Ấn Quang Pháp
Sư Văn Sao,
Quyển Thứ
Tư
(Phần 3)
11. Nêu tỏ
ư nghĩa ẩn tàng về hành trạng của Phùng B́nh Trai Nghi
Nhân[1]
Con
người sống trong thế gian dù thiện hay ác đều
phải có người phụ trợ th́ mới thành được
như vậy! Dẫu là bậc thánh bẩm sanh vẫn cần
phải có hiền mẫu, hiền thê phụ trợ cho
đạo đức của vị ấy, huống ǵ những
kẻ kém hơn ư? Do vậy, Thái Nhậm dạy con từ
lúc c̣n nằm trong thai (thai giáo) nên sanh ra Văn Vương
có thánh đức. V́ thế, kinh Thi khen ngợi [Văn
Vương] nêu gương đức hạnh từ vợ
cho đến anh em, [đức ấy] lan truyền ra cả
nước. Nhưng đấy mới chỉ là luận
theo phía Văn Vương, chứ nếu bàn về đức
của bà Thái Tự[2]
th́ cố nhiên đức ấy cũng phụ trợ cho
đạo của Văn Vương. Như hai ngọn
đèn chiếu lẫn nhau bèn càng thấy sáng sủa; hai tay
rửa lẫn nhau th́ mới được sạch sẽ.
Cứ xét theo câu trong bài thơ Tư Tề Thái Nhậm: “Thái Tự kế thừa danh tiếng
tốt đẹp”[3] th́ có thể
biết được [đức của các bà]. Do vậy,
mới nói: “Đời thiếu
hiền nhân là do cơi đời thiếu hiền mẫu và hiền
thê!” Ấy là v́ vợ có thể ngầm giúp chồng, mẹ
có thể dạy con cái từ lúc c̣n trong thai; huống chi mấy
năm đầu đời, hằng ngày ở bên mẹ,
thân cận tấm gương tốt lành, thường
được răn dạy, nên tánh t́nh bị chuyển biến
mà không biết không hay, có những điều chẳng mong mỏi
mà đạt được. Tôi thường nói: “Người nữ là cái gốc
của việc tề gia trị quốc”. Lại thường
nói: “Quyền trị quốc
b́nh thiên hạ, hàng nữ nhân chiếm quá nửa”, chính
là v́ ư này vậy.
Bởi lẽ
những kẻ thiên tư cao nếu được hiền
mẫu un đúc, hiền thê phụ trợ sẽ tự có
thể ư thành tâm chánh, làm sáng tỏ đức sáng, an trụ
nơi chí thiện. Nếu khốn khó th́ riêng thân ḿnh thiện,
nếu hiển đạt sẽ khiến cho thiên hạ
cùng thiện. Kẻ thiên tư b́nh thường th́ cũng
có thể tuân thủ quy củ, làm một người dân
lành giữ phận, quyết chẳng đến nỗi
vượt lư nghịch phận, làm quấy, làm gian, làm nhục
người sanh ra ḿnh, gây hại cho đời. Tiếc cho
người đời mơ màng, chẳng lấy chuyện
“trọn vẹn luân thường, tuân thủ bổn phận”
để dạy con gái. Nếu hằng ngày chỉ lo trau
chuốt, ngoài ra không nhắc tới chuyện ǵ khác, mai kia
làm vợ người ta, làm mẹ người ta, chẳng
những không thể giúp chồng dạy con trở thành thiện
sĩ, mà trái lại c̣n dạy con trở thành kẻ ác. Do vậy,
nói: “Chuyện dạy dỗ con
gái quan trọng hơn việc dạy con trai rất nhiều!”
Những lời tôi nói như “dạy
con gái là cái gốc để tề gia trị quốc”
và “quyền trị quốc b́nh
thiên hạ, nữ nhân chiếm hơn một nửa”
chính là lời chân thật vậy.
Gần đây, cái học
mở rộng, con gái đi học đa phần bị những
giáo viên chẳng biết dạy về cái gốc làm cho lầm
lạc. Do vậy, chẳng chú trọng “giữ vẹn luân thường, tuân thủ bổn
phận, giữ yên cửa nhà, giúp chồng dạy con”,
ai nấy đều muốn nắm chánh quyền, làm quan
to, suy tính vượt phận, tập thành thói cuồng vọng,
cũng là điều đáng cảm khái. Nếu như có bậc
trưởng dân cực lực đề xướng khiến
cho họ vun bồi trong gia đ́nh, ngơ hầu đạt
được hiệu quả của việc tu - tề -
trị - b́nh một cách không hay, không biết, trọn không dấu
vết th́ may mắn chi bằng? Do vậy, tôi có cảm xúc
rất sâu đối với hành trạng của bà Phùng Nghi
Nhân.
Nghi Nhân chính là người
vợ đức hạnh của cư sĩ Bao Bồi
Trai, bản tánh khác lạ, từ thuở nhỏ mẹ ít
phải nhọc công dạy dỗ, lúc chưa lập gia
đ́nh th́ hiếu thảo với cha mẹ, xuất giá rồi
bèn hiếu dưỡng bố mẹ chồng, lại c̣n hết
sức tin tưởng Phật pháp, tu tŕ nghiêm cẩn. Thoạt
đầu, ông Bao chẳng cho như vậy là đúng,
nhưng lâu ngày cũng bị cảm hóa bèn ăn chay trường
niệm Phật, v́ ông Bao tư chất thông minh, đặc
biệt thấu đạt, lại hằng ngày ở chung với
Nghi Nhân là người cung cách đoan trang, thầm lặng,
giữ bổn phận, trọn vẹn luân thường. Tánh
bà cảm động được người, cho nên ngấm
ngầm cảm hóa được người mà chẳng
hay chẳng biết. Ông Bao là bậc quân tử minh triết,
tánh trong sạch như nước. Lúc ông làm quan, mỗi khi
có thu nhập ǵ, nếu không biết rơ lai lịch, bà vẫn
sợ có chỗ lầm lẫn nhân quả, bèn nghiêm sắc
mặt khuyên răn, tra hỏi tường tận nguồn
gốc để khỏi phụ ḷng mới thôi. Bà lại
thường khuyên con đừng tham dự vào chánh trường,
nhưng vẫn sợ con có khi khó tránh khỏi, nên lại bảo:
“Tiền trong chốn chánh
trường th́ chỉ có lương bổng trả cho công
việc hằng ngày là được nhận. Ngoài ra, đều
là tiền trái phận, rốt cuộc cũng phải đền
trả, chẳng thể không thận trọng!”
Gương thơm thờ
cha mẹ, giúp chồng, trông nom gia đ́nh, dạy con, và những
hành vi tốt lành như kiêng giết, phóng sanh, giúp đỡ
người bị tai nạn, khốn khó, tận lực
sám trừ túc nghiệp, dốc sức tu Tịnh nghiệp
[của Nghi Nhân] đều đáng làm gương cho đời.
Thậm chí trước khi mạng chung ba ngày, bà c̣n thiết
tha dặn ḍ đừng làm đám tang ŕnh rang, bảo con
dùng quan tài xấu, vải thô, bởi lẽ cái chân thật
đă đi mất rồi, há nên phí phạm tiền bạc
cho cái thân huyễn vọng này, trái nghịch cả trời
lẫn vật ư? Huống chi, xét về nguồn gốc
th́ tơ, lụa đều do giết chóc mà có, dùng những
thứ ấy để tống táng càng tăng thêm tội
nghiệp, rất trái nghịch với đạo thân ái vậy!
Một hai ngày trước khi lâm chung, bà thị hiện các
sự đau khổ, dường như cảm thấy khó
kham được nổi, nhưng vừa được
thấy quang minh của Phật bèn kết ấn qua đời.
Ấy là v́ túc căn sâu dầy, hạnh trong đời này
thuần thục. Lại được ông Bao hiểu sâu ư
nghĩa trọng yếu, bèn bảo người nhà cùng trợ
niệm, hoàn toàn chẳng nhắc đến những chuyện
quyết biệt (giă biệt măi măi), mà cũng chẳng để
lộ nỗi thương tâm, đau khổ chút nào. Lại
thỉnh những bạn gái thông hiểu pháp thường
đến khai thị cho bà. Sáu vị tỳ-kheo trợ niệm
liên tục, cho đến ngày hôm sau mới nhập liệm,
chẳng hề khóc lóc, khiến cho thần thức [người
chết] chẳng nẩy sanh ái luyến, được toại
nguyện văng sanh. Như vậy, có thể nói là ông Bao đă
thành tựu tịnh nghiệp đến cùng cực cho Nghi
Nhân vậy.
Kinh Pháp Hoa dạy: “Thiện tri thức là đại
nhân duyên, là v́ họ chỉ dạy [ta] khiến cho [ta] thấy
được Phật”. Nghi Nhân cố nhiên là thiện
tri thức của ông Bao, mà ông Bao cũng là thiện tri thức
của Nghi Nhân. Có thể nói rằng thiện gặp
được thiện, cùng được lợi ích rành
rành. Như Nghi Nhân đáng coi là bậc thầy cho nữ giới
trong đời này, việc trợ niệm lúc lâm chung và những
hành động của ông Bao đáng làm gương tốt
lành cho người nhà cũng như con cháu của những
ai tu Tịnh nghiệp. V́ thế, tôi nêu bày ra để
khuyên lơn những ai yêu thương người thân, chứ
không chép đầy đủ chi tiết về những sự
thật khác.
12. Nêu tỏ
ư nghĩa ẩn kín của tác phẩm Khang Mẫu Văng Sanh Kỷ
Niệm San (viết
thay cho Khang Kư Dao)
Ân cha mẹ
dù trọn đời cũng không thể báo được.
Hiếu là đạo lớn lao không ǵ ở ngoài nó
được. Đại giáo của Như Lai lấy hiếu
làm gốc. Bồ Tát thấy các chúng sanh trong lục đạo
đều là cha mẹ quá khứ, là chư Phật trong vị
lai. V́ thế, ngài Địa Tạng có lời nguyện: “Độ hết chúng sanh mới
chứng Bồ Đề, địa ngục chưa trống
thề chẳng thành Phật”. Phạm Vơng Giới Kinh
coi hiếu thuận là pháp đạt đạo tột bậc,
không những dạy phải hiếu thuận với phụ
mẫu, sư tăng, Tam Bảo mà c̣n dạy đối với
hết thảy chúng sanh phải sanh tâm từ bi, tâm hiếu
thuận, dùng phương tiện cứu giúp, che chở,
kiêng giết, phóng sanh, v́ hết thảy chúng sanh đều
là cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc của ta
trong quá khứ. Do vậy, nói: Đạo Hiếu của Phật
giáo trước là thấu đến vô thủy, sau là đến
tột cùng vị lai, không ǵ chẳng bao gồm trọn vẹn.
V́ thế, ngài Liên Tŕ nói: “Cha mẹ
được ĺa trần cấu th́ đạo của con
mới thành tựu”.
Những kẻ cậy
vào đạo hiếu chăm sóc phụng dưỡng trong
đời này để bài báng Phật pháp bất hiếu
chính là chấp nhặt khư khư vào kiến giải “ếch
ngồi đáy giếng” của chính ḿnh cho nên mới
đưa ra lời bàn luận mù quáng của kẻ chưa
từng thấy được biển cả ấy. Phận
làm con cố nhiên phải tỏ bày đức của cha mẹ,
biểu lộ bằng cách chú trọng nơi tận tụy
thực hành, cho nên phải khắc kỷ giữ lễ, dứt
ḷng tà, giữ ḷng thành, biết lỗi phải sửa, thấy
điều nghĩa ắt làm, hiểu nhân biết quả, kiêng
giết, phóng sanh, chớ làm các điều ác, vâng làm những
điều lành, sanh tín phát nguyện tŕ danh hiệu Phật,
tự hành dạy người cùng sanh Tịnh Độ.
Làm được như thế, dù người ta chẳng
biết đến đức của cha mẹ người
ấy, nhưng do kính ngưỡng đức của người
ấy cũng sẽ ngưỡng mộ đức của
tổ tông, cha mẹ người ấy, cho là đă ngầm
tu từ lâu cho nên mới có được người nối
dơi như thế. Nếu không, dù tổ tông, cha mẹ có
đức tốt đẹp ai nấy đều biết,
nhưng v́ con cái bất tiếu[4], ắt
người ta sẽ ngờ: Cha mẹ, tổ tông kẻ
đó dẫu có đức cao đẹp, nhưng chắc
là vẫn có chuyện ác ngấm ngầm. Nếu không, trong
nhà đức hạnh tốt đẹp ấy sao lại nẩy
sanh ra thứ con cháu bất tiếu như thế đó?
Do vậy, biết rằng:
Lập thân, hành đạo chính là nêu tỏ đức của
cha mẹ, tổ tông. Phận làm con phải chú trọng ḷng
kính, cẩn thận dè dặt, tận lực thực hành
như thế nào để khỏi nhục lây người
sanh ra ḿnh, c̣n như những chuyện điếu văn, bài
minh [ca tụng] của danh nhân đều là chuyện đằng
ngọn. Đức của mẹ ông Khang có thể thấy
đầy đủ qua điếu văn, qua những bài
minh, cho nên tôi chẳng mất công nhắc lại. Tôi chỉ
muốn nói đến chuyện ông Khang do tâm hiếu thuận,
khéo giữ ǵn di thể[5] của
cha mẹ, chẳng để cho một lời nào, một
hành vi nào, hoặc khởi tâm động niệm có chút nào trái
nghịch chánh lư, đánh mất đạo hiếu! Lời
lẽ tuy tợ hồ chung chung không sâu sát, nhưng nó thật
sự chính là đạo “gốc chánh nguồn trong” của
cả Nho lẫn Thích. Nếu ông Khang và những người
đọc cuốn sách này ai nấy đều càng thêm gắng
sức th́ thiên hạ, quốc gia may mắn lắm thay, chứ
nào phải riêng ḿnh Khang mẫu được vẻ vang!
13. Nêu tỏ
ư nghĩa ẩn kín của tác phẩm Giang Mẫu Quách Thái
Phu Nhân Tây Quy Sự Lược
Khổng
Tử nói: “Tánh th́ gần giống
nhau, nhưng do dạy dỗ, đào luyện mà thành ra khác
nhau[6]”. Lại nói: “Chỉ có bậc thượng
trí và kẻ hạ ngu là không thay đổi”. Mạnh Tử
tuy hiền nhưng vẫn phải thuận theo thế tục,
nương theo sự giáo huấn mà thay đổi. Bậc
thượng trí, kẻ hạ ngu hiếm lắm, bao nhiêu
chúng sanh do tập theo thói lành mà thành lành, tập theo thói ác
bèn thành ác, những người chẳng bị thiện ác
lay động chỉ là một hai phần trong trăm ngàn
vạn ức phần! Cư sĩ Giang Vị Nông đoan
trang, khiêm tốn, có phong cách của cổ nhân, tu tŕ thành khẩn
nghiêm mật, chỉ mong được lợi ích thật
sự, hoàn toàn không có những tập khí đàm huyền
thuyết diệu, ham cao chuộng xa. Quang tuy khâm phục,
kính nể ông Giang thiên tánh thuần hậu, chuyên dốc,
nhưng vẫn đoán trong gia đ́nh ông sự un đúc ắt
phải có chỗ thật vượt trội mọi
người. Đến khi trông thấy những sự thực
đại lược về việc quy Tây của phu nhân mới
biết tư cách của cư sĩ chịu ảnh hưởng
rất sâu từ mẹ. Do vậy, biết rằng: Đời
phải có hiền mẫu th́ mới có hiền nhân!
Những vị thánh mẫu
thời xưa dạy con từ thuở c̣n trong thai, bởi
lẽ un đúc từ lúc mới bẩm thụ thể chất
mới mong tập quen thành tánh. Thế gian dùng chữ Thái
Thái để gọi nữ nhân là v́ ba vị thánh nữ
Thái Khương, Thái Nhậm, Thái Tự, vị nào cũng
giúp chồng dạy con, mở ra vương nghiệp tám
trăm năm [của nhà Châu], cho nên người ta mới
dùng chữ Thái Thái để xưng tụng nữ nhân.
Quang thường nói: “Quyền
trị quốc b́nh thiên hạ, nữ nhân chiếm quá nửa”.
Lại thường nói: “Dạy
dỗ con gái chính là cái gốc để tề gia trị quốc
b́nh thiên hạ”, đấy là nhằm khuyên dạy trọn
hết đạo làm vợ, giúp chồng dạy con mà nói như
thế. Chẳng giống như nữ giới ngày nay, đa
phần chẳng giữ bổn phận, vọng động
muốn nắm lấy chánh quyền, làm đại sự,
chẳng biết vun bồi từ gia đ́nh. Đấy
chính là “gồm thâu sắt của
khắp chín châu muôn nước cũng chẳng thể
đúc được một mối lầm lỗi lớn
lao ấy”. Do vậy, thế đạo nhân tâm ngày càng
đi xuống; thiên tai nhân họa cứ thấy xảy ra
liên tiếp. Tuy là do chúng sanh đồng phận ác nghiệp
chiêu cảm, nhưng thật ra chính là v́ trong gia đ́nh
đánh mất sự giáo dục mà nên nỗi!
Cho nên những kẻ
có thiên tư quen thói cuồng vọng, những kẻ không
có thiên tư trở thành người dân ương ngạnh.
Nếu như ai nấy đều được mẹ hiền
uốn nắn th́ người người đều có thể
trở thành thiện sĩ, hễ túng quẫn th́ riêng một
ḿnh ta thiện, lúc hiển đạt th́ khiến cho người
khác đều cùng được thiện, đâu đến
nỗi trên không có đạo để hướng dẫn,
dưới chẳng có pháp tắc để tuân thủ, tệ
hại, khinh nhờn trăm mối nẩy sanh, dân không lẽ
sống! Cao đẹp thay bà mẹ ông Giang! Thoạt đầu
dùng việc hiếu dưỡng bố mẹ chồng, dạy
dỗ nghiêm nhặt, tụng kinh, niệm Phật để
giáo hóa con. Cư sĩ Vị Nông lại càng mở rộng
lời mẹ giáo huấn, chuyên tinh nghiên cứu Phật học,
đem lợi ích của Tịnh Độ khuyên dụ mẹ
từ trước. Đến khi mẹ lâm chung, lại trợ
niệm nhiều cách ḥng mẹ được nương
vào Phật từ lực văng sanh Tây Phương. Có thể
nói là người dốc ḷng thờ mẹ, hoàn toàn chẳng
có ǵ phải tiếc nuối!
Nhưng ông vẫn
chưa thấy thế là đủ, lại muốn cho những
người con hiếu cháu từ trong cơi đời đều
dùng đạo này để thành tựu cho cha mẹ. Hễ
cha mẹ c̣n sống th́ uyển chuyển khuyên dụ khiến
cho họ đừng làm các điều ác, vâng làm các điều
lành, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây
Phương. Cha mẹ đă mất th́ tận ḷng thành, cạn
ḷng kính nhất tâm niệm Phật, để cầu cho cha
mẹ được cao thăng phẩm sen, mau chứng Vô
Sanh mới thôi! Đấy chính là ư nghĩa ẩn kín của
tác phẩm Tây Quy Sự Lược, cho nên tôi mới đặc
biệt nêu rơ ra.
14. Sự
tích văng sanh của ưu-bà-di Trần Liễu Thường
và nêu tỏ ư nghĩa ẩn kín của Phật Tánh
Hết thảy chúng sanh đều
có Phật tánh, nhưng Phật và chúng sanh tâm hạnh, thọ
dụng, tuyệt chẳng giống nhau, v́ sao thế? Do Phật
th́ trái trần hiệp giác, c̣n chúng sanh th́ trái giác hiệp trần.
Phật tánh tuy đồng, nhưng mê -ngộ thật khác,
cho nên sướng - khổ, thăng - trầm khác biệt một
trời một vực. Nếu có thể suy xét kỹ
nghĩa lư “tam nhân Phật tánh”
th́ không mối nghi nào chẳng phá, không ai chẳng muốn
tu tập. Tam nhân chính là chánh nhân, liễu nhân và duyên nhân.
1) Chánh
nhân Phật tánh chính là diệu tánh sẵn có ngay nơi cái
tâm của chúng ta, là Pháp Thân chân thường được
chứng bởi chư Phật. Đây chính là cái “tại phàm chẳng giảm,
nơi thánh không tăng, ở trong sanh tử chẳng nhiễm,
ngự Niết Bàn chẳng tịnh”. Chúng sanh triệt
để mê trái, nhưng chư Phật rốt ráo viên chứng.
Mê - chứng tuy khác, tánh thường b́nh đẳng.
2) Liễu
nhân Phật tánh chính là Chánh Trí được phát sanh bởi
chánh nhân Phật tánh; do từ tri thức hoặc từ kinh
giáo được nghe đến nghĩa lư chánh nhân Phật
tánh bèn liễu ngộ. Biết do nhất niệm vô minh
chướng lấp nguồn tâm, cho nên chẳng biết bản
thể của cảnh giới lục trần vốn không,
tưởng là thật có, bèn khởi tham - sân - si, tạo giết
- trộm - dâm. Do Hoặc tạo nghiệp, do nghiệp chịu
khổ, đâm ra làm cho chánh nhân Phật tánh biến thành cái
gốc để khởi Hoặc tạo nghiệp chịu
khổ. Từ đấy liễu ngộ, bèn muốn bỏ
vọng theo chân, ngơ hầu khôi phục bản tánh.
3) Duyên
nhân Phật tánh: Duyên là trợ duyên. Đă liễu ngộ
th́ cần phải tu tập đủ mọi thiện pháp
ḥng tiêu trừ Hoặc nghiệp, tăng trưởng
phước huệ, khiến cho đích thân chứng
được rốt ráo cái lư sẵn có mà ḿnh đă ngộ
mới thôi!
Xin dùng
thí dụ để làm sáng tỏ. Chánh nhân Phật tánh giống
như vàng trong quặng, như lửa ẩn trong gỗ,
như ánh sáng từ nơi gương, như mầm nằm
trong hạt ngũ cốc, tuy sẵn có, nhưng nếu chẳng
hiểu rơ và trải qua những duyên như chưng luyện,
xoi dùi, giồi mài, vun trồng, mưa thấm ướt
v.v… th́ chất vàng, lửa, ánh sáng, mầm… vĩnh viễn
chẳng có ngày phát sanh. Do vậy, biết: Tuy có chánh nhân
nhưng nếu không có duyên để hoàn thành th́ chẳng thể
thọ dụng được. Do vậy, đức Phật
thấy hết thảy chúng sanh đều là Phật, muốn
khiến cho họ được giải thoát. Chúng sanh do
chẳng liễu ngộ nên chẳng chịu tu tập thiện
pháp, đến nỗi luân hồi sanh tử bao kiếp dài
lâu chẳng thể thoát ra được! Do vậy, đức
Như Lai rộng bày phương tiện tùy cơ chỉ dạy,
dắt d́u ngơ hầu chúng sanh bỏ vọng theo chân, trái trần
hiệp giác.
Pháp môn tuy nhiều,
nhưng ba môn Giới - Định - Huệ bao trọn không
sót. V́ thế, kinh Lăng Nghiêm chép: “Nhiếp tâm là Giới, nhân Giới sanh Định,
nhân Định phát Huệ. Đấy gọi là Tam Vô Lậu
Học”. Nhưng trong ba thứ này, Giới là quan trọng
nhất; bởi lẽ giữ được Giới th́
không làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, hạnh
gần với Phật, ắt tâm chẳng cách xa Phật cho
lắm. Do đó, trong kinh Phạm Vơng, đức Như Lai
bảo đảm cho chúng sanh như sau: “Ta là Phật đă thành, các ông là Phật chưa thành.
Nếu tin được như vậy th́ giới phẩm
đă đầy đủ”. Lại nói: “Chúng sanh nhận lănh giới của Phật liền
nhập vào địa vị Phật, địa vị giống
với bậc Đại Giác, thật sự là con chư Phật”.
Do vậy, pháp Tŕ Giới chính là đạo quan trọng bậc
nhất để siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử.
Nếu như chúng sanh chẳng đầy đủ Phật
tánh, dẫu tu tập đủ mọi thiện pháp,
cũng chẳng có lẽ nào thành Phật được!
Như đá không chứa vàng, băng không có lửa, ngói chẳng
có ánh sáng, cát chẳng có mầm, dù có các duyên chưng luyện,
xoi dùi, giồi mài, gieo trồng, mưa tưới v.v… tuy trải
qua bao kiếp, mỗi thứ ấy vẫn chẳng thể
sanh ra vàng, lửa, ánh sáng, mầm mộng v.v… Nếu biết
nghĩa này, ai lại chịu dùng cái tánh sẵn có Bồ
Đề, Niết Bàn, để lầm lạc tạo phiền
năo sanh tử, nhường cho chư Phật và thánh nhân Tam Thừa
riêng hưởng sự vui chân thường, c̣n tự ḿnh
cam chịu nỗi khổ huyễn vọng nữa ư! Nhưng
nếu ước theo cách dạy dỗ thông thường
th́ ở địa vị phàm phu muốn liễu sanh tử
thật chẳng phải là chuyện dễ dàng! Nếu
ước theo pháp môn đặc biệt “tín nguyện niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ” th́ ngay trong một
đời này đều được liễu thoát. Nếu
thật sự đầy đủ ḷng tin chân thành, nguyện
thiết tha th́ trong vạn người chắc chắn chẳng
sót một ai. Chúng sanh đời Mạt chỉ có thể
nương tựa vào một pháp này. Do đó, pháp vận càng
về cuối th́ pháp này càng thích hợp căn cơ, thiện
tri thức đề xướng càng khẩn thiết, những
chứng nghiệm do chân thật tu tŕ bèn được
văng sanh đôi khi vẫn thấy.
Ưu-bà-di Liễu
Thường là vợ kế của cư sĩ Liễu
Viên Trần Tích Châu ở huyện Vô Vi tỉnh An Huy, họ
Hồ, bẩm tánh từ thiện, dốc ḷng tin tưởng
Phật pháp. Thoạt đầu, Tích Châu không biết Phật
pháp, người con trưởng là Thiên Thọ khá thông minh,
mất năm mười bốn tuổi. Ông cho rằng
ḿnh suy nghĩ, xử sự không có lầm lỗi ǵ lớn
lao, sao lại bị như thế này, bèn đối với
sự nhân quả báo ứng, sanh tử, luân hồi, nhất
loạt cho là không có. Phu nhân biết chẳng thể phá
được kiến chấp ấy, bèn thầm lặng
tu tŕ, chẳng để cho ông ta biết. Không lâu sau, phu
nhân có thai, lúc sắp đến kỳ sanh nở, chợt mắc
bệnh nặng. Trong hai mươi chín ngày không thể nói
năng, ăn uống, trở ḿnh được, thân nóng
như lửa, ḿnh gầy như que củi. Danh y bó tay, không
c̣n hy vọng sống c̣n nào! Một tối, bà mộng thấy
một bà lăo cầm một cành sen dài, bảo: “Ngươi do túc nghiệp nên mắc
phải ác bệnh này, may là có thiện căn, cho nên ta từ
Tích Châu quy y với
Quang, pháp danh là Liễu Viên, phu nhân gởi thư xin quy y,
nhân đó bèn đặt pháp danh là Liễu Thường.
Năm Dân Quốc thứ chín (1920), vợ chồng con cái cả
thảy năm người cùng thọ Bồ Tát Giới tại
chùa Pháp Nguyên ở Bắc Kinh. Mùa Xuân năm ngoái, phu nhân muốn
đến Phổ Đà gặp Quang, nhân đó bèn triều
bái Cửu Hoa Sơn trước. Trở về đất
Hỗ (Thượng Hải) nhằm đúng lúc chiến cuộc
ở Phụng Thiên - Trực Lệ nổ ra nên chẳng thể
đi được, thường lấy chuyện đó
làm điều tiếc nuối. Quang an ủi: “Chí tâm niệm Phật th́ ngày ngày
được cùng Phật Di Đà và thánh chúng gặp gỡ,
sao lại tiếc nuối v́ không gặp được ông
Tăng tầm thường chỉ biết cơm cháo này?” Do
gặp phải cơn kinh sợ sâu xa nên thân thể gầy
yếu, lâu ngày chẳng hồi phục được. Tích
Châu xin Quang khai thị, Quang dạy hăy nghĩ lùi bước,
hăy tưởng như đă chết, nên lại được
lành mạnh.
Mùa Xuân năm nay, lại
mắc bệnh suy nhược, chẳng thiết ăn uống.
Ngày Hai Mươi Tám tháng Hai đang trong lúc niệm Phật
thấy hai đồng tử cầm lá phan dài, trên đề
bốn chữ “Tây Phương
tiếp dẫn”, bà bảo Tích Châu rằng: “Đối với tôi đây là
điềm rất may, c̣n đối với ông th́ không may,
bởi tôi đă về Tây rồi th́ trong nhà không ai chăm
sóc; nhưng người niệm Phật chẳng tham sống,
chẳng sợ chết!” Nhân đó thỉnh bốn vị
Tăng tụng kinh lễ sám niệm Phật suốt hai
mươi tám ngày để cầu nguyện hễ tuổi
thọ chưa hết th́ chóng lành, thọ đă hết sẽ
mau sanh Tây Phương. Từ đó, thân tâm vui sướng,
trọn không bệnh khổ. Đến đầu tháng
Tư, lại cảm thấy không thoải mái, biết kỳ
hạn về Tây đă đến, bèn nhất tâm niệm Phật
để cầu mau được sanh. Ngày mồng
Năm, cả nhà đều niệm Phật. Lại thỉnh
sư tăng thay phiên nhau niệm liên tục, ngày đêm tiếng
niệm Phật không ngớt, phu nhân chỉ thầm niệm
theo. Đến trước Ngọ ngày mùng Sáu, liền bảo
người nhà chuẩn bị đồ tắm rửa. Tắm
xong, mặc áo sạch, đến Phật đường
lễ bái, dâng cúng hương hoa. Trở về bèn sai dời
giường hướng về Tây, nằm nghiêng bên hông, chỉ
chuyên niệm Phật, hoàn toàn chẳng nhắc đến
chuyện quyết biệt. Đến giờ Hợi, thấy
Phật hiện đến, bà muốn ngồi dậy lễ
bái, do vậy [người nhà] bèn đỡ ngồi lên. Bà chắp
tay, cúi đầu, nói: “C̣n ba
ngàn câu niệm Phật nữa, niệm xong sẽ đi”.
Toàn gia cùng Tăng - tục hơn ba mươi người
đều lớn tiếng niệm. Phu nhân bèn lớn tiếng
niệm Phật qua đời, mặt lộ vẻ mỉm
cười, trong nhà thoảng mùi hương lạ. Cả
nhà đều chẳng lộ vẻ bi ai, lại niệm Phật
hai tiếng nữa rồi mới sắp đặt [ma
chay]. Ngày hôm sau, khâm liệm vào giờ Ngọ, đảnh
đầu vẫn c̣n nóng ấm[7], tứ
chi mềm mại, mùi thơm vẫn c̣n.
Ôi! Có thể nói là phu
nhân xưa đă có thiện căn, đời này gặp thiện
duyên, chẳng bị t́nh yêu thương thế gian trong
đời hiện tại phá hoại chánh niệm, chỉ
cậy vào tiếng niệm Phật của nhiều người
để thành tựu tịnh tâm. V́ thế, được
cảm ứng đạo giao nhờ Phật tiếp dẫn,
ĺa khỏi cơi khổ này, lên Lạc Bang kia, may mắn chi bằng?
Một cửa ải lâm chung thật là khẩn yếu.
Đời có kẻ ngu trong lúc cha mẹ, quyến thuộc lâm
chung, bèn bi thương, đau đớn, khóc lóc, tắm rửa,
thay áo, chỉ cốt sao đẹp mắt người
đời, chẳng tính kể đến chuyện gây hại
cho người chết. Người không niệm Phật
th́ không nói làm chi, chứ người mang chí hướng khẩn
thiết văng sanh, lúc lâm chung gặp phải hạng quyến
thuộc này đa phần đều bị phá hoại chánh
niệm, vẫn phải ở lại thế giới này.
Trợ niệm lúc lâm
chung ví như kẻ yếu đuối trèo núi, sức ḿnh
chẳng đủ, may có sức của người đằng
trước lôi, người đằng sau đẩy,
người hai bên nâng đỡ nên bèn có thể lên đến
được đỉnh cao chót vót. Lâm chung chánh niệm rỡ
ràng bị phá hoại [bởi những chuyện như] t́nh
yêu thương của quyến thuộc, dời đổi
chỗ v.v… Ví như dũng sĩ trèo núi, sức ḿnh sung măn,
nhưng thân hữu, người quen biết đều
đem những vật của họ giao cho đội vác.
Đội vác quá nhiều nên sức kiệt, thân nhọc,
nh́n vách núi lùi bước. Lẽ được - mất
này tuy do người khác gây ra, nhưng thật ra cũng do
nghiệp lực thiện - ác của chính ḿnh từ trong kiếp
trước đă thành toàn hay phá hoại người khác mà
ra. Phàm những người tu Tịnh nghiệp hăy nên thành
toàn chánh niệm cho người khác và bảo cho quyến
thuộc biết sẵn về lẽ lợi - hại, khiến
cho ai nấy đều biết quan trọng ở chỗ
thần thức sẽ đạt được, chứ
chẳng phải ở chỗ dễ coi thuộc về
phương diện t́nh cảm thế gian, để khỏi
phải lo lắng nữa! Do nhận được tin báo
tang, tôi liền nêu ra ư nghĩa ẩn kín của Phật tánh
và việc trợ niệm cũng như thuật đại
lược hành trạng của phu nhân để mong sao
người tu Tịnh nghiệp biết rồi sẽ bắt
chước theo.
15. Nêu tỏ
ư nghĩa ẩn tàng của Đại Từ Bi Thất
Đại
Từ Bi Thất chính là pḥng ngủ của Châu Phu Nhân mẹ
ông Vương. Châu phu nhân mẹ ông Vương chính là
người vợ đức hạnh của Sơn Âm Xử
Sĩ Vương Sở Thần ở Chiết Giang, là mẹ
đẻ của hai cư sĩ Tâm Tam và Vi Nghiễm. Phàm
Đại Từ Bi chính là nhà của Như Lai, sao phu nhân lại
trộm lấy tên này? Trong hội Pháp Hoa, đức Như
Lai dạy những thiện nam tử, thiện nữ nhân
hoằng kinh phải vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi
ṭa Như Lai, rồi giải thích: “Nhà của Như Lai là tâm đại từ bi đối
với hết thảy chúng sanh. Áo Như Lai là tâm nhu ḥa, nhẫn
nhục. Ṭa của Như Lai là hết thảy pháp không”.
Lại [nói bài] tụng rằng: “Đại
từ bi là nhà, áo nhu ḥa nhẫn nhục, các pháp Không làm ṭa. Ở
nơi ấy thuyết pháp”. Hễ đă vào nhà ấy, chắc
chắn không lẽ nào chẳng mặc áo, ngồi ṭa. Phu
nhân đă lấy “Đại Từ Bi” để đặt
tên cho thất th́ ba pháp hoằng kinh ấy có thật sự
tồn tại hay chăng?
Đáp: Nghĩa này nên
dùng thuyết Lục Tức để luận. Nếu luận
về viên chứng rốt ráo th́ chỉ có ḿnh đức Phật.
Nếu luận về Lư Tức [Phật] th́ hết thảy
chúng sanh không ai tâm chẳng sẵn đủ. Phu nhân do Danh Tự
mà khởi Quán Hạnh để cầu chứng nhập
Tương Tự, Phần Chứng. Xin tŕnh bày đại
lược! Phu nhân năm hai mươi sáu tuổi mới
về với ông Vương. Nhà ông Vương khá giàu có, dốc
ḷng tin tưởng Phật pháp, tánh ưa bố thí, đă một
ḿnh dựng một ngôi miếu hai chái để thờ Quán
Thế Âm và thần Thiên Y, ấy là v́ muốn cho Đại
Sĩ tầm thanh cứu khổ, Thiên Y ngầm tiêu các bệnh
vậy. Hằng năm lại c̣n thường thí trà, thí thuốc,
thí đèn, thí áo; đối với mỗi chuyện phóng
sanh, tiếc chữ[8],
đều lập hội để đề xướng.
Trong họ hàng, nhờ vào ông để nổi lửa [nấu
cơm hằng ngày] mười mấy nhà, tiền chi phí cho
con em trong họ đi học rất nhiều. V́ thế,
gia đạo nghèo đi. Chuyện này tuy do ông Vương
thực hiện, nhưng thật ra là do phu nhân ngầm giúp
cho thành tựu. Nếu phu nhân không có tâm đại từ
bi, tâm nhu ḥa nhẫn nhục, và chẳng biết thật
nghĩa của “hết thảy
các pháp không” ắt sẽ sớm tŕ kéo, ngăn trở. Nếu
không th́ cũng sẽ liều mạng tranh giành, há để
cho gia đạo rốt cuộc nghèo đi, nửa đời
phải sống trong nghèo hèn, cùng quẫn ư?
Lại nữa, phu nhân
sau khi đă về nhà chồng liền ăn chay, vĩnh viễn
dứt bỏ thức ăn tanh hôi (đồ mặn). Phàm
những thứ như dầu mè, trái cây có mùi thơm v.v…
cũng không ăn, chỉ uống nước trắng, chỉ
mặc áo vải thô, những thứ lụa là, áo cừu, vải
the, son, phấn, trâm, xuyến đều bỏ hết. Ngày
th́ dệt cửi, khâu vá, đêm th́ lễ Phật, tụng
kinh, suốt năm chẳng ra khỏi cửa, trầm mặc,
ít nói. Thân thích đến chơi, thăm hỏi xong, liền
bàn về sự lư nhân quả báo ứng. Thờ bố mẹ
chồng trọn hiếu, giúp đỡ chồng vẹn
đức, dạy con đúng cách. Thế gian lấy
[gương các bà] Thái Khương, Thái Nhậm, Thái Tự
để khen ngợi nữ nhân nên gọi [nữ nhân] là
Thái Thái, đa phần đáng thẹn; c̣n như phu nhân th́
chẳng thẹn với danh xưng ấy!
Sau mười lăm
năm, ông Vương mất, Tâm Tam và Vi Nghiễm đều
c̣n bé, phu nhân trên thờ mẹ già, dưới nuôi con
thơ, trải đủ nỗi gian nan, cay đắng
dường như quên bẵng xưa kia ḿnh giàu có. Đến
khi con đến tuổi theo học, bà liền bán sạch
quần áo, trang sức [đă mang về nhà chồng] lúc vu
quy để lo tiền học cho con. Bà giạm hỏi Lâu
Thị cho Tâm Tam, chưa cưới th́ [Lâu Thị] đă bị
mù, thân tộc đều khuyên nên thoái hôn, phu nhân tuyệt chẳng
nghe. Cưới xong, bà dặn ḍ Tâm Tam phải khéo chăm
sóc, không được ruồng rẫy. Phu nhân thoạt
đầu mỗi ngày tụng thầm Tâm Kinh số biến
nhất định; sau khi ở góa bèn nhất tâm niệm
Phật để cầu thoát khỏi Sa Bà, sanh về Cực
Lạc.
Năm Tuyên Thống
nguyên niên (1909), bà đă 60 tuổi, giữa tháng Ba, mẹ chồng
mất; phu nhân đích thân lo liệu tống táng, nhọc nhằn,
buồn thương thành bệnh. Qua bốn mươi
ngày, h́nh dung khô gầy, nhưng thần khí cực sáng suốt.
Hai ngày trước khi lâm chung, dặn ḍ Tâm Tam và Vi Nghiễm
chuẩn bị áo tang, quan tài, nói: “Sau trưa mai ta sẽ
đi”, nhân đó, răn con: “Mong các con hăy tấn đức
tu nghiệp, gắng làm người hoàn toàn. Trang Tử nói:
‘Buồn không ǵ lớn bằng
cơi ḷng đă chết’[9]. Các con hăy hiểu
ư ấy th́ tâm ta mới yên”. B́nh thường khi niệm Phật
phu nhân đều thầm niệm. Đến lúc này, trông bà
hết sức an nhiên, thư thái. Tâm Tam hỏi mẹ thấy
ǵ, bà bảo: “Đừng quấy rối chánh niệm của
ta”, dặn con thắp đèn lồng trước cửa thất,
rồi ngồi yên qua đời. Mất rồi, hai tay vẫn
mềm mại như khi c̣n sống.
Ôi! B́nh thời chí nguyện
như thế đó, lâm chung an tịnh như thế này,
được văng sanh Tây Phương là điều có thể
đoan chắc. Quán Kinh lấy “hiếu dưỡng cha mẹ,
phụng sự sư trưởng, từ tâm không giết,
tu mười thiện nghiệp và thọ tŕ Tam Quy, đầy
đủ các giới, chẳng phạm oai nghi và phát Bồ
Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại
Thừa, khuyến tấn hành giả” làm chánh nhân của
Tịnh nghiệp. Trong mười một việc này, hành
được một việc, dùng tín nguyện sâu, hồi
hướng văng sanh đều được như nguyện. Huống chi hơn ba
mươi năm, phu nhân khắc khổ tinh ṛng tu tập,
vĩnh viễn dứt được thói quen của nữ
giới, tận lực giữ khuôn phép khuê các, hai
mươi năm qua nhất tâm niệm Phật, chán nhàm
Ngũ Trược sâu xa, mong sanh về Liên Bang. Lúc lâm chung
con hỏi c̣n sợ bị nhiễu loạn, chẳng được
sanh về Tịnh Độ th́ sẽ phải sanh về nơi
đâu!
Nếu như phu nhân chẳng
biết hết thảy pháp đều không, chẳng có ḷng
nhu ḥa, nhẫn nhục và tâm đại từ bi th́ lúc mới
vu quy, ắt sẽ hằng ngày chăm chút trang điểm,
chỉ chuyên chú ăn ngon, mặc đẹp, há chịu
cơm rau, áo vải, cam chịu đạm bạc giống
như một vị lăo đầu-đà trong chốn núi sâu
ư? Như bà hành thí xả đến nỗi nhà cửa sa
sút chẳng hối hận th́ vẫn chưa phải là khó, giạm
hỏi phải dâu mù mọi người đều khuyên
thoái hôn vẫn kiên quyết không nghe, lại càng
thương xót. Đấy đều là những chỗ hé
lộ ḷng đại từ bi, nhu ḥa, nhẫn nhục. Ai nấy
đều cho đó là khó khăn, nhưng phu nhân trọn chẳng
nghĩ là khó v́ đă biết hết thảy pháp không. Nếu
không, những tướng nhân - ngă chẹn ngang trong ngực,
quyết chẳng thể coi người khác như chính
ḿnh, coi phú quư như phù vân, vui giữ phận nghèo, lấy
pháp làm niềm vui. Đến lúc cuối cùng biết trước
lúc mất, con hỏi thấy được ǵ vẫn
răn “đừng nhiễu loạn chánh niệm”, bảo
treo đèn ngoài cửa Đại Từ Bi Thất rồi
liền ngồi qua đời. Trong tâm bà cố nhiên đă
đem những t́nh mẹ con yêu thương, danh dự thế
gian gạt bỏ hết sạch. Chuyện này thật ra
thuộc loại “châm kim xuống
ngay đảnh đầu, trừ phi da dầy ắt thấy
đau ngay”. Hai tay mềm mại biểu thị sử dụng
tánh đức nghèo và bệnh để làm chứng cớ
cho ḷng từ bi, nhẫn nhục. Ôi! Như phu nhân có thể
nói là người hoàn thiện đôi bề. Trong đời
hiện thời, giáo huấn “giữ yên cửa nhà” bị
buông lỏng chẳng được đề cao, nếu chẳng
có người phát tâm đại từ bi dùng thân làm
gương ḥng giữ vững [giáo huấn ấy] th́ c̣n biết
nhờ vào đâu? Cổ nhân nói: “Dùng
lời lẽ để dạy th́ c̣n bị tranh căi, chứ
dùng thân để dạy th́ [mọi người] đều
vâng theo”.
Đối với cả
Nho lẫn Phật, phu nhân đều kham nêu gương. Bà
chính là bậc nương theo bản nguyện làm bậc mẫu
nghi chốn khuê các, làm bậc thầy gương mẫu
cho nữ lưu. Tôi bẩm tánh cương trực, học
thức nông cạn ngoài da, v́ thế tự chôn sống ngoài
hải đảo để mong giấu dốt, hầu tránh
khỏi tội khiên, nhưng cư sĩ Tâm Tam lại lầm
tưởng tôi là bậc tri thức, nên mới gởi
thư thỉnh giáo. Do vậy, tôi chẳng biết kiêng dè,
buông lời thẳng thừng, ngỡ ông ta nhất định
tuyệt giao, ngờ đâu ông lại bội phục, ắt
là trong gia đ́nh khéo được dạy dỗ. Ông vẫn
tiếc là chưa thể biểu lộ đức đẹp,
ḷng trinh của mẹ nên bèn viết rơ tâm hạnh, tu tŕ của
thân mẫu xin tôi thuật bày. V́ thế, tôi bèn phát huy những
nghĩa lư ẩn kín để những người làm cha mẹ
và làm thân phụ nữ trong cơi đời biết cách học
theo, ai nấy khéo dạy dỗ con gái để mai kia giúp
chồng dạy con. Nếu là những đứa có thiên
tư sẽ đều là bậc hiền sĩ thân lành giác
ngộ cơi đời, nếu là đứa không có thiên
tư th́ cũng là người dân lành vâng giữ quy củ,
ắt là thiên hạ thái b́nh, nhân dân an lạc, hết sức
cầu chúc vậy!
16. Nêu tỏ
ư nghĩa ẩn kín về sự thực văng sanh của Diêu
Phu Nhân nhà họ Mă
Quyến
thuộc trong thế gian đều có nhân duyên, Bồ Tát
nương nguyện c̣n chúng sanh theo nghiệp. Thiện - ác
đều do từng loại mà tụ hợp, chủng tánh
trọn chẳng sai. Hiếu Kinh nói: “Muốn biết cha hăy nh́n vào con”. Dịch Truyện
ghi: “Mọi thứ tụ họp
theo từng loài, vật chia ra thành bầy”. V́ thế,
ngài Duy Ma Cật ở Tây Thiên, Phó Đại Sĩ, Bàng
Cư Sĩ ở cơi này, cả nhà đều triệt ngộ
tự tánh, tự chứng Vô Sanh, đến - đi tự
tại, đắc đại giải thoát. Gần đây,
danh nhân các giới mở rộng tầm mắt, đều
cùng tôn sùng Phật pháp, ngầm chuyên tu tŕ.
Cư sĩ Mă Thông Bạch
ở Đồng Thành, tỉnh An Huy chính là bậc đại
gia trong giới văn học hiện thời, trước
thuật rất phong phú. Thoạt đầu cũng tiêm nhiễm
ư kiến của Hàn, Âu, Tŕnh, Châu, chẳng những không biết
Phật là người như thế nào, lại c̣n chẳng
biết nhất niệm tâm tánh của chính ḿnh và Phật xét
về bản thể trọn chẳng có hai. Đến khi
về già, học thức ngày càng tiến, kiến địa
ngày càng cao, mới biết Phật là bậc đại
thánh nhân, giáo pháp của Ngài có những chuyện chẳng thể
nghĩ bàn. Từ đấy, hằng ngày tụng kinh Kim
Cang, tŕ thêm danh hiệu Phật để mong ĺa trọn vẹn
tứ tướng, triệt chứng nhất tâm, thoát khỏi
ngũ trược ngay trong một đời này.
Cô con gái thứ ba của
ông tên là Quân Cán khá thông minh, thông hiểu văn chương,
có phong thái của bậc liệt nữ thời cổ, ông
Thông Bạch rất thương yêu, nhưng đối với
Phật pháp cô ta hoàn toàn không tin tưởng. Về sau, bị
bệnh rất khổ chẳng thể chịu đựng
được; Thông Bạch thương xót, đối
trước cô niệm kinh Kim Cang. Cô vừa nghe tiếng tụng
kinh thân tâm liền an lạc. Đến khi tiếng tụng
kinh dứt lại thấy đau khổ. Thông Bạch liền
v́ cô niệm kinh suốt đêm. Cô chợt ngồi dậy bảo
đừng niệm nữa, giống như người khỏe
mạnh. Lại nói: “Đối
với những đạo lư kinh Kim Cang đă nói, con đều
ngộ được”. Cô lại muốn hiện tướng
đại nhân, nói pháp Vô Sanh để hết thảy những
ai thấy nghe đều gieo căn lành, bèn giả vờ
nói nhà cửa chật hẹp, muốn đến y viện
dưỡng bệnh; bởi lẽ Thông Bạch và người
con rể tên Phương Thời Giản cùng trú ngụ tại
kinh đô, thuê nhà cùng ở nên chẳng thể rộng răi, u
nhă được. Thông Bạch thấy con đă quyết
chí, bèn bảo chồng cô ta đưa vào Đức Quốc
Y Viện, chọn gian pḥng tốt đẹp nhất cho cô
nằm. Cô bảo chồng và y tá đi ra hết, rồi bèn
ngồi chắp tay qua đời. Ôi chao lạ lùng thay! Cô
này cũng giống như cô Linh Chiếu con gái Bàng Cư
Sĩ, đợi cha vừa rời khỏi ṭa liền tọa
thoát ngay nơi ṭa ấy, nào có khác ǵ?
Lư Mộc Công vốn
hoàn toàn không tin Phật, nghe Thông Bạch kể nhân duyên ấy,
cả nhà bèn quy y Tam Bảo. Phẩm Phổ Môn nói: “Nên dùng thân nào để độ
được, bèn hiện thân ấy để thuyết
pháp”, há chẳng tin ư? Chồng cô ta là Thời Giản,
dù được hiện tướng ấy, kiến giải
vẫn cứ hẹp ḥi, đối với hành trạng [của
cô ta] lại c̣n vùi lấp đi, tội lỗi ấy chẳng
nông cạn. Nay được cháu ông Thông Bạch là Hỗ
Đ́nh đem chuyện văng sanh của bà thím và con bà là
Căn Vĩ xót xa chỉ bày, mới biết Thông Bạch và
vợ con ông ta đều có lai lịch lớn chẳng phải
là chuyện ngẫu nhiên.
Căn cứ theo hành trạng,
vợ ông Bạch họ Diêu, húy là Trạch Nhuận, được
gia đ́nh dạy dỗ cẩn thận từ nhỏ, thông
hiểu đạo làm vợ, thờ cha mẹ, bố mẹ
chồng một niềm kính cẩn. Mẹ chồng bệnh
nặng, bà cắt thịt đùi ḥa với thuốc, cầu
khẩn với trời. Nhà vốn thanh bần, Thông Bạch
dạy học, phu nhân thay chồng lo liệu việc nhà hết
sức cần kiệm, nên chồng khỏi phải lo
nghĩ. Dạy con cái đúng phép tắc, được xóm
giềng khen ngợi. Mấy chục năm qua, trải bao
nhiêu biến động trong đời, chán nhàm vô thường
sâu xa, liền chuyên tu Tịnh nghiệp để cầu
thoát khỏi Sa Bà, sanh về Cực Lạc. Tuổi ngoài bảy
mươi vẫn khỏe mạnh. Đầu mùa Thu năm
nay, thị hiện chút bệnh nhẹ, ăn uống giảm
dần, nhưng sớm khuya lễ bái, tŕ tụng chưa từng
gián đoạn chút nào. Đến ngày mồng Bốn tháng
Tám, vừa mới đi nằm th́ ngực bị nghẹn
hơi, bảo con gái là Quân Vỹ và cháu dâu là Tôn Hiếu
Đạt thay ḿnh tụng kinh. Hiếu Đạt chính là vợ
của Hỗ Đ́nh; là người hằng ngày thường
cùng bà tu tập Tịnh nghiệp khuyến khích lẫn nhau,
nên thường chầu chực bên bà để phụ trợ.
Đến đêm mồng Chín, phu nhân thấy chư Phật
quang minh rạng rỡ, bèn phục trên gối lễ bái.
Lại thấy đức
Quán Âm duỗi tay ra, bèn nắm lấy tay Bồ Tát, liên tục
xưng niệm danh hiệu Bồ Tát không ngừng, bảo
Hiếu Đạt tụng kinh Di Đà. Hiếu Đạt
tụng đến đoạn kinh nói về các thứ trang
nghiêm trong cơi Phật, bà nói: “Cảnh giới như vậy
rành rành ngay trước mặt, ta thấy chẳng khác ǵ
kinh nói cả!” Người nhà vây quanh niệm Phật theo,
có người nuốt lệ, phu nhân quở trách: “Sao lại
như thế? Gây phiền lụy cho ta!” Đến giờ
Ngọ ngày mồng Mười, môi c̣n khẽ động,
thoạt lâu sau bèn qua đời, vẻ mặt vàng
tươi. Phía chân mày và trán sáng láng như gương, trên
đảnh khí nóng tỏa ra ngoài cách đầu gần cả
thước như thể đang được nung nấu.
Ấy chính là biểu hiện của Tịnh nghiệp thuần
thục, thân tâm thanh tịnh vậy.
Phàm muốn học Phật
pháp trước hết phải tận lực giữ vẹn
luân thường, trọn hết bổn phận. Xét những
việc hiếu dưỡng cha mẹ, bố mẹ chồng,
cũng như dạy con th́ đấy chính là như Quán Kinh
nói “hiếu dưỡng cha mẹ,
hành điều nhân từ thế gian”. Bà nhàm chán vô
thường sâu xa, chuyên tu Tịnh nghiệp, lại
được người cùng chí hướng khuyến
khích hỗ trợ, có thể nói là những nghĩa “chí
thành tâm, thâm tâm, hồi hướng phát nguyện tâm” và “phát
Bồ Đề tâm, khuyến tấn hành giả” đều
đầy đủ cả. Đă có đủ chánh nhân Tịnh
nghiệp của tam thế chư Phật th́ chắc chắn
cảm được cái quả “cậy vào Phật từ
lực văng sanh Tịnh Độ”. Những kẻ trong
cơi đời chẳng trọn hết bổn phận để
giữ vẹn ḷng hiếu, ḷng từ, lầm lẫn muốn
cậy vào Phật từ lực để đới nghiệp
văng sanh th́ Phật lực, pháp lực tuy chẳng thể nghĩ
bàn, nhưng v́ tâm địa của chính ḿnh bất chánh và
trái nghịch với chánh nhân Tịnh nghiệp của tam thế
chư Phật nên chắc chắn khó đạt được
cái quả “vĩnh viễn ĺa
các sự khổ, thường hưởng những sự
vui”. Người tu Tịnh nghiệp hăy nên lấy đó
làm gương!
17. Nêu tỏ
ư nghĩa ẩn kín của chuyện cư sĩ Liễu
Nghĩa Tào Vân Tốn thí nhà để lập Niệm Phật
Lâm
Phật
pháp rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như
hư không, lư vốn tự tâm, tuy hạng phàm phu sát đất
vẫn chẳng thiếu sót mảy may nào, nhưng đạo
vượt khỏi những t́nh kiến thông thường,
nếu chẳng phải là mười phương chư
Phật sẽ chẳng thể hiểu biết trọn vẹn.
Nếu luận sâu sát về pháp khế lư khế cơ th́
chỉ có tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây
Phương thật là bậc nhất. Đạo tự lợi
lợi tha, chỉ có phước đức chẳng trụ
vào tướng để bố thí mới bằng
được mười phương hư không. Cư
sĩ Liễu Nghĩa đă nghe được pháp môn Tịnh
Độ, công huân thù thắng, dẫu là kẻ phàm phu sát
đất trọn đủ Hoặc nghiệp, chỉ cần
có thể sanh ḷng tin phát nguyện tŕ danh hiệu Phật
như con nhớ mẹ, tâm tâm tiếp nối, quyết
định cậy vào Phật từ lực văng sanh Tây
Phương, liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh.
Do vậy, bèn phát đại Bồ Đề tâm, tu hạnh
tối thù thắng. Lại muốn cho pháp giới hữu
t́nh đều cùng được lợi ích, v́ thế bèn dốc
cạn tinh thần sức lực đề xướng
tán dương. Con người có cùng một tâm này, tâm có
cùng một lư này, đă được phát huy chỗ uyên áo
th́ không ai chẳng muốn được lợi ích.
Do vậy, thiện tín
dự hội nhiều đến mấy trăm người,
đều đầy đủ tín nguyện, dốc sức
tu Tịnh nghiệp. Cư sĩ mừng rỡ khôn ngăn,
liền đem căn nhà của ḿnh đang ở hiến
cúng hết, biến nơi đó vĩnh viễn thành Cư
Sĩ Niệm Phật Lâm. Ư ông chỉ muốn ḿnh và người
đều cùng tu Tịnh nghiệp, cùng trong một đời
này văng sanh Tây Phương, và hết thảy thiện tín xa
gần, kẻ thấy, người nghe đều cùng phát
khởi cho trọn khắp hoàn vũ, tồn tại
vĩnh viễn chẳng suy mất. So với chuyện cầu
danh dự trong thế gian và phước báo nhân - thiên thật
khác biệt một trời một vực! Những người
cùng liên xă cảm kích trước thạnh t́nh ấy, thầm
sợ rằng nếu chẳng lập chứng cứ sau
này sẽ bị mất đi, khiến cho tấm ḷng một
phen lợi người của cư sĩ bị biến
thành đoạn diệt. Do vậy, bèn báo lên huyện lập
giấy tờ, khắc bia đặt trong Niệm Phật
Lâm, không chỉ nhằm để tán dương thạnh
đức của cư sĩ mà quả thật c̣n nhằm
để phát khởi nhiệt tâm cho người thấy
nghe.
Lại do Bất Huệ
tu tông này đă lâu nên bèn gởi thư, sai viết lời tựa
dẫn giải ngơ hầu người đọc nghe đến
phong thái ấy bèn khởi tâm, lần lượt truyền
dạy, hoằng dương, theo chiều dọc là đến
tận đời vị lai, theo chiều ngang là trọn khắp
mười phương, khiến cho lời đức
Như Lai dạy “hết thảy
chúng sanh đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật”
đều thành sự thực, chẳng đến nỗi
c̣n có chỗ tiếc nuối! Bất Huệ vâng theo thạnh
t́nh ấy, kính cẩn tŕnh bày đại lược những
chỗ khó - dễ, nhanh - chậm trong việc y theo hết
thảy pháp môn và pháp môn Tịnh Độ tu hành ḥng liễu
sanh tử, chứng Vô Sanh, ngơ hầu ai nấy tự xét sức
lực của ḿnh mà tu hành, chẳng đến nỗi bị
tổn hại v́ theo pháp chẳng khế hợp căn
cơ, luân hồi dài lâu trong tam đồ lục đạo,
không thể thoát ra được!
Hết thảy các pháp
môn được nói trong giáo pháp một đời của
đức Như Lai không pháp nào chẳng nhằm làm cho chúng
sanh đoạn phiền Hoặc liễu sanh tử, chứng
Vô Sanh Nhẫn thành Phật đạo. Nhưng căn cơ
của chúng sanh bất nhất, cho nên mỗi người đạt
được lợi ích khác biệt. Những ai có túc
căn sâu dầy th́ có thể đoạn sạch được
Kiến - Tư ngay trong một đời này, vượt
thoát tam giới, tiến lên học theo đạo Bồ Tát
“trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ
chúng sanh” để cầu viên măn Bồ Đề, may mắn
ǵ hơn? Nếu như căn cơ kém cỏi hơn
đôi chút, dẫu có sức Thiền Định sâu, triệt
ngộ tự tâm, nhưng chưa đoạn được
Kiến - Tư, ắt vẫn phải luân hồi y như
cũ! Huống ǵ từ đời này sang đời khác,
làm sao có thể tự bảo đảm được? Hễ
bị phước làm mê, ắt đọa thẳng vào tam
đồ! Kẻ kém hơn th́ c̣n ǵ để nói nữa!
Đấy là chỗ khó khăn của việc dùng tự lực
để liễu sanh tử vậy.
Đức Như Lai sớm
biết chúng sanh đời Mạt không có sức đoạn
Hoặc, nên đặc biệt mở ra một pháp môn tín
nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương, khiến
cho hàng Pháp Thân đại sĩ và hạng phàm phu đầy
dẫy triền phược cũng như tội nhân Ngũ
Nghịch Thập Ác cực nặng đều cùng trong một
đời này văng sanh Tây Phương. Đă văng sanh Tây
Phương th́ liễu sanh thoát tử siêu phàm nhập thánh,
ai nấy tùy theo khả năng của chính ḿnh mà ngộ chứng.
Tâm từ bi vỗ về, nuôi dạy ấy dù có lấy
thiên địa phụ mẫu cũng chẳng thể sánh
ví được muôn một. Bởi lẽ, pháp môn này cậy
vào sức tín nguyện niệm Phật của chính ḿnh
để cảm sức từ bi nhiếp thọ của
Phật, cảm ứng đạo giao, cho nên chẳng cần
đoạn phiền hoặc mà đới nghiệp văng
sanh. So với cách cậy vào tự lực th́ khó - dễ dù
có hết cả năm cũng chẳng thể nói trọn.
Người niệm Phật nếu biết được
nghĩa này sẽ tự chết được cái tâm chụp
giựt, chuyên tu pháp môn này, chẳng đến nỗi ham
cao chuộng xa, bị những lời lẽ của kinh
giáo hay tri thức lay chuyển để rồi bỏ pháp
này tu những pháp khác. Xin khắp những ai thấy nghe
đều tin tưởng chắc chắn!
18. Bày tỏ
những ư nghĩa ẩn kín của lời tựa chúc thọ
cho tiên sinh Cừu Trác Đ́nh và phu nhân
Con
người sống trong ṿng trời đất h́nh vóc nhỏ
nhoi thay! Sao lại có thể sánh cùng trời đất
xưng là Tam Tài? Ấy là do con người đồng một
tâm này, tâm cùng một lư này, ai nấy có thể là Nghiêu - Thuấn,
ai nấy đều có thể làm Phật. Do có đủ
công năng, đức dụng tán trợ quyền sanh
trưởng, dưỡng dục của trời đất,
giữ ǵn giềng mối càn khôn, nên mới mang danh xưng
tốt lành ấy. Nếu kẻ nào chẳng tự gắng
sức đào luyện, cam bề phàm ngu, sống làm thịt
đi thây chạy, chết mục nát cùng cỏ cây, sống
có hại cho xă hội, quốc gia, chết chịu khổ
trong tam đồ, ác đạo, th́ chính là v́ không cẩn thận
trong hành vi mà nên nỗi, chứ chẳng phải v́ thiên chân
Phật tánh sẵn đủ có ǵ sai khác! V́ vậy, Khổng
Tử nói: “Về tánh chất
th́ gần giống như nhau, nhưng do đào luyện mà
thành ra sai khác”.
Như nói đến “tán trợ quyền sanh trưởng,
dưỡng dục của trời đất, ǵn giữ
giềng mối càn khôn” nào phải chỉ là nói về những
ai có địa vị! Dẫu là thất phu, thất phụ
đi nữa, ai nấy đều có thể dốc sức
thực hiện. Nếu có thể chánh tâm thành ư, tự tu sửa
cái thân để làm sáng tỏ Minh Đức, ḷng thành bên
trong thấu tỏ ra ngoài, tất nhiên người trong nhà,
láng giềng, làng xóm, thân thích, bầu bạn thảy đều
thấy được, cảm nhận được, ngấm
ngầm được cảm hóa, thay đổi mà không hay
không biết. V́ thế, khi trong làng có một vị thiện
sĩ th́ làng ấy càng thêm thuần ḥa, nghiêm cẩn, yên tịnh,
như Trần Thật Uyển đời Hán giáo hóa chàng
quân tử trên kèo nhà khiến đạo tặc trong làng ấy
tuyệt tích, người cô có đạo nghĩa nước
Lỗ muốn bảo vệ đứa con nối dơi của
anh ḿnh khiến cho quân địch nước Tề lập
tức lui binh[10].
Đấy chính là đầu mối để thất phu,
thất phụ tán trợ quyền sanh trưởng, dưỡng
dục của trời đất, giữ ǵn giềng mối
vậy.
Mạnh Tử nói: “Nghèo cùng th́ riêng thân ḿnh thiện,
hiển đạt th́ làm cho thiên hạ cùng thiện”,
đấy chính là hướng theo đa số mà luận vậy.
Trong cơi đời ngày nay, thế đạo nhân tâm đều
đă suy vi đến cùng cực, chỉ cầu tự
tư tự lợi, gạt bỏ đạo đức
nhân nghĩa không ngó ngàng đến gần như hết thuốc
chữa! Nhưng thiên hạ chẳng yên, thất phu có trách
nhiệm. Nếu như ai nấy đều đứng lên
gách vác trách nhiệm này, ai nấy đều giữ phận
sống yên, biết nhân hiểu quả, hiếu cha mẹ,
kính anh, đôn đốc tông tộc, nghiêm túc dạy dỗ
con cái khiến cho chúng trở thành người lương
thiện th́ chỉ trong mười mấy năm, trong
đời ai cũng là hiền nhân. Người hiền tạo
ích lợi cho nhau, ắt sẽ cảm được thiên
ḥa[11],
thiên tai, nhân họa nào c̣n có nữa! Do vậy, biết rằng
xiển minh nhân quả, khéo dạy con cái chính là căn bản
để thiên hạ thái b́nh.
Như vợ chồng
ông Cừu Trác Đ́nh ai nấy đều biết là người
có nhiệt tâm thạnh đức, dùng tấm ḷng vô tư,
chí thành, hiếu thuận cha mẹ, kính trọng anh, nuôi nấng
các cháu, châu cấp kẻ bần cùng, chấn hưng trường
học, tin tưởng sâu xa vào Phật pháp và nhân quả, tế
độ u hồn, cứu giúp sanh mạng, là gương
sáng cho xóm làng, làm bậc mô phạm cho đồng nhân, khiến
cho con cái, dâu, cháu đều hiền - hiếu, gia đạo
hưng vượng, con cháu đông đầy[12].
Nhưng không ai biết đức ấy, tâm ấy vốn
do từ vô lượng kiếp đến nay phụng hành
lời dạy “không làm các
điều ác, vâng làm các điều lành, đối xử
với mọi người bằng ḷng nhân b́nh đẳng,
tự lợi lợi tha” của đức Phật, lại
thêm từ khi sanh ra đă được hiền phụ, hiền
mẫu un đúc, giáo hóa, dưỡng dục mà thành ra
như vậy.
Tiên sinh và phu nhân sắp đến bảy mươi, đồng nhân muốn chúc hai cụ sống lâu trăm tuổi, bèn kính cẩn chép lại những hành trạng hai cụ để góp phần chúc thọ, lại xin Bất Huệ tùy hỷ tán trợ. Trộm nghĩ: Trong lời tựa đă nêu bày đầy đủ đức của tiên sinh và phu nhân. Nếu chỉ viết xuông những câu văn bóng bảy để tán tụng th́ chẳng những Bất Huệ tôi không thể làm được mà cũng không nên làm như thế. Do vậy, bèn suy xét nơi cái gốc để viết ra những lời lẽ nhằm phát huy những nghĩa lư c̣n bị ẩn kín. Phải biết: Tuổi thọ của con người vốn vô thủy vô chung. Do Chân Như Diệu Tánh bị phiền năo Hoặc nghiệp che lấp mà tùy nghiệp thăng trầm trong lục đạo luân hồi, nên tuổi thọ rút ngắn chẳng thể kham diễn tả được nổi. Đức Như Lai thương xót bèn nói pháp đoạn Hoặc chứng Chân để họ hoàn lại cái gốc, trở về nguồn, siêu phàm nhập thánh. Trong ấy, pháp hạ thủ dễ thành công cao th́ chỉ có tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương là bậc nhất. Con cụ Cừu là Tố Doanh lập An Dưỡng Đường để làm chỗ cho song thân tu Tịnh, thật đă hiểu được đại thể của việc chúc thọ. Đợi đến khi [song thân] trăm tuổi, văng sanh Tây Phương chứng vô lượng thọ th́ mới là thật nghĩa rốt ráo của người con hiếu tôn kính cha mẹ, mới đáp được ḷng thành ngưỡng mộ của đồng nhân ca tụng đức chúc thọ [cha mẹ] (Tố Doanh hiệu là Bội Tịnh).
19. Nêu bày
nghĩa lư ẩn kín về hành trạng của Lâm Phu Nhân mẹ
ông Tôn
Một
niệm tâm tánh của chúng ta và tam thế chư Phật trọn
chẳng khác ǵ. Nhưng trí - ngu, sướng - khổ khác biệt
một trời một vực là do sự tu tập trong
đời trước và đời này có thiện - ác, thuận
- nghịch mà ra. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Nếu muốn biết rơ hết thảy tam thế Phật,
nên quán pháp giới tánh: hết thảy duy tâm tạo”. Nói
“pháp giới tánh” chính là nói
đến tánh Chân Như mầu nhiệm mà chúng sanh và Phật
đều cùng có, nơi Phật chẳng tăng, nơi
chúng sanh chẳng giảm, trong sanh tử chẳng nhơ, chứng
Niết Bàn chẳng tịnh, hằng cổ hằng kim, chẳng
dời, chẳng biến, trạm tịch thường hằng,
như như bất động. Tánh ấy tôn quư nhất,
v́ thế dù chúng sanh có mê đến cùng cực th́ Như Lai
vẫn hoàn toàn chẳng có một niệm buông bỏ, vẫn
giáo hóa nhiều cách cốt sao họ khôi phục được
bản tánh. “Hết thảy duy
tâm tạo” chính là nói tu tập thuận hay nghịch. Thuận
tu th́ là người, là trời, là Thanh Văn, là Duyên Giác, là
Bồ Tát, đến tối cực là viên thành Phật
đạo, an trụ Tịch Quang; c̣n nghịch tu th́ đọa
vào Tu La, súc sanh, ngạ quỷ, cùng cực là đọa măi
trong A Tỳ địa ngục trải trần điểm
kiếp, chịu các sự khổ cùng cực, không do đâu
thoát ĺa được! Do vậy, ta thấy mười
pháp giới đều do sự tu tập xưa nay mà ra, cho
nên Khổng Tử mới nói: “Xét
về tánh th́ gần giống nhau, nhưng do sự đào
luyện mà khác xa nhau”. Hiểu rơ điều này mà chẳng
bỏ mê theo ngộ, trái trần hiệp giác, thận trọng
tu tập th́ là chuyện chưa bao giờ có vậy! Đạo
để bỏ mê theo ngộ, trái trần hiệp giác cố
nhiên chẳng phải là một mối; t́m lấy một
pháp hạ thủ dễ thành công cao, dùng sức ít được
hiệu quả nhanh th́ chỉ có ḿnh pháp môn Tịnh Độ
là được như vậy!
Lâm phu nhân là mẹ
đẻ của ông Tôn Khánh Trạch, xưa đă trồng
cội đức, bẩm tánh hiền thục, hiếu thảo
cha mẹ, tôn kính chồng, dạy con, cai quản việc
nhà, châu cấp kẻ nghèo cùng, túng thiếu, cứu giúp sanh
mạng, đều đáng làm bậc thầy khuôn mẫu cho
nữ giới. Bà lại c̣n dốc ḷng tin tưởng Phật
pháp, tu tŕ Tịnh nghiệp, từ trẻ đến già
không hề phế bỏ. Huống chi đă mang thân nữ
khó thể đi xa tham học với bậc cao nhân, lại
sống ở Ngọc Điền[13],
rất ít bậc thượng sĩ hoằng pháp, mà vẫn
suốt đời khăng khắng tu tŕ th́ chính là do nhiều
kiếp huân tu tạo thành vậy.
Xét khi xưa, lúc phu nhân
về với ông Tôn, nghèo cùng không đủ ăn, cần
cù, vất vả quá người làm công. Tuổi trung niên trở
đi, nhà cửa mới dần dần dư dả, có
năm người con, mười mấy đứa cháu,
tôi tớ rất đông. Lẽ ra nên an nhàn hưởng thụ,
nhưng bà vẫn chịu thương, chịu khó như
cũ, chỉ mặc áo vải thô, chẳng mặc lượt
là, giặt giũ, chằm vá, chẳng nỡ bỏ đi.
Thấy người khác đói rét khác nào chính thân ḿnh
đang khổ, ắt phải thí tiền cho cơm th́ tâm mới
yên. Có ai đến cầu xin bèn vui vẻ cho ngay. Đối
với côn trùng, kiến bọ, đều răn [người
nhà] chớ gây tổn thương; đối với rắn,
rết, độc vật cũng dạy t́m cách đuổi
đi, trọn chẳng chịu gây thương tổn cho
chúng. Ấy là v́ muốn cho con cháu đời đời giữ
đạo cần kiệm nhân từ, lấy chính thân ḿnh
làm gương, ngơ hầu con cháu hành theo. B́nh thời, cụ
hay đem chuyện nhân quả báo ứng răn dạy con
cháu, thường bảo: “Lợi
người thật ra là lợi ḿnh, hại người khổ
hơn hại ḿnh rất nhiều. Phàm suy nghĩ, xử sự,
nói năng đều phải quy vào phương diện từ
thiện mới nên. Nếu các ngươi làm được
như thế th́ mới khỏi gây thẹn cho người
sanh ra ḿnh. Nếu không, dù phú quư tột bậc vẫn là
đại oan gia ô nhục tổ tông”. Do vậy, con cháu
cụ đa số đều thuần hậu, kính cẩn,
chẳng nhiễm thói tục hiện thời.
Chuyện lạ nhất
là vào mùa Đông năm ngoái, khi chiến tranh nổ ra, Khánh
Trạch đưa mẹ đi xa lánh nạn tại nhà họ
hàng. Trong lúc ra đi, [mọi người] tâm lo lắng sợ
sệt, phu nhân sai đem cái rương đựng quần
áo cũ theo, nhưng chẳng nói rơ duyên do. Đến tháng
Chạp cụ mất, dùng ngay quần áo ấy để
khâm liệm. Tuy nói là cụ tuổi đă tám mươi tám,
chẳng thể không dự đoán được, nhưng
tâm địa cụ an tường, chẳng bị ngoại
cảnh nhiễu loạn, từ chỗ này ta có thể thấy
được. Trong lúc phu nhân lâm chung, Khánh Trạch đang
đốc suất người nhà đồng thanh niệm
Phật, chợt như phát cuồng, xé rách giấy dán cửa
sổ. Ngay khi ấy, có hai con bướm to như bàn tay
theo cửa sổ chui vào, sắc vàng chen lẫn những vằn
đen trắng, rực rỡ phi thường, bay quanh quẩn
trong nhà. Người nhà xua đuổi rốt cuộc vẫn
không đuổi được. Độ hơn nửa
ngày, tẫn liệm xong xuôi, khiêng [linh cữu] sang gian nhà
khác, bướm cũng chấp chới bay theo quan tài. Đến
khi linh cữu đă đặt yên, bướm mới bay ra
khỏi nhà, hướng về Tây bay đi. Khi ấy, nhằm
tiết tháng Chạp, huống hồ đất
phương Bắc đang rét căm căm làm sao có bướm
được? Khi đó, người trong nhà và thân quyến
bảy mươi mấy người đều kinh ngạc,
cho là điềm lành chưa từng thấy nghe. Ấy
chính là do thạnh đức, tịnh tâm của phu nhân chiêu
cảm ḥng biểu thị điềm lành ĺa khỏi Sa Bà,
sanh về Cực Lạc, nhưng v́ người đời
căn cơ hèn kém nên bèn thị hiện thành bướm, chứ
nào phải là bướm thật!
Khánh Trạch thuật
đại lược tâm hạnh của mẹ, xin Quang
phát huy ư nghĩa để khuyên đời. Ôi! Con xiển
dương đức của mẹ, cố nhiên là bổn
phận nên làm; nhưng xiển dương đức mẹ
mà chẳng tu đức thực hành cẩn thận th́ c̣n tệ
hơn vu báng lỗi ác cho mẹ. V́ thế, Hiếu Kinh coi lập
thân hành đạo, lưu danh hậu thế, khiến cha mẹ
vẻ vang là tột cùng của đạo hiếu. Những
vị như Khổng Tử, Mạnh Tử v.v… chưa từng
thấy họ thuật bày đức của cha mẹ, mà
thiên hạ hậu thế không ai chẳng tôn cha mẹ các ngài
là bậc thánh phụ, thánh mẫu. Muốn phô bày đức
của cha mẹ chẳng thể không biết [điều
này]! Hiếu thế gian như thế có thể nói là tột
bậc, nhưng chẳng có ích ǵ cho linh thức của cha mẹ!
Nếu luận theo Phật pháp th́ hễ cha mẹ c̣n sống
bèn khuyến dụ cha mẹ nhập đạo, ngơ hầu
họ bỏ mê theo ngộ, trái trần hiệp giác, tín nguyện
niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Cha mẹ
đă mất th́ chí thành niệm Phật, hồi hướng
cho cha mẹ, cúng quải, đăi khách nhất loạt chẳng
dùng đồ mặn, ngơ hầu cha mẹ chưa văng sanh liền
được văng sanh, đă văng sanh liền tăng cao phẩm
sen. Đấy chính là đạo trọng yếu của
đức Như Lai để phổ độ chúng sanh
khiến họ khôi phục Phật tánh vốn có. Phận
làm con muốn báo ân cha mẹ, xiển dương đức
của cha mẹ th́ suốt đời phải phụng
hành để rộng cảm hóa, chỉ dạy. Lợi ích
ấy chỉ có Phật mới biết được, chứ
ngôn ngữ, văn tự chẳng thể h́nh dung được
nổi!
20. Nêu bày
ư nghĩa ẩn kín trong chuyện văng sanh của Tôn phu nhân mẹ
ông Thôi
Đạo
Thành Minh của thánh nhân, pháp chân thường của đức
Như Lai, thất phu, thất phụ đều kham biết
được, làm được; bởi lẽ con người
có cùng một tâm này, tâm cùng một lư này. Phàm - thánh tuy khác,
tâm thể chẳng khác! V́ thế nói: “Thánh mất niệm thành cuồng, cuồng khắc chế
được ư niệm bèn thành thánh. Ai cũng có thể
làm Nghiêu - Thuấn, ai cũng có thể làm Phật”. Hết
thảy chúng sanh đều có Phật tánh, do mê trái nên oan uổng
hứng chịu nỗi khổ sanh tử luân hồi. Phật
coi lục đạo chúng sanh đều giống hệt
như con một. Huống chi những người sanh ḷng
tin, phát nguyện, kiền thành tŕ Phật hiệu, hành đủ
mọi điều thiện thế gian, kiêm tŕ kinh, tụng
chú, chí thành hồi hướng để cầu được
văng sanh, có ai chẳng cảm ứng đạo giao
được Phật tiếp dẫn ĺa cơi Sa Bà sanh sang Cực
Lạc?
Thôi mẫu Tôn phu nhân là
người vợ đức hạnh của xử sĩ [Thôi]
Chú Xuyên, là mẹ đẻ các ông Tường Cưu, Tường
Côn, Tường Hồng, tánh t́nh trầm mặc, thuần hậu,
xử sự cần kiệm, khoan ḥa, hiếu thuận cha mẹ,
giúp chồng, chăm sóc việc nhà, dạy con, giúp nghèo, cứu
nguy, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, thảy đều
đáng nêu gương cho hàng khuê các, là bậc thầy khuôn
mẫu cho nữ giới. Nếu chẳng phải là xưa
đă có thiện căn, há có được như thế hay
chăng? Cụ lại c̣n dốc ḷng tin tưởng Phật
pháp, chân thành thọ Tam Quy Ngũ Giới. Tuổi ngoài bảy
mươi bèn chuyên tinh tu Tịnh nghiệp. Con cụ là
Tường Hồng lại giúp đỡ mẹ nhiều
cách, cho nên bà cụ biết trước lúc mất, chánh niệm
văng sanh, đáng gọi là bậc trượng phu trong giới
nữ, là hoa sen nở trong lửa, chẳng cô phụ ơn
Phật giáo hóa, chẳng phụ bạc tánh linh của chính
ḿnh. Những kẻ tu mi trượng phu trong cơi đời,
lắm tài, lắm nghệ, tự cậy ḿnh phi phàm, đến
khi lâm chung nghiệp thức mịt mờ, chẳng có ǵ
để trông cậy được, vẫn cứ y
như cũ luân hồi trong tam đồ lục đạo,
há chẳng đáng buồn quá đỗi ư?
Nếu như nói:
Thường thấy chép trong sách vở những bậc suốt
đời tu tŕ, Định lực lẫn Huệ lực
đều sâu, Tông lẫn thuyết đều thông, giải
hạnh tương ứng, rất nhiều vị chẳng
giải quyết được sanh tử, vẫn phải
thọ sanh. Lẽ đâu Thôi mẫu (Tôn phu nhân) chỉ do
năm sáu năm công phu bèn được văng sanh, liễu
sanh tử? Có chứng cứ ǵ mà biết bà cụ quyết
định được văng sanh?
Đáp: Ông chưa biết
duyên do liễu sanh tử có chuyện nhờ vào Phật lực
và tự lực vậy! Hết thảy pháp môn đều cậy
vào tự lực, c̣n pháp môn Tịnh Độ hoàn toàn cậy
vào Phật lực. Cậy vào tự lực mà Kiến - Tư
chưa hết sạch th́ sẽ không có cách nào thoát ĺa sanh tử
được! Cậy vào Phật lực nếu tín nguyện
chân thật, thiết tha, ắt được đới
nghiệp văng sanh. Ví như vượt biển, một
đằng do tự nổi, một đằng do ngồi
thuyền, tuy cùng đến bờ kia, nhưng khó - dễ,
an - nguy khác biệt vời vợi như trời với vực.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật dạy về ba thứ
chánh nhân Tịnh nghiệp: Một là hiếu dưỡng
cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm
không giết, tu Thập Thiện Nghiệp. Hai là thọ tŕ
Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm
oai nghi. Ba là phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc
tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả. Mười
một việc này nếu có được một hai việc,
kèm thêm tín nguyện niệm Phật th́ đều được
văng sanh. Huống chi Thôi mẫu làm được gần
đủ? Hơn nữa, chúng sanh Ngũ Nghịch Thập
Ác khi lâm chung tướng địa ngục hiện, có thiện
tri thức dạy niệm Phật hoặc được
mười tiếng hoặc chỉ được mấy
tiếng rồi liền mạng chung, cũng vẫn có thể
cậy vào Phật từ lực văng sanh trong Hạ Hạ
Phẩm. Huống chi Thôi mẫu năm sáu năm qua ngày
đêm đều hệ niệm ư?
Nói đến chứng
cứ th́ lúc lâm chung chẳng khởi ái luyến, thầm lặng
niệm Phật, giơ tay tỏ vẻ tôn kính, ngồi ngay
ngắn qua đời. Mấy tướng lành ấy chính
là tướng văng sanh; huống chi mất rồi, toàn thân
đă lạnh, đảnh đầu vẫn c̣n ấm.
Đến khi nhập liệm, diện mạo giống như
c̣n sống. Căn cứ theo thuyết “đảnh thánh, nhăn sanh thiên” như kinh luận
đă nói th́ cụ được văng sanh c̣n ngờ chi nữa?
Nếu nói: “Cảnh ấy,
Sư chưa đích thân thấy, làm sao biết không phải
là do con bà cụ thêu dệt?” Đáp: Thêu dệt th́ trong
đời cố nhiên là có, ấy là do không biết nhân quả
nên mới làm như thế. Tường Hồng muốn
cho đồng nhân cùng sanh tín tâm, cùng tu Tịnh nghiệp,
cùng sanh Tây Phương, ngơ hầu mẹ ông ta được
tăng cao phẩm sen, quyết chẳng phạm tội
đại vọng ngữ khiến cho cả mẹ lẫn
bản thân đều mắc phải tội nặng tột
bậc “chưa đắc đă nói đắc, chưa chứng
đă nói chứng, đem phàm lạm thánh” vậy!
21. Nêu bày
ư nghĩa ẩn kín của bộ sách Từ Bi Kính
Sát kiếp
thê thảm trong thời gần đây xưa nay chưa từng
nghe thấy. Xét đến nguyên do đều do ăn thịt
mà ấp ủ thành, nghĩa là: Ăn thịt là nhân gây nên
sát kiếp, sát kiếp là cái quả của việc ăn thịt,
rồi quả lại tạo nhân, nhân lại cảm quả,
xoay vần giết lẫn nhau để ăn thịt, trọn
chẳng có lúc nào ngưng, chẳng đáng buồn ư? Nỗi
thảm sát kiếp ai nấy cùng kinh sợ, nhưng nỗi
thảm sát sanh ăn thịt, ai nấy cùng vui! Thật chẳng
khác ǵ tự giết ḿnh để ăn thịt và tự
giết cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc để
ăn thịt vậy. Do đó, kinh Nhập Lăng Già dạy:
“Hết thảy chúng sanh từ
vô thủy đến nay, luân hồi trong sanh tử chẳng
ngơi. Không ai chẳng từng làm cha mẹ, anh em, con cái,
quyến thuộc, thậm chí bè bạn, người thân ái,
kẻ hầu hạ, qua đời khác phải thọ những
thân cầm thú. Sao lại bắt lấy những con vật
trong số ấy để ăn thịt?” Lỗi hại
của sự ăn thịt chẳng thể kể xiết!
Các thiện sĩ ở
Tuyền Châu[14] muốn văn hồi
sát kiếp nên lập ra Đại Đồng Phóng Sanh Hội.
Phóng sanh chính là muốn cảm phát ḷng từ bi của mọi
người, từ đó chẳng nỡ ăn thịt.
Đă không ăn thịt th́ hiện tại chẳng tạo
sát nghiệp, tương lai chẳng phải chịu sát
báo. Tuy nói là yêu tiếc sanh mạng loài vật, nhưng thật
ra là nhằm bảo vệ sẵn cho bản thân ḿnh. Nếu
mọi người cùng mang chí này, khó ǵ chẳng cảm
được thiên ḥa. Nếu người phóng sanh cứ
phóng sanh, kẻ ăn cứ ăn th́ những con vật
được thả chỉ hữu hạn, những con vật
bị ăn là vô cùng, tiêu trừ sát nghiệp cho cá nhân phóng
sanh th́ được, chứ chưa thể tiêu trừ sát
nghiệp cho những người đồng phận
được. V́ thế, thâu tóm những lời lẽ
khuyên răn rơ ràng dễ hiểu của cổ nhân, [soạn
thành bộ sách] đặt tên là Từ Bi Kính (Gương Từ
Bi) lưu truyền khắp trong làng xóm, ngơ hầu người
thấy nghe đều dấy ḷng từ bi, đều cùng
kiêng giết, đều cùng ăn chay ḥng văn hồi kiếp
vận, cùng hưởng thái b́nh. Do vậy, tôi bèn lược
thuật lỗi hại của việc ăn thịt để
phụ trợ. Nguyện những ai ăn thịt sẽ
nghĩ loài vật như chính ḿnh, nghĩ chính ḿnh [đang
lâm cảnh khổ] giống như loài vật, nghĩ
như thế lâu ngày ắt sẽ bị sức ép đến
nỗi ăn thịt cũng chẳng dám, há c̣n v́ mong cầu
thỏa măn bụng miệng đến nỗi tế thần,
cúng giỗ tổ tiên, phụng dưỡng cha mẹ,
đăi khách nếu dùng món chay là không được, cứ
phải sát sanh mới được ư?
22. Tŕnh
bày nghĩa lư ẩn kín của việc xây kèm tháp của ni
sư Thanh Liên thuộc am Đại Thành vào phần mộ
cha mẹ họ Đường
Ai
cũng đều có thể là Nghiêu - Thuấn, ai cũng đều
có thể làm Phật, bởi con người có cùng một
cái tâm này, tâm cùng một lư này. Những kẻ không làm
được đều là hạng tự cam phận kém
hèn, chẳng nỗ lực cho nên mới không làm được,
chứ không phải là thật sự không thể làm
được! Lễ Kinh nói: “Uống
ăn, trai gái là điều con người ham muốn nhất;
chết chóc, nghèo khổ là điều con người chán
ghét nhất”. Nhưng đă có chí làm Nghiêu - Thuấn, làm
Phật th́ chẳng đem điều chán ghét nhất đổi
lấy điều ham muốn nhất. Do vậy, Khổng
Tử nói: “Chí sĩ, nhân nhân vô
cầu sanh dĩ hại nhân. Hữu sát thân dĩ thành nhân[15]” (Bậc có
chí, người có đức hạnh tốt đẹp chẳng
cầu sống để làm hại đến ḷng nhân, có
người hy sinh để thành tựu điều nhân). Mạnh
Tử nói: “Sống cũng là
điều ta ham muốn, mà nghĩa cũng là điều
ta ham muốn. Nếu hai điều ấy chẳng cùng trọn
vẹn được th́ bỏ cái sống để giữ
lấy cái nghĩa”.
Đối với bà ni
Thanh Liên ở am Đại Thành tôi có cảm xúc sâu xa. Ni
sư vốn vợ ông X… ở Tây Giao, Vơ Tấn[16],
xuống tóc từ lúc c̣n trẻ, tinh tu phạm hạnh,
được thiện tín xa gần kính ngưỡng.
Năm Hàm Phong thứ 10 (1860) đời Thanh, giặc vây hăm
Thường Châu, ni sư mặc ca-sa lễ Phật, nhảy
xuống ao trước am. Đến khi giặc tràn đến,
thôn lẫn am đều thành cuộc đất hoang vắng.
Mấy ngày sau có hai ông Uông và Thiệu ngầm trở về
thăm ḍ, thấy xác ni sư nổi trên mặt ao. Hai ông
ngưỡng mộ đức đẹp, tiết tháo trong
sạch của ni sư nên đợi đến lúc đêm
khuya, vớt xác lên, chôn tạm dưới nền am. Mười
sáu năm sau, nhằm lúc Quang Tự cải nguyên[17]
(1875), cha của ông Đường Đà là Tuân Chi mất,
mẹ ông Đà là bà Trâu Cung Nhân[18] tom
góp được mấy chục ngàn [đồng] mua đất
làm phần mộ, tức là nền am Đại Thành khi ấy.
Người trong thôn muốn bán đất bèn lén đem hài
cốt ni sư đem chôn trong khu mộ địa [bà Trâu] vừa
tậu, đắp thành một nấm mộ nhỏ. Trâu
Cung Nhân xét kỹ nguồn cơn, chẳng những không tỵ
hiềm, trái lại c̣n sanh ḷng tin tưởng, ngưỡng
mộ. Mỗi dịp tế lễ, tảo mộ, anh em ông
Đà cũng cúng tế mộ ni sư luôn. Thuở ấy,
Trâu Cung Nhân tuổi c̣n đang thanh xuân, cam phận nghèo, thủ
tiết, v́ chồng nuôi dạy con cái, gia kế chẳng
dư dật, phải siêng năng khâu vá, thêu thùa, giặt
giũ quần áo cho người ta để sống qua
ngày. Khi ấy, anh của ông Đà là Quang Thịnh mười
một tuổi, ông Đà mới chỉ lên năm, em gái vừa
lên ba, lênh đênh cô khổ không sao nói nổi. Trâu Cung Nhân gắng
sức bươn chải nuôi dạy con khiến cho anh em
ông Đà đều thành người có đức hạnh
tốt đẹp. Hoàn cảnh của bà tuy khác với ni
sư Thanh Liên, nhưng đức đẹp, trinh tâm chẳng
thua kém ni Thanh Liên! Đến năm Quang Tự hai
mươi tám (1902), Trâu Cung Nhân qua đời, được
hợp táng cùng ông Tuân Chi. Anh em ông Đà đi làm việc
nơi khác, hơn hai mươi năm chưa cùng tế lễ,
tảo mộ.
Đến năm Dân Quốc
thứ 10 (1921), anh ông Đà từ quan trở về quê, ông
Đà cũng thường từ Thượng Hải trở
về đất Thường cùng nhau tế lễ, tảo
mộ, t́m mộ phần ni sư không được, hỏi
chủ đất th́ được biết do không tiện
cho việc cày cấy, đă dời sang ruộng dâu. Ông
Đà bàn cùng anh là Quang Thịnh: “Hiện thời vẫn c̣n
có người biết được đức của ni
sư, cho nên c̣n có ư niệm bảo vệ, ǵn giữ [phần
mộ]. Nếu không tính kế, sau này khó tránh được
nỗi thảm mộ bị dời, xương cốt bị
bộc lộ. Huống chi hai vị Uông và Thiệu mạo
hiểm để chôn lén, hằng năm mẹ chúng ta dẫn
anh em ḿnh đi cúng tế. Nếu bỏ qua việc này không
quan tâm đến th́ chẳng những phải thẹn với
hai vị Uông và Thiệu mà c̣n đắc tội rất lớn
đối với mẹ chúng ta; làm sao bọn ta chịu
đựng được nổi!” Do vậy, bèn lựa
ngày tốt, dời về chôn chung trong phần mộ cha mẹ.
Lại c̣n lập một ṭa tháp đá, viết chữ to “Đại Thành Am Thanh Liên Ni
Sư Chi Tháp” (tháp của ni sư Thanh Liên thuộc am
Đại Thành), đề ở mặt sau rằng: “Ni sư đắp ca-sa tuẫn
nạn, chí hạnh của ngài đáng tưởng nhớ, nên
dời di cốt về chôn trong mộ phần cha mẹ
chúng tôi, chỉ mong người đời cùng nhau ǵn giữ”.
Ư của ông Đà là tính kế lâu dài pḥng sau này con cháu dời
đi nơi khác, hoặc không c̣n ai nối dơi, không thể
không cầu người đời ǵn giữ cho!
Có kẻ can gián, cho là
không hợp lẽ, ông Đà nói: “Bà ni này chính là vị
Tăng tu hành chân thật trong nhà Phật. Lúc c̣n sống được
xa gần kính ngưỡng, khi giặc sắp tràn đến,
liền đắp ca-sa tự nịch[19],
chẳng kém những bậc đức đẹp, nghĩa
sĩ thời cổ cho lắm! Huống chi mẹ tôi rất
khâm phục ni sư, thường bảo anh em tôi cúng tế.
Nay đem chôn trong phần mộ của cha mẹ cũng giống
như thỉnh cao Tăng về nhà cúng dường, có ǵ là
không được? Hơn nữa, vị ni sư này đức
đẹp, tiết tháo trong sạch, có lẽ đă siêu phàm
nhập thánh, nếu cha mẹ chúng tôi thường được
thân cận sẽ được nương nhờ từ
lực ngài liền được cao siêu tam giới, gởi
thân nơi chín phẩm sen. Do vậy, ḷng cha mẹ tôi
được vui sướng!” Mạnh Tử coi ‘phú quư chẳng dâm, bần tiện
chẳng đổi chí, oai vũ chẳng khuất phục’
là bậc đại trượng phu. Như bà ni đây thoạt
đầu bỏ điều ham muốn lớn lao là
“ăn uống, trai gái” để trường trai thờ
Phật, tinh tu phạm hạnh, khi mất th́ có tiết tháo
lớn lao “tự giết ḿnh để thành tựu
điều nhân, bỏ mạng sống để giữ
nghĩa”, ngơ hầu chẳng phụ tánh linh của chính
ḿnh, chẳng gây tỳ vết cho sự giáo hóa của Phật,
nêu gương cho trời - người, dứt thói tục
suy đồi đời Mạt, chẳng đáng gọi là
bậc trượng phu trong nữ giới hay sao? [Ni sư]
đáng để Đường Đà dựng tháp, lại
c̣n cầm “y câu”[20] cầu
khắp các danh nhân đề lời tán thán ḥng phát huy u quang
nơi đức hạnh ngầm kín của bà ta, mong sao thế
đạo khỏi suy đọa vậy. Do đó, tôi bèn nêu
bày nghĩa lư ẩn kín như thế đó.
23. Bày tỏ
ư nghĩa ẩn kín của việc lập trường học
trong nhà thờ ông Đường Hiếu Tử
Mạnh
Tử nói: “Ai cũng có thể
là Nghiêu - Thuấn”. Lại nói: “Đạo của Nghiêu - Thuấn chỉ là Hiếu -
Đễ mà thôi!” Hữu Tử[21]
nói: “Quân tử chăm lo nơi
cái gốc, gốc được lập th́ đạo
sanh. Hiếu - Đễ chính là cái gốc của ḷng Nhân vậy”.
Như vậy, thành Nghiêu - Thuấn, đạt ḷng nhân chẳng
ngoài tận lực hành Hiếu - Đễ, thoạt đầu
chẳng có ǵ là lạ lùng, đặc biệt, huyền diệu,
gian nan khốn khổ đến nỗi dù muốn làm cũng
không thể làm được! Ai nấy phải nên gắng
sức để khỏi phụ đức tánh chỉ riêng
con người là “vạn vật
chi linh”, sánh cùng thiên địa gọi là Tam Tài. Trời
đất thật rộng, thật lớn, con người
chỉ có cái thân bảy thước mà lại có thể
xưng ngang hàng với trời đất là v́ có thể tán
trợ sự sanh trưởng, nuôi nấng của trời
đất, kế tục chí hướng, sự nghiệp
của thánh hiền. Nếu không, cứ mưu mẹo, quỷ
quyệt, bại hoại luân thường, gây loạn phong
tục, gây ô nhục cho cả trời đất lẫn
nhân loại th́ h́nh dáng tuy là người, nhưng thật ra
chẳng bằng cầm thú! Cầm thú chẳng biết lễ
giáo, c̣n con người biết lễ giáo, biết lễ mà
trái nghịch th́ phải ở dưới loài cầm thú.
Con người như vậy sống làm loài cầm thú mặc
áo đội mũ, chết ắt đọa trong tam đồ
ác đạo.
Con người sao lại
khổ sở dùng cái tư chất làm Nghiêu - Thuấn, làm bậc
nhân từ, để cam ḷng măi măi làm loài chúng sanh đáng
thương trong súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục,
thật ra là do cái tâm ǵ vậy? Không có ǵ khác cả, đều
là do giáo dục trong gia đ́nh chưa tới nơi tới
chốn, cũng như do chính ḿnh chẳng nỗ lực mà
nên nỗi! Gần đây, phong tục Âu Tây dần dần
lan đến, những kẻ theo tân học chán cái cũ,
thích cái mới, ùa theo như ngựa chạy quàng. Phàm những
chỗ hay v́ nước v́ dân của người Âu thảy
đều chẳng học, c̣n những chỗ khinh miệt
lễ nghĩa, loạn luân thường của họ lại
dốc sức học đ̣i. Rốt cuộc phế kinh, phế
luận, căm ghét ḷng hiếu v.v… không ǵ chẳng làm, chỉ
muốn cho con người hoàn toàn chẳng khác ǵ cầm thú
mới thôi! Những người có ḷng lo cho thế đạo
nhân tâm, ai nấy đều ôm ḷng lo lắng.
Ông Đường
Đà ở Vơ Tấn muốn cứu văn phong tục suy
đồi, thấy sự tích của tiên tằng tổ[22]
là Đường Hiếu Tử, tức An Bang Công, tuy đă
được phô tỏ, chép trong ấp thừa (sổ bộ
trong làng), nhưng chưa lập miếu thờ, người
biết đến cũng ít nên bèn lập miếu, khắc
bia để tỏ rơ đức. Lại lập một
trường tiểu học trong miếu thờ, đặt
tên là Đường Hiếu Tử Từ Hiệu (trường
học trong nhà thờ ông Đường Hiếu Tử)
để những con em nhà nghèo nơi ấy đến học,
ngơ hầu trông thấy tên nghĩ đến nghĩa, học
đ̣i tiền nhân, giữ vẹn cái gốc, trọng luân
thường, tận hết bổn phận. Ban đầu
th́ hầu hạ, phụng dưỡng cho cha mẹ
được an thân; kế đến là lập thân hành
đạo để cha mẹ được vẻ vang. Đă
có hiếu th́ ắt sẽ có thể dốc sức tu tập
hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ
v.v… Đă thực hiện được cái đạo làm
người th́ cái đạo làm Nghiêu - Thuấn, làm bậc
nhân từ cũng đạt được, mà cái đạo
“tán trợ quyền sanh trưởng, dưỡng dục
của trời đất, kế tục chí hướng, sự
nghiệp của thánh hiền” cũng có thể tùy phần
mà đạt được! Ư của ông Đà là như thế
đó. Do vậy, chẳng từ nhọc nhằn, bán chữ
để lo liệu, thật có thể nói là người dốc
ḷng nơi cái gốc, trọng luân thường, đề
cao đức, hâm mộ nghĩa, ông Đà là người hiền
vậy. Cháu ông ta là Doăn Trung cũng tùy sức khuyến trợ,
đủ thấy trong họ Đường có lắm người
hiền.
Tuy thế, ông Đà hiền
là có nguyên do. Xét ra, khi ông Đà mới được
năm tuổi, cha là cụ Tuân Chi qua đời; khi ấy,
anh ông Đà là Quang Thịnh mười một tuổi, em
gái mới ba tuổi, gia cảnh nghèo nàn, lênh đênh cô khổ
không sao nói nổi. Mẹ ông là bà Trâu Cung Nhân hằng ngày
siêng năng khâu vá, thêu thùa, giặt quần áo thuê để
kiếm sống qua ngày hầu nuôi dạy con khiến cho anh
em ông Đà đều thành người vẹn đức.
Bà lại v́ chồng mua đất làm nơi chôn cất. Lập
xong, người trong thôn dời di cốt của ni sư
Thanh Liên thuộc am Đại Thành vào chôn trong đó. Trâu
Cung Nhân hỏi han kỹ, biết [ngọn ngành], chẳng những
không lấy đó làm điều tỵ hiềm, trái lại
c̣n sanh ḷng kính ngưỡng sâu xa. Hằng năm, cúng tế,
tảo mộ, dạy hai con đến tế mộ ni
sư. Đến khi Cung Nhân mất đi, chủ đất
dời [hài cốt ni sư] chôn đi nơi khác. Anh em ông
Đà cảm ḷng từ của mẹ, lại sợ sau này
mất dấu, nên đem về chôn trong phần mộ của
cha mẹ, lại dựng tháp để biểu lộ
đức cao đẹp, tiết tháo thanh khiết của
ni sư. Khi chồng mất, Trâu Phu Nhân tuổi c̣n rất
trẻ, cam phận nghèo cùng, thủ tiết nuôi dạy hai
con, kính ngưỡng ni sư đem thân tuẫn pháp[23]
giống như Từ Mẫu nước Ngụy[24],
người cô có nghĩa đất Tề, đức
đẹp, trinh tâm đáng làm gương cho đời. V́
thế, khiến cho ông Đà tuổi quá năm mươi vẫn
chẳng giảm ḷng quyến luyến, ngưỡng mộ,
muốn tỏ rộng ḷng hiếu để báo ân mẹ,
nên mới lập nhà thờ này, lập trường học
trong ấy để dạy con em nhà nghèo trong làng, ḥng làm
căn cứ để văn hồi thế đạo nhân
tâm. Có thể nói là dốc ḷng thờ mẹ, trọn hết
đạo con.
Do vậy, tôi bèn phát huy
ư nghĩa ẩn tàng ngơ hầu hiếu hạnh của An
Bang Công và đức ngầm của Trâu Cung Nhân đều
được tỏ rơ, khiến cho người thấy
nghe thảy đều phát tâm. Hiếu Kinh nói: “Đại hiếu là kinh của
trời, nghĩa của đất, hạnh của dân”.
Do vậy, nói rằng: “Một
lời, một hạnh chẳng hợp đạo đều
là bất hiếu!” V́ thế mới nói: “Hiếu - Đễ là cái gốc của ḷng nhân.
Đạo của Nghiêu - Thuấn chỉ là Hiếu - Đễ
mà thôi!” Phàm những ai làm con không thể không suy nghĩ
sâu xa, cực lực hành theo vậy!
24. Duyên khởi
của Hội Nghiên Cứu Phật Học Cao Châu, tỉnh
Quảng Đông
(viết thay cho ông Hà Kiếm Tinh)
Phật
pháp không ǵ lớn chẳng bao trùm, không ǵ nhỏ nhặt chẳng
nêu. Y theo pháp này tu tập th́ chẳng những có thể
đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, mà
đối với đạo “cách vật trí tri, chánh tâm
thành ư, tu - tề - trị - b́nh, làm sáng tỏ Minh Đức,
đạt đến chí thiện” nếu như thấu
hiểu Phật pháp sẽ bớt được nửa
công sức mà đạt hiệu quả gấp bội. Bởi
lẽ những ǵ thánh nhân thế gian đă nói chỉ nhằm
dạy con người trọn hết bổn phận, chỉ
có bậc thượng trí mới có thể tuân theo trọn
vẹn, chứ nếu là kẻ căn tánh trung hạ ắt
sẽ hờ hững bỏ qua. Phật dạy tường
tận sự lư nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi
và “hết thảy chúng sanh đều sẵn đủ
Phật tánh, đều có thể thành Phật”, khiến
cho kẻ thượng trí ắt mong chứng được
điều ḿnh sẵn có, kẻ hạ ngu cũng chẳng
dám phóng túng buông tuồng kẻo chuốc lấy tội khổ
trong vị lai, thế tất nhiên sẽ cải ác hướng
thiện, mong thành thánh thành hiền, dẫu ở trong nhà tối,
pḥng kín vẫn thường như đối trước
Phật, trời.
Đức Như Lai
dùng Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện để thâu nhiếp
khắp hàng tại gia nam nữ. Tu được Ngũ Giới
Thập Thiện sẽ thắng được hung tàn, dứt
bỏ giết chóc, bỏ tồi tệ, khôi phục thuần
ḥa, măi măi ĺa khỏi ác báo tam đồ, thường hưởng
khoái lạc trời - người. Pháp nông cạn nhất
c̣n được như thế, huống chi là pháp sâu xa nhất.
V́ thế biết đức Như Lai là đại sư của
tam giới, là cha lành của bốn loài, là bậc thánh của
chư thánh, là trời của các trời. Do vậy, vua thánh
tôi hiền, người thông hiểu, bậc thấu đạt
không ai chẳng y giáo tu tập, hộ tŕ, lưu thông bởi
lẽ hết thảy các pháp lấy tâm làm gốc, chỉ
có Phật pháp dạy rơ rốt ráo cái tâm. Xét từ thời
Đông Hán, đại giáo từ phương Tây truyền
qua. Gần hai trăm năm, chỉ lưu truyền ở
phương Bắc. Đến thời Tam Quốc, ngài Khang
Tăng Hội cảm hóa được Tôn Quyền,
người phương Nam mới bắt đầu
được thấm nhuần sự giáo hóa của Phật.
Đến đời Tấn, Phật pháp truyền khắp
toàn quốc và Cao Ly, Nhật Bản v.v… Đến đời
Đường, các tông đều có đủ, có thể
sánh bằng Tây Thiên.
Mấy trăm năm
qua, pháp đạo lưu thông, cao nhân như rừng, chép
trong các truyện kư không biết bao nhiêu mà kể. Pháp phái Tào
Khê phát xuất tại đất Việt Đông[25]
ta, truyền tâm ấn của Phật, không ai chẳng sùng mộ.
Do vậy, biết đất Việt (Quảng Đông) tuy
là nơi biên địa, nhưng lại có đại nhân
duyên đối với đại pháp của Như Lai. Do vậy,
Thiền Tông hưng khởi mạnh mẽ, trong hai chúng tại
gia cũng vẫn có nhiều người triệt ngộ
cái ḿnh sẵn có, minh tâm kiến tánh. Đến các đời
Tống, Nguyên, Minh, pháp đạo chẳng suy. Vào cuối
thời Minh, đột nhiên [Phật pháp] hưng khởi mạnh
mẽ, ngài Hám Sơn do hoằng pháp bị sàm báng, phải tội
đày đi Việt Đông, [nhờ đó] trung hưng Tào
Khê. Khi ấy, giặc giă tứ bề, bá tánh khốn khổ,
quan Chế Đài[26]
chẳng biết tính cách nào, ngài Hám Sơn dùng lời giảng
giải dẹp tan. Đọc bộ Hám Sơn Niên Phổ
và Niên Phổ Sớ sẽ biết dân đất Việt gội
ân đức đại sư rất sâu.
Đến khi có nhà
Thanh, tôn sùng, kính trọng Phật pháp thật mạnh mẽ,
Thế Tổ (Thuận Trị) tuân theo chế định
của Phật, băi trừ lệ thí Tăng và quy chế cấp
độ điệp, cho tùy ư xuất gia. Đương
thời, cao nhân như rừng, lệnh ấy khá hữu
ích, nhưng điềm khiến cho Phật pháp suy vi thật
sự đă bắt đầu từ đây. Từ đó về
sau, hơn một trăm năm, Phật pháp vẫn c̣n
hưng thạnh. Từ thời Gia Khánh - Đạo Quang trở
đi, bậc triết nhân ngày càng hiếm, người nêu
gương càng kém, quốc gia chẳng chú trọng đề
xướng, tăng lữ suy đồi chẳng gắng
sức. Lại thêm vào thời Hàm Phong - Đồng Trị,
chiến tranh liên miên, bậc tiền tu đă mất,
đám hậu côn (con cháu) cũng chẳng nghe thấy ai,
đến nỗi nhiều kẻ thô bỉ, bại hoại,
vô lại trà trộn vào pháp môn. Hàng nho sĩ tại gia nếu
không có tri kiến lỗi lạc không ai chẳng cho Phật
pháp là ung nhọt, cho là vô ích đối với nhân dân, quốc
gia, nhưng đại kinh đại pháp “cách vật trí tri, chánh tâm thành ư, tu - tề - trị -
b́nh và đoạn Hoặc chứng chân liễu sanh thoát tử”
của đức Như Lai nếu không nghiên cứu nào ai
biết được. Những kẻ theo tân học xuất
hiện, lầm lạc cậy vào ư ḿnh, mặc t́nh gièm báng,
khinh nhờn, đến nỗi những kẻ hủy chùa,
đuổi Tăng nối nhau dấy lên. Mấy năm gần
đây, nhân sĩ các giới mở rộng tầm mắt,
biết Phật là đạo độc nhất vô nhị
trong thế gian, chẳng những không xung đột với
hết thảy triết học, khoa học, chính trị, luật
pháp, mà c̣n có thể giúp cho hết thảy triết học,
khoa học, chính trị, pháp luật đều đạt
được lợi ích thật sự. Do vậy, phàm những
ai có chí muốn tự thấy được bản lai diện
mục và văn hồi thế đạo nhân tâm không ai chẳng
nghiên cứu Phật pháp, thọ Tam Quy để chánh tam
nghiệp, vâng giữ Ngũ Giới, tu Thập Thiện,
ăn chay, niệm Phật, kiêng giết, phóng sanh, [những
chuyện] xưa kia bị chê bai là hạnh của kẻ
ngu phu, ngu phụ, nay vĩ nhân, danh sĩ đều làm. Do vậy,
mọi nơi đều lập ra hội nghiên cứu Phật
học, Phật kinh lưu thông xứ (nơi phát hành, truyền
bá kinh Phật). Suy đồi cùng cực ắt sẽ khôi
phục, bỉ cực ắt thái lai. Nay thế đạo
nhân tâm đă suy hăm đến cực điểm, nếu chẳng
dùng “nhân quả báo ứng, sanh
tử luân hồi và hết thảy chúng sanh đều có Phật
tánh, đều có thể thành Phật” để giáo huấn,
quyết khó thể thâu được hiệu quả. Do một
niệm tâm tánh của chúng ta bất biến tùy duyên, tùy
duyên bất biến, hễ gặp ngộ tịnh duyên bèn
chứng tam thừa và Phật pháp giới. Hễ theo mê nhiễm
duyên bèn thành nhân - thiên và bốn ác thú pháp giới. Tuy mười
pháp giới thăng - trầm, sướng - khổ khác xa
như trời với đất, nhưng tâm tánh sẵn có
tại phàm chẳng giảm, nơi thánh chẳng tăng. Nếu
hiểu chắc chắn nghĩa này, dẫu táng thân mất
mạng quyết chẳng chịu bỏ ngộ tịnh
duyên, chọn lấy mê nhiễm duyên để rồi bao kiếp
luân hồi, không thể thoát ra. Do vậy, biết những
pháp nhân quả báo ứng sanh tử luân hồi trị
được cả gốc lẫn ngọn, là đại
đạo để phàm lẫn thánh cùng theo, là
phương tiện lớn lao để thánh nhân thế
gian, xuất thế gian b́nh trị thiên hạ, độ
thoát chúng sanh. Trong thời buổi hiện tại, nếu bỏ
pháp này th́ dẫu cho Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Vơ,
Châu, Khổng cùng xuất thế cũng chẳng biết
làm sao!
Thiên hạ chẳng yên,
thất phu có trách nhiệm! Phật pháp cao vời bị điêu
tàn đă lâu, xuất gia lẫn tại gia đều
đang trong mộng mị. Những đồng nhân lập
ra hội nghiên cứu Phật học và Phật kinh lưu
thông xứ để những người có chí tự lập,
lập người tùy theo thiên tư của ḿnh mà tu tŕ.
Người sâu xa bèn thấy sâu xa, khó ǵ chẳng đoạn
Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử. Người
nông cạn sẽ thấy nông cạn, cũng có thể sửa
lỗi làm lành, mong thành thánh thành hiền, văn hồi thế
đạo nhân tâm, thúc đẩy đạo đức của
nhân quần, cố nhiên phạm vi chính trị và tôn giáo chẳng
giẫm chân nhau, mà cũng chẳng mâu thuẫn nhau. Một
ḷng thành khăng khăng, xin hăy rủ ḷng soi xét.
25. Duyên khởi
của Thượng Hải Phật Học Biên Tập Xă
Tâm tánh
chính là căn bản để hết thảy phàm - thánh
trong mười pháp giới đọa địa ngục
hay sanh lên trời, chứng chân, thành Phật. Nhân quả là
phương tiện lớn lao để hết thảy thánh
nhân thế gian, xuất thế gian b́nh trị thiên hạ,
độ thoát chúng sanh. Nhưng tâm tánh này ai nấy vốn
tự có đủ, chân thường tịch chiếu, mầu
nhiệm chẳng thể diễn tả được. Chỉ
do mê chưa ngộ nên chẳng những không thọ dụng
được, trái lại c̣n dùng sức tâm tánh này để
khởi Hoặc tạo nghiệp; do nghiệp đọa khổ,
xoay vần trầm luân, mê muội, luân hồi sáu nẻo
đến tận đời vị lai, trọn không có lúc
thoát ra được, khiến cho đức Thích Ca Mâu Ni
Thế Tôn ta rủ ḷng thương xót, khởi ḷng Vô Duyên Từ,
vận ḷng Đồng Thể Bi, chẳng ĺa Tịch Quang,
thị hiện giáng sanh trong thế gian, tinh tu phạm hạnh,
thành Đẳng Chánh Giác. Do vậy, Phật than: “Lạ thay! Lạ thay! Hết thảy
chúng sanh đều đầy đủ trí huệ, đức
tướng của Như Lai, nhưng do vọng tưởng,
chấp trước nên chẳng chứng đắc. Nếu
ĺa vọng tưởng th́ Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên
Trí, Vô Ngại Trí liền được hiện tiền”.
Bởi đó, tùy cơ
thuyết pháp khiến cho [chúng sanh] được độ
thoát. Nhưng do căn khí sai biệt nên pháp không có tướng
nhất định, hoặc Tiệm, hoặc Đốn,
hoặc Quyền, hoặc Thật, hoặc Hiển, hoặc
Mật, hoặc Tánh, hoặc Tướng, cốt sao đều
được triệt ngộ, triệt chứng diệu
Chân Như tánh “tại phàm chẳng giảm, nơi thánh
không tăng, suốt ngày tùy duyên, nhưng suốt ngày bất
biến” mới thôi. Do tâm tánh này về Thể tuy bất
biến, nhưng Dụng lại thường tùy duyên, do thuận
theo mê nhiễm duyên dầy hay mỏng sai khác mà thành sáu phàm pháp
giới. Do nương theo ngộ tịnh duyên sâu - cạn
khác biệt mà thành bốn thánh pháp giới. Đă biết Thể
thường bất biến, do mê - ngộ, thuận - nghịch
nên Tướng - Dụng khác biệt vời vợi, ai không
muốn bỏ mê nhiễm duyên, thuận theo ngộ tịnh
duyên, khôi phục thiên chân sẵn có, viên thành vô thượng
giác đạo ư? Mười pháp giới mỗi mỗi
đều chẳng ra ngoài nhân quả, muốn ĺa khổ
được vui siêu phàm nhập thánh th́ cố nhiên nên chọn
lựa cẩn thận.
Lại sợ chúng sanh
nghiệp nặng chướng sâu, dù có trồng thiện
căn, được sanh trong trời - người,
nhưng chưa đoạn Hoặc ắt phải tạo
nghiệp, một khi đọa vào ác đạo, chẳng
có lúc hết khổ. V́ vậy, do tâm đại từ bi,
đức Phật đặc biệt mở ra pháp môn Tịnh
Độ để phàm phu đầy dẫy phiền năo
trong đời hiện tại liền thoát khỏi Sa Bà,
sanh về Cực Lạc, cùng với các vị Bồ Tát thuộc
những địa vị Thập Trụ, Thập Hạnh,
Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng
Giác như Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền v.v…
cùng tụ hội một chỗ, thân cận Phật Di
Đà để dần dần chứng được
đạo quả. Ôi! Ân Thế Tôn có thể nói là tột bậc,
dẫu trời che đất chở cũng khó ví được
chút phần! Đến khi chúng sanh căn cơ [phù hợp]
đă hết, sự ứng hiện của Như Lai phải
thôi dứt, nhưng ḷng đại bi lợi sanh trọn chẳng
cùng tận. Do vậy, các đại đệ tử phân bố
xá-lợi, kết tập Kinh Tạng ḥng lưu thông khắp
pháp giới, để tất cả đều được
thấm nhuần pháp.
Đến thời
Đông Hán, đại giáo mới bắt đầu truyền
sang [Trung Hoa]. Nhưng do phong khí chưa được mở
mang nên chỉ lưu truyền ở phương Bắc,
đến năm Xích Ô thứ tư (241) đời Tôn Ngô,
tôn giả Khang Tăng Hội khai hóa ở Kiến Nghiệp[27],
được xá-lợi của Như Lai giáng lâm, khiến
Tôn Quyền hết sức tín ngưỡng bèn dựng chùa
xây tháp để hoằng dương pháp hóa. Pháp được
lưu truyền ở phương
Khi Như Lai tại thế,
ngàn căn cơ đều được dưỡng dục,
vạn phái chầu về; đức Phật diệt độ
rồi, bậc hoằng pháp đại sĩ mỗi vị
hoằng dương một tông, để mong thâm nhập một
môn th́ các pháp đều thông. Ví như ngàn hạt châu nơi
cái lưới của Thiên Đế, mỗi một hạt
châu chẳng lẫn vào nhau, nhưng một châu lại nhập
vào trong khắp ngàn hạt châu, ngàn hạt châu được
nhiếp trong một hạt châu, ḥa lẫn vào nhau nhưng
chẳng xen tạp, riêng biệt nhưng chẳng tách rời.
Kẻ câu nệ h́nh tích cho là hết thảy pháp, mỗi
pháp đều khác biệt. Người khéo hiểu thấy
hết thảy pháp, pháp nào pháp nấy viên thông. Như bốn
cửa thành, gần cửa nào bèn vào bằng cửa đó,
cửa tuy bất đồng, nhưng vào [trong thành] rồi
chẳng khác ǵ nhau. Nếu biết ư này th́ há phải đâu
chỉ có những lư chắc thật rất sâu do chư Phật,
chư Tổ đă nói mới là pháp để quy chân đạt
gốc minh tâm kiến tánh? Khắp cả thế gian, hết
thảy Ấm, Nhập, Xứ, Giới, Đại v.v… mỗi
mỗi đều là pháp để quy chân đạt gốc
minh tâm kiến tánh. Đă thế, mỗi mỗi đều là Chân,
là Gốc, là Tâm, là Tánh. V́ vậy,
kinh Lăng Nghiêm coi Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập
Nhị Xứ, Thập Bát Giới, Thất Đại đều
là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh. Do vậy, nói “không một pháp nào chẳng phải
là Phật pháp, cũng như không một ai chẳng phải
là Phật”.
Hiềm rằng chúng
sanh châu trong chéo áo trọn chẳng biết hay; ôm của báu
đi ăn xin, chịu nghèo khổ oan uổng, dùng tâm
Như Lai tạo nghiệp chúng sanh, dùng pháp giải thoát
để chịu khổ luân hồi, chẳng đáng buồn
ư? V́ vậy, hoằng pháp đại sĩ chẳng nề
khổ sở, dùng đủ mọi phương tiện chỉ
bày, hướng dẫn, khiến cho họ hiểu chắc
thật sự lư nhân quả của mười pháp giới,
triệt ngộ tự tánh của cái tâm để rốt
ráo viên chứng. Từ Đường tới Tống, sang
Nguyên, sang Minh rồi đến Thanh, trọn một ngàn
năm, thanh giáo chẳng suy. Tuy chẳng hưng thịnh bằng
đời Đường, vẫn có thể nói là chỉ
kém hơn đôi chút. Từ thời Hàm Phong - Đồng Trị
trở đi, chiến tranh liên miên, đói kém liên tiếp,
cao nhân ngày càng hiếm hoi, kẻ tầm thường ngày
càng đông đảo, quốc gia chẳng rảnh rang
để đề xướng, tăng lữ không có sức
chấn hưng. Do vậy, những vị cao nhân tại gia
v́ chưa từng nghiên cứu, lầm lạc học theo
thói cũ của họ Âu, họ Hàn, khiến cho Phật
pháp suy bại sát đất.
Đến cuối
đời Thanh, học giới mở rộng, những
người thiên tư cao đều xem đọc kinh Phật,
mới biết cái gốc đạo là đây, bèn đều
lắng ḷng nghiên cứu. Đến khi Dân Quốc thành lập,
pháp luật, quy chế đổi mới, quyền tự
do tôn giáo được ghi trong hiến pháp. Hơn mười
năm qua, phong khí rộng mở. Phàm vĩ nhân thuộc các
giới chính khách, quân sự, học thuật, thương
nghiệp, đa phần đều nghiên cứu Phật
pháp, ăn chay, niệm Phật. Các vị cư sĩ Cố
Liên Thừa, Triệu Vân Thiều v.v…muốn khiến cho
đồng nhân cùng được thấm nhuần pháp lợi
nên tính lập Phật Học Biên Tập Xă tại ngơ
Trường Khang đường Bắc Kinh ở Thượng
Hải. Phàm những luận thuyết giải thích rơ tâm
tánh, nêu rơ nhân quả, lợi ích của việc kiêng giết,
phóng sanh, những chuyện cảm thông của việc niệm
Phật văng sanh, cùng những giải thích kinh luận sâu xa
uyên áo, những sự tu tŕ của bậc nhân sĩ cao
đẹp đều thâu thập, biên tập, mỗi tháng
ra một số để hiến cho người
đương thời, ngơ hầu những người
không biết Phật pháp sẽ do đây được biết,
kẻ biết Phật pháp đôi chút [sẽ do đây] dần
dần hiểu biết thù thắng hơn. Nếu có thể
tuân theo ngôn giáo của Phật, đừng làm các điều
ác, vâng làm các điều thiện, trọng ḷng kính, giữ
ḷng thành, gột tâm rửa ḷng th́ không những thiên tai, nhân
họa sẽ do đây được tiêu diệt, mà phong tục
lại thuần hậu, tốt đẹp, hưởng măi
thái b́nh. Sẽ thấy triệt ngộ duy tâm, đích thân thấy
được Phật tánh, xa ĺa nhân khổ quả khổ
tam giới, chứng nhân vui, quả vui Nhất Thừa,
để khỏi phụ Chân Như diệu tánh sẵn có
trong tâm này vậy.
26. Đề
từ và duyên khởi của Thường Trai Hội
Tâm tánh của
chúng sanh bằng với chư Phật. Do thiện nghiệp
hay ác nghiệp mà quả báo chia thành con người hay súc
sanh. Con người có tri thức, súc sanh chẳng có tài khéo.
Cậy mạnh hiếp yếu, bèn giết chúng ăn thịt.
Con nhà thành đạt c̣n chẳng vay nợ nặng, há nên giết
thân chúng chỉ để sướng miệng, oán hận
cố kết, trải bao kiếp đền trả lẫn
nhau! Thử suy nghĩ đến đó, trong tâm đau
thương. V́ vậy, bèn nhóm họp đồng nhân cùng lập
ra hội này. Phàm trăm chuyện thù tiếp đều
dùng đồ ăn chay, lập riêng quy ước và thuật
duyên khởi, nguyện khắp cả những ai thấy
nghe đều dốc ḷng nghĩ chúng sanh như ruột thịt,
coi chúng như chính bản thân ḿnh.
Vốn
là v́ hết thảy những chúng sanh trên không, dưới
nước, trên cạn, không một loài nào chẳng biết
đau đớn, sướng - khổ, không một loài nào
chẳng biết tham sống sợ chết, không một
loài nào chẳng phải là cha mẹ, anh em, chị em, vợ
con, bằng hữu, thân thích trong vô lượng kiếp của
chúng ta. Hơn nữa, trong đời vị lai không con vật
nào chẳng thể gieo sâu thiện căn, tu tŕ Tịnh nghiệp,
đoạn Hoặc chứng chân, viên thành Phật đạo;
chỉ v́ ác nghiệp đời trước, phải đọa
trong dị loại. Do vậy, hăy nên sanh ḷng thương xót
che chở, khiến chúng đều được sống
yên vui, há nên cậy mạnh hiếp yếu, hoặc dùng trí
bắt lấy, hoặc dùng tiền mua lấy những loài ấy
để cung cấp cho bụng miệng? Chúng nó tuy sức
không chống cự lại được, nhưng cố
nhiên tâm [oán hận] cố kết, cho nên trong đời
đời kiếp kiếp lần lượt giết lẫn
nhau. V́ thỏa bụng miệng một chốc để rồi
thân mạng bị giết nhiều kiếp. So với chuyện
tự giết ḿnh c̣n khốc liệt hơn vạn phần.
Sao lại khổ sở chuốc lấy chuyện tai
ương, họa hại; sao lại ngu mê cùng cực đến
thế?
Xưa kia, nước
Lỗ có hai gă dũng sĩ, nghe tiếng nhau nhưng
chưa gặp gỡ, một ngày kia gặp được
nhau, mua rượu cùng uống. Một gă nói: “Không có thịt
uống rượu chẳng vui, hăy đi mua thịt!” Gă kia
đáp: “Thịt của tôi với anh đây nè, cần ǵ t́m
nữa!” Gă trước cho rằng kiến giải ấy rất
cao, liền trật áo cắt thịt ḿnh để đôi
bên cùng ăn. Gă sau lại cắt thịt ḿnh để
đáp tạ gă trước, dương dương tự
đắc, cho là t́nh giao du của chúng ta quả thật là
tha thiết. Cắt thịt, ăn thịt nhau măi đến
chết! Phàm những ai thấy nghe đều than hai gă ấy
ngu quá. Người đời do ăn thịt nên tạo
các sát nghiệp, đến nỗi bao kiếp tàn sát lẫn
nhau, so với bọn dũng sĩ kia càng khốc liệt
hơn nữa. Do không có con mắt Huệ, chẳng biết
hậu báo, đâm ra đắc ư, tự kiêu, khoe khoang, chê
trách người ăn chay là mê tín và bạc phước. Thế
tục quen thói, điềm nhiên chẳng biết là sai. V́ thế,
trong kinh Đại Thừa như Phạm Vơng, Lăng
Nghiêm, Lăng Già v.v… đức Như Lai đă bày tỏ
cùng cực lỗi họa của việc sát sanh ăn thịt,
có thể nói là ḷng chân từ đại bi nhổ gốc, lấp
nguồn vậy.
Cơi đời gần
đây, sát kiếp thê thảm, ngàn xưa chưa từng
nghe thấy. Huống chi những tai nạn nước, lửa,
tật dịch, băo tố, động đất, hạn
hán, lụt lội v.v… không lúc nào chẳng có. Nói chung là do sát
nghiệp làm duyên khởi, khiến cho thế đạo nhân
tâm ngày càng đi xuống. Do vậy, thiên tai, nhân họa tiếp
nối nhau dấy lên, như đứng trước
gương chẳng trốn được bóng. Đồng
nhân lo lắng, muốn làm cho người đời cùng
vâng giữ chuyện kiêng giết, ai nấy đều
ăn chay. Bất luận chúc thọ, cầu phước,
quan - hôn - tang - tế, đăi khách, nhóm bạn v.v… đều
dùng tiệc chay, một là để trọn vẹn cái tâm
trắc ẩn của ta, hai là mong cho những vị thần
thánh ta tôn thờ và tổ tông, cha mẹ, bè bạn, thân thích
của ta dứt trừ sát nghiệp, tăng trưởng
thiện căn, chứ không phải chỉ riêng lo cho hết
thảy loài vật sống trên không, dưới nước,
trên cạn. Lại mong đây kia bắt chước nhau cho
đến khắp cả làng, cả nước và toàn thiên
hạ, ắt thấy phong tục tốt đẹp thuần
hậu, dân giàu nước mạnh, cùng hưởng sự
giáo hóa đại đồng, vĩnh viễn dứt bặt
thói tranh đua, chim thú, cá, rùa đều được yên vui,
ngơ hầu con người đứng cùng trời đất
xưng tên là Tam Tài, cũng như nghĩa lư “Càn là đại phụ, Khôn là đại mẫu,
nhân dân và ta cùng là ruột thịt, loài vật cũng giống
như ta” chẳng đến nỗi chỉ là nói xuông,
chẳng có mảy may thật nghĩa nào!
27. Duyên khởi
quyên mộ xây dựng Tịnh Độ Đường tại
Liễu Thị, Lạc Thanh[28]
Tam giới
không yên giống như nhà lửa, các khổ đầy dẫy
thật đáng sợ hăi. Chúng sanh ngu si, thường sống
trong ấy, dẫu chịu khổ sở cùng cực vẫn
chẳng cầu thoát ĺa. Dù sẵn có Phật tánh, nhưng do
mê trái nên [tánh ấy] lại biến thành cái gốc để
khởi Hoặc tạo nghiệp, đến nỗi trải
trần điểm kiếp không do đâu giải thoát
được. Chẳng đáng buồn ư? Huống chi
nay thế đạo nhân tâm ch́m đắm đến cùng cực,
sát kiếp thê thảm suốt từ xưa đến nay
chưa từng nghe thấy. Lại thêm trào lưu tân học
bác không nhân quả, [bài xích] đạo nghĩa của thánh
hiền, chê là cổ hủ, mặc sức đề xướng
ư kiến ức đoán của chính ḿnh. Người đui
dẫn lũ mù kéo nhau vào lửa, đến nỗi thiên
tai, nhân họa, liên tiếp giáng xuống. Dân đen ngây ngô
thật đáng thương xót! Do vậy, những người
có tâm lo cho thế đạo mạnh mẽ dấy lên chí lớn
muốn cứu giúp dân, bởi lẽ những nghiệp quả
ấy đều v́ chỉ biết tự tư tự lợi,
chẳng biết tam thế nhân quả thiện ác báo ứng,
cho là người chết đi thần thức liền diệt,
nào có linh hồn theo nhân duyên tội - phước mà thọ
sanh trong trời - người hay tam đồ ác đạo!
Nếu thiện - ác đều đồng bị diệt mất
như nhau, sao không mặc sức mà làm cho sướng khoái
thân tâm? Do vậy, hăm hở tranh nhau làm những chuyện
nghịch trời, trái lư, tổn người, lợi ḿnh và
sát hại sanh mạng ḥng sướng bụng miệng, chẳng
kiêng dè, áy náy chi!
Nếu biết nhân quả
ba đời ắt sẽ sợ phải thọ báo, chẳng
dám nẩy sanh chút ư niệm ấy, há c̣n thực hiện những
chuyện ấy hay sao? Do vậy, sự lư nhân quả ba
đời sanh tử luân hồi do đức Phật ta
đă nói chính là huệ nhật trong đêm dài, niệm Phật
cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới
chính là thuyền từ trong biển khổ sanh tử. Muốn
văn hồi kiếp vận mà bỏ pháp này th́ không c̣n cách nào
cả. Do vậy, những vị Tăng - tục đại
tâm các nơi đều miệt mài đề xướng
Phật học ngơ hầu thiên hạ thái b́nh, nhân dân yên vui.
Cư sĩ Hồ Thiên Bộc ở Lạc Thanh dựng một
ṭa Tịnh Độ Đường tại Hồng Kiều,
khai giảng vào ngày Rằm tháng Tám, muôn người đều
vui vẻ, khen là chưa từng có. Các thiện sĩ ở
Liễu Thị ngưỡng mộ khôn cùng, cũng muốn
lập một chỗ như vậy nơi thành phố của
họ để ai nấy đều được thấm
nhuần pháp. Ngoài những khoản đóng góp do những
người đề xướng bỏ ra, họ c̣n tính
quyên mộ bốn phương nên cư sĩ Bao Hựu
Vũ xin Quang viết sớ.
Trộm nghĩ: Một
pháp nhân quả chính là phương tiện lớn lao để
thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian b́nh trị
thiên hạ, độ thoát chúng sanh; một hạnh Niệm
Phật quả thật là đạo thông đạt để
mười phương tam thế chư Phật làm cho các
chúng sanh được thoát khổ trong hiện đời.
Bỏ pháp này th́ tà kiến không do đâu diệt được,
lợi ích thật sự sẽ không thể nhờ vào
đâu để đạt được! Khế lư, khế
cơ lợi ích khó thể nghĩ lường! Khẩn thiết
mong những vị đại nhân có sức ai nấy đều
tán trợ, khiến cho Phật đường hoàn thành, giảng
hội được khai diễn dài lâu, nhân tâm xoay chuyển,
kiếp vận mau dứt, ngơ hầu thắng hung tàn, trừ
khử giết chóc, phong cách “đối xử với hết
thảy mọi người bằng ḷng nhân từ” lại
được thấy trong ngày nay. Công đức lợi
ích ấy ắt sẽ có thọ lượng bằng với
mười phương hư không, không ngọn bút nào có thể
diễn tả được nổi!
28. Bài
văn cung thỉnh pháp sư Tịnh Quyền giảng kinh
Pháp Hoa
(viết thay giám viện chùa Pháp Vũ)
Cúi ḿnh trộm
nghĩ: Tri kiến của Như Lai ẩn náu trong tâm chúng
sanh, nếu chẳng do đức Phật nói ra, ai có thể
tự ngộ được? Hết thảy các kinh
được nói trong cả một đời đức
Thích Ca, chỉ có ḿnh kinh Pháp Hoa bàn thông suốt nghĩa ấy.
Giơ tay, cúi đầu đều thành Phật đạo;
xử sự, nói năng đều thuận chánh pháp. Chỉ
minh châu trong chéo áo, thoát khỏi hiểm nạn nhà lửa.
Đứa con ăn mày nghèo cùng côi cút lênh đênh là con
đích thật của ông trưởng giả. Từ đất
dầy vô minh, đạt được suối ngọt
pháp tánh. Từ ngay tâm của chúng sanh chỉ ra Như Lai Tạng.
[Những điều ấy] nếu chẳng được
giảng diễn, ai ḥng biết được? Kính nghĩ:
Tịnh công đại pháp sư xưa đă lănh nhận lời
Phật phó chúc làm sứ giả của Như Lai thường
hoằng đại giáo, lợi lạc khắp muôn loài. Dùng
đại trí huệ phát đại biện tài khiến cho
đá tảng cũng phải gật đầu, hoa trời
rơi đầy đất. Văn bối ngưỡng mộ
phong cách đức hạnh đă lâu, chưa được
một lần gặp gỡ. Duyên kém, chướng dầy,
thẹn thùng chi xiết! Do vậy, chủ nhân tệ tự
tính trong mấy tháng mùa Hạ năm sau thỉnh Ngài giảng
diễn kinh Pháp Hoa. Vốn biết tọa hạ vận
ḷng Bi đồng thể, khởi ḷng Từ vô duyên, nên mới
mạo muội khẩn cầu, chỉ mong Ngài lặng im chấp
nhận, ắt hội Linh Sơn khi xưa sẽ lại
được thấy, ai nấy đều cùng chiêm
ngưỡng. Vào dịp ấy ai ai cũng đều vào
được Phổ Môn của đức Quán Âm. Cúi mong Ngài
rủ ḷng từ bi th́ pháp môn may mắn lắm mà chúng sanh
cũng may mắn lắm. Thưa lên cùng Ngài, hết sức
khẩn cầu mong mỏi đến cùng cực vậy!
29. Bài
văn cung thỉnh pháp sư Tịnh Quyền giảng Di
Đà Sớ Sao
(viết thay trụ tŕ chùa Pháp Vũ)
Cúi ḿnh trộm
nghĩ: Viên giác diệu tâm hữu t́nh ai nấy đều
có, nhưng tu tŕ để chứng đắc mấy ai biết
phải nên như thế nào. Kính nghĩ: Tịnh công đại
pháp sư xưa đă nhận lănh lời Phật phó chúc thừa
nguyện tái lai, khai tri kiến Như Lai, nối tiếp
đạo pháp của tông Thiên
30. Quảng
cáo khai trương tiệm bán đồ chay của Ninh Ba Công
Đức Lâm
Hết
thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều là cha
mẹ trong quá khứ, là chư Phật đời vị
lai. Lập phương cách cứu giúp, che chở c̣n e chẳng
kịp, lẽ nào chỉ nhằm sướng bụng miệng
ta mà giết thân mạng chúng ư? Phải biết những
loài vật bay trên không, lặn dưới nước đều
có cùng một tâm linh minh giác tri như ta, nhưng v́ túc nghiệp
sâu nặng cho nên h́nh thể rất khác biệt, miệng chẳng
nói được. Nh́n vào t́nh trạng t́m ṭi cái ăn, trốn
tránh cái chết sẽ tự hiểu chúng nó chẳng khác ǵ
con người. Chúng ta nương vào sức túc phước,
may mắn được sanh trong loài người, tâm có trí
khôn, lẽ ra phải giữ vẹn t́nh cha trời mẹ
đất, coi dân như ruột thịt, xem loài vật
như chính ḿnh, ḥng khỏi phụ [cái tiếng] sánh cùng trời
đất xưng là Tam Tài, phụ trợ quyền sanh
trưởng dưỡng dục của trời đất,
khiến cho dân lẫn loài vật đều được
sống yên, cùng được [trời đất] che chở,
cùng hưởng niềm vui [sống hết] tuổi trời
th́ mới nên!
Nếu chẳng cảm
nhận đức hiếu sanh của trời đất, cứ
mặc t́nh giữ ư niệm tham ăn, tham uống, cậy
ta mạnh lấn hiếp loài yếu, ăn thịt chúng nó
cho thỏa bụng ḿnh, ắt đến ngày nào đó
phước xưa đă hết, sát nghiệp hiện tiền,
muốn chẳng bị đổi đầu thay mặt, lần
lượt bị chúng nó giết ăn, há có được
chăng? Huống chi thịt có chất độc do lúc chúng
bị giết hại tâm oán hận cố kết lại. V́
thế, những khi ôn dịch lưu hành, người
ăn chay rất ít bị truyền nhiễm. Hơn nữa,
thịt là thứ uế trược, ăn vào khí huyết
dơ, tinh thần tăm tối, phát triển nhanh nhưng
chóng suy, là đầu mối dễ nẩy sanh bệnh tật
nhất. Đồ chay là phẩm vật tinh khiết,
ăn vào khí chất trong sạch, trí óc sáng sủa, khỏe
mạnh lâu dài, lâu già, do có nhiều khả năng bồi bổ.
Đây tuy là lời bàn thông thường về phép vệ sinh,
chứ thật ra chính là lời luận cùng tột tánh. Do tập
tục quen thói đến nỗi mê muội chất chứa,
không thể phản tỉnh được!
Phải biết: Nhân từ
đối với dân th́ phải thương yêu loài vật,
tàn nhẫn đối với loài vật quyết khó thể
nhân từ đối với dân, do tập tánh khiến ra
như thế. V́ vậy, khi vua thánh cai trị cơi đời,
chim, thú, cá, rùa đều sống yên vui. [Thánh vương
dùng] đạo sáng dạy dân, chất keo dính (để bẫy
chim), gậy gộc, đạn, cung đều bỏ hết.
Thử nghĩ xem, từ xưa đến nay, phàm những
kẻ tàn nhẫn, tham tàn, ḍng dơi đa phần tuyệt diệt.
Người nhân từ cứu giúp con cháu ắt thạnh
vượng. Kẻ làm ác, Khổng Tử phán đoán kẻ
ấy vô hậu. Kẻ mặc t́nh ăn thịt, Như Lai
dự kư ắt phải đền trả. Xin chớ nói
xuông “xa lánh chuyện bếp
núc”, đấy chính là lời nói quyền biến thuận
theo thế tục. Hăy nên vĩnh viễn dứt những thứ
hôi tanh th́ mới là thật nghĩa xứng lư.
Gần đây, nỗi
thảm sát kiếp quả thật là ngh́n xưa chưa từng
nghe thấy. Nếu suy xét kỹ càng căn nguyên th́ đều
là do ăn thịt mà ra. Những bậc lo cho đời ai
nấy đều muốn nhổ rễ lấp nguồn,
mà Công Đức Lâm được sáng lập ở vùng
Thân Giang (Thượng Hải - Giang Tây) là chỗ đă dựng
lá cờ đầu. Các vị hương thân[29]
như quan Đạo Doăn họ Hoàng, quan Trấn Sử họ
Vương, quan Tri Sự họ Khương, ông
Trương Nhượng Tam, và ông Ngô Đông Sơn v.v… các
vị sa-môn như Đế Nhàn pháp sư, Khai Như, Liễu
Dư v.v… cùng thương xót cho sát kiếp trong cơi đời,
tính gieo trồng nhân, thọ, hạnh phúc, bèn dấn ḿnh vào
chốn bụi trần miền Thân Giang, tự đặt
ḿnh làm người xướng suất cho vùng Ninh Ba, lập
ra Công Đức Lâm này, đề xướng tiệc chay
khiến cho người dân trong vùng mỗi dịp quan - hôn -
tang - tế đều dùng tiệc chay, đăi khách, nhóm bạn
đều dùng món chay. Dùng hành động nấu nướng
nhỏ nhoi thay cho người khác này để tạo thành
phương tiện văn hồi kiếp vận lớn lao.
Chuyên mang chí lợi sanh, hoàn toàn chẳng phải chỉ
để kiếm lời; do vậy, bèn mời những thợ
khéo chế biến món ngon để đáp ứng nhu cầu
quan - hôn - tang - tế tiệc tùng của người dân
trong vùng, hoặc đến Công Đức Lâm này để
dùng, hoặc gởi đến tận nhà cho họ thụ
dụng. [Trả công] ít - nhiều, nồng hậu hay sơ
sài đều tùy ư. Phàm những ai đoái tưởng tới,
quyết chẳng phụ ḷng. Khẩn thiết mong thiện
tín chốn quan trường hay thương măi đều
phát tâm kiêng giết, bảo vệ sanh vật, cùng bỏ
ăn mặn, cùng nhau ăn chay, khiến cho từ phong (gió
từ) từ đây được thổi khắp, ngơ hầu
sát kiếp từ đây tiêu diệt. Sẽ thấy thời
thế ḥa b́nh, được mùa, dân giàu, vật mạnh,
vĩnh viễn không có thiên tai nhân họa, hưởng măi
yên vui thái b́nh. Đấy chính là thâm tâm của các vị
như Đạo Doăn phát khởi Công Đức Lâm này, cho
nên tôi sáng tối thắp hương niệm Phật khẩn
cầu, mong sao các nơi bắt chước theo. Do vậy,
bèn trần thuật duyên khởi.
31. Bài Tiểu
Tham[30] dành cho lễ cử
hành pháp hội Thủy Lục
(Khải
kiến Thủy Lục thọ diên tiểu tham)
(viết thay cho bạn)
Chỉ một
niệm Bồ Đề tâm này chính là thường trụ
vô lượng thọ, khiến cho khắp các chúng sanh trong
pháp giới công đức tánh - tu đều thành tựu. Kính
trông: Trai chủ của Vô Giá Thắng Hội là Thái Thái Tần
Định Thánh túc căn sâu dầy, bẩm tánh hiền thục,
dốc ḷng tin tưởng Phật pháp, quy y Tam Bảo, tu
chân trong cơi tục, làm bậc mẫu nghi trong chốn khuê
các, tùy duyên hiểu đạo, làm bậc thầy khuôn mẫu
cho nữ giới. Thường nhàm ĺa Sa Bà, không chỉ lo
tính kế quay về cho riêng ḿnh, một dạ vui cầu Cực
Lạc mà thường muốn phổ độ quần
manh. Nay gặp lúc tuổi bước vào độ lục
tuần (sáu mươi), sao Vụ[31]
sáng ngời giữa trời, xa ĺa những thói quen thế tục,
đến thẳng đạo tràng viên thông, tận lực
tạ từ những lễ nghi chúc tụng, ăn mừng
của hàng thân thích bằng hữu, mà mở hội lớn
cho thánh phàm trong pháp giới. Dùng ḷng thành của chính ḿnh để
cảm từ lực của Tam Bảo khiến cho chồng
lẫn ḿnh đều được nghiệp chướng
ngầm tiêu, các duyên đều tốt lành: Lúc c̣n sống
hưởng được năm điều phước
như sách Hồng Phạm[32]
đă nói, khi lâm chung lên ngay Thượng Phẩm trong chín phẩm
sen, con vinh, cháu quư, hưởng tốt lành dài lâu trong đời,
đạo tốt đẹp, thời thế yên vui, cả
nước đều hưởng vui mừng. Chứ nào
phải chỉ nhằm làm cho những vị tổ tiên, những
người đă mất trước của họ
Vương, họ Tần đang được lập
trai hội cầu siêu đây đều cùng được
sanh Tịnh Độ!
Kính mong mười
phương pháp giới, tứ sanh lục đạo, hết
thảy hàm thức cùng chứng chân thường. Vốn là
dùng cái tâm “tự lập, lập người” của Nho gia
để hành chuyện “tự lợi, lợi người”
của Bồ Tát. Chỉ v́ do tâm sẵn có Phật nên nguyện
đem lại tuổi thọ cho mọi người. Ôi!
Tánh sẵn có phước thọ mầu nhiệm khó thể
diễn tả, khác nào như biển cả, như núi non,
cùng tận ba đời không sanh diệt, vượt khỏi
hai tầng ải nghĩ - bàn.
32. Bài Tiểu
Tham dành cho các vong linh
(viết thay)
Tam giới
vốn chẳng phải là pháp nào khác, chỉ là do nhất
tâm tạo ra. Hiểu các pháp đều do tâm th́ siêu phàm chứng
giác nào có khó ǵ! Xét nghĩ như vị cư sĩ X… đang
được làm chay để cầu siêu đây xưa
đă có linh căn, dốc ḷng tin tưởng Phật pháp,
thông minh, trí huệ, hiểu thấu suốt, ôn ḥa, hiền
lành, cung kính, cần kiệm. Ḷng hiếu thuận phát xuất
từ thiên tánh, ḷng nhân từ thấu khắp người
vật. Suy nhân tính quả, dùng tâm nghiệm phước, ắt
cư sĩ sẽ hưởng thọ dầy, tước
cao để rộng mở mối kinh luân. Ngờ đâu
tuổi mới vừa nhược quan (hai mươi tuổi)
đă chết yểu, liền mất thân mạng. Chắc
là do t́nh yêu thương cha mẹ tha thiết, muốn cho [cha
mẹ] cùng được sanh Tịnh Độ nên mới
thị hiện vô thường, ḥng khích động cái tâm
xuất thế cho cha mẹ để thành tựu ḷng hiếu
“không ḷng hiếu thế gian nào lớn lao hơn được”!
Có thể nói là “tuy bất hiếu
nhưng lại chính là đại hiếu, do vô thường
chứng được chân thường” ḥng báo ân cha mẹ
cũng như cảnh tỉnh đồng luân, hiện thân
thuyết pháp, hay khéo không ǵ sánh ví được!
Nào ngờ lại làm
cho tâm cha mẹ thương yêu con càng thêm chân thành, thiết
tha, chỉ sợ Tịnh nghiệp của ông chưa chín muồi
chẳng thể văng sanh, bèn đến đạo tràng viên
thông, lập Vô Ngại Hội, cứu tế khắp các cô
hồn. Do công đức này sẽ khiến cho ông nếu
chưa văng sanh liền được văng sanh, đă văng
sanh ắt tăng cao phẩm vị. Như vậy là muốn
cho ông hiểu Đệ Nhất Nghĩa, ngự lên ṭa sen
Thượng Phẩm, thấy Di Đà nơi tự tâm, chứng
Vô Sanh trong đương niệm, lập bày tiệc chay
thơm thảo, lại dạy pháp yếu.
Phải biết:
Trước khi được cha mẹ sanh ra, vốn không
hề có tướng nam hay nữ; sau khi Tứ Đại
chia ĺa, chỉ có mỗi một cái tâm linh tri. Do huyễn
nghiệp buộc ràng nên chẳng thể liễu thoát ngay lập
tức. Nếu phàm t́nh mau chóng dứt bặt, triệt
để gánh vác nào có khó chi? Tướng do nghiệp mà huyễn
sanh, nghiệp do tâm mà vọng khởi. Tâm nếu chẳng
sanh, nghiệp bèn tiêu diệt. Nghiệp tận t́nh không, hoàn
lại cội, quay về nguồn. Ví như mây tan giữa không
trung, vầng mặt trời nhanh chóng hiển hiện bản
thể; nước đổ vào biển cả, sông ng̣i và
biển sâu rộng nào khác chi nhau? Trọn mười
phương không thiếu, không thừa, tột cùng ba đời
bất sanh bất diệt.
Lư ấy tuy ngộ dễ
dàng, chứng được thật khó! Hăy nên phát tâm tín
nguyện, cầu sanh Tây Phương, nhất định cậy
vào sức của Phật Di Đà mau chóng ĺa ngũ trược.
Từ đây, hầu cận Như Lai, tham dự vào hải
chúng, nghe pháp thọ kư, khai tri kiến Phật, đoạn
Hoặc chứng chân, đạt được cái vốn
sẵn viên thông. Rồi cậy vào từ lực của Phật,
nương theo nguyện luân của chính ḿnh hiện sắc
thân trọn khắp pháp giới khiến cho những kẻ
mê cùng được lên bờ giác. Ôi! Lâu đài gần
nước được thấy vầng trăng trước,
hoa cỏ hướng về mặt trời sớm gặp
được tiết Xuân. Từ khi được ngài Biến
Cát (Phổ Hiền) chỉ dạy, dẫn về [Tịnh
Độ], hải chúng đều phế bỏ chuyện
đi về phương
33. Bài Tiểu
Tham dành cho vong linh trong trai hội Thủy Lục
(viết thay cho bạn)
Sa Bà vốn
là cơi nước khổ đau, sanh tử luân hồi thật
đáng đau thương, nhổ trừ rễ ái trở
về Tây, nhiệt năo bao kiếp nhanh chóng biến thành mát mẻ.
Kính trông vị được cầu siêu trong trai hội
này là tiên sinh Thiệu Cầm Đào, xưa đă trồng cội
đức, giữ hạnh trong sáng; đọc sách hiểu
lư, nêu gương điển h́nh trong chốn trần ai, học
đạo yêu người, giúp việc chánh trị trong chốn
quan phủ, buôn bán qua lại khiến cho nước giàu mạnh,
ai nấy đều được hưởng gió mát từ
hai ống tay áo; giúp nạn pḥ nguy, tâm riêng nêu một vầng
trăng sáng. Lại c̣n dốc ḷng tin tưởng Phật
pháp, tôn sùng, kính trọng Tam Bảo. Tuy chưa chuyên tu Định
Huệ, nhưng thật đă hợp với từ bi. Sắp
bước vào tuổi tri mạng (50 tuổi), liền vứt
bỏ thân huyễn; [đây là] chuyện đáng đau ḷng
nên nhờ cánh tay vàng [của Phật giúp đỡ]. Do vậy,
hiếu nam là những vị tên… cùng với các quyến thuộc
tính làm lễ truy tiến, mở ra hội lớn Vô Giá.
Phải biết: Tâm, Phật,
chúng sanh, ba thứ không sai biệt. Do mê hay ngộ bất
đồng cho nên thăng hay trầm thật khác! Nghĩ
ngài xưa đă nêu gương “gió mát, trăng trong” tốt
lành, vốn là nương oai thần của Pháp Thân Bát Nhă.
Hiểu được điều này sẽ tự dứt
được cái tâm cuồng nhận lầm h́nh bóng, khởi
chánh trí phản chiếu, mới biết đầu vốn
chẳng mất, Phật tự viên thành! Chẳng ĺa niệm
này, nhập thánh siêu phàm, vĩnh viễn ĺa khỏi huyễn
khổ hư vọng, thường hưởng pháp lạc
chân thường. Lư tuy có thể đốn ngộ, sự
khó thể viên măn ngay. Hăy nên phát thâm tâm tín nguyện cầu
sanh Tịnh Độ, chắc chắn sẽ được
đức Từ Phụ Quang Thọ dẫn về Liên Bang.
Từ đây thần thức siêu thăng cơi Thanh Thái[34],
nghiệp tạ từ trần lao, sen nở hoa Thượng
Phẩm, Phật thọ kư ngay trong một đời. Sau
đấy sẽ nương theo nguyện luân của chính
ḿnh, trở vào Sa Bà, nghịch - thuận - ẩn - hiển
độ thoát chúng sanh, khiến cho hữu t́nh khắp pháp
giới cùng chứng Phật tánh thường trụ, khiến
cho tấm ḷng hiểu lư yêu người, tiết tháo gió mát
trăng trong theo chiều dọc cùng tột ba đời,
theo chiều ngang trọn khắp mười phương.
Như vậy mới có thể gọi là chẳng cô phụ
ân Phật giáo hóa, chẳng phụ bạc tánh linh của
chính ḿnh, siêu quần bạt tụy, thật sự là bậc
đại trượng phu. Ôi! Băng và nước tánh
ướt nào hai? Chúng sanh và Phật vốn cùng một tâm
giác. Chỉ cần quay trở lại nh́n vào tự tánh liền
đạt được của quư báu vô giá sẵn có.
34. Bài Tiểu
Tham dành cho vong linh trong lễ cầu siêu cha mẹ ông
Trương Tổng Nhung[35] trấn Định
Hải
(viết thay)
Nhất
niệm Chân Như tâm tánh sáng ngời trọn đại
thiên. Ngộ - mê tuy khác, bản thể vẫn là thiên nhiên.
Kính trông: Vị được sắc phong là Trương lăo
đại nhân… lúc sanh tiền tích thiện tu đức, xử
sự nhân nghĩa, nên mất rồi, con cháu nối tiếp
nhau hưởng măi phước lành, gương đức
luôn như mới, trâm anh tiếp nối măi măi, làm bậc
đứng đầu trong chốn cổ quăng[36],
làm nanh vuốt cho nước nhà. Nay pháp hội rộng mở,
kính cẩn cầu siêu.
Phải gấp hiểu
rơ: Lúc sống tích đức nên nay mới có cái tâm hưởng
sự cầu siêu. Tánh vốn như như, chẳng dời,
chẳng biến, thường tịch, thường chiếu,
ĺa niệm, ĺa danh, viên măn vô lượng công đức, trọn
đủ vô biên diệu dụng. Phàm chẳng thể làm cho
tâm ấy giảm tổn, thánh chẳng thể làm cho tâm ấy
tăng thêm, chẳng phải sắc, chẳng phải không,
trải khắp mười pháp giới chẳng khác, bất
sanh, bất diệt, tận cùng ba đời thường
hằng. Tâm được diễn tả là “linh quang riêng chiếu, thoát khỏi
căn trần, thể lộ chân thường, chẳng câu
nệ vào văn tự, tâm tánh vô nhiễm, vốn tự
viên thành, chỉ ĺa được vọng niệm th́ chính
là Như Như Phật”. Nếu hiểu được
như thế sẽ tự nhiên thấy được thiên
chân Phật tánh, thẳng đến vô thượng Bồ
Đề. Nếu như chưa thể [làm được
như vậy] th́ hăy cậy vào đại bi nguyện lực
của Phật A Di Đà văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Nếu phát trọn vẹn ba tâm th́ ngay khi
đó sẽ lên được chín phẩm, hoa nở thấy
Phật, chứng Vô Sanh Nhẫn. Mới biết từ
trước thăng trầm sáu nẻo, tích thiện tu
đức, cho tới bây giờ đến dự pháp hội,
nghe pháp, hưởng thụ sự dâng cúng. Nhất niệm
tâm tánh vốn từ đầu đă thanh tịnh không bị
nhiễm ô, vốn tự sẵn đủ hằng sa công
đức. Ôi! Đường Tây phương rộng răi
thênh thang, thẳng bước về nhà chẳng cần hỏi
lối. Do tự ḿnh chẳng về, chứ hễ về
liền được. Gió trăng quê cũ há ai tranh?
Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Quyển
Thứ Tư
(Phần
3 hết)
[1] Nghi Nhân: Thời Minh, Thanh vợ các quan thuộc ngạch Ngũ Phẩm được phong là Nghi Nhân. Bà Nghi Nhân này họ Phùng, pháp danh là B́nh Trai.
[2] Thái Tự là vợ của Văn Vương
[3] Đây là đoạn đầu bài
thơ Tư Tề trong kinh Thi, nguyên văn: “Tư Tề Thái Nhậm, Văn Vương chi mẫu,
tư mị Thái Khương, kinh thất chi phụ, Thái Tự
tự huy âm, tắc bách tư nam”. Theo chú giải
được đăng tải trong trang nhà Trung Quốc
Khổng Tử Vơng (không rơ tác giả) th́ đoạn thơ
này phải hiểu như sau: “Thái
Nhậm phong thái đoan trang, mẹ đẻ của
Văn Vương. Thái Khương đức cao đáng trọng,
làm bậc chủ phụ trong vương thất. Thái Tự
kế thừa danh tiếng tốt đẹp, nuôi dưỡng
con cháu thật đông đảo”. Thái Khương chính
là bà nội của Văn Vương.
[4] Bất tiếu: Con cái không xứng đáng, không nối được phẩm hạnh của cha mẹ, tổ tiên.
[5] Di thể ở đây có nghĩa là cái thân ta do chính cha mẹ ban tặng, để lại cho ta nên gọi là “di thể”.
[6] Nguyên văn: “Tánh tương cận dă, tập tương viễn dă”. Câu nói này xuất phát từ thiên Dương Hóa, sách Luận Ngữ. Chúng tôi dịch theo cách giải thích của sách Tứ Thư Bạch Thoại Chú Giải.
[7] Xin các tịnh nghiệp hành nhân đừng quá chú ư thăm ḍ hơi nóng trên thân người lâm chung khiến người sắp chết đau đớn hay sanh ái luyến, khó thể văng sanh.
[8] Xưa kia, người Tàu rất coi trọng chữ viết v́ đối với họ, chữ Hán là văn tự ghi chép những giáo huấn, đạo đức, luân lư của thánh hiền. Những mảnh giấy có viết chữ Hán đều được thâu nhặt, cất giữ cẩn thận. Nếu giấy đă dơ rách th́ thiêu đốt nơi ḷ sạch, đem tro đi chôn, hay đổ xuống sông.
[9] Nguyên văn: “Ai mạc đại vu tử tâm”. Câu này trích từ sách Trang Tử, thiên Điền Tử Phương: “Phù ai mạc đại vu tử tâm, nhi nhân tử diệc thứ chi” (Buồn không ǵ lớn lao bằng cơi ḷng đă chết, ngay cả cái chết của con người cũng chẳng bằng). “Tử tâm” tức là cơi ḷng nguội lạnh, không mong cầu điều ǵ, thờ ơ, hờ hững, không quan tâm đến ǵ nữa. Dĩ nhiên sẽ không thể lo tấn tu đức hạnh, đạo nghiệp!
[10] Theo Liệt Nữ Truyện, thiên Tiết Nghĩa, khi quân Tề sang đánh nước Lỗ, thấy một người đàn bà quê tay ẵm một đứa con, tay dẫn một đứa nữa bỏ chạy. Quân Tề đuổi theo, chợt người đàn bà ấy bỏ đứa bé đang bồng xuống, ẵm lấy đứa kia chạy, mặc cho đứa nhỏ khóc lóc chạy theo. Quân Tề lấy làm lạ, bắt người đàn bà lại tra hỏi. Bà ta nói: “Đứa lớn là con của người anh tôi đă mất, đứa nhỏ là con ruột” “Sao bà lại bỏ con dứt ruột đẻ ra để cứu con anh ḿnh?” Bà ta đáp: “Con tôi là t́nh riêng, c̣n con anh tôi là nghĩa chung. Nếu bỏ nghĩa chung để lo cho t́nh riêng th́ vua chẳng dung, quan chẳng tha thứ, người nước Lỗ chẳng nh́n đến tôi nữa. Bỏ con đau đớn lắm chứ, nhưng thà bỏ con để trọn nghĩa, chứ vô nghĩa làm sao nh́n mặt người nước Lỗ cho được?” Tướng Tề bèn đóng quân lại, sai sứ tâu với vua Tề: “Chưa thể chinh phạt nước Lỗ được! Người dân nơi biên cảnh c̣n trọng đạo nghĩa như thế, chẳng chịu để ḷng riêng tư làm hại đến lẽ công chánh, huống chi triều thần, đại phu!” Vua Tề nghe theo, cho rút quân.
[11] Thiên ḥa: Nói tắt của “thiên thời, địa lợi, nhân ḥa” tức thời cơ tốt đẹp, thuận lợi về mặt vị trí (hiểu theo nghĩa rộng là về mặt vật chất) và con người đồng ḷng đoàn kết.
[12] Nguyên văn “lân chỉ tŕnh tường”
(dấu chân lân hiện điềm lành). Điển tích này
xuất phát từ bài thơ Chu
[13] Huyện Ngọc Điền nằm ở vùng Tây Bắc tỉnh Hà Bắc. Thời đầu Dân Quốc, đường sá nơi ấy rất hiểm trở.
[14] Tuyền Châu là một
thành phố thuộc vùng duyên hải Đông
[15] Theo từ điển Từ Hải, thiên Vệ Linh Công của sách Luận Ngữ có câu: “Hữu sát thân dĩ thành nhân” và giải thích: Phàm những ai v́ chánh nghĩa mà hy sinh đều gọi là “thành nhân”. Sách Tứ Thư Bạch Thoại Chú Giải Giảng: “Người có chí gọi là chí sĩ, người có đức hạnh tốt đẹp gọi là nhân nhân. Chí sĩ nhân nhân trọn chẳng v́ ham sống mà làm hại đến điều nhân, chỉ bỏ mạng giết thân để thành tựu điều nhân vậy. Sát thân thành nhân là hy sinh bản thân nhỏ bé của chính ḿnh để làm lợi cho mọi người”. Chúng tôi dịch câu này theo cách giải thích của bộ Tứ Thư Bạch Thoại Chú Giải.
[16] Vơ Tấn là một thị trấn trực thuộc thành phố Thường Châu, tỉnh Giang Tô.
[17] Vua mới lên ngôi, đổi niên hiệu, gọi là “cải nguyên”.
[18] Thời Minh - Thanh, vợ các quan tứ phẩm được gọi là Cung Nhân. Bà Cung Nhân này họ Trâu nên gọi là Trâu Cung Nhân.
[19] Tự nịch: Gieo ḿnh xuống nước tự tử, c̣n gọi là tự trầm.
[20] “Y câu”: Cái móc cài y ca-sa. Ở đây được dùng chỉ hành trạng, đức hạnh của vị xuất gia.
[21] Hữu Tử (khoảng 518 trước Công Nguyên), tên Nhược, tự là Tử Nhược, người ở Ph́ Thành, là học tṛ của Khổng Tử, từng đề xướng thuyết “dùng lễ, coi trọng ḥa hiếu”. Do ông này khí chất, h́nh dáng rất giống Khổng Tử, nên sau khi Khổng Tử mất, các môn sinh khác rất kính trọng ông.
[22] Tằng tổ: Ta gọi là ông cố.
[23] Tuẫn pháp: V́ pháp mà hy sinh.
[24] Theo Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Hội Biên, Từ Mẫu là người xứ Mạnh Dương, thời Châu Ngụy, là vợ sau của Mang Liễu, sanh được ba người con. Năm người con của đời vợ trước đều không ưa bà. Bà đối xử thật tốt với con chồng, chúng càng thêm căm ghét. Bà dạy con ḿnh chẳng được so b́ với con bà vợ trước, thứ ǵ cũng dành phần hơn cho con chồng. Chẳng lâu sau, đứa con thứ hai của người vợ trước phạm tội, bị xử tội chết. Từ Mẫu hết sức thương xót, sáng tối chạy vạy t́m cách cứu giúp. Có người bảo: “Nó đă không thương bà quá đáng như thế! Sao c̣n phải nhọc nhằn lo toan như thế?” Bà đáp: “Dẫu con không thương ḿnh, tôi vẫn phải cứu nó. Nếu không như thế, con người vợ trước có khác ǵ không có mẹ. V́ sợ nó cô đơn nên cha nó phải lấy vợ kế. Kế mẫu làm vợ người ta mà chẳng thương con vợ trước th́ có gọi là Từ Mẫu được chăng? Thương con ḿnh, bỏ mặc con chồng, có đáng gọi là Nghĩa hay chăng? Bất từ, bất nghĩa, có đáng sống trên đời nữa chăng? Dẫu nó không thương tôi, tôi quên được nghĩa hay sao?” Có người thuật chuyện với vua Ngụy, vua cảm động bèn hạ lệnh ân xá. Từ đấy năm đứa con chồng đều thương bà như mẹ ruột. Bà dạy dỗ tám đứa con đều thành tài, về sau đều thành đại phu khanh sĩ nước Ngụy.
[25] Đất Quảng Đông c̣n gọi là Việt Đông.
[26] Chế Đài: Chức quan văn đứng đầu một tỉnh thời Minh - Thanh, sau đổi thành Tổng Đốc.
[27] Kiến Nghiệp chính là Kim Lăng (Nam Kinh) ngày nay. Cái tên Kiến Nghiệp đă có từ thời Hán Hiến Đế (181-234); trước đó, đất này được gọi là Kim Lăng dưới thời Sở Oai Vương, Tần Thủy Hoàng đổi thành Mạt Lăng, Hán Hiến Đế đổi tên thành Kiến Nghiệp.
[28] Lạc Thanh là một
huyện thuộc miền Đông
[29] Hương thân: các vị thân sĩ (có địa vị, tiếng tăm, đạo đức) trong một vùng.
[30] Tiểu Tham: Dụng ngữ của nhà
Thiền, có nghĩa là tùy thời thuyết pháp, khác với
bài thuyết pháp theo quy củ nhất định trong pháp
đường (“Đại Tham”). Tiểu Tham không có
nơi chốn nhất định. Mỗi tối, sau khi
đánh chuông thu không, vị phương trượng thấy
chúng nhiều hay ít, bèn quyết định thuyết pháp tại
tẩm đường (nhà nghỉ), pháp đường
hay phương trượng. Lời thuyết pháp thường
đề cập đến những điều trọng
yếu cũng như những chuyện đúng sai vụn vặt
trong ngày. Đến thời Nam Tống, Tiểu Tham mới
được phát triển thành loại định kỳ
thuyết pháp, có nghi thức nhất định. Do pháp hội
Thủy Lục này được tiến hành thay cho tiệc
sinh nhật, nên gọi là Thọ Diên.
[31] Tức sao Vụ Nữ, ngôi sao tượng trưng cho nữ giới, c̣n gọi tắt là sao Nữ (là một ngôi sao trong Nhị Thập Bát Tú), thuộc chùm sao Huyền Vũ (gồm các sao Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích). Sao Nữ c̣n có tên khác là Tu Nữ, Chức Nữ. Thật ra, sao Nữ là một cḥm sao gồm bốn ngôi sao nhỏ ở phương Bắc. Đạo giáo coi ngôi sao này là con rùa thiêng của Huyền Thiên Thượng Đế (tức Huyền Vũ Chân Quân).
[32] Thật ra Hồng Phạm là một chương sách của Kinh Thư, nhưng thường được tách riêng ra như một cuốn sách. Tương truyền tác giả của thiên sách này là Cơ Tử.
[33] Trong phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm, ngài Văn Thù (Diệu Cát Tường) dạy Thiện Tài đồng tử lần lượt đi về phương Nam tham học với 53 vị thiện tri thức để học cách thành tựu Bồ Tát Đạo. Vị thiện tri thức thứ 53 là ngài Phổ Hiền (Biến Cát) dạy Thiện Tài dùng mười đại nguyện vương Phổ Hiền để hồi hướng văng sanh Cực Lạc. Câu này ư nói: Sau khi được ngài Phổ Hiền chỉ dạy quy tâm về Tịnh Độ, đại chúng nhất tâm tu tập Tịnh nghiệp, không cần phải tham học với khắp các tri thức để t́m một pháp môn nào khác thích hợp với căn cơ nữa!
[34] Thanh Thái: Tên khác của cơi Cực Lạc. A Di Đà Phật Cổ Âm Thanh Vương Kinh gọi cơi Cực Lạc là Thanh Thái.
[35] Tổng Nhung là tên một chức quan vơ đời Thanh, c̣n gọi là Tổng Binh. Từ năm 1663 trở đi, chức quan cai quản binh bị toàn một tỉnh được quy về tay quan Tuần Vũ là chức quan văn. Tổng Binh là người trực tiếp chỉ huy quân lính theo mạng lệnh của quan Tuần Vũ. Tuy không có phẩm trật nhất định, nhưng Tổng Binh là người có thế lực nhất trong một phủ hay một tỉnh. Một viên quan Tổng Binh có thể chỉ huy từ một vạn đến một vạn rưỡi quân. Dưới triều Thanh, cả nước Trung Hoa chỉ có chừng 83 tổng binh.
[36] Cổ là bắp đùi, Quăng là cánh tay (từ khủy tay đến bàn tay). Từ ngữ “cổ quăng” được dùng để chỉ những bầy tôi thân cận hữu ích của vua.