ mắc thói dâm, chẳng thể tự
chế, bèn hỏi Vương Long Khê[18].
Long Khê nói: “Ví như có người
bảo ông: ‘Ở đây có cô gái làng chơi nổi tiếng,
ông có thể đến chơi bời’. Theo lời đó,
ông đến gặp, hóa ra là mẹ hoặc chị em ông,
ngay khi ấy ḷng dâm của ông có nguội lạnh hay
chăng?” Đáp: “Nguội chứ!” Long Khê nói: “Thế nhưng dâm vốn là
không, ông hăy hiểu cho đúng vậy”. Nếu con người
chịu coi hết thảy nữ nhân là mẹ, là con gái, là
chị em, th́ không những ác niệm dâm dục không do
đâu sanh khởi, mà sanh tử luân hồi c̣n nhờ đó
mau chóng thoát khỏi! Trong bộ sách Bất Khả Lục,
những lời gương mẫu, những câu nói khuyên
răn nhẹ nhàng, những câu chuyện phước thiện
họa dâm, và những ngày tháng nơi chốn nên kiêng ngừa
[ăn nằm] đều nhất nhất nêu rơ. Tâm giác thế
tỉnh mê ấy có thể nói thật là tha thiết. Cư
sĩ Trương Thụy Tăng ở Duy Dương tâm lợi
người tha thiết, liền cho khắc in lưu hành,
sai Quang phát huy những điều trọng yếu để
trấn áp ḷng dục. Do đấy, bèn tường thuật
ư chỉ đại khái về “tưởng như kẻ
oán, tưởng là bất tịnh”. Tiếp đó, v́ anh họ
ông ta là Chánh Huân qua đời, muốn đem công đức
này truy tiến linh thức để tội chướng
tiêu diệt, phước trí cao rạng, thoát khỏi Dục
giới ngũ trược, sanh vào chín phẩm liên bang. Do
t́nh hiếu hữu của cư sĩ, nên tôi lại soạn
lời tựa bàn về chuyện giữ vẹn luân thường
mong sao những ai thấy nghe đều xét soi tường
tận th́ may mắn lắm thay!
31. Lời
tựa cho cuốn Vạn Niên Bạ[19] bàn giao Phổ Tế
Thiền Tự
(viết thay cho ḥa thượng Liễu Dư, chỉ bàn giao chứ không thay đổi thập phương)
Đạo
tràng Viên Thông trọn khắp ba đời chẳng tăng
chẳng giảm. Phong thái, khuôn phép Phổ Môn vạn pháp
không thiếu, không thừa. Hằng cổ hằng kim,
như như bất biến, hữu t́nh vô t́nh pháp pháp viên
dung. Tuy ngàn đức Phật cùng xuất thế, trọn
chẳng có ǵ hưng. Dẫu tam tai cùng khởi, há có ǵ bại!
Danh sơn Bổ Đát[20] của
Quán Âm đại sĩ chính là cảnh tượng Chân
Như Thật Tế rốt ráo. Về mặt ứng hóa
th́ pháp tùy duyên khởi, đạo do người hoằng.
Hưng - phế, thông - tắc đều có nguyên do. Xét từ
khi thủy tổ Huệ Ngạc khai sơn vào đời
Lương, Chân Hiết thiền sư khai tông vào đời
Tống, cho đến khi được sùng tín vào đời
Nguyên, được nổi tiếng vào đời Thanh,
đều đạo cao ngất đời, đức cảm
chín loại. Chấn hưng tông phong, rộng lưu truyền
sự giáo hóa huyền diệu, khiến cho khắp trong
ngoài bốn biển đều được phủ mây Từ,
chúng sanh sáu đường đều thấm mưa pháp.
Cao đẹp thay! Tốt lành thay! C̣n ǵ hưng thạnh
hơn!
Kể từ khi
được nổi tiếng, chùa hai lần được
sắc tu[21]. Đời đời
tuân theo quy củ đă định, gia phong chẳng suy.
Đến đầu đời Hàm Phong, giặc tóc dài dấy
loạn, nhân dân nheo nhóc, hương lửa nhiều năm
đoạn tuyệt, chi phí do vậy thiếu hụt, pháp
khí, đồ đạc đều chẳng đủ
dùng. Phàm Trụ Tŕ đến nhậm chức, những ǵ
cho chính vị ấy gầy dựng th́ đến khi thôi
làm Trụ Tŕ, bèn cho khiêng về chùa ḿnh. Nếu có để
lại, đều tính tiền bàn giao. Thậm chí vật hư
nát quá sức, chẳng đáng giá đồng nào, cứ nhất
loạt chiếu theo giá trị như vật mới mà bàn
giao, tính tiền thành một ngàn mấy trăm đồng,
giống như sang tiệm ngoài chợ, hàng hóa đồ
đạc đều bán cho chủ mới. Cái gọi là “thường
trụ” chỉ là nhà trống, kinh tượng mà thôi. Tệ
nạn ấy do chiến tranh cũng không lấy ǵ làm lạ.
Về sau, thế đạo thái b́nh, đèn nhang nhộn nhịp,
nhưng vẫn giữ nguyên thói cũ, chẳng hề sửa
đổi mảy may! Những ai từng trông coi việc
chùa, ắt biết rơ nguyên do
Nay nhằm lúc Văn
Liên lăo ḥa thượng thôi làm Trụ Tŕ, tôi được
các vị lăo ḥa thượng và pháp quyến các pḥng giao cho
trách nhiệm nặng nề ấy. Tự thẹn tài kém
đức mỏng, chẳng dám đảm nhận,
nhưng đôi lần ba lượt bị ép buộc, chẳng
cho thoái thác. Trộm nghĩ Phổ Tế là danh sơn đạo
tràng của Bồ Tát trong thiên hạ. Từ đời
Lương đến thời Dân Quốc đă qua mười
thế kỷ, tṛn một ngàn năm. Nay đă lạm giữ
chức này, dám đâu không gắng sức trù tính để
hưng khởi điều lợi, trừ khử mối tệ,
bồi đắp nguyên khí cho thường trụ, kính v́
các vị, v́ pháp, v́ người, một phen dốc chí. Nhân
đó, nói:
- Thường trụ
về bản chất vốn thuộc thập
phương, chứ không phải tài sản riêng của một
ḿnh vị Trụ Tŕ. Đúng lư, tất cả tài chánh phải
thuộc về thường trụ. Phàm tiền tài, thóc gạo,
vật dụng trang hoàng, bất luận là do thường
trụ đă có từ trước hay vật do chính vị Trụ
Tŕ sắm sửa cũng chẳng được đem
đi hay bán lại cho chùa sau khi hết làm Trụ Tŕ. Chi phí
làm lễ nhậm chức Trụ Tŕ do chính vị Trụ Tŕ
ấy bỏ ra, chẳng được hao phí của
thường trụ. Như thế sẽ thấy của
thường trụ ngày càng sung túc, pháp đạo cũng
do đó thạnh vượng.
Văn Liên lăo nhân nghe vậy
hớn hở, hoan hỷ, phát Bồ Đề tâm, xin
đem khoản tiền bàn giao một ngàn mấy trăm
đồng tiền ấy một nét bút xóa sạch. Những
đồ vật hư nát chẳng đáng nhắc tới
bèn cùng đại chúng vứt đi. Vật nào dùng
được bèn chiếu theo giá trị mới - cũ mà
ghi vào Vạn Niên Bạ để bàn giao. Những thứ
được sắm sửa về sau, nhất loạt
ghi vào sổ. Quy củ tài chánh của Trụ Tŕ và thường
trụ đều phỏng theo tùng lâm các nơi, chỉ có
chức Trụ Tŕ phải tuyển từ con cháu các pḥng
trong chùa[22]. Ấy gọi là “tử
tôn thập phương”. Mong rằng từ đây về
sau, phàm ai làm Trụ Tŕ và những ai đảm trách chức
vụ, ai nấy đều phát Bồ Đề tâm, vun bồi
cho thường trụ, khiến cho từ ân của Đại
Sĩ theo chiều dọc th́ suốt cả ba đời,
theo chiều ngang bèn trọn khắp mười
phương, ai nấy trong đời này phước lẫn
huệ đều thạnh, được trời - người
kính ngưỡng, lâm chung th́ thân lẫn tâm đều tốt
lành, Phật - thánh đến rước. Như thế th́
một niệm ngu thành của Bất Huệ cũng như
một phen khổ tâm của cụ Văn chẳng thành
hư uổng, ai nấy đều được lợi
ích thật sự. Do vậy, bèn lược thuật nguyên ủy
ghi vào đầu sổ, để cho những người
thông suốt trong đời mai sau đều biết
được duyên khởi vậy!
32. Lời
tựa cho từ đường mới của Thống Tổ
ở Biệt Am
(viết thay cho thầy Mậu Lượng)
Đạo
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đức Như
Lai đă chứng chính là cái tâm hiện tiền nhất niệm
phiền năo kết nghiệp điên đảo hôn mê của
ta và hết thảy chúng sanh. Biết được cái tâm
phiền năo kết nghiệp điên đảo hôn mê này th́
trên có thể nối tiếp được huệ mạng
của Như Lai, dưới có thể làm đạo sư
cho trời người, khiến cho hết thảy chúng
sanh đều cùng biết tâm này, cùng chứng đạo Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ấy chính là “tâm, Phật, chúng sanh, cả ba
không sai biệt. Mê - ngộ dẫu khác, thể vốn chẳng
hai; đường Trường An thênh thang, xưa nay chẳng
hề cấm ai đi. Tự ḿnh chẳng về, hễ về
liền được, gió trăng quê cũ há ai tranh?” Từ
khi Thế Tôn thị hiện thành Chánh Giác, trong bốn
mươi chín năm rộng nói kinh pháp, nêu đại kinh
trong vi trần, chỉ minh châu trong chéo áo. Ba ngàn năm qua,
người tắm gội pháp trạch ngộ tự tâm,
chứng giác đạo, độ hữu t́nh, số nhiều
c̣n hơn cát sông Hằng, há thể kể xiết!
Như Thống Tổ
của Biệt Am chúng ta, xưa trồng cội đức,
thừa nguyện tái lai, đồng chân xuất gia[23],
tuổi nhược quan[24]
bèn ngộ đạo, mở bày Phổ Môn, trùng hưng Pháp
Vũ, truyền tâm ấn, chấn hưng tông phong, sống
ngoài hải đảo, đạo rền hoàn vũ. Sáu phen
ngồi nơi đạo tràng, rộng ban ngôn giáo. Do vậy
chẳng những được vạn dân ngưỡng mộ,
mà c̣n được một người[25]
chú ư. Do vậy, ban tặng tiền của, ban ca-sa tía, nhiều
lượt thí ân mưa móc chín trùng, chỉ mong cầu chúc
nước nhà, nhân dân đều được tắm gội
ân quang Đại Giác. Người đương thời
cố nhiên đều kính ngưỡng, mà hậu thế cũng
chẳng ai không tôn sùng. Trước kia, tiên sư[26]
là Giới Văn lăo nhân và Khai Như ḥa thượng thường
nghĩ ḿnh chưa xứng làm pháp duệ[27], chưa
thể kế tục được giềng mối tốt
đẹp, toan tỏ tấm ḷng thành tưởng nhớ cội
nguồn, thành lập hội tạo dựng từ
đường, bởi lẽ từ đường
đă lập từ trước quá sơ sài, chẳng đủ
tỏ ḷng kiền thành, cung kính ḥng báo đáp tổ đức,
[chẳng đủ] khởi ḷng quán cảm để con
cháu [gắng sức tu tập cho] tốt đẹp hơn.
Năm Quang Tự 18 (1892), toàn núi tậu chút ít ruộng hương hỏa của nhà họ Châu; nhân đó, mười mấy nhà[28] góp lại, hoặc góp một phần vốn, hoặc mấy phần vốn, tiền đóng góp được bao nhiêu đó đem mua một trăm mẫu ruộng để lấy vốn xây dựng nhà từ đường mới. Về sau, bị người ngoài xâm chiếm mất hơn một nửa, chỉ c̣n được ba mươi mốt mẫu mà thôi. Do đất ruộng mới khai khẩn, chưa trừ hết phèn. V́ vậy, hai mươi năm qua, vẫn chưa xây cất được. Nay ruộng đă thuần thục, thâu hoạch ổn định. V́ thế, mùa Xuân năm nay khởi công dựng nhà từ đường. Mười nhà thay phiên làm ruộng, hết một ṿng lại trở lại từ đầu. Thật ra, ư của thầy Khai Như và thầy tôi là muốn cho con cháu đời sau vào từ đường cúng bái, lễ tượng gieo tấm ḷng thành, tâm tự suy nghĩ: “Tổ sư cũng giống như người khác. Ngài là trượng phu, ta cũng vậy. Há nên đề cao thánh cảnh nhưng chính ḿnh ở địa vị phàm phu chăng?” Do vậy, đại tâm khởi lên mạnh mẽ, noi dấu bậc tiên giác, phá vô minh, chứng pháp tánh, tiếp nối Phật huệ, độ chúng sanh, sao cho viên thông đạo tràng được thường trụ bao kiếp. Đạo pháp của bậc đại huệ được lưu hành khắp pháp giới, mới chẳng thẹn là con cháu của tổ sư, là đệ tử Như Lai vậy. Những người cùng hàng với tôi hăy gắng lên! (viết vào năm Dân Quốc thứ hai – 1912)
33. Lời
tựa cho Miên Vân Từ Đường
(viết thay cho thầy thư kư chùa Pháp Vũ)
Con
người sống trong thế gian huyễn trụ mấy
mươi năm. Kể từ khi có hiểu biết trở
đi, ngày đêm toan tính, bận bịu rộn ràng, không ǵ
chẳng nhằm nuôi thân ḿnh và gia đ́nh, giữ thể diện,
để của cải lại cho con cháu mà thôi! Xét đến
cái gốc bệnh chỉ v́ do chấp trước có Ngă,
không chịu buông xuống. Mối lo toan kết chặt, dù
Phật có thuyết pháp cũng không thể cởi gỡ được,
đâm ra đối với vị chủ nhân ông bản lai
diện mục của ḿnh bèn bỏ qua không thèm hỏi
đến, mặc t́nh lưu chuyển theo nghiệp,
vĩnh viễn trầm luân chẳng đáng buồn ư?
Ḥa thượng Khai
Nhiên túc nhân sâu dầy, sanh trong nhà tướng, lớn lên sợ
sát nghiệp, chẳng thích theo đuổi việc quân. Nghe
Hóa Văn lăo nhân thuyết pháp bèn gieo thân dưới ṭa, xuống
tóc làm Tăng đă mấy mươi năm, chuyên chú tham cứu.
Chỉ hận chưa được gặp mặt, giăi
bày cơ duyên, nên chỗ Ngài ngộ giải sâu - cạn
[như thế nào] chẳng thể lường được!
Đến cuối đời Quang Tự, Sư trụ tŕ
chùa Pháp Vũ, bèn tự lập từ đường, để
làm kỷ niệm, đặt tên là Miên Vân. Mây chính là vật
không biết từ đâu đến, không biết đi về
đâu, huyễn sanh, huyễn diệt, trọn không có tướng
nhất định, nhưng có thể tuôn mưa ngọt
nhuần thấm khắp cơi đất, khiến cho hữu
t́nh vô t́nh đều được yên ổn, thật giống
như người đă chứng vô ngă tướng, bèn không
trụ vào đâu để sanh tâm, độ thoát hết thảy
chúng sanh nhưng không có tướng độ. Sư toàn
thân buông xuống, an trụ trong ấy. Đấy có phải
là thể hiện sở ngộ của ḿnh hay chăng? Hay
là khiến cho con cháu đời sau lấy đó làm khuôn phép?
Nghĩa ấy huyền diệu, đáng suy nghĩ sâu xa vậy!
34. Lời
tựa cho từ đường của Thông Trí pháp sư
(viết thay cho đại sư Ngộ Khai)
Kể từ
khi Thế Tôn nhập diệt, tứ y hoằng pháp[29],
hiện thân Phổ Môn, hiện h́nh trong sáu nẻo, nghịch
- thuận, ẩn - hiển, đủ mọi phương
tiện tùy thuận cơ nghi đều làm cho độ
thoát. Diệu hạnh thần thông chẳng thể nghĩ
bàn ấy chỉ bậc thánh mới làm được, chứ
phàm chẳng thể sánh bằng. Nếu hiện làm thân
sa-môn th́ ly trần thoát tục, dựng cao pháp tràng, chấn
hưng tông phong, lưu thông pháp hóa, nối huệ mạng của
Phật. Đấy chính là diệu hạnh thông thường
hoằng truyền xiển dương Phật giáo của bậc
Pháp Thân đại sĩ và phàm phu đại tâm. Do hai hạnh
này nên theo chiều ngang th́ trọn khắp mười
phương, theo chiều dọc th́ tột cùng ba đời,
không một nơi nào chẳng nhận được Phật
quang, không một ai chẳng được gội ân Phật.
Đến khi pháp truyền
sang Chấn Đán (Trung Hoa), hai ngàn năm qua, bậc hoằng
pháp đại sĩ rộng truyền pháp hóa, Tông thuyết
đều thông, Định - Huệ đều b́nh đẳng,
hiện thân thuyết pháp dùng đức khuất phục
người, quạt gió Chân trong nhà lửa, tuôn mưa Pháp
nơi ruộng t́nh, độ khắp ba căn, thống
nhiếp các cơ, ai nấy khôi phục thiên chân sẵn có,
cùng chứng giác đạo nơi tâm. V́ thế, vua quan quy mạng,
dân chúng dốc ḷng thành kính, rộng nêu lẽ huyền, giúp
đỡ chánh trị. Công lao, dấu tích lớn lao ấy
khó thể thuật trọn. Dù những bộ như Cao
Tăng Truyện, Truyền Đăng Lục ghi chép hơn
trăm quyển, vẫn chỉ là một hai phần trong
ngàn vạn phần mà thôi! Trong đời gần đây, có
vị xưa đă gieo cội đức, thị hiện
sanh trong gia tộc lớn, mắt nh́n xuyên thế giới nổi
trôi, một vai gánh vác bến bờ lớn lao; ngồi yên
nơi đạo tràng viên thông, thâm nhập Bảo
Vương tam-muội, cùng tu cả Thiền lẫn Tịnh,
gồm thâu Tông - Giáo, hiện tướng lưỡi rộng
dài diễn dương rộng lớn Viên Tông, duỗi cánh
tay b́nh đẳng tiếp độ khắp ba căn, ngay
nơi phàm tâm chỉ ra Phật tâm, gồm thâu vạn hạnh
về một hạnh. Người như vậy chỉ có
vị thầy quá văng của tôi là Thông Công pháp sư vậy.
Sư húy là Tầm
Nguyên, tự Thông Trí, biệt hiệu Ức Liên Sa Môn. Họ
ngoài đời là Nguyễn, người huyện Nghi
Trưng, Dương Châu, là con thơ của Trung Đường
Nguyên Công, sanh nhằm giờ Mùi, ngày mồng Tám tháng Ba
năm Quư Măo, tức năm Đạo Quang 22 (1842)[30].
Bà mẹ Sư là X… người kinh đô. Đến khi
Nguyên Công qua đời, do xung khắc với con cái ḍng
đích quá mức, mẹ Ngài bèn đem con trở về kinh
đô, ở nhờ nhà ông cậu. Đến lớn, Sư
tướng mạo khôi vĩ, tiếng nói sang sảng, tánh
ưa Đạo thuật (thích tu tiên), chẳng mong làm quan,
chỉ muốn làm vị thần tiên trường sanh, tấm
ḷng phóng khoáng, dạo chơi Bồng Đảo[31],
thường tiếc nuối v́ chẳng gặp được
bậc chân nhân[32].
Đến năm Đồng
Trị thứ 12 (1873), tuổi tṛn 21, ngẫu nhiên đến
chùa Long Tuyền, gặp ḥa thượng thủ ṭa là ngài Bổn
Nhiên, thông suốt giáo lư, thấu triệt Thiền Tông.
Sư cho rằng đây là bậc đắc đạo cao
nhân, bèn nêu điều ḿnh thường ấp ủ. Ngài Bổn
Nhiên cười: “Ông vô cớ vứt
bỏ thiên chân Phật tánh ḿnh sẵn có để cầu
làm thần tiên chưa chắc đă được và chẳng
thể ra ngoài bảy đường được! Bỏ
vàng gánh gai, nhận tớ làm chủ. Ông có tướng mạo
như thế, sao lại có chí kém hèn đến thế?”
Sư bèn bỏ ngay ḷng mong mỏi ấy, cầu được
nhiếp thọ. Ngài Bổn Nhiên nhân đó cho xuống tóc tại
chùa Thất Tháp ở kinh đô, [chùa ấy] là chi phái của
chùa Thạch Phật. Từ đó, thường thân cận
vị thầy thọ nghiệp của ḿnh, nghiên cứu
giáo điển, quyết chí tu tŕ. Đến năm Quang Tự
thứ 4 (1878), thọ Cụ Túc Giới ở chùa Vân Cư
tại Kinh Tây. Do nghĩ ḿnh mới hiểu biết giáo lư
thô lược, chưa tṛn bổn phận, kể chuyện
ăn, đếm của báu nào được lợi ích
ǵ, Sư bèn cất bước du phương, tham học
khắp các bậc Tông tượng. Đến năm Quang Tự
thứ 14 (1888), dự vào hội chúng của Tín Chân lăo nhân ở
chùa Phật Đảnh Sơn tại Phổ Đà, thầy
tṛ đạo hợp, được trao tâm ấn,
được nối pháp ḍng Lâm Tế Chánh Tông đời
thứ bốn mươi hai.
Năm ấy, Sư diễn
giảng kinh Lăng Nghiêm ở chùa Pháp Vũ. Từ đấy,
suốt hơn mười năm thường được
mời giảng, mỗi kỳ thính chúng cả mấy
trăm người. Sư riêng tâm đắc nơi kinh
Lăng Nghiêm, do vậy bèn soạn sách chú thích, muốn cho lư
Đại Phật Đảnh, tánh thường viên thông
được hiển hiện toàn thể, không c̣n bị ẩn
giấu chút nào. Soạn thành sách Khai Mông (chỉ điểm
cho những người c̣n mờ mịt, chưa hiểu
biết) gồm mười quyển, nay đă được
Tịch Công[33] chùa Vạn Thọ ở
Duy Dương cho khắc ván lưu thông. Tiếc là Sư bẩm
tánh thật thà, chỉ chú trọng đến cội gốc,
chẳng quan tâm đến nhánh ngọn. Chỉ muốn phát
huy sao cho lư tánh được triệt để hiển lộ,
giăi bày trọn vẹn; c̣n chuyện chọn chữ dùng từ,
chưa xét kỹ càng, đến nỗi tác phẩm bị mắc
khuyết điểm rối ren, thiếu sót. May là c̣n
được bậc tác gia[34]
có đủ con mắt gọt dũa sửa đổi trở
thành vườn pháp hoàn bích, thành gương báu cho Lăng
Nghiêm.
Sư b́nh sanh chí tại
Lăng Nghiêm, nhưng hạnh tại Tịnh Độ. Nhật
khóa niệm Phật ba vạn tiếng, thề cầu văng
sanh. Sáng ra tŕ chú Đại Bi tàn một cây hương
để làm Trợ Hạnh, muốn cho hữu t́nh trong hiện
tại, tương lai đều cùng sanh Tịnh Độ.
Do vậy, đối với những bộ Di Đà Sớ
Sao và [Di Đà Sớ Sao] Diễn Nghĩa, Yếu Giải,
Tiện Mông Sao, Thế Chí Viên Thông Sớ Sao đều cho
khắc in, lưu truyền, bảo với những người
đến học: “Thiền
Tông gọi là giáo ngoại biệt truyền (truyền riêng
ngoài giáo), nhưng Tịnh Độ mới thật sự
là giáo nội chân truyền. Phải biết chân truyền ở
đây chính là biệt truyền ngoài biệt truyền vậy!
Các ông phiền hoặc chưa đoạn, đạo nghiệp
chưa thành. Chớ có nên phán đoán sai lầm[35], đề cao
Thiền Tông, miệt thị Tịnh Độ, đến
nỗi lúc lâm chung, nghiệp thức mờ mịt, không có
ǵ để nương tựa. Dù có Phật lực đại
từ đại bi chẳng thể nghĩ bàn, nhưng v́
không tin nên không cách ǵ nương cậy được! Vẫn
y như cũ nương theo ác nghiệp lực, luân hồi
trong đường ác từ kiếp này sang kiếp khác, trọn
chẳng có kỳ ra! Chẳng đáng buồn ư? Chẳng
đáng sợ sao?”
Sư giảng kinh
Lăng Nghiêm, đối với bảy chỗ gạn cái
tâm, mười phen chỉ chỗ thấy, đều chỉ
rơ khai ngộ trong cơi này khó khăn, chứng đạo trong
Tịnh Độ dễ dàng! Đến chương Thế
Chí lại ân cần khuyên dạy chẳng tiếc sức thừa,
muốn cho pháp hội đại chúng ai nấy đều
nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối,
liền theo ngài Thế Chí tự chứng viên thông. Đối
với chỗ “những kẻ do ác nghiệp trầm luân
trong bốn đường, do thiếu Định Huệ
nên đọa vào Ngũ Ấm Ma”, Sư lại cực lực
chỉ bày lẽ được - mất, đau đáu dạy
lẽ lợi - hại. Với mỗi điều đều
lệ ứa theo từng tiếng, âm thanh nghẹn ngào,
thường nói: “Không biết
Tịnh Độ [th́ thấy] Lăng Nghiêm là bậc công thần
hàng đầu để đả phá Tịnh Độ. Hiểu
sâu Tịnh Độ [th́ thấy] Lăng Nghiêm quả thật
chính là hướng dẫn tốt lành để hoằng
dương Tịnh Độ! Xem kinh mà thiếu con mắt
chọn lựa pháp (trạch pháp nhăn) ắt cô phụ ơn
Phật, phần nhiều là như thế! Các ông chớ nên
coi cơ phong chuyển ngữ của Thiền Tông là thật
pháp, xem Tịnh Độ chẳng đáng tu tŕ! Phải biết
trong hội Hoa Nghiêm, Hoa Tạng hải chúng cùng phá vô minh,
cùng chứng Pháp Thân, vẫn phải dùng mười nguyện
vương để hồi hướng văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới để mong viên
măn Phật quả. Các ông là người như thế nào mà
dám chống lại các vị ấy? Trên cô phụ Phật
giáo hóa, dưới phụ bạc tánh linh của chính ḿnh.
Hơn mười
năm qua, Sư hoằng kinh các nơi như mây trôi chim bay,
không ở nơi nào nhất định, thường hay dừng
nghỉ nơi chùa Thiên Đồng ở Tiểu Bạch
Lănh, nơi chùa Vạn Thọ ở Duy Dương và am Phổ
Huệ nơi núi này, do chủ nhân hai nơi ấy (tức
chùa Thiên Đồng và chùa Vạn Thọ) đều là bậc
tôn đức trọng đạo. Hơn nữa, am chủ
của am Phổ Huệ là Giác Công , về mặt truyền
thừa pháp là đồng môn, giao hảo không trái nghịch.
Đến mùa Đông năm Bính Ngọ tức năm Quang Tự
32 (1906), Ngài thị hiện mắc bệnh tại chùa Dục
Vương. Mùa Xuân năm Đinh Mùi (1907), Giác Công liền
đón về am, tận t́nh chăm sóc, được
hơn hai tháng, mấy hôm trước bữa lâm chung, thần
khí tươi tỉnh, dũng mănh niệm Phật. Đến
giờ Mùi ngày mồng Ba tháng Tư, chắp tay niệm Phật,
ung dung qua đời, thọ sáu mươi lăm tuổi,
Tăng lạp 35 năm. Toàn thân được nhập
quan, an táng nơi rặng Tổ Yến phía sau Phật Đảnh
Sơn, là chỗ do các vị như Văn Chánh ḥa thượng
v.v… đă xây dựng sẵn làm chỗ yên nghỉ.
Do Sư b́nh sinh tánh
ưa vắng lặng, không ở nhất định một
nơi, nên không thế độ ai. Môn nhân nối pháp nơi
núi này chỉ có sư Nguyên Thông và kẻ bất tiếu là
Ngộ Khai. Ở bên ngoài dù có, nhưng không biết hết.
Chỉ sợ chuốc lấy tiếng dị nghị thân -
sơ nên nhất loạt không ghi. Ô hô! Những năm
xưa kia, Khai từng nhiều lần dự pháp hội,
nhiều phen được nghe viên âm, nhưng chưa thấu
hiểu tự tánh. Sư cho rằng đứa con yếu ớt
này có thể dạy được nên phó chúc sẵn. Lúc ấy,
tuy hết sức thẹn thùng, vẫn mong có ngày giải ngộ.
Nào ngờ chưa diệt được các ma, bậc pháp
tướng đă mất; độc dược chưa
tiêu, từ phụ đă bỏ đi. Buồn thay! Bến bờ
của chúng sanh, huệ mạng của Như Lai phó thác cho
ai? Biết gởi gắm vào đâu? Thà tự chết
đi, chẳng nỡ nh́n thầy mất. Chỉ mong Sư
nương Phật lực, sen nở Thượng Phẩm,
chứng Vô Sanh Nhẫn, lên địa vị Bất Thoái,
mau nương bổn nguyện, rủ ḷng từ tế
độ. Ngơ hầu có thể nương vào oai thần của
Sư, thoát đường hiểm mau lên bảo sở, giải
quyết hết phiền hoặc trong tâm thức tôi, triệt
chứng chân thường. Dùng tiền tiên sư để
lại, dựng lập từ đường, lược
thuật những nét chính để lưu lại măi măi, ngơ
hầu pháp duệ đời sau ngửa trông gương
sáng của tiên đức, quyết chí học đ̣i theo.
35. Lời
tựa cho nhà từ đường của con cháu chi phái Lập
Sơn lăo nhân
(viết thay cho Khai Như ḥa thượng)
Hết
thảy chúng sanh vốn có trí huệ, đức tướng
của Như Lai, nhưng do vọng tưởng, chấp
trước nên chẳng thể chứng đắc. Xét
đến nguyên do, nói chung là v́ chẳng hiểu rơ Chân
Như diệu tánh, nhận lầm Tứ Đại là thân
tướng của chính ḿnh, coi bóng dáng của duyên sáu trần
chính là tâm tướng của chính ḿnh. Đă nhận lầm
giặc làm con, nên trái giác, hiệp trần, từ đấy
dính chặt vào Căn - Trần, ta - người đối
nghịch nhau, khởi Hoặc tạo nghiệp, luân hồi
sáu đường trải trần điểm kiếp,
không thể giải thoát. Đại Giác Thế Tôn
thương cho nỗi khổ kịch liệt ấy, ban
cho đại pháp dược, dạy tu Tứ Niệm Xứ
Quán: Một là quán thân bất tịnh, hai là quán thọ là khổ,
ba là quán tâm vô thường, bốn là quán pháp vô ngă. Ngoài ra
c̣n có Chánh Cần, Như Ư Túc, Căn, Lực, Giác Đạo,
ba mươi bảy phẩm pháp môn.
Tuy căn có lợi - độn,
thừa có đại - tiểu, nhưng không ǵ chẳng lấy
Tứ Niệm Xứ làm căn bản. Ấy là v́ nếu Tứ
Quán mà thành liền phá được Ngă Chấp. Ngă Chấp
đă phá th́ Ngũ Uẩn đều không, sáu trần liền
giác, phản bổn hoàn nguyên, tự chứng được
diệu tánh. Ví như nhơ hết gương sáng, mây tan mặt
trời rạng rỡ. Mặt trời vốn sẵn có,
ánh sáng chẳng phải từ bên ngoài đến. Đắc
Vô Sở Đắc, đạt Đại Tự Tại.
Phàm t́nh, thánh kiến thảy đều tiêu vong. Niết Bàn
c̣n không có, huống là có sanh tử? Nếu như tuổi thọ
đă hết bèn thiêu h́nh hài là v́:
1) Một là sợ
người mất c̣n có việc làm chưa xong, Thân Kiến
chưa hết. Nay hỏa thiêu để khiến cho người
ấy đột ngột ngộ Chân Không, giải thoát ngay
trong lúc đó.
2) Hai là chính v́ muốn
cho người c̣n sống hiểu rơ toàn thể thân này là
hư vọng, tận lực tu Thánh Đạo, khôi phục
nguồn tâm, chăm chú nơi cử chỉ, lời lẽ,
đích thân thấy được chủ nhân ông, sẽ tự
làm chủ tể, chẳng bị cái đăy da thối này lắm
cách sai khiến, ngơ hầu trên có thể tiếp nối huệ
mạng đức Phật, dưới hóa độ hữu
t́nh. Từ ngay cái thân khổ, vô thường, vô ngă, bất
tịnh, huyễn vọng này, triệt chứng Phật tánh
Chân Như thường - lạc - ngă - tịnh.
Do vậy, bất luận
phàm hay thánh đều nên hỏa táng hết, tùng lâm trong
thiên hạ không đâu chẳng tuân hành. Vào thời Phật
pháp hưng thạnh dưới đời Đường,
đời Tống, những bậc sĩ đại phu
cũng đa phần tuân theo Phật chế dùng pháp này, chứ
không riêng ǵ Tăng chúng mới vậy! Tăng đă hỏa
thiêu, nhặt lấy xương thừa, đặt trong
tháp Phổ Đồng[36],
cũng giống như hải chúng cùng ở chung với
nhau trong tùng lâm. Trong số ấy, phàm - thánh khó lường,
hạnh vị khó phân biệt. Phàm đă gần thánh th́
cũng dễ được giải thoát, như loài nhặng
xanh bám vào đuôi ngựa Kư, chẳng nhọc sức mà
đi được ngàn dặm vậy! Pháp Vũ thường
trụ vào thời Hàm Phong - Đồng Trị nhà Thanh
trước kia, do binh hỏa lâu ngày đă bị hoang phế,
đèn nhang đoạn tuyệt, đến nỗi hư hoại
đổ sụp. Vào năm Đồng Trị thứ 10
(1871), đại chúng ép tiên sư công[37] là
Lập Sơn lăo nhân làm trụ tŕ, pháp đạo do vậy
lại được trùng hưng, thế độ pháp tự[38]
thật đông đảo.
Sư bá Hóa Khai bàn với
các pháp quyến trong bổn phái, ai nấy bỏ ra tịnh
tài bao nhiêu đó tiền tu bổ tháp Phổ Đồng cho
con cháu ở phía Đông cầu Hải Hội. Phàm những
con cháu của chi phái Lập Sơn lăo nhân và các pháp đồ[39]
đều được đưa vào đây. Lại mua
năm mươi mẫu ruộng hương hỏa,
đem tô lợi thu được hằng năm dùng làm chi
phí cúng quải hai kỳ Xuân - Đông. Sai năm am Bán
Sơn, Thường Minh, Trường Sanh, Dương Chi,
Bảo Xứng và con cháu của chi phái sư Hóa Hằng, sáu
nhóm thay phiên đảm nhiệm khiến cho người mất
được cúng tế, được pháp lợi siêu
sanh trời Cực Lạc, người c̣n sống hiểu
thấu suốt huyễn vọng, tu Tịnh nghiệp dự
vào hội Liên Tŕ, nên bèn ghi duyên khởi để bảo
cùng đồng luân.
36. Lời
tựa quyên mộ dựng thảo xá Dược
Vương (viết thay)
Đại
Giác Thế Tôn được mệnh danh là Đại Y
Vương, trị khắp các bệnh thân - tâm cho chúng sanh.
Ngài dùng thuốc số đến vô lượng, nhưng
ba thứ Giới - Định - Huệ bao gồm hết tất
cả không c̣n sót. Do vậy, ba thứ này được gọi
là Dược Vương. Nếu uống vào, phàm sẽ
thành thánh, nhưng thuốc tuy đẹp hay, tu tŕ lại thật
khó. Tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương
gọi là thuốc A Già Đà, trị chung được vạn
bệnh. Hạ thủ dễ, thành công cao; dùng sức ít, được
hiệu quả nhanh chóng. Ba căn thượng - trung - hạ
ngay trong đời này đều thoát khổ luân. Ba pháp Giới
- Định - Huệ ngay trong một niệm đều
được đầy đủ. Do vậy, biết một
pháp tín nguyện niệm Phật chính là dược
vương của các dược vương. Tôi may nhờ
túc nhân, được nghe pháp này, dám đâu chẳng kiệt
thành, tận kính, khăng khắng tu tŕ ư? Toan muốn dựng
một am tranh, đặt tên là Dược Vương, yên
trụ trong đó, dốc sức tu Tịnh nghiệp, ngơ hầu
chữa lành các chứng bệnh lớn sanh tử nơi
thân tâm của ḿnh lẫn người. Khẩn khoản mong
các đàn-việt phát Bồ Đề tâm, hành phương
tiện sự, tạm bỏ ra chút phần tạng báu,
thành toàn cho căn nhà tệ hèn để yên thân. Do đây,
đêm ngày ân cần lễ bái, ức niệm. Đă có thể
niệm đâu nghĩ nơi đó, khó ǵ [chẳng chứng]
tâm này chính là Phật, th́ vô biên lợi ích đều
được thành tựu. Dùng nhân như thế để
cảm quả như thế. Đời này ắt
được Phật tiếp dẫn cao dự hải hội;
tương lai ắt làm thân Dược Vương, trị
đủ mọi bệnh. Nếu như ḷng ngu thành này
được xét soi th́ lời lẽ này ắt chẳng bị
bỏ phí vậy!
37. Lời
tựa cho cuốn Vạn Niên Bạ chùa Pháp Vũ
(viết thay Khai Như Ḥa Thượng)
Có
được cuộc đất tối thắng mới
hoằng dương được đạo tối thắng.
Tạo lập chuyện phi thường ắt phải
đợi người phi thường. Bậc tông tượng
xuất hiện th́ gốc lập, đạo sanh. Triết
nhân mất th́ pháp tàn, giáo suy. Tuy bỉ cực thái lai thuộc
vào vận trời, nhưng sửa cũ đổi mới
quả thật phải nhờ vào sức người. Pháp
Vũ thường trụ do Đại Trí lăo nhân sáng lập[40], do
Thống Tổ ở Biệt Am trung hưng, quy mô lớn
lao, pháp đạo hưng long. Từ đấy Trụ Tŕ
các đời tuy không thành tựu lớn lao, nhưng ai nấy
đều tận lực giữ quy củ đă thành lập,
gia phong chẳng suy đồi. Sau cơn binh hỏa, Trụ
Tŕ chẳng t́m được người đến nỗi
suy bại sát đất. Điện đường, liêu
xá hư sụp, đổ nát, pháp khí trang nghiêm, trăm thứ
chẳng c̣n được một. Pháp quyến các pḥng thấy
cảnh tượng ấy đều bó tay, chẳng dám
gánh vác.
Vào năm Đồng
Trị thứ 11 (1872), đại chúng ép tiên sư công Lập
Sơn lăo nhân làm Trụ Tŕ, tận lực tu bổ tường
sụp, nhà rách, siêng năng, chăm chút, trải hơn
mười năm. Từ điện Thiên Vương cho
đến Tàng Kinh Các thảy đều sửa mới. Những
công tŕnh khác tuy chưa hoàn toàn khôi phục lại quy mô
cũ, nhưng nh́n vào đại cuộc đă khả quan.
Đến năm Quang Tự thứ 11 (1885), do già bệnh,
lăo nhân bèn thoái ẩn, sai tiên sư là Văn Lăo Nhân[41] kế
vị trụ tŕ. Tiên sư kế thừa đầu mối
cũ, phát tâm rộng lớn. Phàm đối với những
ǵ sư ông (chỉ ngài Lập Sơn) chưa đủ sức
lo đến, hết thảy điện đường,
liêu xá đều dựng mới hoặc tu bổ, không chỗ
nào chẳng sửa chữa mới. Quy mô chế độ
chẳng kém thời trung hưng. Phàm những vườn
đào, ruộng rẫy bị cưỡng ép lấy mất
vào thời Hàm Phong đều tận lực chuộc lại.
Lại v́ muốn chuyển pháp luân th́ phải nhờ vào
pháp khí trang nghiêm; hơn mười mấy năm qua, hoằng
Tông xiển Giáo, những vật dụng sắm sửa trên
là Càn Long Đại Tạng kinh, tượng Phật,
dưới là bàn ghế, giường chơng, phàm vật ǵ cần
đến thảy đều đầy đủ.
Nhưng lăo nhân đại
nguyện như mây nhóm, hận chẳng nhóm được
thập phương Tăng chúng trong cùng một nhà để
Kỳ Viên xưa kia lại được thấy trong ngày
nay. Tâm v́ pháp, v́ người, v́ thường trụ, v́
đại chúng như chôn cha mẹ[42],
như cứu đầu cháy, ngày đêm suy tư, lo nhọc
đến nỗi thành bệnh. Đến mùa Đông
năm Quang Tự 23 (1897), công tŕnh xây dựng chưa xong,
lăo nhân quyết chí về Tây. Khai Như tôi tự thẹn
đức bạc, lại không có bản lănh. Do được
ghé dự vào hàng đồ đệ, nên Ngài giao cho coi sóc sự
vụ trong chùa, gắng gượng vâng lệnh thầy, tận
lực phụ giúp. Tuy là hạt bụi nhẹ, giọt
sương bé, chẳng giúp ích ǵ cho núi, cho sông, nhưng luận
trên sức ḿnh, cũng có thể nói là đă cúc cung tận tụy,
dốc cạn ḷng ngu muội. Nương theo những công
tŕnh chưa hoàn thành của thầy, chỉ tận lực
gánh vác, vâng theo di mạng của tiên sư, xin các pháp quyến
công cử Định Công kế nhiệm làm trụ tŕ. Khai
Như vẫn giữ chức vụ cũ, trông nom việc
chùa. Đến khi Định Công thoái ẩn, nhờ ơn
pháp quyến ủy thác trách nhiệm nặng nề này, tuy
biết ḿnh chẳng xứng gánh vác, nhưng chẳng thể
từ khước v́ kế hoạch công tŕnh của tiên
sư vẫn chưa hoàn thành. Do vậy, đêm ngày lo liệu,
chẳng dám bê trễ. Dốc cạn thân tâm này để
kính cẩn hoàn thành chí nguyện của thầy. Trong ṿng ba
năm, những chuyện ǵ nên làm thảy đều hiểu
rơ, chuyện ǵ có thể giao phó được, chẳng làm
phiền cho người. V́ thế, nay kính thưa cùng pháp
quyến, sẽ đem hết tất cả những đồ
vật thường trụ lớn nhỏ, nhất nhất
ghi chép, để vị Trụ Tŕ sau này, hễ đảm
nhận chức vụ ắt biết tiền nhân v́ chuyển
pháp luân đă sắm sửa đồ đạc, một
phen khổ tâm, thật chẳng dễ dàng. Ai nấy đều
càng thêm mến tiếc, không đến nỗi phí phạm,
vâng giữ công lao đă thành, tươi đẹp công nghiệp
khai sáng, nối tiếp đức hạnh, theo gót bậc
khai sơn cả ức vạn năm, vĩnh viễn không
phế bỏ, ngơ hầu pháp luân lẫn nguyện luân đều
thường chuyển, ngàn đời tuân giữ nếp
gia phong cũ, ân nước lẫn ân Phật đều
báo, cả cơi đời thường đượm ơn
mưa móc th́ pháp môn may mắn, thường trụ may mắn
lắm thay!
38. Lời
tựa nhà từ đường Hóa Văn Lăo Nhân
(viết thay cho Khai Như ḥa thượng)
Trộm
nghĩ Nho Lễ coi trọng Xuân - Thu tế lễ; Thích Giáo
coi trọng việc truy tiến hằng năm. Nghĩ
đến ân “cây có cội, nước có nguồn”, cung kính
làm chuyện tưởng nhớ nguồn cội. Thế
gian, xuất thế gian nào có cách ngăn? Tiên sư Văn
lăo nhân huân tu nhiều kiếp, kham làm phước điền
cho trời người, thừa nguyện tái lai, chấn chỉnh
môn đ́nh của Đại Sĩ. Tuy thị hiện sanh
trong chốn đô thành, nhưng mắt thấy thấu suốt
vinh hoa cơi thế, gởi. thân nơi hải đảo, hai
vai gánh vác Phật pháp để giăng bủa mây từ, hưng
long chùa Pháp Vũ. Chẳng thẹn là công thần của Phổ
Môn, xứng đáng là đích tử của Biệt Am. Bỏ
cũ đổi mới, phạm vũ lại khôi phục
quy mô huy hoàng. Hoằng Tông diễn Giáo, nguồn pháp
được lưu thông tốt lành. Xem người
như chính ḿnh, gấp lo chuyện công, gác lại chuyện
tư, trụ tŕ Pháp Vũ cả hơn mười năm,
chưa từng mua một khoảnh ruộng dưỡng
lăo, dựng một gian pḥng làm chỗ nương thân. Chỉ
muốn khôi phục, hoằng dương Tổ đạo,
lợi ích tương lai. Đêm ngày suy tư, lo nhọc
thành bệnh. Công viên quả măn, buông tay quy
39. Lời
tựa cho cuốn pháp phổ[43] am Bạch Hoa
(phần này thuộc phần dẫn khởi, phần sau tường thuật sự việc nên không sao lục)
Một
niệm tâm tánh của chúng ta bất sanh bất diệt, chẳng
phải có, chẳng phải không, theo chiều dọc không
có dấu vết trước - sau, theo chiều ngang hoàn toàn
không có h́nh dáng trong - ngoài, bất biến tùy duyên, trải khắp
chín giới nhưng chẳng giảm; tùy duyên bất biến,
chứng Phật đạo chẳng tăng. Quang minh chiếu
thấu tột, thọ dụng tự tại, thật không
hai, không khác ǵ với mười phương tam thế hết
thảy chư Phật. Nhưng do mê chân đuổi theo vọng,
trái giác, hiệp trần, đến nỗi chúng sanh và Phật
khác xa nhau, khổ - vui thật khác! Đức Đại
Giác Thế Tôn thương xót, thị hiện sanh trong thế
gian, thành Đẳng Chánh Giác, rộng diễn ngôn giáo, khiến
cho chúng sanh bỏ vọng về với chân, trái trần, hiệp
giác, khôi phục thiên chân vốn sẵn có, tự chứng
Vô Thượng Giác Đạo. Do vậy, giáo tùy theo căn
cơ mà sai khác, pháp do người mà khác biệt.
V́ Thật bày Quyền,
lập đủ năm tầng bậc, địa vị
Ngũ Thừa. Khai Quyền hiển Thật, cùng về pháp
môn tam đức. Tuy một trận mưa thấm nhuần
khắp, tứ chúng đều được thấm
đượm, nhưng hoằng dương lưu thông phải
nhờ vào Tăng. Ấy là do cắt ái ĺa thân mới có thể
tu ṛng tịnh hạnh; gánh vác pháp đạo th́ phải thấu
triệt nguồn tâm. Do vậy, từ khi đại giáo
phát khởi từ Tây Càn (Ấn Độ), pháp truyền
sang Đông Chấn (Trung Hoa), Luật, Giáo giương lao,
Thiền, Tịnh dựng cờ, hai ngàn năm qua, người
được thế độ, uống sữa pháp, dùng
đạo này để giác ngộ dân, thế hệ thầy
tṛ truyền cho nhau, cội nguồn gốc gác sao kể cho
xiết! Phổ Đà là nơi Quán Âm đại sĩ ứng
hóa, trải bao kiếp vẫn thường như vậy,
không thay đổi, không biến dịch. Nhưng trong sự
thấy biết của thế gian phàm phu, th́ kể từ
niên hiệu Trinh Minh nhà [Châu] Lương thời Ngũ
Đại mới lập đạo tràng. Trải các đời
Tống, Nguyên, Minh đă từng rạng rỡ cơi đời,
cao nhân nhiều lần xuất hiện, lắm phen lẫy
lừng. Trong thời gian ấy, pháp vận không phải là
không có lúc bỉ cực, bế tắc, nhưng nhờ có
người gánh vác pháp đạo, điều đ́nh, xếp
đặt, nên bỉ chuyển thành thái, tắc biến
thành thông. Do vậy, đạo tràng viên thông lừng lẫy
như cũ, chẳng kém thuở ban đầu.
40. Lời
tựa cho bản quy củ Hương Tích Trai Tăng Hội
Trộm
nghĩ Tăng mang tên là phước điền, lợi khắp
tứ sanh cửu hữu[44].
Làm chay có thể giúp cho đạo, giúp khắp tam thừa lục
ḥa. Do [Tăng] là phước điền cho nên cúng dường
th́ gần là trừ được cái nhân đói kém, xa th́
là được quả Ứng Cúng. Do là trợ đạo
nên nhận lănh th́ tu được hạnh Lục Độ,
dùng để nêu bày thân tam đức. Kinh dạy: “Đối với thức ăn
b́nh đẳng, th́ đối với pháp cũng b́nh đẳng.
Hai thứ Tài Thí và Pháp Thí, b́nh đẳng không sai biệt”,
chính là ư này vậy. Chung Phương đại sư thấy
được việc này, liền mời mấy người
tịnh hữu, ai nấy bỏ ra bao nhiêu tiền, giữ
vĩnh viễn trong quỹ chùa Phổ Tế ḥng kiếm
chút tiền lời, để chi phí vào lễ Trai Tăng
ngày 25 tháng Chạp mỗi năm. Một bữa, Sư
đem bản quy ước đă lập đến chỗ
tôi, nhờ viết lời tựa ḥng lưu lại măi măi.
Lại nói:
- Xưa cư sĩ Duy
Ma dùng sức thần thông qua khỏi bốn mươi hai Hằng
sa cơi Phật trên thượng phương, nơi cơi Chúng
Hương là chỗ của đức Hương Tích
Như Lai, xin được cơm thơm, đặt ở
trong trượng thất[45],
cúng cho khắp các đại chúng để làm Phật sự
khiến cho người chưa đắc bèn đắc,
chưa chứng bèn chứng. Bọn Phương tôi thẹn
không có được thần lực như vậy, kính cẩn
dọn cơm chay đạm bạc để biểu thị
tấm ḷng thành nhỏ bé. Muốn cho mười
phương tam thế hết thảy đại chúng đều
nhờ vào bốn mươi tám nguyện rộng lớn của
Phật Di Đà, cùng ĺa ngũ trược, cùng lên chín phẩm,
vĩnh viễn hầu đại sĩ Phổ Môn, tự
chứng viên thông chân thật.
Tôi nói:
- Thần thông ai nấy vốn
sẵn có, lẽ nào Sa Bà chẳng có cơm thơm? Cần
ǵ phải phải hiển lộ thần thông, vượt
lên cao Hằng sa cơi cầu cơm thừa của họ
để no bụng đại chúng cơi này mới được
ư? Nên biết rằng bữa cơm chay này các thầy thật
tâm sắp đặt, đại chúng ḷng rỗng rang lănh nhận.
Người sắp đặt, người lănh nhận
đều đầy đủ mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ư; nhưng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư xét về
bản thể vốn là không, đó là loại thần thông
nào? Vật được chuẩn bị, vật
được lănh nhận lại là Sắc, Thanh, Hương,
Vị, Xúc, Pháp, nhưng Sắc, Thanh, Hương, Vị,
Xúc, Pháp thật sự giống như hư huyễn, đó
là loại cơm thơm nào? Huống chi Căn - Trần
đă mất, nhân - ngă nào c̣n? Tam luân không tịch, nhất
đạo thanh tịnh. Ấy là thần thông, là cơm
thơm vậy! Chẳng ĺa chỗ này, mặc t́nh đến
khắp mười phương. Chẳng qua một niệm,
pháp nhĩ[46] xông khắp ba đời.
Huyễn uế trong tâm bèn tiêu ngay, chân tịnh nơi tự
tánh hiển hiện trọn vẹn. Ngay trong niệm này tự
thấy Phật Di Đà, lâm chung quyết định
được nhiếp thọ. Từ đấy thường
nghe viên âm, hằng thân cận ánh sáng tốt lành, ắt sẽ
mau măn quả hải, nhập Đại Niết Bàn, nào
đợi phải đắc Tam Ma Địa, chứng
chân Viên Thông mới được ư? Như vậy, xét
ra, việc làm này của các thầy sánh bằng[47]
lăo cư sĩ Duy Ma Cật, không hề cao - thấp! Công
đức đă làm ấy có thọ lượng bằng với
mười phương hư không, không bút mực, văn tự
nào có thể h́nh dung được nổi! Nếu như
không biết nhân quả, bỏ bê, xâm phạm th́ như xưa
kia có người dùng tiền trai tăng đem lợp
tăng thất c̣n bị đọa vào Hỏa Già địa
ngục (địa ngục gông lửa), huống ǵ bỏ
vào túi xài riêng để béo thân ḿnh. Gương rành rành
đă sớm treo, ai nấy đều nên xét kỹ.
41. Lời
tựa cho cuốn Vạn Niên Bạ am Viên Thông
(viết thay Vĩnh Ngộ ḥa thượng)
Thật
Tế lư địa chẳng nhiễm mảy trần, chuyện
trong cửa Phật chẳng bỏ một pháp. Xưa đức
Thế Tôn dùng ngũ thời bát giáo để ứng khắp
mọi căn cơ. Tùy theo căn khí đều làm cho
được lợi ích. Trong bốn thời trước,
nói đủ mọi pháp môn lục độ vạn hạnh.
Nhiếp tiểu th́ chẳng bỏ sót điều thiện
nhỏ nhặt, ứng đại th́ bao trọn pháp giới.
Đến thời Pháp Hoa bèn khai Quyền hiển Thật,
hội tam quy nhất, thọ kư thành Phật cho khắp tất
cả, diễn bày bản hoài lớn lao của Phật.
Thuyết giả cho rằng kinh Pháp Hoa chính là lời bàn luận
cùng cực rốt ráo của đức Như Lai, thuyết
minh trọn vẹn xuyên suốt nguyên do của cả một
đời giáo hóa. Như cuốn sổ cái ghi chép toàn bộ
gia nghiệp, như thiên tử có chín cái đỉnh[48] vậy.
Cuốn Vạn Niên Bạ đây cũng là cuốn sổ
cái của Viên Thông thường trụ.
Xét từ sư tổ
của tôi là Phổ Tín lăo ḥa thượng muốn nhiếp
tâm thiền tịch
nên vào năm Đồng Trị thứ
ba, tức năm Giáp Tư (1864), lập ra ba gian thảo am ngoài
Tây Thiên Môn, cạnh tảng đá Bất Nhị, đặt
tên là Viên Thông, chỉ đủ để che mưa nắng
ḥng yên thân tâm mà thôi. Lăo nhân nhập tu Thiền Quán, nh́n ra biển
thẳm, vui ḷng thích chí, lấy pháp làm vui, thoạt đầu
chưa nghĩ đến chuyện dựng tinh xá. Theo
Sơn Chí, Viên Thông Am ở ngoài Tây Thiên Môn, vào năm Vạn
Lịch thứ năm (1577), vị Tăng tên Viên Hiến dựng
am ở trong hang, nhiều năm sau bị bỏ phế. Xưa
ở trong hang, nay trên đỉnh núi; tên tuy giống nhau,
nhưng nền hơi khác. Về sau, dời khỏi hang đưa
thẳng lên núi Đại Niết Bàn, có phải là điềm
báo trước của bậc thường quán biển Đại
Tịch Diệt hay chăng? Năm năm sau, đúng năm
Mậu Th́n (1868), thầy tôi là Sơn Tịnh lăo nhân thâu nhận
tôi và sư huynh Vĩnh Khánh. May được Đại
Sĩ thầm gia hộ, hai ba năm sau, hương đèn
đông đảo dần, đàn-việt thí chủ nhiều
người kéo đến, liền mở rộng nền
chùa, đổi tên là Thiền Am. Đến mùa Xuân năm
sau, tiên sư thị hiện viên tịch.
Tôi tuân mạng lệnh
từ ái của sư tổ, tận lực đảm nhiệm
hoàn thành việc chùa, Khánh huynh (tức sư Vĩnh Khánh)
chuyên tu Tịnh nghiệp; trải chín lượt nóng lạnh,
ba phen đóng cửa Thiền để giúp đỡ.
Đến năm Quư Dậu (1873) đời Đồng Trị,
sư tổ về Tây. Tuy thế cục chưa được
rộng răi, lớn lao như hiện thời, nhưng
đă có vẻ khả quan. Từ đấy về sau,
người thế độ càng đông, nhang đèn càng thạnh.
Lại thêm, con cháu tên X… kế tiếp đảm nhiệm
chuyện ấy, lại càng chẳng tiếc tâm lực, lo
liệu tu tạo. Nền chùa chỗ cao bèn khoét xuống, chỗ
thấp bèn đắp thêm, khiến cho cuộc đất
được bằng phẳng, con người có chỗ
sử dụng mới thôi. Điện đường, nhà
cửa hễ cần phải dựng bèn dựng, cần sửa
liền sửa. Nhỏ hẹp, xấu xí th́ mở rộng,
sửa sang tráng lệ, thảy đều rực rỡ
như mới, thành tựu quang cảnh đẹp đẽ.
Lớn như tượng Phật, kinh điển, hạng
trung như pháp khí trang nghiêm và đủ loại đồ
vật, ngay cả thứ nhỏ nhặt như chiếc
th́a, chiếc đũa, phàm những ǵ nên dùng vào Phật sự,
những thứ cần dùng thường ngày không thứ ǵ
chẳng có đủ. Điền sản tuy không được
mấy, nhưng cũng đủ ăn cho một quư (ba
tháng). So với kẻ không đất cắm dùi, vẫn khá
hơn một chút!
Ôi! Tôi đă già rồi!
Tháng ngày không c̣n mấy, muốn cho hậu nhân có cái kế
thừa, vâng giữ, chẳng dám vứt bỏ bừa băi,
gượng bắt chước tiền nhân quang hiển,
hoằng dương pháp đạo. Nay đem tất cả
những đồ vật thường trụ lớn - nhỏ
chia ra từng loại, nhất nhất chép vào sổ để
lưu lại lâu xa. Am này chẳng phải do trời tạo
đất dựng, mà là do tâm huyết của tôi, Khánh huynh
và mười phương đàn-việt tạo thành; cháu
con cũng dự phần góp sức, há phải đâu cũng
uổng công tạo dựng ư? Ấy là v́ muốn thành Phật
quả th́ phải viên măn vạn đức; muốn chuyển
pháp luân phải nhờ vào các duyên. Nay may được các
duyên tạm đủ, phải nên thường chuyển
pháp luân, tu trọn vạn hạnh ngơ hầu vạn đức
viên thành.
Con cháu đông đảo
an trụ trong am, không phải lo đói lạnh khốn khổ,
có niềm vui tiêu dao nhàn hạ, há chẳng đau đáu nghĩ
đến đại sự sanh tử, vô thường
nhanh chóng, hiểu ḷng thành khẩn của đàn-việt,
nghĩ đến công tạo dựng gian nan, phát Bồ
Đề tâm, dốc sức tu tịnh hạnh, ngơ hầu
báo đáp tứ ân trong muôn một ư? Phàm thấy một
cây kim, một nhánh cỏ trong am đều nói: “Những thứ này đều
được sắm sửa để chúng ta tiếp nối
huệ mạng Phật, tự lợi, lợi tha vậy!”,
quư như thịt trên thân ḿnh, giữ ǵn như tṛng mắt,
khăng khắng tu tŕ suốt cả ngày c̣n chẳng đủ.
Làm được như thế th́ chẳng thẹn là
đệ tử Như Lai, là con cháu của Đại
Sĩ, được người kính, thần che chở,
hiện tại phước huệ đều thạnh,
tương lai có phần thành Phật. Nếu không, dưới
lớp ca-sa, đánh mất thân người, tam đồ
chịu báo trăm ngàn kiếp, chẳng biết lúc nào ngoi
đầu ra được, c̣n nói ǵ nữa đây!
42. Lời tựa cho từ đường của Vĩnh Ngộ ḥa thượng (viết thay cho người đứng ra tạo dựng)
Trước
không khởi đầu, sau không kết thúc. Bao trọn thái
hư nhưng chẳng ở ngoài, vào trong vi trần nhưng
chẳng ở trong. Thanh tịch, sáng sạch, trong lặng,
thường hằng, không sanh, không diệt, ĺa tướng,
ĺa danh, tuy có nhưng chẳng có, tuy không lại chẳng
không. Chân tánh là như thế đó! Nh́n vào cái thân địa
- thủy - hỏa - phong chính là do gân, xương, máu, thịt
tụ hội, vừa sanh liền diệt, vừa
tươi liền héo. Các lóng xương chống đỡ
như dùng gỗ dựng nhà, một lớp da trùm lên như
dùng đất tô vách. Bên trong toàn là phân, tiểu, mủ, máu,
mặt ngoài sanh ghét (hờm), mồ hôi, tóc, lông. Gịi trùng lúc
nhúc, chấy rận như sao. Giả gọi là “người”,
chứ thật sự không có cái Ngă tồn tại. Lại
c̣n dùng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư sẵn có rong
ruổi trong rừng gai góc Sắc, Thanh, Hương, Vị,
Xúc, Pháp. Do vậy, khởi vô minh tham - sân - si, diệt chánh
trí Giới - Định - Huệ. Ngũ Uẩn vốn
không, ai chịu xét soi; lục trần vô tánh ai nấy đều
cho là thật, khiến cho muôn khổ đều nhóm, linh
tánh vĩnh viễn tối tăm [nên có] huyễn thân và vọng
tâm. Câu kinh Viên Giác: “Hết thảy
chúng sanh đủ mọi điên đảo, nhận lầm
Tứ Đại là thân tướng của chính ḿnh, tưởng
duyên ảnh của sáu trần là tướng của tự
tâm”, chính là nói về ư này vậy. Nếu luận trên chân
tánh th́ chẳng phải phàm, chẳng phải thánh, không có dấu
hiệu ǵ, hằng cổ hằng kim, luôn tự như
như. Lấy ǵ để ghi nhớ năm tháng hầu sắm
sửa giỗ chạp. Nếu luận trên huyễn thân th́
sống như con rối, chết như bụi đất.
Vọng tâm sanh diệt theo cảnh, chẳng có mảy may thật
nghĩa nào! Cần ǵ phải ghi dấu chim bay trên hư
không, buộc gió mát trên sông?
Nhưng do quy củ
thường hằng của núi này, phàm là Trụ Tŕ và là vị
tăng có danh có đức, đều lập từ
đường để lưu niệm cho người
đời sau. Tôi từ thuở nhược quan, xuất
gia nơi thảo am Viên Thông, cho rằng có mái tranh che đầu,
có cái pḥng hẹp để khoanh chân là đủ rồi!
Nào biết tướng thế gian vô thường biến
đổi theo thời, đàn-việt tín chúng ngày càng
đông, thí gạo, trải vàng[49],
năm lâu tháng chầy, nào biết nào hay đă biến thành
một ngôi phạm vũ tinh lam[50] đẹp
đẽ. Lại thêm pháp quyến cả núi nghĩ tôi là
người thuần hậu lăo thành, ép làm chủ nhân chùa
Pháp Vũ, nhưng tự thẹn ḿnh đức mỏng,
sao đủ sức rạng rỡ, hoằng dương
pháp đạo cho được, nhiều lượt thoái
thác, chỉ làm trụ tŕ bốn năm. Nghĩ tưởng
đến cổ nhân, thẹn thùng không biết lánh vào
đâu, nào dám lấy ḿnh làm gương.
Bọn pháp tử đồ
đệ cố thỉnh không ngừng, bèn đổi ư,
nghĩ rằng: “Đời tôi
chẳng thể hoằng dương, xiển phát Tông phong,
lợi ích cho họ. Nếu lập nhà từ đường
th́ cũng có thể dùng đó làm phương tiện khiến
họ giải ngộ, khiến cho họ lúc treo ảnh
để cúng tế trong hai kỳ Đông - Xuân, chợt
nghĩ rằng: ‘Vị lăo nhân này sống vào năm đó,
chết vào năm đó. Đến nay đă được
bao nhiêu năm tháng đó”. Do vậy, biết mạng người
vô thường, nhanh chóng như ánh chớp, một hơi
thở ra không hít vào được liền thành đời
sau. Từ đấy, phát phẫn tu tŕ, cầu sanh Tây
Phương. Do vậy, trừ sạch thân tâm huyễn vọng,
khôi phục chân tánh sẵn có, cùng ông cụ Di Đà vui
chơi nơi cơi thanh tịnh tịch diệt, để
vĩnh viễn hưởng niềm vui thường - lạc
- ngă - tịnh, th́ cũng không phải là không giúp cho họ
đôi chút vậy! Liền cho dành ra mấy mẫu vườn
ruộng để thay phiên nhau trông nom, ḥng có tiền chi phí
cho hai kỳ cúng tế, nên bèn viết ra lời tựa này.
43. Lời
tựa sách Sơ Cơ Tịnh Nghiệp Chỉ
Ông Đạo
Doăn[51]
Hoàng Hàm Chi ở Cối Kê dốc ḷng tin tưởng Phật
pháp, tu Tịnh nghiệp tinh thuần. Muốn làm cho đồng
nhân đều tu Tịnh nghiệp, ĺa khổ được
vui, do thấy các sách Tịnh Độ văn sâu thẳm,
nghĩa uyên áo, chẳng thuận tiện cho kẻ sơ
cơ và người không có học thức. Do vậy, ông viết
sách bằng văn Bạch Thoại, phân tích tỉ mỉ những
nghĩa trọng yếu, đặt tên là Sơ Cơ Tịnh
Nghiệp Chỉ
Kinh A Di
Đà dạy: “Từ đây
đi về phương Tây qua khỏi mười vạn ức
cơi Phật, có một thế giới tên là Cực Lạc.
Cơi ấy có Phật hiệu là A Di Đà, nay đang thuyết
pháp”. Lại nói: “Cơi ấy
v́ sao tên là Cực Lạc? Do chúng sanh cơi ấy không có các sự
khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên tên
là Cực Lạc”. Không có các sự khổ, chỉ hưởng
những điều vui là do được trang nghiêm bởi
phước đức, trí huệ, thần thông, đạo
lực của đức Phật A Di Đà. Thế giới
chúng ta đang sống đây có đủ ba thứ khổ,
tám thứ khổ, vô lượng nỗi khổ, trọn chẳng
có niềm vui. Cho nên gọi là Sa Bà. Chữ Phạn “Sa Bà”, ở
đây (Trung Hoa) dịch là Kham Nhẫn, ư nói: Chúng sanh trong cơi
này phải chịu đựng những nỗi khổ ấy.
Nhưng trong thế giới này, không phải là không có niềm
vui; nhưng tất cả những chuyện vui đa số
là khổ, chúng sanh mê muội, ngược ngạo coi đó
là vui. Như nghiện rượu, đắm sắc,
săn bắn, vây bắt, có ǵ vui đâu mà những kẻ
ngu phu đắm đuối không bỏ được, vui
quên cả mệt. Thật đáng thương xót! Dẫu
là sự vui thật sự, cũng khó thể trường
cửu. Như cha mẹ c̣n sống đầy đủ, anh
em không có chuyện ǵ, chuyện như vậy làm sao thường
hằng cho được! V́ thế, cảnh vui vừa hết,
tâm buồn nối tiếp dấy lên. Do vậy, bảo “trọn chẳng có niềm vui!”
không phải là nói quá đáng vậy!
Thế giới này khổ
nói chẳng thể trọn, dùng tam khổ, bát khổ để
tóm lược th́ chẳng c̣n sót ǵ. Tam khổ th́: 1) Khổ
Khổ 2) Hoại Khổ 3) Không khổ không vui tức là
Hành Khổ. Khổ Khổ có nghĩa là do thể tánh của
thân tâm Ngũ Ấm này bức bách nên gọi là Khổ. Lại
c̣n phải chịu thêm những nỗi khổ sanh, già, bệnh
chết v.v… nên gọi là Khổ Khổ. Hoại Khổ là
có chuyện ǵ trong thế gian tồn tại dài lâu? Mặt
trời đứng bóng liền chênh, trăng tṛn rồi
khuyết, đạo trời c̣n vậy, nữa là chuyện
người! Cảnh vui vừa hiện, cảnh khổ
đến ngay. Đúng vào lúc cảnh vui bị hoại diệt
th́ khổ chẳng thể nói được, cho nên gọi
Lạc là Hoại Khổ. Hành Khổ là tuy không khổ không
vui, tợ hồ thích nghi, nhưng tánh nó dời đổi,
há thể thường trụ! V́ vậy, gọi là Hành Khổ.
Cả ba sự khổ này, không sự khổ nào chẳng
thâu tóm. Về ư nghĩa của Bát Khổ, trong sách [Sơ
Cơ Tịnh Nghiệp Chỉ
Nếu
nói:
- A Di Đà Phật ở
yên nơi Cực Lạc, mười phương thế giới
vô lượng vô biên, chúng sanh trong một thế giới niệm
Phật cũng vô lượng vô biên. A Di Đà Phật sao
có thể dùng một thân cùng lúc tiếp dẫn hết thảy
chúng sanh niệm Phật trong khắp mười
phương vô lượng vô biên thế giới được?
Đáp:
- Sao ông lại dùng tri
kiến phàm phu để suy lường Phật cảnh?
Xin mượn thí dụ để giải thích ḥng trừ sai
lầm cho ông. Một vầng trăng vằng vặc giữa
trời, hiện bóng trong vạn con sông, trăng có dụng
tâm hay không? Trên trời chỉ có một vầng trăng,
nhưng biển cả, sông to, rạch lớn, khe nhỏ thảy
đều hiện bóng trăng vẹn toàn, dẫu nhỏ
như trong một chước, một giọt nước
không đâu chẳng đều hiện bóng trăng trọn
vẹn! Vả nữa, bóng trăng trên sông rạch một
người nh́n vào sẽ thấy một vầng trăng
đối trước người ấy. Trăm ngàn vạn
ức người ở trăm ngàn vạn ức chỗ
nh́n vào, không ai chẳng có một vầng trăng đối
trước mặt! Nếu trăm ngàn vạn ức
người ai nấy đi về những hướng
Đông,
Tâm chúng sanh như
nước, A Di Đà Phật như trăng. Chúng sanh tín
nguyện đầy đủ, chí thành cảm Phật th́
Phật bèn ứng, giống như nước trong trăng
hiện. Nếu tâm không thanh tịnh, không chí thành,
tương ứng với tham - sân - si, giống như
nước đục, loạn động th́ trăng tuy
chẳng bỏ sót không chiếu, nhưng chẳng thể hiện
bóng rơ ràng. Mặt trăng là sắc pháp thế gian c̣n hay
khéo như thế, huống chi Phật A Di Đà phiền hoặc
đoạn sạch, phước huệ đầy đủ,
tâm bao thái hư, lượng trọn pháp giới! Do vậy,
kinh Hoa Nghiêm nói: “Thân Phật
đầy ắp pháp giới, hiện khắp trước
hết thảy chúng sanh, tùy duyên cảm ứng không ǵ chẳng
trọn vẹn, nhưng thường ngồi nơi ṭa Bồ
Đề này. Do vậy, phải biết: Trọn khắp
pháp giới cảm sẽ ứng trọn khắp pháp giới”.
Quả thật, Phật chưa hề khởi tâm động
niệm có tướng đến - đi, nhưng có thể
làm cho chúng sanh duyên chín muồi thấy Phật đến
đây tiếp dẫn văng sanh Tây Phương. Ôm ḷng nghi
như thế, cố nhiên chẳng phải một hai
người; do vậy bèn tŕnh bày đại ư để
sanh chánh tín vậy!
44. Lời
tựa in lại kinh Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện
Công Đức
Tâm thể
của Phật và chúng sanh hoàn toàn chẳng khác nhau chút nào, nhưng
tâm tướng của Phật và chúng sanh khác xa nhau một
trời một vực! Tướng đă khác hẳn nhau
nên sự thọ dụng do tướng cảm được
cũng phải rất khác biệt. Phật thương xót
chúng sanh về Thể tuy đồng, nhưng Tướng -
Dụng rất khác biệt nên vận dụng ḷng Vô Duyên Từ,
hưng khởi ḷng Đồng Thể Bi, [bày ra] đủ
mọi phương tiện để tế độ. Nếu
chúng sanh biết Tướng - Dụng tuy khác, nhưng bổn
thể vốn đồng cố nhiên sẽ trên ngưỡng
mộ các thánh, dưới trọng tánh linh của chính ḿnh,
y giáo phụng hành ngơ hầu khôi phục nó. Kinh Dược
Sư do đức Thế Tôn tự thuật nhân hạnh quả
đức, công đức nhiếp hóa hiển mật của
đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ở
thế giới Tịnh Lưu Ly nơi phương Đông.
Kinh này do ngài Huyền Trang dịch vào đời Đường,
văn lư thông suốt, nhưng tên của tám vị Bồ
Tát và đoạn kinh Phật nói thần chú đều bị
khuyết. Trong kinh Đại Quán Đảnh Thần Chú do
ngài Bạch Thi Lê Mật[52] dịch
vào thời Đông Tấn th́ kinh thứ mười hai là Quán
Đảnh Chương Cú Bạt Trừ Quá Tội Sanh Tử
Đắc Độ Kinh[53],
có tên tám vị Bồ Tát. Kinh Dược Sư Lưu Ly
Quang Thất Phật Bổn Nguyện Công Đức do ngài
Nghĩa Tịnh[54] dịch
vào đời Đường có chép một đoạn chú
văn, gồm bốn trăm hai mươi tám chữ. Ba
kinh quả thật vốn là một kinh, do lưu thông
đă lâu đến nỗi bối diệp[55]
thất lạc, mỗi vị căn cứ vào Phạn bản
ḿnh có được mà dịch. Nhưng Dược Sư
Như Lai cứu vớt kẻ sơ cơ phần nhiều
dựa trên chú lực; v́ thế, tiền nhân đem phần
ghi tên tám vị Bồ Tát trong bản dịch của ngài Bạch
Thi và đoạn chú văn trong bản dịch của ngài
Nghĩa Tịnh thêm vào [bản dịch của ngài Huyền
Trang], khiến cho văn nghĩa đều trọn đủ,
mà tâm cứu độ chúng sanh của Dược Sư
Như Lai cũng không bị bỏ sót. Cũng giống
như phần kệ trùng tụng được thêm vào phẩm
Phổ Môn kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện
được thêm vào kinh Hoa Nghiêm vậy. Hợp lại
th́ xứng hợp, vui đẹp tâm ư Phật. Tách ra th́ sự
giáo hóa bị khuyết. Huống chi kinh ấy, chú ấy cả
cơi đời cùng thọ tŕ, nếu chẳng thêm vào như
vậy th́ người tụng kinh chẳng được
lợi ích nơi mật chú, người tŕ chú chẳng biết
chú ấy phát xuất từ kinh nào. Hành động ấy của
tiền nhân có thể nói là khế cơ, khế lư. Do vậy,
mấy trăm năm qua, đều lưu truyền theo
như thế đó. Cư sĩ Trương Thụy
Tăng phát tâm khắc in lại, chỉ sợ kẻ kém tri
kiến cho là kinh này khác với nguyên văn trong Đại
Tạng đâm ra ngờ vực nên mới lược thuật
nguyên ủy để mọi người cùng được
hay biết vậy!
45. Lời
tựa cho bản tu chánh điều lệ quản trị
chùa miếu và văn cảo hộ giáo
Phật
pháp là tâm pháp. Tâm pháp này chính là căn bản của mười
pháp giới. Chẳng hiểu pháp này th́ chẳng những
không thể nhờ vào đâu chứng được Chân
Như Phật tánh sẵn có, mà những chuyện như
cách vật trí tri, thành ư chánh tâm, đạo tu thân, tề
gia, trị quốc, b́nh thiên hạ của thế gian
cũng không thể nào viên măn rốt ráo được! V́
sao vậy? V́ không đạt được căn bản,
chỉ chú trọng phát khởi trên mặt h́nh thức mà
thôi. Do vậy, từ xưa đến nay phàm những ai lập
đại công, tạo đại nghiệp huy hoàng vũ trụ,
phần nhiều là do học Phật đắc lực mà
nên. Ngay cả những ông Châu, Tŕnh, Trương, Châu[56]
thời Tống phát minh tâm pháp thánh học (tâm pháp Nho giáo)
cũng vay mượn từ Phật học, nhưng bọn
họ mang nặng kiến chấp môn đ́nh quá đáng nên
chẳng những không chú trọng tỏ lộ, trái lại
c̣n chê trách, phỉ báng. Do vậy, đối với đạo
thành ư chánh tâm thật quá thiếu sót, đáng phàn nàn vậy!
Pháp này tuy ai ai cũng có, nhưng nếu chưa nghe lời
Phật th́ không cách nào tự biết được viên
châu nơi vạt áo! Do vậy, hết thảy chư Phật
không vị nào chẳng dặn ḍ lưu thông pháp đạo.
Cách lưu thông trước
hết là phải tạo dựng tháp miếu, in tạo kinh
tượng để khởi đầu. Nếu không có
tháp miếu, kinh tượng th́ không thể nhờ vào
đâu để sùng phụng oai nghi cao quư rồi tu tịnh
hạnh xiển dương Phật đạo, hướng
dẫn quần mê, cũng như hết thảy hàm thức
không có cách nào chiêm lễ thánh dung để vun bồi
căn lành, nghe pháp tu tŕ, khai phát tâm địa cho được!
Người lưu thông phải là vị Tăng chân tu thật
hạnh và phải có những hàng vua quan, thân sĩ,
thương nhân có thế lực, tài lực. Một đằng
là nội hộ, một đằng là ngoại hộ. Nội
hộ th́ nghiêm tŕ giới cấm, dốc sức tu tịnh
nghiệp. Đối với Thiền, Giáo, Luật, Mật,
Tịnh Độ hoặc chuyên chú một môn, hoặc kiêm
tu các tông khiến cho cả ḿnh lẫn người đều
được lợi ích, u lẫn hiển đều
được nương nhờ. Thầm giúp cho cách cai trị
yên ổn, ngầm làm cho dân t́nh yên ổn mới thôi! Ngoại
hộ th́ chẳng tiếc của cải, rộng trồng
phước điền, khiến cho khắp những
người cùng hàng phát khởi tín tâm. Nội ngoại hỗ
trợ, pháp bèn được lưu thông. Nếu không có
hàng nội hộ đạo đức th́ bậc thầy
gương mẫu chưa được lập, làm sao người
ta ngưỡng vọng cho được! Nếu không có
hàng ngoại hộ có thế lực th́ không có sức mạnh,
kẻ bên ngoài khinh lấn làm sao chế ngự được!
V́ thế, khi sắp nhập
Niết Bàn, Như Lai đem pháp phó chúc cho hàng quốc
vương, đại thần và chư thiên, thiện thần,
dạy họ sau này thừa nguyện sanh vào trong hết thảy
cơi nước lưu thông Phật pháp ḥng lợi ích mọi
hàm thức. Do vậy, hơn hai ngàn năm qua, đạo Phật
thâm nhập các nước là do nội hộ lẫn ngoại
hộ đều có người vậy! Kể từ đời
Đông Hán, nước ta (chỉ Trung Quốc) mới
được hưởng pháp hóa. Đến đời Tấn
th́ ngày càng thạnh hành, đến đời Đường
các tông đầy đủ, gần bằng Tây Thiên. Từ
các nhà Tống, Nguyên, Minh cho đến đầu đời
Thanh, Phật nhật luôn sáng tỏ, pháp luân thường
chuyển. Đến thời Hàm Phong - Đồng Trị,
do chinh chiến, đói kém liên miên, bậc triết nhân ngày
càng hiếm hoi, quốc gia chẳng rảnh rang đề
xướng, kẻ kém hèn lạm dự Tăng chúng, rất
nhiều kẻ là phường vô lại, ác nhân, xen lộn
vào Phật môn, đến nỗi Phật pháp bị bại
hoại sát đất. Phàm những ai chưa đọc
kinh Phật, chưa gặp được bậc tri thức,
trông thấy những ông Tăng du hành trong nhân gian tạo
đủ mọi nghiệp, bèn cho rằng Tăng toàn là
như thế. Từ đấy, một người xướng,
trăm kẻ hùa theo, cho là Phật pháp vô ích cho nước
nhà, có hại cho đời! Không ai chẳng tính chuyện
chiếm đoạt tài sản của Tăng chúng, lăm
lăm biến chùa thành trường học. Những kẻ
đề xướng chuyện ấy, tâm lư chưa hẳn
đă hoàn toàn mê muội, mà là do chẳng biết cội nguồn
Phật pháp, chỉ cậy vào hiểu biết của chính
ḿnh để lầm lạc suy luận, khiến cho những
kẻ mượn chuyện công để tư lợi, thấy
đúng là dịp kiếm chác, muốn vơ vét cho đầy
túi. Đây - kia bắt chước nhau, thế như lửa
cháy.
Lúc Dân Quốc mới
thành lập, bao phen được những bậc cao nhân Tăng
-tục tŕnh bày, mong Đại Tổng Thống hạ lệnh
bảo vệ. Năm Dân Quốc thứ tư (1915), chánh phủ
quy định chương tŕnh bảo vệ gồm ba
mươi mốt điều. Do văn từ, ư nghĩa có
chỗ chưa rơ ràng, dễ nẩy sanh mối tệ, sợ
sẽ tạo thành hậu hoạn nên đến năm Dân
Quốc thứ chín (1920), cư sĩ Tŕnh Tuyết Lâu diện
kiến Đại Tổng Thống xin ông sửa đổi.
Nhân đó, bèn thương lượng, châm chước kỹ
càng, quy định hai mươi bốn điều. Tháng
Năm năm Dân Quốc thứ 10 (1921), công bố cho các tỉnh.
Mùa Hạ năm nay, giới giáo dục tỉnh Giang Tô nhóm họp,
lại viện vào tiền lệ thời cuối nhà Thanh,
đầu thời Dân Quốc, đem kế hoạch mượn
chùa làm trường học tŕnh lên cựu tỉnh trưởng
họ Vương, được ông ta tán thành, cho là không tổn
hại ǵ đến pháp luật, thật sự cân nhắc
t́nh lư, đă suy xét cẩn thận châu đáo, ổn thỏa,
thật đáng khâm phục, truyền Ty Giáo Dục thông tri
cho các huyện tuân hành. Lệnh này vừa được
ban ra, ông ta bèn từ chức, Tăng giới tỉnh Giang
Tô chấn động, kinh hoảng vô cùng. Các chùa chiền ở
Diêm Thành đa số bị xâm đoạt. Mọi người
cho rằng: Giáo lệnh của Đại Tổng Thống
công bố vào năm ngoái, có lẽ cựu tỉnh trưởng
họ Vương hoàn toàn chưa hay biết nên mới nồng
nhiệt khen ngợi kế hoạch ấy như thế. Nếu
chẳng lập cách cứu văn, chẳng những không thể
giữ ǵn được các chùa miếu trong một tỉnh
Giang Tô, mà những người mang cùng tánh khí ấy trong các
tỉnh khác không ai chẳng muốn mượn danh nghĩa
lập trường học để diệt Phật pháp,
đoạt tài sản nhà chùa, coi đó như một
nghĩa vụ có danh dự lợi ích nhất!
Do vậy, bèn cử ra
ba mươi vị đại biểu, được cầm
đầu bởi Hạo Tịnh là vị đă từ nhiệm,
khẩn cầu hai vị cư sĩ Ngụy Cang Trưởng
và Vương Ngu Tăng chuyển đạt lên những
nhân vật chánh yếu, tŕnh bày rơ lợi hại, ngơ hầu
“đạo ngầm giúp cho việc cai trị, pháp ngầm khiến
cho dân t́nh yên vui” chẳng đến nỗi nhanh chóng bị
diệt mất. Ông Hàn, tỉnh trưởng tỉnh Giang
Tô, là người thông đạt chánh thể, hiểu sâu Phật
pháp. Những tờ tŕnh của chư Tăng được
chuyển lên, liền phê: “Tôn trọng pháp luật, nghiêm cấm
tệ đoan. Một mực giữ phép công bằng, không mảy
may ǵ thiên vị! Hai giới Tăng chúng và giáo dục đều
được vô sự!” Tuy chưa nói rơ thủ tiêu lệnh
trước của Vương tỉnh trưởng,
nhưng cũng chẳng khác ǵ đă thủ tiêu vậy!
Chuyện này lại
được chuyển đạt lên Bộ, gởi công
văn phúc tŕnh lên bộ Nội Vụ. Bộ truyền cho
tỉnh trưởng Giang Tô xử lư theo đúng pháp luật.
Do vậy, mối họa diệt pháp liền bị tiêu diệt.
Lúc này, thế đạo nhân tâm đă suy hăm đến cùng
cực, đúng là lúc nên đề xướng Phật pháp,
xiển dương rộng răi sự lư nhân quả báo ứng,
sanh tử luân hồi, khiến cho những kẻ mê tâm mờ
lư, phóng túng không kiêng dè biết tạo ác phải thọ khổ
bao kiếp dài lâu, làm thiện được hưởng
vui vĩnh viễn, bèn tự có thể giảm bớt tâm
ác, dần dần phát khởi thiện niệm, quyết chẳng
dám khoái chí một lúc, khiến cho thân về sau phải chịu
thống khổ vô cùng. Vào thời Xuân Thu, chư hầu, các
đại phu chết, ai nấy tùy sức giết người
tuẫn táng theo ḿnh, lại cho là càng nhiều càng sang! Tuy Khổng,
Mạnh, Lăo, Trang đều xuất thế cũng không sao
ngăn cấm được! Từ khi Phật pháp truyền
vào Trung Quốc, dẫu kẻ ngoảnh mặt về
phương
Tuy nhiên, nói chung là do Tăng
giới không có người, nên đến nỗi những
kẻ câu nệ, rỗng tuếch lầm lạc nẩy
sanh ư xâm đoạt, khinh lấn. Nếu như ai nấy gắng
chí ngầm tu, làm rạng rỡ Phật pháp th́ những kẻ
bài bác, đả kích, xâm đoạt, khinh lấn kia sẽ
hộ tŕ, lưu thông c̣n không xuể. Mạnh Tử nói: “Con người phải tự
khinh ḿnh trước th́ người khác mới khinh ḿnh
được. Trong nhà phải tự hủy diệt
trước th́ người khác mới hủy diệt
được. Nước phải tự công phá trước
th́ người ngoài mới công phá được”, chính
là nói đến ư này vậy! Tăng giới chúng ta phải
nên dốc kiệt ḷng thành, chuyên tinh tu tập như thế
nào ngơ hầu trên là mong tiếp nối được huệ
mạng, dưới độ mê t́nh.
Tất cả những
văn tự đầu đuôi về chuyện này đă
được hai vị cư sĩ Cang Trưởng và Ngu
Tăng cho sao lục, khắc in, lại đem điều
lệ quản trị chùa miếu đă tu chánh của Đại
Tổng Thống đặt ở đầu sách, phổ biến
khắp Tăng giới, để mọi người biết
có công lệnh, chẳng đến nỗi lại có những
chuyện như thế phát sanh, không cách ǵ thi thố thủ
đoạn được! Khắc xong, ḥa thượng Diệu
Liên giao cho tôi, nhờ viết lời tựa dẫn giải.
Cụ Diệu Liên là người tánh t́nh thuần ḥa, sốt
sắng, rất được hai vị Cang Trưởng
và Ngu Tăng kính trọng. Khi chuyện này nẩy sanh, ông Ngu
Tăng thường phải bôn ba chẳng nề hà mệt
nhọc, tôi biết rơ ông ta chí hướng cao khiết, khá
thông hiểu giáo lư. Tôi mến ông ta chịu khổ nhọc
thay cho người, thành tựu điều tốt đẹp
cho người nên mới tŕnh bày những điểm chánh
yếu như vậy.
46. Lời
tựa cho bộ Phóng Sanh Sát Sanh Hiện Báo Lục của tiên
sinh Giang Thận Tu
Tiên sinh
Giang Thận Tu là một bậc đại học giả
đời Thanh trước kia, là bậc quân tử hiểu
đạo, ẩn tu, ẩn dật ở Vụ Nguyên[57].
Ông bác học đa văn, không sách ǵ không đọc, với
mỗi cuốn đều nắm được chỗ
tinh vi, hiểu được cốt lơi sâu thẳm. Chỉ
lấy việc giáo dục bậc anh tài làm vui, chẳng màng
đến phú quư, danh lợi, hiển đạt. Năm lên
sáu tuổi, vừa được đi học, mỗi
ngày nhớ được mấy ngàn chữ. Cha thấy
con mẫn tiệp lạ lùng, bèn đem toàn bộ Thập
Tam Kinh Chú Sớ[58] dạy
cho. Từ đấy, tiên sinh chuyên tâm nghiên cứu mấy
mươi năm. Phàm những học thuật về kinh sử,
tác phẩm của bách gia chư tử, thiên văn, địa
lư, âm vận, phiên thiết[59],
không ǵ chẳng dung hội quán thông. Ông bèn tự đặt
trách nhiệm dùng trước thuật để nêu tỏ
những nghĩa lư uẩn súc. Những trước tác của
ông có đến gần hai mươi thứ, gần đến
hai trăm quyển. Những trước thuật của
quốc gia và danh nhân khi ấy đa số đều lấy
trước tác của ông làm căn cứ. Đến
năm Càn Long thứ 37 (1772), lúc đó tiên sinh đă qua đời
11 năm, quốc gia mở ra Tứ Khố Toàn Thư Quán[60],
phàm những trước tác của tiên sinh được
thâu nhập vào đó tổng cộng là mười ba loại,
tức hơn một trăm năm mươi quyển. Ngoài
ra, những tác phẩm không được thâu nhập th́
được tóm lược nội dung chánh yếu ghi
chép trong những sách khác, hoặc được sao chép lại
rất nhiều, truyền cho nhau xem, đến nỗi có
muốn bị thất lạc cũng chẳng được.
Ôi! Có thể nói tiên sinh
là bậc người trời nghiên cứu, công chen tạo
hóa vậy. Cùng lư tận tánh, là bậc anh kiệt trong loài
người được dự vào hàng thánh vậy. C̣n những
người như Trịnh Khang Thành đời Hán, Châu Liêm
Khê, Thiệu Khang Tiết đời Tống ư? Họ
tuy là kẻ bác học đa văn trong cơi đời,
nhưng chẳng bàn đến chuyện tận lực thực
tiễn tu tập, chỉ lăm lăm dùng từ
chương để tiến thân, nghe đến phong cách
của tiên sinh há chẳng thẹn đến chết ư?
Tiên sinh lại yêu tiếc sanh mạng loài vật, tin sâu nhân
quả. V́ thế, đối với thiện báo của việc
ăn chay phóng sanh, ác báo của chuyện sát sanh, ăn thịt,
bèn ghi lại những ǵ ông được thấy nghe
để khuyên đời. Hậu duệ của ông là
cư sĩ Dịch Viên muốn đúc bản kẽm để
lưu truyền rộng răi, ngơ hầu văn hồi sát kiếp,
nhờ Quang viết lời tựa. Quang tâm như mặt
lưng tấm gương, học vấn như nh́n vào
tường vách, chỉ học đ̣i ngu phu ngu phụ thật
thà niệm Phật, làm sao phát huy được diệu
đạo khiến cho những kẻ câu nệ hư giả
thấy thấu tột vầng mặt trời để từ
đó phát sanh chánh tín đạt lợi ích thật sự
cho được? Nhưng việc này liên quan đến kiếp
vận, v́ nghĩa chẳng thể tạ từ, miễn
cưỡng viết lời tựa rằng:
Đại
đức của trời đất gọi là Sanh, đại
đạo của Như Lai gọi là Từ. Người
và loài vật tuy khác, tâm tánh vốn đồng. Như Lai
xem khắp tam thừa lục phàm đều như con một.
V́ sao vậy? Do họ đều có đủ Phật tánh,
đều có khả năng thành Phật. Hăy gác tam thừa
lại đó, lục phàm là trời, người, A Tu La, súc
sanh, ngạ quỷ, địa ngục, tuy cao - thấp khác
hẳn nhau, khổ - vui khác biệt vời vợi, nhưng
nói chung đều là chưa đoạn Hoặc nghiệp,
chưa thoát sanh tử. Phước trời nếu hết ắt
phải đọa xuống. Tội địa ngục nếu
diệt, ắt phải sanh lên. Giống như bánh xe, xoay vần
lên cao xuống thấp! Ta nay may được thân người,
lẽ ra phải nên khéo léo lập cách để che chở,
thương tiếc sanh mạng loài vật, thấu hiểu
đức hiếu sanh của trời đất, toàn vẹn
ḷng nhân trắc ẩn trong tâm ta. Bởi lẽ các loài vật
và ta cùng sống trong ṿng trời đất, cùng được
thiên địa sanh thành, dưỡng dục. Lại c̣n cùng
biết tham sống, cùng biết sợ chết.
Người
nhân đối với xương khô c̣n gom nhặt, đem
chôn; đối với thảo mộc c̣n để mọc
dài chẳng chặt, lẽ đâu chịu sướng thích
bụng miệng ḿnh, khiến cho các sanh vật sống trên
đất dưới nước phải chịu nỗi
khổ chặt xẻ, nấu nướng ư? Phải biết:
Những loài vật ấy từ vô thỉ đến nay,
cũng từng thuộc địa vị cao quư, oai quyền
hiển hách, chẳng biết nhờ oai quyền để
vun bồi đức. Trái lại, cậy vào oai quyền
để tạo nghiệp! Rốt cục, ác nghiệp tụ
tập như rừng, đọa trong dị loại: Miệng
chẳng thể nói được, tâm không có trí khôn, thân
không tài khéo, phải mắc vào nạn ấy. Tuy kẻ mạnh
ăn thịt kẻ yếu về mặt Sự th́
được, nhưng oán hận kết lại không thể
không tạo thành ư niệm đời đời kiếp kiếp
báo oán hay sao? Nếu con người chẳng nghĩ đến
nỗi khổ bị giết chóc của loài vật, chẳng
lẽ không sợ do oán nghiệp kết sâu, thường bị
chúng nó giết lại hay sao? Lại chẳng sợ tàn hại
loài vật của trời, trời sẽ đoạt
phước thọ của chính ḿnh ư? Con người chỉ
muốn quyến thuộc đoàn tụ, thọ mạng dài
lâu, thân tâm yên vui, các duyên như ư, chính ra phải nên phát tâm
đại bi, hành nghiệp phóng sanh, khiến cho thiên địa
quỷ thần đều thương xót tấm ḷng thành
thương yêu loài vật của ta th́ những điều
mong muốn như trên sẽ có thể đạt được.
Nếu cậy ta có tiền
tài, ta có trí lực, bày đủ mọi cách để bắt
giữ loài vật cho sướng khoái bụng miệng
ḿnh, chẳng đoái hoài nỗi đau của chúng, há c̣n có
thể gọi là con người sánh cùng trời đất
thành ba ngôi nữa ư? Nhưng ta cùng chúng nó cùng trong sanh tử,
từ vô thỉ đến nay, mỗi một kẻ trong số
đó đều là cha mẹ, anh em, thê thiếp, con cái của
ta, ta cũng đều là cha mẹ, anh em, thê thiếp, con
cái của mỗi một con vật ấy. Mỗi một kẻ
ấy hoặc trong nhân gian, hoặc trong dị loại từng
bị ta giết; ta cũng hoặc trong nhân gian, hoặc
trong dị loại từng bị kẻ ấy giết, làm
người thân kẻ oán, sanh ra nhau, giết hại lẫn
nhau. Lặng im suy nghĩ, thẹn chẳng muốn sống
nữa! Gấp gáp thay đổi, c̣n e quá chậm, lẽ
nào vẫn cứ giẫm bước theo thói thường,
vẫn chấp mê t́nh, cho là trời sanh ra dị loại vốn
để làm thức ăn cho con người hay sao? Ta c̣n
có đủ Hoặc nghiệp, cố nhiên không cách ǵ thoát ra
ngoài luân hồi. Vạn nhất, tội của chúng đă hết,
lại được sanh làm con người, thiện
căn phát sanh, nghe pháp tu hành, đoạn Hoặc chứng
Chân, được thành Phật đạo. Nếu ta đọa
lạc, c̣n mong kẻ ấy rủ ḷng Từ cứu giúp
ḥng thoát khổ được vui, đích thân chứng
được Phật tánh. Há có nên cậy vào sức mạnh
nhất thời để rồi bao kiếp không được
cứu ư?
Xưa có vị cao
tăng, cất chân không đạp trùng kiến, có người
hỏi nguyên do, Ngài nói: “Ta và
chúng cùng trong sanh tử, nếu chúng nó thành Phật trước,
c̣n mong chúng rủ ḷng Từ cứu ta. Sao dám khinh miệt
chúng?” Do vậy biết: Phật thấy chúng sanh đều
là Phật, c̣n chúng sanh thấy Phật đều là chúng
sanh. Phật coi chúng sanh đều là Phật, nên lắm
cách giáo hóa, chỉ dạy, đủ mọi cách chiết phục,
nhiếp hóa. Dẫu cho kẻ hoàn toàn chẳng có tín tâm,
cũng chẳng buông bỏ, khéo léo vận dụng
phương tiện khiến kẻ ấy trồng thiện
căn. Đợi khi nhân duyên đă đủ, sẽ tự
nhiên phát sanh tăng trưởng, y giáo phụng hành. Chúng
sanh thấy Phật đều là chúng sanh, nên nghe lời Phật
chẳng sanh cảm kích; trái lại, c̣n dùng tri kiến tà vạy,
sai lầm của chính ḿnh để hủy báng nhiều lẽ.
Thậm chí phá hủy chùa tháp, thiêu đốt kinh điển,
cố kết bè đảng ma phá hoại thanh tu. Đến
khi chánh trí hơi mở mang có thẹn hối cũng không kịp!
Do vậy, bèn lại quy mạng Như Lai, hưng khởi
sùng tín Phật pháp. Xưa nay đa phần đều
như thế.
Phải biết: Cha mẹ
đối với đứa con ngỗ nghịch c̣n sanh
ḷng bỏ bê, chứ Phật đối với những phường
nghịch ác bất tín càng sanh ḷng thương xót. V́ sao vậy?
Thương chúng nó Hoặc nghiệp sâu nặng, đánh mất
bổn tâm. Tuy hiện thời trái nghịch với Phật,
nhưng thiên chân Phật tánh sẵn có vẫn chẳng mảy
may bị mất, như tượng vàng trong khuôn cháy,
như bảo châu trong áo rách, như gương Tần bị
bụi phủ, như ngọc bích núi Kinh[61]
c̣n chưa gọt dũa. Kẻ ngu chỉ thấy tướng
trạng bề ngoài, chẳng biết nội dung, c̣n Phật
bỏ tướng trạng bề ngoài, bàn đến nội
dung, nên không một chúng sanh nào bị bỏ qua. Phật c̣n
chẳng khinh chúng sanh, há chúng sanh có nên khinh chúng sanh chăng?
Do vậy, đối với hết thảy những chúng
sanh sống trên đất, dưới nước đều
phải làm cho chúng được sống yên ổn, thường
được bay, chạy, bơi lội trong môi trường
sống của chúng, để loài nào loài nấy vui với
thiên chân, đều hưởng hết tuổi trời.
Như vậy th́ những thứ thiện báo được
nói trong sách này sẽ đạt được đủ cả.
Người như thế, đối với loài vật
c̣n chẳng muốn làm cho chúng nó chẳng được sống
yên, huống chi đối với con người? Ắt sẽ
thân ái đối với nhau, nâng đỡ lẫn nhau, tự
nhiên phong tục tốt đẹp, con người ḥa thuận,
ắt cảm được mưa thuận gió ḥa, lẽ
đâu muôn vật chẳng đông đảo, dân sung sướng,
thời thế yên lành, đất nước thái b́nh ư?
Lại mong những người cùng hàng với tôi chớ
nên tự khinh, hăy nghĩ ta có cùng một tâm tánh với
Như Lai; v́ sao Ngài Hoặc nghiệp hết sạch,
phước huệ viên măn, an trụ Tịch Quang, thường
hưởng pháp lạc? V́ sao ta khởi tham - sân - si, tạo
giết - trộm - dâm, luân hồi lục đạo, chẳng
có cách ǵ thoát ĺa vậy? Tâm tánh là một, khổ - vui một
trời một vực. Nếu nhường cho một ḿnh
đức Như Lai thọ dụng công đức của
Phật tánh th́ có c̣n được gọi là đại
trượng phu nữa hay chăng?
47. Lời
tựa trần thuật duyên khởi của Hạ Môn[62] Phật Kinh
Lưu Thông Xứ
Như
Lai thuyết pháp đều tùy thuận cơ nghi, với
đại căn bèn chỉ thẳng Chân Như diệu
tánh, khiến cho họ hiểu rơ diệu tánh viên minh, ĺa các
danh tướng, vốn chẳng có thế giới, chúng
sanh, thường tịch, thường chiếu, bất
sanh, bất diệt, Ngũ Uẩn không, sáu căn thanh tịnh,
bốn tướng mất, nhưng nhất tâm hiện bày
rành rành. Từ đấy, xứng tánh khởi tu, do tu chứng
tánh. Mây phủ cửa Từ, sóng trào biển Hạnh. Dẫu
từ bi hạnh nguyện trùm khắp pháp giới, nhưng
tam luân thể không, trọn chẳng có những tướng
ta - người, năng - sở!
Đối với tiểu
căn bèn dạy cho Tam Quy để làm căn bản bỏ
tà quy chánh, dạy Ngũ Giới, Thập Thiện để
làm nhân được sanh trong trời, người. Gặp
cha nói từ, gặp con nói hiếu, anh nhường, em kính,
chồng xướng, vợ theo, tận lực tuân thủ
luân thường, ai nấy tận hết bổn phận.
Kiêm thêm kiêng giết, phóng sanh, ăn chay, niệm Phật,
đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện.
Đối với kẻ căn khí thù thắng hơn một
chút th́ bèn dạy cho Tứ Đế, Thập Nhị Nhân
Duyên để họ đoạn Hoặc chứng Chân liễu
sanh thoát tử. Lại v́ hết thảy chúng sanh do thân - khẩu
- ư khởi lên tham - sân - si, do tham - sân - si tạo giết - trộm
- dâm. Do nhân duyên ấy luân hồi lục đạo, giết
lẫn nhau, sanh ra nhau đến tột cùng đời vị
lai trọn chẳng khi nào ngừng nghỉ. Tuy dạy những
thừa nhân, thiên, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, nhưng tự
lực đoạn Hoặc thật chẳng phải dễ
dàng! Huống chi chúng sanh trong đời Mạt căn
cơ kém hèn, chẳng cậy vào Phật lực, quyết
khó thể giải thoát. Do vậy, bèn mở riêng một pháp
môn Tịnh Độ cậy vào Phật từ lực
vượt ngang ra khỏi tam giới để người
đă chứng thánh quả sẽ mau viên măn Phật quả,
người chưa đoạn Hoặc sẽ đới
nghiệp văng sanh. Chỉ cần đầy đủ ḷng
tin chân thành, nguyện thiết tha, khẩn thiết chí thành
tŕ danh hiệu Phật, làm được như thế th́
vạn người chẳng sót một ai. Như người
rớt xuống biển, nương vào sức thuyền cứu,
mau lên được bờ. Chúng sanh đời Mạt bỏ
pháp này muốn thoát sanh tử th́ vạn người chẳng
được một ai!
Do vậy, biết rằng:
Đại pháp của Như Lai vỗ về nuôi nấng quần
manh, như trời che phủ khắp, như đất
nâng đỡ đồng đều; sâm la vạn tượng
không một thứ nào thoát ra ngoài được, không ǵ chẳng
thuộc trong ấy! Như mặt trời, mặt trăng
sáng ngời trên không, chiếu khắp muôn nước; tuy kẻ
mù từ lúc lọt ḷng chẳng thấy được
quang minh cũng vẫn được chiếu soi. Như
mưa đúng thời thấm nhuần trọn khắp muôn
cây cỏ: Rễ to, thân lớn, cành nhỏ, lá bé đều
cùng tươi tốt. Dẫu là mầm cháy, hạt hư
cũng vẫn được b́nh đẳng thấm nhuần.
Như đại hải chứa trọn trăm sông, sông to
rạch lớn cũng đổ vào biển, ng̣i nhỏ
kênh bé, thậm chí một chước, một giọt
cũng đổ vào biển. Đă vào trong biển cả
th́ cùng một vị mặn, cùng một mức sâu rộng
như biển cả, đánh mất tên cũ, được
mang tên là biển. Do vậy, biết Phật pháp un đúc,
giáo hóa, dạy dỗ trọn chẳng bỏ ai; là cội
nguồn của các pháp, làm chỗ nương cậy cho
chúng sanh. Hết thảy các pháp thế gian hay xuất thế
gian không pháp nào chẳng phát xuất từ pháp giới này,
không pháp nào chẳng quy hoàn pháp giới này.
Những kẻ chấp
nhặt, hẹp ḥi chẳng biết Phật pháp chính là pháp
chung cho cả mười pháp giới, chỉ thấy chuyện
bỏ cơi tục đi xuất gia bèn cho là phế bỏ
luân lư, đắm ch́m trong không tịch, mang lỗi trái nghịch
thế giáo. Nào biết Phật pháp như thái hư, không ǵ
chẳng bao dung, như ánh nắng Xuân không ǵ chẳng sanh
trưởng. Thánh nhờ vào đây mà thành thánh, hiền nhờ
vào đây mà thành hiền. V́ thế, thời cổ những
người lập đại công, dựng đại nghiệp,
tiếng tăm lừng lẫy trời đất, ḷng tinh thành
bao trùm nhật nguyệt đều là do học Phật pháp
đắc lực mà phát khởi. Ngay như Châu, Tŕnh,
Trương, Châu đời Tống nêu tỏ tâm pháp thánh
nhân cũng do học Phật mà được. V́ họ khí
lượng nhỏ hẹp, kiến chấp môn đ́nh quá nặng
nên chẳng những không chịu xiển dương, trái lại
c̣n chê trách, hủy báng, muốn ngăn lấp hàng hậu học
khỏi học Phật pháp. V́ thế, lập cách bịt
tai trộm linh, lấy cái hay của người ta lại
tự nhận đó là công của chính ḿnh, nói ngược ngạo
người ta thua ḿnh, cho nên đối với chuyện
chánh tâm thành ư trở thành hẹp ḥi, chẳng thể rốt
ráo viên măn, chẳng đáng buồn ư?
Phật pháp truyền
vào Trung Quốc gần hai ngàn năm. Trong thời gian ấy,
những kinh - luật - luận dịch từ Tây Trúc và những
trước thuật về Thiền, Giáo, Luật, Mật,
Tịnh v.v… của cổ đức các tông cơi này mênh mông
như mặt biển tỏa hơi mờ. Tùy theo căn
cơ con người gần gũi pháp nào, tùy theo ḷng ưa
thích của mỗi người mà nghiên cứu: Hoặc
nghiên cứu khắp các tông, hoặc chuyên chú nơi một
môn. Như bốn cửa thành, gần cửa nào th́ vào bằng
cửa đó. Cửa vào tuy khác, nhưng vào cùng một thành.
Như một giọt nước biển, có đủ vị
của trăm sông. Như một hạt châu nơi cái
lưới của Đế Thích hiện bóng một ngàn hạt
châu. Thâm nhập một môn th́ các pháp đều thông. Đến
khi vô minh hết sạch, tịch chiếu viên dung, dứt sạch
ba đời, mười giới ch́m lỉm, hoàn lại
thiên chân vốn có, chứng giác đạo vô thượng.
Cố nhiên hạng người như vậy thuộc về
hàng thượng thượng căn. Kế đó là những
người dứt tham - sân - si, đoạn giết - trộm
- dâm, không làm các điều ác, vâng làm các điều thiện,
tích lũy công đức dần dần, tăng trưởng
phước huệ, giữ vẹn nhân luân, trọn hết
t́nh nghĩa, yêu thương mọi người, nhân từ,
kiêng giết, phóng sanh, tập thành ḷng từ thiện, đối
với loài vật c̣n thương xót, huống chi con người?
Thúc đẩy phong hóa ấy đến trọn khắp thế
giới, há c̣n có tâm tàn hại lẫn nhau, tranh giành mưu hại
giết chóc, muốn tàn sát chủng tộc người khác
ḥng vừa ư ḿnh nữa ư?
Lâm Hồng Du, Trần
Đắc Lộc thuộc Thái Cát Đường ở Hạ
Môn thương cho kiếp vận thê thảm, muốn cứu
văn, muốn cho đồng nhân khai ngộ, nên lưu thông
kinh Phật. Phát hành kinh sách theo giá vốn và chi phí chuyên chở,
trọn chẳng mong kiếm lời. Muốn mở mang tai
mắt cho người nên xin tôi viết lời tựa. Tôi
mến ḷng thành của họ, bèn thuật đầu
đuôi. Phải biết Phật pháp lấy nhân quả báo ứng
làm đạo hạ học thượng đạt, là
đạo từ đầu đến cuối đều
phải có. Nay người trên không nêu gương, kẻ
dưới không giữ pháp, đây kia tranh chấp đánh
nhau, lấy giết chóc làm vui, chỉ mong sao khoái ư ḿnh, chẳng
đoái hoài nước nhà diệt vong, dân t́nh lầm than,
đều do chẳng biết nhân quả báo ứng nên tạo
thành như vậy. Tôi thường nói: “Nhân quả là phương tiện lớn lao để
thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian b́nh trị
thiên hạ, độ thoát chúng sanh”. Trong đời hiện
thời, nếu chẳng đề xướng sự lư
nhân quả báo ứng sanh tử luân hồi mà muốn cho
thiên hạ thái b́nh nhân dân an lạc, dù Phật, Tổ, thánh
hiền đều xuất thế cũng chẳng làm ǵ
được!
48. Lời
tựa cho cuốn Vạn Niên Bạ của am Pháp Như
(trích lục phần dẫn nhập)
Phật
pháp rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như
hư không, khó bàn, khó nghĩ, không thể diễn tả,
không thể h́nh dung, nếu chỉ luận trên đại
cương th́ không ra ngoài Nhị Đế. Luận theo
Chân Đế th́ có Phật hay không Phật, tánh - tướng
vẫn thường trụ. Do vậy, viên thông đạo
tràng trải trần kiếp chẳng chuyển dời, chẳng
biến đổi. Chân Như pháp môn tận cùng kiếp vị
lai chẳng suy sụp, chẳng hưng khởi. Luận
theo Tục Đế th́ pháp theo duyên khởi, đạo do
người hoằng. Có được người th́ chặt
gai, đốn cây để dựng phạm vũ, diệt
chốn hoang vu để làm sư lâm (chỗ ở cho
tăng chúng), khiến cho Phật nhật thêm sáng, pháp luân
thường chuyển. Không có người th́ Phật địa
trở thành rừng nghiệp, dứt bặt tiếng kinh,
nói chuyện cơi trần. Đến nỗi cửa Phổ
Môn đóng chặt, đường giác lấp lối.
Tăng và Phật - Pháp gọi là Tam Bảo, là v́ việc tiếp
nối huệ mạng của Phật, lưu thông pháp đạo,
không có người th́ không ai noi theo, chỉ có nhờ vào
Tăng vậy!
Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao,
Quyển
3
(Phần
thứ hai hết)
[1] Niêm hoa (c̣n gọi là “niêm hoa vi tiếu”):
Theo truyền thuyết của Thiền Tông, trong pháp hội
Linh Sơn, đức Phật giơ cành hoa cho đại
chúng xem, đại chúng ngơ ngác, chỉ ḿnh tôn giả Ca
Diếp mỉm cười. Đức Thế Tôn bèn nói: “Ta có chánh pháp nhăn tàng, Niết Bàn
diệu tâm, Thật Tướng vô tướng, pháp môn vi diệu,
chẳng lập văn tự truyền riêng ngoài giáo, nay giao
cho Ma Ha Ca Diếp”. Nhà Thiền bảo sự tích này lấy
từ kinh Đại Phạm Thiên Vương Sở Vấn,
nhưng hiện thời chưa t́m thấy bản kinh này
trong Đại Tạng, ngoại trừ một bản ghi
trong Tục Tạng, nhưng cũng bị nghi ngờ tính
chân xác. Theo kinh Đại Bát Niết Bàn, trước khi
đức Phật nhập diệt, đă giao phó chánh pháp
cho tổ Ca Diếp như sau: “Vô
thượng chánh pháp giao phó cho Ma Ha Ca Diếp, Ca Diếp sẽ
là chỗ y chỉ lớn lao cho các tỳ-kheo, giống
như Như Lai là chỗ y chỉ cho mọi chúng sanh”.
Do vậy, các nhà nghiên cứu Phật học hiện thời
cho rằng thuyết “niêm hoa vi tiếu” chính là sự thêm thắt,
tô vẽ của Thiền Tông Trung Hoa sau thời Thần Hội
vào đoạn kinh trên.
[2] Truyền tân tục diệm: Truyền tân là nói tắt của “hỏa truyền tân tận” (lửa truyền củi hết), tục diệm (nối tiếp ngọn lửa) đều có ư nghĩa là kế thừa, phát huy đạo của thầy. Luân Âm có nghĩa là thánh chỉ. Thanh Thế Tông là hoàng đế nên những ǵ nhà vua viết được gọi là “luân âm”.
[3] Sóc: Ngày mồng Một đầu tháng, Vọng: Ngày Rằm.
[4] Chùa này tên cổ là Pháp Vũ, thuộc nằm trên núi Lư An, thuộc ngoại vi thành Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Thời Tống Lư Tông, nhằm mục đích cầu phước an dân nên đổi tên chùa thành Lư An tự. Càn Long từng sáu lượt đến thăm chùa này.
[5] Ư nói: Tâm pháp được truyền thừa từ đời này sang đời khác không đoạn tuyệt, giống như ngọn đèn này đốt nối qua ngọn đèn khác.
[6] Đăng phong tạo cực : Đạt đến cảnh giới tuyệt đỉnh
[7] Xuy Vạn Lăo Nhân Thích Quảng Chân (1582-1639), pháp hiệu
Tụ Vân, người xứ Tứ Xuyên, đắc pháp
nơi Thụy Tŕ Nguyệt ḥa thượng, thuộc pháp hệ
đời thứ hai mươi tám của ngài Nam Nhạc.
Thiên Khải là một niên hiệu của Minh Hy Tông kéo dài từ
năm 1621 đến năm 1627.
[8] Ngũ thời giáo là năm giai đoạn thuyết pháp của đức Phật: Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhă, và Pháp Hoa - Niết Bàn.
[9] Vương Bá Hậu là tên tự của Vương Ứng Lân (1223-1296), hiệu là Thâm Ninh Cư Sĩ. Ông sống vào thời Nam Tống, vốn quê quán tại Khai Phong, sau đổi sang sống tại Khánh Nguyên (nay thuộc Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang), đỗ tiến sĩ, làm đến chức Thái Thường Tự Chủ Bạ, nhưng do nói lời thẳng nên bị cách chức. Sau được bổ làm Thông Phán Thai Châu, rồi làm Thị Giảng kiêm Bí Thư Thiếu Giám. V́ Giả Tự Đạo đố kỵ, ông lại bị đổi đi Huy Châu, đến khi Giả Tự Đạo mất chức mới chuyển về giữ chức Lễ Bộ Thượng Thư kiêm Cấp Sự Trung. Ông rất tinh thông kinh sử, địa lư, thông thuộc các điển chế, khảo cứu tỉ mỉ, tác phẩm có những cuốn nổi tiếng như Ngọc Hải, Ngọc Đường Loại Cảo, Thi Địa Lư Khảo, Thâm Ninh Tập v.v…, nhưng tác phẩm nổi tiếng hơn cả vẫn là Tam Tự Kinh.
[10] Sa-di: Tiếng Phạn là Sramanekara hoặc
Sramanera; phiên đủ âm là Thất La Ma Noa Lạc Ca, hoặc
Thất La Mạt Ni La. Dịch ư là Cầu Tịch, Pháp Công,
Tức Ác (dứt sự ác), Cần Sách (siêng năng, gắng
công), nói chung có nghĩa là: Dứt ác, hành thiện, cầu chứng
viên tịch. Trong Tăng đoàn, Sa-di là người thọ
mười giới, chưa thọ Cụ Túc Giới, ít nhất
từ bảy tuổi trở lên. Nữ gọi là Sa-di-ni.
Ngoài mười giới căn bản, Sa-di phải vâng giữ
14 sự và 72 oai nghi. Riêng ở Nhật Bản, do giới
luật suy bại, c̣n có cái gọi là “tại gia Sa-di”, tức
là kẻ tu hành đă xuống tóc, thọ giới nhưng vẫn
có vợ con. Trong một số tông phái như Nhật Liên
Tông, Tịnh Độ Chân Tông, những ḥa thượng,
đại đức của họ thậm chí c̣n không cạo
đầu, không mặc áo tu. Chỉ khi nào làm lễ mới
mặc pháp y. Đa số tăng sĩ Nhật Bản có vợ
con.
[11] Ư nói chỉ là một sinh vật b́nh thường, không khác ǵ những động vật khác.
[12] Nguyên văn: “Dạ khí bất túc dĩ tồn giả, vi vi cầm thú bất viễn”. Theo Tứ Thư Bạch Thoại Chú Giải của Thường Thục Châu và Lân Công Chấn th́ câu này trích từ thiên Cáo Tử của sách Mạnh Tử. Trong thiên sách này, Mạnh Tử dùng ví dụ: Cây cối ở núi Ngưu gần thành Lâm Truy nước Tề do bị người ta chặt phá, trâu dê ăn lá nên núi trơ trụi. Cũng giống như thế, con người vốn không phải không có tâm nhân nghĩa, nhưng do buông lung nên lương tâm cũng điêu tàn giống như hằng ngày bị ŕu búa chặt. Trong cư xử hằng ngày, lúc đêm thanh phải phản tỉnh, khôi phục “thanh khí” (tức những tâm niệm tốt đẹp). Nếu như trong đêm tối không khôi phục lại được thanh khí đầy đủ th́ có khác ǵ loài vật đâu!
[13] Nguyên văn: “Nhân chi sở dĩ dị vu cầm
thú giả cơ hy. Thứ dân khứ chi, quân tử tồn
chi”. Sách Mạnh Tử Tập
Chú của Châu Hy giảng: “Cơ
hy là ít ỏi. Con người và loài vật cùng được
hưởng lư thiên địa tạo thành tánh, cùng
được hưởng khí của thiên địa nên có
h́nh hài. Riêng ḿnh con người được thừa
hưởng h́nh khí chánh đáng, lại có thể toàn vẹn
tánh ḿnh. Đấy chính là chỗ khác biệt rất nhỏ
nhặt. Tuy là nhỏ nhặt, nhưng con người và
loài vật chỉ khác biệt ở chỗ ấy. Kẻ
hèn không biết, bỏ qua, nên tuy gọi là người
nhưng thật ra chẳng khác ǵ cầm thú. Quân tử do biết
nên vâng giữ. Do kinh sợ dè dặt, cho nên hưởng
được toàn vẹn lư vậy!”
[14] Sơn Âm thuộc huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang.
[15] Bao biếm khuyên điểm: Bao là khen ngợi, biếm là chê trách, khuyên là khoanh một ṿng tṛn, điểm là chấm một chấm bên cạnh. Tức là những chỗ hay dở đều ghi kư hiệu để đánh giá, nhận định.
[16] Hai mắt, hai lỗ tai, hai lỗ mũi và miệng gọi chung là thất khiếu.
[17] Nữ âm: bộ phận sinh dục của người nữ.
[18] Long Khê là hiệu của Vương Kỳ (1498-1583), tự là Nhữ Trung, là một nhà tư tưởng đề cao thuyết Tam Giáo Đồng Quy vào thời Minh và cực lực cổ vũ học thuyết “tri hành hợp nhất” của Vương Dương Minh. Những trước tác của ông được biên tập trong bộ Long Khê Tiên Sinh Toàn Tập.
[19] Vạn Niên Bạ: Sổ ghi tài sản
của nhà chùa khi bàn giao giữa các đời trụ tŕ.
[20] Gọi tắt của chữ Bổ Đát Lạc Ca (Potalaka), tức là một cách phiên âm khác của Phổ Đà.
[21] Sắc tu: Triều đ́nh đứng ra tu bổ, xây cất.
[22] Trong các tùng lâm lớn, chùa thường có chia ra làm nhiều chúng như chúng Đông Liêu, Tây Liêu v.v… Nói “con cháu các pḥng trong chùa” nghĩa là chỉ tuyển chức vụ Trụ Tŕ từ đệ tử, đồ tử, đồ tôn của Tăng chúng thường trụ tại chùa, chứ không thỉnh người ngoài giữ chức vụ này.
[23] Đồng chân xuất gia: xuất gia từ khi c̣n rất bé.
[24] Nhược quan: 20 tuổi. Thuở xưa, khi đến tuổi 20, thanh niên bèn búi tóc lên, bắt đầu đội mũ nho sinh, nên về sau tuổi 20 được gọi là “nhược quan” (đội mũ).
[25] Tức nhà vua
[26] Tiếng xưng tụng vị thầy đă mất của ḿnh.
[27] Con cháu đồ đệ đời sau trong đạo.
[28] Mười mấy nhà ở đây chỉ các chùa miếu có Tăng chúng là đồ tử, đồ tôn của Biệt Am.
[29] Tức y pháp bất y nhân, y nghĩa bất y ngữ, y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa, y trí bất y thức.
[30] Theo biên niên sử, năm Đạo Quang thứ 22 (1842) là năm Nhâm Dần, c̣n năm Quư Măo nhằm năm Đạo Quang 23. Tính đến năm Đồng Trị thứ 12 (1873) th́ ngài Thông Trí đă 31 tuổi, chứ không phải 21, không rơ ấn bản Ấn Quang Văn Sao này có bị khắc lầm hay không?
[31] Theo truyền thuyết, ngoài Đông Hải có ba ḥn đảo tên Bồng Lai, Doanh Châu, Phương Trượng là nơi tiên ở. “Dạo chơi Bồng Đảo” có nghĩa là mong được thành tiên.
[32] Trong Đạo giáo, thường gọi những vị tu tiên đắc đạo là Chân Nhân. Về sau, danh từ này bị lạm xưng; những đạo sĩ phàm tục, chưa tu chứng ǵ, nhưng có địa vị, quyền thế, hay đứng đầu một đạo quán cũng được xưng tụng là Chân Nhân. Đến cuối đời Minh - Thanh, hầu như đạo sĩ nào cũng được gọi là Chân Nhân.
[33] Tức ngài Tịch Sơn (xin xem lại lá thư 123, Tổ Ấn Quang có nói đến chuyện này).
[34] Vị tác gia ở đây chính là ông Lê Đoan Phủ, xin xem lại lá thư 123 và 124.
[35] Nguyên văn là “thiết bất khả thác nhận định bàn tinh” (chớ nên đọc sai vạch cân), “định bàn tinh” là những vạch khắc trên cán cân. Do vậy, chúng tôi dịch phỏng theo ư là “phán đoán sai lầm”.
[36] Tháp Phổ Đồng: Tháp thờ xương cốt người đă mất trong các tùng lâm thường được gọi chung là tháp Phổ Đồng.
[37] Tiên sư công: Tiếng gọi thầy của vị thầy ḿnh đă khuất.
[38] Thế độ pháp tự: Thế độ là xuống tóc xuất gia, pháp tự là người nối tiếp pháp. Như vậy, thế độ pháp tự tức là đệ tử xuất gia.
[39] Chỉ chung các đệ tử, đồ tôn xuất gia.
[40] Chùa Pháp Vũ là một trong ba ngôi chùa lớn nhất ở Phổ Đà, nằm ngay bên cạnh đỉnh núi Bạch Hoa, dưới ngọn núi Quang Hy, thường được gọi là chùa sau. Năm Vạn Lịch thứ tám (1580), ngài Đại Trí Chân Dung từ Tây Thục đến lễ Phổ Đà Sơn, thích vẻ đẹp của ḍng suối dưới ngọn Phổ Đà bèn kết am tranh để ở, đặt tên là Hải Triều Am, lấy ư từ câu “pháp hải triều âm tùy cơ phổ ứng”. Năm Vạn Lịch 22 (1594), được quận thú (người đứng đầu một quận thời Minh) là Ngô An Quốc đổi tên thành Hải Triều Tự. Năm Vạn Lịch 26 (1598), chùa bị hỏa hoạn. Đến năm Vạn Lịch 33 (1605), mới được xây dựng lại. Năm Vạn Lịch 34 (1606), được sắc tứ là Hộ Quốc Trấn Hải Thiền Tự. Sau mấy cơn binh hỏa, chùa gần như sụp nát hoang tàn. Đến năm Khang Hy 26 (1687), ḥa thượng Biệt Am Tánh Thống lên trụ tŕ, trùng hưng Pháp Vũ. Đến năm Khang Hy hai mươi tám (1689), cùng với chùa Phổ Tế được triều đ́nh ban tiền trùng tu. Năm Khang Hy 38 (1699), được các biển ngạch Thiên Hoa Pháp Vũ và Pháp Vũ Thiền Tự. Chùa mang tên Pháp Vũ từ đó đến nay. Đợt trùng tu quy mô nhất là vào năm Ung Chánh thứ 9 (1731).
[41] Tức pháp sư Hóa Văn.
[42] Ư nói thiết tha, chí thành như con làm đám ma cho cha mẹ.
[43] Sách ghi thứ tự truyền thừa các đời của một ngôi chùa.
[44] Tứ sanh: Bốn cách sanh ra của chúng sanh, tức noăn (sanh ra bằng trứng), thai (sanh bằng thai), thấp (sanh từ chỗ ẩm ướt), hóa (sanh bằng cách biến hóa, như chúng sanh trong địa ngục, ngạ quỷ, thiên giới).
Cửu hữu: Tức tam hữu. Ba cơi Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới, nếu chia nhỏ ra sẽ thành chín nên gọi là cửu hữu. Do có phiền hoặc, nghiệp báo, sanh tử nên gọi là Hữu.
[45] Trượng thất: Cái thất rộng một trượng vuông. Theo kinh Duy Ma Cật Sở Vấn, cư sĩ Duy Ma thị hiện mắc bệnh, nằm trong thất này, ngài Văn Thù dẫn đại chúng vào trong thất ấy thăm bệnh. Những vấn đáp giữa hai ngài được chép thành kinh Duy Ma Cật Sở Vấn.
[46] C̣n gọi là pháp nhiên, tự nhiên, thiên
nhiên, tự nhĩ, pháp nhĩ tự nhiên, tự nhiên pháp
nhiên. Vốn là từ dùng để chỉ các pháp trong trạng
thái tự nhiên không qua tạo tác nào, nói cách khác, “pháp nhĩ”
là tướng trạng tự nhiên vốn sẵn có của
bất cứ sự vật nào. Theo Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền
Kư, quyển 3 giải thích:
1) Xét trong h́nh thức
tồn tại của các pháp th́ hết thảy không ǵ chẳng
do nhân duyên ḥa hợp thành, như nước luôn chảy xuống,
lửa luôn bốc lên đều là những sự hoàn toàn tự
nhiên như thế.
2) Nếu nói trên
phương diện Chân Như, vạn pháp tự nhiên tùy
duyên, tự nhiên quy về tánh, đều vốn sẵn
b́nh đẳng.
Sách Du Già Sư Địa
Luận cho rằng “pháp nhĩ đạo lư” chính là đạo
lư tự nhiên sẵn có của bất cứ sự vật
nào như tánh của lửa là nóng, tánh của nước
là thấm ướt. Tịnh Độ Chân Tông của Nhật
c̣n đưa ra khái niệm “pháp nhĩ văng sanh”, tức là
nương vào nguyện lực của Phật A Di Đà tự
nhiên văng sanh về Báo Độ.
[47] Nguyên văn “tịnh tiêu tề khu, vô hoặc hiên điệt” (rong cương cùng đi, mũi xe không chênh nhau). Tiêu là cái hàm thiếc ở mơm ngựa. Ư nói: Sánh ngựa cùng đi ngang nhau, xe đi ngang nhau không trước sau, chúng tôi dịch gọn là “sánh bằng, không có hơn kém”.
[48] Từ thời nhà Châu, hoàng đế cho đúc chín cái đỉnh lớn bằng đồng đặt ở kinh đô, tượng trưng cho chín châu lớn của Trung Hoa thời cổ. Chín châu tùy theo triều đại mà được phân định khác nhau. Chẳng hạn như vào đời nhà Hạ, chín châu là Cổn, Kư, Thanh, Từ, Dự, Kinh, Dương, Ung và Lương. Đời nhà Thương th́ chín châu là Kư, Dự, Từ, Ung, Kinh, Dương, U, Cổn và Doanh. Đời Châu lại chia chín châu như sau: Dương, Kinh, Dự, Thanh, Cổn, Ung, U, Kư và Tịnh. Nói chung, chín châu này tượng trưng cho toàn bộ
lănh thổ Trung Hoa.
[49] Trải vàng (bố kim): Trưởng giả Cấp Cô Độc đem vàng trải đất để lập tinh xá Kỳ Viên. Dùng tích này để nói đàn-việt bỏ ra tiền của xây dựng điện đường.
[50] Tinh lam: Ngôi chùa đẹp đẽ. Phạm vũ lẫn tinh lam đều chỉ ngôi chùa trang nghiêm, đẹp đẽ.
[51] Đạo Doăn là một chức quan vơ, c̣n gọi là Đạo Đài, đứng đầu việc binh nhiều huyện dưới đời Thanh. Chẳng hạn chức Trường Xuân Đạo Doăn thống lănh việc binh bị cả 12 huyện như Cát Lâm, Trường Xuân, Y Thông, Nông An v.v…
[52] Theo Lịch Đại Tam Bảo Kư và sách Tả Thị Ngũ Hồ, ngài Bạch Thi Lê Mật (gọi đầy đủ là Bạch Thi Lê Mật Đa La, dịch nghĩa là Cát Hữu), người xứ Cưu Ty (Kuche), là thái tử nước ấy, nhưng nhường ngôi cho em, đi xuất gia. Ngài rất thông minh, hiểu sâu xa Phật pháp, đến Trung Quốc trong niên hiệu Vĩnh Gia đời Tấn. Khi ấy, Trung Hoa đại loạn nên Ngài bèn vượt Trường Giang xuống Hoa Nam, đến Kiến Khang trụ tích tại chùa Kiến Sơ. Thừa tướng Vương Đạo rất coi trọng, đa phần các triều thần đều quy y.
[53] Đại Quán Đảnh Thần Chú
Kinh (Mahabhiseka Mantra), thường gọi tắt là Đại
Quán Đảnh Kinh, do ngài Bạch Thi Lê Mật Đa dịch
vào thời Đông Tấn, hiện được chép trong
quyển 26 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng
Kinh. Kinh này gồm mười hai bộ kinh nhỏ hợp
thành gồm từ bộ thứ nhất là Quán Đảnh
Tam Quy Ngũ Giới Đới Bội Hộ Thân Thần
Chú Kinh đến kinh cuối cùng Quán Đảnh Bạt Trừ
Quá Tội Sanh Tử Đắc Độ Kinh. Kinh Quán Đảnh
Chương Cú Bạt Trừ Quá Tội Sanh Tử Đắc
Độ Kinh tương đồng với Dược
Sư Như Lai Bổn Nguyện Kinh do ngài Đạt Ma Cấp
Đa dịch và Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn
Nguyện Công Đức Kinh của ngài Huyền Trang dịch.
[54] Kinh Dược Sư tên tiếng Phạn
là Bhagavān Bhaisajyaguru Vaidūryaprabhasya Pūrvapranidhānaviśesa Vistara có đến
năm bản dịch khác nhau. Bản dịch đầu
tiên của ngài Bạch Thi Lê Mật Đa La thời Đông
Tấn, bản thứ hai do ngài Huệ Giản dịch vào
thời Lưu Tống (năm 457), bản thứ ba của
ngài Đạt Ma Cấp Đa dịch vào thời Tùy, bản
thứ tư của ngài Huyền Trang dịch vào đời
Đường, bản thứ năm do ngài Nghĩa Tịnh
dịch cũng vào đời Đường. Ngoại trừ
bản của ngài Bạch Lê Thi Mật Đa ra, bốn bản
đều nhấn mạnh đến công đức của
Phật Dược Sư. Bản của ngài Nghĩa Tịnh
đầy đủ nhất, mang danh xưng Dược
Sư Lưu Ly Quang Thất Phật Bổn Nguyện Công
Đức Kinh, có tên bảy vị Phật, bổn nguyện
và thần chú của mỗi vị. Trong kinh này, đức
Phật Dược Sư ở xa nhất, bổn nguyện
nhiều nhất, công đức thù thắng nhất trong số
các vị Phật. Bản của ngài Nghĩa Tịnh
thường được gọi tắt là Thất Phật
Dược Sư Kinh. Cũng do kinh này, trong các pháp hội
Dược Sư xưa kia thường lập đàn
Dược Sư gồm bảy khu, mỗi khu đốt bảy
ngọn đèn lớn trước bàn Phật. So với các
kinh Mật giáo khác, kinh Dược Sư được chú
giải nhiều nhất.
[55] Kinh Phật khi xưa được
chép trên lá bối (bối diệp). Bối diệp gọi
đủ là Bối Đa La Diệp tức lá của cây Bối
Đa La (pattra), tên khoa học là Laurus Oassia. “Bối diệp”
là danh xưng chung chỉ tên các loại lá có thể dùng thay
giấy khi chưa phát minh ra giấy. Được dùng phổ
biến nhất là lá cây Đa La (Tāla). Loại lá này thuôn dài, dày chắc.
Người ta phơi lá cho khô, cắt thành từng miếng
rộng độ 6cm, dài chừng 18cm. Hai đầu xoi lỗ
nhỏ để chép xong sẽ xỏ dây buộc thành từng
tập. Khi chép kinh, người ta dùng mũi kim hay vật
nhọn khắc chữ trên lá. Khắc xong, bôi mực lên rồi
chùi đi, mực đọng lại nơi vết khắc.
Một số quốc gia sau này tuy đă có giấy vẫn
dùng phương pháp chép kinh lên những mảnh giấy rời
rồi buộc lại thành tập như ở Tây Tạng,
[56] Ông Châu đầu tiên là Châu Đôn Di, người sáng lập Lư Học đời Tống. Ông Châu thứ hai là Châu Hy, c̣n Trương là Trương Tải, triết gia theo chủ nghĩa duy vật. Tŕnh là hai anh em Tŕnh Hạo và Tŕnh Di, cũng là hai nhà Lư Học nổi tiếng đời Tống. Họ đưa quan niệm Lư và Khí vào Nho Học, nên học thuyết của họ được gọi là Tống Nho.
[57] Huyện Vụ Nguyên thuộc tỉnh An Huy.
[58] Thập Tam Kinh là mười ba bộ sách trọng yếu của Nho Giáo, tức kinh Dịch, kinh Thư, kinh Thi, Châu Lễ, Nghi Lễ, Lễ Kư, Tả Truyện, Công Dương Truyện, Cốc Lương Truyện, Luận Ngữ, Hiếu Kinh, Nhĩ Nhă và Mạnh Tử.
[59] Phiên thiết: Một lối phiên âm chữ Hán, dùng hai chữ để ghép lại. Chữ thứ nhất diễn tả phụ âm, chữ thứ hai h́nh dung âm vận. Các từ điển cũ, chẳng hạn như từ điển Khang Hy, thường dùng lối này để mô tả âm đọc, chua thêm một chữ đơn giản nhiều người biết cách đọc để h́nh dung thanh âm. Chẳng hạn chữ Diễn 演được từ điển Khang Hy phiên là Dĩ thiển thiết, âm Diễn (以淺切,音衍). Như vậy âm đọc là D + iển, nhưng do hiệp vận với chữ Diễn nên phải đọc thành Diễn. Theo các nhà nghiên cứu, cách phiên thiết này mô phỏng lối ghép chữ cái để ghi âm của tiếng Phạn.
[60] Tứ Khố Toàn Thư là một bộ sách tập
thành vĩ đại nhất những tác phẩm đặc
sắc nhất trong lịch sử học thuật Trung Quốc,
được biên soạn kể từ năm Càn Long 38
(1773), phải mất 9 năm ṛng ră mới hoàn thành. Tất
cả gồm 3.503 tác phẩm, chia thành 36.304 quyển, gần
320 loại, ước tính đến 800.000 chữ, bao gồm
những tác phẩm từ thời Tiên Tần (trước
đời Tần Thủy Hoàng) cho đến trước
thời Càn Long. Toàn tập được chia thành bốn bộ
phận lớn là Kinh, Sử, Tử, Tập (do vậy gọi
là Tứ Khố). Ngoài những tác phẩm kinh điển của
Nho Gia như Tứ Thư, Ngũ Kinh, c̣n có những tài liệu
vô cùng giá trị như Tư Trị Thông Giám, Thủy Kinh
Chú, Quốc Ngữ, Bản Thảo Cương Mục, kể
cả những tác phẩm của Nhật Bản, Triều
Tiên, Việt Nam, Ấn Độ và các nhà truyền giáo Âu
Châu cũng được thu thập. Công việc biên soạn
được giao cho một cơ quan mệnh danh là Tứ
Khố Toàn Thư Quán, vua sai hoàng tử thứ 15 là Vĩnh
Dung làm Tổng Giám Tu, sai quận chúa Vu Mẫn Trung làm Tổng
Tài, sai các đại học sĩ, thượng thư, thị
lang thuộc sáu bộ làm phó tổng tài. Các học giả nổi
tiếng thời ấy như Lục Tích Hùng, Tôn Sĩ Nghị,
Đới Chấn, Châu Vĩnh Niên v.v… đều tham gia
biên soạn. Số người tham dự chánh thức lên
đến 3.600 người, nhân viên sao chép lên đến
3.800 người. Điểm đặc sắc của Tứ
Khố Toàn Thư là bao gồm toàn bộ những tác phẩm
trọng yếu trong bộ Vĩnh Lạc Đại Điển
của thời Minh. Sau khi hoàn thành, sách được chép
thành bảy bộ, chia ra cất giữ ở bảy
nơi như Văn Uyên Các trong Tử Cấm Thành, Văn
Nguyên Các thuộc vườn Viên Minh, Văn Sóc Các thuộc Cố
Cung Phụng Thiên, Văn Tông Các thuộc chùa Kim Sơn ở
Trấn Giang v.v… Năm Càn Long 52 (1781), vua đọc bộ
này, phát hiện có những tác phẩm chê bai Thanh triều,
bèn ra lệnh tái thẩm tra Tứ Khố Toàn Thư, bỏ
đi 11 bộ sách trong ấy. Năm Gia Khánh thứ 8 (1803),
Kỷ Hiểu Lam lại vâng lệnh nhuận sắc, bổ
túc sai sót, tạo thành bản hoàn chỉnh. Khi liên quân Anh Pháp
tấn công Bắc Kinh năm 1860, vườn Viên Minh bị
đốt trụi. Loạn quân Thái B́nh Thiên Quốc lại
đốt cháy gác Văn Tông, Văn Hội ở Hoa
[61] Gương Tần: Tương truyền Tần Thủy Hoàng có một tấm gương báu có thể soi thấu ngũ tạng lục phủ của con người, biết rơ người ấy tà hay chánh. C̣n ngọc bích núi Kinh chỉ viên ngọc Biện Ḥa. Thời Chiến Quốc, Biện Ḥa t́m được tảng đá có ngọc từ Kinh Sơn, đem dâng cho vua, nhưng không ai tin tảng đá xù x́ ấy có ngọc. Vua cho là khinh quân, truyền chặt một chân. Vẫn cố dâng, bị chặt nốt chân kia. Biện Ḥa ôm tảng đá khóc ngoài đồng, có người thương t́nh tâu lên vua. Vua truyền phá đá, quả nhiên t́m được viên ngọc quư báu vô song. Tương truyền, viên ngọc này về sau được dùng làm ngọc tỷ (ấn ngọc) truyền quốc của Tần Thủy Hoàng.
[62] Hạ Môn (c̣n có tên là Lộ Đảo, thời Tống gọi là Gia Ḥa Dự), là một thành phố duyên hải thuộc miền Đông Nam tỉnh Phước Kiến, được h́nh thành từ năm 712, được coi là một thành phố trọng yếu của vùng Mân Nam.