Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Quyển Thứ Hai
(Phần 4)
II. LUẬN
1. Tịnh Độ Quyết Nghi Luận
Thuốc
không quư - tiện, thuốc trị lành bịnh là thuốc
hay. Pháp không hơn - kém, pháp khế hợp căn cơ là pháp
diệu. Thuở xưa, căn tánh con người thù thắng,
tri thức như rừng, tùy ư tu một pháp đều có
thể chứng đạo. Người đời nay,
căn tánh kém cỏi, tri thức hiếm hoi, nếu bỏ
Tịnh Độ th́ chẳng nhờ vào đâu để
được giải thoát. Tôi tự thẹn nhiều
đời, nhiều kiếp, ít gieo căn lành, phước
mỏng, huệ cạn, chướng nặng, nghiệp
sâu; lúc đang cầu học hỏi lại chẳng gặp
thiện hữu, chưa được nghe đạo truyền
tân[1] của
thánh hiền, lậm cái độc của Hàn, Âu[2] phế
Phật. Học vấn chưa thành, nghiệp lực đă
hiện ra trước. Từ đấy, bệnh nặng
cả mấy năm, chẳng làm ǵ được. Nghĩ
kỹ thiên địa quỷ thần chiếu soi như thế,
cổ kim thánh hiền đông nhiều đến thế,
huống chi Phật vốn chẳng có quyền lực
để ép người thuận theo; ắt phải nhờ
vào vua thánh, tôi hiền hộ tŕ th́ đạo Phật mới
có thể lưu truyền khắp thiên hạ vậy. Nếu
pháp ấy quả thật đúng như lời họ Hàn, họ
Âu: “Phật pháp trái nghịch thánh đạo, gây hại cho
Trung Quốc” th́ chẳng những riêng vua thánh, tôi hiền
xưa nay chẳng dung thứ cho Phật pháp tồn tại
nơi đời, mà thiên, địa, quỷ thần
cũng tru diệt chẳng c̣n sót từ lâu rồi; nào phải
đợi đến họ Âu, họ Hàn dùng lời hư
vọng để bác bỏ nữa!
Sách
Trung Dung nói: “Đạo quân tử
th́ kẻ ngu phu, ngu phụ c̣n có thể biết được,
hành được”; c̣n như cái đạo đạt
đến mức cùng cực th́ ngay cả thánh nhân cũng
có chỗ chẳng hay biết, chẳng thể thực hiện
được nổi. Ông Âu, ông Hàn tuy hiền, nhưng c̣n
kém xa thánh nhân rất nhiều! Huống ǵ có những điều
thánh nhân c̣n chẳng biết chẳng hay! Phật pháp nào có
phải là pháp mà phàm t́nh, trí thế gian có thể suy lường
được nổi. Tôi bèn nhanh chóng sửa đổi
tâm trước, xuất gia làm Tăng, tự lượng sức
ḿnh: Nếu chẳng nương vào sức thệ nguyện
rộng lớn của đức Như Lai th́ quyết khó
có thể ngay trong đời này thoát khỏi sanh tử. Từ
ấy, chỉ niệm Phật, chỉ cầu Tịnh Độ.
Từ nhiều năm qua, tôi đă lạm dự vào chốn
giảng pháp, nhiều phen tham vấn các bậc Thiền Đức[3],
chẳng qua là muốn làm sáng tỏ Đệ Nhất Nghĩa
Đế Tịnh Độ để làm tư lương[4]
thượng phẩm văng sanh mà thôi. Hận rằng sức
lực yếu ớt nên hạnh khó dũng mănh; nhưng tôi
tín, nguyện kiên cố, không những các sư giảng Thiền
trong thế gian không thể lay chuyển tôi chút nào, dẫu
cho chư Phật hiện thân dạy tu pháp khác, tôi cũng
chẳng chịu bỏ pháp này nhận lấy pháp khác, trái
nghịch cái tâm ban đầu. Hiềm rằng túc nghiệp
gây chướng ngại nên rốt cuộc tôi chưa đạt
được nhất tâm bất loạn để
đích thân chứng được Niệm Phật Tam Muội,
thẹn thùng vô kể.
Một
ngày nọ có một Thượng Tọa, tham học Thiền
tông đă lâu, kiêm thông giáo lư, mắt xem bốn biển rỗng
không, thề chứng Nhất Thừa, noi gương Thiện
Tài tham học khắp các tri thức, đến Loa Sơn
gơ cửa thất tôi. Khi ấy, tôi vừa xem tập Di Đà Yếu
Giải thấy văn sâu lư thẳm, chẳng tiện cho kẻ
sơ cơ, mông muội, nên muốn thâu thập những
giáo lư của tông Thiên Thai để viết lời giải
thích, ngơ hầu giúp bậc sơ học dễ bề tiến
bộ, chứ chẳng dám bắt chước cổ đức
hoằng xiển đạo mầu, chỉ toan tạo nhân
duyên thâm nhập chỗ thù thắng cho hậu học. Mừng
có vị Thượng Tọa ấy đến, nên tôi liền
tặng ông ta một cuốn Yếu Giải, rồi tỏ
ư muốn viết lời giải thích. Nhân đấy,
Thượng Tọa bảo tôi:
-
Một cuốn Yếu Giải trước kia tôi đă từng
xem, thấy trong ấy viết rằng: “Tạng sâu thẳm
của Hoa Nghiêm, cốt tủy bí nhiệm của Pháp Hoa,
tâm yếu của hết thảy chư Phật, kim chỉ
nam cho vạn hạnh của Bồ Tát đều chẳng
ra khỏi kinh này”. Những câu như vậy chẳng thể
kể hết, thật đúng chèn ép Tông (Thiền), Giáo (các
tông phái khác như Hoa Nghiêm, Thiên Thai...), quá khen Tịnh Độ,
báng chánh pháp luân, khiến chúng sanh nghi lầm! Chẳng hiểu
đại sư Ngẫu Ích đă có học thức thiên cổ
hy hữu sao lại không trực chỉ nhân tâm, hoằng
dương Chỉ Quán. Trái lại, Ngài chấp vào thứ
kiến giải ấy khiến kẻ ngu phu, ngu phụ dùng
đó như bùa hộ thân, chỉ mong hàng Tăng, tục
trong đời giữ một pháp buông bỏ vạn hạnh;
lấy vũng nước nơi dấu chân, bỏ cả
biển rộng, cùng bước vào nẻo mê, vĩnh viễn
quay lưng với đường chánh, đoạn diệt
giống Phật, tội ngập cả trời. Muốn
báo ân Phật th́ trước hết nên hủy diệt sạch
sách này, sao thầy c̣n tính viết lời giải thích để
giúp cho sách ấy được lưu thông vậy? Tâm giận
ngùn ngụt, như đối diện cừu thù.
Tôi
đợi cho ông ta b́nh tĩnh lại, thong thả bảo rằng:
-
Ông coi lời giải thích này của ngài Ngẫu Ích là tội
lỗi quá nặng; ấy là chỉ biết ngọn, nhánh,
chứ chẳng biết đến cội, nguồn,
như con chó khờ chạy theo ḥn đất, như con ngỗng
chúa chẳng chọn sữa[5].
Phải biết cái lỗi ấy chẳng do cuốn Yếu
Giải này của ngài Ngẫu Ích mà thật sự là do Phật
Thích Ca, Phật Di Đà, mười phương chư Phật
và ba kinh Tịnh Độ, kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, các kinh Đại
Thừa và các vị đại Bồ Tát, tổ sư:
Văn Thù, Phổ Hiền, Mă Minh, Long Thọ, Trí Giả, Thiện
Đạo, Thanh Lương, Vĩnh Minh v.v... Nếu ông có thể
làm đại pháp vương trừng trị tội ấy
th́ lời ông sẽ được cả thế gian phụng
hành; bằng không th́ kẻ dân ngu nơi rừng núi xưng bừa
là hoàng đế, tự chế pháp luật, bội phản
luật vua, chẳng mấy chốc sẽ bị diệt
môn tru tộc vậy. Ông nói như thế là báng Phật,
báng Pháp, báng Tăng, ngay đời này sẽ hăm vào A Tỳ
địa ngục thọ khổ bao kiếp, trọn không
có lúc thoát ra. Cậy chút phước trong quá khứ, tạo
khổ báo bao kiếp. Hạng người được
tam thế chư Phật gọi là “đáng thương xót”
chính là ông vậy.
Ông
ta giật ḿnh, nói:
-
Thầy bảo tội nơi đức Thích Ca, Di Đà v.v...
Sao mà lại trái nghịch lư thường đến như
thế? Xin thầy giải thích cặn kẽ nguyên do. Nếu
lư ấy thật sự thù thắng, tôi đâu dám chẳng
tuân theo!
Tôi
bảo:
-
Như Lai v́ một đại sự nhân duyên nên xuất hiện
trong đời. Đại sự nhân duyên vừa nói đó chính
là muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập[6]
tri kiến của Phật, thẳng cho đến khi thành
Phật mà thôi; há c̣n có ǵ khác nữa đâu!
Khốn
nỗi chúng sanh căn tánh có lớn - nhỏ, mê có cạn - sâu,
chẳng thể tỏ thấu trực tiếp bản hoài
của Phật. Do đó, đức Phật mới thuận
theo căn cơ đặt bày giáo pháp, đối bệnh
phát thuốc, v́ lẽ thật mà bày ra phương tiện
quyền biến, khai Quyền hiển Thật[7];
[chỉ một pháp] Nhất Thừa mà bèn nói ra các thuyết.
Nếu có kẻ thiện căn thành thục th́ sẽ làm cho
họ sanh lên được bờ kia; c̣n đối với
kẻ ác nghiệp sâu dày, sẽ khiến họ dần dần
thoát khỏi trần lao, rủ ḷng tiếp dẫn; khéo khuyến
dụ dần dần. Dẫu có dùng các ví dụ như trời,
đất, mẹ cha… cũng chẳng diễn tả nổi
chút phần [từ ân của Phật]. Hơn nữa, do hết
thảy pháp môn đều nhờ vào tự lực. Dẫu
là kẻ túc căn thâm hậu triệt ngộ tự tâm,
nhưng nếu hai thứ Kiến Hoặc, Tư Hoặc vẫn
c̣n sót chút ít chưa hết th́ vẫn sanh tử trong luân hồi
y như cũ không thoát được! Huống hồ là kẻ
đă thọ thai ấm, đối cảnh liền sanh chấp
trước, từ giác đến giác th́ ít, nhưng từ
mê vào mê lại nhiều. Bậc thượng căn c̣n
như vậy, đối với kẻ trung căn, hạ
căn c̣n biết nói sao nữa! Đoạn Kiến Hoặc giống
như cắt dứt ḍng sông rộng bốn mươi dặm,
huống hồ là Tư Hoặc! Liễu sanh thoát tử há
có dễ đâu!
Do
vậy, [các pháp môn khác] chẳng thể độ trọn
ba căn, thỏa trọn bản hoài của Phật; chỉ
có một pháp Niệm Phật Cầu Sanh Tịnh Độ,
chuyên cậy vào hoằng thệ nguyện lực của Phật
Di Đà, chẳng cần biết đến thiện căn
thành thục hay chẳng thành thục, ác nghiệp nặng
hay nhẹ; cứ hễ chịu sanh ḷng tin, phát nguyện,
tŕ danh hiệu Phật th́ lúc lâm chung sẽ quyết định
được Phật Di Đà rủ ḷng từ tiếp dẫn,
văng sanh Tịnh Độ. Người thiện căn thuần
thục sẽ nhanh chóng viên thành Phật quả; dẫu là kẻ
ác nghiệp nặng nề cũng được dự vào
ḍng thánh. Đấy chính là đạo cốt yếu để
độ sanh của tam thế chư Phật, là pháp mầu
nhiệm để thượng thánh lẫn hạ phàm cùng
tu. Do vậy, các kinh Đại Thừa đều tuyên bày pháp trọng
yếu này; lịch đại tổ sư không vị nào chẳng
tuân hành. Ông tự phụ Thiền - Giáo, bảo xằng rằng
hoằng dương Tịnh Độ là báng chánh pháp luân, là
đoạn diệt hạt giống Phật, đủ chứng
tỏ ông đă bị ma dựa vào thân, mất trí điên rồ,
nhận mê là giác, chỉ chánh bảo tà, là chủng tử
địa ngục vậy!
Trong kiếp xưa, đức
Thích Ca, đức Di Đà từng phát đại thệ nguyện
độ thoát chúng sanh. Một vị thị hiện sanh nơi
uế độ, dùng cái uế, dùng điều khổ
để chiết phục, đưa đi; một vị
an cư Tịnh Độ, lấy tịnh, lấy lạc
để nhiếp thọ ḥng nhào luyện chúng sanh. Ông chỉ
biết ngu phu, ngu phụ vẫn có thể niệm Phật
nên đến nỗi miệt thị Tịnh Độ, sao chẳng
xét suy: Trong phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm,
sau khi ngài Thiện Tài đă chứng ngộ gần bằng
chư Phật, Phổ Hiền Bồ Tát bèn dạy dùng mười
đại nguyện vương, hồi hướng văng
sanh Tây phương Cực Lạc thế giới, ngơ hầu
viên măn Phật quả. Lại c̣n khuyên dạy khắp Hoa Tạng
hải chúng[8] đó
ư? Trong toàn thể Hoa Tạng hải chúng, chẳng có một
ai là phàm phu, Nhị Thừa, mà đều là bậc Pháp Thân
Đại Sĩ thuộc bốn mươi mốt địa
vị cùng phá vô minh, cùng chứng pháp tánh, đều có thể
nương vào bổn nguyện luân hiện thân làm Phật
trong thế giới không có Phật.
Hơn
nữa, trong biển Hoa Tạng có vô lượng Tịnh Độ,
nhưng các ngài đều hồi hướng văng sanh Tây
phương Cực Lạc thế giới th́ đủ biết:
Văng Sanh Cực Lạc chính là huyền môn để thoát khổ,
là đường tắt để thành Phật. V́ vậy,
tự cổ chí kim, trong tất cả tùng lâm dù Thiền hay
Giáo, hay Luật, không nơi nào chẳng sớm tối tŕ
danh hiệu Phật cầu sanh Tây phương. Ông đă
tham bái khắp các tùng lâm, ắt hẳn hằng ngày cũng
tu tập, cớ sao lại sanh hủy báng đến thế!
Sách Nho có nói: “Tu tập mà chẳng xem xét, dùng hằng ngày
mà không biết”, há không phải là nói đến hạng
người như ông hay sao? Hoa Nghiêm là vua của các kinh,
vua trong Tam Tạng; chẳng tin Hoa Nghiêm th́ là nhất-xiển-đề[9]. Dẫu
cho chẳng đọa vào A Tỳ ngay khi c̣n sống th́ khi
báo hết sẽ quyết định rớt vào Vô Gián. Tôi
muốn thoát khổ nên cầu sanh Tịnh Độ, ông muốn
được khổ nên hủy báng Hoa Nghiêm. Ông cứ giữ
cái chí của ông, tôi hành cái đạo của tôi. Tướng
quân chẳng xuống ngựa, ai nấy tự ruổi theo
đường ḿnh. Đạo đă khác th́ chẳng thể cùng
bàn luận được! Ông đi đi, tôi chẳng muốn
tṛ chuyện với ông nữa!
Ông
ta đáp:
-
Đạo quư ở chỗ hoằng thông, hễ nghi th́ cần
phải đoạn nghi, sao thầy lại cự tuyệt
đến thế? Tôi thường nghe “Tỳ Lô Giá Na Như Lai ở khắp hết thảy
chỗ, nơi đức Phật ở gọi là Thường
Tịch Quang”; chỉ cần chứng được Pháp
Thân th́ đương xứ (ngay nơi người ấy
đang ở) chính là Tịch Quang Tịnh Độ. Sao lại
phải dùng cái tâm sanh diệt “bỏ Đông lấy Tây” mới
coi là được vậy?
Tôi
đáp:
-
Ông nói sao dễ dàng quá! Tuy đương xứ chính là Tịch
Quang Tịnh Độ, nhưng nếu chẳng phải là Trí Đoạn[10] đă
đạt đến rốt ráo, đă viên chứng pháp thân
Tỳ Lô th́ chẳng thể đích thân thọ dụng triệt
để được nổi! Các địa vị
như: Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng, Đẳng Giác, cả bốn mươi mốt
địa vị trong Viên Giáo vẫn là Phần Chứng! Nếu
ông đă chứng được trọn vẹn Tỳ Lô Pháp
Thân th́ nói “đương xứ
chính là Tịch Quang” cũng chẳng hại ǵ; c̣n nếu
chưa được như thế th́ dẫu có nói đến
thức ăn và tính đếm của cải vẫn chẳng
thể khỏi bị chết v́ đói lạnh được!
Ông
ta hỏi:
-
“Duy tâm Tịnh Độ, tự
tánh Di Đà” là điều trong Tông môn thường nói chẳng
lẽ là sai lầm hay sao?
Tôi
nói:
-
Thuyết đó của nhà Thiền chuyên chỉ về lư
tánh, chứ chẳng bàn đến sự tu. V́ sao vậy?
Nhà Thiền muốn cho người ta trước hết
biết đến cái lư “chẳng
dính mắc nhân quả, phàm - thánh, chúng sanh và Phật tu chứng”.
Sau đấy, mới y theo lư đó mà phát khởi tu nhân ḥng
chứng quả, siêu phàm nhập thánh. Đấy chính là mặt
Sự: Chúng sanh chứng thành Phật đạo. Sao ông lẫn
lộn Sự và Lư, tri kiến điên đảo đến
thế? Ông lại bảo bỏ Đông lấy Tây là sanh diệt,
nhưng chẳng biết chấp Đông phế Tây lại là
đoạn diệt. Hễ c̣n chưa chứng Diệu Giác
th́ có ai thoát khỏi lấy - bỏ? Ba A Tăng Kỳ kiếp
luyện hạnh, trăm kiếp tu nhân, thượng cầu,
hạ hóa, đoạn Hoặc chứng Chân, có việc ǵ chẳng
phải là chuyện lấy - bỏ đâu? Phải biết:
Đức Như Lai muốn cho hết thảy chúng sanh mau
chứng Pháp Thân và Tịch Quang, nên Phật mới đặc
biệt khuyên tŕ danh hiệu Phật, cầu sanh Tây
phương vậy!
Hỏi:
-
Sách Hoa Nghiêm Hợp Luận[11] của
Táo Bá Lư Trưởng Giả[12]
nhận định Tây phương Tịnh Độ chỉ
[dành cho] hàng phàm phu c̣n có một phần chấp tướng,
chưa tin nổi thật lư Pháp Không. Nếu chuyên ức niệm
th́ tâm sẽ được tịnh một phần, sẽ
được sanh Tịnh Độ. Pháp đó là Quyền pháp
chứ chẳng phải Thật pháp; cớ sao Hoa Tạng hải
chúng lại cùng nguyện văng sanh? Ngài Táo Bá chứng thánh quả
ngay trong hiện đời, thần thông trí huệ chẳng
thể nghĩ bàn; nhất quyết Ngài phải là Bồ Tát
trong hội Hoa Nghiêm thị hiện nên lời Ngài nói nhất
định chẳng sai lầm!
Đáp:
-
Tuy ngài Táo Bá là Bồ Tát thị hiện, nhưng khi ấy
kinh Hoa Nghiêm chưa được truyền đến
[Trung Hoa] trọn vẹn, Ngài chẳng dự đoán
được nên mới lập thuyết như vậy.
Xét ra, ngài Táo Bá tạo luận vào niên hiệu Khai Nguyên đời
vua Đường Huyền Tông. Sau khi viết xong luận, Ngài
liền nhập diệt; phải hơn năm mươi
năm sau, măi đến năm Trinh Nguyên thứ mười
một (795) đời vua Đức Tông, vua nước Ô Trà[13] ở
Nam Thiên Trúc mới dâng bộ Hoa Nghiêm Phổ Hiền Hạnh
Nguyện Phẩm gồm bốn mươi cuốn bằng
Phạn văn. Đến năm Trinh Nguyên thứ mười
bốn (798), kinh mới dịch xong để lưu thông.
Ba mươi chín quyển trước tương ứng với
phẩm Nhập Pháp Giới [của bản] Hoa Nghiêm tám
mươi cuốn, nhưng văn nghĩa [trong bản Hoa
Nghiêm bốn mươi quyển] có phần tường tận
hơn. Trong cuốn thứ tám mươi, ngài Thiện Tài
nương vào sức oai thần lực của ngài Phổ
Hiền, sở chứng đă ngang với ngài Phổ Hiền,
ngang bằng chư Phật, nên ngài Phổ Hiền bèn đọc
cho nghe bài kệ khen ngợi công đức thắng diệu
của Như Lai. Do kinh văn đến đây chưa hết
nên [pháp hội] chưa kết thúc mà kinh [Bát Thập Hoa
Nghiêm] đă hết. Kịp đến khi phẩm Hạnh
Nguyện truyền đến, trong cuốn thứ bốn
mươi, ngài Phổ Hiền dùng mười đại
nguyện vương để khuyến tấn Thiện
Tài và Hoa Tạng hải chúng khiến cho họ hồi
hướng văng sanh Tây phương Cực Lạc thế
giới; nói xong, Như Lai khen ngợi, đại chúng phụng
hành. [Đến đây], kinh văn mới hoàn bị. V́ lẽ
đó, cổ đức mới đem quyển này đặt
nối theo sau tám mươi quyển kia để lưu
thông, muốn cho kẻ hậu học đều được
thọ tŕ toàn bộ bản kinh vậy. Cổ đức nói:
“Một pháp Niệm Phật Cầu
Sanh Tịnh Độ chỉ Phật với Phật mới biết
trọn vẹn, bậc Đăng Địa Bồ Tát[14] c̣n
chẳng biết nổi ít phần”, chính là ư này. Pháp Tịnh
Độ tóm trọn hết thảy bậc thượng
căn lợi khí chẳng c̣n sót vậy.
Kinh
Đại Tập dạy: ‘Đời mạt pháp ức ức kẻ
tu hành, hiếm một ai đắc đạo. Chỉ
nương theo pháp Niệm Phật th́ mới thoát khỏi
sanh tử’; như vậy, pháp Tịnh Độ cũng thâu
nhiếp hết thảy thiên nhân, lục đạo cụ
phược phàm phu[15]
chẳng c̣n sót ǵ! Ông tin ngài Táo Bá mà chẳng tin phẩm Hạnh
Nguyện và kinh Đại Tập, tức là tuân theo cáo thị quyền
nghi một thuở của quan huyện, trái nghịch sắc
chỉ của hoàng đế muôn đời chẳng đổi.
Sao mà chẳng biết tôn, ty, khinh, trọng đến
như thế ấy!
Hỏi:
-
Nếu đă là hải chúng thị hiện, sao lại phải
đợi có kinh truyền đến mới biết?
Đáp:
-
Hoằng dương Phật pháp quả thật chẳng phải
là việc dễ! Cần phải có chứng cứ th́ mới
gây được ḷng tin. Một bộ kinh Hoa Nghiêm siêu việt
các kinh, chẳng thể không có dẫn chứng mà tự lập
thuyết được!
Hỏi:
-
Lúc kinh Niết Bàn chưa truyền đến Trung Hoa, sao
ngài Đạo Sanh[16]
đă đề xướng trước là Nhất Xiển
Đề cũng có Phật tánh. Há có nên bảo là ngài Táo Bá chẳng
bằng ngài Đạo Sanh ư?
Đáp:
-
Xiển Đề nguyên là chúng sanh mà hết thảy chúng sanh
đều có Phật tánh th́ sao riêng Xiển Đề lại
chẳng có? Bậc có trí thức đều có thể dự
đoán được điều này; c̣n chuyện văng sanh
sẽ viên măn Phật quả th́ các kinh tuyệt chưa tuyên
nói, ai dám tự ư suy đoán dựng lên giáo nghĩa lạ
lùng đó? Điều thứ hai là Sự và Lư tuyệt đối
chẳng ngang bằng như nhau nên chẳng thể dẫn
trường hợp này làm chứng. C̣n về sở chứng
của hai vị th́ chẳng phải điều bọn
phàm phu thấp sát đất ta có thể biết được
nổi, nào dám hư luận! Phải biết: Bồ Tát hoằng
pháp hoặc thuận hoặc nghịch, dùng các thứ
phương tiện chẳng thể nghĩ bàn. Biết
đâu ngài Táo Bá thị hiện không biết cốt là để
đôn đốc sự tin tưởng nơi người
đời sau!
Hỏi:
-
Các sư Thiền tông đa số chê bỏ Tịnh Độ,
đó là v́ lẽ ǵ?
Đáp:
-
Các sư Thiền tông chỉ truyền Phật tâm nên tất
cả ngôn thuyết đều quy về hướng
thượng. Ông đă tham Thiền nhiều năm mà c̣n chẳng
biết lẽ này th́ sự hiểu biết của ông đều
là ác tri kiến phá hoại Thiền tông vậy.
Hỏi:
-
Tôi c̣n đang là phàm phu sát đất, dám đâu lung lăng!
Đấy thật là lời lẽ của chư Tổ, quyết
có thể lấy làm bằng chứng. Lục Tổ nói: “Người
Đông phương tạo tội, niệm Phật cầu sanh
Tây phương. Người Tây phương tạo tội,
niệm Phật cầu sanh cơi nào?” Ngài Triệu Châu[17]
nói: “Một chữ Phật tôi chẳng thích nghe”. Lại nói: “Lăo tăng niệm
Phật một tiếng, súc miệng ba ngày”. Phần
nhiều các sư Thiền tông có những câu nói như thế
ấy th́ thầy lại nói như thế nào đây?
Đáp:
-
Lục Tổ trực chỉ hướng thượng
để cho người ta biết giữ lấy tự
tâm, c̣n ông lại chẻ văn giải nghĩa, biện luận
pháp môn tu tŕ; đấy là như câu nói “tưởng miếng xương lừa có h́nh yên ngựa
là cái cằm của cha”[18],
lầm lẫn quá thể! Ông phải biết là người
ở Tây phương đă hết sạch Kiến Hoặc
và Tư Hoặc, tiến lên phá được Trần Sa Hoặc
và Vô Minh Hoặc. Họ chỉ có tấn tu, tuyệt đối
chẳng có chuyện tạo tội. Tổ nói “kẻ ấy
cầu sanh cơi nào?” là nếu trong lúc ấy mà chưa
đoạn được Kiến Hoặc, Tư Hoặc
th́ nương nhờ Phật từ lực, kẻ đới
nghiệp văng sanh sẽ được sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng
Cư Tịnh Độ. Một phen đă sanh trong cơi kia rồi
th́ hai hoặc Kiến và Tư sẽ triệt để
tiêu diệt, giống như quăng miếng tuyết vào ḷ
lửa lớn, tuyết chưa rơi đến nơi
đă biến mất. Thân cận người đức hạnh
th́ ư niệm hèn tệ sẽ tiêu hết. Nếu như Kiến
Hoặc, Tư Hoặc đă hết sạch th́ sẽ sanh
vào Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Độ; phá
được một phần vô minh th́ sanh vào Thật Báo
Vô Chướng Ngại Tịnh Độ. Vô minh hết sạch,
phước huệ viên măn th́ sẽ sanh vào Thường Tịch
Quang Tịnh Độ. Tại cơi này hiện chứng như thế
th́ tại cơi kia tấn tu cũng sẽ như thế.
Sao
ông quá lo họ không có chốn để sanh về để
rồi tự chướng ḿnh, chướng người,
chẳng chịu cầu sanh? Nghe nói [người khác] ăn
bị mắc nghẹn bèn bỏ cả ăn đến nỗi
chết mất th́ đúng là kẻ si trong thiên hạ không ai
bằng ông! Ông chỉ biết một câu của ngài Triệu
Châu: “Một chữ Phật, ta chẳng thích nghe” sao chẳng
lấy luôn câu kế tiếp. Ông Tăng hỏi: “Ḥa
thượng có v́ người hay không?” Triệu Châu nói: “Phật,
Phật!” Ông chỉ muốn căn cứ vào câu ‘Niệm
Phật một tiếng, súc miệng ba ngày’ mà chẳng dựa
theo câu: “Ḥa thượng được đại
vương cúng dường như thế, sẽ dùng ǵ
để báo đáp?” Triệu Châu nói: “Niệm Phật”.
Sao lại chẳng y
theo câu: “Tăng hỏi: ‘Mười phương chư
Phật c̣n có thầy hay chăng?’ Triệu Châu nói: ‘Có’. Hỏi:
‘Thầy của chư Phật là ǵ?’ Triệu Châu đáp: ‘A
Di Đà Phật, A Di Đà Phật’.
Ông bảo
phần nhiều các sư Thiền tông nói như thế,
nhưng chẳng biết lời đáp tương ứng
căn cơ của nhà Thiền được gọi là “cơ
phong”, gọi là “chuyển ngữ”. Hỏi ở nơi
đáp, đáp ở nơi hỏi. Ông chẳng biết phản
chiếu hồi quang, tham cứu nơi chính ḿnh, chỉ một
bề nhai bă hèm, chạy theo ḥn đất, bao giờ mới
liễu thoát được! Tôi xuất gia hơn ba
mươi năm, luôn nghe chư Tăng cùng nhắc những
câu “Niệm Phật súc miệng ba ngày, Phật hiệu chẳng
thích nghe”, c̣n câu “lấy Phật, Phật để
độ người”, “dùng niệm Phật báo ân”, “A Di Đà
Phật là thầy mười phương chư Phật”
tuyệt chưa từng nghe có ai nhắc đến một
lần.
Ôi!
Những câu trên đều cùng từ một miệng thốt
ra, nếu đă cho những câu trước là thật và đáng
tin th́ những câu sau cũng phải là thật và đáng
tin, cớ sao chỉ chấp nhận lời tổn, c̣n lời
ích lại chống báng! Một thuận, một chống, tự
mâu thuẫn nhau. Phàm lời nói của ngài Triệu Châu đều
quy về bổn phận; những câu “Phật chẳng
thích nghe” và “Niệm
Phật báo ân” đều là chuyển ngữ. Nếu có
thể ngay từ những câu đó biết được
tự tâm th́ mới biết đạo của ngài Triệu
Châu vượt khỏi thường t́nh, ư nghĩa vượt
ngoài ngôn ngữ, ắt sẽ cắm cúi niệm Phật suốt
cả ngày mà vẫn c̣n thấy là chưa đủ vậy!
Nếu như đă không được đích thân gặp
ngài Triệu Châu, sao chẳng lấy việc Niệm Phật
để tu tŕ, há có nên chấp lấy câu bác Phật làm
căn cứ! Hễ niệm Phật th́ ngay trong đời
này sẽ thoát khỏi luân hồi, trong tương lai quyết
định thành Phật đạo. C̣n nếu nương
theo lời bác Phật th́ là báng Phật, báng Pháp, báng
Tăng; hiện đời tội nghiệp chất như
núi, phước huệ băng tiêu, khi mạng chung vĩnh
viễn đọa trong A Tỳ chịu khổ nhiều kiếp.
Lẽ lợi - hại, được - mất thật là
một trời, một vực!
Nói
chung, người đời nay toàn là hạng phước
mỏng, huệ cạn, nghiệp nặng, chướng
sâu; đối với điều được lợi
ích th́ khủng khỉnh nghe; đối với điều
khiến ḿnh bị tổn hại lại toàn thân rạp lạy
(“được
lợi ích, bị tổn hại” là đối với những
kẻ chưa ngộ, hiểu lầm mà nói, chứ không phải
pháp của cổ đức nói có tổn hay ích). Lời
chư sư đáp theo căn cơ thảy đều
như thế, chẳng phiền phải giải thích cặn
kẽ. Ông bảo lời chân thành của Tổ quyết có
thể dùng làm bằng chứng th́ sao chẳng tuân theo lời
ngài Bách Trượng[19]: “Tu
hành th́ niệm Phật là ổn đáng!” Sao ông cũng lại
chẳng tuân những quy củ ngài Bách Trượng đă lập:
cầu đảo cho vị Tăng mắc bệnh, tống
táng, thiêu hóa vị Tăng đă mất, [những quy củ
ấy] chẳng phải đều là hồi hướng
văng sanh Tịnh Độ đó ư? Có nên bảo là: Ngài Bách
Trượng chỉ muốn cho kẻ chết được
văng sanh, chứ chẳng muốn kẻ sống cầu sanh
hay sao! Sao ông lại chẳng thuận theo tổ thứ
mười bốn ở trời Tây là ngài Long Thọ Bồ
Tát: Như Lai huyền kư Bồ Tát sẽ văng sanh, khôi phục
kinh Hoa Nghiêm từ long cung. Ngài tạo nhiều bộ luận
để riêng khen ngợi Tây phương như luận Tỳ
Bà Sa[20]
khen ngợi Tịnh Độ là đạo “dễ tu chóng đạt”
đó ư! Sao ông lại chẳng tuân theo tổ thứ
mười hai là Mă Minh Bồ Tát: Trong phần cuối của
luận Khởi Tín, Ngài có dạy phương tiện tối
thắng khiến người niệm Phật cầu sanh
Tây phương thường hầu Di Đà, trọn chẳng
thối chuyển? Sao ông lại chẳng làm theo Nhị Tổ
A Nan, Sơ Tổ Ca Diếp kết tập Tam Tạng và các
kinh Tịnh Độ? Nếu Tịnh Độ chẳng đáng
là pháp, có hại cho đời th́ các Ngài há chẳng phân biệt
tốt - xấu vẫn giữ lại tạo thành nguồn
tội cho hậu thế hay sao? Thêm nữa, các kinh Đại
Thừa đều khen ngợi Tịnh Độ, chỉ có
kinh Tiểu Thừa là không có lấy một chữ nhắc
đến. Há nên bảo các kinh Đại Thừa chẳng
đáng là pháp sao?
Hơn
nữa, lúc đức Phật nói kinh Di Đà, sáu phương hằng
hà sa số chư Phật đều hiện tướng
lưỡi rộng dài khuyên tin kinh này; có nên nói là sáu
phương chư Phật cũng khiến cho người
ta mắc tội hay sao? Nếu như ông bảo chẳng thể
không tin các vị Lục Tổ, Triệu Châu... th́ các ngài
Long Thọ, Mă Minh, A Nan, Ca Diếp, Thích Ca, Di Đà, sáu
phương chư Phật, các kinh Đại Thừa lại
càng chẳng thể không tin! Nếu bảo chư Phật,
chư Tổ, các kinh đều chẳng đáng tin th́ sao lại
tin lời Lục Tổ, Triệu Châu...? Thấy gần mà
chẳng thấy xa, biết nhỏ chẳng biết lớn,
giống như kẻ nhà quê chỉ nể thế lực
ông huyện, chẳng biết oai đức của hoàng
đế; trẻ nhỏ thấy tiền đồng bèn chộp
lấy, gặp ma-ni bảo châu chẳng đoái hoài. Ông có biết
bài Tứ Liệu Giản của ngài Vĩnh Minh chỉ bày
lẽ có - không, lợi - hại, được - mất của
Thiền và Tịnh hay chăng? Ngài Vĩnh Minh là hóa thân của
Phật Di Đà, há lẽ nào Ngài đành để người
khác mắc tội báng chánh pháp luân, khiến cho chúng sanh nghi
lầm, đoạn diệt Phật chủng hay sao?
Ông
ta đáp:
-
Bài Liệu Giản của ngài Vĩnh Minh quá chi ly, chẳng
đáng để làm khuôn phép, v́ sao vậy? Ông ấy nói: “Có
Thiền, có Tịnh Độ, ví như cọp mọc sừng,
hiện đời làm thầy người, đời sau
làm Phật, Tổ”. Nếu đúng như lời ông ta nói
th́ phần đông các Thiền giả hiện tại đều
khán câu “Người Niệm Phật Là Ai?” Lại có
vị trụ trong Niệm Phật Đường niệm Phật
bao năm, họ có đều hiện đời là thầy
của người ta, kiếp sau liền thành Phật, Tổ
hay chăng? Lại nói: “Không Thiền có Tịnh Độ,
muôn người tu muôn người đỗ, nếu gặp
Phật Di Đà, lo ǵ chẳng khai ngộ?” Nay kẻ ngu phu,
ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật đâu đâu
cũng có; chưa thấy mấy kẻ khi lâm chung hiện
các tướng lành, được Phật tiếp dẫn
văng sanh Tây phương. Bởi vậy, tôi biết Liệu
Giản của ngài Vĩnh Minh chẳng đáng coi là khuôn
phép!
Tôi
nói:
-
Sao ông hấp tấp nuốt trộng quả táo, chẳng nếm
mùi vị của nó như thế. Liệu Giản của tổ
Vĩnh Minh chính là cương tông của Đại Tạng, là
khuôn phép tu tŕ. Trước hết phải nhận thức
đích xác thế nào là Thiền, thế nào là Tịnh? Thế
nào là Hữu, thế nào là Vô? Rồi mới phân tích theo lời
văn th́ sẽ biết mỗi một chữ đều
như trời tạo, đất dựng, không chữ nào
chẳng xác đáng, không chữ nào có thể thay đổi
được! Trong ṿng mấy mươi năm lại
đây, tôi thấy lời lẽ các sư giảng Thiền
đều giống hệt lời của ông, chẳng khác
chút nào! Kiến thức như thế th́ đúng là Thiền
cùng Tịnh Độ mỗi ngày một suy tàn.
Hỏi:
-
Sao gọi là Thiền, Tịnh cùng với Hữu, Vô, cúi xin
dạy rơ cho!
Đáp:
-
Thiền chính là Chân Như Phật tánh vốn sẵn có của
chúng ta. Trong nhà Thiền gọi đó là“bản lai diện mục trước lúc cha mẹ
chưa sanh ra”; nhưng nhà Thiền chẳng nói toạc
ra, chính là để người khác tham cứu tự chứng
ngộ nên mới nói như vậy. Đó chính là tâm thể thuần
chân, không Năng, không Sở, vừa tịch, vừa chiếu,
linh tri ly niệm vậy (Linh tri ly niệm nghĩa là trọn chẳng
có ư niệm nhưng luôn nhận thức rơ ràng cảnh vật
hiện tiền).
Tịnh
Độ là tín nguyện, tŕ danh, cầu sanh Tây phương, chứ
chẳng phải chỉ nói đến “Duy Tâm Tịnh Độ,
Tự Tánh Di Đà”.
“Có Thiền” là tận
sức tham cứu đến cùng cực, niệm tịch,
t́nh vong, thấy thấu suốt cái bản lai diện mục
trước khi cha mẹ sanh ra, minh tâm kiến tánh.
“Có Tịnh Độ” là chân thật
phát Bồ Đề tâm, sanh tín, phát nguyện, tŕ danh hiệu Phật,
cầu sanh Tây phương. Thiền và Tịnh Độ chỉ
là ước theo giáo, ước theo lư. “Có Thiền” và “có Tịnh
Độ” là ước theo căn cơ, ước về tu.
Về giáo lư thời hằng nhiên như thế; Phật chẳng
thể tăng, phàm chẳng thể giảm. Xét về
căn cơ, tu hành th́ phải nương vào giáo để
khởi hạnh; hành cho đến khi chứng ngộ tột
cùng lư, sao cho thật có mới thôi! Điều thứ hai là
xét về văn từ tuy tương tự nhưng thật
ra rất khác nhau, phải suy xét kỹ càng, chớ có lẫn
lộn! Nếu như tham Thiền nhưng chưa ngộ
hoặc ngộ chưa triệt để th́ đều chẳng
được gọi là Có Thiền. Nếu như niệm
Phật nhưng thiên chấp duy tâm, không có tín, nguyện; hoặc
có tín nguyện nhưng chẳng chân thành, thiết tha, lơ
là, hờ hững, làm cho lấy có; hoặc hành tuy tinh tấn
nhưng tâm mến luyến trần cảnh, hoặc cầu
đời sau sanh trong nhà phú quư để hưởng vui
ngũ dục, hoặc cầu sanh lên trời để
hưởng phước lạc cơi trời, hoặc cầu
đời sau xuất gia làm Tăng, nghe một ngộ cả
ngàn, đắc Đại Tổng Tŕ, hoằng dương
pháp đạo, phổ lợi chúng sanh th́ đều chẳng
được gọi là Có Tịnh Độ.
Hỏi:
-
Xuất gia làm Tăng hoằng pháp lợi sanh lại có lỗi
chi mà cũng bị loại trừ?
Đáp:
-
Nếu đă đoạn Kiến Tư Hoặc, đă liễu
sanh tử, nương theo đại nguyện luân, thị
hiện sanh trong đời trược, thượng hoằng
hạ hóa, độ thoát chúng sanh th́ được. Nếu
như tuy có trí nguyện nhưng chưa đoạn
được Kiến, Tư Hoặc, dẫu cho lúc ban
đầu thọ sanh chẳng mê, cũng khó giữ [không
mê] trọn đời, nhiều đời. Tuy có thể hoằng
pháp nhưng chưa chứng Vô Sanh, t́nh chủng vẫn c̣n
nên khi gặp cảnh đối duyên khó tránh khỏi bị
mê hoặc. Nếu đă mê theo cảnh mà c̣n có thể mau
giác ngộ th́ trong cả vạn người chẳng có
được một, hai; từ mê vào mê, chẳng thể
tự dứt, bao kiếp trầm luân, thật là vô số!
V́ nghĩa ấy, đức Như Lai mới dạy
người văng sanh Tịnh Độ, gặp Phật, nghe
pháp, chứng Vô Sanh Nhẫn. Sau đó, nương theo Phật
từ lực và tâm nguyện của chính ḿnh, trở vào Sa
Bà độ thoát chúng sanh th́ chỉ có tiến chẳng
thoái, có được không mất vậy. Chưa đoạn
Kiến Tư Hoặc mà trụ trong cơi này hoằng pháp th́
các tông khác không tông nào chẳng như vậy, chứ Tịnh
Tông dứt khoát chẳng chấp thuận. Đời lắm kẻ
cho rằng “tham Thiền là Có Thiền, niệm Phật là có
Tịnh Độ”; như vậy th́ chẳng những đă
không hiểu Thiền, Tịnh, lại c̣n chẳng hiểu
văn nghĩa, cô phụ tấm ḷng đại từ bi của
ngài Vĩnh Minh Cổ Phật, cắt đứt con
đường tắt thoát khổ cho hành nhân đời
sau. Tự ḿnh lầm, làm người lầm, gây hại nào
có cùng cực? Đấy chính là nhận lầm vạch khắc
ở đ̣n cân, sai suyển hào ly, xa cách như trời với
đất!
Ông
ta nói:
-
Tôi đă tạm hiểu ư nghĩa của Thiền, Tịnh
và có - không; xin thầy giảng giải rành mạch lời
văn sâu nhiệm của cả bốn bài kệ cho!
Tôi
nói:
- Có Thiền, có Tịnh Độ.
Như cọp mọc thêm sừng.
Hiện tại làm thầy người,
Đời sau làm Phật, Tổ
Nghĩa là: Người ấy
triệt ngộ Thiền tông, minh tâm kiến tánh, lại c̣n
thâm nhập Kinh tạng, hiểu trọn vẹn các pháp môn
Quyền, Thật của đức Như Lai; nhưng trong
các pháp lại chỉ chọn lấy một pháp Tín Nguyện
Niệm Phật để làm chánh hạnh chung nhằm tự
lợi, lợi người. Bậc thượng phẩm
thượng sanh đọc tụng Đại Thừa, hiểu
Đệ Nhất Nghĩa như đă nói trong Quán Kinh chính là hạng
người này vậy. Người ấy có đại trí
huệ, có đại biện tài; tà ma, ngoại đạo
nghe tên vỡ mật. Người ấy như cọp
đeo thêm sừng oai mănh không chi sánh bằng. Đối với
kẻ đến học sẽ thuyết pháp tùy theo căn
cơ: Thấy nên dùng Thiền Tịnh Song Tu để tiếp
dẫn th́ sẽ dùng Thiền Tịnh Song Tu tiếp độ;
chỉ nên dùng chuyên tu Tịnh Độ để tiếp dẫn
th́ sẽ dùng chuyên tu Tịnh Độ tiếp độ. Bất
luận thượng, trung, hạ căn, không ai là chẳng
được đội ơn, há chẳng phải là bậc
đạo sư của trời, người hay sao? Đến
lúc lâm chung, người ấy được Phật tiếp
dẫn văng sanh thượng phẩm; trong khoảng khảy
ngón tay hoa nở gặp Phật, chứng Vô Sanh Nhẫn; thấp
nhất th́ cũng chứng bậc Sơ Trụ trong Viên
giáo; cũng có người đốn siêu các địa vị,
đạt đến bậc Đẳng Giác. Bậc Sơ Trụ
trong Viên Giáo đă có thể hiện thân làm Phật trong
trăm cơi, huống hồ là các địa vị kế tiếp
đó lại càng lần lượt thù thắng hơn; nhất
là địa vị Đẳng Giác thứ bốn mươi mốt!
V́ vậy Tổ mới nói: “Đời sau làm Phật Tổ”.
Không Thiền, có Tịnh Độ.
Vạn người tu, vạn đỗ.
Nếu gặp Phật Di Đà,
Lo ǵ chẳng khai ngộ
Nghĩa là: Hành nhân tuy chưa minh
tâm, kiến tánh, nhưng đă quyết chí cầu sanh Tây
phương. Do v́ trong kiếp xưa, đức Phật
đă phát đại thệ nguyện nhiếp thọ chúng
sanh như mẹ nhớ con; nếu chúng sanh thật sự
có thể [nhớ Phật] như con nhớ mẹ, chí thành
niệm Phật th́ sẽ cảm ứng đạo giao, liền
được đức Phật nhiếp thọ. V́ ra sức
tu Định, Huệ nên được văng sanh. Kẻ Ngũ Nghịch,
Thập Ác lúc lâm chung bị các sự khổ bức bách bèn
sanh ḷng hổ thẹn lớn lao, xưng niệm danh hiệu
Phật đến mười tiếng hoặc chỉ một
tiếng rồi mất ngay trong lúc đó, họ đều
được Phật hóa thân tiếp dẫn văng sanh. Đấy
há chẳng phải là “vạn người tu, vạn
đỗ” hay sao? Những kẻ đó tuy niệm Phật
chẳng lâu nhưng do niệm Phật cực kỳ mănh liệt
nên có thể đạt được lợi ích lớn
lao ấy, chẳng nên so với kẻ tu hành lơ là hờ
hững mà bàn luận niệm nhiều hay ít. Đă sanh về
Tây phương th́ tuy gặp Phật, nghe pháp có nhanh - chậm
chẳng đồng, nhưng đều đă cao dự
ḍng thánh, trọn chẳng thoái chuyển. Tùy theo căn tánh
sâu, cạn, hoặc tiệm hay đốn mà chứng các quả
vị. Đă được chứng quả th́ cần ǵ bàn
đến khai ngộ nữa. Ấy chính là: “Nếu gặp
Phật Di Đà, lo ǵ chẳng khai ngộ” vậy.
Có Thiền không Tịnh Độ,
Mười tu, chín lần chần,
Ấm cảnh nếu hiện tiền,
Chớp mắt đi theo nó.
Nghĩa
là: Hành nhân tuy triệt ngộ Thiền tông, minh tâm kiến
tánh, nhưng Kiến Tư phiền năo chẳng dễ
đoạn trừ, phải trải qua nhiều duyên trui luyện
để trừ sạch hết chẳng sót, mới có thể
xuất ly phần đoạn sanh tử[21].
Người chưa đoạn một mảy nào th́ chẳng
cần bàn đến! Dẫu chỉ c̣n một mảy
chưa đoạn sạch hết th́ lục đạo
luân hồi vẫn y như cũ khó thoát. Biển sanh tử
sâu thẳm, đường Bồ Đề xa vời vợi;
c̣n chưa về được đến nhà th́ đă mạng
chung! Người đại ngộ mười người
hết chín đều như vậy. Cho nên mới nói: “Mười
người, chín lần chần”. Lần chần (ta
đà) người đời thường nói là “chần
chờ”.
“Ấm cảnh” là cảnh của Trung
Ấm thân; tức là những cảnh được hiển
hiện trong khi lâm chung bởi nghiệp lực thiện -
ác trong đời này và bao kiếp. Một khi những cảnh
ấy hiện ra, trong chớp mắt sẽ liền theo
nghiệp lực thiện - ác nào mạnh mẽ nhất
để đi thọ sanh trong đường thiện
hay ác; chẳng thể làm chủ t́nh thế một mảy
may nào! Giống như người mắc nợ, chủ
nào mạnh sẽ kéo đi trước. Tâm t́nh lắm mối
đa đoan, coi trọng chỗ nào sẽ rớt vào đấy.
Ngũ Tổ Giới lại sanh làm Tô Đông Pha, Thảo Đường
Thanh lại sanh làm Lỗ Công, đều là do lẽ trên vậy!
Bởi thế mới nói: “Ấm cảnh nếu hiện
tiền, chớp mắt đi theo nó”. Chữ Ấm: âm
và nghĩa đồng với chữ Âm, nghĩa là che đậy;
tức là: do nghiệp lực này che lấp nên chân tánh chẳng
thể hiển hiện. Miết (瞥), âm giống chữ Phiết (撇), nghĩa
là nháy mắt, chớp mắt. Có người hiểu chữ
Ta (蹉) nghĩa
là “lầm lẫn”, Ấm Cảnh là Ngũ Ấm Ma Cảnh,
chung quy v́ chẳng hiểu chữ Thiền và chữ Có nên mới
nói hồ đồ như vậy. Lẽ nào những bậc
đại triệt đại ngộ mười người
tu chín người lạc đường đi theo Ngũ Ấm
Ma nên bị ma dựa phát cuồng? Phàm những kẻ bị
ma dựa phát cuồng đều là kẻ chẳng biết
giáo lư, chẳng minh tự tâm, là giống tăng thượng
mạn, tu mù luyện đui mà thôi. Sao chẳng biết hay -
dở, lại đem gán cho bực đại triệt
đại ngộ! Điều này quan hệ rất lớn, chẳng
thể không biện luận rơ!
Không Thiền không Tịnh Độ.
Giường sắt và cột đồng.
Vạn kiếp cùng ngàn đời.
Không một ai nương dựa.
Có kẻ bảo “không Thiền,
không Tịnh” tức là vùi đầu tạo nghiệp
ác, chẳng tu pháp lành. Lầm to, lầm to! Dù pháp môn vô
lượng nhưng chỉ có Thiền và Tịnh là thích hợp
cho các căn cơ hơn hết. Hành nhân chưa được
triệt ngộ, lại chẳng cầu sanh, lơ là, hời
hợt tu các pháp môn khác, Định - Huệ đă chẳng thể
quân b́nh để đoạn Hoặc chứng Chân, lại
chẳng nương vào Phật từ lực để đới
nghiệp văng sanh; đem công đức trọn đời
tu tŕ để cảm lấy phước báo đời
sau sanh trong trời, người. Đời này đă không
chánh trí th́ đời sau ắt bị phước chuyển
mê đắm trong ngũ dục, tạo đủ các ác nghiệp.
Đă tạo ác nghiệp sẽ khó thoát ác báo. Khi một hơi
thở chẳng hít vào được nữa th́ liền đọa
địa ngục, rành rành sẽ ở trong bao kiếp dài
lâu nằm lăn nơi giường sắt, ôm ấp cột
đồng để đền trả ḷng tham thanh sắc,
giết hại sanh mạng v.v... các thứ ác nghiệp. Tuy
chư Phật, Bồ Tát rủ ḷng xót thương,
nhưng do ác nghiệp ngăn chướng, người ấy
vẫn chẳng thể được hưởng lợi
ích. Người xưa nói: “Người tu hành nếu chẳng
chánh tín, cầu sanh Tây phương, tu hành đủ các việc
thiện khác th́ gọi là kẻ oán đời thứ ba”,
chính là nói đến ư này. Ấy là v́ đời nay tu hành,
đời sau hưởng phước; v́ ỷ phước
làm ác nên liền bị đọa lạc. Đạt được
cái vui giả tạm trong đời kế mà muôn kiếp phải
vĩnh viễn chịu khổ. Ví dù nghiệp địa ngục
tiêu th́ lại chuyển sanh làm ngạ quỷ, súc sanh; muốn
lại được thân người th́ thật là điều
khó nhất trong những điều khó. V́ vậy, Phật
lấy tay bốc đất rồi hỏi A Nan rằng: “Đất
trong tay ta là nhiều, hay đất trong đại địa
là nhiều?” A
Ôi!
Hết thảy pháp môn chuyên cậy vào tự lực; pháp môn
Tịnh Độ chuyên nhờ Phật lực. Trong hết thảy
pháp môn, phải trừ sạch Hoặc nghiệp mới liễu
sanh tử; c̣n trong pháp môn Tịnh Độ: do đới nghiệp
văng sanh liền dự ḍng thánh. Đại sư Vĩnh Minh sợ
đời chẳng hiểu biết nên mới đặc
biệt phân định để chỉ bày cho tương
lai. Liệu Giản đáng gọi là chiếc bè báu nơi bến
mê, là đạo sư (người dẫn đường)
nơi đường hiểm. Đáng tiếc người trong
cơi đời hờ hững đọc lướt qua, chẳng
chịu nghiên cứu kỹ. Có phải là do chúng sanh ác nghiệp
đồng phận nên xui khiến thế chăng?
Ông
ấy nói:
-
Tôi xưa tội ǵ mà sớm mê mất chân thuyên[22],
xưa có phước ǵ nay được nghe lời xuất
yếu? Xin được ghé dự vào hàng đồ chúng,
cầm nắm b́nh, khăn.
Tôi
bảo:
-
Tôi nào có đức ǵ mà dám nhận lời ấy. Những
lời tôi nói đều là tuân theo ư chư Phật, chư Tổ.
Nếu ông có thể ngưỡng tín Phật, Tổ, hoằng
dương Tịnh Độ th́ không đức ǵ chẳng báo
được, không tội ǵ chẳng diệt được.
Xưa ngài Thiên Thân Bồ Tát lúc ban đầu báng Đại Thừa,
sau hoằng dương Đại Thừa để chuộc
lỗi. Nếu ông có thể noi theo dấu chân thơm của
Ngài th́ tôi nguyện xả thân cúng dường.
Thượng
tọa bèn lễ Phật, phát nguyện rằng:
-
Con tên là... từ nay trở đi chuyên tu Tịnh nghiệp,
chỉ cầu khi lâm chung văng sanh thượng phẩm, gặp
Phật, nghe pháp, đốn chứng Vô Sanh. Sau đấy,
chẳng rời An Dưỡng, vào khắp mười
phương, dùng các thứ phương tiện: nghịch,
thuận, ẩn, hiển để hoằng thông pháp này,
độ thoát chúng sanh đến tột cùng vị lai chẳng
hề gián đoạn. Hư không có tận, nguyện của
con vô cùng. Nguyện Phật Thích Ca, Phật Di Đà, Thường
Trụ Tam Bảo thương xót tấm ḷng ngu thành của
con, cùng rủ ḷng nhiếp thọ.
Tôi
bảo:
-
Về Sự, Tịnh Độ là đại nhân duyên; về Lư,
Tịnh Độ là bí mật tạng. Ông có thể tin nhận
phụng hành được th́ chính là lấy sự trang
nghiêm của chư Phật để tự trang nghiêm.
Thượng
Tọa vâng dạ lui ra. Nhân đấy chép lại cuộc vấn
đáp này để khuyên bảo người chưa biết
đến pháp này.
2. Tịnh Độ pháp môn phổ bị tam
căn luận
(Luận
về pháp môn Tịnh Độ độ khắp ba
căn)
Hết thảy chúng sanh đều
có đủ trí huệ đức tướng của
Như Lai, nhưng do mê chân đuổi theo vọng, trái nghịch
giác, xuôi theo trần lao nên toàn thể chuyển thành phiền
năo ác nghiệp. Do vậy, trải nhiều kiếp lâu xa
luân hồi sanh tử. Như Lai thương xót, giảng ra
các pháp khiến họ phản vọng quy chân, trái nghịch
trần lao, xuôi theo tánh giác, khiến cho phiền năo ác nghiệp
của họ toàn thể khôi phục thành trí huệ đức
tướng. Từ đây cho đến tận đời
vị lai, an trụ trong Tịch Quang. Khác nào nước
đọng thành băng, băng tan thành nước; Thể
vốn chẳng khác, Dụng thật khác xa. Nhưng căn
cơ chúng sanh có lớn - nhỏ, mê có cạn - sâu, nên tùy
theo cơ nghi của mỗi người đều làm cho được
lợi ích. Các pháp môn đă nói rộng nhiều như cát
sông Hằng; trong ấy, cầu lấy một pháp chí viên
chí đốn, tối diệu, tối huyền, hạ thủ
dễ thành công cao, dùng sức ít được hiệu quả
nhanh chóng, thích hợp khắp cho ba căn, thống nhiếp
các pháp, thượng thánh lẫn hạ phàm đều cùng
tu, căn cơ lớn - nhỏ đều cùng nhận lănh
được th́ không ǵ thù thắng, siêu tuyệt bằng
pháp môn Tịnh Độ!
V́ sao nói vậy? Hết thảy
pháp môn tuy là Đốn - Tiệm khác nhau, Quyền - Thật
mỗi pháp mỗi khác, nhưng đều phải dụng
công tu tập sâu xa mới có thể đoạn Hoặc chứng
Chân, thoát ly sanh tử, siêu phàm nhập thánh. Đấy gọi
là hoàn toàn cậy vào tự lực, không nương cậy
vào chi khác. Nếu Hoặc nghiệp c̣n đôi chút chưa tận
th́ vẫn phải luân hồi y như cũ! Vả nữa,
những pháp ấy lư đều rất sâu, chẳng dễ
tu tập. Nếu chẳng phải trước đă có linh
căn th́ thật khó ḷng chứng nhập được
ngay trong đời này! Chỉ có pháp môn Tịnh Độ bất
luận phú quư, bần tiện, già, trẻ, nam, nữ, ngu,
trí, Tăng, tục, sĩ, nông, công, thương, hết thảy
mọi người đều có thể tu tập. Do v́ A Di
Đà Phật đại từ bi nguyện lực nhiếp
thủ chúng sanh khổ năo trong Sa Bà. Do vậy, so với các
môn khác, pháp này dễ đắc quả hơn.
Phàm bọn hữu t́nh chúng ta được
nghe pháp môn Tịnh Độ này, phải tin Sa Bà rất khổ,
Tây Phương cực vui. Phải tin từ nhiều đời
đến nay nghiệp chướng sâu nặng, nếu
không cậy vào Phật lực, thật khó thể thoát ĺa.
Phải tin cầu sanh quyết định có ngày được
sanh. Phải tin niệm Phật nhất định
được Phật từ bi nhiếp thọ. Do vậy,
kiên định nhất tâm, nguyện ĺa Sa Bà như tù nhân muốn
thoát khỏi lao ngục, trọn chẳng có tâm lưu luyến.
Nguyện sanh Tây Phương như người lữ khách
nghĩ mong về cố hương, nào có ư niệm chần
chừ! Từ đây, tùy phận, tùy lực, chí tâm tŕ niệm
thánh hiệu A Di Đà Phật. Bất luận nói năng,
im lặng, động, tịnh, đi, đứng, nằm,
ngồi, đón tiếp khách khứa, mặc áo, ăn
cơm, đều chú ư giữ sao cho Phật chẳng ĺa
tâm, tâm chẳng ĺa Phật. Ví như có chuyện quan trọng
canh cánh bên ḷng, dù làm trăm việc vẫn không quên chuyện
ấy. Nếu có chuyện công việc tư trọn chẳng
rảnh rỗi chút nào, th́ sáng tối nên tu Thập Niệm Niệm
Phật, chí tâm phát nguyện th́ cũng được văng
sanh. Do A Di Đà Phật từng có nguyện rằng: “Mười
phương chúng sanh chí tâm tin ưa, muốn sanh về cơi
ta, dẫu chỉ mười niệm mà chẳng được
sanh th́ ta không lấy ngôi Chánh Giác” . Do vậy, mười
niệm Niệm Phật cũng được văng sanh vậy!
Nhưng đă niệm Phật cầu
sanh Tây Phương th́ phải phát tâm từ bi, hành
phương tiện sự, dứt tham - sân - si, kiêng giết
- trộm - dâm, tự lợi, lợi người th́ mới
hợp với ư Phật. Nếu không, tâm trái với Phật,
cảm ứng đạo giao bị ngăn cách, chỉ
thành gieo nhân cho mai sau, khó gặt được quả trong
hiện tại. Nếu chí thành niệm Phật, hạnh hợp
với tâm Phật, tâm và miệng tương ứng th́
người niệm Phật như thế đến lúc
lâm chung, A Di Đà Phật và các vị thánh thảy đều
rủ ḷng tiếp dẫn, văng sanh Tây Phương. Hễ
sanh về Tây Phương rồi th́ siêu phàm nhập thánh, liễu
sanh thoát tử, vĩnh viễn ĺa khỏi các khổ, chỉ
hưởng các sự vui. Đây là hoàn toàn cậy vào Phật
lực, bất luận công sâu hay cạn, có phiền năo hay
không, chỉ cốt sao có đủ ḷng tin chân thật, nguyện
thiết tha th́ nhất định vạn người chẳng
sót một ai. C̣n như người đă đoạn Hoặc
cầu sanh th́ mau vượt lên Thập Địa. Nếu
đă đăng địa mà cầu sanh th́ mau chứng Phật
thừa. Do vậy, Văn Thù, Phổ Hiền, Mă Minh, Long Thọ
v.v… các vị Bồ Tát đều nguyện văng sanh. Kẻ
có đủ Thập Ác niệm Phật c̣n dự vào phẩm
chót. Người sắp đọa địa ngục niệm
Phật c̣n lên được Liên Bang. Do vậy,
Trương Thiện Ḥa, Trương Chung Quỳ, Hùng Tuấn,
Duy Cung[23] v.v… là
những kẻ ác đồng thoát luân hồi.
Những người khác tu
đủ cả Giới lẫn Thiện, Định - Huệ
đều b́nh đẳng, sống trong trần nhưng chẳng
nhiễm trần, ở trong cơi trược nhưng ḷng luôn
thanh tịnh, quyết chí cầu sanh Tây Phương, cao
đăng thượng phẩm như mọi ngôi sao chầu
về Bắc Đẩu, như các ḍng nước đổ
vào biển Đông, làm sao kể nổi số! Do vậy,
ngàn kinh muôn luận chỗ nào cũng chỉ quy, văng thánh tiền
hiền ai nấy đều hướng về, bởi
pháp này là đạo trọng yếu để Như Lai phổ
độ chúng sanh, là diệu pháp để chúng sanh thoát khổ
ngay trong một đời này.
3. Tông - Giáo Bất Nghi Hỗn Lạm Luận
(Bài luận
về chuyện không nên lẫn lộn giữa Thiền và
Giáo)
Do
người giảng kinh thường thích bàn về Thiền
nên làm luận này.
Như Lai nói kinh, chư Tổ tạo
luận. Hai môn Tông và Giáo vốn là một pháp. Dẫu không
thể tách rời, nhưng cũng không thể hợp lại!
Tùy theo căn cơ mà được lợi ích, tùy theo từng
lợi ích mà đặt tên. Thượng căn vừa nghe
liền nhanh chóng liễu giải tự tâm, viên tu đạo
phẩm, nên gọi là Tông (Đây là ước theo đời sau mà nói,
chứ thoạt đầu chỉ gọi là giáo pháp Viên
Đốn). Hàng trung hạ nghe đến, tấn tu
đạo phẩm, dần dần ngộ được
chân lư, nên gọi là Giáo.
Đến
cuối thời Tượng Pháp, Phật pháp truyền sang
cơi này (Trung Hoa), căn cơ con người thông minh, nhạy
bén, đa số đắc Văn Tŕ nên chú trọng chuyện
ghi nhớ, đọc tụng, giảng nói. Tăng chúng chú
trọng đến chuyện bổn phận, hướng
thượng, chứ người thật chứng, thật
ngộ th́ ít, kẻ nói chuyện ăn, đếm của
báu th́ nhiều. Do vậy, đại sư Đạt Ma
đặc biệt sang đây, xiển dương pháp Trực
Chỉ Nhân Tâm (chỉ thẳng vào cái tâm của con người)
khiến cho con người tự thấy được bản
lai diện mục. Đời sau gọi đó là Tông. Đă
thấy được bản lai diện mục rồi,
sau đó xem kinh, tu hành, mới biết giáo pháp của toàn bộ
Đại Tạng đều là những lời nói trong nhà
ḿnh, Lục Độ vạn hạnh đều là chuyện
trong nhà ḿnh. Do vậy, sự ngộ giải của Tông môn
là mắt, sự tu tŕ của Giáo là chân. Không mắt th́ không
cách ǵ thấy đường được; không chân không
thể về đến nhà. Như vậy, Tông - Giáo cần
nhau, chứ không hề trái nghịch, hợp cùng nhau chứ
chẳng tách ĺa. Xét đến chỗ chỉ quy rốt ráo
của các vị Nam Nhạc, Thiên Thai th́ đại lược
đều giống nhau. Do vậy, hai bộ sách Truyền
Đăng Lục và Chỉ Nguyệt Lục[24]
đều xếp hai vị này vào bậc Thánh Hiền ứng
hóa, Cao Tăng Truyện không kể tên hai vị trong những
vị nghĩa giải[25]
mà xếp vào tiểu loại tu Thiền. Đấy là những
vị tri thức đầy đủ con mắt thời
xưa, cho Tông và Giáo là nhất quán.
Từ ngài Tào Khê (Lục Tổ
Huệ Năng) trở về sau, Thiền Đạo thạnh
hành, loại văn tự “chẳng
lập văn tự” truyền khắp hoàn vũ. Đường
giải ngày càng mở rộng, cửa ngộ[26]
ngày càng lấp. V́ thế, các vị tổ Nam Nhạc, Thanh
Nguyên đều dùng cơ ngữ để tiếp độ
người, khiến cho Phật - Tổ đều thành ngữ
ngôn, không cách nào trả lời câu hỏi được. Nếu
không thật sự liễu ngộ thích đáng sẽ không
thể suy lường được lời Tổ. Dùng
điều đó để khám nghiệm ḥng phân biệt
vàng - thau, tách rời ngọc - đá vĩnh viễn, không thể
giả dối để làm hại pháp đạo
được! Đấy là duyên do của cơ phong chuyển
ngữ!
Từ đấy về sau, pháp
này ngày càng thịnh. Tri thức nêu bày, chỉ sợ lạc
vào lối cũ của người khác thành ra sáo rỗng,
gây nghi ngờ, lầm lạc cho người học, khiến
Tông phong bị bỏ phế, rối bời; v́ vậy,
cơ phong được dùng ngày càng cao chót vót, không cách chi
chuyển biến được, khiến cho người
ta không cách nào ḍ dẫm, nắm níu được! Do vậy,
mới có kẻ quở Phật mắng Tổ, bài xích kinh
giáo, phế bỏ Tịnh Độ (hai câu của Nam Nhạc
Huệ Tư đại sư đă nói trọn tác dụng
như vậy: “Siêu quần xuất
chúng thái hư huyền, chỉ vật truyền tâm nhân bất
hội” (Tạm dịch: Siêu quần xuất chúng huyền
diệu như hư không. Chỉ vật để truyền
thọ tâm pháp, con người không hiểu thấu
được). Nếu
hiểu đó là thật pháp th́ tội giống như
Ngũ Nghịch!) Dùng ngôn ngữ này để tước
đoạt t́nh kiến của con người, lấp mất
lối hiểu của họ. Người căn cơ chín
muồi sẽ ngay lúc đó biết đường về,
triệt ngộ nẻo hướng thượng. Người
căn cơ c̣n sống sít sẽ thật sự tận lực
tham cứu đến khi nào đại triệt đại
ngộ mới thôi!
Ấy là do hàng tri thức c̣n
đông, căn cơ người vẫn c̣n bén nhạy, giáo
lư minh bạch, tâm sanh tử thiết tha. Dù chưa thể
liễu ngộ ngay khi đó, quyết chẳng chịu sanh
tâm kém hèn, cho đó là thật pháp. Người đời
nay đa phần ít đọc sách Nho, chẳng hiểu lẽ
đời, chưa cùng tột giáo thừa, chẳng hiểu
Phật pháp. Vừa mới phát tâm bèn vào ngay Tông môn. C̣n hàng
tri thức chỉ nhằm duy tŕ môn đ́nh, cũng học
đ̣i cổ nhân chỉ bày, xiển dương, chẳng
đoái hoài chuyện lợi - hại cho pháp đạo.
Người học chẳng hạ nghi t́nh chân thật, ai nấy
cho đó là thật pháp. Hoặc có những điều
người đời nay nêu lên đều là những
đạo lư do họ tự ư suy lường, phỏng
đoán những chuyện trong sách của cổ nhân xưa,
nói chung không ngoài chuyện dựa theo văn tự để
giải thích ư nghĩa, lại tự cho là ḿnh triệt ngộ
hướng thượng, đă tham học xong xuôi, tự
dự vào địa vị tri thức để mở
mang, chỉ dạy cho hàng hậu học!
Kẻ nắm giữ một môn
đ́nh, chỉ sợ người khác bảo ḿnh không phải
là bậc thông gia; do đó, cùng hoằng dương cả
Thiền lẫn Giảng, muốn được gọi là
bậc “Tông thuyết đều
thông”. Bàn đến Tông th́ những ǵ họ giảng về
những lời chỉ quy hướng thượng của
cổ đức toàn là giải thích ư nghĩa dựa theo
văn tự. Giảng về Giáo th́ đạo tu nhân chứng
quả của Như Lai bị họ biến thành thuyết
“dùng pháp để tượng trưng, nhằm thuyết
minh ư nghĩa”. Dùng Giáo phá Tông, dùng Tông phá Giáo, người
mù dẫn lũ đui, kéo nhau vào lửa! Đến nỗi
về sau chẳng được nghe khuôn mẫu hay đẹp
của cổ nhân, uổng công học đ̣i khinh Phật
khinh Tổ, bài bác nhân quả mà thôi, trọn chẳng hiểu
được lời lẽ của cổ nhân. Bổn phận
của Tăng chúng há c̣n mộng thấy! Nay tôi sẽ
đem lời lẽ, bản ư của Tông và Giáo phân biệt
đại lược, ngơ hầu ai nấy chỉ
được lợi ích, chẳng bị bệnh vậy!
Tông
là ǵ? Giáo là ǵ? Về mặt diễn nói th́ Tông và Giáo đều
là Giáo, về mặt khế ngộ th́ Tông và Giáo đều
là Tông. Giáo cố nhiên có Tông, mà Tông cũng có Giáo. Tông của
bên Giáo chính là diệu lư Thật Tướng, tam đức
bí tạng; đấy chính là bổn phận hướng
thượng của tăng chúng bên Tông vậy (Đây là đối
với Tông mà nói, nên gọi Thể là Tông. Nếu luận
theo Giáo th́ gọi là Thể. Tông trong Giáo chính là cửa ngơ
để nhập Thể, không giống như chỗ chú trọng
hướng thượng của bên Tông).
Giáo của bên Giáo chính là văn
tự, lời lẽ trong kinh luận và hành tướng của
pháp môn, không ǵ đều chẳng nhằm diễn tả diệu
lư, đều quy về bí tạng; cũng giống như
những tác dụng của cơ phong chuyển ngữ bên
Tông. Nhưng Giáo th́ chưa ngộ vẫn làm cho hiểu
được, c̣n Tông nếu chưa ngộ sẽ không biết.
Đấy gọi là chỗ khác nhau [giữa Tông và Giáo].
Giáo của bên Tông chính là cơ
phong chuyển ngữ, giơ nắm tay, dựng đứng
phất trần, hoặc nói, hoặc im lặng, mọi thứ
tác dụng đều thuận theo căn cơ của
người đến tham vấn để chỉ quy
hướng thượng. Những câu chuyển ngữ ấy
nhằm để nêu bày lẽ hướng thượng,
là ngón tay chỉ mặt trăng thật sự, chứ không
phải những câu chuyển ngữ đó chính là lẽ
hướng thượng hay mặt trăng thật sự.
Nếu có thể nương theo ngón tay nh́n vào mặt
trăng th́ ngay khi đó sẽ tự thấy được
vầng trăng thật sự. Vầng trăng thật sự
được thấy ấy mới chính là Tông của Tông
gia. Người đời nay lấy cơ phong chuyển
ngữ làm Tông, chẳng cầu khế ngộ, chỉ cho rằng
học theo đó sẽ hiểu thấu, tức là coi ngón
tay chính là mặt trăng, không c̣n biết đến vầng
trăng thật sự! Tiếc thay!
Vả nữa, Giáo thích hợp
khắp ba căn, lợi - độn cùng thâu; ví như tờ
chiếu sáng suốt của bậc vua thánh, muôn nước
đều khâm phục, tôn sùng. Dù trí hay ngu, dù hiền hay tệ
đều hiểu được, đều phải tuân
hành; kẻ nào không tuân sẽ bị xử cực h́nh. Kẻ
nào không tuân lời Phật dạy sẽ đọa trong ác
đạo. Tông chỉ độ riêng bậc thượng
căn, chẳng thâu nhiếp trung hạ. Ví như mật lệnh
của vị tướng quân, kẻ trong doanh mới biết,
người ngoài doanh dẫu cho thông minh cũng không thể
hiểu được! Do vậy, toàn quân mới diệt
được giặc, thiên hạ thái b́nh. Quân lịnh hễ
bị tiết lộ th́ ba quân sẽ tan vỡ; Tổ ấn
bị tiết lộ, năm tông chết sạch. Trước
khi ngộ, chỉ cho phép tham cứu thoại đầu, chẳng
cho phép đọc sách Thiền thật ra là v́ sợ hiểu
lầm ư Tổ, coi mê là ngộ, đem giả loạn chân,
đấy gọi là “tiết lộ”, cái hại rất lớn!
Sau khi đại ngộ, ắt phải rộng xem ngữ
lục của chư Tổ ḥng quyết trạch kiến
địa của ḿnh, ḥng mở mang Sai Biệt Trí, để
hiểu thấu chỗ cấm kỵ của thuốc.
Lại c̣n phải trải qua
nhiều duyên rèn luyện, khiến cho hạnh giải
tương ứng mới thành bậc xuất thế, hoằng
dương, xiển phát Tông phong. Người đời
nay chẳng dạy người tận lực tham cứu,
cứ v́ người diễn giảng, khiến cho
đường hiểu mở rộng, khởi ư suy
đoán, dùng ư kiến của ḿnh để hiểu ư Tổ,
dường như gần giống, suy tưởng nghĩa
lư. Hoàn toàn sai lầm, nhưng cứ cho là đúng. Nói không
sai cho lắm th́ chỉ toàn là rồng bằng đất nặn,
bánh vẽ, há có thể phun mưa, đỡ đói
được chăng? Do vậy, nhà Thiền phải thật
sự tham cứu mới có lợi ích thật sự!
Người chưa mở mắt, nghe những lời giảng
nói đó, mừng rỡ lộ ra ngoài. C̣n người có
đầy đủ con mắt ắt sẽ đau thấu
xương tủy. Hoằng dương Tông kiểu đó
chỉ có tổn hại lớn, chẳng có mảy may lợi
ích thật sự ǵ! Khác nào đem quân lịnh bảo khắp
quân địch, mời mọc chúng nó đánh nhau với
ḿnh mà không tự diệt vong th́ hiếm lắm! Do vậy,
kẻ giả vờ ngộ đạo không biết là bao
nhiêu! Kẻ hoại loạn Phật pháp thật là đông
đảo!
Thêm nữa, Giáo th́ do văn tự
hiển lộ ư nghĩa, y nghĩa tu Quán. Quán thành tựu sẽ
chứng Lư, khiến cho con người do hiểu rồi
bèn nhập. V́ vậy, ngài Thiên Thai dùng Tam Chỉ, Tam Quán[27]
để truyền Phật tâm ấn. C̣n Tông th́ ĺa văn tự
để hiển ư, hễ lănh hội được ư th́ minh
tâm, minh tâm rồi bèn khởi hạnh, dạy hành nhân do tham
cứu mà chứng đắc. Do vậy, Thiền Tông lấy
“trực chỉ nhân tâm” để truyền Phật
tâm ấn.
Vả nữa, nhân - quả, tu -
chứng, phàm - thánh, chúng sanh - Phật, sự - lư, hành - tướng
được nói trong kinh giáo vằng vặc phân minh. Nếu
tu được nhân th́ tự nhiên sẽ chứng quả,
siêu phàm nhập thánh, tức là chúng sanh thành được
Phật đạo! Đă đạt được sự
này th́ chẳng dính dáng đến lư nhân - quả, tu - chứng,
phàm - thánh, chúng sanh - Phật, há c̣n mong cầu bên ngoài nữa
ư? Những ǵ nhà Thiền nói đều quy về bổn
phận, chẳng dính dáng đến “nhân - quả, tu - chứng,
chúng sanh - Phật” (Đây
là Lư Tức Phật). Nếu hiểu được ư này (Đây gọi là Danh
Tự và Quán Hạnh Sơ Tâm), quyết định y theo
cái lư “chẳng dính dáng nhân - quả, tu - chứng, phàm - thánh,
chúng sanh - Phật” để khởi sự tu nhân chứng
quả, siêu phàm nhập thánh th́ đó chính là Sự để
chúng sanh thành Phật đạo vậy (Đây là từ Quán Hạnh
cho đến Cứu Cánh).
Do vậy, cổ đức sau
khi đại ngộ có những vị ba lần bảy
lượt xem Đại Tạng Kinh (Phần Châu Vô Nghiệp
ba lượt đọc hết Đại Tạng. Ngài Tri
Vi ở chùa A Dục Vương, là môn nhân của ngài Đại
Huệ Tông Cảo, giam ḿnh trên tháp viện hơn mười
năm, bảy lượt đọc hết Đại Tạng.
Xem trong sách Dục Vương Sơn Chí). Có
người cho ngồi đọc là không cung kính, bèn quỳ
đọc, đi th́ đội lên đầu, đứng
tụng (ngài
Thê Hiền Đề ba lần đọc hết Đại
Tạng đều như thế). Có vị suốt
đời hằng ngày tŕ một bộ kinh Pháp Hoa (như các vị
Vĩnh Minh Diên Thọ, Thủ Sơn Niệm). Có vị
xem kinh chỉ sợ bị làm phiền, bèn dán thiếp ở
cửa phương trượng, ghi: “Lúc xem kinh chẳng
được hỏi han” (ngài Ngưỡng Sơn Tịch). Có vị
tŕ thánh hiệu Quán Âm (ngài
Minh Giáo Tung, mỗi ngày tŕ mười vạn thánh hiệu
Quán Âm. Kinh sách thế gian, xuất thế gian không đọc
nhưng đều biết. Lại c̣n có ngài Hoa Lâm Giác
thường niệm Quán Âm, cảm được hai con hổ
thường theo hầu). Có vị tŕ chú Chuẩn
Đề (như
Kim Hoa Câu Chi ḥa thượng). Có vị mỗi ngày làm
108 Phật sự (Vĩnh
Minh Diên Thọ, tụng một bộ Pháp Hoa cũng thuộc
trong 108 việc ấy). Có vị đối trước tượng
đứng không dám ngồi, đối trước tượng
ngồi không dám nằm (ngài Đại Thông Bổn. Hễ thấy
những vật thực mang tên thịt cá, Ngài không ăn). Có vị
một ngày không làm sẽ không ăn suốt ngày đó (ngài Bách Trượng
Hoài Hải). C̣n những vị niệm Phật cầu
sanh Tây Phương th́ nhiều không biết bao nhiêu mà kể!
Ấy là v́ ngài Bách Trượng
là đích tử truyền đạo của Mă Tổ, Ngài có
lời khai thị rằng: “Tu
hành dùng niệm Phật là ổn thỏa, thích đáng”.
Ngài c̣n lập ra Thanh Quy, phàm kỳ đảo cho vị
Tăng bị bệnh, hóa tống Tăng đă mất,
đều quy về Tịnh Độ. Do vậy, chư
sư trong năm tông[28]
đều chăm chú ngầm tu. Có lắm vị nhiều
năm tận tụy làm những việc khó khăn (như ngài Quy Sơn
làm Điển Tọa[29],
ngài Tuyết Phong làm phạn đầu). Không vị
nào chẳng nhằm viên măn Lục Độ, tự lợi,
lợi tha, đều trọng Pháp này như của báu, coi
thường cái thân như bụi bặm, trọn chẳng
hề như người đời nay khinh mạn cổ
kim, khinh nhờn kinh luận! Do vậy, biết Tông là đội
xung kích, Giáo là quân mạnh mẽ theo sau. Những việc họ
tu là một sự, những ǵ họ nói là một pháp,
nhưng do lập bày ngôn ngữ, kiến lập môn đ́nh
bất đồng! Kẻ ngoài cửa chẳng biết
duyên do “tuy đồng nhưng không thể hợp, tuy khác
nhưng chẳng thể tách ĺa”, lầm lạc dựa theo
ư ḿnh, cưỡng làm chủ tể, nếu không báng bổ
lẫn nhau th́ cũng xen lộn.
Cái lỗi báng bổ lẫn nhau
may ra kẻ ngu c̣n biết, chứ cái tội xen lộn th́ người
trí vẫn khó ḷng hiểu được. Ấy là trở về
nguồn th́ không hai, nhưng phương tiện lắm cửa.
Phương tiện của nhà Thiền vô cùng khác biệt,
tợ hồ quét sạch tất cả ngôn ngữ. Kẻ
không hiểu được ư, chẳng lănh hội ư chỉ
“ĺa ngôn ngữ” chỉ nhai bă hèm: Nơi Tông môn bèn mở ra
đường hiểu, chẳng chịu tận lực
tham cứu; nơi Giáo bèn lầm học viên dung, phá hoại
sự tướng. Chỉ có bậc đại đạt
mới được lợi ích ở cả hai bên. Nếu
không, đề-hồ, cam lộ chứa trong đồ
đựng dính thuốc độc bèn biến thành phê
sương, trầm độc.
Giáo tuy
thường minh thị “vạn
pháp duy tâm”, nhưng cần phải dựa trên Sự
để luận Sự. Sự - Lư, nhân - quả, chẳng
được lẫn lộn mảy may. Vốn đă có
đầu th́ phải có cuối, chẳng ra ngoài duy tâm. Nhà
Thiền thương lượng đích thực cũng giống
như thế. Nếu chỉ nêu bày hướng thượng,
th́ dù có chỉ muôn pháp muôn sự trọn khắp thế
gian để hỏi nhưng lúc đáp luôn quy về bổn
phận, trọn chẳng đem Sự luận Sự.
Đó gọi là “hỏi ngay
nơi đáp, đáp ngay tại chỗ hỏi”.
Dù tợ hồ dùng Sự để
nói, nhưng ư nhằm đến chỗ khác chứ không phải
ở tại đây. Nếu hiểu ngay nơi sự đó
sẽ thành mây trắng ngàn dặm! Những thương
lượng đích thực sách Thiền không chép, chỉ
ghi chép những lời thuộc về bổn phận. Nếu
muốn biết phải coi khắp mọi sách. Nếu không
th́ hăy xem bộ Vạn Thiện Đồng Quy Tập và những
trước thuật của bậc Thiền Tượng
trong Tịnh Độ Thập Yếu, cũng có thể thấy
được đại khái.
Bàn rạch ṛi Phật pháp về
mặt đại thể, th́ chẳng ngoài Chân - Tục nhị
đế. Chân Đế th́ một pháp chẳng lập,
đó gọi là “Thật Tế
Lư Địa chẳng nhiễm mảy trần”. Tục
Đế th́ không pháp nào chẳng đủ, đó gọi
là “trong cửa Phật sự, chẳng
bỏ pháp nào!” Giáo th́ Chân - Tục cùng xiển
dương, nhưng đa phần luận về Tục.
Tông th́ ngay từ Tục bèn nói Chân, nhưng quét sạch Tục
tướng. Phải biết: Chân và Tục đồng thể,
không phải là hai vật. Ví như gương báu tṛn lớn,
trống rỗng, sáng ngời, thông suốt, trọn không có
một vật ǵ. Tuy trọn chẳng có vật ǵ nhưng lại
có thể “người Hồ đến bèn hiện bóng
người Hồ, người Hán đến bèn hiện
bóng người Hán”. Sâm la vạn tượng thảy đều
hiện. Dẫu cho mọi tướng cùng hiện,
nhưng vẫn trọn không có một vật nào. Dẫu
không có một vật nào, nhưng chẳng ngại ǵ mọi
tướng cùng hiện!
Đối với chỗ “mọi
tướng cùng hiện”, nhà Thiền chuyên nói “trọn không
có một vật”; c̣n Giáo đối với chỗ “trọn
không có một vật” lại nói cặn kẽ “mọi
tướng đều hiện”. Ấy là đối với
Sự Tu, Tông bèn chỉ rơ Lư Tánh; chứ không vứt bỏ
Sự Tu. C̣n Giáo th́ bèn luận Sự Tu nơi Lư Tánh, nhưng
vẫn quy về Lư Tánh. Đấy gọi là “xứng tánh khởi tu, toàn tu
nơi tánh, bất biến tùy duyên, tùy duyên bất biến,
Sự - Lư cùng được, Tông - Giáo bất nhị” vậy!
Tuy trung căn, hạ căn được lợi ích
nơi Giáo, nhưng nếu không phải là bậc thượng
thượng căn sẽ chẳng thể thông suốt v́
phải học biết rộng răi. Tuy trung hạ căn khó
thể gởi ḷng nơi Tông, nhưng bậc thượng
căn lại có thể đại triệt; do đó phải
ước theo căn cơ vậy!
Giáo th́ thế gian pháp, Phật
pháp, sự - lư, tánh - tướng đều phải thông
đạt, lại phải đại khai viên giải (tức là “đại triệt đại
ngộ” trong nhà Thiền) th́ mới có thể làm
đạo sư cho trời người. Tông phải tham
sao cho thấu suốt một câu thoại đầu,
đích thân thấy được bản lai mới ḥng xiển
dương tông phong Trực Chỉ. Lúc Phật pháp đại
hưng thịnh và nếu là bậc thông đạt Phật
pháp th́ nên y theo Tông để tham cứu. Ví như ông
Tăng Dao[30] vẽ
rồng, vừa chấm mắt, rồng bèn bay lên ngay lập
tức. Lúc Phật pháp suy nhược, và nếu là kẻ
túc căn hèn kém, hăy nên y theo Giáo tu tŕ. Ví như thợ vụng
làm đồ vật, bỏ dây mực sẽ hoàn toàn không
làm được ǵ.
Giáo phần nhiều nói rơ (hiển
thuyết), c̣n Tông hay nói kín (mật thuyết). Chuyện rơ
ràng trong nhà Thiền là như Tổ Đạt Ma nói: “Tịnh trí diệu viên, thể tự
không tịch” hay Mă Tổ nói:
“Tâm chính là Phật”, ngài Bách Trượng nói: “Linh quang riêng chiếu, thoát khỏi
căn trần; thể lộ chân thường, chẳng câu
nệ văn tự, tâm tánh vô nhiễm, vốn tự viên
thành. Chỉ ĺa vọng niệm th́ chính là Như Như Phật”.
Những câu này chẳng khác các kinh Đại Thừa
như Pháp Hoa, Lăng Nghiêm… mảy may nào! Nói chung, trước
thời Lục Tổ đa phần là hiển thuyết, kể
từ Lục Tổ trở đi đa phần là mật
thuyết.
Kẻ
ngu chẳng biết căn cội giống nhau – khác nhau giữa
ngôn ngữ của Tông và Giáo, thường thấy khi Thiền
sư nêu câu hỏi, những vị thuộc bên Giáo không thể
đáp được, bèn đề cao Thiền Tông, miệt
thị kinh sách bên Giáo, xem kinh Phật như giấy cũ,
coi lời Tổ trọng hơn luân âm (luân âm tức là thánh
chỉ).
Nay muốn báo ơn Phật, lợi lạc hữu t́nh th́
bên Thiền dù chuyên xiển dương Tông phong, vẫn phải
dùng đến Giáo để ấn chứng, bên Giáo th́ tận
lực tu quán hạnh, chẳng xen lạm lời Thiền. Ấy
là v́ tâm thông diệu đế, gặp duyên bèn chính là Tông. Nếu
“cây bách, que phẩn khô, quạ
kêu, sẻ hót, nước chảy, hoa rơi, khạc nhổ,
vung tay, cười chê, giận chửi”, pháp ǵ, chuyện
ǵ cũng đều là Tông, th́ lẽ đâu diệu pháp viên
đốn do chính kim khẩu Như Lai nói ra lại chẳng
đáng coi là Tông ư?
Cần ǵ phải vay mượn
cái then chống cửa nhà người ta để chống
đỡ môn đ́nh của ḿnh, c̣n những cây tiện, cây
nam[31] đẹp
đẽ nhà ḿnh sẵn có lại bỏ đi không dùng? Phải
biết: Pháp không thù thắng hay kém hèn, chỉ là một
đạo thường nhiên. Căn cơ có sống - chín,
nên tuy chỉ là một pháp mà thành ra hết sức sai khác
đó thôi. Nếu vậy, cái thuyết “giáo ngoại biệt truyền” (truyền riêng
ngoài giáo) chẳng đúng hay sao? Thưa: Nói “giáo ngoại biệt truyền” nhằm để
cho con người thấy được mặt trăng ở
ngoài ngón tay. Vả lại cách đề tŕ[32]
trong nhà Thiền vượt ra ngoài cách thức thông thường,
nên gọi là “giáo ngoại biệt
truyền”. Nhưng bốn chữ “giáo ngoại biệt truyền” khiến bao hào kiệt
mai một, nay nói toạc ra. Đối với Giáo mà nói th́
là “giáo ngoại biệt truyền”,
chứ cơ phong, chuyển ngữ v.v… cũng vẫn là
Giáo. Đối với Tông mà nói th́ [Giáo chính là] “cơ phong chuyển ngữ ngoại
biệt truyền”, mới khỏi cô phụ ơn Phật,
uổng công gây tạo khẩu nghiệp.
Nếu thật sự những
lời Phật dạy chẳng thể truyền được
Phật tâm ấn, th́ những vị Ca Diếp, A Nan, Mă
Minh, Long Thọ đă được biệt truyền,
đương nhiên sẽ truyền riêng cái pháp biệt truyền
ấy, cần ǵ phải kết tập Tam Tạng, chú giải
kinh, tạo luận để làm chi nữa? Tông phải
dùng Giáo để ấn chứng cũng giống như gỗ
phải cưa theo vạch dây mực mới ngay được!
Tôi thường khuyên một vị cuồng Tăng niệm
Phật, ông ta nói: “Lỗ mũi của nạp tăng[33]
tam thế chư Phật c̣n chẳng ṃ trúng được,
niệm Phật để làm ǵ?” Tôi nói: “Nếu quả thật
ṃ trúng được cái mũi mà tam thế chư Phật
chẳng ṃ trúng được th́ vẫn phải thường
dẫm theo vết chân của tam thế chư Phật mà
đi. Nếu chẳng dẫm theo vết của tam thế
chư Phật mà đi th́ không phải là ṃ trúng lỗ mũi
của nạp tăng mà là ṃ đúng lỗ lửa trên
giường sắt, cột đồng trong A Tỳ địa
ngục!” Tổ Đạt Ma nói: “Hơn hai trăm năm sau, người hiểu
đạo th́ nhiều, người hành đạo th́ ít;
người nói lư th́ nhiều, người thông lư th́ ít”.
Ngài Trí Giả thị hiện chứng địa vị
Ngũ Phẩm, ngài Nam Nhạc thị hiện chứng
địa vị Thiết Luân. Do vậy, biết rằng
người đời nay đối với hai môn Tông và
Giáo, mở mắt c̣n khó, huống ǵ thật chứng?
Có những ai từ bi, nguyện
sâu nặng, tâm sanh tử khẩn thiết, hăy nên noi theo các
ngài Huệ Viễn, Trí Giả, Vĩnh Minh, Liên Tŕ, chuyên dốc
sức nơi một môn niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ. Viết đến đây, có người bên cạnh
chẳng cam ḷng, quở rằng: “Phật pháp rộng lớn
như pháp giới, rốt ráo như hư không, diệu tánh
viên minh, ĺa các danh tướng, sao ông lại đôi co, chia
ranh vạch giới vậy?” Tôi đáp: “Diệu tánh tuy ĺa
danh tướng, nhưng danh tướng nào trở ngại
diệu tánh. Hư không, pháp giới tuy không có ranh giới,
nhưng ranh giới nào trở ngại hư không, pháp giới!
Tôi muốn bỏ Đông về Tây nên phải biện định
Nam Bắc, ngơ hầu chẳng mê phương hướng, có
nơi tá túc. Lại sợ ḿnh thấy sai lầm, muốn
thỉnh giáo bậc thông đạt. Đây chính là lộ
tŕnh của kẻ thọt chân, chứ không phải là
“dư bản” của Luân Vương đi!” (“Dư bản” là bản
địa đồ).
Nếu là bậc Khai Sĩ hiểu
thấu suốt phương hướng, là bậc đại
nhân đại lượng th́ pháp thế gian đều là
Phật pháp, không nghiệp đạo nào chẳng phải
là Phật đạo, ư Tổ, giáo lư, kinh Phật, sách Thiền
vốn tự dung thông, há nào xen lộn? Tận hết cái
trí của tôi chẳng thể suy lường được
cảnh giới ấy. Dốc cạn sức tôi, chẳng
thể trộm bén mảng ngoài rào! Lời luận hèn tệ
của tôi chỉ để dành cho những người
căn cơ kém tệ như tôi vậy. Sao ông lại
đem chuyện bay lượn của Ca Lâu La[34]
vương để quở trách loài ruồi nhặng muỗi
ṃng, muốn coi đều ngang như nhau vậy!
4. Phật
Giáo Dĩ Hiếu Vi Bổn Luận
(luận
về Phật giáo lấy Hiếu làm gốc)
Hiếu là đạo không ǵ lớn
hơn được nữa; bao trùm trời đất, uốn
nắn thánh, đào tạo hiền, tiên vương tu đạo
hiếu nên thành tựu đức tột cùng, Như Lai
nương theo đạo này chứng được đạo
Giác. V́ thế, Hiếu kinh[35]
đạo Nho có câu: “Ôi! Hiếu
là kinh của trời, là nghĩa của đất, là hạnh
của dân vậy!” Giới kinh nhà Phật dạy: “Hiếu thuận phụ mẫu,
sư Tăng, Tam Bảo. Hiếu thuận là pháp chí đạo.
Hiếu gọi là Giới, cũng gọi là ngăn dứt.
Thế gian hay xuất thế gian không ǵ chẳng lấy Hiếu
làm gốc”. Hiềm rằng thế tục phàm t́nh chỉ
biết hành đạo Hiếu nơi mặt h́nh tích rơ ràng,
chẳng biết chỗ cùng cực tận hiếu. Hễ
cứ thấy hàng Thích Tử xuất gia, liền dựa theo
ngay ư kiến ức đoán của chính ḿnh, mặc t́nh hủy
báng: “Chẳng hiếu thuận phụ mẫu, chẳng khác
ǵ phường đăng tử nghịch đồ!” Chẳng
biết pháp thế gian trọng hiếu mà pháp xuất thế
gian cũng không hề không trọng hiếu.
Bởi
lẽ, Hiếu như thế gian nói th́ có h́nh tích để
tuân theo, c̣n đạo Hiếu của họ Thích th́ giản
lược nơi bề ngoài, mà chuyên chú dốc sức
nơi cái gốc. Có h́nh tích để tuân theo th́ rơ ràng dễ
thấy, c̣n chuyên chú dụng sức nơi gốc th́ kín
đáo, khó thể tỏ rơ. V́ sao nói như vậy? Nho th́ hầu
hạ, phụng dưỡng cho cha mẹ yên thân, coi đó
là Hiếu. Lập thân, hành đạo, dương danh hậu
thế khiến cho cha mẹ nở mày nở mặt th́ gọi
là đại hiếu. Luận đến cùng cực th́ phàm
là Ngũ Thường[36],
Bách Hạnh, không ǵ chẳng nhằm phát huy đạo Hiếu.
V́ thế, thiên Tế Nghi của sách Lễ Kư có câu: “Chặt một cái cây, giết một
con thú chẳng đúng thời th́ chẳng phải là hiếu”.
V́ thế mới nói: “Đạo
Hiếu Đễ thông thấu thần minh, sáng khắp bốn
biển vậy”. Luận về Hiếu đến mức
như vậy, có thể nói là tột cùng, chí lư vậy, không
c̣n thêm ǵ được nữa! Nhưng hiếu như vậy
rơ ràng thuộc trong ṿng tai mắt, con người ta dễ
thấy.
Chỉ có hàng Thích Tử chúng ta
lấy chuyện thành đạo lợi sanh làm cách báo ân tối
thượng. Không chỉ báo đáp cha mẹ nhiều đời
mà c̣n báo đáp hết thảy cha mẹ trong tứ sanh lục
đạo từ vô lượng kiếp. Không những hiếu
kính cha mẹ khi c̣n sống mà c̣n độ thoát linh thức
của cha mẹ, khiến cho họ vĩnh viễn thoát khỏi
khổ luân, thường trụ Chánh Giác. V́ vậy, mới
nói: “Đạo Hiếu của họ Thích ẩn kín, khó
thể hiểu rơ vậy!” Tuy vậy, đạo Hiếu
của Nho lấy chuyện phụng dưỡng cha mẹ
làm đầu, nếu đệ tử Phật từ biệt
cha mẹ xuất gia th́ có phải là chẳng đoái hoài
công cha mẹ nuôi dưỡng hay chăng? Đức Phật
chế định: Xuất gia phải bẩm cùng cha mẹ.
Nếu có anh em, con cháu có thể nhờ cậy th́ mới
được bẩm thưa cùng cha mẹ, cha mẹ bằng
ḷng mới được xuất gia. Nếu không, chẳng
cho xuống tóc. Có người xuất gia rồi, nếu
anh em gặp chuyện, cha mẹ không nhờ cậy ai
được, cũng được phép xẻ bớt
cơm áo để giúp cho cha mẹ.
Do
vậy, ngài Trường Lô c̣n nêu vết thơm phụng
dưỡng mẹ (thiền
sư Trường Lô Tông Trách đời Tống, người
xứ Tương Dương, lúc nhỏ mồ côi. Bà mẹ
ngài họ Trần nuôi nhờ con trong nhà người cậu.
Đến lớn, Sư thông thạo bác lăm kinh điển
thế tục. Năm hai mươi chín tuổi xuất
gia, hiểu sâu xa tông yếu. Sau trụ tại chùa Trường
Lô, đón mẹ về ở nơi thất phía Đông
phương trượng, khuyên mẹ niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ. Bảy năm sau, mẹ niệm Phật
qua đời. Chuyện này chép trong Tịnh Độ Thánh
Hiền Lục), ngài Đạo Phi có chuyện lạ “chôn
cha” (ngài
Đạo Phi là tông thất nhà Đường, người
Trường An. Sanh ra mới vừa đầy năm, cha
v́ vương sự bỏ ḿnh. Ngài xuất gia năm bảy
tuổi. Đến năm mười chín, đời loạn
gạo mắc, bèn cơng mẹ vào Hoa Sơn, tự nhịn
ăn, khất thực nuôi mẹ. Năm sau, ngài t́m đến
chiến trường Hoắc Sơn, thâu thập
xương trắng, kiền thành tụng kinh chú, mong t́m
được xương cha. Vài ngày sau, xương cha từ
giữa đống xương trồi lên, tiến thẳng
đến trước mặt ngài Đạo Phi. Ngài bèn
chôn vùi những bộ xương khác, mang xương cha
đem về chôn cất. Chuyện này được chép
trong Tống Cao Tăng Truyện). V́ thế kinh nói: “Công đức cúng dường
cha mẹ bằng với công đức cúng dường bậc
Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát”.
Cha
mẹ c̣n sống th́ khéo léo khuyên dụ, khiến cho cha mẹ
tŕ trai niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Cha mẹ
đă khuất th́ đem công đức tu tŕ đọc tụng
của chính ḿnh thường chí thành hồi hướng cho
cha mẹ, khiến họ vĩnh viễn thoát khỏi
Ngũ Trược, từ biệt măi măi sáu nẻo, chứng
Vô Sanh Nhẫn, đạt địa vị Bất Thoái. Đến
tột cùng đời vị lai độ thoát chúng sanh khiến
cho cả ḿnh lẫn người đều thành giác đạo.
Như vậy là chẳng giống với đại hiếu
của thế gian. Luận đến cùng cực, toàn bộ
Lục Độ vạn hạnh, không ǵ chẳng nhằm mở
rộng đạo Hiếu. Do vậy, trong Phạm Vơng Giới
Kinh, nhất nhất đều dạy nên sanh tâm từ bi,
tâm hiếu thuận. Lại nói: “Nếu
là đệ tử Phật hăy nên dùng tâm từ bi thực hiện
chuyện phóng sanh v́ hết thảy người nam đều
là cha ta, hết thảy nữ nhân đều là mẹ ta.
Đời đời không lúc nào ta chẳng được
họ sanh ra. Do vậy, lục đạo chúng sanh đều
là cha mẹ ta. Giết chúng sanh ăn thịt chính là giết
cha mẹ”.
Do
vậy, hết thảy những ǵ ḿnh tu tŕ đều
đem hồi hướng cho khắp pháp giới chúng sanh
chính là nghĩ đến tột cùng đời vị lai, hiếu
với trọn khắp các hữu t́nh. Nếu đem đạo
Hiếu thế gian ra so sánh th́ về mặt h́nh tích cũng
chẳng thiếu khuyết, mà về mặt gốc lại
càng dư thừa! Tiếc cho những kẻ không thấy
được lư này, nếu không bảo là nói dối, hoang
đường th́ cũng cho là mờ mịt! Nào biết
theo chiều dọc th́ suốt ba đời, theo chiều
ngang th́ trọn khắp mười phương, Phật
nhăn thấy trọn vẹn như nh́n vào ḷng bàn tay vậy!
5. Như Lai Tùy Cơ Lợi Sanh Thiển Cận
Luận
(Lời
bàn luận thiển cận về chuyện Như Lai tùy
theo căn cơ lợi lạc chúng sanh)
Con người cùng một cái
tâm này, tâm cùng một lư này: “Chúng
sanh và Phật không hai, phàm và thánh hệt như nhau”. Do mê
- ngộ phân cách, đến nỗi thăng - trầm thật
khác biệt! Đại Giác Thế Tôn thương xót, thị
hiện thành Chánh Giác phổ độ chúng sanh, từ một
vị Đề Hồ tùy cơ nghi nói ra sai khác. V́ hàng
đại căn bèn nói đốn pháp, khiến cho họ
mau chứng Phật đạo. Với hàng tiểu căn
bèn trao truyền Tiệm Giáo, khiến họ dần dần
thoát khỏi trần lao. Tùy thuận thế gian, khéo dẫn
dụ lần lần; dạy giới thiện để vạch
ra con đường trời - người bằng phẳng;
nêu rơ nhân quả để tỏ bày khuôn mẫu tốt lành
nhằm để tiến đến và né tránh. Nói “giới thiện” có nghĩa
là trong Ngũ Giới, không giết là Nhân, không trộm là
Nghĩa, không tà dâm là Lễ, không nói dối là là Tín, không uống
rượu th́ tâm thường trong, chí thường lặng,
thần chẳng hôn mê nên lư hiện. Ấy chính là Trí. Tŕ trọn
Ngũ Giới sẽ chẳng đọa Tam Đồ, luôn
sanh trong Nhân đạo.
Về
đại thể, những điều này giống với
Ngũ Thường của Nho giáo, nhưng Nho chỉ dạy
tận nghĩa, c̣n Phật giảng thêm về quả báo. Thập
Thiện là không giết, không trộm, không tà dâm; đó là ba
nghiệp nơi Thân. Không nói dối, không nói thêu dệt,
không nói đôi chiều, không ác khẩu, đó gọi là bốn
nghiệp của Miệng. Không tham, không sân, không si, gọi
là ba nghiệp của Ư. Những điều này gần giống
với Ngũ Giới, nhưng Ngũ Giới đa phần
ước theo thân, c̣n Thập Thiện đa phần ước
theo tâm. Thập Thiện trọn đủ nhất định
sanh trong thiên giới. C̣n như gặp cha nói từ, gặp
con nói hiếu, đối với anh nói nhường, đối
với em nói kính, đủ mọi luân lư răn dạy
đều nhằm làm cho con người ai nấy tận hết
bổn phận, không bị thiếu khuyết ǵ, tùy thuận
tướng thế gian, tu pháp xuất thế. Lại c̣n rộng
nói nhân quả báo ứng, chẳng sai sót hào ly, đọa
địa ngục, sanh thiên, chỉ do con người tự
chuốc lấy! Ấy chính là tâm Như Lai từ bi tột
bậc muốn cho hết thảy chúng sanh vĩnh viễn
thoát khỏi các khổ, chỉ hưởng các sự vui! V́
thế, chẳng tiếc sức thị hiện tướng
lưỡi rộng dài, v́ các chúng sanh tận t́nh tuyên diễn.
Kinh
dạy: “Bồ Tát sợ nhân,
chúng sanh sợ quả”. Nếu muốn chẳng nhận
lănh quả khổ, ắt phải đoạn trước
cái nhân ác! Nếu thường tu nhân lành, nhất định
thường hưởng quả vui! Ư này chính là như kinh
Thư nói: “Làm thiện, giáng
điều lành. Làm điều chẳng lành, tai ương
giáng xuống”, hoặc như kinh Dịch nói: “Tích thiện ắt điều mừng
vui có thừa, tích chứa điều chẳng lành, ắt
tai ương có thừa”. Nhưng Nho chỉ ước
trên đời này và con cháu mà luận, c̣n nhà Phật luận
trọn tam thế quá khứ, hiện tại, vị lai vô tận;
thế nhưng, phàm t́nh không thể suy lường nổi
bèn coi là mịt mờ, chẳng chịu tin nhận. Như
kẻ mù không tuân theo người dẫn đường, tự
đi vào đường hiểm; muốn chẳng sa hầm
xảy hố há có được chăng?
V́
vậy, Phật pháp rộng độ khắp mọi
căn cơ trong mười phương pháp giới. Nếu
luận trên nhân đạo th́ không một ai chẳng thể
kham nhận Phật pháp, mà cũng không ai không thể lănh nhận
Phật pháp. Nếu như ai nấy tu tŕ giới thiện
th́ phong tục tốt đẹp, con người ḥa thuận,
nhà yên, nước ổn, phong tục hưng thịnh thuở
Đường Ngu sẽ lại được thấy trong
đời này nào c̣n khó chi! Do vậy, pháp khởi đầu
từ Tây Càn (Ấn Độ), truyền sang Đông Chấn
(Trung Hoa), vua quan các đời thảy đều sùng phụng.
Do đạo này ngầm cải hóa nhân tâm, lại ngầm tán
trợ trị đạo, khuất phục hung ác ngay khi
chưa dấy, tiêu họa hoạn khi chưa chớm! C̣n
như xuất gia làm Tăng, chính là nhằm chuyên chí nơi
Phật thừa và để ǵn giữ pháp đạo mà
đặt ra; đừng cho là “trong Phật pháp chỉ có
Tăng mới có thể tu tŕ”. Những lời nói nông cạn
này chính là [luận trên phương diện] Như Lai tùy thuận
thế gian, dần dần dạy cho pháp xuất thế
Nhân Thiên Thừa. C̣n như những thừa Thanh Văn,
Duyên Giác, Bồ Tát khác đều lấy những điều
trên đây làm cơ sở. Nếu ai là bậc đại
căn, tiến thẳng về Diệu Giác, triệt chứng
Phật tánh sẵn có trong tâm ḿnh, phô diễn cùng cực bản
hoài xuất thế của Như Lai. Nghĩa ấy rộng
sâu, hăy để lại đó không bàn tới!
6. Tŕ Kinh Lợi Ích Tùy Tâm Luận
(Luận
về việc tŕ kinh được lợi ích tùy theo cái
tâm)
Hết thảy các kinh Đại
Thừa hiển hay mật do đức Đại Giác Thế
Tôn đă nói, về lư đều vốn duy tâm, đạo
phù hợp Thật Tướng. Trải ba đời chẳng
biến đổi, cả mười pháp giới đều
tuân theo. Là người dẫn đường để trở
về nguồn, quay lại cội, dẹp khổ, ban vui, là
đạo sư của chư Phật, là bậc cha lành dẹp
khổ ban vui cho chúng sanh. Nếu có thể tột ḷng thành,
tận ḷng kính, lễ tụng, thọ tŕ th́ cả ḿnh lẫn
người đều được lợi ích thù thắng,
u - hiển đều được gội ân quang. Dường
như Như Ư Châu, giống như Vô Tận Tạng, lấy
chẳng hết, dùng chẳng cùng. Tùy tâm hiện lượng
đều vẹn sở nguyện. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Cầu vợ được vợ,
cầu con được con, cầu tam-muội được
tam-muội, cầu sống lâu được sống lâu,
như thế cho đến cầu đại Niết Bàn
được đại Niết Bàn”. Đại Niết
Bàn chính là quả đức rốt ráo.
Nếu luận về bổn
tâm của Như Lai th́ toàn lực Khế Kinh thật ra đều
nhắm về điều này. Nhưng do chúng sanh chí nguyện
hẹp ḥi, kém cỏi, lại thêm chẳng chí thành cùng cực
nên chẳng thể trực tiếp khế hợp
được. V́ thế, Phật thuận theo tâm hạnh
của họ, thỏa măn nguyện của họ. Nếu
là bậc túc căn sâu dầy sẽ nhanh chóng hiểu rơ tự
tánh, triệt chứng duy tâm, phá phiền hoặc, tiến
thẳng vào Bồ Đề, viên măn phước huệ,
chóng thành giác đạo, đạt được lợi
ích hoàn toàn nơi Khế Kinh, thông suốt bản hoài của
Như Lai. Ví như một trận mưa tưới khắp,
cây cỏ đều tươi tốt. Đại căn
th́ [tăng trưởng] chọc mây, che lấp mặt trời.
Tiểu căn th́ cũng tăng trưởng vài phân, vài tấc.
Đạo vốn Chân Như duy nhất, lợi ích do tùy
theo tâm mà có thù thắng hay kém cỏi; nhưng nếu đă
gieo căn lành th́ Phật quả rốt cục sẽ thành.
Dẫu chẳng thể đạt được lợi
ích lớn lao ngay, cũng sẽ nhờ đó mà được
độ thoát. Nghe tiếng cái trống bôi thuốc độc,
xa gần đều chết. Ăn chút Kim Cang, quyết
định chẳng tiêu. Trước dùng Dục để
lôi kéo, sau mới làm cho nhập Phật trí. Chính là như vậy
đó!
7. Kiệt Thành Phương Hoạch Thật
Ích Luận
(Bàn về
chuyện phải dốc kiệt ḷng thành mới đạt
được lợi ích thật sự)
Ngạn ngữ có câu: “Chẳng hạ ḿnh thật sâu
trước người khác, chẳng đạt được
lẽ thật”. Lời này tuy nhỏ, nhưng có thể
ví cho điều lớn lao. Phàm trong thế gian, lớn
như kinh thuật[37],
văn chương; nhỏ như một tài, một nghệ,
nếu muốn thâm nhập diệu nghĩa đến mức
thần t́nh, muốn được cốt tủy nơi
đạo truyền tân, tài nghệ xuất chúng, danh truyền
cổ kim, nếu chẳng chuyên tâm dốc ư, kiệt ḷng
thành, tận ḷng kính, sẽ chẳng thể nào đạt
được! V́ vậy, sách Quản Tử[38] có
câu: “Hăy suy nghĩ đi, hăy suy
nghĩ đi, lại suy nghĩ chín chắn đi. Nghĩ
không ra th́ quỷ thần sẽ tương thông”. Không phải
là quỷ thần tương thông mà chính là do ḷng tinh thành
đến cùng cực vậy!
Đời
Hán, Ngụy Chiêu gặp Quách Lâm Tông, cho rằng thầy dạy
kinh sách dễ gặp, thầy dạy làm người khó gặp,
bèn xin theo học, hầu hạ, quét tước. Lâm Tông
thường hay bị bệnh, sai Chiêu nấu cháo. Cháo nấu
xong, dâng lên, Lâm Tông mắng ầm ĩ: “V́ người trên nấu cháo chẳng để ḷng
kính cẩn làm, nên không ăn được!” Chiêu lại
nấu cháo khác, dâng lên, lại mắng như thế ba
lượt, mặt ông Chiêu vẫn không đổi sắc.
Lâm Tông nói: “Thoạt đầu
ta thấy được mặt ông, nay ta mới biết
được tâm ông”. Đời Tống, Dương
Thời và Du Thố thờ [Tŕnh] Y Xuyên làm thầy. Một
bữa học hỏi đă lâu, Y Xuyên chợt nhắm mắt
vờ ngủ, hai người học tṛ đứng hầu
chẳng dám bỏ đi. Lúc lâu sau, Y Xuyên chợt tỉnh giấc
nói: “Các tṛ vẫn c̣n ở đây à? Về nghỉ đi!”
Bèn lui ra, ngoài cửa tuyết xuống đă dầy hơn
cả thước. Trương Cửu Thành, mười bốn
tuổi sang chơi Quần Tường, suốt ngày
đóng cửa, không có chuyện ǵ th́ chẳng vượt
ra ngoài giới hạn ấy. Người học tṛ ở
bên cạnh xoi lỗ nh́n sang, thấy chàng ta ôm gối quỳ
sát, đối trước thi thư như đối diện
thần minh, bèn kính phục như tṛ đối với thầy.
Bốn vị trên đây, những ǵ họ học chính là
đạo “minh đức tân
dân” của thế gian, là pháp “tu
tề trị b́nh”, mà họ c̣n tôn sư trọng đạo
chí thành như thế, cho nên học được thành,
đức được lập, khiến cho khi c̣n sống
cũng như sau khi đă khuất, người đời
ngưỡng mộ không thôi! C̣n như Dịch Thu dạy cờ
vây cũng chỉ do chuyên tâm dốc chí cho nên giỏi giang, như
[ông lăo] khom lưng đón ve[39],
do dụng chí chẳng phân nên đạt được
như vậy.
Do
vậy, thấy rằng: Sự học không phân lớn hay
nhỏ, đều phải lấy thành kính làm chủ. Huống
nữa, Như Lai trong bao kiếp xưa, muốn khiến
cho chúng sanh đồng thành giác đạo, nếu không gieo
duyên, sẽ không do đâu đắc độ! Do vậy,
Phật bèn hiện đủ mọi sắc thân hiện
h́nh trong sáu nẻo, đủ mọi phương tiện
tùy cơ lợi vật, mở ra đủ cả ngàn môn,
đồng quy một đạo. Kẻ thiện căn
chưa gieo, chưa chín muồi, chưa giải thoát, Phật
bèn làm cho kẻ ấy gieo, chín muồi, giải thoát. Nên dùng
thân nào để độ được, bèn hiện thân ấy
để thuyết pháp. Mây bủa cửa Từ, sóng trào biển
Hạnh. Lục Độ đều tu, Tứ Nhiếp
cùng lợi ích trọn khắp. Đấy là bố thí, trong
ngoài đều xả, nghĩa là: quốc thành, vợ con,
đầu mắt, tủy năo, thịt trên thân, chân tay đều
hoan hỷ thí cho. V́ vậy, kinh Pháp Hoa nói: “Xem trong tam thiên đại thiên thế giới, không
có chỗ nào chừng bằng hạt cải mà chẳng phải
là chỗ Bồ Tát xả thân mạng”.
Như
Lai v́ chúng sanh nên trải qua ba đại A Tăng Kỳ kiếp
rộng hành Lục Độ, để kết khắp duyên
chủng. Đợi đến lúc căn cơ chín muồi,
rồi Ngài mới thị hiện thành Chánh Giác, hoằng
khai pháp hội, phổ ứng quần cơ. Với bậc
thượng căn bèn hiển thị Thật Tướng
khiến họ sanh lên được bờ đạo. Với
trung hạ căn bèn khéo léo tiếp dẫn, un đúc dần
dần, Hiển, Mật, Quyền, Thật, Thiên, Viên, Đốn,
Tiệm, tùy theo căn cơ xếp đặt, nên dùng pháp
nào bèn dùng pháp đó. Tuy có ba thừa, nhưng đạo vốn
không hai. V́ Thật lập Quyền, Quyền là Quyền
đối với Thật; khai Quyền hiển Thật, Thật
là Thật đối với Quyền. Thuận theo căn
cơ, khéo léo khuyến dụ dần dần, khiến cho cả
lư lẫn cơ đều khế hợp th́ giải cùng hạnh
mới được viên măn. Dù người học chuyên
chú Đại Thừa, cũng chẳng được khinh
miệt, vứt bỏ Tiểu Thừa, bởi Tiểu Thừa
chính là pháp được lập ra để [người
học] tiến nhập Đại Thừa, là diệu dụng
độ sanh của Như Lai, quả thật là phương
kế rộng lớn để cho hàng hạ căn thoát khổ.
V́
thế, kinh Tứ Thập Nhị Chương nói: “Người học đạo
Phật th́ đối với những ǵ Phật đă nói
đều phải nên tin thuận. Ví như ăn mật,
dù ở chính giữa hay chung quanh đều ngọt ngào,
kinh của ta cũng giống như thế. Biển cả tuy có chỗ cạn,
chỗ sâu, nhưng nước vốn chẳng hai vị”.
Phàm những ǵ thuộc về kinh Phật đều phải
nhất loạt tôn kính, như mạng lệnh của Luân
Vương, dẫu đủ mọi chuyện khác nhau,
nhưng đều cùng từ vua sắc truyền. Người
viên đốn lănh thọ pháp th́ không pháp nào chẳng viên. Những
lời cư xử trong cơi đời, những nghề
nghiệp để nuôi sống v.v… đều thuận theo
chánh pháp, huống chi những pháp như Sanh Diệt, Vô Sanh,
Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên v.v… do chính kim khẩu
Như Lai nói ra. Đến khi một kỳ sự nghiệp
của Như Lai đă xong, Phật bèn thị hiện diệt
độ. Các đại đệ tử Ca Diếp, A
Kinh
dạy: “Thân người khó
được, Phật pháp khó nghe”. Nếu không có nhân
duyên kiếp xưa th́ danh hiệu kinh Phật c̣n chẳng
được nghe, huống chi là được thọ
tŕ, đọc tụng, tu nhân, chứng quả ư? Những
ǵ đức Như Lai đă nói đều y theo lư vốn sẵn
có trong tâm chúng sanh, ngoài tâm tánh trọn chẳng có một
pháp nào để đạt được cả. Chỉ
v́ chúng sanh đang mê nên chẳng thể hiểu rơ, trong Chân
Như Thật Tướng bèn huyễn sanh vọng tưởng,
chấp trước. Do vậy, khởi tham - sân - si, tạo
giết - trộm - dâm, mê trí huệ nên thành phiền năo, ngay
nơi thường trụ bèn thành sanh diệt, trải trần
điểm kiếp, không thể thoát được. May gặp
được những kinh Đại Thừa hiển - mật
do đức Như Lai đă nói, mới biết hạt châu
vẫn y nguyên nơi chéo áo, Phật tánh vẫn tồn tại.
Tự coi ḿnh là khách, là kẻ hạ tiện, nhưng vốn
thật là con ông trưởng giả. Trời - người
sáu nẻo chẳng phải là chỗ ḿnh ở; Thật Báo,
Tịch Quang mới là quê nhà sẵn có. Nghĩ lại từ
vô thủy đến bây giờ, chưa nghe lời Phật
nên dù sẵn có tâm tánh này, vô cớ bị luân hồi oan uổng!
Thật là đáng đau đớn khóc than, tiếng rền
đại thiên, tim từng miếng xé toạc, ruột từng
tấc đứt ĺa. Ân ấy, đức ấy quả
c̣n hơn trời đất, cha mẹ gấp trăm ngàn vạn
lần. Dẫu nghiền thân nát xương, há có thể báo
đền được! Chỉ có y theo lời dạy tu
hành, tự hành, hóa độ người khác th́ cỏ Xuân
mới đền đáp được ân nắng soi chút
phần, hoa quỳ mùa Hạ hướng theo ánh mặt trời
mà thôi. Nhưng hiện thời Tăng - tục mở xem
kinh sách, trọn chẳng thành kính tí ti nào. Đủ mọi
điều khinh nhờn, khó thể nêu trọn; nhưng tập
thành thói đă lâu, ai nấy coi là thường, h́nh tích khinh
nhờn đó không nỡ nêu đủ. Xem pháp ngôn của
Như Lai giống như giấy cũ rách nát! Đừng
nói chi những kẻ không biết chỉ thú nên trọn chẳng
được lợi ích; ngay cả những người
biết thật nghĩa sâu xa cũng chỉ là tam-muội
đằng miệng, tỏa sáng ngoài mặt. Như đang
đói kể chuyện ăn, như nghèo cùng đếm của
báu, dù có công nghiên cứu, nhưng trọn chẳng
được lợi ích thật chứng. Huống chi cái
tội khinh nhờn quả thật ngập trời, thời
gian thọ khổ há nào phải chỉ hết kiếp? Tuy
là nhân lành, nhưng lại chuốc lấy quả ác. Dẫu
thành cái nhân đắc độ cho tương lai, khó tránh
khỏi nhiều kiếp chịu đủ mọi bề
khổ sở.
Dùng
cái tâm ôm nỗi thảm thương dám bày tỏ lời quê
mùa, mong những ai vâng làm theo lời Phật chỉ
được lợi, không bị tổn hại. Kinh Kim
Cang dạy: “Nếu kinh điển
này ở đâu, chỗ ấy có Phật, phải như
đệ tử tôn trọng [Phật]”. Lại dạy: “Nơi nơi, chốn chốn, nếu
có kinh này th́ hết thảy thế gian trời, người,
A Tu La đều phải nên cúng dường. Phải biết
chỗ ấy chính là tháp, đều nên cung kính, làm lễ,
đi nhiễu, dùng các hương hoa rải lên nơi đó”.
V́ sao lại dạy như thế? Do hết thảy chư
Phật và pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của
hết thảy chư Phật đều từ kinh này mà
ra; các kinh Đại Thừa đâu đâu cũng dạy
con người phải cung kính kinh điển, chứ không
phải chỉ nói một lần rồi thôi! Ấy là v́ các
kinh Đại Thừa chính là mẹ của chư Phật,
là thầy của Bồ Tát, là Pháp Thân xá-lợi của tam
thế Như Lai, là thuyền từ thoát khổ của
chúng sanh trong chín giới. Dù cao đăng Phật quả vẫn
c̣n phải kính pháp, ngơ hầu báo đáp đến tận gốc,
chẳng quên đại ân. V́ thế, kinh Niết Bàn dạy:
“Pháp là mẹ của Phật,
Phật từ Pháp sanh”.
Tam
thế Như Lai đều cúng dường Pháp, huống
ǵ hạng phàm phu sát đất, toàn thân đầy nghiệp
lực, như tù phạm tội nặng bị giam cầm
lâu ngày trong lao ngục, không cách ǵ thoát ra được! May
sao nhờ vào thiện căn đời trước,
được xem kinh Phật, như tù nhân nhận
được lệnh tha, mừng rỡ vô ngần! Do vậy,
bèn nương theo kinh pháp vái chào tam giới măi măi, thoát khỏi
lao ngục sanh tử vĩnh viễn, đích thân chứng
Tam Thân, về thẳng quê nhà Niết Bàn. Vô biên lợi ích do
nghe kinh bèn đạt được, há có nên dựa theo tri
kiến cuồng vọng chẳng giữ ḷng kính sợ, giống
như nhà Nho đọc sách trong cơi tục, buông tuồng
khinh nhờn ư? Đă đọc kinh Phật, sao không
nương theo những ǵ kinh Phật dạy mà cung kính, tôn
trọng? Đă khinh nhờn Phật pháp, há có thể đạt
được tất cả những lợi ích chân thật
nơi Phật pháp ư? Nếu có thể tạm dứt những
kiến giải cuồng vọng, đêm thanh tự
nghĩ, tâm thần ắt sẽ kinh hoàng, thẹn thùng, nước
mắt ràn rụa, buồn cho ngày trước vô tri, thề
suốt đời sẽ dốc kiệt ḷng thành. Từ ấy,
tâm ư nghiêm túc, cung kính, thân miệng thanh tịnh, vĩnh viễn
dứt sạch tâm thái xấu xa thô lậu, luôn y theo khuôn
phép thánh hiền của kinh luận.
Nếu
làm được như thế ắt sẽ ở trong biển
cả Phật pháp, tùy phần, tùy sức đạt
được lợi ích. Như Tu La, hương tượng
và các loài muỗi ṃng, uống nước biển cả, [loài
nào loài nấy] đều được no bụng. Lại
như một trận mưa thấm ướt khắp,
cây cỏ đều tươi tốt. Như thế th́
cái công thọ tŕ của chính ḿnh mới chẳng uổng
phí, mà tâm Như Lai giảng kinh, tâm hoằng pháp của
chư Tổ cũng được vui đẹp, an ủi,
sung sướng phần nào! Nay đem những sự tích lợi
ích do cung kính kinh điển của chư cổ đức
chép đại lược vài điều, ngơ hầu những
người chân tu thật hành có cái để noi theo:
1)
Vị Tăng tên Đức Viên đời Tề, không biết
thuộc tộc họ nào, người xứ Thiên Thủy,
thường lấy kinh Hoa Nghiêm làm sự nghiệp, thọ
tŕ, đọc tụng nắm vững chỗ yếu diệu
đến cùng cực. Sư sửa dọn một khu
vườn sạch, trồng toàn cây cốc chử[41]
và trồng cỏ thơm, trồng xen lẫn các loại hoa
tươi. Mỗi lần vào vườn, đều tắm
rửa, thân mặc áo sạch. Tưới bằng nước
thơm, cây dó mọc được ba năm, mùi thơm sực
nức. Lại tạo riêng tịnh thất, dùng chất bùn
thơm tô vách, trát đất, kết đàn, bày đồ vật
tinh sạch, tắm gội. Nhà tắm có để sẵn
áo dành riêng cho khi đi vệ sinh. Thợ đều phải
trai giới, ra vào đều phải thay áo, súc miệng cho
thơm tho. Lột vỏ cây dó, ngâm trong nước trầm
cho sạch để làm giấy. Cả năm mới làm
xong. Bèn đắp riêng một cái nền sạch, lại cất
một ngôi thất mới. [Từ đầu] cho đến
khi bắc kèo, lợp ngói, tắm rửa đều dùng
nước thơm, mỗi việc đều nghiêm khiết.
Trong nhà, đặt một ṭa vuông bằng gỗ bách khảm
ngà, chung quanh xếp hương hoa, phía trên treo lọng báu,
treo các thứ ngọc có tiếng thanh tao, kết xen lẫn
thành tua rủ xuống chung quanh. Dùng gỗ bạch đàn
và tử trầm làm án kinh và quản bút. Người chép
kinh hằng ngày giữ trai giới, tắm gội bằng
nước thơm ba lần, đội măo hoa, mặc áo sạch,
chưng diện như người cơi trời.
Lúc
vào kinh thất, bèn đốt hương hai bên đường,
có người xướng tụng dẫn đường
đằng trước. Đức Viên cũng ăn mặc
theo h́nh thức nghiêm tịnh như thế, cầm lư
hương cung kính dẫn đường. Rải hoa cúng
dường rồi mới biên chép. Đức Viên hồ quỳ[42],
vận tưởng, mắt nh́n chăm chú, dốc ḷng. Vừa
chép được mấy hàng, mỗi chữ đều
phóng quang, chiếu khắp cả viện, mọi người
đều thấy, không ai chẳng bi cảm, một lúc lâu
sau mới hết. Lại có thần nhân cầm giáo hiện
h́nh hộ vệ, Đức Viên và người chép kinh
đều thấy, người khác không thấy được!
Lại có phạm đồng áo xanh, không biết từ
đâu đến, tay cầm hoa trời, chợt dâng lên cúng
dường. Những chuyện linh cảm trước sau
đều giống như vậy. Phải mất hai
năm, mới chép xong kinh. Đựng trong hộp thơm, đặt
trong trướng báu, cất trong tịnh đường.
Mỗi lần đều đảnh lễ rồi mới
chuyển đọc, hộp tỏa ra ánh sáng lạ. Nghiêm
khiết đến thế, kính trọng tuyệt cổ
siêu kim. Bộ kinh này được trao truyền đến
nay qua năm đời (Ngũ Đại), có ai thanh tịnh
chuyển đọc th́ cũng có lúc hiện sự linh ứng
rơ rệt như vậy. Bộ kinh ấy nay được
thủ hộ cúng dường ở chỗ pháp sư Hiền
Thủ chùa Tây Thái Nguyên.
Chú thích[43]: Chuyện
này và hai chuyện tiếp theo đều là nói về bản
Lục Thập Hoa Nghiêm (Hoa Nghiêm bản dịch gồm sáu
mươi quyển) được dịch vào đời
Tấn. Chữ Cốc 穀 đọc
như chữ Cốc 谷, thân mộc chứ
không phải thân thảo, là một loài khác của giống
cây Chử 楮 (cây dó).
Đức Viên trồng cây dó để làm giấy chép kinh.
Vào trong vườn trồng cây dó này mà c̣n phải tắm gội,
mặc y phục sạch sẽ. Do đây biết rằng: Hằng
ngày Sư lễ Phật tụng kinh, thành kính, tịnh khiết
[đến mực nào!] Người thời nay lên Đại
Hùng bảo điện c̣n chẳng được kiền
thành, thanh khiết như sư Đức Viên vào vườn
trồng cây dó. Thật đáng cảm khái, than thở! [Trong
câu “mộc cụ tân y” (dịch
theo ư là “tắm rửa, vào chỗ bẩn đều thay áo
mới”)], th́ “mộc” là “mộc thất” (nhà tắm), c̣n
“tân” nên đọc là “xúc” (dơ bẩn), ư nói: Trong nhà tắm
có áo để mặc riêng khi vào nhà cầu. Câu “tượng nhân trai giới, dịch
phục xuất nhập” nghĩa là những người
thợ được dùng ở đây đều phải
tŕ Ngũ Giới, hằng ngày thọ pháp Bát Quan Trai. Phàm muốn
đi vệ sinh, phải đến chỗ nhà tắm, cởi
bỏ thường phục, mặc áo dành riêng cho nhà vệ
sinh. Khi đi ra, phải tắm gội sạch rồi mới
được mặc lại thường phục.
“Tuyền tô” là những
cái tua: Dùng những sợi tơ, đầu thắt lại,
cho rủ xuống. “Bái” tức
là “xướng tán”. Ngũ Đại là Tề,
Lương, Trần, Tùy, Đường. Truyện này do
người đời Đường soạn, nên ghi là “cho đến nay là năm đời”.
Ḷng thành của Đức Viên siêu việt cổ kim, nên mới
linh ứng nhiều điều như thế. Người
đời nay dù không tài lực, nhưng với những
chuyện sức ḿnh làm được, há chẳng nên dốc
kiệt ḷng thành, vét tận ḷng kính để mong Tam Bảo
rủ ḷng từ, gia bị thầm kín hay rơ ràng ư? Nếu
chỉ chuộng bề ngoài, trọn chẳng thành kính, sẽ
không cách ǵ cảm thông được pháp lực vô biên, bèn
cho là Phật pháp không linh, há có được ư? Chuyện
này sao lục từ bộ Hoa Nghiêm Huyền Đàm[44]
và dung hội hai bộ Huyền Kư[45].
2)
Vị tăng Tu Đức ở Trung Sơn, Định
Châu vào đời Đường, không biết họ tên,
khổ hạnh, tiết tháo thành tánh, tu hành nơi rừng
núi. Kết nghiệp an tâm nơi kinh Hoa Nghiêm và luận Khởi
Tín. Năm Vĩnh Huy thứ tư (653), phát tâm sao chép. V́ thế,
lập riêng một tịnh viện, trồng cây dó, trồng
kèm các loại hoa thơm. Tưới bằng nước
thơm, ba năm sau, tịnh khiết làm thành giấy. Lại
cất riêng một cái đài thanh tịnh, dựng nhà trên
đó. Mời người viết chữ đẹp ở
Vi Châu là Vương Cung, trai giới nơi biệt viện,
tắm gội, mặc áo sạch, thắp hương, rải
hoa, treo các loại phan lọng, lễ kinh sám hối rồi
mới lên ṭa viết. Hạ bút xuống bèn ngậm
hương, nhấc bút lên mới thở ra. Mỗi ngày
đều như thế. Sư Tu Đức vào tịnh thất,
vận tưởng. Mỗi lần chép xong một quyển
bèn tặng mười xấp lụa mịn, một bộ
tặng tổng cộng sáu trăm tấm lụa mịn.
Ông Cung dốc kiệt ḷng chí thành, đều chẳng nhận
lấy; vừa chép xong kinh, liền mất ngay. Do kinh đă
hoàn thành, Tu Đức bèn mở trai hội ăn mừng.
Đại chúng nhóm đến, Tu Đức đối
trước Phật, đốt hương, rải hoa,
phát hoằng thệ nguyện, rồi mới mở hộp
đựng kinh, tỏa ra quang minh lớn, chiếu khắp
hơn bảy mươi dặm, chiếu đến tận
thành Định Châu. Dân chúng trong thành đều thấy.
Đại chúng đến dự trai hội tại Trung
Sơn đều gieo thân phủ phục, nghẹn ngào khóc
lóc sám hối.
Chú thích: Truyện
này gần giống với sự tích ở phần trước.
Đủ thấy cổ nhân đối với Tam Bảo
đều kiệt thành tận kính, hoàn toàn chẳng như
người bây giờ coi thường, khinh nhờn, hữu
danh vô thực! “Nâng bút, thở
ra” có nghĩa là muốn ho hắng, hoặc muốn ngáp,
đều ngừng bút một chút, mặt hướng sang
phía bên cạnh, thở hơi ra, chẳng dám để
hơi thở xông vào kinh. “Vừa
chép kinh xong, ngay lập tức bèn mất” nghĩa là do
chuyên tâm chép kinh, chẳng cầu danh lợi, chí thành đến
cùng cực, đến nỗi nghiệp tận t́nh không, liễu
sanh thoát tử, cao đăng sen báu thượng phẩm, tự
chứng địa vị Bất Thoái. Xem đây có thể
biết Phật pháp chẳng cô phụ con người,
nhưng Tăng, tục thời nay đa phần đều
cô phụ Phật pháp. Biết làm sao được! Chuyện
này gộp từ hai sách Huyền Kư.
3)
Sư Pháp Thành đời Đường, họ Phan,
người huyện Vạn Niên thuộc Ung Châu, xuất
gia từ nhỏ, lấy việc tụng Hoa Nghiêm làm sự
nghiệp. Do gặp Huệ Siêu thiền sư ẩn cư
trong ngọn núi cao Lam Cốc, bèn vứt bỏ phiền hoặc,
dốc ḷng thành cầu học. Về sau, Sư tạo Hoa
Nghiêm đường ở ngọn núi phía
Năm
sau, kinh chép xong, sắp sửa ăn mừng, chim lại bay
tới, lẩn quẩn như trước, hót tiếng
thánh thót. Năm đầu niên hiệu Trinh Quán (627), Sư vẽ
h́nh ngàn vị Phật, chim lại bay tới, đậu
trên lưng người thợ. Sau Sư mở trai hội,
cúng mừng các kinh tượng. Trong ngày hôm ấy, Sư lấy
làm lạ không thấy chim đến, nh́n lên đỉnh núi
nói: “Chim đă không đến,
ta thật không cảm [được chim]. Phải
chăng hiềm v́ có các uế hạnh nên mới có điềm
này?” Nói xong, chim đột nhiên bay đến chao lượn
kêu hót, đậu vào trong nước thơm, nhảy nhót tắm
gội, rồi lại bay đi. Trước sau đều
như thế, không cần phải nhắc lại.
Trương Tịnh khéo tài bút mực, nên được
trong làng đề cử, các bài kinh kệ được
khắc trên vách núi bên đường đều do ông ta viết.
Ông chép Pháp Hoa ở ngay nơi đất trống. Nhân có
chuyện phải đi nơi khác, chưa kịp đem cất.
Mưa to như trút, khe, suối đều ngập tràn. Chạy
đến xem thấy cả án kinh đều khô ráo, c̣n những
thứ khác đều ướt đẫm. Ông từng tựa
vào cây tùng mọc ngang, bị té xuống ḍng suối chảy
xiết, chưa trôi đến khe nước bên dưới,
bất giác đă lên được bờ cao, chẳng tổn
hại một mảy lông.
Chú
thích: Pháp Thành, Trương Tịnh đều dốc kiệt
ḷng thành kính nên được cảm ứng, đều
khó thể nghĩ bàn. Truyện này trích từ Hoa Nghiêm Huyền
Đàm và dung hội hai sách Huyền Kư và Tục Cao Tăng
Truyện.
4) Sư Đàm Vận đời
Đường, người Định Châu. Năm bảy
mươi tuổi, nhằm lúc cuối đời Tùy đất
nước loạn lạc, bèn ẩn cư trong Ly Thạch
Bắc Thiên Sơn, thường tụng kinh Pháp Hoa. Sư muốn
chép kinh này, nhưng không ai cùng chí hướng. Qua nhiều
năm như thế, chợt có người thư sinh không
biết từ đâu đến, nói muốn tắm gội
sạch sẽ, rồi mới chép được. Liền
vào lúc sáng sớm, ăn xong, tắm gội, mặc áo sạch,
thọ tám giới, vào tịnh thất, miệng ngậm
đàn hương, đốt hương, treo phan, lặng
lẽ sao chép, đến chiều mới ra. Hôm sau lại
như trước, chưa từng than mệt. Đến
khi kinh chép xong, Sư đúng pháp dâng tiền công, đưa
ra ngoài cửa, liền chẳng thấy đâu nữa. C̣n
như trang hoàng [bản kinh đă chép], một mực
đúng chánh pháp, Đàm Vận thọ tŕ, đọc tụng,
thắt trong bảy lớp bọc. Cứ mỗi một lớp
là một lượt dùng nước thơm rửa tay. Lúc
đầu chưa từng tạm sót, sau gặp phải giặc
Hồ, bèn bỏ kinh trong rương, đặt trên ngọn
núi cao. Năm sau, giặc yên, t́m lại, nhưng không thấy.
Lục t́m cùng khắp, cuối cùng t́m được
rương dưới vách đá. Vải bọc
rương đă mục nát ră rời, bới gỗ mục
ra, thấy kinh vẫn tốt nguyên y như cũ.
Chú thích: Chép kinh
tâm chí thành, cảm thánh chúng ứng đến. Thánh tuy ứng
hiện, nhưng thị hiện giống như phàm phu. V́
thế, một mực theo đúng pháp: Sáng sớm, ăn
xong bèn tắm gội, mặc áo sạch… “Tám giới” là Bát Quan Trai pháp. Lấy việc quá Ngọ
không ăn để làm Thể, lấy tám giới như
không giết v.v… để hỗ trợ nhằm đóng lấp
các phiền năo Hoặc nghiệp tham, sân, si v.v… chẳng cho
sanh khởi. Đây chính là khiến cho người tại
gia thọ giới xuất gia. Kỳ hạn thọ giới
này là từ lúc sáng sớm ngày hôm nay cho đến rạng
sáng ngày hôm sau. Do chép kinh hằng ngày phải tŕ, v́ thế phải
hằng ngày thường thọ. “Đến chiều mới ra” tức là giờ Ngọ
cũng không ăn. Chữ Khỏa 裹âm đọc giống như chữ Quả,
tức là cái bao. “Mỗi một
lớp bao là một lượt rửa tay bằng nước
thơm”, tức là đọc một hồi kinh, bèn dùng
nước thơm rửa tay một lượt. “Vải bọc rương mục
nát mà kinh vẫn c̣n nguyên, đẹp đẽ” th́ một
là do được pháp lực của thánh nhân gia tŕ, hai là
do thành tâm của ngài Đàm Vận chiêu cảm, ba là do công
đức khó thể nghĩ bàn của bộ kinh mầu
nhiệm này. Về sau, sư Đàm Vận trụ tại
Thấp Châu. Năm Trinh Quán thứ mười một (637),
Đạo Tuyên luật sư đă đến gặp
Sư. Khi ấy, Sư niên kỷ đă bảy mươi.
Những chuyện tiếp theo đây đều trích từ
Tam Bảo Cảm Thông Lục[47].
4)
Năm Trinh Quán thứ năm (631) đời Đường,
có ông Lệnh Hồ Nguyên Quỹ ở huyện Ba Tây, Long
Châu, kính tín Phật pháp, muốn chép kinh Pháp Hoa, Kim Cang, Bát
Nhă, Niết Bàn v.v… nhưng không cách nào tự kiểm lại
được, bèn nhờ Kháng thiền sư ở nơi ấy
kiểm giảo. Thầy Kháng bèn ở trong chùa, khiết tịnh
đúng pháp. Chép xong cuốn cuối, bèn đưa về
trang trại tại Kỹ Châu, giữ kinh trong trang và
năm ngàn lời của Lăo Tử cùng để một chỗ,
chợt bị lửa bên ngoài cháy lan đến, nhà lợp
bằng cỏ, bị lửa cháy sạch hết. Khi ấy,
ông Quỹ đang làm huyện lệnh ở Bằng Dực,
gia nhân liều mạng bới tro, lôi được ống
đồng pha vàng đựng kinh ra khỏi tro. Các kinh
đựng trong ống vẫn như cũ không bị
hư hại ǵ, màu sắc đẹp đẽ không thay
đổi. Chỉ có lớp bọc là biến thành tro. Lại
t́m kinh của Lăo Tử, nó đă bị cháy tiêu. Họ bèn
thâu thập các kinh ấy, người trong làng xóm đều
khen là lạ lùng. Quyển kinh Kim Cang Bát Nhă, hàng chữ ghi tựa
đề bị cháy đen, hỏi đến nguyên do, th́
ra lúc viết tựa đề kinh, có vị quan trong châu viết
chữ đẹp, vị này đi gấp, không giữ khiết
tịnh mà cất bút viết ngay. Do vậy, đề kinh bị
lửa đốt. Người này hiện vẫn c̣n sống,
những kinh tốt lành ấy vẫn c̣n. Chủ Thần Tế
ở chùa Tây Minh tại kinh đô chính mắt chứng kiến,
kể lại.
Chú thích: “Năm ngàn lời của Lăo Tử”
chính là Đạo Đức Kinh. Hết thảy Phật sự
đều lấy giới hạnh, thành kính làm chủ. Nếu
giới hạnh tinh nghiêm, thành kính, chuyên dốc th́ Tam Bảo
chư thiên sẽ đều ủng hộ. Nếu không, sẽ
không tách nào cảm được vô biên pháp lực. Xem thấy
những kinh ấy không bị tổn hại mảy may, chỉ
có tựa đề kinh Kim Cang nét chữ bị cháy đen
là do người ấy đă không có giới lực, lại
không thành tâm vậy! Người thọ tŕ kinh Phật há chẳng
lấy việc tŕ giới dốc cạn ḷng thành làm nhiệm
vụ cấp bách ư?
5)
Đời Đường, ở Hà Đông, có ni sư tên
Luyện Hạnh thường tụng kinh Pháp Hoa, mời
người viết chữ đẹp chép kinh, phải trả
công cao gấp nhiều lần, nhưng khiết tịnh, ân
cần quả thật có thừa! Cứ mỗi lần khởi
đầu là một lần tắm, đốt hương
xông áo, thở vào ống đồng thông ra ngoài vách. Chép hết
bảy quyển phải tám năm mới xong. Sư Pháp
Đoan chùa Long Môn nhóm chúng giảng thuyết, mượn ni
sư bộ kinh ấy để thẩm định. Cố
nhiên ni sư không cho, Pháp Đoan quở trách. Sự chẳng
đặng đừng bèn tự đem đưa cho Pháp
Đoan. Pháp Đoan mở ra đọc, chỉ thấy giấy
vàng, trọn chẳng có chữ nào! Các quyển khác cũng vậy.
Đoan hổ thẹn, đưa trả cho ni sư. Ni
sư buồn khóc, nhận lấy. Dùng nước thơm rửa
hộp đựng kinh, đội lên đầu nhiễu
Phật bảy ngày không nghỉ. Mở ra xem, chữ hiện
như cũ. Khi ấy nhằm năm Trinh Quán thứ hai
(628), Sư Pháp Đoan tự kể chuyện này (tôi vốn muốn
sao chép rộng răi những lợi ích do cung kính Tam Bảo và
những tội khiên do khinh nhờn Tam Bảo để
người nghiên cứu học Phật có cơ sở
để giữ pháp, không do đâu mắc tội, nhưng
v́ mục lực chẳng đủ nên đành ngưng).
8. Văn hồi kiếp vận hộ quốc cứu
dân chánh bản thanh nguyên luận
(Luận
về “gốc chánh nguồn trong” của việc văn hồi
kiếp vận bảo vệ đất nước cứu
dân)
Đạo đức, nhân
nghĩa chính là tánh đức sẵn có của chúng ta. Nhân
quả, báo ứng quả thật là phương tiện
quyền biến lớn lao để sanh thành dưỡng
dục của thiên địa. Con người sống giữa
trời đất; cái thân bảy thước nhỏ nhoi lại
đứng cùng trời đất rộng lớn, cao dày
không lường thành ba yếu tố, gọi chung là Tam Tài.
Ai lănh hội được đức của trời
đất sẽ đều là Nghiêu, Thuấn, đều
có thể thành Phật, góp phần giúp đỡ sự sanh
thành dưỡng dục vậy. V́ thế, đối với
hai tượng Càn - Khôn trong kinh Dịch, thánh nhân lấy
pháp “tự cường không
ngơi” của Trời, lấy “đức dày chở vật” của Đất
để giáo hóa con người. “Tự cường không ngơi” th́ ngăn ḷng tà,
giữ ḷng thành, khắc kỷ, giữ lễ, không đạt
đến mức “làm sáng tỏ Minh Đức, trụ
nơi chí thiện, trừ hết sạch ḷng ham muốn của
con người, thiên lư lưu hành” để khôi phục lại
tánh đức sẵn có th́ không đành ḷng! “Đức dầy
chở vật” th́ yêu dân, thương vật, khiến cho
chính ḿnh lẫn người đều ôm ḷng chuyên chú trung hậu,
khoan thứ, hành từ bi, coi như ruột thịt, coi loài
vật và ta giống hệt như nhau, không tận hết thiên
chức góp phần tán trợ sự sanh thành dưỡng dục
th́ chẳng thôi!
Những
lời này chẳng phải chỉ để nói về hạng
người có địa vị, nắm quyền cai trị,
mà ngay cả thất phu, thất phụ cũng đều có
thể hành được; bởi lẽ, đạo của
Nghiêu - Thuấn chỉ là hiếu - đễ mà thôi! Cái học
của thánh hiền chỉ là tu thân mà thôi! Tu được
thân, ắt sẽ tu hiếu đễ, ắt trừ sạch
vật dục, mở rộng lương tri để cho
riêng thân ḿnh được thiện, nhưng sẽ có hiệu
quả [giống như Văn Vương] nêu gương
cho vợ, gương ấy lan đến anh em, rồi phổ
biến khắp đất nước! Huống chi người
có địa vị nắm quyền cai trị, há lẽ nào
chẳng khiến cho thiên hạ đều cùng được
tốt lành ư? Thiên hạ loạn lạc, thất phu có
trách nhiệm! Nếu ai nấy đều dốc tận
ḷng thành, ai nấy tận sức hiếu - đễ, ai nấy
làm điều từ thiện, thương cô nhi, giúp đỡ
kẻ góa bụa, cứu nạn, thương nghèo, kiêng giết,
phóng sanh, ăn chay, niệm Phật, th́ do con người
dùng điều lành để cảm, trời sẽ ứng
phước xuống, tự nhiên mưa thuận, gió ḥa, dân
yên, vật thịnh vượng, quyết chẳng đến
nỗi trời thường giáng những tai nạn như
lụt lội, hạn hán, ôn hoàng[48],
gió băo, động đất v.v…mà thời thế sẽ
yên ổn, được mùa, dân an cư lạc nghiệp.
Lại c̣n từ ḥa, nhân nhượng, quen tập thành phong
tục. Dẫu có một hai kẻ ngu độn
ương bướng, cũng sẽ hóa thành lương
thiện. Như cảm hóa được chàng quân tử
trên kèo nhà[49] th́ một
phương sẽ vĩnh viễn tuyệt sạch nạn
trộm cắp; điều phục được đứa
ḍm lén trong nhà kín th́ từ đấy về sau nó sẽ
thành người lành.
Cổ
nhân dùng nhân từ để cai trị, chân thành yêu dân, c̣n cảm
hóa được dị loại, như những chứng
cớ tốt lành: hổ không vào cơi ấy, cá dữ bỏ
sang nơi khác v.v…. chép trong các sử sách, nào phải chỉ
một chuyện! Nếu ai nấy đều có thể dùng
từ thiện tương cảm, quyết chẳng đến
nỗi thường có những cái họa: thổ phỉ,
đao binh, giày xéo, cướp đoạt v.v… Nhưng bẩm
tánh con người có vàn muôn thứ chẳng giống nhau.
Người căn tánh thiên bẩm sâu dày, ắt tự có thể
tận lực tuân thủ đạo nghĩa để tận
hết trách nhiệm con người. Những người
có tập khí sâu dầy từ kiếp trước, nên tánh
đức bị ngăn lấp, đến nỗi những
ǵ tâm họ nghĩ, những ǵ tâm họ nói, những ǵ thân
họ làm mỗi mỗi đều trái nghịch đạo
nghĩa. Nhưng do nghe đến lẽ phước thiện
họa dâm và trông thấy sự thiện ác báo ứng th́ chưa
ai chẳng kinh hoàng, run sợ, bèn tự tu tỉnh, mong sao
được phước khỏi họa!
Do
vậy, biết rằng trời đất dùng phước
thiện dâm họa làm phương tiện lớn lao để
thâu tóm con người đều tuân thủ đạo
đức nhân nghĩa. Thánh nhân vốn dùng cái tâm của trời
đất để giáo hóa. V́ vậy, những câu “thuận theo đạo lư dẫn
đến điều lành, trái nghịch lại sẽ
đưa đến hung hiểm, ngũ phước, lục
cực, làm lành th́ trăm điều tốt lành giáng xuống,
làm ác th́ trăm sự tai ương giáng xuống, nhà tích
thiện ắt điều vui có thừa, nhà tích điều
bất thiện ắt tai ương có thừa” thường
thấy đầy trong các kinh. Do vậy, cảm phát thiện
tâm của con người, nghiêm cấm, răn đe chí ư
phóng dật của con người hết sức thâm thiết.
Nhưng cát - hung, họa - phước do nhân quả báo ứng
chính là chứng nghiệm sự chân thật hay giả dối
của việc y thuận hay trái nghịch đạo đức,
nhân nghĩa. Đă biết là chứng nghiệm thật sự
th́ muốn làm lành ắt sẽ càng thêm mạnh mẽ,
hăng hái cho đến khi thành tựu; muốn làm chuyện
chẳng lành sẽ sanh ḷng sợ hăi, có khi không dám làm.
Như vậy, đề xướng nhân quả báo ứng
chính là vâng theo tâm thiên địa, thánh nhân để thành toàn
tánh đức “đạo đức, nhân nghĩa” cho
người đời.
Nếu
coi nhân quả báo ứng là chuyện mông lung không bằng cớ,
th́ chẳng những trái nghịch tâm thiên địa thánh
nhân mà thần thức của chính ḿnh c̣n vĩnh viễn bị
đọa trong đường ác. Lại c̣n khiến cho bậc
thượng trí không thể dũng mănh quyết chí ưu thời
mẫn thế để tu đức của ḿnh, kẻ hạ
ngu không e dè ǵ, dám làm chuyện ác đến nỗi quyền
nuôi dạy của thiên địa, thánh nhân bị ngăn trở
không tỏ lộ được; cái lư vốn sẵn có
trong tâm của chúng ta sẽ bị ẩn, không sao hiển lộ
được! Cái họa ấy khôn xiết kể!
Nhưng thánh nhân thế gian lời lẽ giản lược,
lại chỉ nói chuyện đời này và con cháu; c̣n như
chuyện trước khi sanh và chuyện sau khi chết, cũng
như nhân duyên tội phước từ vô thỉ đến
nay, luân hồi sáu nẻo, đều chưa thể làm cho
sáng tỏ được! Bởi vậy, kẻ thấy biết
nông cạn dù hằng ngày đọc những lời dạy
về nhân quả báo ứng của thánh nhân, vẫn không tin
vào nhân quả báo ứng!
Đại
giáo của Như Lai hiển thị sự mầu nhiệm
của tâm tánh chúng ta cũng như sự tinh vi của lẽ
nhân quả ba đời. Phàm là đạo cách vật trí
tri, thành ư chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên
hạ và pháp đoạn Hoặc chứng chân liễu sanh
thoát tử không ǵ chẳng nêu đầy đủ. Do vậy,
gặp cha nói về từ, gặp con nói đến hiếu,
anh nhường, em kính, chồng xướng, vợ theo, chủ
nhân từ, tôi tớ trung thành, ai nấy trọn hết bổn
phận, như vậy là trọn chẳng khác với những
ǵ thánh nhân thế gian đă dạy; nhưng với mỗi
một điều lại chỉ rơ nhân trước quả
sau là những điều thánh nhân thế gian chưa hề
đề cập tới. Những lời dạy về tận
phận, tận nghĩa, chỉ có thể dạy được
bậc thượng trí, chứ chẳng thể chế phục
kẻ hạ ngu. Nếu biết nhân quả báo ứng th́ thiện
- ác, họa - phước rơ ràng như xem ngọn lửa,
ai lại chẳng muốn xuôi theo điều tốt lành,
tránh né điều hung hiểm, tránh nạn được
phước ư?
Vả
nữa, chẳng biết nhân quả sẽ đa phần
phô bày tướng thiện bề ngoài, chứ thật ra ngầm
ôm ḷng ác để làm chuyện ác. Cứ nghĩ rằng
người ta đă không biết, nào có trở ngại ǵ!
Chẳng biết cái tâm chúng ta tương tức
tương thông[50] với
tâm thiên địa, quỷ thần, và chư Phật, Bồ
Tát. Hễ mỗi khi chúng ta khởi lên một niệm, các vị
ấy không điều ǵ không biết! V́ thế, nói: “Những lời nói riêng tư
trong nhân gian, chư thiên nghe như tiếng sấm. Tâm tồi
tệ trong nhà kín, trong mắt thần giống như ánh chớp”.
Ông Châu An Sĩ nói: “Ai nấy
đều biết nhân quả, ấy chính là đạo
để thiên hạ đại thái b́nh vậy! Người
người không biết nhân quả, chính là đạo gây
đại loạn vậy!” Quả là ân Phật thấm
đẫm con người; chỉ v́ con người không
suy nghĩ sâu xa nên chẳng hề biết đến vậy!
Đời
thượng cổ, tánh t́nh con người thuần phác, hơn
hẳn những đời sau tệ bạc biết bao lần!
Ân trạch của Văn Vương thấm nhuần đến
cả xương khô suốt mấy trăm năm; nhưng
cái phong tục giết người tuẫn táng đầy
khắp thiên hạ.
Đến
khi Phật giáo truyền sang Đông, xiển minh nhân quả
báo ứng, dạy người kiêng giết, phóng sanh, bỏ
ăn mặn mà ăn chay th́ trùng, kiến, rận rệp
c̣n được thương tiếc, che chở, không
đành sát hại, huống chi con người! Do hết thảy
chúng sanh đều có Phật Tánh, đều biết tham sống
sợ chết, đều là cha mẹ quyến thuộc
trong quá khứ, đều là vị lai chư Phật Thế
Tôn. V́ thế phải thương xót, che chở, nào dám giết
hại bừa băi để thỏa bụng miệng. Gió Từ
vừa thổi, thắng hung tàn, trừ sát hại. Đừng
nói chi hàng chư hầu, đại phu, quan chức chẳng
dám giết người tuẫn táng, ngay cả kẻ hướng
mặt về phía
Đấy
mới là pháp thiển cận mà hiệu quả c̣n được
như thế, huống ǵ những lư luận về tâm tánh cực
sâu xa và đạo đoạn Hoặc chứng Chân ư? Như
Lai tùy thuận chúng sanh, từ từ khuyến dụ khéo
léo. Thoạt tiên, dùng Nhân Thiên Thừa Ngũ Giới Thập
Thiện để tiếp dẫn những căn cơ kém
cỏi, dùng đó làm phương tiện ban đầu
để siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Nếu
căn cơ hơi sâu hơn, bèn giảng Tứ Đế,
Thập Nhị Nhân Duyên khiến cho đoạn Kiến
Tư Hoặc, chứng Thanh Văn, Duyên Giác là những quả
Nhị Thừa. Nếu là căn tánh Đại Thừa bèn
dạy phát Đại Bồ Đề tâm, tu khắp Lục
Độ vạn hạnh, thượng cầu hạ hóa
chúng sanh, khởi ḷng Vô Duyên Từ, khởi Đồng Thể
Bi, chẳng trụ vào Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc,
Pháp để hành Bố Thí và Lục Độ vạn hạnh,
độ thoát hết thảy chúng sanh, khiến cho họ
nhập Vô Dư Niết Bàn, nhưng chẳng thấy ta là
người hóa độ và người khác cùng chúng sanh là
kẻ được độ, , và tướng thọ giả
của Vô Dư Niết Bàn để chứng. Do chẳng
chấp vào bốn tướng nên tam luân thể không. V́ vậy,
Trần Sa vô minh nhân đó bèn tiêu diệt. Tùy theo công hạnh,
lần lượt chứng các quả Bồ Tát Thập Trụ,
Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa,
Đẳng Giác, và hiển lộ toàn thể tự tánh, triệt
ngộ duy tâm, phước huệ viên măn, Phật Quả
trí đoạn rốt ráo.
Lại
do căn cơ chúng sanh đời mạt kém hèn, nếu
không cậy vào thệ nguyện lực lớn lao của
Như Lai quyết sẽ khó thể thoát khỏi sanh tử
ngay trong đời này. V́ vậy, do ḷng đại từ
bi, Phật đặc biệt mở ra pháp môn Tịnh Độ
cậy Phật từ lực, liễu sanh thoát tử. Chỉ
cần đầy đủ ḷng tin chân thật, nguyện
thiết tha, tŕ danh hiệu Phật, cầu văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới, làm một mảy
may điều thiện thế gian nào cũng như mọi
công đức Lục Độ vạn hạnh đều
đem hồi hướng văng sanh. Đây chính là dùng tín nguyện
của chính ḿnh để cảm Phật từ bi, cảm ứng
đạo giao, ắt được Phật nhiếp thọ.
Đợi đến khi lâm chung, được Phật tiếp
dẫn văng sanh Tây Phương. Đă văng sanh rồi sẽ
ĺa xa trọn vẹn các khổ, chỉ hưởng các sự
vui, thân cận Di Đà, dự vào hải chúng, chứng Vô
Sanh, thành giác đạo, như trao bằng khoán lấy lại
vật cũ. So với các pháp cậy vào tự lực
để liễu sanh thoát tử khác th́ sự khó - dễ cố
nhiên là khác biệt một trời một vực.
Hơn
nữa, cậy vào tự lực th́ trong trăm ngàn vạn
người khó được một hai kẻ liễu
thoát ngay trong đời này, bởi lẽ Định - Huệ
phải trọn đủ, phải hết sạch Hoặc
nghiệp th́ mới được như nguyện. Nếu
Hoặc nghiệp c̣n mảy may chưa đoạn hết
th́ sanh tử luân hồi quyết khó thể xuất ly. Cậy
vào Phật từ lực th́ tín nguyện chân thành thiết
tha, vạn kẻ chẳng sót một ai! Độ khắp
ba căn, gồm thâu lợi - độn, thượng
căn th́ mau chứng Pháp Thân, hạ căn bèn đới
nghiệp văng sanh. Bản hoài độ tận chúng sanh của
Như Lai chỉ có ḿnh pháp môn Tịnh Độ mới có
thể thỏa rốt ráo được. Do có những sự
lợi ích như trên cho nên xưa nay, vua thánh, tôi hiền, hào
kiệt, vĩ nhân không ai chẳng tự hành, dạy người,
hộ tŕ lưu thông, để về mặt ngầm là
giúp cho việc trị nước, c̣n mặt hiển là yên
dân t́nh, tiêu họa loạn khi chưa chớm nẩy, chứng
Phật Tánh vốn sẵn có.
Gần
đây, thế đạo nhân tâm ngày càng đi xuống, ai nấy
chấp vào sự hiểu biết của chính ḿnh, cạnh
tranh với nhau đến nỗi đao binh liên miên, không
lúc nào yên ổn. Hễ người trên thích điều ǵ,
kẻ dưới ắt làm cho được. Những tên
dân ương bướng đều thành thổ phỉ hết,
mặc t́nh cướp đoạt, độc hại dân
sanh. Do sự ác của con người chiêu cảm, nên trời
bèn ứng thiên tai, lụt lội, hạn hán, tật dịch,
gió băo, động đất, đủ mọi tai họa
thảm khốc thường thấy xảy ra luôn, vận
nước nguy ngập, dân không lẽ sống! Muốn ra
tay cứu vớt, nhưng khổ nỗi không sức, chỉ
khẩn cầu những vị đương có quyền
thế và hết thảy đồng bào, ai nấy hăy dùng
cái tâm trung hậu, khoan thứ sẵn có để hành đạo
từ bi, coi hết thảy nhân dân đều như người
ruột thịt, nâng đỡ lẫn nhau, chớ nên tàn hại!
Nghĩ đến tiền nhân hậu quả ắt sẽ
tu đức hành nhân, lợi người quả thật
chính là lợi ḿnh, đời này, đời khác phước
báo vô cùng. Hại người gây ra sự khổ c̣n hơn tự
hại, đời này, tương lai, khổ báo vô tận!
Phô phang quyền thế trong một lúc để rồi thần
thức chịu khổ măi bao kiếp. Sao bằng tu đức
suốt đời, ngơ hầu thân tâm được hưởng
vui sướng nhiều đời!
Nhưng
c̣n trong địa vị phàm phu chưa đoạn
được Hoặc nghiệp, dẫu sanh vào nhân thiên, rốt
cuộc vẫn chẳng phải là chỗ an ổn rốt
ráo. Nếu có thể tùy phận, tùy sức, tŕ danh hiệu
Phật, cầu sanh Tây Phương, để mong khi hết
Báo Thân này sẽ cao đăng Cực Lạc, đấy là
đạo thoát khổ tối thượng. Nhưng
đường đường là trượng phu, nỡ
để Phật tánh sẵn có thường bị Hoặc
nghiệp xoay chuyển, chịu sanh tử đau khổ
ư? Trong Trung Hoa Tân Báo, ông Trương Quư Loan mỗi ngày
chuyên dành riêng một cột để in bài đề
xướng Phật học, tùy thời đăng tải
hết những chuyện Như Lai ứng hóa, pháp đạo
lưu thông, tội phước do tin nhận hay hủy
báng, lợi ích do tu tŕ, và những ngôn luận sự tích
kiêng giết, phóng sanh, ăn chay niệm Phật, ngơ hầu
những vị đọc báo đều cùng ngộ
được lư “Phật, tâm, chúng sanh ba điều không
sai biệt” và làm chuyện “đoạn ác, tu thiện, khôi
phục nguồn tâm sẵn có”. Tôi cho rằng đây quả
thật là đạo “gốc chánh, nguồn trong” để
giữ nước, bảo vệ dân, nhân đó toan đem
những điều quan trọng về thiên chức của
chúng ta, sự sanh thành dưỡng dục của trời
đất, tâm pháp của thánh hiền, cương yếu
của Phật giáo, và nguồn gốc đời loạn, nguyên
do thái b́nh, thuật đại lược ḥng cống hiến
cho bậc cao nhân có đủ con mắt trong cơi đời,
nhưng thẹn ḿnh văn tự thô vụng, chất phác,
chẳng thể diễn tả sâu xa, uẩn súc. Tuy vậy,
về mặt ư nghĩa cố nhiên chẳng phải là bàn xằng,
bịa đặt, nên có thể chấp nhận được!
Hơn
nữa, con người sống trong thế gian, việc
thành đức đạt tài, dựng lập công nghiệp,
cũng như thành được một tài một nghề
để nuôi thân ḿnh và gia đ́nh đều phải nhờ
vào sức văn tự chủ tŕ giúp đỡ th́ mới
được thành tựu. Chữ nghĩa là của báu quư
nhất trong thế gian, có thể khiến cho phàm thành thánh,
ngu thành trí, nghèo hèn trở thành phú quư, bệnh tật trở
thành khỏe mạnh, yên ổn. Đạo mạch thánh hiền
được lưu truyền thiên cổ, việc kinh
doanh của gia đ́nh ḿnh được truyền đến
con cháu, không ǵ không nhờ vào sức văn tự. Nếu
cơi đời không có văn tự th́ hết thảy sự
lư đều chẳng thành lập, con người chẳng
khác ǵ cầm thú! Đă có công sức như thế, cố
nhiên phải nên trân trọng mến tiếc chữ
nghĩa. Trộm thấy con người hiện thời mặc
t́nh khinh nhờn, quả thật coi của quư báu nhất
khác nào phân, đất; sao không đến nỗi hiện
đời tổn phước, giảm thọ; đời
sau trở thành vô tri vô thức ư? Thêm nữa, chẳng những
không được khinh nhờn, ruồng rẫy văn tự
hữu h́nh, mà đối với chữ nghĩa vô h́nh lại
càng chẳng được khinh nhờn, ruồng rẫy!
Hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, nếu
chẳng tận sức thực hiện th́ chính là quên mất
tám chữ đó. Đă quên mất tám chữ ấy th́ sống
làm hạng cầm thú mặc áo, đội mũ; chết sẽ
đọa trong tam đồ ác đạo, có đáng buồn
hay chăng?
Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Quyển Thứ Hai
(Phần 4 hết)
[1] Truyền tân: nói gọn
của thành ngữ “tân tận
hỏa truyền” (củi hết lửa c̣n) ư nói đạo
truyền thừa giữa thầy và tṛ.
[2] Âu Dương Tu và
Hàn Dũ: Hai nhà Nho bài xích Phật giáo mạnh mẽ nhất
vào thời Đường - Tống
[3] Nguyên văn là Thiền
tượng: Tượng là thợ giỏi, thợ khéo,
thường được chỉ những bậc thông
đạt pháp môn. Ở đây tạm dịch là Thiền
Đức.
[4] Tư lương
(sambhāra): Hiểu theo nghĩa hẹp là những thứ
cần dùng, cần chuẩn bị. Tư là giúp đỡ,
lương là lương thực. Như người
đi xa ắt phải nhờ vào lương thực để
duy tŕ cái thân. Cũng vậy, người muốn chứng
quả trong tam thừa phải nhờ công đức thiện
căn làm lương thực nuôi dưỡng cái thân huệ
mạng. Do vậy, Tư Lương hiểu theo nghĩa rộng
là hết thảy các thứ góp phần thành tựu đạo
Bồ Đề.
[5] Theo Tổ
Đ́nh Sự Uyển, quyển 5, nếu bỏ sữa và
nước cùng trong một đồ đựng, ngỗng
chúa chỉ uống sữa bỏ lại nước. Nước
tượng trưng cho chúng sanh, sữa tượng
trưng cho Phật. Dùng điển tích “ngỗng chúa chọn
sữa” để tỷ dụ bậc giác ngộ sống
trong thế gian chẳng bị nhiễm ô. Điển tích
này c̣n dùng để chỉ khả năng phân biệt chân -
ngụy, thiện - ác.
[6] Đây
là luận điểm chủ yếu của kinh Pháp Hoa: Khai
là phá trừ vô minh của chúng sanh, mở toang Như Lai Tạng,
thấy được lư Thật Tướng. Thị
nghĩa là hiển thị, Hoặc chướng đă trừ
th́ tri kiến bộc lộ bản thể, pháp giới vạn
đức hiển thị phân minh. Ngộ là chứng ngộ,
sau khi chướng trừ, bản thể hiện th́ sự
(hiện tượng), lư (bản thể) dung thông nên có sở
ngộ. Nhập nghĩa là chứng nhập, tức là sự
lư đă dung thông nên tự tại vô ngại, chứng nhập
biển trí huệ. Sách Pháp Hoa Văn Cú quyển 4 c̣n mở
rộng hơn, phối hợp bốn mươi địa
vị Pháp Thân đại sĩ như sau:
1.
Khai tương ứng địa vị Thập Trụ.
2.
Thị tương ứng địa vị Thập Hạnh.
3.
Ngộ tương ứng địa vị Thập Hồi
Hướng.
4.
Nhập tương ứng địa vị Thập Địa.
Nếu
phối hợp với Tứ Trí th́ Khai là Đạo Huệ,
Thị là Đạo Huệ Chủng, Ngộ là Nhất Thiết
Trí, Nhập là Nhất Thiết Chủng Trí…
[7] Khai Quyền hiển
Thật: Khai trừ những chấp trước của
Quyền Giáo, hiển thị nghĩa chân thật. Nói cách
khác, khai trừ, gạt bỏ những chấp trước
vào những phương tiện quyền biến để
hiển thị nghĩa Nhất Thừa chân thật.
[8] Biển
Hoa Tạng tức Hoa Tạng Trang Nghiêm Thế Giới Hải
(Kusuma-tala Garbha Vyūhā Kāra Lokadhātu Samudra), dịch
đủ nghĩa là Liên Hoa Xuất Sanh Thế Giới, hoặc
Diệu Hoa Bố Địa Thai Tạng Trang Nghiêm Thế
Giới, Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm Thế Giới Hải, Thập
Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm Thế Giới Hải, hoặc chỉ
gọi gọn là Hoa Tạng Giới hoặc Thập Hoa Tạng.
Đây là thế giới thanh tịnh trang nghiêm do đức
Tỳ Lô Giá Na Phật khi tu nhân phát nguyện cảm thành. Thế
giới này do Tu-di sơn vi trần số phong luân nâng giữ.
Trên tầng phong luân cao nhất có một biển nước
thơm. Trong ấy có một hoa sen lớn, tên là Chủng Chủng
Quang Minh Nhụy Hương Tràng. Hoa Tạng Thế Giới
nằm chính giữa hoa sen ấy, vây quanh bằng Kim Cang Luân
Vi Sơn. Đất trong đó do Kim Cang tạo thành, kiên cố
không hư hoại, thanh tịnh bằng phẳng, có thế
giới hải vi trần số sự trang nghiêm. Trong ấy
lại có vi trần số biển nước thơm, mỗi
biển rộng bằng bốn thiên hạ và có vi trần số
con sông nước thơm. Đất hai bờ sông ấy
đều bằng diệu bảo trang nghiêm, xếp đặt
khéo léo như lưới Thiên Đế. Trong mỗi một
biển nước thơm lại có bất khả thuyết
vi trần số thế giới chủng, mỗi một thế
giới chủng lại gồm bất khả thuyết vi
trần số thế giới. Biển nước thơm
chính giữa Hoa Tạng thế giới, có tên là Vô Biên Diệu
Hoa Quang. Giữa biển ấy mọc lên một hoa sen, thế
giới chủng trong hoa sen ấy tên là Phổ Chiếu Thập
Phương. Trong đó có hai mươi thứ bất khả
thuyết vi trần số thế giới xếp ṿng quanh.
Đức Phật xuất hiện trong thế giới này.
Sách Hoa Nghiêm Ngũ Giáo Chương giảng thêm: Cứ
mười cảnh giới Phật gọi chung là một
quốc độ hải hay thế giới hải. Thế
giới hải chính là các thế giới thuộc phạm
vi nhiếp hóa của mười đức Phật v.v… Nói
chung, cảnh giới Hoa Nghiêm Thế Giới Hải rất
phức tạp, rộng lớn, hầu như không thể
h́nh dung được nổi! Cảnh giới đă rộng
lớn như thế th́ dĩ nhiên thánh chúng trong ấy vô
lượng vô biên không thể tính đếm được,
cho nên dùng chữ “hải chúng”
(chúng nhiều như biển) để tạm h́nh dung.
[9] Nhất
xiển đề: Nhất-xiển-đề (Icchantika hoặc
Ecchantika): được dịch nghĩa là đoạn thiện
căn, ḷng tin không đầy đủ, ḷng ham muốn cùng
cực, tham lam to lớn, hoặc Vô Chủng Tánh, Thiêu Chủng
(hạt giống cháy), tức là hạng người không có
ḷng tin, đoạn sạch thiện căn. Kinh Lăng Già
chia Nhất Xiển Đề thành hai loại:
1.
Đoạn Thiện Xiển Đề, tức kẻ vốn
thiếu nhân giải thoát (đoạn thiện căn).
2.
Đại Bi Xiển Đề: Hoặc Bồ Tát Xiển
Đề, tức bậc Bồ Tát thị hiện, cố
ư không nhập Niết Bàn do bi nguyện.
Đa
phần các kinh luận nói Nhất Xiển Đề không thể
thành Phật, riêng Đại Bát Niết Bàn kinh khẳng
định Nhất Xiển Đề vẫn có khả
năng thành Phật.
[10] Có hai
cách hiểu chữ “Trí Đoạn”:
1.
Dùng trí Bát Nhă đoạn trừ phiền năo.
2.
Trí Đoạn là Trí Đức và Đoạn Đức.
Soi thấu tỏ chân lư th́ gọi là Trí Đức, đây
chính là Bồ Đề. Đoạn sạch phiền năo th́
gọi là Đoạn Đức, tức là Niết Bàn.
[11] Gọi
đủ là Hoa Nghiêm Kinh Hợp Luận, gồm 120 quyển
của cư sĩ Lư Thông Huyền soạn vào đời
Đường, tác phẩm này được xếp vào Tục
Tạng Kinh quyển 5. Đây là tác phẩm chú giải bản
dịch kinh Hoa Nghiêm 80 cuốn (Bát Thập Hoa Nghiêm). Nội
dung cuốn luận này chia kinh Hoa Nghiêm làm mười môn
để phát minh những ư nghĩa trọng yếu: Y giáo
tông phần, y tông giáo biệt, giáo nghĩa sai biệt, thành
Phật đồng biệt, thuyết giáo thời phần,
Tịnh Độ quyền thật, nhiếp hóa cảnh giới,
nhân quả diên súc (nhân quả kéo dài hay rút ngắn), hội
giáo thỉ chung. Tác giả Lư Thông Huyền đặc biệt
sùng mộ giáo thuyết Thập Huyền Lục Tướng
của tông Pháp Tướng nên đă vận dụng những
khái niệm này vào trong cách giải thích kinh điển. Tác
phẩm Hoa Nghiêm Kinh Hợp Luận này đă ảnh hưởng
sâu đậm đến ngài Thanh Lương Trừng Quán,
ta có thể thấy rơ điều này qua tác phẩm Hoa Nghiêm
Đại Sớ Sao.
[12] Tức
Lư Thông Huyền (635-730) là học giả Hoa Nghiêm thời
Đường, xuất thân từ hoàng tộc, quê ở
Thương Châu (nay thuộc Thương Huyện, tỉnh
Hà Bắc), thông minh đĩnh ngộ, tinh thông sách Nho lẫn
kinh Phật. Năm Khai Nguyên thứ 7 (719), ông ẩn cư ở
Phương Sơn, Thọ Dương, phủ Thái Nguyên
để nghiên cứu kinh Hoa Nghiêm bản tân dịch (tức
Bát Thập Hoa Nghiêm), chỉ ăn táo, lá tùng bách để sống
suốt mấy năm trong núi. V́ vậy, thế gian gọi
là Táo Bách (Bá) tiên sinh. Tháng Ba, năm Khai Nguyên thứ 18 (730),
ông tọa hóa trong thất, hưởng thọ 96 tuổi. Tống
Huy Tông ban hiệu là Hiển Giáo Diệu Nghiêm Trưởng
Giả. Do vậy, người ta thường gọi ông là
Lư Trưởng Giả. Ông lưu lại những tác phẩm
như Hoa Nghiêm Kinh Hội Thích Luận 14 quyển, Tân Hoa
Nghiêm Kinh Luận 40 quyển, Lược Thích Tân Hoa Nghiêm
Kinh Tu Hành Thứ Đệ Quyết Nghi Luận 4 quyển,
Thích Giải Mê Hiển Trí Thành Bi Thập Minh Luận 1 quyển,
Thập Huyền Lục Tướng, Bách Môn Nghĩa Hải,
Phổ Hiền Hạnh Môn, Hoa Nghiêm Quán… Lư Thông Huyền
được coi là một nhân vật tiên phong trong trào
lưu nghiên cứu kinh Hoa Nghiêm bản tân dịch.
[13] Ô Trà
(Odra), nước cổ ở Đông Ấn Độ, nay
là Orissa, thường bị người Hán phiên sai thành Ô
Trành. Theo Đại Đường Tây Vực Kư, người
dân xứ này khôi ngô, hiếu học, tín phụng Phật
pháp, Tăng chúng đông đến hơn vạn người,
đều học giáo pháp Đại Thừa.
[14] Đăng Địa
Bồ Tát: tức Địa Thượng Bồ Tát, hay nói
cách khác, những vị đă chứng từ Sơ Địa
cho đến Thập Địa.
[15] Lục đạo cụ
phược phàm phu: Phàm phu trong sáu nẻo có đầy
đủ các món phiền năo, chưa đoạn được
một món nào.
[16] Tức
ngài Trúc Đạo Sanh (355-434), nhà học giả Niết Bàn
thời Đông Tấn. Ngài là người Cự Lộc
(nay thuộc B́nh Hương, Hà Bắc), họ Ngụy.
Sư nổi tiếng thông minh dĩnh ngộ từ nhỏ,
xuất gia với ngài Trúc Pháp Thải. Năm 15 tuổi
đă lên ṭa giảng, bậc túc học danh sĩ cũng
không biện luận thắng Sư được. Khi ngài
Tăng Già Đề Bà dừng gót tại Lô Sơn, dịch
A Tỳ Đàm Tâm Luận, Sư bèn theo học giáo nghĩa
Nhất Thiết Hữu Bộ với ngài. Khi ngài Cưu Ma
La Thập vào Trung Nguyên, Sư lại quảy tráp theo học.
Sư cùng với các vị Đạo Dung, Tăng Duệ,
Tăng Triệu trở thành những học tṛ kiệt xuất
của ngài La Thập, được đời gọi bằng
mỹ hiệu “Quan Nội Tứ Thánh”. Sư từng thỉnh
ngài Phật Đà Thập dịch bộ Ngũ Phần Luật.
Sư tinh thông học thuyết của các ngài Long Thọ,
Đề Bà v.v… Chính Sư đề xướng thuyết
“đốn ngộ thành Phật” và soạn các bộ luận
Nhị Đế Luận, Phật Tánh Đương Hữu
Luận, Pháp Thân Vô Sắc Luận, Phật Vô Tịnh Độ
Luận. Nhân đọc bộ Nê Hoàn Kinh sáu quyển do ngài
Pháp Hiển dịch, Sư bèn đề ra thuyết Nhất
Xiển Đề vẫn có khả năng thành Phật. Lúc
ấy, kinh Đại Bát Niết Bàn chưa truyền đến
Trung Hoa, nên thuyết này của Sư bị công kích kịch
liệt. Sư bị đại chúng tẫn xuất, phải
ẩn cư tại Lô Sơn. Về sau, bản Đại
Bát Niết Bàn Kinh của ngài Đàm Vô Sấm truyền
đến phương Nam, nội dung hoàn toàn tương
đồng với thuyết của ngài Đạo Sanh,
đại chúng hết sức khâm phục. Theo truyền
thuyết, Sư từng gom đá ở núi Hổ Khâu, tỉnh
Giang Tô làm pháp chúng để giảng kinh. Do vậy mới
có câu “Sanh công thuyết pháp,
ngoan thạch điểm đầu” (ngài Đạo Sanh
giảng kinh, đá cũng gật đầu). Ngài mất
trong khi đang giảng pháp trên ṭa sư tử, thọ tám
mươi tuổi.
[17] Triệu Châu Tùng Thẩm
(778-897) là Thiền tăng đời Đường,
người Tào Châu, Hác Hương (có thuyết nói là Thanh
Châu, Lâm Truy), họ Hác, pháp hiệu Tùng Thẩm. Xuất gia
từ nhỏ tại Hỗ Thông Viện, Tào Châu. Trước
khi thọ Cụ Túc Giới đă từng tham yết ngài
Nam Tuyền Phổ Nguyện. Sau khi thọ giới tại
Lưu Ly Đàn ở Tung Sơn, quay lại y chỉ với
ngài Nam Tuyền hai mươi năm. Sau đó tham học khắp
với các đại đức Bảo Thọ, Diêm Quan,
Giáp Sơn, Ngũ Đài v.v… Năm Sư tám mươi tuổi,
đại chúng thỉnh trụ tích tại Quán Âm Viện
thuộc Đông Thành, Triệu Châu. Sư tận lực chấn
hưng Nam Tông Thiền suốt bốn mươi năm, thọ
120 tuổi, được vua ban thụy hiệu là Chân Tế
Đại Sư.
[18] Đây là một
điển tích xuất phát từ sách Ngũ Đăng Hội
Nguyên, quyển 11. Nguyên văn: “Nhận
lư yên kiều tác a da hạ hàm”. “Yên kiều” tức
là cái yên ngựa, do h́nh trạng của nó giống như
cái cầu nên gọi như thế. “Lư yên kiều” có
nghĩa là cái xương lừa có h́nh dạng giống
như cái yên ngựa, chứ không phải thật sự là
yên ngựa. Trong truyện cổ dân gian Trung Quốc có chuyện
đứa trẻ ngu si tưởng lầm cái xương
lừa h́nh yên ngựa là xương hàm của cha. Thiền
lâm hay dùng h́nh ảnh này để ví cho kẻ ngu muội,
chẳng phân biệt được thật - giả.
[19] Bách
Trượng Hoài Hải (720-814): Cao tăng đời
Đường, từ nhỏ đă thích đi thăm chùa
viện. Năm 20 tuổi, xuất gia với ngài Huệ Chiếu
ở Tây Sơn, sau thọ Cụ Túc Giới với ngài Pháp
Triều luật sư. Khi gặp Mă Tổ Đạo Nhất
hoằng pháp tại Nam Khang bèn hết sức ngưỡng
mộ, y chỉ theo, được ngài Mă Tổ ấn khả.
Sư cùng với Tây Đường Trí Tạng, và Nam Tuyền
Phổ Nguyện được xưng tụng là “tam đại
sĩ”. Về sau, Sư lập thiền viện ở núi
Bách Trượng tỉnh Giang Tây, chế định Thanh
Quy, hướng dẫn đại chúng tu tŕ. Thanh Quy tức
là quy định sinh hoạt của Tăng đoàn theo chế
độ nông thiền. Sư thường nói: “Một ngày không làm là một
ngày không ăn”. Sư nhập diệt năm Nguyên Ḥa thứ
chín, thọ 95 tuổi, được vua ban thụy hiệu
là Đại Trí Thiền Sư. Các đệ tử nổi
tiếng của Sư là Hoàng Bá Hy Vận, Quy Sơn Linh Hựu
v.v… Thanh Quy do Sư lập ra được gọi là Bách
Trượng Thanh Quy, được khắp các tùng lâm trong
thiên hạ tuân phụng.
[20] Luận Tỳ Bà Sa
nói ở đây là bộ Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận
do ngài Long Thọ Bồ Tát soạn. Trong quyển năm của
luận này, có câu: “Phật pháp
có vô lượng môn, như đường đi trên thế
gian có khó, có dễ. Đi theo đường bộ th́ khó
nhọc, đi đường thủy ngồi thuyền
th́ sung sướng. Bồ Tát đạo cũng giống
như thế, có đạo th́ khó hành tinh tấn, có đạo
chỉ dùng ḷng tin làm phương tiện, dễ đi, mau
đạt đến địa vị Bất Thoái”. Tỳ
Bà Sa (Vibhasa) có nghĩa là Quảng Giải (giảng giải
rộng lớn), Quảng Thuyết (nói rộng), Thắng
Thuyết, Chủng Chủng Thuyết, tức là những
trước tác nhằm chú giải luật hay luận. Ngoài
ra, c̣n một thể loại nhằm giải thích chi tiết
kinh luận được gọi Tỳ Bà Sa Luận
(Vibhasa-sastra). Hiện trong Đại Tạng có bốn bộ
Tỳ Bà Sa Luận: A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ
Bà Sa Luận, Tỳ Bà Sa Luận, Ngũ Sự Tỳ Bà Sa
Luận và Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận
(Dasabhumika-vibhasa-sastra). Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận gồm
17 quyển, do ngài Cưu Ma La Thập dịch sang tiếng
Hán, thường gọi tắt là Thập Trụ Luận.
Bộ luận này nhằm giải thích phẩm Thập
Địa của kinh Hoa Nghiêm (tức biệt bản của
kinh Hoa Nghiêm với danh xưng Thập Địa Kinh). Ngài
La Thập dịch chữ Thập Địa thành Thập
Trụ nên luận này có tên như vậy. Thiên thứ 9 trong
phẩm thứ 35 của luận này chính là Dị Hành Phẩm,
là một điển tịch trọng yếu của Tịnh
Tông.
[21] Phần
đoạn sanh tử là sự sanh tử của chúng sanh
trong tam giới. Do quả báo sai khác nên có h́nh mạo, thọ
lượng sai khác. V́ vậy gọi là phần đoạn
(đoạn diệt theo phần hạn). Theo Duy Thức Học,
phần đoạn sanh tử lấy nghiệp thiện ác
làm thân nhân (cái nhân gần), lấy phiền năo chướng
làm trợ duyên để cảm quả trong tam giới. Do
tuổi thọ có dài ngắn khác nhau, do sức nhân duyên nên
có hạn định khác biệt; do vậy gọi là Phần
Đoạn. Sách Đại Thừa Nghĩa Chương lại
chia phần đoạn sanh tử thành ác đạo phần
đoạn (quả báo trong tam đồ) và thiện đạo
phần đoạn (quả báo trong đường trời
người).
[22] Chân thuyên: lời giảng
về lẽ thật, về chân lư.
[23] Theo Tịnh
Độ Thánh Hiền Lục, Hùng Tuấn, họ Châu,
người Thành Đô, Tứ Xuyên, tuy thường khuyên
người làm lành, nhưng chẳng có giới luật và
đức hạnh, từng hoàn tục làm lính. Chẳng lâu
sau, lại xuất gia làm Tăng, nhưng cũng biết hổ
thẹn, sám hối. Thường ngày thường tŕ niệm
danh hiệu Phật. Trong niên hiệu Đại Lịch thời
Đường Đại Tông, đột nhiên chết
đi, vào U Minh, bị Diêm Vương quở trách, sai tống
vào địa ngục. Hùng Tuấn kêu to: “Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói tạo trọng
tội Ngũ Nghịch, chỉ cần lâm chung niệm Phật
mười tiếng liền được văng sanh thế
giới Cực Lạc. Hùng Tuấn tôi tuy từng tạo
ác, nhưng cũng chưa hề phạm trọng tội
Ngũ Nghịch. Nếu chiếu theo công đức niệm
Phật thường ngày của tôi, đáng lẽ phải
văng sanh Tịnh Độ mới phải. Nếu không,
mười phương chư Phật đều thành
đại vọng ngữ!” Nói xong, chắp tay cung kính
chuyên tâm niệm Phật hiệu, ngay lúc đó, đài sen bảy
báu chợt xuất hiện, Hùng Tuấn bèn cỡi đài
sen báu ấy bay về Tây.
Duy
Cung là người Kinh Châu (nay thuộc tỉnh Hồ Bắc),
thường có những ác nghiệp rượu chè, cờ
bạc, nhưng nếu không làm chuyện ấy bèn thường
tụng kinh, cầu nguyện văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới. Một ngày nọ, Duy Cung sanh bệnh,
Linh Quy ra ngoài chùa chơi, thấy một bầy trẻ nhỏ
cầm nhạc khí bèn hỏi chúng đi đâu. Chúng đáp
đến chuẩn bị tiếp dẫn Duy Cung Thượng
Nhân về Tây. Trong đám đó, có một người cầm
một đóa sen, búp sen c̣n chưa nở to như nắm
tay. Cánh sen phóng quang minh. Ngày hôm sau, Linh Quy về chùa thấy
Duy Cung đă văng sanh, nhân đó, Linh Quy cảm kích, giác ngộ,
từ đấy cải ác tu thiện, sau cũng được
tiếng là người đức hạnh.
[24] Chỉ
Nguyệt Lục: tác phẩm của Cù Nhữ Tắc soạn
vào đời Minh, gồm 32 quyển, c̣n gọi là Thủy
Nguyệt Trai Chỉ Nguyệt Lục. Nội dung chép về
quá khứ thất Phật và hành trạng, pháp ngữ của
tổ sư Tây Thiên, Đông Độ gồm sáu trăm
năm mươi vị từ Sơ Tổ Ca Diếp cho
đến ngài Đại Huệ Tông Cảo.
[25] Nghĩa
giải: Hiểu rơ ư nghĩa; c̣n có nghĩa là phân tách chữ
nghĩa để giải thích nghĩa lư. Trong Thiền Lâm
thường dùng chữ “nghĩa giải thiền ḥa tử”
để chỉ kẻ chỉ hiểu nghĩa lư theo mặt
văn tự bên ngoài, chẳng biết đường lối
tu hành, không có thật hạnh.
[26] Đường giải,
cửa ngộ: Tạm dịch hai chữ “giải lộ”
và “ngộ môn”. Giải lộ ư nói chỉ hiểu biết
trên văn tự chứ không chứng ngộ, c̣n ngộ môn
là thật sự chứng nhập.
[27] Tam Chỉ:
Chỉ là ngưng dứt. Tam Chỉ là ba thứ Chỉ Hạnh
được lập đối ứng ba phép quán Không, Giả,
Trung, gồm:
a.
Chân Thể Chỉ: đối ứng với Không Quán. Thấu
hiểu cái vọng vô minh điên đảo chính là cái chân
nơi Thật Tướng, nên gọi là Chân Thể Chỉ.
Do thấu triệt các pháp nhân duyên ḥa hợp, không có tự
tánh nên có thể dứt hết thảy những phan duyên vọng
tưởng, chứng nhập lư Không. Đạt đến
cảnh giới này sẽ phát định, mở huệ
nhăn, thấy được Đệ Nhất Nghĩa,
thành tựu Chân Đế tam-muội.
b.
Phương Tiện Tùy Duyên Chỉ: Đối ứng với
Giả Quán. Bồ Tát tùy duyên trải qua mọi cảnh, ở
trong Tục Đế nhưng tâm bất động, chẳng
bị ngoại cảnh xoay chuyển. Người đạt
cảnh giới này sẽ mở Pháp Nhăn, thành tựu Tục
Đế tam-muội.
c.
Tức Nhị Biên Phân Biệt Chỉ, c̣n gọi là Chế
Tâm Chỉ: Đối ứng với Trung Quán. Không c̣n phân biệt
hai bên sanh tử, Niết Bàn, tướng có, tướng
không. Nếu đạt cảnh giới này sẽ phát Trung
Đạo định, mở Phật Nhăn, thành tựu Trung
Đạo tam-muội.
[28] Năm Tông của nhà
Thiền, tức Quy Ngưỡng, Lâm Tế, Tào Động,
Vân Môn và Pháp Nhăn.
[29] Điển Tọa:
là chức phụ trách việc quản trị cơm nước
cho đại chúng trong Thiền lâm, đảm bảo mọi
thứ cúng dường phải tinh khiết, vật liệu
sử dụng thích đáng, tiết kiệm. Tuy là chức
quản lư tạp dịch ẩm thực, nhưng từ
xưa chức này rất được coi trọng,
thường cử vị tăng chí hạnh cao khiết giữ
chức này. Chức vụ này rất vất vả,
nhưng đối với bậc cao tăng th́ lại là một
phương tiện thù thắng để tu hành.
[30] Trương Tăng
Dao (502-549) là một danh họa đời nhà Lương thời
Nam Bắc Triều, cùng với Cố Khải Vi, Lục
Thám Vi và Ngô Đạo Tử (thuộc đời Đường)
được xưng tụng là Họa Gia Tứ Tổ (bốn
ông tổ của hội họa). Tăng Dao sở trựng
tài vẽ diện mạo nhân vật. Lương Vơ Đế
từng sai ông vẽ h́nh các hoàng tử phải đi trấn
nhậm nơi xa cho đỡ nhớ. Ông vẽ tài t́nh
đến nỗi hoàng đế phải khen ngợi nh́n
h́nh giống như thấy người thật. Ông chịu
nhiều ảnh hưởng của hội họa Ấn
Độ, là người đi tiên phong trong cách vẽ thể
hiện không gian ba chiều.
[31]
[32] Đề tŕ:
phương pháp của vị thầy trong nhà Thiền dùng
để hướng dẫn học tṛ, tức là nhằm
tiếp độ hàng hậu học, thầy bèn dùng những
cử chỉ, hành vi, lời nói để phá sạch những
kiến giải, Ngă Kiến sẵn có của tṛ, chỉ cho
đường nẻo hướng thượng.
[33] Áo ca-sa của
Tăng gồm những mảnh vải khâu dính lại, nên gọi
là “nạp y” (áo chằm), do đó, tăng nhân thường
xưng là nạp tử, nạp tăng hay lăo nạp.
[34] Ca Lâu La (Garuda), đôi khi c̣n phiên là Ca Lưu La.,
Già Lâu La, Yết Lộ Trà, dịch nghĩa là Thực Thổ
Bi Khổ Thanh (ăn vào, phát ra tiếng buồn bă đau khổ),
hoặc dịch là Kim Xí Điểu (chim cánh vàng), hoặc Diệu
Thúy Điểu. Đây là một loại giống như
chim đại bàng cực to, thần thoại Ấn Độ
thường kể thần Tỳ Thấp Nô (Vishnu) hay
cưỡi chim này. Theo kinh Trường A Hàm, quyển 19, Ca
Lâu La có bốn loại: Thấp sanh, thai sanh, noăn sanh, hóa
sanh. Loài noăn sanh sẽ ăn loại rồng sanh ra từ trứng,
loài thai sanh ăn loại rồng sanh ra bằng thai v.v… Kinh
Quán Phật Tam Muội Hải, quyển 1, cho biết: Do
nghiệp báo chim này bay khắp Diêm Phù Đề, trong một
ngày đêm phải ăn một long vương và năm
trăm rồng nhỏ. Sải cánh của loài chim này rất
lớn có thể quạt mạnh đến tách đôi
nước biển cả. Các chùa Miên, Lào, Thái, Miến thường
tạc Garuda với h́nh dạng đầu chim, h́nh người,
có hai cánh to đứng nâng đỡ mái chùa (chữ Garuda bị
biến thể theo âm Thái thành Krut). Garuda cũng được
dùng làm biểu tượng cho hoàng gia Thái Lan.
[35] Hiếu
Kinh có thuyết nói do chính Khổng Tử trước tác, có
thuyết nói do Tăng Tử. Tổng Mục của Tứ
Khố Toàn Thư ngả về thuyết cho rằng Hiếu
Kinh do Tăng Tử hoặc một trong bảy mươi
người học tṛ kiệt xuất của Khổng Tử
biên soạn. Sách được h́nh thành vào thời Tần
Hán. Đây là tác phẩm được chú giải mạnh
mẽ nhất ngoài Tứ Thư. Bản Hiếu Kinh
được lưu hành hiện thời do chính Đường
Huyền Tông (Lư Long Cơ) chú giải. Toàn sách chia thành 18
chương, bàn luận xoay quanh chữ Hiếu. Sách này
được xếp vào Thập Tam Kinh, tức 13 tác phẩm
bắt buộc phải học của người theo
đạo Nho.
[36] Ngũ Thường:
Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín.
[37] Theo Lư Hồng Nham,
trong bài Sử Thuật Thông Quán Kinh Thuật, th́ Kinh Thuật
chính là nghệ thuật cai trị, nghệ thuật chính trị,
hoặc nói rộng hơn là ứng dụng lễ và những
lư thuyết vào thực tế.
[38] Quản Tử: Một
bộ sách thời cổ gồm 24 quyển, tác giả có thể
là Quản Trọng thời Chiến Quốc (theo từ
điển Từ Hải)
[39] Theo sách Trang Tử,
thiên Đạt Sinh, có câu chuyện: Vào tiết Hạ, Khổng
Tử dẫn học tṛ sang nước Sở, nghỉ chân
trong bóng mát tại một khu rừng, trong rừng có một
ông lăo dùng gậy dính nhựa để bắt ve sầu. Thấy
ông ta bắt ve quá dễ dàng, mọi người nh́n say mê.
Khổng Tử hỏi: “Sao ông bắt ve khéo thế? Có bí quyết
ǵ không?” Ông lăo đáp: “Đương nhiên là có! Loài ve nhỏ
này rất tinh ranh, gió thổi động cỏ nó chạy
mất ngay, do vậy trước tiên phải luyện sao
cho tay cầm cành tre không run rẩy. Tập đến mức
ném hai viên bi vào cành tre chẳng rung động, sẽ nhất
định bắt được ve…. Cho đến khi ném
năm viên bi vào cành tre chẳng run tay, sẽ bắt ve
như tiện tay tóm lấy vậy. Tôi đứng dưới
gốc cây như cành cây khô, duỗi tay ra như nhánh cây. Cuối
cùng, khi tôi bắt ve, bất kể trời đất bao lớn,
vạn vật nhiều thế nào, tôi chỉ thấy hai
cánh của con ve, chẳng cần biết t́nh huống chung
quanh ra sao, không phân tán được ư lực của tôi”.
Do từ câu chuyện này, mới có thành ngữ “khom lưng đón ve” (câu
lũ thừa điêu), ư nói tập luyện tinh thục,
chuyên nhất, không c̣n bị phân tâm.
[40] Pháp Hiển
là một vị cao tăng đời Tấn (không rơ năm
sanh và năm mất), người xứ Vũ Dương
(nay là Thiểm Tây). Xuất gia từ ba tuổi, 20 tuổi
thọ Cụ Túc Giới, cảm thán t́nh trạng kinh luật
c̣n thiếu sót, bèn cùng đồng học là Huệ Cảnh,
Đạo Chỉnh, Huệ Ứng, Huệ Nguy, rời
Trường An vào năm Long An thứ ba (399), sang tận Ấn
Độ cầu pháp. Ngài đi hơn 30 nước, đến
năm Nghĩa Hy thứ 9 (413) mới về Trung Hoa, đem
về rất nhiều bản kinh Phật bằng tiếng
Phạn. Tại Trường An, Sư hợp sức cùng Phật
Đà Bạt Đà La dịch Ma Ha Tăng Kỳ Luật,
Đại Bát Nê Hoàn Kinh, Tạp Tạng Kinh, Tạp A Tỳ
Đàm Tâm Luận. Ngài c̣n soạn bộ Phật Quốc Kư
ghi lại cuộc viễn tŕnh cầu pháp của ḿnh.
Đàm
Vô Kiệt (Dharmodgata): Cao Tăng đời Đường,
người U Châu, họ Lư, siêng tu khổ hạnh, nghe chuyện
ngài Pháp Hiển sang Ấn Độ cầu pháp, rất hâm
mộ, lập chí noi theo. Ngài đi từ xứ Lưu Sa,
qua Quy Tư, Sớ Lặc, đến tận Kế Tân, cầu
được kinh Quán Thế Âm Thọ Kư bằng tiếng
Phạn. Không rơ năm sanh và năm mất.
[41] Cốc: Một loại
cây có tên khoa học là Broussonetia Papyrifera, vỏ thường
được dùng để làm giấy (theo Trần
Văn Chánh). “Chử” là cây dó (vỏ được dùng
để làm giấy bản).
[42] Cách thức
quỳ lễ của người Hồ (từ thời cổ
Ấn Độ hay những xứ phía Tây Trung Hoa đều
gọi là Hồ), có nhiều cách hiểu khác nhau:
a.
Chỉ gập gối là hồ quỳ.
b.
Hồ quỳ là trường quỳ, tức là đặt
sát hai đầu gối sát đất, hai đùi dựng thẳng
lên theo thân ḿnh.
c.
Gối hữu đặt sát đất, gối trái dựng
lên
[43] Đây là phần giải
thích của tổ Ấn Quang đối với câu chuyện
vừa được sao lục.
[44] Hoa Nghiêm
Huyền Đàm: Tác phẩm của ngài Trừng Quán soạn
vào đời Đường, gọi đủ là Hoa Nghiêm
Kinh Sớ Sao Huyền Đàm, gồm chín quyển. Tác phẩm
này tŕnh bày cương yếu của bộ Bát Thập Hoa
Nghiêm, hiển dương những ư nghĩa chánh yếu của
tông Hoa Nghiêm. Nội dung được chia thành nhiều phần
như luận về nhân duyên, tạng giáo, nghĩa lư,
căn cơ được hóa độ bởi kinh này,
giáo thể, tông, thú, bộ loại, phẩm, hội của
kinh, những chuyện cảm ứng… Tác phẩm này thật
ra là những phần liên quan đến huyền nghĩa
trong bộ Hoa Nghiêm Kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao
được trích riêng ra.
[45] Tức là Hoa Nghiêm
Sưu Huyền Kư (gọi đủ là Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Sưu Huyền Phận
Tề Thông Trí Phương Quỹ) do ngài Trí Nghiễm soạn
vào đời Đường nhằm giải thích kinh Hoa
Nghiêm. Nội dung nêu lên cương yếu huyền nghĩa
của kinh và giải thích đại lược kinh
văn. Bộ thứ hai là Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Kư do ngài
Pháp Tạng (cũng sống vào đời Đường)
soạn nhằm đặc biệt phát huy giáo nghĩa thập
huyền môn được giảng trong phần huyền
nghĩa đă nêu trong bộ Hoa Nghiêm Sưu Huyền Kư.
[46] Bảy
xứ chín hội: Kinh Hoa Nghiêm được nói ở bảy
nơi, chia thành chín hội. Căn cứ theo kinh Bát Thập
Hoa Nghiêm th́:
1) Hội thứ nhất tại
Bồ Đề đạo tràng gồm sáu phẩm, mười
một quyển. Phổ Hiền Bồ Tát giảng về y
báo nhân quả của đức Tỳ Lô Giá Na Phật.
2) Hội thứ hai giảng
tại điện Quang Minh, cũng là do Phổ Hiền Bồ
Tát nói về chánh báo nhân quả của Phật, gồm ba phẩm.
Nửa phần sau hội thứ hai, Văn Thù Bồ Tát giảng
Thập Tín, giảng về Sơ Phát Tâm, tổng cộng ba
phẩm.
3) Hội thứ ba trên trời
Đao Lợi, giảng trên cung trời Đao Lợi do Pháp
Hội Bồ Tát chủ giảng. V́ thế, hội thứ
ba do Pháp Hội Bồ Tát giảng Thập Trụ, có sáu phẩm,
ba quyển.
4) Hội thứ tư tại
trời Dạ Ma, do Công Đức Lâm Bồ Tát giảng
pháp môn Thập Hạnh, cũng gồm bốn phẩm, ba
quyển.
5) Hội thứ năm
trên trời Đâu Suất – Di Lặc Bồ Tát sống trên
trời Đâu Suất – Hội này do Kim Cang Tạng Bồ
Tát giảng pháp môn Thập Hồi Hướng, có ba phẩm,
gồm mười hai quyển.
6) Hội thứ sáu tại
trời Tha Hóa Tự Tại, do Kim Cang Tạng Bồ Tát làm
hội chủ, giảng pháp môn Thập Địa. Hội
này chỉ có một phẩm, nhưng là một phẩm rất
dài, dài đến cả sáu quyển.
7) Hội thứ bảy lại
là điện Phổ Quang Minh, trong hội này, đức Phật
làm chủ, giảng về Đẳng Giác, về Diệu
Giác. Phần này gồm mười một phẩm, mười
ba quyển.
8) Hội thứ tám
cũng tại điện Phổ Quang Minh, Phổ Hiền
Bồ Tát giảng, chủ yếu nói về các pháp môn tu
hành. Phổ Hiền Bồ Tát nói hai ngàn pháp môn tu hành. Phần
này chỉ có một phẩm, gồm bảy quyển.
9) Hội thứ chín tại
rừng Thệ Đa, tức là vườn Kỳ Thọ Cấp
Cô Độc, diễn tả cuộc cầu pháp tham học
với năm mươi ba vị thiện tri thức của
Thiện Tài Đồng Tử.
[47] Tác phẩm của
ngài Đạo Tuyên Luật Sư soạn vào đời
Đường, gồm 3 quyển, có tên gọi đầy
đủ là Tập Thần Châu Tháp Tự Tam Bảo Cảm
Thông Lục; đôi khi c̣n gọi là Đông Hạ Tam Bảo
Cảm Thông Lục. Nội dung chép về sự tích xá-lợi
Phật, tượng Phật, chùa Phật, kinh điển
và chuyện linh dị của hàng Tăng, tục.
[48] Ôn: bệnh dịch,
hoàng: tức nạn cào cào, châu chấu, sâu bọ phá hoại
mùa màng.
[49] Quân tử trên kèo nhà
(lương thượng quân tử) tức kẻ trộm.
[50] Tương tức tương thông: Tâm ta và tâm người hệt như nhau, cùng một bản thể nên có thể coi như một. Do có cùng bản thể nên thông suốt không trở ngại, người khác khởi lên tâm niệm, ta nhận biết rơ ràng; ta khởi lên tâm niệm, người khác biết ngay.
[51] Liệt Quốc: Tức
thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc của Trung Hoa kể
từ sau khi Châu B́nh Vương (Cơ Nghi Cữu) nghe lời
ông ngoại là Thân Hầu, mượn sức Hung Nô diệt
phe đảng Bao Tự, lên ngôi, kinh đô bị giặc
Hung Nô tàn phá, phải dời đô sang Đông, Sử gọi
Đông Châu, cho đến khi Tần Thủy Hoàng diệt
sáu nước, thống nhất Trung Hoa. Trong thời này,
vua Châu chỉ c̣n hư vị, chư hầu đánh phá lẫn
nhau, xưng bá. Thời kỳ này kéo dài từ năm 770
trước Công Nguyên cho đến 221 trước Công
Nguyên, và được chia làm hai giai đoạn: Xuân Thu
(770 tr.CN - 476 tr.CN) và Chiến Quốc (475 tr. CN – 221 tr.CN). Thời
Xuân Thu có 12 nước chư hầu lớn, nhiều
nước nhỏ (phụ dung); thời Chiến Quốc
chỉ c̣n sáu nước. Tần Mục Công, làm vua Tần
từ năm 659 tr. CN đến năm 620 tr. CN, là người
có công đưa nước Tần lên địa vị bá
chủ chư hầu.
[52] Hoàng đế ngồi
ở phía Bắc ngoảnh mặt về phía