Ấn Quang pháp sư Văn Sao Tam Biên

Quyển 1

Phần 1

 

Chuyển ngữ: Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa

Giảo chánh: Minh Tiến & Huệ Trang

 

Lời tựa cho lần ấn hành theo phương pháp Ảnh Ấn

 

Văn do chuyên chở đạo mà thường cùng tồn tại với đạo. Lý đáng nên như thế, nhưng Sự lại không luôn như vậy. Văn chương trong các sách vở đáng coi là khuôn mẫu hoặc những bài ca tụng cao nhã chẳng phải là chuyên chở đạo ư? Lửa Tần[1] bốc lên, bèn bị diệt sạch cả, nhưng diệt là diệt những thẻ sách[2], chứ chẳng diệt được sách vở cất giấu trong vách nhà[3] hay trong lòng người. Vì thế khi nhà Hán hưng khởi, văn chương, kinh điển xưa nay liền nối tiếp nhau xuất hiện trở lại; do vậy thấy được rằng “nếu đạo vẫn tồn tại thì văn cũng tồn tại!”

Văn Sao của tổ Ấn Quang hoằng dương trọn vẹn Tam Tạng, dẫn chứng rộng rãi từ Ngũ Kinh, ba căn nương theo sách ấy dấy lòng tin, theo những nẻo khác nhau cùng về Tịnh Độ. Sách ấy chuyên chở đạo lý [là chuyện đương nhiên] cần gì phải nói nữa! Do vậy, hai bộ Chánh Biên và Tục Biên phổ biến trong thiên hạ, bảy mươi năm qua độ người vô số, nhưng bản thảo Tam Biên do họ La biên tập vừa xong liền bị giấu kín cả mấy chục năm chẳng xuất hiện trong cõi đời, biết nói sao đây?

Tiên sư Tuyết Lư lão nhân[4] xưa kia từng phụng sự Tổ Sư, vâng mạng lệnh chuyên hoằng dương Tịnh pháp; núi sông đổi sắc, vượt biển đến Đài Trung, sáng lập Liên Xã, y giáo phụng hành, Văn Sao Chánh Biên và Tục Biên cùng với Gia Ngôn Lục, Tinh Hoa Lục[5] nhiều lần được ấn hành biếu tặng, nhưng chẳng tìm được Tam Biên. Về sau do Phật Giáo Thư Cục phát hành bộ Toàn Tập của Tổ Sư, trong ấy có Tam Biên do pháp sư Quảng Định biên tập, và theo lời đồn đại bản Tam Biên do họ La biên tập vốn được cất giữ tại Linh Nham Sơn Tự ở Tô Châu đã bị hủy hoại cùng với chùa miếu trong cơn binh hỏa, đáng than vô cùng!

Ngóng tin cách biển, nghe nói nguyên cảo [Tam Biên] may mắn thoát khỏi tai ương, lại còn được khắc in. Về mặt Lý cố nhiên đáng tin, nhưng nơi mặt Sự vẫn còn hồ nghi. Liên hữu Đài Trung liền cậy người sang Linh Nham chứng thực điều ấy, thỉnh về Liên Xã. Đọc lời Bạt, mới biết Linh Nham sau cơn hỏa hoạn, nguyên cảo này được cất tại Tàng Kinh Lâu, trong rương đựng bộ Càn Long Đại Tạng Kinh khắc vào đời Thanh, hòa thượng Minh Học phát hiện, cho xuất bản. Năm Canh Ngọ (1990), gặp dịp kỷ niệm tròn năm mươi năm Tổ Sư về Tây, [Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên] được Quảng Hóa Tự ở Bồ Điền, Phước Kiến ấn hành. Tứ chúng hân hoan, khen là chuyện hiếm có!

Chao ôi! Văn của Tổ Sư giống như rồng vậy chăng? Hoặc ẩn, hoặc thấy, chẳng biết lúc nào! Nay đã được thấy, ắt sẽ bay lên tận trời, tuôn mưa pháp lớn, thấm nhuần khắp quần sanh. Ngay lập tức, Đài Trung Liên Xã liền cho in lại bằng phương pháp Ảnh Ấn để lưu truyền hòng thỏa nguyện cũ, vui mừng vô lượng. Ngoài ra còn có bảy lá thư [phúc đáp của đại sư Ấn Quang] để trong bọc hành lý của tiên sư đang được cất giữ tại Tuyết Lư Kỷ Niệm Đường ở liên xã, người biên tập cũng cho in kèm theo [bộ Tam Biên này] để khỏi bị thất lạc. Ấn hành cần phải có lời tựa, [do vậy tôi] kính cẩn thuật nhân duyên Ảnh Ấn để tùy hỷ vậy.

Đài Trung, Mạnh Đông năm Nhâm Thân

(Trung Hoa Dân Quốc năm 81 - 1992),

Tịnh nghiệp đệ tử Lô Giang Từ Tỉnh Dân kính đề

 

Lời tựa cho bộ Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên

 

      Linh Nham Ấn Quang lão pháp sư nghiêm trì giới luật, hoằng dương Tịnh Độ, lời lẽ làm pháp tắc cho cõi đời, hành vi làm khuôn mẫu cho đạo, dùng văn tự Bát Nhã rộng độ mọi loài, mưa pháp tuôn khắp, tứ chúng suy tôn là vị Tổ thứ mười ba của Liên Tông. Từ thời cận đại đến nay, [quả thật là một nhân vật] chưa từng có. Bản thân tôi từ thuở nhược quan phát nguyện quy y đức Phật, tự xét thiện căn nhỏ nhoi, mỏng manh, cứ lần khân mãi không thành tựu gì! Năm Dân Quốc 31 (1942), ngoại nhân khinh rẻ, xâm lăng [Trung Hoa], sanh linh lầm than, các nỗi khổ chen nhau nung đốt không thể nào dứt dẹp được, đọc lại Văn Sao, giật mình, tỉnh ngộ, bèn quy mạng, gieo tấm lòng thành, niệm Phật, ăn chay, những điều này đều do Văn Sao ban cho vậy.

Sau này, ngẫu nhiên ở chỗ cư sĩ Đinh Phước Bảo, thấy được hơn hai mươi lá thư của Sư đều là những lá thư chưa được sao chép, chưa đưa vào hai cuốn Văn Sao Chánh Biên và Tục Biên. Do vậy, nghĩ di cảo chính là pháp nhũ được gởi gắm, há nên để mặc cho thất lạc, bèn cẩn thận chép lại để giữ bản sao, đấy chính là bước khởi đầu cho việc biên tập bộ sách này vậy. Sau khi Sư về Tây, Hoằng Hóa Nguyệt San[6] trưng cầu di cảo, thư đáp lời trưng cầu nườm nượp gởi về, thu được thật phong phú. Nhiều nhất là hòa thượng Diệu Chân[7] ở Linh Nham, pháp sư Tu Luân ở Hàng Châu đều cho [chúng tôi] đọc những lá thư họ giữ được. Các nơi gởi tặng bản gốc hoặc bản sao cũng chẳng dưới bốn năm chục người. Thảm đạm sưu tập tìm tòi, tính ra được gần bảy trăm bức thư, một trăm ba mươi bài tạp văn, những bài văn ấy chẳng kém gì những bài đã được đưa vào bộ Tăng Quảng Văn Sao, [tôi biên tập thành sách] đặt tựa đề Văn Sao Đệ Tam Biên, trân trọng thu gom cất giữ để đợi duyên thù thắng. Nếu sách được xuất hiện trong cõi đời sẽ giúp đỡ lớn lao cho việc hoằng dương Tịnh tông và ủng hộ, duy trì pháp môn. Sao chép suốt mấy năm, luôn khư khư một ý niệm nhỏ nhoi: “Nguyện ba ngàn cõi phương Đông, gieo sen chín phẩm nơi trời Tây Phương”, cùng được thấm nhuần pháp ích, cùng lên được bờ giác.

Mồng Bốn tháng Mười Một năm Canh Dần (1950),

Kỷ niệm mười năm ngày lão pháp sư viên tịch,

Tư thục đệ tử[8] Thượng Ngu La Ung Hồng Đào đảnh lễ cung kính viết lời tựa

 

 

 

GHI THÊM

 

Bộ Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên được ấn hành lần này là bản duy nhất được cất giữ tại Linh Nham Sơn ở Tô Châu, vốn là di cảo do cư sĩ La Hồng Đào biên tập, pháp sư Huệ Dung chép lại thành bản cẩn thận, ghép thêm vào đó hai thiên Thượng Hải Hộ Quốc Tức Tai Pháp Hội Pháp Ngữ và Đức Dục Khải Mông; do [hai bản này] đã sớm được lưu hành riêng nên ông La không đưa vào bản thảo. Quy cách trình bày ấn loát nhất loạt lấy hai bộ Văn Sao Sơ Biên và Tục Biên làm chuẩn. Do trình độ [hữu hạn] của những đồng nhân làm công tác giảo chánh, đối chiếu, khó thể tránh được sai sót, ngưỡng mong mười phương Tăng - tục, thầy, bạn chẳng tiếc công chỉ dạy để sửa đổi khi tái bản, khôn ngăn tột bực tha thiết khẩn cầu.

 

Chùa Quảng Hóa tại Bồ Điền, Phước Kiến kính bạch

(giữa Đông năm 1990)

 

 

Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên

Quyển 1

 

1. Đại Sư tự thuật

 

Mùa Đông năm Dân Quốc 28 (1939), người ngoại quốc họ X… đến Linh Nham yết kiến đại sư có lời thưa hỏi, cùng nhau dùng bút mực để trò chuyện, đại sư tự lược thuật cuộc đời và hạnh nguyện như sau:

 

a) Cuộc đời:

 

       Xuất gia năm Quang Tự thứ bảy (1881), thọ giới năm Quang Tự thứ tám (1882). Năm Quang Tự 12 (1886) đến Hồng Loa Sơn ở Bắc Kinh. Năm Quang Tự 17 (1891) dời sang chùa Viên Quảng tại Bắc Kinh. Năm Quang Tự 19 (1893) đến ăn nhờ ở đậu chùa Pháp Vũ thuộc Phổ Đà Sơn tỉnh Chiết Giang, suốt ba mươi năm chẳng đảm nhiệm chuyện gì. Đến năm Dân Quốc 17 (1928) có đệ tử quy y ở Quảng Đông tính thỉnh sang Hương Cảng, liền rời Phổ Đà, tạm ngụ tại chùa Thái Bình tại Thượng Hải. Mùa Xuân năm Dân Quốc 18 (1929) tính rời đi nhưng vì chuyện in sách chưa xong [phải ở lại]. Năm Dân Quốc 19 (1930) đến bế quan tại chùa Báo Quốc ở Tô Châu. Tháng Mười năm Dân Quốc 26 (1937), tỵ nạn sang Linh Nham đã tròn hai năm. Hiện thời đã sống buổi sáng không đảm bảo được buổi tối, chờ chết mà thôi! Năm mươi chín năm từng trải như vậy đó. Suốt cả một đời chẳng cùng ai kết xã, ngay đến cả hội Phật giáo Trung Quốc cũng chẳng ghi tên làm hội viên.

 

b) Những việc xảy ra gần đây:

 

Từ khi đến Linh Nham, bất cứ danh lam thắng cảnh nào, tôi cũng đều chẳng tới xem, bởi chí chỉ mong vãng sanh, chẳng bận tâm đến danh lam thắng cảnh.

 

c) Việc làm

 

      Mỗi ngày lượng theo sức mình niệm Phật và trì chú Đại Bi để làm căn cứ tự lợi, lợi tha. Suốt đời chẳng thâu nhận một đệ tử xuất gia nào, chẳng nhận làm Trụ Trì chùa nào cả!

 

d) Chủ nghĩa và giáo nghĩa niệm Phật

 

      Đối với hết thảy mọi người đều dùng “tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương” để khuyên nhủ, bất luận xuất gia hay tại gia, ai nấy đều phải chú trọng trọn hết bổn phận con người, gặp cha nói từ, gặp con nói hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành. Bất luận người sang hay kẻ hèn đều dùng những điều này để bảo ban, khiến cho hết thảy mọi người trước hết làm một người hiền, người lành trong thế gian, ngõ hầu cậy vào Phật từ lực siêu phàm nhập thánh, vãng sanh Tây Phương! Trọn chẳng nói với người khác những lời lẽ lớn lao khiến họ không thực hiện được, mặc cho người ta bảo mình là hạng Tăng chỉ biết cơm cháo, trăm sự không làm được điều gì. Đại lược là như vậy đó!

 

2. Thư trả lời đại sư Hoằng Nhất

 

      Hôm qua, nhận được thư và bản tụng văn cũ lẫn mới, không đọc thấy chỗ nào sai. Trong thư nhắc đến tình huống dụng tâm quá độ, Quang đã sớm đoán biết chuyện này, do vậy đã viết một lá thư khuyên Sư đừng làm như thế. Do Sư quá tỉ mỉ, thường có những chỗ không cần phải thật dốc sức mà Sư vẫn chẳng chịu không dốc sức, đến nỗi bị thương tổn! Xét theo sắc lực của Sư, có lẽ nên lắng lòng chuyên nhất niệm Phật, những giáo điển khác và những sách đang được lưu truyền hiện thời, nhất loạt đừng xem tới để khỏi bị phân tâm, bị tổn hại vô ích. Người biết xử sự đúng thời phải hiểu thời cơ, sự việc, Chuyện gì Sư với tôi chẳng thể gánh vác được thì hãy nên lánh mình ra ngoài, để mặc đó đừng hỏi đến nữa, nhất tâm niệm Phật để mong mình lẫn người đều được lợi ích thật sự, ấy mới là phương cách độc nhất vô nhị vậy!

 

3. Thư gởi Chân Đạt lão hòa thượng

 

      Ba bốn chục năm qua Quang được huynh chiếu cố, chăm nom, khôn ngăn cảm kích. Sáng nay tinh thần uể oải như sắp chết, do vậy, gần như đem tất cả những chuyện bận bịu tại Thượng Hải giao hết cho pháp sư Đức Sâm. Qua hai tiếng sau lại cảm thấy chẳng sao cả, tuy chưa chết ngay nhưng cũng khó tránh khỏi cái chết, chẳng ngại gì bàn soạn sẵn. Quang khi sống tánh chẳng thích bày vẽ nhiều chuyện, chết rồi thì cũng [nên làm ma chay] giống như một kẻ tầm thường chết. Nếu không, sẽ càng tăng thêm tội lỗi cho Quang vậy!

 

4. Thư gởi pháp sư Đức Sâm[9] (thư thứ nhất)

 

      Phần Phụ Lục do ông đã gởi mãi đến sau hai giờ chiều ngày hôm qua mới giao tới, do phải trò chuyện với khách [đến thăm] đã lâu, nên không còn tinh thần để xem được. Sáng nay bèn đọc qua, gặp đúng lúc Mạnh Am tới đây bèn đưa cho xem, [ông ta] khen ngợi không ngớt. Văn Sao Tục Biên cuốn Thượng đã sắp chữ xong, nếu cuốn Hạ lại đưa thêm nhiều bài văn vào phần Phụ Lục thì hai cuốn sẽ dày - mỏng không đều, hãy nên đem phần sách này ghép vào sau cuốn Thượng thì hai cuốn sẽ dày bằng nhau. Phần Phụ Lục không nhất thiết phải đặt ở cuối cùng, đặt cuối cuốn Thượng thì cũng là Phụ Lục, không nhất quyết phải đặt Phụ Lục ở cuối cuốn Hạ.

Hiện thời khoản tiền thu được từ các nơi gần đến hai vạn, dùng loại giấy in báo thì cũng in được cỡ chừng hai vạn cuốn là cùng. Nếu dùng loại giấy Mao Biên thì một vạn đồng chỉ in được ba bốn ngàn bộ! Tấm lòng của Lạc cư sĩ có thể nói là tận thiện, tiếc rằng [ông ta] chưa biết nên làm thế nào cho thích hợp thời thế. Từ khi in sách đến nay, Quang chẳng dùng loại giấy Mao Biên, huống là loại giấy in báo! Về sau, do loại giấy Mao Thái dòn gãy quá nhiều, in ra một vài năm đã biến thành mớ giấy lộn để bán [ve chai], mà giá loại giấy ấy vẫn tính vào chi phí in sách [khá đáng kể]. Huống chi những chỗ sản xuất giấy ở Phước Kiến, Giang Tây đều gặp nạn chiến tranh, vì thế chỉ nên dùng giấy in báo. Ông Lạc trọn chẳng hiểu nỗi lòng Quang, hơn một vạn bộ sách ở chỗ ấn loát cảm thấy rất nhiều, nhưng nếu chia ra gởi đi, quả thật là quá ít!

Lời bàn luận của ông Lạc thuộc về pháp tắc thông thường trong thời thế thái bình, còn ý kiến của Quang thuộc phương pháp quyền biến trong thời thế đói kém, loạn lạc. Không chấp nhất thì đôi đằng đều hợp lý, hễ chấp nhất thì đôi đằng đều chẳng trọn vẹn. Nay tôi nói một thí dụ để làm sáng tỏ nghĩa này. Ví như người trong lúc gạo châu củi quế đem mười vạn cứu đói. Do mười vạn có hạn, dân đói vô cùng, hãy nên dùng lương thực giá rẻ hơn một chút ngõ hầu cứu giúp được lâu hơn và giúp được nhiều dân nghèo hơn. Nếu dùng loại lương thực hạng nhất, tốt lành thì hết sức tốt lành đấy, nhưng sau khi hết tiền thì làm như thế nào đây?

Văn Sao khiến người ta cảm động, phát tâm không ít, chẳng phải là vì giấy in tốt. Trước khi tròn sáu mươi tuổi, ông Trịnh Triết Hầu oán thù đức Phật; năm ông ta sáu mươi tuổi đọc Văn Sao, từ đấy bỏ mặc những thuyết Hàn, Âu, Trình, Châu trước kia, cực lực đề xướng Phật pháp. Đủ biết muốn thật sự làm lợi cho người khác, hãy nên chú trọng chuyện lưu truyền rộng rãi. Có người bảo hễ nhiều sẽ bị người ta coi thường, bị tổn hại vô ích. Phải biết rằng: Kinh Phật, sách Nho chẳng thể nào hoàn toàn không có chuyện bị coi rẻ thì sách của bọn phàm phu nghiệp lực chúng ta làm sao có thể trọn không bị coi rẻ cho được? Hiện thời, trong ngoài nước người tin Phật đông đảo, cố nhiên chẳng cần phải lo xa như thế! Hãy nghĩ đến chuyện bậc đại thông gia ở nhằm nơi không có Phật pháp vẫn bị khổ vì không biết đến Phật pháp, như Tăng, Tả, Lý, Diêm (Diêm Đan Sơ là người ở Triều Ấp, từng làm Phó Tướng, con người cực thuần hậu, không báng Phật, nhưng cũng trọn chẳng nghiên cứu) đều là những người không báng Phật mà cũng chẳng biết đến Phật pháp, chẳng đáng buồn ư? Mong hãy sáng suốt soi xét thì may mắn lắm thay! Những lời lẽ này đừng đưa vào Văn Sao.

 

5. Thư gởi pháp sư Đức Sâm (thư thứ hai)

 

      Phàm tất cả những khoản tiền ở Thượng Hải đều dùng để in Văn Sao, không cần phải báo rõ từng khoản. Nói chung, Quang chẳng còn sống lâu nữa đâu, vì thế chuyện gì đã xong thì cho xong luôn, chuyện gì chưa xong cũng coi như xong. Quang chết rồi, quyết chẳng được [tổ chức tang lễ] giống như những vị Tăng hiện thời, bày vẽ mù quáng, gởi cáo phó, thiết lễ phúng điếu, cầu [danh nhân] viết lời đề bạt, đắp cả đống phân lên đầu coi là vinh dự. Dù sau này Quang chưa chết, bên ngoài có gởi thư đến, Sư cũng chẳng cần phải gởi [tới tận nơi bế quan cho Quang] nữa. Thư gởi đến nếu Sư bằng lòng kết duyên thì tùy ý phúc đáp. Nếu không, cứ để nguyên thư gởi lại. Không cần phải viết thư sang Ngũ Đài nữa đâu, [hòa thượng] Pháp Độ vẫn chẳng nghĩ như vậy là đúng. Có viết cũng tự chuốc lấy phiền não, hãy để mặc cho ông ta minh tâm kiến tánh đi!

Kinh Dược Sư hôm nay đã gởi đi, từ rày Sư nên thương lượng với ông ta, Quang chẳng hỏi đến nữa! Từ năm Dân Quốc thứ sáu (1917) trở đi, Quang ngày càng bận hơn, bận không thể tưởng tượng được! Chỉ bận bịu vì người khác chứ công phu của chính mình hoàn toàn bê trễ. Nếu được A Di Đà Phật rủ lòng Từ tiếp dẫn thì là ngàn muôn phần trọn đủ rồi, còn chuyện viết tiểu sử, soạn bài minh, soạn lời tán dương, điếu văn, câu đối, Sư hãy bảo họ ngàn vạn phần đừng gom cả khối phân lớn chất lên đầu Quang là đã ban tặng cho Quang nhiều lắm rồi, xin hãy sáng suốt soi xét. Suốt mười chín năm Sư vất vả giúp đỡ Quang, khôn ngăn cảm tạ! Quang chết rồi cũng không cần phải lên núi để khỏi bị đau lòng!

 

6. Thư gởi pháp sư Đức Sâm (thư thứ ba)

 

      Lúc này dường như chẳng mệt mỏi như lúc sáng sớm, chắc là chưa đến nỗi chết ngay, nhưng cố nhiên không tránh khỏi cái chết được. Hãy nên bảo những người quen biết: “Quang chết rồi thì vẫn vì chính mình niệm Phật như thường lệ, chẳng cần phải niệm cho Quang!” Vì sao vậy? Do nếu vẫn chẳng vì chính mình mà niệm, cứ niệm cho Quang thì cũng chẳng giúp được gì! Nếu thật sự vì chính mình mà niệm, chẳng niệm cho Quang, Quang hóa ra lại được lợi ích lớn lao. Vì thế bất luận người nào, chuyện nào, đều phải sốt sắng thực hiện nơi chỗ có lợi ích lớn lao thì hết thảy những chuyện sáo rỗng, những thứ giả vờ bên ngoài đều trở thành công đức chân thật, người chân thật mới là đệ tử Phật. Quang thấy một vị đại lão chết đi, một người viết bài tán dương di ảnh như sau: “Bậc đại hùng cao cả xuất hiện trong thế gian”. Lại có một đệ tử viết tiểu sử cho thầy là Ngọc Trụ có câu: “Hạnh Ngài bằng với hạnh của ngài Vĩnh Minh, há chẳng phải là hậu thân của Vĩnh Minh ư?” Quang phê rằng: “Đem phàm lạm thánh, tội chẳng thể tha!”

Sư Ngọc Trụ tuy tốt đẹp, nhưng sao lại có thể tán dương như vậy được? Nếu sư Ngọc Trụ biết, chắc sẽ đau lòng ứa lệ! Phật pháp tốt đẹp bị thói “ham danh ghét thật” làm hư hỏng hết. Chúng ta chẳng thể uốn nắn thói tệ đương thời, nào dám theo mọi người góp phần náo nhiệt gom lấy đống phân, khiến cho hết thảy mọi người vì mình mà gom góp cho thật nhiều ư? Những tưởng để tiếng thơm trăm đời, nào ngờ quả thật đã để lại tiếng xấu muôn năm! Quang không có thật đức, nếu ca tụng, tán dương Quang tức là đã gom đống phân lớn đắp lên đầu Quang, mong hãy nói với hết thảy những người hữu duyên vậy.

 

7. Thư gởi pháp sư Đức Sâm (thư thứ tư)

 

     Tháng Chạp năm ngoái đã tính thôi không viết thư cho [hòa thượng Quảng Huệ] chùa Quảng Tế, nhưng vì Sư kèo nài, nên sáng ngày Ba Mươi Tết bèn chiều ý viết thư. Thầy Diệu Chân trông thấy, cho người sao lại, Quang vốn không có ý đưa thư ấy vào Tục Biên[10]; [vì lá thư đó] dài dòng lôi thôi đến năm ngàn chữ. Thoạt đầu nói tới thói tệ mở hội trai tăng ngàn vị, sửa đổi theo quy cách khác. Trong thư nói đến chuyện tham Thiền chẳng dễ gì được lợi ích, lấy Ngũ Tổ Giới để làm chứng. Ngũ Tổ Giới là bậc phi thường nhưng vẫn chưa đoạn được Kiến Hoặc, huống là liễu sanh tử ư? Khi Tô Đông Pha[11] trấn giữ Hàng Châu, vẫn chẳng cự tuyệt kỹ nữ, đủ thấy ông ta vẫn là phàm phu đầy dẫy triền phược. Sư hãy đọc kỹ, coi đưa vào sách được thì đưa vào, cũng chẳng cần phải chấp chặt một bề.

Mục lực của Quang càng yếu thì thư từ càng nhiều, do vậy trong ngày Lập Xuân tháng Chạp năm ngoái, nói với thầy Diệu Chân: “Nếu thường trụ chịu lo liệu, Quang sẽ chẳng hỏi đến nữa. Nếu không, cứ nhất loạt gởi trả lại”. Thầy Diệu Chân sai người lo giùm, phàm những thư xin quy y, thư gởi xuông thì nhiều, cũng có những thư gởi tiền hương kính. Hai năm trước đây, phàm những người đến chùa quy y, tiền hương kính và những khoản tiền đặc biệt gởi cho Quang đều đưa hết cho thường trụ, còn [tiền kèm theo] thư gởi đến thì giao cho Quang. Nay thì khoản tiền đặc biệt gởi đến [cho Quang] liền đưa trả về cho Quang, còn tiền hương kính của người đến núi quy y và tiền hương kính gởi kèm theo thơ đều giao hết cho thường trụ. Ở Thượng Hải có ai xin pháp danh, Sư hãy thay mặt Quang viết thư cho họ, tiền hương kính cũng để cho Sư tiêu vặt. Chuyện ấn hành Văn Sao Tục Biên, Quang chẳng hỏi đến, tùy Sư liệu định. Nếu [thư của] người ở Thượng Hải xin pháp danh chuyển đến thì Sư cũng thay mặt Quang viết thư cho họ, cần gì cứ phải không có chuyện gì lại bới ra chuyện như vậy?

Ông Phí Phước Thuần có một bài viết, ông Hà Phước Hà cũng có một trang viết nói đại lược về lợi ích của sự tiết dục: Sanh hai con đều sống được mười mấy ngày rồi chết, do lúc ấy ông ta không tiết dục, nên tiên thiên chẳng đủ mà ra! Những hạng thanh niên ấy coi dục là vui, lại muốn sanh ra con cái mạnh khỏe phước thọ, đạt được kết quả trái ngược, chẳng đáng buồn ư? Tháng Chạp năm ngoái, Phương Huệ Uyên có gởi thư đến, nói ông Thang bị bệnh nhiều lần, lại chẳng chịu kiêng những thứ sống sít, lạnh lẽo. Những kẻ thường cứ ăn những món chẳng nên ăn sẽ đổ bệnh, trong khi bị bệnh lại thường nghĩ đến vợ con, có nghĩ cũng vô ích. Đủ biết những người ấy do nghiệp lực nên rốt cuộc trở thành điên đảo.

Quang tuy chưa chết nhưng vẫn nghĩ mình đã chết; vì thế hết thảy mọi chuyện nếu đã chẳng thể lo liệu được thì chẳng hỏi đến nữa, từ rày tùy Sư quyết định. Tiền tài tại Thượng Hải Quang đều chẳng cần đến. Có sức thì in nhiều, không có sức thì in ít, nếu không có sức thì đừng in, đều tùy theo tài lực mà làm chuẩn, chớ nên vay mượn đến nỗi bó tay nhọc lòng! Xin hãy từ bi thứ lỗi! Phàm đối với những ai có lòng tin hãy nên dạy họ nhất tâm niệm Phật, chẳng cần phải niệm cho Quang, cũng đừng bỏ công đến thăm để khỏi phí tiền, phí thời gian, trọn chẳng có ích chi!

 

8. Thư trả lời sư Như Sầm hỏi thay cho bạn

 

      Trả lời đại lược câu hỏi, chẳng thể trình bày chi tiết.

 

      1) Đã có Phật đường thì cần gì phải thờ Phật trong liêu phòng nữa? Con người hiện thời quá nửa là vô ý, hời hợt, nơi điện đường còn phóng túng không kiêng dè, ngay đang trong lúc niệm tụng lễ bái còn dám phóng trung tiện thì trong liêu phòng càng phóng túng chẳng thể nói được. Nếu thờ Phật trong liêu phòng hãy tưởng như Đại Hùng bảo điện, may ra mới đỡ chuốc lấy tội lỗi! Nếu không, công rất ít, tội lỗi vô lượng! Thường thấy bậc pháp sư ở vào địa vị cao trọng vẫn chẳng nghĩ đánh trung tiện là phạm tội, trong lúc niệm tụng vẫn dám phạm, huống chi hàng học nhân hờ hững, hời hợt ư? Lời nói của tọa hạ chính là do không có cách nào khác được bèn tạo phương tiện cho ông ta, hãy bảo ông ta lễ bái trong chánh điện chính là phương pháp bậc nhất để khỏi chuốc lấy tội lỗi đấy!

      2) Pháp Quán Tưởng cũng chẳng hoàn toàn dựa vào tướng bên ngoài. Nếu chú trọng vào tướng bên ngoài thì Báo Thân và Hóa Thân vốn là một thể, sao lại có vướng mắc nơi Báo Thân và Hóa Thân? Ví như đứa con thấy cha mẹ mặc quần áo trịnh trọng và thấy cha mẹ mặc thường phục trọn chẳng nghĩ lúc này là đúng, lúc kia là sai, hoặc lúc kia là đúng, lúc này là sai! Người ấy quán Phật có cái Thấy chấp tướng như vậy, nếu chẳng phải là tự khoe công phu, ắt là cố chấp chẳng thông suốt! Hạng người ấy lâu ngày chắc sẽ bị ma dựa, chứ không phải là bậc tu hành chân thật đâu!

      3) Hình tượng có thể để thờ hoặc cất giữ thì hãy thờ hoặc cất giữ. Nếu chẳng thể thờ hoặc chẳng giữ được nữa thì hãy thiêu hóa đi. “Hủy tượng đốt kinh tội cực sâu nặng” là nói về những thứ kinh tượng có thể để thờ hoặc cất giữ được. Nếu chẳng thể để thờ hoặc để giữ được mà vẫn cứ chấp vào nghĩa này sẽ trở thành khinh nhờn! Ví như đứa con trong lúc cha mẹ còn sống, ắt phải tìm cách sao cho cha mẹ được an toàn. Cha mẹ mất rồi, ắt phải tính cách mai táng. Nếu là kẻ ngu chẳng hiểu lý, thấy người khác mai táng cha mẹ được coi là thực hiện lòng hiếu bèn muốn đem cha mẹ còn đang sống sờ sờ chôn đi cho trọn hiếu, hoặc thấy người khác phụng dưỡng cha mẹ là hiếu, bèn đối với cha mẹ đã chết vẫn theo quy cách phụng dưỡng thường nhật mà phụng dưỡng. Hai loại người này đều chẳng phải là chân hiếu!

Kinh chẳng thể đọc được, tượng chẳng thể thờ được nữa, lẽ đương nhiên nên thiêu đi, nhưng chớ nên làm giống như thiêu giấy chữ bình thường, mà phải tạo ra đồ để thiêu riêng, giữ gìn nghiêm ngặt chẳng để cho tro bay sang chỗ khác. Đem tro ấy đựng trong túi vải may thật kín, lại bỏ thêm cát sạch hoặc đá sạch để hễ bỏ xuống nước sẽ chìm ngay, chẳng đến nỗi giạt vào hai bờ. Nếu có ai ra biển, đến chỗ sâu bỏ xuống giữa biển, hoặc nơi sâu trong sông to thì được, chớ bỏ xuống ngòi nhỏ, rạch nhỏ. Người làm được như vậy là làm đúng pháp. Nếu chẳng bỏ thêm cát, đá, chắc chắn sẽ bị trôi giạt vào hai bờ, vẫn trở thành tội khinh nhờn. Tội ấy chẳng nhỏ đâu, nhưng chớ nên dùng đá dơ, ngói dơ!

4) Bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật lẽ đâu chẳng có chuyện cứu khổ ách? Quán Âm Bồ Tát tùy cơ chỉ dạy, há lẽ nào chẳng tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương? Người niệm Phật lâm chung thấy Phật và thánh chúng đích thân đến tiếp dẫn, há nên chấp chết cứng như thế? Nếu đúng là như vậy thì Phật cũng chẳng đáng gọi là Phật, Bồ Tát cũng chẳng đáng gọi là Bồ Tát! Sanh về Tây hãy nên lấy tín nguyện làm gốc, nếu gặp nguy hiểm bèn niệm Quán Âm. Có tín nguyện thì khi mạng chung quyết định sanh về Tây Phương, hoặc chỉ chuyên nhất niệm A Di Đà thì gặp khổ ách cũng được giải thoát. Những điều [cảm ứng như vậy được] sách cổ ghi chép càng khó tính kể. Nay trong trần lao thì chuyện gì cũng viên thông, nhưng trong tu trì thì chuyện gì cũng chấp chết cứng, chẳng đáng viên thông mà lại lầm lạc viên thông, chẳng đáng chấp trước mà cứ chấp trước chết cứng! Do điều này mà biển khổ sóng dậy liên tục, luân hồi không ngừng nghỉ vậy. Người có kiến giải như vậy khác nào trẻ nít, con người như vậy nào đáng để cùng bàn luận nữa!

 

9. Thư trả lời pháp sư Như Sầm

 

      Nhận được thư xong, lại nhận được Tư Quy Tập, khôn ngăn cảm thán! Do tọa hạ đề xướng pháp môn Tịnh Độ mà Quang mục lực lẫn tinh thần cả hai đều chẳng đủ, chẳng thể phụ giúp, thật là thiếu sót, tiếc nuối! Do vậy bèn đọc các điều được đề xướng và những điều đã bàn định. Trong những điều được bàn định, những chữ tôi khoanh một vòng tròn nhỏ bên cạnh là tán thành, hoặc có phê đại lược một hai câu, xin hãy châm chước thêm. Chỉ có phần nói về cách niệm truy đảnh[12] của sư [Hán Nguyệt] Pháp Tạng thì trong chỗ lợi người có ẩn tàng cái họa gây lầm lạc cho người, vàn muôn phần chớ nên sao lục. Dẫu bài thơ ấy hay, cũng xin nên gạt bỏ đi.

Ông ta (tức Hán Nguyệt Pháp Tạng) là kẻ oán đối trong nhà Phật, lúc đầu thân cận tổ Mật Vân [Viên] Ngộ chùa Thiên Đồng, ngộ được đôi chút, bèn muốn làm bậc đệ nhất cao nhân muôn đời, tự nói mình không có thầy mà tự ngộ. Ngài Mật Vân muốn phó chúc pháp của mình cho ông ta, ông ta không chịu tiếp nhận bỏ đi. Mật Vân đuổi theo, đuổi đến chỗ nọ thì bắt kịp, ông ta vẫn không chịu nhận. Mật Vân ép buộc, ông ta bèn dùng Tam Huyền, Tam Yếu[13] buộc Mật Vân đáp lời rồi mới miễn cưỡng tiếp nhận dòng pháp. Những chuyện ông ta nói đều là xằng bậy bịa ra, nhưng bọn sĩ đại phu lại tin thờ như Phật sống; kẻ nào bàn đến những chỗ phá hoại của Pháp Tạng ắt sẽ mắc đại họa! Vì thế trong ngữ lục của ông ta cũng như trong ngữ lục của bọn học trò là Hoằng Nhẫn, Cụ Đức toàn là những lời nói nhăng nói cuội đề cao thầy, miệt thị tổ, được lưu truyền cho đến thời Khang Hy bèn được ghép thêm vào Minh Tạng[14] (Đại Tạng Kinh bản đời Minh).

Đến năm Ung Chánh 11 (1733), [vua Ung Chánh] soạn các ngữ lục, hiểu rõ [ngữ lục của bọn Pháp Tạng, Hoằng Nhẫn, Cụ Đức] là sai lầm, xằng bậy, liền hạ lệnh hủy bản khắc và cấm ngặt lén lút cất giữ, lưu truyền. Vua chép lại những lời bịa đặt xằng bậy nghịch lý, trái đạo, trái luân thường của Pháp Tạng, Hoằng Nhẫn, Cụ Đức gồm hơn tám mươi đoạn, mỗi mỗi đều quở trách [tạo thành một cuốn sách] đặt tên là Giản Ma Biện Dị Lục, gồm bốn quyển, hơn hai trăm trang. Văn ấy phàm những ai đọc sách xem đến đều tăng trưởng học thức lớn lao không chi hơn được, đối với người tham Thiền lại càng hữu ích (nay những Thiền giả phần nhiều chẳng hiểu lời nói của cổ nhân, cứ hiểu theo kiểu chia chẻ mặt chữ thì khí vị nhà Thiền còn chưa được nghe nữa là!) Đến năm Ung Chánh 13 (1735) mới hoàn thành bản thảo. Vua truyền dụ đưa bản ấy nhập tạng để lưu thông, nhưng chưa bao lâu đã lên làm khách cõi trời. Càn Long kế vị, chưa thể đích thân lo liệu được, liền sai [người khác] chép lại cho rõ ràng để khắc ván.

Khi ấy, bọn ngoại hộ của Pháp Tạng rất đông, Tăng tục không dám bàn đến, vì thế [Giản Ma Biện Dị Lục] chưa được nhập tạng; chỉ đem lời thượng dụ [của Ung Chánh] đặt vào đầu sách để làm lời tựa, nhưng chuyện triều đình chẳng sai khiến tới mình, đâu ai dám lạm bàn, mà người sao chép lại không hiểu rõ [ý nghĩa] lắm, [cho nên] gạn lọc không rõ ràng đến nỗi lời văn mâu thuẫn lý, hoặc có chỗ [trong nguyên cảo] viết tắt nhưng không xét kỹ nên chép thành sai ngoa. Như theo lối chữ Thảo, chữ Vị (: nói) được viết thành Vi (: làm), rốt cuộc hơn một trăm chữ Vị đều bị khắc thành chữ Vi cả! Những kinh sách của Thế Tông đã được khắc in đều giảo chánh đích xác, chỉ có mình sách này bị sai lầm chẳng thể đếm xiết. Ván in đã khắc hoàn chỉnh rồi, in ra bao nhiêu đó bộ, ban cho những vị đại thần mang tước vương và các cao tăng. Nhưng do bọn ngoại hộ của Pháp Tạng thế lực mạnh mẽ, Tăng chúng sợ mang họa, đều chẳng dám lưu truyền, đến nỗi hàng Tăng - tục học rộng nghe nhiều đời sau đều chẳng biết đến tên sách ấy!

Năm Quang Tự 30 (1904), ngài Đế Nhàn thỉnh tạng kinh, sai Quang đi theo trông nom. Kinh đã in xong, còn phải chờ mấy ngày mới đi được; do vậy, tôi đến viếng các tiệm sách ở Lưu Ly Xưởng[15], thấy trong một tiệm có hai bộ đều thỉnh hết, đem một bộ tặng cho ngài Đế Nhàn mong Ngài sẽ lưu thông, một bộ tự giữ. Năm Quang Tự 31 (1905), tới chỗ ông Dương [Nhân Sơn] cư ngụ tại Nam Kinh, biết Hoằng Giáo Thư Viện của Nhật Bản đang ấn hành Đại Tạng Kinh, bèn cậy tiên sinh [Dương] Nhân Sơn đem bộ của Quang gởi sang Nhật Bản. Năm Dân Quốc thứ ba (1914), ông Địch Sở Thanh đến Phổ Đà, Quang khuyên ông ta lưu thông sách này, bảo ông ta nên xin bộ sách ấy từ chỗ ngài Đế Nhàn. Ông ta thưa: “Con có!” Hỏi do đâu mà có, ông ta cho biết mua được từ tiệm ve chai ở Bắc Kinh. Ông ta trở về đất Thân (Thượng Hải), liền giao cho nhà in, chiếu theo cách trình bày của sách ấy in ra một ngàn bộ theo lối thạch bản, gởi cho Quang tám bộ, giữ lại hai bộ, còn bao nhiêu tặng cho người hữu duyên. Quang bèn lắng lòng dựa theo ý nghĩa câu văn để giảo chánh.

Năm Dân Quốc thứ bảy (1918), cho khắc ván tại Dương Châu Tàng Kinh Viện, in ra ba trăm bộ tặng cho người khác. Nếu như khi đường bưu điện thông suốt thì sẽ thỉnh thêm sách ấy mấy bộ nữa để tặng cho những vị Tăng - tục có đủ chánh kiến. Đọc sách ấy sẽ biết Pháp Tạng là người như thế nào và lời lẽ của bọn pháp đồ ông ta phần nhiều là đặt điều bịa chuyện. Quang cho rằng tọa hạ chẳng biết ông ta là chân hay ngụy, nên mới đưa [trước tác của ông ta] vào trong Tư Quy Tập, đời sau sẽ lại hoằng dương rộng lớn pháp của ông ta, sẽ gây tổn thất lớn lao cho cả Thiền lẫn Tịnh! Nay tôi cũng chẳng nói đến hành vi của ông ta, nhưng dù không nhắc đến, nếu đọc Giản Ma Biện Dị Lục ai nấy sẽ biết rõ liền! Bưu phiếu đã quên mất số, xin gởi trả lại để giảm bớt lỗi của tôi!

      Trong bản thảo Tư Quy Tập, những đoạn sao lục được viết theo lối chữ thông tục (Tục Thể) quá nhiều, chẳng thể nêu trọn. Nhưng chữ Đoạn () tương truyền phần nhiều bị viết sai thành , ở đây cần phải sửa cho đúng, chữ tức là chữ Giả (). Phàm những lối chữ Tục Thể, Phá Thể, Thiếp Thể, Cổ Thể[16] đem dùng vào kinh sách cảm thấy rất không cung kính, khiến cho hàng sĩ đại phu có học thức khinh mạn người viết, người in, chẳng phải là chuyện nhỏ nhặt đâu!

      Cái tên “Ngũ Thập Tam Tham” (năm mươi ba lần tham học) quyết chẳng nên dùng vì coi đức Thế Tôn hai cõi ngang hàng phàm phu đời Mạt, đánh mất tôn ty quá lớn. Những lời nguyện được sao lục dưới tên đức A Di Đà Phật hãy nên đánh số thứ tự là nguyện thứ mấy, mỗi nguyện đều như thế, xin hãy chú ý! Pháp Ngũ Hội Niệm Phật của Tứ Tổ[17] chưa hề thấy nghe, ngờ là do người đời sau ngụy tạo. Ông Trương Quán Bổn cho rằng pháp này có thể khiến cho Tịnh tông hưng thịnh, Quang trọn chẳng cho như vậy là đúng. Mong hãy châm chước cẩn thận để quyết định giữ hay bỏ. Tôi vốn chẳng thể soạn lời tựa cho sách này vì không có tinh thần làm sao nêu tỏ được nghĩa lý mầu nhiệm của Tịnh Độ? Kế đó, sợ tọa hạ quở trách, chỉ viết những gì Quang tin tưởng để mong khỏi bị trách mắng, cho nên khác với những điều đã nói trong thư.

 

10. Thư trả lời đại sư Ứng Thoát (thư thứ nhất)

 

      Ông tuổi mới vừa nhược quan (hai mươi) hãy nên tham học trước, chớ nên bày thói lạ, lộ vẻ kỳ, ra dáng hành hạnh Đầu Đà. Có lẽ nên đến chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai thân cận pháp sư Tĩnh Quyền. Hiện thời giảng sư có khá nhiều vị, nhưng Quang chỉ biết mỗi vị này, nên mới nói như thế; những vị khác Quang không biết nên chẳng dám bảo bừa ông đến thân cận họ! Pháp danh của bà nội và mẹ ông đã đính kèm trong thư gởi đến, mong ông hãy khuyên họ nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì sẽ phù hợp với [pháp danh] Đức Thuần và Đức Nhất vậy. Từ rày chớ nên gởi thư đến nữa, gởi đến quyết không trả lời, cũng đừng đến đất Tô vì không thể ở chùa Báo Quốc được thì đất Tô sẽ không có chùa nào ở được! Huống chi mười tám món đồ[18] của ông khá cồng kềnh, tới - lui chẳng dễ dàng! Học Giáo ở chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai dẫu chẳng thể trở thành bậc đại thông gia thì quyết cũng chẳng đến nỗi nhiễm theo thói đời bây giờ. Vì thế, kẻ mới phát tâm hãy nên suy xét cẩn thận rồi mới làm vậy.

 

11. Thư trả lời đại sư Ứng Thoát (thư thứ hai)

 

      Quang là ông Tăng tầm thường chỉ biết cơm cháo, suốt đời ăn nhờ ở đậu chùa người khác, há nên khen ngợi quá mức như thế? Quang già rồi, mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ; tháng Mười Một năm ngoái đã đăng [thông cáo] trên hai tờ báo ở Thượng Hải, cự tuyệt hết thảy thư tín. Tọa hạ phát Bồ Đề tâm, sắm sửa đủ mười tám món vật, muốn hành hạnh Đầu Đà, quả thật là hành hạnh khó hành, nhưng Quang trộm chẳng cho như vậy là đúng! Bởi lẽ, thời cuộc nguy hiểm, các nơi tai ương, đói kém, liều mình du hành vào nơi hoạn nạn, kinh Phạm Võng không chấp nhận đâu! Do vậy, hãy nên tìm một nơi chân thật tu đạo, giữ tâm khiêm hạ, chết sạch những vọng động, tu trì Tịnh nghiệp, so ra có ích hơn hằng ngày du hành, bôn ba nhọc nhằn! Phong tục ở nước ta chẳng giống như thời đức Phật tại thế, thuận theo thời tiết mà lượng định oai nghi mới là người thông suốt. Nếu ông vẫn nhất quyết chẳng chịu thay đổi chương trình đã định, Quang cũng không ép! Nhưng sau này chớ nên gởi tới một chữ nào nữa, gởi đến quyết không trả lời! Ông đi đường ông, tôi giữ chí tôi! Huống chi Quang sẽ chết trong sớm - tối, nào còn dám xen vào chuyện người khác! Vì sao biết tượng Đại Bi Chú[19] là ngụy tạo? Bởi lẽ chú có vô lượng nghĩa lý, sao có thể lấy một tượng làm chuẩn được? Chú ấy do đức Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Phật[20] nói ra trong vô lượng kiếp trước, sao lại cũng nhắc tới đệ tử của Phật Thích Ca là A Nan? Sao lại còn nhắc đến Mã Minh, Long Thọ là những vị chỉ xuất hiện sau khi đức Phật Thích Ca đã nhập diệt? Đại Bi Sám Nghi của Tứ Minh Pháp Trí đại sư[21] người ta không thấu hiểu được, cứ thường coi trọng hình tượng, đủ thấy Tăng sĩ đời sau phần nhiều không hiểu rõ giáo lý!

Ông đã coi trọng trì luật thì hãy nên đọc phần nói về mười tám món vật trong các bản chú sớ kinh Phạm Võng, cần gì Quang phải nói tường tận từng món nữa đây? Ông soạn bài kệ rất hay, nhưng có chỗ hơi không thích đáng lắm, tôi sửa đổi đôi chút. Hãy nên lấy những lời lẽ sám hối của cổ nhân làm chuẩn, bởi những thứ do con người hiện thời soạn ra từ ngữ lẫn lý lẽ hoàn toàn chẳng được châu đáo như cổ nhân. Ông đi hành cước há nên gởi tiền cho Quang! Tính gởi sách cho ông, lại sợ ông đã khởi đơn[22] không có chỗ nhất định, không biết gởi sách về đâu, cũng như do ông du hành mang vác vất vả nên chẳng gởi nữa!

 

12. Thư trả lời đại sư Ứng Thoát (thư thứ ba)

 

Nam-mô A Di Đà Phật chính là danh hiệu đức giáo chủ Tây Phương Cực Lạc thế giới. Gã ma con tên X… bèn y theo cách giải thích của gã ma con trước kia để phô trương ầm ĩ, muốn cho hết thảy những kẻ mù lòa khen hắn là bậc đại ngộ, nên mới tạo ra thứ ma thuyết ấy. Người mắt sáng trông thấy biết hắn bị ma dựa, mất trí điên cuồng, chẳng y theo những gì kinh Phật đã dạy, xằng bậy thêm thắt lời ma.

Sao ông chẳng biết A Di Đà kinh đã dạy: “Xá Lợi Phất! Ý ông nghĩ sao? Đức Phật ấy vì sao hiệu là A Di Đà? Này Xá Lợi Phất! Đức Phật ấy quang minh vô lượng chiếu mười phương cõi không bị chướng ngại nên hiệu là A Di Đà. Lại này Xá Lợi Phất! Đức Phật ấy và nhân dân của Ngài thọ mạng vô lượng vô biên A Tăng Kỳ kiếp nên tên là A Di Đà”. Đấy là những lời đức Phật Thích Ca đã nói, gã ma tử X… chẳng noi theo [lời Phật] mà dựa theo lời gã ma con trước kia đã nói, há chẳng phải là quyến thuộc của ma vương, thật sự là báng pháp ư? Nếu gởi những câu nói ấy cho người khác thì đời sau chẳng đọa địa ngục cũng sẽ mù mắt! Nếu ông chẳng hủy diệt sách ấy thì cũng sẽ mù mắt!

Nay tôi giải thích đại lược cho ông, sáu chữ “Nam-mô A Di Đà Phật” đều là tiếng Phạn. Nam Mô cũng có khi viết là Nẵng Mồ, trong kinh thường dùng chữ Nam Mô, ở đây dịch là “cung kính, quy mạng, đảnh lễ” v.v… Hai chữ ấy nhằm biểu thị trực tiếp ý nghĩa cung kính quy y. A Di Đà Phật cõi này dịch là Vô Lượng Thọ, còn dịch là Vô Lượng Quang, ý nói đức Phật này quang minh lẫn thọ lượng đều vô lượng. Gã ma con tên X… nọ chẳng dựa theo lời của Phật, Bồ Tát, tổ sư đã nói, ngược ngạo y theo lời gã ma con kia nói, gã ấy còn chưa đáng là bậc chánh nhân quân tử, huống hồ đáng gọi là thiện tri thức ư?

Hiện tại tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng, chỉ nên tự biết, đừng nên tranh biện với chúng nó. Vì sao vậy? Chúng nó muốn nhờ vào đấy để được danh văn, lợi dưỡng, chẳng những không chịu thuận theo mà trái lại còn tăng thêm sức ma của chúng nó. Nhẹ là hủy báng cho sướng miệng, nặng là bị hãm hại ngấm ngầm, chẳng thể không biết [điều này]! Giác Sách Biểu vẫn là khuyên người khác niệm Phật, bài thơ ấy cũng không nêu rõ được ý nghĩa sâu mầu nào! Đọc thơ của ông ta, sao bằng đọc thơ của Trung Phong quốc sư, Sở Thạch đại sư, Tỉnh Am pháp sư?

 

13. Thư trả lời đại sư Ứng Thoát (thư thứ tư)

 

      Người tu Tịnh nghiệp cần phải nghiêm trì tịnh giới, sanh lòng tin chân thật, phát nguyện thiết tha, chí thành cung kính trì danh hiệu Phật, bất luận niệm ra tiếng hay niệm thầm, đều phải nhiếp tai lắng nghe. Thường nghe thấy tiếng niệm Phật, tâm sẽ tự quy nhất. Cách này ổn thỏa, thích đáng nhất, bất luận thượng trung hạ căn đều được lợi ích, trọn không lo bị bệnh. Nay gởi cho ông hai gói Ngũ Kinh, Thập Yếu v.v… mong hãy đọc kỹ sẽ tự biết sự sâu xa, rộng lớn của pháp môn, chẳng đến nỗi bị tri thức các tông khác lay chuyển, lung lạc. Quang già rồi, mục lực chẳng đủ, từ rày đừng gởi thư đến nữa. Gởi đến quyết không trả lời, vì mục lực chẳng thể thù tiếp nổi!

 

14. Thư trả lời sư Minh Tâm

 

      Bế quan chuyên tu Tịnh nghiệp thì hãy nên lấy niệm Phật làm Chánh Hạnh. Khóa sáng vẫn chiếu theo lệ thường tụng Lăng Nghiêm, Đại Bi, Thập Tiểu Chú. Nếu không thuộc chú Lăng Nghiêm thì chẳng ngại gì hằng ngày cứ xem kinh mà tụng. Đến khi thật thuộc rồi hãy niệm thuộc lòng. Khóa tối thì kinh A Di Đà, Đại Sám Hối, Mông Sơn cũng phải thường niệm hằng ngày. Ngoài ra, nên niệm Phật từ sáng đến tối, đi - đứng - nằm - ngồi thường niệm.

Lại lập một quy củ, sáng niệm một lần; trước khi chưa niệm, lạy bao nhiêu đó lạy (trước hết lạy Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ba lạy, rồi lạy A Di Đà bao nhiêu đó lạy, rồi lễ Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng mỗi vị ba lạy, rồi lễ thường trụ thập phương hết thảy chư Phật, hết thảy tôn pháp, hết thảy hiền thánh tăng ba lạy). Hoặc niệm Phật một ngàn tiếng, hoặc nhiều hơn hay ít hơn. Niệm xong lại lễ chừng đó lạy, buổi sáng một lần, buổi chiều một lần, rồi nghỉ một khắc để tụng khóa tối, đầu hôm niệm Mông Sơn, sau đó niệm Phật bao nhiêu đó tiếng, lễ bao nhiêu đó lạy, phát nguyện hồi hướng, tam quy y xong, trong tâm thầm niệm Phật hiệu để dưỡng hơi. Lúc nằm chỉ nên niệm thầm trong tâm, đừng nên niệm ra tiếng. Niệm ra tiếng sẽ tổn khí, lâu ngày sẽ thành bệnh. Dẫu là ngủ nghỉ trong tâm vẫn thường giữ lòng cung kính, chỉ cầu tâm chẳng rong ruổi theo bên ngoài, niệm niệm tương ứng với Phật hiệu. Nếu tâm khởi lên tạp niệm, liền lập tức nhiếp tâm kiền thành niệm, tạp niệm sẽ diệt ngay.

Đừng nên mù quáng dấy lên vọng tưởng, mong đắc thần thông, đắc duyên pháp, được tiếng tăm, mong xây chùa dựng miếu. Nếu có những thứ ý niệm ấy, lâu ngày chầy tháng ắt sẽ bị ma dựa. Nếu chẳng nói toạc những điều này với ông, sợ rằng ông sẽ tưởng những ý niệm ấy là tốt, vọng tưởng ngày ngày tăng trưởng, chắc chắn sẽ bị ma dựa không còn ngờ chi! Dẫu cho tâm đã tịnh, vọng bị khuất phục, cũng chớ nên sanh lòng hoan hỷ, tự khoe khoang với người khác, có một phần bèn nói tới mười phần, đấy cũng là cái gốc để bị ma dựa! Phàm có ai đến thăm, đều khuyên người ấy niệm Phật cầu sanh Tây Phương.

Lại còn gặp cha nói Từ (nghĩa là dạy con noi theo đạo “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ” để hành, đấy gọi là Từ. Nếu nuông chiều chẳng dạy dỗ, dạy cho con học thói hư hỏng thì gọi là Hại, chứ chẳng gọi là Từ được! Chuyện này người đời trong trăm kẻ có đến chín mươi chín kẻ không biết. Vì thế, biến thành thời thế tàn sát lẫn nhau này. Nếu như ai nấy đều dạy con đúng đạo thì thế đạo thái bình, chẳng có người xấu. Những kẻ xấu đều là do cha mẹ chúng nó dưỡng thành, tiếc rằng không có ai đề xướng, người biết quá ít, chẳng đáng tiếc lắm thay!), gặp con nói hiếu, gặp anh nói yêu thương, gặp em nói cung kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành, ai nấy trọn hết chức phận, sẽ là thiện nhân. Lại phải nói với phụ nữ (mà cũng nên nói với nam giới): Phải dạy cho con gái tánh tình mềm mỏng, hòa hoãn từ bé, dẫu gặp chuyện không vừa ý cũng chẳng nổi nóng. Tập quen thành tánh, chẳng những vô cùng có lợi cho chính mình mà gia đình cũng được hòa thuận tốt lành, con cái ắt sẽ chẳng chết yểu, tánh tình hiền thiện, nước nhà vui mừng có được hiền tài.

Nữ nhân tánh tình quá nóng nảy sanh con phần nhiều bị chết hoặc lắm bệnh. Bởi lẽ, hễ nổi đóa lên, sữa liền biến thành chất độc. Nóng giận quá mức, cho con bú nó chết ngay lập tức. Bớt nóng hơn một chút thì nửa ngày sau, một ngày sau nó mới chết. Hơi nóng giận thì con không chết, nhưng chắc chắn cũng sanh bệnh. Đấy chính là sự lý nhất định không thay đổi được! Giới y khoa nước ta trọn chẳng hề nhắc đến, do vậy Quang phải nói rõ điều này. Do hiện tại thời cuộc chẳng yên ổn, đường sá ngăn lấp, không cách nào lưu truyền rộng rãi, cho nên nói với ông và Thanh Thái, phàm những ai học Y hãy đều nên nói với họ [điều này], mỗi năm sẽ cứu được vô số trẻ thơ: Trong khoảnh khắc nhất định phải chết hay bị bệnh, sẽ được an lành, không bệnh tật, nên người. Công đức phóng sanh lớn lao, nhưng chuyện này công đức so ra còn lớn hơn phóng sanh nữa! Dùng công đức này để hồi hướng vãng sanh, chắc chắn được mãn nguyện. Có ai thường chịu nói [điều này] với hết thảy mọi người thì cũng vun bồi công đức không gì lớn bằng! Do ông biết y thuật, đây là chuyện cứu người từ căn bản, là pháp lành không có hình tích gì để thấy được. Nhân sĩ trong quê tôi trọn chưa thấy nghe lời này. Ông có thể nói với những người quen biết ắt sẽ có thể từ một truyền mười, mười truyền trăm, cho đến ngàn vạn vô tận vậy!

Nghi thức nhập quan (bắt đầu bế quan) cũng không có quy cách nhất định, nói chung lấy cung kính chí thành làm chủ. Cần phải trong ngày hôm trước đó lễ Phật tỏ bày chí nguyện của chính mình, ngay hôm ấy sẽ lễ Phật nơi đại điện, đến quan phòng (nơi bế quan) bảo người hộ quan khóa cửa. Trên cửa [quan phòng] dán một tờ thiếp (Bất Huệ minh tâm, phát tâm bế quan, chuyên tu Tịnh nghiệp, khắp vì mình người sám trừ lỗi cũ, tăng trưởng thiện căn), viết hai hàng chữ trên một tờ giấy, dán ngay chính giữa trên ô cửa, không cần phải bắt chước kẻ không hiểu sự: Dùng phong bì hình chĩa ba, viết những điều [thệ nguyện] để niêm phong [cửa quan], thô kệch đến cùng cực! Thời hạn do mình chọn lựa, cũng chớ nên thỉnh người khác đến niêm phong cửa quan phòng. Những kiểu ấy đều là những kiểu cách bày vẽ rỗng tuếch, Quang hết sức chẳng thấy như vậy là đúng!

 

15. Thư trả lời đại sư Minh Tánh

     

      Nhận được thư đầy đủ cả. Khen ngợi tôi quá lố khiến cho người ta bất an! Quang làm người, lòng nghĩ thế nào miệng nói toạc ra như thế ấy, chẳng khen ngợi người khác quá lố, chẳng nhận tiếng khen của người khác. Tuổi tuy tám mươi nhưng chẳng biết một điều gì! Vì thế, chỉ lấy niệm Phật làm phương kế tự giải thoát, nhưng do nghiệp nặng, trọn chẳng có sở đắc gì, do có sáu chục năm trải đời nên những lời nói ra chẳng đến nỗi chán tai người khác! Tọa hạ đã chẳng coi rẻ Văn Sao là hủ bại, dơ bẩn, thì hãy nên y theo những gì Văn Sao đã nói để tu tập, quyết chẳng đến nỗi làm hỏng đại sự của ngài. Còn như chuyện đến núi thì quả thật không cần thiết! Pháp môn Tịnh Độ trọn chẳng có chuyện “miệng truyền, tâm trao”, tùy ý để người khác tự hành lãnh hội từ nơi kinh giáo, trước thuật, không có gì là không được cả!

Chín vị tổ của Liên Tông không phải là mỗi vị đều được đích thân truyền ngôi vị Tổ như trong các tông mà là do người đời sau chọn lựa dựa trên công lao hoằng dương Tịnh tông sâu đậm của các Ngài mà xưng tụng như thế, chứ thật ra đâu phải chỉ có chín hay mười vị! Quang sau khi xuất gia, phát nguyện chẳng thâu nhận đồ chúng, chẳng làm Trụ Trì, chẳng làm giảng sư, cũng chẳng tiếp nhận pháp[23] của người khác. Vào thời Đường - Tống vẫn còn có pháp truyền tâm ấn của Phật, chứ nay chỉ còn dòng phái các đời [truyền thừa] mà thôi, gọi là “pháp” cũng đáng tội nghiệp quá! Tịnh tông trọn chẳng có chuyện ấy.

Đến núi vẫn chẳng hữu ích bằng đọc sách! Cổ nhân nói: “Gặp mặt chẳng bằng nghe tên”. Dẫu có đến đây thì những gì tôi sẽ nói với tọa hạ vẫn là những lời lẽ trong Văn Sao, nào có bí pháp đặc biệt sâu mầu nào đâu? Mười mấy năm trước, cuối lá thư gởi cho Ngô Bích Hoa, tôi đã viết: “Có một bí quyết tha thiết bảo ban: Cạn lòng thành, tận lòng kính, mầu nhiệm vô cùng!” Hơn nữa, cuối chương Thế Chí Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm có nói: “Phật hỏi pháp Viên Thông, con không chọn lựa, nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc Tam Ma Địa, ấy là bậc nhất”. “Không chọn lựa” là dùng trọn khắp Căn, Trần, Thức, Đại để niệm Phật. Niệm Phật cậy vào Phật lực để liễu sanh tử, nhà Thiền cậy vào tự lực để liễu sanh tử. Người đời nay ngộ được còn chẳng thấy nhiều, huống là bậc chứng Tứ Quả (Tạng giáo[24]) và Thất Tín (Viên giáo[25]) ư? (Tứ Quả, Thất Tín mới liễu sanh tử). Chỗ để thực hiện “nhiếp trọn sáu căn” là nơi nghe. Bất luận niệm lớn tiếng hay niệm nhỏ tiếng, hoặc chẳng mở miệng niệm thầm trong tâm, đều phải nghe từng câu từng chữ cho rành rẽ. Đấy chính là bí quyết niệm Phật. Ba thứ Tín - Nguyện - Hạnh là cương yếu của Tịnh Độ. “Nhiếp trọn sáu căn” là bí quyết niệm Phật. Biết được hai điều này rồi thì chẳng cần phải hỏi ai nữa!

 

16. Thư trả lời pháp sư Nghĩa Thông (thư thứ nhất)

 

      Nhận được thư, biết tâm Sư hoằng pháp, bảo vệ đạo hết sức sâu đậm, thiết tha, khôn ngăn khiến người khác ngưỡng mộ khôn cùng! Trong cõi đời hiện thời, thổ phỉ thấy người khác có chút tích cóp thì nếu chẳng cướp đoạt cũng sẽ bắt cóc. Cô trinh nữ là phận gái, những người cùng sống đều là nữ giới, đang trong lúc loạn lạc cùng cực không có luật lệ này, lẽ đương nhiên nên tu ròng tịnh hạnh, há nên bỏ gốc theo ngọn, chú trọng xây cất ư? Pháp sư Tánh Nguyện, đại sư Giác Viên và tọa hạ sao đều chẳng nghĩ tới điều này? Mẹ ông Lý Tuấn Thừa đã chôn trong mộ rồi, bọn thổ phỉ còn đào lên, khiêng đi, bắt phải chuộc. Nếu chẳng phải do cha mẹ ông ta và chính ông ta ăn ở có tình nghĩa sâu đậm với địa phương thì có ai ở Tổng Thương Hội Nam Dương chịu đánh điện xin chánh phủ ra lệnh cho bọn chúng giao trả; chớ nếu phải chuộc, chẳng biết sẽ phải tốn bao nhiêu vạn!

[Nay tôi] tính kế cho cô trinh nữ họ Trần: Đã đến Nam Dương, đã khai duyên (tức đã bỏ ra tiền để cúng dường xây dựng) thì duyên ấy hãy nên thâu lại, tạm giữ trong ngân hàng nào đáng tin cậy, đợi đến khi đại cuộc ổn định một chút, thổ phỉ chẳng tác oai tác quái, sẽ lại xây dựng cũng chưa muộn. Tại Nam Kinh, Dương Châu, phàm là chùa, miếu, ni am hay nhà người ta đều có lính đóng, bị chúng nó chà đạp chẳng thể dùng lời lẽ nào hình dung được. Chùa Pháp Vân ở Nam Kinh đã quyên mộ được bốn vạn tám chín ngàn đồng, tính cất đại điện trước, Quang cực lực ngăn trở, may là chưa xây. Nếu đã xây sẽ thành chỗ đóng quân, nhưng Cô Nhi Viện đã có lính đóng rồi. Những kẻ trước đó oán trách Quang ngăn cản, tới khi gần đây mới biết Quang thấy không lầm, mới chấp nhận là Quang biết nhìn xa.

Tọa hạ cùng pháp sư Tánh Nguyện, pháp sư Giác Viên chưa nghĩ đến điều này là vì người trong cuộc thì quáng vậy! Quang thì đạo đức, học vấn, văn chương vạn phần chẳng bằng được tọa hạ một phần, nhưng ăn cơm nhiều hơn tọa hạ ba mươi sáu năm (sống uổng sáu mươi tám năm), sự từng trải sâu hơn tọa hạ một chút. Đã là bạn bè trong pháp môn thì phải trọn hết tình bạn; cho nên đôi co một phen. Nếu hiểu là Quang chẳng muốn thành tựu chuyện tốt đẹp của người khác thì cũng chỉ đành cười khì mà thôi!

 

17. Thư trả lời pháp sư Nghĩa Thông (thư thứ hai)

 

      Nhận được thư, biết tâm hoằng pháp, bảo vệ đạo hết sức sâu đậm, thiết tha khiến người khác kính ngưỡng khôn cùng, nhưng khen ngợi Bất Huệ quá lố, chưa khỏi mắc lỗi khiến người khác sái lẽ thường! Quang vốn là một con nộm đầu gỗ ngoan cố, viễn vông, hủ bại, thiếu những hiểu biết thông thường, là kẻ còn sống mà như đã chết rồi. Há nên khen ngợi quá lố như thế? Chẳng những khiến Quang mang tội, mà tọa hạ cũng chẳng thể không mang tội vậy. Cổ đức nói: “Ví như đất trên đường quan, có một người nắn thành hình tượng. Kẻ ngu cho là do Phật sanh, người trí biết là đất trên đường, một mai quan muốn đi, hủy tượng để đắp đường, tượng vốn chẳng sanh diệt, đường cũng vẫn như cũ!” Chỉ nên mặc cho người ta gọi là trâu hay ngựa, cứ tự giữ bổn phận của cục đất ngoan cố thiếu hiểu biết thông thường trên đường vậy!

      Ông Diệp Huệ Nhãn thoạt đầu chưa mở huệ nhãn, lầm lạc xin quy y, sau này huệ nhãn rộng mở, bèn coi Quang như đất trên đường. Tọa hạ nói [ông ta] là cao túc đệ tử của Quang là vì chưa biết tâm ông ta mà nói vậy. Lý Huệ Giác đã do Diệp Huệ Nhãn giới thiệu, đã là bạn xướng họa thơ văn lâu ngày, gặp mặt trò chuyện ắt sẽ hoan hỷ chấp thuận, cần gì phải dùng lá thư một vạn chữ, lại gởi qua cho Quang để Quang gởi đi giùm? Đấy là vì tọa hạ vốn chưa hiểu rõ chí hướng của ông ta mà ra vậy. Ông ta vốn ngưỡng mộ tọa hạ gấp vạn lần Quang; nếu đã sớm gặp được tọa hạ mấy năm trước đây, há chịu khuất mình theo bức tượng nặn bằng đất trên đường? Nhưng ông ta ăn ở vẫn còn như bát nước đầy, tuy biết Quang là đất trên đường, rốt cuộc vẫn chẳng có ý tưởng thị phi! Còn như ông ta gởi cho Quang năm ngàn đồng toàn là do ông ta tự phát tâm, Quang trọn chẳng hề khuyên dụ một chữ nào!

Thoạt đầu là [gởi] hai ngàn đồng để làm Phật sự cho cha mẹ ông ta và làm những thứ công đức khác. Sau đó là ba ngàn đồng đều dùng để in sách. Quang một mực chẳng hướng về người khác mộ duyên. Chùa Pháp Vân ở Nam Kinh do các ông như Ngụy Mai Tôn v.v… phát khởi, đặt Quang làm Hội Trưởng danh dự, mua được bốn trăm bốn mươi mẫu đất trống, dựng tạm mười mấy gian. Sau đấy liền đào chín cái ao phóng sanh. Lại mở Cô Nhi Viện đã được ba năm rồi, cô nhi hơn trăm đứa. Hiện tại, chùa Pháp Vân vẫn chưa chánh thức xây dựng, Quang chưa nói với một đệ tử nào bảo họ bỏ ra ngần ấy tiền để xây cất chùa Pháp Vân hoặc làm kinh phí cho Cô Nhi Viện. Có kẻ chẳng thương tình, xin Quang mộ duyên giùm, Quang bèn tùy theo sức mình mà giúp đỡ, trọn chưa hề giới thiệu cho một ai.

Tọa hạ cùng Lý Huệ Giác đã là bạn thân thiết trong pháp môn, tôi sẽ đem thư của tọa hạ kẹp vào gói sách, gởi thư bảo đảm cho ông ta, lại còn lược thuật đại ý, ắt ông ta sẽ ngưỡng mộ tấm lòng vì pháp của tọa hạ mà phát tâm xả thí lớn lao. Hơn nữa, Quang chẳng thích tâng bốc người khác quá mức, cũng chẳng thích bị người khác tâng bốc quá lố. Tọa hạ đừng làm văn, làm thơ gởi tặng ngõ hầu mọi chuyện đều được thích đáng thì may mắn lắm thay!

 

18. Thư trả lời hòa thượng Truyền Độ

 

      Nhận được khôn ngăn cảm động, hổ thẹn. Hơn ba mươi năm qua tọa hạ đã khiến cho Ô Vưu[26] rạng rỡ như mới, còn Quang suốt mấy chục năm qua chỉ ở đậu, theo đại chúng ăn cơm trong chùa người ta mà thôi. Soạn được hai cuốn Văn Sao, văn từ hết sức chất phác, kém cỏi, chỉ là chuyện bị ép vào thế bất đắc dĩ, đành tắc trách cho xong, nào đáng được khen ngợi quá lố? Đại Sĩ Tụng, Văn Sao vào mùa Xuân năm sau sẽ gởi tới mấy gói để mong kết duyên. Hiện thời đã có người đặt khá nhiều, chẳng thể tặng khắp những ai hữu duyên, phải gởi hết cho những người đặt mua trước đã. Văn Sao bản mới còn chưa sắp chữ xong, có lẽ sẽ bắt đầu in trong năm. Sách này lại tăng thêm mấy chục thiên, bài văn về quý tự cũng được thêm vào trong số ấy.

Bế quan tu Tịnh nghiệp quả thật rất tốt, nhưng cần phải một lòng dốc sức nơi tín nguyện nhất tâm, chớ nên dốc sức nơi thấy tịnh cảnh hay thấy Phật! Nếu chẳng khéo dụng tâm, chỉ muốn mau thấy tịnh cảnh, chỉ vì vọng niệm ấy cố kết không cởi gỡ được, mỗi ngày một sâu hơn, chỉ do vọng niệm ấy ắt sẽ khiến cho oán gia trong đời trước biến hiện tịnh cảnh, đợi cho ông thấy xong, sanh lòng hoan hỷ lớn lao, ma sẽ thừa dịp xâm nhập, chẳng thuốc gì chữa được! Hãy nên đem lời khích lệ này để bảo ban.

Còn nói đến chuyện niệm Quán Âm để cầu sanh Tây Phương thì có gì là không được? Chẳng thấy kinh Lăng Nghiêm nói: “Cầu vợ được vợ, cầu con được con, cầu phú quý được phú quý, cầu trường thọ được trường thọ, như thế cho đến cầu đại Niết Bàn sẽ đắc đại Niết Bàn” đó ư? Đại Niết Bàn là lý thể chứng được khi thành Phật. Rốt ráo thành Phật mà còn đạt được, huống hồ vãng sanh Tây Phương ư? Hơn nữa, Quán Âm và Di Đà đều cùng làm một chuyện độ sanh, nào có phân biệt? Nhưng cũng phải sáng tối niệm Phật thì sự lý mới viên dung! Chẳng thấy trong kinh Đại Bi, đức Quán Âm dạy người lễ bái, trì chú thì trước hết phải niệm danh hiệu A Di Đà Phật đó sao?

 

19. Thư trả lời pháp sư Trần Không (thư thứ nhất)

 

      Hôm qua nhận được thư và lời dặn dò viết bài đề từ về chuyện sáng lập Liên Xã để khích lệ mọi người v.v… Nay đã viết xong, sẽ gởi cùng [với thư này] để Sư xem xét thâu nhận. Tọa hạ hoằng hóa phần nhiều xiển dương kinh điển Tịnh tông; pháp môn Tịnh Độ lý cực cao sâu, sự cực giản dị: Do chúng ta luân hồi trong sanh tử đã trải kiếp dài lâu, đã tạo ác nghiệp vô lượng vô biên, nếu cậy vào sức tu trì của chính mình mà muốn diệt sạch phiền não Hoặc nghiệp để liễu sanh thoát tử sẽ khó hơn lên trời! Nếu có thể tin tưởng pháp môn Tịnh Độ của đức Phật, dùng lòng tin chân thành, nguyện thiết tha niệm danh hiệu A Di Đà Phật cầu sanh Tây Phương thì bất luận nghiệp lực lớn hay nhỏ, đều có thể cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Chỉ mong tọa hạ mỗi ngày giảng kinh xong, sẽ suất lãnh đại chúng niệm Phật một tiếng đồng hồ, hồi hướng thế giới hòa bình, nhân dân yên vui, đừng bàn luận nhiều những điều huyền diệu.

Nay thế đạo nhân tâm đã suy hãm đến cùng cực, thiên tai, nhân họa, giặc cướp đầy dẫy, nếu chẳng dùng nhân quả, báo ứng, sanh tử, luân hồi để giáo huấn, quyết khó thể nào đạt được hiệu quả. Nên biết rằng: Sự lý nhân quả ba đời, sanh tử, luân hồi do đức Phật ta đã nói chiếu rạng ngời như mặt trời, mặt trăng, là đuốc huệ trong đêm dài vô minh; giảng kinh, niệm Phật, hồi hướng cầu sanh thế giới Cực Lạc chính là thuyền Từ trong biển khổ sanh tử, muốn vãn hồi kiếp vận mênh mông này mà bỏ pháp này thì không còn nhờ vào đâu được nữa! (Ngày Hai Mươi Hai tháng Giêng năm Dân Quốc 26 - 1937).

 

20. Thư trả lời pháp sư Trần Không (thư thứ hai)

 

      Từ tháng Giêng cho đến tháng Bảy nhận được bốn lá thư và bản thảo cuốn Liên Tông Tam Chủng Hiệt Yếu (ba thứ trích yếu trong Liên tông), bản thảo cuốn Tịnh Độ Tam Tự Kinh, và thư của ông Châu Lập Tri giới thiệu ông Đàm Hạo Nhiên xin quy y v.v… đủ chứng tỏ tâm Ngài tha thiết vì pháp, có lòng yêu mến tôi sâu xa. Tôi đã dặn [Hoằng Hóa Xã] gởi hai mươi gói Tịnh Độ Thập Yếu, hai mươi gói Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, mười gói Sơ Cơ Tiên Đạo (hướng dẫn ban đầu cho kẻ sơ cơ), hai mươi gói Kỹ Lộ Chỉ Quy (chỉ đường về nơi ngã rẽ), hai mươi gói Vật Do Như Thử (loài vật còn như thế), mười gói Bát Đức Tu Tri (những điều nên biết về tám đức), mười gói Tam Kinh Chú (chú giải ba kinh Tịnh Độ) và Công Dư Tu Dưỡng (tu dưỡng trong khi rảnh rỗi việc công), tổng cộng là một trăm mười gói, đã đem ra bưu điện gởi sang đất Kiềm (Quý Châu). Khoản tiền gởi đến là năm trăm hai mươi đồng đã giao cho nhà in.

Hai cuốn sách Liên Tông Tam Chủng Hiệt Yếu và Tịnh Độ Tam Tự Kinh do tọa hạ đã biên soạn phương pháp rất hay, ý tưởng rất tuyệt, đơn giản, thẳng chóng, sáng sủa, tùy theo căn cơ lập cách giáo hóa, có thể nói là những điều trọng yếu nhất của những điều trọng yếu trong Tịnh tông, hãy mau chóng cho in ra lưu thông để được truyền bá rộng rãi, khiến cho khắp những ai trông thấy đều thọ trì, làm chiếc bè báu để độ sanh, làm tư lương trở về Lạc Bang, chẳng phụ bi tâm vô lượng của tọa hạ.

Đối với chương trình đơn giản ở Quý Lâm thì không nhất định phải chiếu theo chương trình tổ chức của Linh Nham mà hãy nên chiếu theo [đặc điểm] của địa phương để tùy theo căn cơ lập cách, chiếu theo thời thế, tình người mà sửa đổi, vạch ra chương trình. Đức Thế Tôn chế luật, tổ sư định Thanh Quy để nhằm làm cho người học có cái để vâng giữ trong bảy chi, bốn oai nghi[27] vậy. Gần đây, nước nhà gặp nạn đến mức nghiêm trọng, tọa hạ hoằng hóa, phần nhiều hãy nên xiển dương nhân quả, báo ứng, chỉ dạy, giảng nói tường tận đường lối giáo dục trong gia đình để các đồng nhân ấy đều giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, đánh đổ lòng ham muốn xằng bậy của chính mình để khôi phục lễ nghĩa, đừng làm các điều ác, vâng giữ những điều lành, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương, ắt sẽ sống thì dự vào bậc hiền thánh, chết sẽ về cõi Cực Lạc. Phương tiện khuyên chỉ, sẽ thấy hiền tài dấy lên đông đảo, kiếp vận tiêu ngay, thiên hạ thái bình, nhân dân yên vui (Ngày Hai Mươi tháng Bảy năm Dân Quốc 28 - 1939).

 

21. Thư trả lời hòa thượng Bỉnh Sơ

     

      Phật pháp pháp nào cũng viên thông, nếu dùng tâm chí thành thọ trì ắt có cảm ứng chẳng thể lường được! Chỉ có niệm Phật, niệm Quán Âm là dễ cảm thông nhất, những kẻ bình dân không ai chẳng biết đến sự cứu khổ cứu nạn của Quán Âm Đại Sĩ. Hãy nên bảo Chí Thoát ăn chay trường, hằng ngày lễ niệm “Nam-mô A Di Đà Phật” và niệm thánh hiệu “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát” ắt sẽ có cảm ứng. Nay đặt pháp danh cho [Chí Thoát] là Thông Sướng, nghĩa là niệm thánh hiệu ngõ hầu túc nghiệp tiêu diệt, tâm địa thông đạt, lời lẽ thông suốt vậy. Sáng tối niệm Phật bao nhiêu đó câu, niệm Quán Âm cũng chừng đó. Ngoài ra thì từ sáng đến tối chuyên niệm Quán Âm (bất luận niệm ra tiếng, niệm thầm, đều phải dùng tai lắng nghe, hễ nghe thì công đức càng lớn. Đi, đứng, nằm, ngồi đều niệm được. Khi nằm và lúc áo mũ không chỉnh tề, chưa rửa tay, súc miệng thì đều nên niệm thầm).

Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Quán Âm nói: “Ta đắc Phật tâm, chứng nơi rốt ráo, có thể dùng trân bảo đủ mọi cách cúng dường mười phương Như Lai cùng với pháp giới lục đạo chúng sanh, cầu vợ được vợ (cầu vợ là cầu được người vợ hiền thiện), cầu con được con, cầu tam-muội được tam-muội, cầu trường thọ được trường thọ, như thế cho đến (từ ngữ “như thế cho đến” bao gồm hết thảy những điều mong cầu) cầu đại Niết Bàn đắc đại Niết Bàn”. Đại Niết Bàn là Phật quả rốt ráo mà còn có thể cầu được, huống là những chuyện nhỏ nhặt khác mà chẳng thể được ư? Hãy nên phát tâm tự lợi, lợi tha, tùy theo lòng thành của người mong cầu và sự tinh thuần của hạnh ấy lớn hay nhỏ mà được cảm ứng [lớn hay nhỏ]. Nếu muốn làm chuyện ác mà cầu Bồ Tát thì chẳng những không được phước mà còn mắc họa lớn. Phàm hết thảy những bệnh thuốc men chẳng thể trị được đều dùng thuốc A Già Đà một vị này để chữa trị (ngày mồng Năm tháng Tám năm Dân Quốc 29 - 1940)

 

22. Thư trả lời pháp sư Tông Linh

 

      Phàm những ai có tâm đều có thể thành Phật, há nên nói kẻ mù, điếc, câm, ngọng chẳng được vãng sanh? Phật nói đến “mù, điếc, câm, ngọng” trong tám nạn, ngụ ý những tật ấy [khiến cho người đó] khó thể nhập đạo mà thôi! Nếu có thể chuyên ròng niệm Phật, tuy người điếc chẳng thể nghe kinh và nghe thiện tri thức khai thị, người mù chẳng thể xem kinh, rốt cuộc nào trở ngại gì đâu? Người câm không có tiếng, kẻ ngọng cũng không nói [gãy gọn] được, nhưng trong tâm niệm thầm vẫn có thể đích thân đạt được Niệm Phật tam-muội trong đời này, lâm chung lên thẳng chín phẩm; há nên nói những người ấy chẳng thể vãng sanh? Những người ấy chẳng sốt sắng niệm Phật thì chẳng thể vãng sanh, chứ không phải là những người ấy dù niệm Phật cũng chẳng được vãng sanh! Còn người tàn phế thiếu tay thiếu chân thì cũng giống như kẻ mù, điếc, câm, ngọng.

Nói [kẻ mù, điếc, câm, ngọng chẳng thể được vãng sanh] như thế ấy là vì hiểu lầm bài kệ trong Vãng Sanh Luận mà ra! Kệ nói: “Đại Thừa thiện căn giới, đẳng vô cơ hiềm danh, nữ nhân cập căn khuyết, Nhị Thừa chủng bất sanh” (cõi thiện căn Đại Thừa, bình đẳng không có những danh từ đáng chê trách, nữ nhân và thiếu căn, giống Nhị Thừa chẳng sanh), chính là nói “Tây Phương Cực Lạc thế giới là thế giới của những người mang thiện căn Đại Thừa sanh về, trọn chẳng có những danh tự có thể gây nên chê bai hoặc có thể gây nên sự chán ghét”. [Hai câu] tiếp đó liệt kê một số những danh tự có thể gây nên sự chê bai như “nữ nhân, người sáu căn chẳng đủ, và hạng người Nhị Thừa Thanh Văn, Duyên Giác”. Do vậy: “Nữ nhân cập căn khuyết, Nhị Thừa chủng bất sanh” nghĩa là Tây Phương không có nữ nhân, người sáu căn chẳng hoàn bị và hàng Nhị Thừa (Tây Phương tuy có danh tự “thánh nhân Tiểu Thừa” nhưng đều thuộc hàng phát tâm Đại Thừa, trọn chẳng có hàng Thanh Văn, Duyên Giác không phát tâm Đại Thừa), chứ không phải nói đến những người tu hành để vãng sanh thế giới ấy. Người thiếu trí huệ tưởng rằng những hạng người ấy chẳng được vãng sanh Tây Phương, lầm lẫn quá lớn!

Tay phải ông bị thương tật là do ác nghiệp sát hại chúng sanh trong đời trước chiêu cảm, hãy nên chí thành khẩn thiết niệm Phật để hồi hướng cho những oán gia trong đời trước ấy, ngõ hầu họ được siêu sanh Tịnh Độ. Nếu có thể thường niệm, nghiệp sẽ tự tiêu diệt! Nghiệp tiêu thì bệnh lành, cần gì phải cưa tay? Dẫu cưa tay cũng chẳng thể tiêu nghiệp được! Hãy nên tuân theo lời tôi, tích cực niệm Phật. Lại còn niệm thêm Quán Thế Âm Bồ Tát chắc chắn chưa đầy một năm tay sẽ lành hẳn. Ông gây nên tà thuyết thượng hạng, hại người vô lượng, hãy nên biết lấy. Hơn nữa, trong tâm tín căn lẫn nguyện căn không đủ sẽ chẳng thể vãng sanh, chứ không phải là kẻ thân thể chẳng đầy đủ sẽ chẳng thể vãng sanh. Ông đọc bộ Văn Sao của tôi sao không biết đến nghĩa này?

 

23. Thư trả lời hòa thượng Diệu Liên

 

      Nhận được thư và bài văn bia, do bận bịu quá sức nên chỉ kính cẩn trả lời bằng một trang, chắc là Sư đã đọc rồi. Ở đây, tôi vốn muốn thêm một đoạn vào đầu nguyên bản bài văn bia, nhuận sắc đại lược những chỗ còn lại, nào ngờ thợ vụng chế đồ chẳng thể tùy ý thành công, đến nỗi thành ra soạn bài văn khác! Những lời phê bên cạnh nguyên văn, đến khi chép lại cho rõ ràng, hóa ra chẳng phải là ý định lúc đầu. Nói chung là do tài cán vụng về, bút chẳng thể thuận theo ý muốn mà ra! Lời văn tôi tính soạn nhìn chung còn có thể chấp nhận được, chứ văn tự quả thật là chất phác, vụng về. Hơn nữa ký tên tọa hạ mới là đúng lý. Quang trước đây từng viết qua, không cần phải ghi tên Quang. Biện pháp như vậy so ra đắc thể hơn kiểu phô trương trong nguyên văn, xin hãy hỏi qua ý lão cư sĩ Phan Đối Phù. Nếu có chỗ nào không thỏa đáng hãy cậy ông ta sửa đổi, chẳng cần phải gởi đến Phổ Đà nữa vì Quang già cả, bận bịu, không rảnh rỗi để chăm lo chuyện ấy được. Giữa Thu năm sau tôi quyết định rời Phổ Đà, không ở nơi nào nhất định để khỏi bị nhọc nhằn thù tiếp thư từ hòng chuẩn bị tư lương cho lúc lâm chung mà thôi!

      Căn cứ theo bài văn bia được nói đến trong thư thì chính là bài văn bia ghi công đức cung thỉnh Đại Tạng Kinh của chùa Tịnh Cư tại Tế Nam.

 

24. Thư trả lời pháp sư Bảo Tịnh

 

      Nhận được thư và cuốn tuần san, khôn ngăn cảm động, hổ thẹn! Quang là ông Tăng tầm thường chỉ biết cơm cháo, nay lại phát sanh bệnh mắt. Đã vậy, vị hòa thượng trụ trì đã về hưu đặc biệt sai Quang giám định, sửa chữa Phổ Đà Sơn Chí, giao đã một năm rưỡi rồi mà vẫn chưa đụng đến. Lại còn những chuyện như giảo chánh, đối chiếu Văn Sao (cuốn này đang sắp chữ), Bất Khả Lục (cuốn này vẫn chưa được sắp chữ) v.v… dồn vào một thân, không rảnh rỗi để ra sức cho tọa hạ. Nếu cõi đời chưa đến nỗi đại loạn, mùa Xuân năm sau các sách sẽ được in ra (Quán Âm Tụng cũng được kể trong số đó), sẽ gởi cho Ngài bao nhiêu đó cuốn để mong kết duyên. Hiện thời, pháp trọng yếu để cứu đời là phải chú trọng nhân quả báo ứng, giáo dục trong gia đình (cũng cần phải chú trọng nhân quả báo ứng) để hết thảy ai nấy đều giữ vẹn luân thường, nghiêm túc trọn hết bổn phận, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, kiêng giết, bảo vệ sanh vật, ăn chay, niệm Phật, dùng lòng tín nguyện sâu đậm để cầu sanh Tây Phương. Hoằng dương như thế mới có lợi ích thật sự. Nếu chẳng thực hiện nơi những điều này thì chỉ bậc thượng căn mới được lợi ích. Lại nữa, có kẻ tu trì Phật pháp nhưng vướng thói tệ chẳng biết nhân quả, chẳng tận hết luân thường v.v… Đừng nói là kẻ [căn cơ] trung hạ mắc phải cái lỗi không biết ấy, ngay cả bậc thượng thượng căn phần nhiều cũng thế. Do vậy, dạy người phải đặt chân vững chắc trên thực tế, làm chuyện thiết thực mới là tối thượng; đừng bảo pháp này thiển cận, cần gì phải đề xướng! Phàm đi ngàn dặm, bắt đầu bằng bước đầu tiên, núi cao chín Nhận[28] cũng do từng sọt đất đắp thành. Sông biển sâu rộng mênh mông, bát ngát do các dòng nước hợp thành. Nếu khinh rẻ pháp bình thường thiết thực, sợ rằng khó được hiệu quả thật sự!

 

25. Thư trả lời pháp sư Thái Hư

 

      Ngày hôm qua nhận được thư Ngài, nói muốn đến Ninh Ba, có lẽ tới Trung Thu sẽ có thể lại đến đây. Ngu ý cho rằng tọa hạ học vấn, văn chương, bia miệng chở đạo, ra đi lần này, ắt sẽ có người lôi kéo mời làm chủ giảng, thúc đẩy những kẻ xuất thế chen nhau tìm kiếm; chuyện trở lại Bạch Hoa sợ chỉ trở thành mong tưởng mà thôi! Quang tuy tuổi chưa già, tinh thần lẫn thể xác đã suy cùng cực, một hơi thở hít vào tuy còn giữ được, một hơi thở ra khó giữ nổi! Dẫu cho tọa hạ sẽ trở lại nơi này để [Quang] lại được chiêm ngưỡng khuôn mẫu tốt đẹp, lại được đọc những trước tác đẹp đẽ thì đấy vẫn là điều chưa thể dự liệu được.

Trộm nghĩ hiện thời thế đạo bạc ác, mỏng manh, đạo thầy trò đã bị chôn vùi, phần nhiều hùa theo ca ngợi siểm nịnh, chẳng tuân theo sự uốn nắn, răn nhắc, đến nỗi bậc thượng trí chậm thỏa mong ước trở thành bậc thánh, kẻ hạ ngu đánh mất lợi ích “mỗi ngày một mới”. Quang vốn là một gã kém hèn ở phía Bắc tỉnh Thiểm Tây, bản chất giống như cát, đá, thường đối trước ngọc quý mặc tình phô phang dáng vẻ thô tháp, xù xì, muốn cho viên ngọc quý ấy mau trở thành món vật hoàn thiện, trở thành món đồ quý báu trong cõi đời, dẫu tan thân nát xương cũng chẳng nuối tiếc! Tọa hạ là ngọc đẹp không tỳ vết, là vàng ròng tuyệt không chất cặn, cần gì những uốn nắn, răn nhắc, nào bị hãm trong lời khen ngợi siểm nịnh? Thuật cỡi lừa của Quang trọn chẳng áp dụng được! Nhưng muốn kế thừa người trước, mở lối cho người sau, hiện thân thuyết pháp, ứng khắp quần cơ, dẫn dắt người khác tiến vào chỗ thù thắng, dường như có chỗ phải bù đắp đôi chút; do vậy lấy bài thơ tọa hạ đáp lời ông Dị Thật Phủ để họa quấy quá[29] [mấy vần thơ] cho xong hòng diễn tả ý “do có duyên cùng nhau mà chọn người giao du” [trong thư của tọa hạ] ngày hôm qua, không phải là thổi lông tìm vết, mà thật sự là muốn cho ngọc được vẹn toàn phẩm đức, nhưng lời thô ý vụng khiến gai mắt nhã, xin thương tưởng dung thứ tấm lòng ngu thành, bỏ qua văn từ thì may mắn lắm thay!

 

26. Thư trả lời đại sư Đạo Truyền (thư thứ nhất)

 

      Ông nhìn cao nhưng không thật, tâm ông lớn nhưng vô dụng. Đọc Văn Sao, nghe Yếu Giải mà vẫn còn hỏi câu ấy! Đủ biết ông một mực rong ruổi bên ngoài, chỉ biết cầu rộng rãi chứ không biết giữ lấy chỗ giản ước. Pháp Hoa tam-muội[30] ông không thể tu được đâu! Dẫu cho ông tu được cũng sợ rằng chẳng thể giải thoát ngay trong đời này. Nếu chịu tin lời Quang, xin hãy tạm thời đem những giáo pháp của tông Thiên Thai cất trên gác cao, chuyên tâm nghiên cứu Tịnh Độ. Xét tâm tánh của ông, lâu ngày chầy tháng sợ rằng sẽ có chuyện bị ma dựa phát cuồng, chẳng thể không đề phòng! Nếu không, mặc cho ông làm bậc đại thông gia, đừng gởi thư đến nữa, có gởi cũng không trả lời!

 

27. Thư trả lời pháp đại sư Đạo Truyền (thư thứ hai)

 

      Đọc thư gởi đến lần này, bế quan chưa lâu mà đã làm bài tụng như thế (tức bài ca tụng kinh Vô Lượng Thọ, tuy chẳng liên quan tới kinh văn, nhưng khá có sự khích lệ, cổ vũ cho người sơ tâm tu Tịnh nghiệp, nên tôi đặc biệt tán thành), đủ biết ông dụng tâm tinh ròng, siêng năng. Nay tôi đem bài tụng văn ấy gởi đi, đợi khi đóa sen trong tâm ông nở bừng, lại đem kinh văn phân tích, phân khoa, phán giáo. Nếu viết lời chú giải, sẽ đem bài tụng ấy ghép vào dưới kinh văn, thấp hơn một chữ, phía trên lại để thêm chữ “tụng rằng” để người khác dễ biết đây không phải là kinh văn. Nếu không, sẽ khiến cho người không hiểu biết tưởng đấy là kinh, sẽ mắc tội chẳng cạn. Đợi khi nào ông viết xong bài tụng, lúc chép lại cho rõ ràng thì viết những chữ ấy cho to để mắt Quang dù chẳng tỏ vẫn có thể giảo duyệt, giảo duyệt xong sẽ giao cho Hoằng Hóa Xã in ra lưu truyền.

 

28. Thư trả lời pháp sư Hiển Ấm

 

      Nhận được thư khôn ngăn mừng rỡ, an ủi. Tọa hạ túc căn sâu dầy, thông minh hơn người. Chưa đầy mấy năm mà đối với Tông, với Giáo, với Mật đều đã thông đạt, đáng hận là Quang già rồi, chẳng thể học theo những sở đắc của tọa hạ được, chỉ mong tọa hạ từ đây chân tu thật chứng thì hai tông Thiên Thai lẫn Mật Giáo từ nay được chấn hưng lớn lao. Nhưng hiện thời ông tuổi hãy còn quá trẻ, hãy nên gấp rút ẩn kín tài năng tận lực tu hành, đợi đến khi công phu hàm dưỡng sâu đậm sẽ ra hoằng pháp thì lợi ích lớn lắm! Thông minh và có hàm dưỡng sẽ thành pháp khí, thiếu hàm dưỡng thì lời lẽ, hành vi chắc sẽ chẳng tương ứng với bản thân, với pháp mà chính mình không biết. Đây là lòng Quang khăng khăng ngu thành. Thầy Liễu Đạo đã đến đây, đừng lo! Gió Xuân dễ xâm nhập vào người, xin hãy giữ gìn điều dưỡng, ắt sẽ không cần thuốc mà được yên vui vậy!

 

29. Thư trả lời pháp sư Đế Tỉnh

 

      Nhận được thư đề ngày Mười Ba tháng Chín, biết ông đã bế quan tịnh tu, khôn ngăn an ủi, mừng rỡ. Ông nói thường có những cảnh giới [trong khi niệm Phật] ắt là ông chưa từng chân thật nhiếp tâm, chỉ lo hành trì phô trương bề ngoài mà ra. Nếu chân thật nhiếp tâm thì bên trong không có vọng niệm, chuyên chú vào một câu Phật hiệu, ắt nghiệp chướng tiêu trừ, phước huệ tăng trưởng, đâu đến nỗi thường bị khổ vì có những cảnh giới? Chớ nên tu hành bằng cái tâm sôi động, lầm lạc cầu được thánh cảnh giới biến hiện và đủ mọi thứ thần thông, chỉ mong sao tâm tương ứng với Phật mà thôi!

Như câu nói: “Toàn tâm là Phật, toàn Phật là tâm, ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm”; nếu làm được như thế, ví như mặt trời sáng rực giữa hư không, sương tuyết đều tan hết, nào còn có cảnh giới chẳng đúng như pháp gây khổ não cho thân tâm nữa ư? Nếu không dụng tâm như thế, bình thường cứ chuyên muốn được thấy thánh cảnh, chẳng biết để đạt được thánh cảnh thì phải đạt đến địa vị nghiệp tận tình không. Nếu không, đừng nói những cảnh giới đạt được đều là ma cảnh, ngay cả là thánh cảnh [thật sự] cũng sẽ vô ích, không chừng còn bị tổn hại lớn lao! Bởi lẽ, chẳng biết tinh tấn tận lực tu trì, lại ngược ngạo do đấy sanh lòng hoan hỷ lớn lao, chưa đắc nói là đắc, ắt sẽ đến nỗi bị ma dựa phát cuồng! Kinh Lăng Nghiêm nói: “Chẳng nghĩ là thánh cảnh thì gọi là cảnh giới lành. Nếu nghĩ là thánh cảnh thì bị rớt vào lũ ma”, chính là nói về điều này. Huống chi cảnh giới ông đạt được vẫn thuộc vào những cảnh giới tục nhiễm ư? Chỉ nên đề khởi chánh niệm sao cho những tâm dâm dục, sân hận v.v… trước kia chẳng dấy lên, dẫu cho chúng ngẫu nhiên khởi lên hãy nên giác chiếu ngay lập tức khiến cho chúng nhanh chóng bị diệt. Ví như kẻ giặc đến nhà, nếu chủ nhân biết nó là giặc thì kẻ giặc ấy sẽ bỏ đi ngay lập tức. Nếu coi nó là người trong nhà thì nhà ấy sẽ bị kẻ giặc cướp sạch sành sanh!

 

30. Thư trả lời pháp sư Hằng Tàm (thư thứ nhất)

 

      Nhận được thư biết những sách đã gởi năm ngoái ông đều nhận được hết, an ủi vô cùng. Gần đây, Diệu Cát cũng gởi một lá thư cho biết sách gởi cho ông ta cũng nhận được rồi. Ông và tôi quen nhau trên tình đạo, há nên học thói tục ngoài đường ngoài chợ khen ngợi quá lố khiến Quang không có chỗ để dung thân ư? Đấy có phải là điều nên làm của bậc trực tâm tu đạo đâu? Còn như ông nói tuy thiếu tinh tấn, nhưng trì danh khá đủ lòng ưa - chán, thì cần phải biết rằng một pháp Tịnh Độ là quả núi nương tựa lớn lao cho chúng ta; nếu lúc bình thường coi rẻ, chắc là đến khi lâm chung sẽ chẳng đắc lực đâu!

Sư Hiển Ấm thiên tư rất cao, các tông Hiển - Mật đều hiểu được cương lãnh trọng yếu, nhưng do chí còn phù phiếm, khoa trương, chẳng trọng chân tu, lúc mất chẳng hề được hưởng lợi ích nơi Hiển, nơi Mật! Đối với chuyện niệm Phật ông ta còn chưa thấu hiểu nên cũng không có hiệu quả gì. Tuy có nhiều người trợ niệm cho ông ta, nhưng chính ông ta đã mê man, không còn tỉnh táo nữa. Đấy chính là một sự cảnh tỉnh, nhắc nhở lớn lao cho những kẻ tuổi trẻ thông minh vậy. Ấy là vì Hiển Ấm thiên tư tuy cao, nhưng bụng dạ quá hẹp, không chân tu hàm dưỡng ẩn kín tài năng, có tánh bộp chộp, kiêu căng, phô trương, khoe khoang, bộc lộ (từ Nhật Bản trở về nước, đến Ninh Ba gặp thầy, ngày hôm ấy liền ngã bệnh, hôm sau liền đi qua Thượng Hải) là vì nghe thầy dạy một câu “hãy nên bế quan tịnh tu”, ngay hôm đó liền ngã bệnh, ngày hôm sau đi liền, rốt cuộc đến nỗi bệnh tật dây dưa đến chết, chẳng đáng buồn sao?

Những điều ông đã hỏi vốn chẳng cần phải hỏi, [sở dĩ ông vẫn phải hỏi] chỉ vì ông chưa đọc kỹ các trước thuật Tịnh Độ nên trở thành một vấn đề lớn! Nếu đọc kỹ rồi sẽ tự bật cười! Ông chẳng những chưa đọc kỹ các trước thuật Tịnh Độ mà ngay cả Văn Sao của Quang cũng chẳng đọc kỹ. Nếu lắng lòng đọc kỹ, chắc chắn chẳng đến nỗi phải hỏi mãi câu này. Câu hỏi này thường được giải thích trong Văn Sao, nay lại trình bày đại lược. Cõi Phật có bốn, tức là Phàm Thánh Đồng Cư Độ, Phương Tiện Hữu Dư Độ, Thật Báo Vô Chướng Ngại Độ, Thường Tịch Quang Độ.

 

      1) Phàm Thánh Đồng Cư Độ: Thế giới Sa Bà tuy thuộc uế độ, nhưng cũng có Phật, Bồ Tát, thánh nhân Nhị Thừa cùng sống trong ấy. Tuy vậy, cảnh được thấy cũng như sự thọ dụng giữa thánh và phàm khác biệt vời vợi một trời, một vực! Ở Tây Phương, luận theo phía những người đới nghiệp vãng sanh thì họ sẽ sanh vào Phàm Thánh Đồng Cư Độ, nhưng cõi ấy vi diệu thanh tịnh như đã nói trong A Di Đà Kinh và Vô Lượng Thọ Kinh. Cõi ấy tuy là chỗ của người đới nghiệp vãng sanh sống, nhưng cũng có Pháp Thân Bồ Tát và Phật cùng sống trong ấy, thuyết pháp cho họ, nên cũng gọi là Phàm Thánh Đồng Cư độ. Nhưng do cõi ấy là cõi dành cho người vãng sanh Tịnh Độ, nên tuy chưa thể thù thắng nhiệm mầu như trong sự thấy biết và thọ dụng của Phật, Bồ Tát, nhưng khá giống nhau về mọi phương diện, chẳng hoàn toàn khác biệt như trong cõi Sa Bà. Cõi này cũng chia thành chín phẩm. Nếu là sáu phẩm Trung Hạ thì phần nhiều cần phải mất cả thời kiếp [mới giác ngộ], còn ba phẩm Thượng thì sẽ ngộ Vô Sanh Nhẫn nhanh chóng (ngộ Vô Sanh Nhẫn mới vào được cõi Thật Báo), chứng địa vị Bất Thoái, chứng nhập Thật Báo, Tịch Quang.

 

      2) Phương Tiện Hữu Dư Độ: Chính là cõi dành cho người đã đoạn Kiến Hoặc, Tư Hoặc, nhưng chưa phá được vô minh. Nói “Phương Tiện” là vì những gì họ tu đều thuộc về phương tiện trước khi chứng nhập Chân Thật. Nói “Hữu Dư” là vì tuy đã đoạn Kiến Hoặc, Tư Hoặc, nhưng chưa phá vô minh (Trần Sa không có thể tánh, nói hay không nói đều được. Nếu nói thì người thuộc vào chín phương tiện này đã phá được Trần Sa Hoặc rồi), vì thế gọi là “Hữu Dư”. Nếu phá vô minh thì được gọi là Phần Chứng Vô Dư. Nếu vô minh hết sạch (chín phương tiện chính là Nhị Thừa trong Tạng Giáo, Tam Thừa trong Thông Giáo[31], Tam Hiền[32] trong Biệt Giáo[33], Thập Tín trong Viên Giáo. Chín hạng người này cùng đoạn Kiến Hoặc và Tư Hoặc, chưa phá vô minh) sẽ là Vô Dư rốt ráo.

 

      3) Thật Báo Vô Chướng Ngại Độ: Chính là báo độ được cảm bởi phước huệ trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn của Phật, Bồ Tát.

 

      4) Thường Tịch Quang Độ: Chính là lý tánh được chứng bởi Phật, Bồ Tát.

 

      Hai cõi này (tức Thật Báo Vô Chướng Ngại Độ và Thường Tịch Quang Độ) vốn thuộc về cùng một cõi. Nếu nói theo cõi do quả báo cảm được thì gọi là Thật Báo, nếu luận trên lý tánh đã chứng thì gọi là Tịch Quang. Bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo mới phá được một phẩm vô minh, chứng một phần Tam Đức, liền nhập cõi Thật Báo, cũng gọi là Phần Chứng Tịch Quang. Nếu đạt đến Phật quả Diệu Giác thì là Thượng Thượng Thật Báo, Tịch Quang rốt ráo vậy. Muốn cho người khác dễ ngộ nên người giảng mới gộp “người phần chứng” về Thật Báo, gom “người rốt ráo chứng” về Tịch Quang. Chứ thật ra hễ Phần Chứng thì hai cõi đều Phần Chứng, rốt ráo thì hai cõi đều rốt ráo vậy.

Cõi Thật Báo thì chỉ có người phá vô minh, chứng pháp tánh thấy được, há nên cho rằng người đới nghiệp vãng sanh sẽ sanh vào Thật Báo ư? Sanh về cõi Đồng Cư là do tín nguyện niệm Phật, được Phật tiếp dẫn mà sanh [về đấy]. Tuy họ chưa đoạn được Phiền Hoặc, nhưng do trong được nương vào sức tự tánh của đức Phật trong tâm, ngoài được sức từ bi của A Di Đà Phật cảm ứng đạo giao, nên tuy chưa đoạn được Phiền Hoặc mà Phiền Hoặc chẳng còn có tác dụng nữa! Vì thế được sanh về cõi Đồng Cư thanh tịnh tột bậc!

Ông nghi “sẽ sanh về cõi chẳng thanh tịnh và chẳng thể thấy ngay được sắc thân thắng diệu của Phật A Di Đà và những chúng sanh cõi ấy” là vì ông tưởng cách hiểu của ông là đúng, còn thệ nguyện của đức Di Đà, ngôn giáo của Phật Thích Ca, những trước thuật nhằm nêu tỏ của các vị Bồ Tát, tổ sư, thiện tri thức đều sai be bét, chỉ có hiểu như ông mới là đích xác nhất, cao siêu nhất! Ông thấy biết như vậy tức là báng Phật, báng Pháp, báng Tăng, tương lai sẽ cùng Đề Bà Đạt Đa hưởng Cực Lạc trong đại địa ngục A Tỳ, vui sướng chẳng thể nào ví dụ được! Sợ rằng đến hết đời vị lai vẫn thọ dụng chẳng gián đoạn những sự vui sướng ấy! Ông muốn hưởng sự vui ấy, xin hãy y theo tri kiến của ông mà nói. Còn nếu chẳng muốn hưởng sự vui ấy, dẫu cho bị oai thế bức bách cũng chớ nên nói [những lời lẽ ấy].

Hạ Phẩm Hạ Sanh là hạng tội nhân Ngũ Nghịch Thập Ác cực nặng, do khi lâm chung tướng địa ngục đã hiện, sanh lòng sợ hãi lớn lao, gặp thiện tri thức dạy niệm Phật, do cái tâm sợ khổ cầu cứu mạnh mẽ, tha thiết cùng cực, nên tuy niệm không nhiều, mà trong một niệm tâm quang đã cảm được Phật. Vì thế, đức Phật liền rủ lòng tiếp dẫn để ứng, bèn được vãng sanh. Họ ở trong hoa [sen] mười hai đại kiếp là vì lúc sống tội nghiệp nặng nề, thiện căn nông cạn, vì thế hoa sen chậm nở nhất. Nhưng sự sung sướng của những người ấy ở trong hoa còn hơn sự vui trong Tam Thiền Thiên! (Sự vui trong thế gian thì Tam Thiền thật là bậc nhất), nào có thiếu sót, tiếc nuối chi đâu? Cõi Thật Báo chỉ hàng Pháp Thân Đại Sĩ mới thấy được, cố nhiên không phân chia Sa Bà, Cực Lạc! Thệ nguyện từ bi của đức Phật chính là vì kẻ chưa đoạn Hoặc không có cách gì liễu sanh tử được, nên riêng lập ra pháp môn đặc biệt cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương này để những ai có tâm sẽ tu được, phàm những ai có tín nguyện niệm Phật đều được vãng sanh. Đấy chính là tâm đại từ bi phổ độ chúng sanh của đức Thích Ca và Di Đà. Nghĩ đến điều này sẽ cảm kích cùng cực, rơi lệ, lẽ nào còn rảnh rỗi để suy cuồng nghĩ loạn, cậy vào những thứ tri kiến của chính mình để bắt bẻ nữa ư?

Ông Cương Dã Tăng Thứ Lang, hòa thượng Viên Sơn chẳng coi rẻ bộ Văn Sao hủ bại, nhơ bẩn của Quang là do đời trước từng có duyên với nhau mà ra. Ông chỉ cầm theo một bộ thì những vị ấy khó thể xem trọn, nay riêng gởi tới hai gói, tổng cộng là sáu bộ, xin hãy chuyển lại cho hai vị ấy và những người hữu duyên. Nói đến chuyện dịch ra cho người phương Đông xem thì tôi trộm nghĩ rằng một chữ “dịch” ấy tợ hồ không cần phải quan tâm đến, vì sao vậy? Do họ có túc duyên với Quang. Nếu là ai vô duyên thì sợ rằng trông thấy [Văn Sao] sẽ dùng để thay củi, bịt vò[34]. Hơn nữa, nếu nói là lợi lạc cho kẻ sơ cơ thì hãy nên đem in giống y như vậy để được lợi ích rộng khắp. Nếu in kèm thêm Hòa văn[35] vào thì chỉ có thể khiến cho người ở phương Đông biết Hòa văn đọc được. Nếu là người Hoa và Hoa kiều ở các nơi không biết Hòa văn thì họ đều chẳng thể xem được. Huống chi Đại Tạng Kinh của hội Nhật Bản Thư San thì một là bản khắc ván, hai là bản đúc kẽm, và bản Đại Tạng Kinh do Đại Chánh San Kinh Hội[36] ấn hành lần này đều toàn bằng Hoa văn, chẳng ghi kèm Hòa văn vào. Vì thế, được nhiều người Hoa thỉnh về. Nếu in xen lẫn Hòa văn vào thì sự lưu thông sẽ bị úng tắc. Theo ngu kiến của Quang, nếu muốn lưu thông, chẳng cần phải dịch.

Còn như hòa thượng Viên Sơn tài lẫn đức đều dồi dào, sao lại muốn hạ mình đến thăm Quang? Vì Quang là một ông Tăng chỉ biết cơm cháo, không đạo, không đức, không hay, không biết. Qua một bộ Văn Sao đã đem hết những thứ rơm rác trong bụng mửa sạch ra hết cả rồi, gặp mặt nhau nào có ích gì đâu? Huống chi Quang đã suy nhược, già cả chẳng thể siêng học được! Nếu Quang sắc lực mạnh mẽ, Ngài đến Trung Hoa, Quang sẽ học được sở đắc của Ngài. Nay đã già rồi, ngoài việc trì danh ra, chẳng nên học một pháp nào bởi kỳ hạn chết sắp đến, sợ rằng sở học càng nhiều, tâm thức càng khó được thuần tịnh, đến nỗi chẳng cảm ứng đạo giao được Phật. Hễ chẳng được vãng sanh sẽ muôn kiếp lưu chuyển, há đáng buồn lắm hay sao? Ông tuổi hãy còn trẻ, cố nhiên hãy nên siêng học. Nhưng chớ nên xem thường một tòa núi Tu Di đáng nương tựa rồi bỏ qua, ngõ hầu chẳng giẫm theo vết xe đổ của Hiển Ấm, chẳng được cùng các vị thượng thiện nhân thân cận đấng Di Đà Nguyện Vương vậy!

 

31. Thư trả lời pháp sư Hằng Tàm (thư thứ hai)

 

      Nhận được thư khôn ngăn cảm động, hổ thẹn. Văn của Quang sao lại có thể dùng để khai thị cho chỗ hoàn toàn không có Phật pháp ấy cho được? Câu nói ấy chính là lời ông khen ngợi quá lố, hoàn toàn chẳng phải là sự thật! Trước đây đã gởi sáu bộ sách, sợ còn phải gởi thêm nhưng không có sách để gởi. Hôm nay đã bảo chùa Thái Bình ở Thượng Hải gởi tới năm gói nữa, sẽ có đủ sách để tặng cho người hữu duyên. Những điều đã hỏi đều thuộc về chuyện đa sự, do tri kiến của người đời giống như sóng biển chẳng có lúc nào yên. Nếu cứ trả lời những câu cật vấn ấy thì đúng là chẳng rảnh rỗi để thù tiếp được. Nay tôi sẽ thuận theo lời ông hỏi mà giải thích từng điều. Đúng hay sai mong ông tự cân nhắc.

      1) Hỏi: Lúc Phật còn tại thế, tuy chia ra hai chúng Bồ Tát và tỳ-kheo. Tỳ-kheo tuy hình dáng khác tục, một mực trì giới theo như đức Phật đã chế định. Khi kết hạ, dẫu lìa khỏi Phật ở một mình, cũng vẫn không có những tiêu chuẩn [để phán định] là trì giới hay phạm giới, bất quá mỗi vị giữ một tượng người bằng sáp[37] để làm chuẩn mà thôi! Nếu như vậy thì rõ ràng là “quy chế cầu giới cố nhiên chẳng phải bắt nguồn từ thời đức Phật”. Nay con người phần nhiều lấy chuyện có hay không có dấu sẹo thọ giới[38] để phân biệt Tăng - tục, như vậy thì dấu sẹo thọ giới có mối liên quan với Tăng chúng cũng khá nặng.

Hơn nữa, con số của [dấu sẹo thọ] giới ắt phải là mười hai, rốt cuộc biểu thị điều gì về mặt pháp? Đối với điều này, Tăng nhân đời nay trọn chẳng ai biết do đâu mà có? Nếu chẳng rõ xuất xứ và tác dụng của nó, làm sao đáp lời vấn nạn của người bên ngoài cho được? Hơn nữa, những tăng sĩ hèn kém vô tri làm sao biết giới quan trọng cho được?

      Đáp: Lúc đức Phật mới thành đạo liền nói kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới. Còn đối với giới tỳ-kheo thì do có [tỳ-kheo phạm lỗi] mà chế giới, há nên nói chuyện cầu giới chẳng phải bắt nguồn từ thời đức Phật! Đối với pháp “tọa hạ” (an cư kết hạ), đặc biệt dùng tượng người bằng sáp để kiểm xem giới lực có toàn vẹn hay không thì chuyện này chẳng qua biểu thị ai nấy hãy nên nghiêm trì tịnh giới mà thôi! Giống như người trong cõi đời thực hành Công Quá Cách, khởi tâm động niệm, hành xử đều phải ghi hết là thiện hay ác, nhằm mục đích ngăn ngừa điều sai, dứt điều ác, tận lực làm điều lành, chứ không coi chuyện ghi chép là điều tất yếu của việc “làm lành, dứt ác”. Nếu mọi lúc thường luôn xem xét, phản tỉnh, không ghi cũng chẳng sao! Nếu chẳng phản tỉnh suy xét, dẫu ghi cũng vô ích!

Tự mình trì giới trọn vẹn hay thiếu sót, lẽ đâu chính mình chẳng biết? Dẫu chẳng dùng tượng sáp để kiểm nghiệm mà có thể tự dối mình được sao? Đã chẳng thể tự dối mình được thì Phật, Bồ Tát, thánh nhân có thần thông và thiên địa quỷ thần đều chẳng thể bịp được, chỉ có thể tạm thời bưng mắt con người mà thôi! Nhưng dù bịp được con người, giới đức có giữ nguyên vẹn hay không, con người cũng có thể biết được. Do vậy, cũng chẳng thể nào bịp con người được! Chỉ cốt sao dốc sức giữ giới, không nhất định phải giữ phương pháp kiểm nghiệm bằng tượng sáp.

Ông đã thọ giới rồi, [trong giới đàn, vị A Xà Lê] khai thị về khổ hạnh, dạy đốt thân hay thiêu cánh tay, đốt ngón tay để cúng Phật, nhưng vì phàm phu chẳng chịu đựng được [những khổ hạnh ấy] nên chỉ đốt hương [trên đỉnh đầu hay trên cánh tay] mà thôi! Cuối quyển sáu kinh Lăng Nghiêm, phần nói về bốn thứ giáo huấn rõ ràng thanh tịnh đã nói đến chuyện này. Kinh Phạm Võng lẫn kinh Pháp Hoa đều có nói. Ông chẳng xét đến đạo lý đốt hương cúng Phật mà lại xét đến đạo lý của dấu sẹo thọ giới, tức là đã trở thành bỏ gốc lấy ngọn! Nhưng chúng sanh đời Mạt mọi chuyện đều làm giả, do có những dấu sẹo thọ giới ấy mà phân biệt là có thọ giới hay không!

Hiện thời, theo cách xuống tóc thông thường, lấy dấu sẹo thọ giới để làm dấu hiệu phân biệt càng thêm quan trọng hơn. Con số [những dấu sẹo thọ giới] ấy tùy theo mỗi người phát tâm [đốt bao nhiêu viên hương], cần gì phải hỏi con số ấy biểu thị điều gì! Chỉ cần biết [những dấu sẹo ấy] biểu thị [người thọ giới] đốt hương cúng Phật, đấy là [thực hiện] chút phần khổ hạnh đốt thân, thiêu cánh tay, đốt ngón tay mà thôi! Truyền giới ở Bắc Kinh đốt hương trên cánh tay chứ không đốt hương trên đảnh đầu, có vị nào xuống miền Nam tham học thì đốt thêm hương trên đảnh đầu. Hiện thời chỉ đốt hương trên cánh tay thì hoàn toàn không thể được vì người ngoài đời đầu đều láng o[39]! Chưa nghe nói Bắc Kinh đã thay đổi quy cách đốt hương hay chưa!

      2) Hỏi: Các chốn ở Thượng Hải thường có nam nữ tụ họp mười hay một trăm người, cung kính dâng tiền hương kính để quy y hoặc nói “bái sư phụ”. Chuyện ấy phát xuất từ kinh điển nào? Bắt đầu từ thời nào? Đức Phật ở chỗ nào? Nói ra kinh nào? Đối với chúng sanh nào mà mở ra phương tiện ấy? Nếu không có giáo huấn rõ ràng thì đương nhiên kẻ bái thỉnh đã mờ mịt không biết “hễ quy y rồi thì nên hộ trì trai giới như thế nào”, mà người được bái thỉnh cũng lại chẳng nghĩ đức mình có xứng hay không? Lạm nhận của tín thí, sợ rằng Phật pháp tốt đẹp lớn lao chưa khỏi bị coi ngang ngửa với những món hàng thông thường, dở tệ vậy, chẳng đáng đau buồn quá đỗi ư? Xin Sư hãy khai thị tường tận để người bái thỉnh lẫn kẻ được bái thỉnh biết đến những gì cần phải khuyên răn, nhắc nhở, để khỏi bị kẻ chẳng tin phỉ báng!

      Đáp: Lúc đức Phật mới thành đạo, còn chưa khai hóa, muốn đến vườn Lộc Dã[40] độ năm người, trên đường đi gặp thương nhân Đề Vị[41], dâng bột lúa mạch rang và mật, bèn giảng Tam Quy, Ngũ Giới và Thập Thiện cho [anh em] ông ta. Phật chính là bản thân đức Phật, Pháp chính là Ngũ Giới, Thập Thiện đức Phật vừa giảng cho ông ta cùng với hết thảy pháp Đại, Tiểu Thừa đức Phật nói sau này. Lúc ấy vẫn chưa có vị Tăng nào. Vì thế, đối với điều khoản quy y Tăng, bèn nói “quy y vị lai tăng” do Tăng nhất định sẽ có. Đấy chính là người quy y Tam Bảo đầu tiên vậy. Từ đấy, phàm quốc vương, đại thần và thứ dân hễ tin Phật thì không ai chẳng quy y, sao lại nói là không có xuất xứ?

Đối với thuyết [cúng dường] tiền hương kính chính là mượn vật để biểu thị lòng thành kính mà thôi! Thời đức Phật, Tăng chẳng lập bếp nấu ăn, nên vàng bạc chẳng có chỗ để dùng, nhưng [đàn-na tín thí] dâng hiến thức ăn, y phục, đồ nằm, thuốc men và tặng của cải cố nhiên chẳng khác chút nào! Ở phương này, người có lòng tin ít ỏi, hễ làm chuyện gì đều phải cậy vào tiền tài. Vì thế, người ta đã tin tưởng ắt mong cúng dường [tiền bạc lên vị thầy mình đã quy y] để [vị ấy] trang trải những thứ cần dùng. Đấy là nguyên do của tiền hương kính vậy.

Thánh nhân phương này lập giáo, người đến học phải có miếng thúc tu[42] để làm học phí; tuy tên gọi khác với tiền hương kính nhưng ý nghĩa chẳng khác gì! Chẳng phải chỉ có vậy mà thôi, phàm là thiên tử và chư hầu tụ tập tiệc tùng ắt phải có món ăn ngon, lại còn phải có vật quý báu để làm quà tặng, cũng giống như đã đến bái yết lại còn cúng dường vậy! Đã quy y Tam Bảo, ắt phải trì Ngũ Giới, tu Thập Thiện. Nhưng hiện thời thói đời thường hay bày vẽ giả dối, đấy là lỗi chính mình chẳng tuân theo lời dạy, chứ Phật pháp đâu có lỗi! Tăng có giữ giới được hay không cũng thế.

Cố nhiên nên phân biệt thầy là thật hay giả và đồ đệ là thật hay giả, chẳng được nhất loạt chê quy y Tam Bảo là sai, rồi bài xích! Nếu không có ai quy y Tam Bảo, Phật pháp sẽ do vậy bị đoạn diệt, bởi lẽ dẫu có chân tăng cũng trọn không có ngoại hộ, ai chịu cung kính cúng dường ông là người đã vượt ngoài cõi đời đây? Huống chi Phật pháp đâu phải là chuyện của riêng mình Tăng chúng, mà thật sự là chuyện phải nên tu, nên hành của hết thảy mọi người. Nếu chẳng quy y tức là đoạn diệt dòng giống Phật vậy. Ý nghĩa “hết thảy mọi người nên tu nên hành” đã được Văn Sao nói đến nhiều lần rồi.

      3) Hỏi: Xưa có vị cư sĩ X… hỏi “quy y Phật chẳng đọa địa ngục, [tức là] sau khi xả thân chẳng đọa hay vĩnh viễn chẳng đọa”? Lại hỏi gần đây những kẻ quy y ở các nơi như Thượng Hải chẳng hạn, quá nửa là hạng gái lầu xanh làm những nghề không đứng đắn. Lúc ấy, tuy hơi có ý niệm hổ thẹn, từ bỏ, nhưng sau đó vẫn giữ nghề cũ tạo tội. Nếu quy y rồi vĩnh viễn chẳng đọa địa ngục thì còn ai đành lòng keo tiếc hai đồng bốn cắc hương kính? Nếu hai đồng bốn cắc hương kính có thể bảo đảm dù tạo tội vẫn vĩnh viễn không đọa địa ngục, thì trong núi Thiết Vi đâu còn có địa ngục để nói nữa ư? Trong thiên hạ lẽ nào có sự tiện nghi như thế ư?

Thêm nữa, nói quy y thì quy y vị Phật nào? Quá khứ Phật? Hiện tại Phật? Hay là vị lai Phật? Nếu nói quá khứ thì đã qua rồi, hiện tại không có Phật, còn vị lai thì [Phật vị lai] chưa ra đời, có vị Phật nào để quy y nữa đây? Nếu nói quy y với tượng Phật Di Đà hoặc Phật Thích Ca thì chỉ cần đến trước các bức tượng lễ kính là đủ rồi, cần gì phải nhờ vào tiền hương kính nữa? Đệ tử cứng họng, chẳng thể đáp gãy gọn được, rốt cuộc là như thế nào, mong mỏi sâu đậm thầy chỉ dạy cho.

      Đáp: Chuyện ấy hãy nên nói từ hạnh chân thật, chứ đừng luận trên việc quy y. Ba câu quy y Phật Pháp Tăng tuy chia ra nói là “chẳng đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh”, nhưng chớ nên chấp chặt là quy y Phật sẽ chỉ có thể không đọa địa ngục, vẫn chẳng tránh khỏi đọa vào ngạ quỷ, súc sanh. Nếu nói chấp chặt như thế chính là kẻ si nói mớ vậy! Lòng đại từ bi của đức Phật ông còn chưa biết, cứ nói bừa đạo lý. Hạng gái lầu xanh làm chuyện hạ tiện nếu thật sự tin tưởng, ngưỡng mộ đức Phật, thường sanh lòng hổ thẹn, thường niệm Phật hiệu cầu sanh Tây Phương thì vẫn được Phật tiếp dẫn lên thẳng chín phẩm, cùng ở một chỗ với các vị thượng thiện nhân.

Đức Phật dùng đủ mọi phương tiện tiếp dẫn, khuyên dụ chúng sanh gieo nhân xuất thế; vì thế, đối với Ngũ Giới, mặc cho những kẻ ấy chỉ thọ một, hai, ba, bốn giới cho đến thọ trọn năm giới. Vì sao cho phép người ta chẳng thọ đủ cả năm giới? Do những người ấy lâm vào tình thế chẳng thể giữ được! Như người đồ tể chẳng thể giữ giới Sát, nhưng vẫn có thể giữ bốn giới kia. Kỹ nữ chẳng thể giữ giới tà dâm, tửu bảo chẳng thể giữ giới không uống rượu v.v… Đức Phật lòng Từ sâu xa, đức sâu dày như trời che khắp, như đất chở đều, chẳng bỏ một kẻ nào sẵn có Phật tánh.

Những kẻ tự cao tự đại trong cõi đời thấy một khuyết điểm của người khác, dẫu người ấy có ngàn điều tốt đẹp cũng chẳng coi là đúng. Đức Phật không giống như thế. Trong bộ Long Thư Tịnh Độ Văn có một quyển mang tựa đề Phổ Khuyến Môn đã nói tường tận nguyên do. Trong quyển ấy đã kể tên hơn ba mươi loại, trong số ấy có kẻ đồ tể, ngư dân, người chế rượu, ngay cả hạng gái lầu xanh trong chốn phong trần, [sách ấy] đều nói nếu họ có thể đổi nghề thì tốt nhất. Nếu chẳng thể thay đổi nghề nghiệp được, nhưng thường sanh lòng hổ thẹn, niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tây Phương, nếu có thể tin chân thành, nguyện thiết tha thì cũng có thể cao đăng chín phẩm, nào phải chỉ chẳng đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh ư? Nếu chẳng sanh lòng hổ thẹn mà cũng chẳng tu trì, lấy chuyện quy y làm điều vênh vang, chỉ coi trọng chuyện bái sư thì có đọa địa ngục hay không, Quang chẳng dám quyết đoán!

Còn như nói quy y Tam Bảo thì Phật ấy là Phật nào, khi ông thọ giới [Cụ Túc, trong giới đàn] đã từng có những thứ khai thị ấy. Có Tam Bảo thuở Phật còn tại thế (đây chính là Trụ Trì Tam Bảo), có Tam Bảo sau khi Phật đã nhập diệt. Nhằm thời đức Phật còn tại thế thì Phật chính là Phật Thích Ca, pháp là những pháp như Tứ Đế v.v…, Tăng chính là những vị xuất gia theo Phật. Sau khi đức Phật nhập diệt, Phật chính là các hình tượng của Phật Thích Ca (tức là những tượng làm bằng vàng, bạc, đồng, sắt, đất, gỗ, vẽ vời, thêu thùa v.v... Những thứ ấy chính là hình tượng của Phật, phải nên coi hệt như đức Phật thật, nhưng những vị Phật Di Đà, Dược Sư v.v… cũng thuộc vào trong số ấy, do đức Thích Ca là giáo chủ trong hiện tại nên chuyên nói đến vậy), Pháp chính là những kinh điển quyển vàng trục đỏ[43], Tăng chính là những người cạo tóc mặc áo thâm.

Lại có Nhất Thể Tam Bảo, đây chính là những nghĩa Giác, Chánh, Tịnh trong tự tâm được gọi là Phật - Pháp - Tăng Tam Bảo. Nếu nói cặn kẽ quá tốn bút mực! Lúc đức Phật mới thành Phật còn chưa có Tăng, chỉ dạy trưởng giả Đề Vị quy y vị lai Tăng, do Tăng là người gánh vách [trách nhiệm] kế tục pháp đạo vậy. Nếu tự cao tự đại, chỉ biết Phật và Pháp đáng kính phục, ngưỡng mộ, coi rẻ Tăng nhân chẳng chịu quy y thì kẻ ấy dẫu được lợi ích trong Phật pháp, nhưng do cái tâm ngạo mạn sợ rằng khó thể được lợi ích chân thật.

      4) Hỏi: Người đời đều coi Trí Giả đại sư là đức Thích Ca tái thế, giống như Kim Túc Như Lai hiện thân cư sĩ Duy Ma, Long Đồ Phật hiện thân làm tỳ-kheo Thân Tử[44]. Nay những kẻ tôn sùng tông Hiền Thủ thường hay bắt bẻ chuyện này đến nỗi Ngã Kiến nghiêm trọng, thị phi dấy lên rền rĩ, hoặc nói là Ngũ Giáo[45] hay hơn Tứ Giáo, hoặc nói Trí Giả không phải là Thích Ca tái thế, hoặc nói “Trí Giả phán định Tứ Giáo sớm hơn ngài Thanh Lương, sách tham khảo [thời ngài Trí Giả] chẳng được hoàn bị bằng thời Đường, cho nên phán định giáo nghĩa có chỗ thiếu sót”. Hoặc nói: “Nếu Trí Giả đã là hậu thân của Phật Thích Ca, sao lúc soạn bộ [Ma Ha] Chỉ Quán chẳng thể nói quyết đoán công đức của lục căn hơn kém, [lại còn] ở đài Bái Kinh lễ lạy kinh Lăng Nghiêm chưa được ngài Bát Lạt Mật Đế dịch ra, lấy kinh làm khuôn khổ cho đạo vậy? Kinh là do đức Phật nói ra, Trí Giả đã là Phật nói ra kinh thì sẽ hiểu thông suốt. Nếu nói Phật cũng bị mê muội khi nhập thai thì đâu đáng xưng là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác?”

Những thứ nghi vấn ấy ùa nhau nổi lên lung tung, nếu không được lão nhân rủ lòng thương xót tình kiến của mọi người mà mổ xẻ rạch ròi lời vấn nạn ấy để làm kim chỉ nam cho những người học Phật thì sợ rằng những kẻ học đạo trong tông Thiên Thai và Hiền Thủ sẽ bài báng lẫn nhau chẳng thể dứt. Ôi! Tự tấn công, bắt bẻ lẫn nhau thì Phật giáo chẳng bị suy sụp ư? Mong thay!

      Đáp: Những vị khai sáng pháp Thiên Thai, Hiền Thủ hoặc là cổ Phật ứng thế, hoặc là Bồ Tát thị hiện giáng sanh, chớ nên vì vị này khinh vị kia, hoặc do vị kia khinh vị này. Dẫu lời dạy của các Ngài không hoàn toàn tương đồng, nhưng sở kiến của mỗi vị trọn chẳng phải là nói xằng! Những kẻ lầm lạc do môn đình mà tranh chấp đều là những đứa con ngỗ nghịch của đức Phật, là tội nhân đối với tổ sư các tông!

Tứ Giáo hay Ngũ Giáo vốn cùng là một Phật giáo. Ông đã từng đọc bài tựa cho cuốn Di Đà Yếu Giải của đại sư Ngẫu Ích hay chưa? (nguyên bản của sách Thập Yếu đã bị đại sư Thành Thời lược đi, đáng than thay). Trong ấy, có câu: “Chẳng dám cùng hai ông[46] đua tranh cho khác biệt, cũng chẳng nhất thiết phải ép cho giống với hai ông. Ví như nhìn ngang thành rặng, nhìn xiên thành ngọn. Dẫu đều chẳng thể trọn hết cảnh Lô Sơn thật sự, cốt sao chẳng đánh mất sự đích thân thấy biết Lô Sơn của mỗi người mà thôi”. Câu nói ấy đã dùng câu thơ tả cảnh đến chơi Lô Sơn của Tô Đông Pha: “Hoành kiến thành lãnh, trắc thành phong; viễn cận cao đê tổng bất đồng, bất thức Lô Sơn chân diện mục, chỉ duyên thân tại thử sơn trung” (nhìn ngang thành rặng, xiên thành ngọn. Xa gần cao thấp chẳng giống nhau, chẳng biết Lô sơn chân diện mục, miễn sao thân ở tại non này).

Lô Sơn là một trọn khối, tùy theo con người ở chỗ nào mà thành ra hình tướng khác biệt; huống hồ pháp do đức Như Lai đã thuyết giống như Ma Ni châu có màu sắc [khác nhau] tùy theo [đặt gần vật nào]. Những kẻ nói chắc chắn châu ấy có màu gì đều là những kẻ không biết gì về châu cả! Tùy theo [châu được đặt gần vật có màu] xanh, vàng, đỏ, trắng mà hiện màu xanh, vàng, đỏ, trắng, dù có nói châu ấy là xanh, vàng, đỏ hay trắng cũng chẳng phải là không được! Nhưng nếu nói nhất định là màu xanh, chứ không phải là vàng, đỏ, trắng, hoặc [nói châu nhất định] là màu trắng, không phải là đỏ, vàng, xanh thì lại không được! Hiểu toàn vẹn nghĩa của kinh thì chư Tổ đều là công thần của Như Lai. Một mực chấp chặt vào một câu thì hoằng pháp cũng thành bè đảng ma hoại pháp!

Ngài Trí Giả soạn bộ Chỉ Quán phù hợp ý nghĩa công đức của sáu căn trong kinh Lăng Nghiêm, lại nghe Phạn tăng khen ngợi sách ấy hợp với nghĩa lý kinh Lăng Nghiêm nên mới lạy kinh, mong [kinh Lăng Nghiêm] sớm được truyền đến để chứng tỏ những gì chính mình nói chẳng sai lầm! Sao ông lại nói Ngài chẳng thể quyết đoán công đức sáu căn hơn - kém? Vì tự lập đường lối bèn hạ thấp ngài Trí Giả, nói như vậy tức là chẳng biết cội nguồn! Lầm lạc nghe lời người ta nói rồi cũng nghĩ như vậy. Chuyện lạy kinh đương nhiên là có, nếu nói hằng ngày lễ bái trong nhiều năm thì chính là lời của người sau thêm thắt. Đừng nói ngài Trí Giả không phải là Phật hiện thân, dẫu thật sự là Phật hiện thân thì do đã biến hiện thân phận làm Tăng, càng phải ẩn Thật hiện Quyền. Do vậy, càng cần phải có kinh để làm chứng cứ thì mới là khuôn phép hoằng truyền! Nếu tự cho mình là Phật, tự nói ra kinh thuộc đời vị lai, đấy chính là bè lũ bị ma dựa trong đời sau đều nói “ta là vị Phật này hay vị Bồ Tát nọ” để mào đầu. Đấy chính là nguyên do khiến bậc Pháp Thân Đại Sĩ hoằng pháp chẳng hiển Bổn vậy. Ông đã biết nghĩa lý ngài Thân Tử “trong ẩn kín hạnh Bồ Tát, ngoài hiện tướng Thanh Văn” trong kinh Pháp Hoa, sao lại nghi mỗi mình ngài Trí Giả? Hơn nữa, đoạn văn luận về Lý Trưởng Giả trong Văn Sao (tức đoạn văn trong bài Tịnh Độ Quyết Nghi Luận) cũng đã nói rõ nghĩa này, sao chẳng mở rộng ra để suy luận mà hiểu, lại cứ muốn hỏi han lôi thôi vậy?

      5) Tướng tông phán định giáo pháp trong cả một đời giáo hóa của đức Phật thành Tam Thời Giáo, đầu tiên là Hữu, kế đó là Không, sau cùng là Trung, chỉ có thời khác biệt, chứ không có thời thông suốt; Thiên Thai phán giáo thành Ngũ Thời, dùng cả thông lẫn biệt. Những kẻ học đạo thấy biết một chiều [do vậy] công kích lẫn nhau, chê nhau là sai. Người theo tông Thiên Thai hủy báng thuyết Tam Thời của Tướng Tông, cho là thấy biết một chiều, nghĩa hết sức chẳng trọn vẹn, không phải là ý chỉ vốn có của đức Phật. Người học theo Tướng tông chê bai Thiên Thai là mờ mịt, câu nệ, bày vẽ, sương mây mù mịt, hiếm có kẻ nào thấu suốt được! Rốt cuộc ai đúng, ai sai, mong thầy ban cho lời dạy lớn lao!

      Đáp: Câu này nên từ đoạn thứ tư mà lãnh hội ý nghĩa, sẽ tự biết chư Phật thuyết pháp tùy theo căn cơ của chúng sanh. Nay những kẻ hoằng pháp phần nhiều nói pháp trái với căn cơ. Do vậy, đức Phật đã sớm thọ ký rằng thời Mạt Pháp chính là thời đấu tranh kiên cố, buồn thay!

      6) Hỏi: Trước khi đức Phật hiển Bổn thì những vị Thanh Văn đều do tu mà thành, sau khi khai Quyền thì hết thảy tám bộ cũng đều là các vị đại Bồ Tát nương theo bổn nguyện [thị hiện giáng sanh trong Sa Bà] để phụ trợ [đức Thích Ca] giáo hóa, như vậy thì đệ tử Phật đã không có một ai do phàm phu tu thành thì đức Phật xuất thế có ích gì chúng sanh đâu?

      Đáp: Ông chỉ biết nói lời chấp nhặt hẹp hòi, chẳng hiểu được nguyên do những vị ấy thị hiện! Những vị trong hội Pháp Hoa ấy đều là những bậc đã chứng A La Hán, thoạt đầu đều chẳng tin Phật pháp, đều do nghe đức Phật giáo hóa, chỉ dạy đủ mọi lẽ rồi mới gia nhập Phật pháp. Do vậy, trong suốt hơn bốn mươi năm dài luôn theo sát Như Lai. Tôi hỏi ông nhé! Những vị ấy trong mấy chục năm trọn chẳng có một ai hướng dẫn người khác khiến họ sanh khởi lòng tin, sửa ác tu thiện, quy y Phật pháp liễu sanh thoát tử hay sao? Ông hỏi câu này đúng là si mê đến cùng cực!

      7) Hỏi: Kinh Pháp Hoa “giơ tay, cúi đầu, đều sẽ thành Phật”. Thêm nữa, kinh Pháp Hoa đã từng được nói trong vô lượng kiếp trước. Do vậy, thấy rằng trong vô lượng kiếp trước đã từng có đấng gọi là Phật độ chúng sanh trong cõi đời. Chúng sanh đã gieo thiện căn trong vô lượng kiếp trước thì những chúng sanh đã từng gieo thiện căn ấy đến nay lẽ ra đều đã thành Phật hoặc thành Bồ Tát rồi. Như vậy thì lẽ ra Phật, Bồ Tát nhiều, chúng sanh ít; cớ sao Phật, Bồ Tát thường ít thấy mà chúng sanh đông ùn ùn vậy? Chắc là chúng sanh trong vô lượng kiếp trước đều chưa có thiện căn giơ tay, cúi đầu? Hay là gieo [nhân] nhưng chưa chín muồi ư? Nếu nói gieo nhân nhưng chưa chín muồi thì rốt cuộc đến lúc nào mới chín muồi? Chúng sanh hiện tại gieo thiện căn giơ tay, cúi đầu, lại phải trải qua bao nhiêu vô lượng kiếp thì mới chín muồi được thiện căn ấy? Hay là vĩnh viễn chẳng thể chín muồi?

      Đáp: Hai câu nói “Phật, Bồ Tát nhiều, chúng sanh ít” và “Phật, Bồ Tát ít, chúng sanh nhiều” phải nhìn từ cõi nước chư Phật, Bồ Tát đang ở. Ví như gã dân hèn ở làng quê nhỏ bé [chỉ] biết những kẻ thường dân trong làng là nhiều, trọn chẳng biết những bậc phù tá nhà vua trong nước nhà nhiều vô số, nhưng pháp thế gian chẳng đủ để làm thí dụ cho thích đáng. Sao ông chẳng thấy Hoa Tạng hải chúng đông nhiều, ngay cả số vi trần trong một cõi Phật cũng chẳng thể sánh ví [số lượng thánh chúng trong Hoa Tạng] được ư?

Phật có thể độ chúng sanh nhưng chẳng thể độ kẻ không có duyên [với Phật]. Vì thế, phải bao lượt thị hiện giáng sanh, thị hiện nhập diệt để cho chúng sanh bao phen gieo [thiện căn], bao phen chín muồi thiện căn, bao phen được độ thoát. Nhưng do chúng sanh giới vô tận nên thệ nguyện của Phật, Bồ Tát vô tận! Ông dùng tri kiến đoạn diệt để bàn luận cho nên có những câu hỏi ấy. Câu hỏi ấy tợ hồ có lý, chẳng biết đấy vẫn là tình kiến chúng sanh, chẳng mảy may biết được cảnh giới của Phật, Bồ Tát! Nếu ông có thể nhất tâm niệm Phật vãng sanh Tây Phương, ắt sẽ than thở: “Bồ Tát đông đảo, chúng sanh ít ỏi!” Vì vậy, tôi nói: Hãy nên nhìn từ chỗ Phật, Bồ Tát đang ở, đừng nhìn từ nơi chúng sanh đang ở.

      8) Hỏi: Đệ tử bất luận ở chỗ nào, sáng sớm súc miệng, rửa ráy xong liền đắp y lễ bái Quán Âm Đại Sĩ đến khi tinh thần mỏi mệt liền ngồi xếp bằng trên mặt đất trì danh. Có lúc quá mệt nhọc, hễ ngồi liền hôn trầm hoặc suy tưởng loạn xạ. Cũng có lúc thân tâm thoải mái, ngồi độ nửa giờ mà cảm thấy ngắn như chỉ ngồi chừng mấy phút. Cũng có lúc tay lần xâu chuỗi mà bất ngờ xâu chuỗi từ đầu đến cuối hơn ba trăm hạt [bèn lần] xong trong khoảnh khắc, trong tâm cũng dường như xưng tụng rõ ràng, nhưng chẳng thật minh bạch lắm. Cũng có lúc trì chú, chợt quên bẵng bài chú đang trì, bất giác hồ đồ niệm tụng Phật hiệu. Những chuyện ấy rốt cuộc là cảnh giới như thế nào, rất mong thầy chỉ dạy.

      Đáp: Ngồi lâu chẳng cảm thấy là lâu, niệm lâu chẳng biết là lâu, đấy chính là do tâm tịnh thần lặng mà ra. Nhưng chớ nên tưởng đó là chứng đắc, từ đấy phải nỗ lực công phu sẽ tự được tiến hơn. Nếu coi đó là chứng đắc thì do vậy cũng không thể chứng đắc được, huống chi là tiến hơn! Trì chú hôn trầm niệm Phật, niệm Phật hôn trầm trì chú, đấy chính là do ý thức thuận theo vọng tâm, chánh niệm bị chuyển biến mà ra. Những người tu sơ cơ phần nhiều gặp tình trạng này. Nếu nắm vững công phu sẽ khỏi đến nỗi điên đảo lầm loạn. Nhưng điên đảo lầm loạn như vậy vẫn là do công phu mà ra. Nếu không có công phu thì ngay cả niệm hồ đồ như vậy cũng chẳng có được, huống là rõ ràng chẳng sai lầm ư?

Ban Châu Tam Muội người đời nay không hành được. Ông nói lời ấy là do ham cao chuộng xa hay là thật vì sanh tử vậy? Nếu thật vì sanh tử thì hãy nên y theo những pháp phàm phu thường hành được. Nếu là phàm phu sát đất mà lầm lạc tính hành pháp của thánh nhân quá sức mình ắt sẽ đến nỗi bị ma dựa, ngã lòng tu tập. Xin hãy dứt trừ ý niệm ấy ngõ hầu được lợi ích!

Bộ Văn Sao của Quang về ý thì có thể chấp nhận được, nhưng văn từ chẳng đáng xem, được hai vị Khai Sĩ Viên Sơn và Cương Dã muốn lưu thông, thật hổ thẹn sâu xa! Nhưng Bồ Tát vì lợi chúng sanh, ngay cả đầu mắt còn bằng lòng xả được, huống là những lời lẽ hủ bại, nhơ bẩn của Quang được hai vị Đại Sĩ đề xướng ngõ hầu hết thảy những kẻ mới học tin tưởng, ngưỡng mộ Tịnh tông thì Quang cũng cậy vào công đức của hai vị Đại Sĩ ấy mà tiêu trừ tội nghiệp, tăng trưởng thiện căn, được vãng sanh Tây Phương, thật là may mắn không chi lớn hơn!

Phàm những sách vở nhằm hoằng dương Phật pháp đều chớ nên ghi bản quyền. Nếu ghi bản quyền thì công đức hoằng pháp chẳng cự lại tội lỗi ngăn trở lưu thông đâu! Quang bận bịu quá mức, chớ nên thường hỏi han như thế này! Chẳng những Quang học thức hữu hạn mà hiểu biết cũng chẳng được mấy, chẳng thể đáp lời. Dẫu có đáp được cũng không có tinh thần, công phu đâu!

Dụ Muội Am biên soạn Cao Tăng Truyện gồm bốn tập (ông ta làm khoa trưởng thuộc dinh tỉnh trưởng tỉnh Trực Lệ, thỉnh người khác thay ông ta biên chép, còn ông chỉ soạn đề cương đại lược, cho nên sai sót không thể kể xiết. Ngay cả phần do chính ông ta viết cũng sai lầm nhiều khôn xiết. Quang chỉ dựa theo phần ông ta viết để giảo chánh, sửa đổi, gọt giũa đại lược mà thôi! Cuốn sách [do Quang đã sửa chữa] ấy chỉ nên dùng làm bản gợi ý cho người sẽ tu chỉnh cuốn sách [của ông Muội Am] sau này mà thôi, chẳng đáng coi là bản hoàn chỉnh vậy) hoàn thành vào tháng Chín năm ngoái, đem gởi tới mong Quang hãy giảo chánh cho ông ta. Quang lấy cớ học thức nông cạn và không rảnh rỗi để từ chối, ông ta nói mong rằng trong ba năm sẽ được sửa chữa xong. Suốt cả một năm ngoái chẳng ngó tới, mùa Xuân năm nay mới nhìn đến, sách quá thiếu tinh tường, sai ngoa quá nhiều! Đọc một hai ngày, ngần ngừ hết mấy ngày! Đến ngày hôm qua mới đọc xong. Do vậy, thư ông gởi đến từ hôm Hai Mươi Ba mà mãi tới bữa nay mới trả lời. Cái chết của Hiển Ấm cũng chỉ là vì cầu được vượt trội, cầu danh, chẳng biết lắng lòng tịnh dưỡng. Nghe nói ông ta đang bệnh mà hằng ngày vẫn cứ thường bàn luận chẳng tịnh dưỡng nên mới bị kết quả ấy.

 

32.  Thư trả lời pháp sư Minh Đạo

 

      Ông muốn bế quan ở Linh Nham thì sư Chân Đạt đã chấp thuận rồi. Đấy lại là cơ duyên tốt đẹp không chi bằng, nhưng phải toàn thân buông xuống hết, cái tâm bộp chộp vọng động mong gấp được lợi ích cũng buông xuống luôn thì sẽ tự được lợi ích. Nếu không, chỉ sợ thấy bị ma dựa. Phàm những kẻ bị ma dựa đều là do tâm bộp chộp, vọng động mà ra. Sư Chân Đạt quả thật đã thành tựu sự bế quan cho ông, hãy nên nghĩ báo ân, đừng vọng tưởng làm bậc đại thông gia, may ra sẽ được tâm tương ứng với Phật, chẳng cầu làm bậc đại thông gia mà lại có thể làm bậc đại thông gia! Đấy gọi là “vô tâm mà được, có tâm lại đâm ra bị mất mát”. Nghĩa lý trọng yếu trong Phật pháp chính là “tâm không chấp trước”. Nếu đã sẵn mang lòng chấp chết cứng [cầu] được đủ mọi cảnh giới lợi ích là đã ươm sẵn cái họa bị ma dựa. Nếu trong tâm rỗng rang, trừ một câu Phật hiệu ra, không có một niệm nào khác thì được, may ra sẽ chứng đắc vậy.

 

33. Thư gởi ông Đoàn Chấp Chánh[47]

 

      Vốn khâm phục ngài đức sâu dầy, hiểu biết chân chánh rạng rỡ, hiện thân làm quốc chủ để hành chuyện Như Lai, hộ trì Phật pháp, công đức khó lường, dõi nghe tiếng tăm, vui mừng khen ngợi không thể nào diễn tả được.

Nghe nói gần đây bộ Nội Vụ sắp thuận theo lời thỉnh cầu của Tiết đô trưởng[48], cho ban hành điều lệ đăng ký tài sản chùa miếu. Trong ngu kiến của kẻ ở chốn núi non rẫy bái, trộm nghĩ làm như vậy không nên. Phàm là người có lòng nhân chẳng thực hiện những pháp hà khắc quấy nhiễu dân. Huống chi tài sản của chùa miếu vốn để cúng dường Tam Bảo, quả thật là phước điền cho chúng sanh, những tài sản tầm thường thật chẳng thể sánh bằng! Trong văn bản Điều Lệ Quản Lý Chùa Miếu đã tu chỉnh được ban hành vào năm Dân Quốc thứ mười (1921) có ghi rõ [tài sản chùa miếu] được bảo vệ bình đẳng như [tài sản] của những người dân bình thường. Đã nói là “cùng được bảo vệ bình đẳng”, há nên định riêng điều lệ khắc nghiệt?

Vả nữa, nói trên phương diện tôn giáo, có lẽ cũng không nên có cái nhìn lệch lạc chút nào. Điều lệ đăng ký tính áp dụng hiện thời chuyên áp dụng vào chùa miếu, chứ không ảnh hưởng tới tài sản của giáo hội [Thiên Chúa giáo], cho thấy luật lệ của chánh quyền không thật hết sức công bằng. Tra trong văn bản điều lệ quản lý chùa miếu đã ban hành trước đây thì lại thấy nói tài sản của chùa miếu sẽ đăng ký nơi ty hành chánh cai quản địa phương ấy, tuy chưa nói rõ phương pháp đăng ký nhưng đã ghi là “các tôn giáo và những người dân bình thường đều cùng được bảo vệ”, như vậy thì đương nhiên cũng phải áp dụng cùng một điều lệ đăng ký như tài sản của người dân [bình thường]. Văn bản đã được công bố rõ ràng, sao lại vụng về dùng quy định do bộ Nội Vụ ban hành sau này đến nỗi mâu thuẫn với mệnh lệnh trước kia? Do vậy, chẳng nề mạo muội, quấy nhiễu tâu trình. Khẩn cầu ngài hãy rộng vận Từ tâm, mau truyền lệnh cho bộ Nội Vụ bãi bỏ điều kiến nghị ấy để [dân chúng] khỏi bị quấy nhiễu khốn khổ, lòng nhân sâu đậm, ân trạch sâu dầy ấy nào phải chỉ có tăng chúng cảm kích, vâng đội chẳng quên, mà hết thảy chư Phật cũng sẽ đồng thanh khen là lành, kẻ không có trách nhiệm hết sức bứt rứt mong chờ ngài ra lệnh.

Tăng sĩ Đế Nhàn, Ấn Quang kính bạch,

 

* Đính kèm thư trả lời

 

      Kính trình các ngài,

      Chúng tôi được ngài Chấp Chánh giao xuống một lá thư, trong ấy nói “bộ Nội Vụ sắp chấp thuận lời thỉnh cầu của Tiết Đô Trưởng ban hành lệnh điều lệ đăng ký chùa miếu, khẩn khoản thỉnh ra lệnh cho bộ Nội Vụ bãi bỏ lệnh ấy”. Do vâng theo lời phê [của ngài Chấp Chánh] “Đã thẩm tra, ra lệnh ngưng lại…” ngoài việc tống đạt văn thư cho bộ Nội Vụ, chúng tôi còn gởi thư này trả lời, mong quý ngài thấu hiểu.

      Bí thư sảnh thuộc phủ Chấp Chánh Lâm Thời kính báo.

     

Ấn Quang pháp sư Văn Sao Tam Biên

Quyển 1

Phần 1 hết

     

 

 



[1] Năm 213 trước Công Nguyên, Tần Thủy Hoàng hạ lệnh đốt sách chôn Nho sĩ (sử gọi là “phần thư khanh nho”). Sau khi thống nhất Trung Hoa, nhằm dễ bề thống trị dân chúng, đương nhiên cần phải triệt hạ những tư tưởng có thể gây nguy hại cho oai quyền thống trị của nhà Tần; do vậy, thừa tướng Lý Tư đã xin Tần Thủy Hoàng hạ chỉ thiêu hủy toàn bộ sách vở của bách gia chư tử, những ai lén tàng trữ đều bị xử tử. Đồng thời hạ lệnh chôn sống hơn 460 Nho sĩ và phương sĩ để diệt tận gốc tư tưởng học thuyết cũ.

[2] Thời ấy chưa có giấy, sách phải viết lên những thẻ tre hoặc thẻ gỗ, gọi là “Giản Sách”.

[3] Dân chúng vẫn lén lút cất giữ sách vở bằng cách chôn giấu trong vách.

[4] Tuyết Lư là biệt hiệu của lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam.

[5] Tức là bộ Ấn Quang Đại Sư Văn Sao Tinh Hoa Lục, tức là tác phẩm tập hợp những câu quan trọng, tinh túy nhất trích từ hai bộ Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên và Tục Biên. Cuốn này do Lý Tịnh Thông biên soạn, do hai vị pháp sư Liễu Nhiên và Đức Sâm cùng giám định. Theo ngu ý, cuốn này chọn lọc không tinh tường bằng bộ Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục của ông Lý Viên Tịnh.

[6] Hoằng Hóa nguyệt san là một tạp chí được phát hành mỗi tháng của Ấn Quang Đại Sư Kỷ Niệm Hội, do cư sĩ Chung Huệ Thành làm chủ bút, pháp sư Đức Sâm làm chủ nhiệm. Số đầu tiên được phát hành vào ngày mồng Một tháng Bảy năm 1941. Đến tháng Năm 1949, tạp chí này được Hoằng Hóa Xã đứng ra chịu trách nhiệm xuất bản và do ông Du Hữu Duy làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Đến tháng Hai năm 1956, tạp chí này được giao cho Hiệp Hội Phật Giáo Thượng Hải quản trị, Duy Hữu Duy tiếp tục làm tổng biên tập. Đến tháng Bảy năm 1958 thì bị chính quyền Hoa Lục đình bản.

[7] Pháp sư Diệu Chân (1895-1967), tên ngoài đời là Vạn Chánh Tài, Diệu Chân là pháp danh, pháp tự là Đạt Ngộ, người huyện Táo Dương, tỉnh Hồ Bắc. Năm lên mười tám tuổi, khi cha mẹ ép phải lấy vợ, Sư vốn mang chí xuất gia liền trốn qua huyện Tùy xin xuống tóc tại chùa Tung Sơn ở Đàm Trấn, rồi đến thọ giới tại chùa Pháp Vũ ở Phổ Đà trong năm ấy. Sau khi thọ Cụ Túc Giới, Sư trở về chùa Tung Sơn, học tập giáo nghĩa với Bổn Sư. Hai năm sau, được sự chấp thuận của Bổn Sư, pháp sư bèn đi hành cước tham học khắp nơi. Sư từng đến chùa Quán Tông núi Tứ Minh để học giáo nghĩa Thiên Thai, được trúng tuyển vào học ở Quán Tông Học Xã của pháp sư Đế Nhàn. Pháp sư Diệu Chân học tại đó ba năm, tốt nghiệp năm 1920. Năm 1923, pháp sư Trì Tùng từ Nhật Bản trở về Trung Hoa, pháp sư Diệu Chân bèn theo học Đông Mật với pháp sư Trì Tùng. Không lâu sau, pháp sư Trì Tùng sang Vũ Hán hoằng pháp; khi ấy, pháp sư Từ Châu đang làm hiệu trưởng Pháp Giới Học Viện tại chùa Hưng Phước ở Thường Thục bèn mời Diệu Chân đến giữ nhiệm vụ Giám Học. Khi ngài Từ Châu vì sức yếu lắm bệnh, từ nhiệm chức vụ hiệu trưởng Pháp Giới Học Viện, xin về Linh Nham dưỡng bệnh, Diệu Chân cũng theo về Linh Nham để săn sóc. Lúc ấy, pháp sư Giới Trần đang làm Trụ Trì chùa Linh Nham. Mùa Xuân năm sau, pháp sư Giới Trần nhận lời về Côn Minh hoằng hóa, pháp sư Từ Châu nhận lời thỉnh của hòa thượng Chân Đạt tiếp nhận chức vụ Trụ Trì Linh Nham; ngài Từ Châu bèn cử Diệu Chân làm Giám Viện. Chính pháp sư Diệu Chân đã định ra chương trình mở Phật Thất quanh năm, thực hiện đúng tông chỉ do tổ Ấn Quang đề xướng cũng như chịu trách nhiệm kiến tạo Linh Nham, quản trị tăng chúng. Người ta thường nghĩ tổ Ấn Quang khai sáng đạo tràng Tịnh nghiệp Linh Nham, chứ thật ra, theo Linh Nham Sơn Chí, đạo tràng này do hòa thượng Chân Đạt khai sáng, rồi tuân theo lời dạy của tổ Ấn Quang, hòa thượng Chân Đạt biến Linh Nham thành đạo tràng đầu tiên chuyên tu Tịnh nghiệp theo đúng tông chỉ do tổ Ấn Quang đề xướng; tổ Ấn Quang chỉ đóng vai trò Cố Vấn Đạo Sư. Tuy chỉ là Giám Viện, pháp sư Diệu Chân đảm nhiệm phần lớn công việc của một vị Trụ Trì: xây cất, hoạch định chương trình đào tạo, quản chúng, trông nom mọi việc lớn nhỏ trong chùa. Thoạt đầu, để tiện việc in sách, Tổ Ấn Quang rời Phổ Đà đến ở chùa Thái Bình của hòa thượng Chân Đạt. Sau này, do ngày càng bị thư từ quá nhiều, Tổ tính lánh phiền bỏ sang Hương Cảng bế quan, hòa thượng Chân Đạt cùng các vị cư sĩ hộ pháp như Quan Quýnh Chi, Trầm Tỉnh Thúc, Triệu Vân Thiều thương nghị, khẩn cầu Tổ về bế quan tại chùa Báo Quốc ở Tô Châu (chùa này cũng do hòa thượng Chân Đạt quản nhiệm, thầy Minh Đạo làm Giám Viện). Đến tháng Hai năm 1937, do sự biến Lư Cầu Kiều, quân Nhật tấn công Trung Hoa, ném bom vùng Hoa Nam, lo lắng cho sự an nguy của Tổ, các vị Chân Đạt, Đức Sâm, Liễu Nhiên, Diệu Chân v.v… van nài Tổ về trú ngụ tại Linh Nham. Từ tạ không được, Tổ chấp nhận dời về sống tại Linh Nham vào tháng Hai năm 1937. Khi Tổ về Linh Nham, Tăng chúng hâm mộ Tịnh nghiệp kéo về xin nhập chúng tại Linh Nham ngày càng đông hơn, trách nhiệm Giám Viện của Diệu Chân vô cùng nặng nề nhưng Sư vẫn châu toàn. Ngày Hai Mươi Bảy tháng Mười (âm lịch) năm 1940, tổ Ấn Quang đã tám mươi tuổi, khoảng bảy giờ sáng từ căn phòng bế quan chống gậy vào nhà tắm, chợt vấp chân té, mọi người kinh hoảng, mời cư sĩ Ngô Vô Sanh đến khám ngay lập tức, nhưng xét nghiệm thấyTổ không bị thương tổn gì, tinh thần vẫn minh mẫn như thường. Sáng ngày Hai Mươi Tám, sau khi dùng cơm sáng và cơm trưa như thường lệ, sau bữa Ngọ, Tổ đột nhiên gọi các vị chấp sự trong núi và những cư sĩ đang có mặt trong chùa độ hơn ba chục người, đến nói: “Chức vụ Trụ Trì Linh Nham không thể bỏ trống lâu hơn nữa, hãy thỉnh thầy Diệu Chân đảm nhiệm”. Mọi người vâng lệnh, đề nghị chọn ngày mồng Chín tháng Mười Một làm lễ tấn sơn cho Diệu Chân. Tổ bảo “lâu quá”, cuối cùng mọi người đề nghị ngày mồng Một tháng Mười Một, Tổ nói: “Thôi cũng được!” Hai hôm sau, hòa thượng Chân Đạt từ Thượng Hải tới, Tổ cậy hòa thượng Chân Đạt lo liệu lễ tấn sơn. Rạng sáng ngày mồng Bốn tháng Mười Một, Tổ ngồi ngay ngắn niệm Phật, đến ba giờ chiều, thầy Diệu Chân ghé thăm, Tổ dạy: “Ông nên duy trì đạo tràng, hoằng dương Tịnh Độ, đừng học theo lối kẻ cả”, rồi không nói gì nữa, khe khẽ niệm Phật. Đến năm giờ, Đại Sư mỉm cười an nhiên vãng sanh giữa tiếng niệm Phật của đại chúng. Diệu Chân tiếp tục sự nghiệp duy trì đạo tràng Linh Nham theo đúng giáo huấn của Tổ, Sư còn lập ra Linh Nham Sơn Tự Tây Phương Nghiên Cứu Xã, sau này đổi tên thành Linh Nham Sơn Tự Tịnh Tông Phật Học Uyển để hoằng dương Tịnh Tông và đào tạo tăng tài. Sư còn cho lập nông trường sau Linh Nham để chùa có thể tự túc lương thực, đồng thời tiến hành những công tác từ thiện như nuôi dạy cô nhi, chữa bệnh miễn phí, phát thuốc, thí cháo cho dân nghèo v.v… Khi Trung Quốc Phật Giáo Hiệp Hội thành lập dưới thời Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, đại chúng suy cử Diệu Chân làm Lý Sự Trưởng và phó chủ tịch hội Phật Giáo Giang Tô. Sư viên tịch năm 1967, thọ 73 tuổi, hạ lạp 56 năm.

[8] Ông La Ung Hồng Đào chưa hề được đích thân học với tổ Ấn Quang, chỉ do đọc Văn Sao sau khi Tổ đã mất mà tu tập theo giáo huấn của Ngài nên được gọi là “tư thục đệ tử”.

[9] Pháp Sư Đức Sâm (1883-1962) tên thật là Dương Long, người huyện Hưng Quốc tỉnh Giang Tây, có chí xuất gia từ lúc mới lớn, nhưng mãi đến năm 1912 mới được thỏa nguyện xuống tóc với hòa thượng Kim Thái chùa Báo Ân huyện Trường Đinh tỉnh Phước Kiến, rồi thọ Cụ Túc Giới tại chùa Đại Thừa huyện Ninh Đô (Phước Kiến) vào năm 1913. Pháp sư Liễu Nhiên cũng cùng thọ giới trong Tam Đàn Đại Giới này. Năm 1921, Sư cùng với sư Liễu Nhiên kết thành đồng bạn đi tham học các nơi. Năm 1922, đến chùa Pháp Vũ núi Phổ Đà, gặp được tổ Ấn Quang, Tổ biết hai người là pháp khí của tông Tịnh Độ, hết sức khuyên dạy, bảo ban chuyên tu Tịnh nghiệp. Tổ lại còn đích thân đến gặp hòa thượng Văn Chất xin cho hai người được ở lại Tàng Kinh Các chùa Pháp Vũ để tu học và nghiên cứu kinh điển. Từ đấy, hai vị phát nguyện trọn đời theo hầu dưới gối tổ Ấn Quang. Do giúp Tổ giảo duyệt kinh sách, pháp sư Đức Sâm đọc bản truyện ký về Tổ do cư sĩ Mã Khế Tây biên soạn mà Tổ không thèm đọc, vứt bỏ đó, mới biết Tổng Thống Từ Thế Xương của chánh quyền Dân Quốc thời ấy đã từng ban tặng Tổ một tấm biển ngạch với bốn chữ Ngộ Triệt Viên Minh, bèn đem chuyện ấy hỏi Tổ. Tổ quở: “Ngộ còn chưa được, nói chi viên minh? Mù quáng bịa chuyện, khiến tôi thêm xấu hổ”. Mãi về sau, Đức Sâm thấy trên đại điện tấm biển ấy được Trụ Trì chùa Pháp Vũ cho treo vào một chỗ rất khuất, nếu không chú ý sẽ không thấy được! Năm 1930, tổ Ấn Quang thành lập Hoằng Hóa Xã thuộc Thượng Hải Tịnh Nghiệp Xã để lưu thông kinh sách, Tổ đã giao cho Đức Sâm trông nom mọi việc tại Tịnh Nghiệp Xã và Hoằng Hóa Xã. Khi Tổ về bế quan tại Tô Châu, Đức Sâm cũng dời Hoằng Hóa Xã từ Thượng Hải về Tô Châu để có dịp luôn theo hầu hạ. Chỉ đến khi chiến tranh Trung - Nhật nổ ra, đường bưu điện không bảo đảm, vâng theo lời dạy của Tổ, Sư đành ở lại Thượng Hải để lo giảo chánh, ấn tống kinh sách. Suốt hai mươi năm sau đó, Đức Sâm tận tụy đảm trách nhiệm vụ ấn loát, phát hành những kinh sách do Tổ đã giám định hoặc trước tác. Năm 1940, Tổ viên tịch, đại chúng thành lập Ấn Quang Đại Sư Vĩnh Cửu Kỷ Niệm Hội, suy cử sư Đức Sâm làm phó hội trưởng. Năm 1946, Đức Sâm tuổi đã 64, cảm thấy vô thường sắp tới, từ tạ mọi nhiệm vụ trong Hoằng Hóa Xã, bế quan tu Tịnh nghiệp cho đến khi viên tịch vào ngày Mười Sáu tháng Mười năm Nhâm Dần (1962), thọ 81 tuổi, giới lạp bốn mươi chín năm.

[10] Tức lá thư gởi Hòa Thượng Quảng Huệ được đánh số 152 trong Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng.

[11] Tô Đông Pha là hậu thân của Ngũ Tổ Giới.

[12] Truy Đảnh là cách niệm Phật liên tiếp, chưa dứt câu này đã niệm tiếp ngay câu khác, không xen hở chút nào, giống như câu này gối đầu lên câu kia nên gọi là “truy đảnh”. Cách này chỉ có thể áp dụng trong chốc lát khi vọng tưởng quá mạnh mẽ, không nên niệm trong một thời gian dài sẽ bị tổn khí thành bệnh.

[13] Tam Huyền, Tam Yếu là phương pháp được tông Lâm Tế áp dụng để tiếp dẫn học nhân. Tam Huyền là:

1) Thể Trung Huyền: Lời nói hoàn toàn không bóng bẩy, chỉ căn cứ theo chân tướng và đạo lý của sự vật để diễn tả.

2) Cú Trung Huyền: Lời nói chân thật chẳng dính dấp vào tình thức phân biệt, không câu nệ vào ngôn ngữ với mục đích khiến người học hiểu được ý nghĩa huyền diệu.

3) Huyền Trung Huyền (Dụng Trung Huyền): Những câu nói huyền diệu xa lìa hết thảy những đối đãi và gông cùm ngôn ngữ.

Tam Yếu là lời lẽ không phân biệt, tạo tác; vào thẳng chỗ huyền áo, dứt bặt ngôn ngữ.

[14] Minh Tạng, gọi đủ là Minh Bản Đại Tạng Kinh, hoặc Minh Bản, gồm có năm loại:

1) Hồng Vũ Nam Tạng (Sơ Khắc Nam Tạng), được khắc theo lệnh của Minh Thái Tổ, mãi cho đến năm đầu niên hiệu Vĩnh Lạc (1402) mới xong, có thuyết nói là tới năm Hồng Vũ 31 (1398) đã khắc xong. Bản khắc xong được giữ tại chùa Báo Ân ở Nam Kinh, gồm 1.612 bộ kinh. Bản này cũng được bảo tồn tại chùa Khoái Hữu thuộc quận Phong Phố, Nhật Bản.

2) Vĩnh Lạc Nam Tạng, khắc từ năm Vĩnh Lạc thứ mười (1412) đến năm Vĩnh Lạc 15 (1417) mới xong, bản này cũng khắc tại Nam Kinh, nội dung giống bản Hồng Vũ nhưng được giảo chánh cẩn thận hơn và tăng thêm một số kinh nữa thành 1.625 bộ kinh, chia thành 6.331 quyển.

3) Vĩnh Lạc Bắc Tạng: cũng được khắc theo lệnh của Minh Thành Tổ, bắt đầu khắc vào năm Vĩnh Lạc 18 (1420) mãi cho đến năm Chánh Thống thứ năm (1440) đời Minh Anh Tông mới xong, gồm 1.615 bộ, tức là đã lược bỏ một số trước tác ra khỏi tạng. Về sau, tuân lệnh của mẹ vua Minh Thần Tông, đưa thêm 35 bộ như Hoa Nghiêm Huyền Đàm Hội Huyền Ký v.v… vào tạng, trở thành 1.660 bộ kinh sách.

4) Vũ Lâm Tạng: được khắc in dưới niên hiệu Gia Tĩnh, được khắc ván tại Vũ Lâm tỉnh Chiết Giang, tạng này nay đã thất truyền.

5) Lăng Nghiêm Tự Bản, còn gọi là Vạn Lịch Bản, Mật Tạng Bản, Gia Hưng Bản, Kính Sơn Bản v.v… được khắc in vào năm Vạn Lịch 14 (1586), do ngài Mật Tạng Đạo Khai phát nguyện đứng ra khắc in tại Kính Sơn (Chiết Giang), cuối cùng đem bản khắc về in tại chùa Lăng Nghiêm huyện Gia Hưng (Chiết Giang), hoàn thành cuối đời Vạn Lịch (1620). Bản này được lưu truyền rộng rãi nhất. Sau này, vào cuối đời Thanh còn bổ sung thêm những trước tác được triều đình chấp thuận cho nhập tạng gọi là Tục Tạng, rồi Hựu Tục Tạng gồm 185 bộ nữa. Như vậy, bản Minh Tạng được Tổ Ấn Quang nói đến ở đây chính là phần Tục Tạng của tạng kinh này.

[15] Lưu Ly Xưởng là tên một “phố văn hóa” nổi danh ở Bắc Kinh, dọc theo con đường này toàn là những cửa tiệm chuyên bán các sản phẩm văn hóa và sách vở rất có giá trị.

[16] Tục Thể là một lối viết chữ Hán cho nhanh gọn phổ biến trong dân gian. Lối viết này đã hình thành từ thời Lục Triều, phổ biến nhất vào thời Tùy - Đường. Tục Thể về sau được áp dụng chủ yếu trong công cuộc xây dựng chữ Hán giản thể tại Hoa Lục. Đặc điểm của Tục Thể là bỏ bớt nét nếu có thể, chẳng hạn chữ Đáp () được viết thành , Thư () viết thành , hoặc sử dụng những chữ có âm gần giống nhưng ít nét hơn để thay thế như Đăng () viết thành , Phần () viết thành .

Có hai cách hiểu chữ Phá: một là không hoàn chỉnh, hai là vượt ra ngoài khuôn khổ quy định một cách táo bạo, sáng tạo. Đa phần chữ Phá Thể được dùng với ý nghĩa thứ hai. Theo Thư Pháp Tiểu Từ Điển (Tạ Đức Hoa, Tôn Đôn Tú biên soạn, Bắc Kinh Xuất Bản Xã ấn hành) thì: “Phá Thể là những chữ viết theo lối Tục Thể, hoặc vận dụng âm nghĩa giống nhau mà thành. Hoặc là biến thể của lối Hành Thư, do Vương Hiến Chi đời Tấn (con của Vương Hy Chi) biến đổi lối viết Hành Thư, sáng chế một lối viết riêng, biến đổi tự dạng”. Nói cách khác, Phá Thể là những kiểu viết tung hoành, bay bướm, tùy hứng không tuân thủ những nguyên tắc của những lối chữ truyền thống như Chân, Hành, Triện, Thảo, Lệ đến nỗi nếu không nghiên cứu về lối chữ này sẽ không thể đọc được!

Thiếp Thể là một lối viết chuyên biệt để dành viết thiếp, gần giống với Phá Thể.

Cổ Thể là lối viết chữ Hán theo thời cổ, thường là những chữ được viết thời Tần - Hán, thường rất khác với chữ hiện thời, chẳng hạn chữ Nhân () viết theo lối Cổ Thể sẽ giống như chữ Nhập (), còn Nhập lại viết giống như chữ Bát ().

[17] Tứ Tổ Pháp Chiếu có soạn một tác phẩm mang tựa đề Tịnh Độ Ngũ Hội Niệm Phật Tụng Kinh Quán Hạnh Nghi Quỹ (thường gọi tắc là Ngũ Hội Pháp Sự Nghi), ba quyển, nhưng bị thất truyền từ lâu. Mãi đến năm 1908, ông Pelliot người Pháp tìm được hai quyển trung và hạ của tác phẩm này tại Đôn Hoàng, gồm hai mươi mốt bài tán tụng. Theo truyền thuyết, Tứ Tổ từng được Văn Thù Đại Sĩ dạy cách niệm Phật theo Ngũ Hội khi triều bái Ngũ Đài, nhưng cách này đã thất truyền từ lâu; người đời sau phỏng theo những lời dạy trong bộ Ngũ Hội Pháp Sự Nghi chế ra lối niệm Phật gồm năm khúc, từ chậm rãi uyển chuyển đến nhanh dần, âm thanh cao dần lên, đến hội thứ năm chỉ còn niệm bốn chữ hồng danh. Sở dĩ chia thành ngũ hội là nhằm thể hiện ý nghĩa trừ Ngũ Khổ, đoạn Ngũ Cái, tịnh Ngũ Nhãn, đủ Ngũ Căn, thành Ngũ Lực, đắc Bồ Đề, giải thoát trọn vẹn… Giai điệu của Ngũ Hội niệm Phật quá du dương nên dễ khiến người nghe say đắm nhạc điệu, không chú trọng nhiếp niệm. Do giai điệu Ngũ Hội Niệm Phật được lưu hành cho tới hiện thời vẫn mạo danh Tứ Tổ nên bị Tổ chê trách.

[18] Đây là mười tám món vật tùy thân của tăng sĩ hành hạnh Đầu Đà thường mang theo bên mình: Nhành dương (để chà răng cho miệng thơm sạch, tương ứng bàn chải đánh răng hiện thời), tháo đậu (những loại bột đậu có chất nhờn nhẹ hòa với đất sét để kỳ cọ chất bẩn trên thân khi tắm gội, rửa ráy, giống như xà-phòng), ba áo ca-sa, bình đựng nước, bát, ngọa cụ (đồ trải để nằm hay ngồi), tích trượng, lò hương, đãy lọc nước, khăn tay, dao (để cạo tóc, cắt móng tay, cắt y v.v…), đá lửa và bùi nhùi (để đánh lửa khi cần dùng), nhíp nhổ lông mũi, giường do những sợi dây bện thành (không phải võng), quyển kinh, giới bổn, tượng Phật, tượng Bồ Tát.

[19] Đây là một cách giải thích chú Đại Bi không biết phát xuất từ thời nào, mỗi câu trong bài chú Đại Bi tương ứng với một hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát hoặc một vị Bồ Tát, Thanh Văn nào đó, chẳng hạn câu “Ma-ha Ca-rô-ni-ca-da” là Mã Minh Bồ Tát hiện thân, “Nam-mô tất-cát-lật-đỏa y mông” là Quán Thế Âm hiện thân Long Thọ Bồ Tát, câu “địa rị ni” là Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân Sư Tử Vương Bồ Tát, “bồ-đà-dạ bồ-đà-dạ” là Quán Thế Âm hiện thân tôn giả A Nan v.v…

[20] Trong kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Quán Thế Âm Bồ Tát tự bạch nhân duyên như sau: “Bạch đức Thế Tôn! Con nhớ vô lượng ức kiếp về trước, có Phật ra đời hiệu là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai, đức Phật ấy vì thương nghĩ đến con và tất cả chúng sanh nên nói ra môn Quảng Đại Viên Mãn Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, Ngài lại dùng tay sắc vàng xoa đảnh đầu con mà bảo: ‘Thiện nam tử! Ông nên thọ trì tâm chú này và vì khắp tất cả chúng sanh trong cõi nước ở đời vị lai mà làm cho họ được sự lợi ích an vui lớn’. Lúc đó, con mới ở ngôi Sơ Địa vừa nghe xong thần chú này liền chứng vượt lên Đệ Bát Địa. Bấy giờ con rất vui mừng, liền tự phát thệ rằng: ‘Nếu trong đời vị lai con có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú này thì xin khiến cho thân con liền sanh ra ngàn tay ngàn mắt’. Khi con phát thệ rồi, ngàn tay ngàn mắt đều hiện nơi thân…” (theo bản dịch của hòa thượng Thiền Tâm)

[21] Tứ Minh tôn giả (960-1028), chính là ngài Tri Lễ, pháp hiệu Pháp Trí, một vị cao tăng tông Thiên Thai. Ngài quê ở Tứ Minh (thuộc huyện Cận tỉnh Chiết Giang), lên bảy tuổi mất mẹ bèn phát nguyện xuất gia, mới mười lăm tuổi đã được đặc cách thọ Cụ Túc Giới, năm hai mươi tuổi sang chỗ ngài Bảo Vân Nghĩa Thông học Thiên Thai Giáo Quán, chỉ một buổi đã tinh thông. Năm Chí Đạo thứ nhất (995), ngài được thỉnh về làm Trụ Trì Bảo Ân Tự núi Tứ Minh, ba năm sau chùa được sắc tứ là Diên Khánh Tự. Sư hoằng pháp giảng kinh tại đây hơn bốn chục năm, khắp cả vùng Đông Nam Trung Hoa đều theo học. Sư cùng với đại sư Tuân Thức là những nhân vật chủ chốt của Thiên Thai Xuất Gia Phái, đối lập với Sơn Ngoại Phái của Ngộ Ân, Hồng Mẫn, Nguyên Thanh v.v… Sư bình sinh dốc sức biên soạn sám pháp và giảng các bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa (bảy lần), Pháp Hoa Văn Cú (tám lần), Ma Ha Chỉ Quán (tám lần), Đại Niết Bàn Kinh Sớ (một lần), Kim Quang Minh Huyền Nghĩa Sớ (mười lần), Quán Âm Biệt Hành Huyền Sớ (bảy lần), Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ (bảy lần). Sư chuyên tu Pháp Hoa Sám mỗi kỳ tu tập là hai mươi mốt ngày đêm hành trì liên tục. Sư còn chuyên tu Di Đà Sám Pháp năm mươi lần. Sư từng đốt ba ngón tay cúng Phật, mỗi năm tổ chức pháp hội niệm Phật thí giới. Sư trước tác rất nhiều, hiện còn giữ được các bộ Quán Kinh Sớ Diệu Tông Sao, Kim Quang Minh Kinh Văn Cú Ký, Giải Báng Thư, Đại Bi Sám Nghi, Tu Sám Yếu Chỉ, Quang Minh Sám Nghi, Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Dung Tâm Giải, Quán Âm Biệt Hành Huyền Nghĩa Ký, Quán Âm Biệt Hành Sớ Ký, Thích Thỉnh Quán Âm Sớ Trung Tiêu Phục Tam Dụng, Vấn Mục Nhị Thập Thất Điều Đáp Thích, Nhị Thập Vấn, Biệt Lý Tùy Duyên, Nghĩa Lệ Cảnh Quán v.v…

[22] Vị Tăng rời chúng đi nơi khác gọi là “khởi đơn” hay “trừu đơn”. Khi xưa Tăng chúng chỉ nằm trên những miếng ván kê thành hàng, vừa đủ một người nằm nên gọi là Đơn.

[23] Còn gọi là kế thừa y bát, tức vị thầy thấy trong số các đệ tử hoặc tăng sĩ đến nhập chúng tu học, người nào lãnh hội được giáo pháp mình đang truyền thụ, sẽ phó chúc cho vị đó nhận lãnh vai trò đứng đầu chúng, tiếp tục hoằng truyền giáo nghĩa (có thể tạm hiểu là giống như tiếp nhận chức chưởng môn trong các phái võ).

[24] Tạng Giáo (gọi cho đủ là Tam Tạng Giáo), là một trong bốn giáo (Tứ Giáo) do tông Thiên Thai thành lập, tức là tên gọi khác của Tiểu Thừa. Sách Tứ Giáo Nghĩa quyển một, giảng: “Giáo này hiểu rõ lý bốn Thánh Đế nhân duyên sanh diệt, chủ yếu dạy hàng Tiểu Thừa, kiêm dạy hàng Bồ Tát. Gọi là Tam Tạng Giáo thì một là Tu Đa La Tạng, hai là Tỳ Ni Tạng, ba là A Tỳ Đàm Tạng… Ba tạng này thuộc về Tiểu Thừa”. Như vậy, giáo này chú trọng đến những giáo pháp Tiểu Thừa trong Tam Tạng kinh điển, cụ thể hơn là Tứ A Hàm của Kinh Tạng, Bát Thập Tụng Luật của Luật Tạng và các pháp nghĩa được phân biệt bởi đức Phật và các Thanh Văn đệ tử.

[25] Theo tông Thiên Thai, Viên có nghĩa là viên mãn hoàn bị chẳng thiên lệch. Theo Chỉ Quán Phụ Hành Truyền Hoằng Quyết, quyển một, thì tuy những giáo pháp được nói trong Hoa Nghiêm, Phương Đẳng, Bát Nhã đều là viên đốn nhưng chưa phải là viên đốn triệt để, chỉ có kinh Pháp Hoa là viên đốn triệt để. Theo Ma Ha Chỉ Quán, trong Viên Giáo lại chia thành bốn môn, tức:

1) Hữu Môn: Quán Kiến Hoặc, Tư Hoặc đều là giả, nhưng chúng chẳng lìa ngoài pháp giới, đầy đủ hết thảy Phật pháp.

2) Không Môn: Quán hết thảy pháp chẳng tại nhân, chẳng thuộc duyên, Ngã và Niết Bàn đều là không.

3) Diệc Hữu Diệc Không Môn: Không chính là Giả, Giả chính là Không.

4) Phi Hữu Phi Không Môn: Kiến Hoặc, Tư Hoặc chính là pháp tánh, do vậy Kiến Hoặc và Tư Hoặc đều chẳng phải có (Phi Hữu). Pháp Tánh chính là Kiến Hoặc, Tư Hoặc nên pháp tánh chẳng phải là Không (Phi Không).

[26] Ô Vưu là tên núi, đồng thời là tên chùa. Chùa này cũng thuộc Tứ Xuyên, gần với chùa Lăng Vân, nơi có Lăng Vân Đại Phật (Lạc Sơn Đại Phật). Chùa được xây trên đảnh núi Ô Vưu vào thời Đường với tên là Chánh Giác Tự, đến đời Bắc Tống đổi thành Ô Vưu Tự.

[27] Có hai cách hiểu chữ Thất Chi:

1) Thân khẩu thất chi: Tức những điều ác nơi thân và miệng (ba điều nơi thân tức Giết - Trộm - Dâm và bốn điều nơi miệng, tức nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều và ác khẩu).

2) Bảy tụ (nhóm) giới trong giới luật tỳ-kheo, tức Ba-la-di, Tăng-tàn, Thâu-lan-giá, Ba-dật-đề, Ðề-xá-ni, Ác-tác, Ác-thuyết.

Tứ Nghi là bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi.

[28] Đơn vị đo chiều dài đời Châu, tám thước là một Nhận.

[29] Trong Niên Phổ, Thái Hư đại sư đã cho biết khi các ông Dịch Thật Phủ, Thịnh Quý Bảo v.v… lên chơi núi Bạch Vân ở Quảng Châu, tình cờ gặp lại thi hữu là đại sư Thái Hư ở đó bèn cùng nhau xướng họa, đại sư đã họa lại bài thơ của ông Dịch Thật Phủ có câu: “Thái hư như thái hư, na phạ bạch vân yểm” (thái hư như thái hư, nào sợ mây trắng phủ). Câu thơ được ghi vào thi tập. Ấn Quang đại sư đọc được câu này vào năm Tuyên Thống thứ ba (1911), rất tán thưởng, viết bài thơ họa lại, gởi cho Thái Hư có câu: “Thái hư đại vô biên, hà vật năng tương yểm, bạch vân ngẫu nhĩ thê, đương xử tiện đảm ảm, xuy dĩ hạo đãng phong, hoa cảnh liễu vô điểm, thứ khả quán cận giả, mạc do trì tuấn biếm” (thái hư rộng vô biên, vật nào che lấp được, ngẫu nhiên mây trắng đậu, chỗ ấy thành âm u, một trận gió to thổi, hoa cảnh lại rạng ngời, mong được đến gần ngắm, không cách nào ruổi rong). Thái Hư đại sư họa lại: “Nhật nguyệt hồi hỗ chiếu, thái hư ánh hoàn yểm, hữu thời phong lãng lãng, hữu thời vân ảm ảm, vạn tượng tư nghiên sửu, đương xứ tuyệt trần ai, tuy hữu xuân thu bút, diệc nan thi bao biếm” (nhật nguyệt cùng chiếu rọi, thái hư ánh sáng ngăn, có lúc gió lồng lộng, có khi mây lờ mờ, muôn vật thành đẹp xấu, nơi ấy bặt bụi trần, bút xuân thu dẫu sẵn, cũng khó thể khen chê). Hai vị xướng họa qua lại, tình cảm rất sâu đậm.

[30] Pháp Hoa Tam Muội (Saddharma-Pundarīka-Samādhi) là một trong bốn thứ tam-muội do tông Thiên Thai đề xướng, còn gọi là Pháp Hoa Sám Pháp hay Pháp Hoa Sám. Cách tu trì dựa theo giáo nghĩa của hai kinh Pháp Hoa và Quán Phổ Hiền Hạnh, lấy hai mươi mốt ngày làm hạn, đi kinh hành, tụng kinh, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, không được nằm, tư duy quán tưởng sâu xa lý Trung Đạo. Do pháp này lấy sám hối diệt tội làm chủ nên trong sáu thời phải sám hối. Hành nhân không được nằm, miệng ngoài lúc tụng kinh ra không được nói đến sự duyên nào khác, trong mọi lúc tâm luôn tưởng theo từng câu từng chữ trong kinh Pháp Hoa và luôn nghĩ sám hối những tội chướng nơi sáu căn; lại còn tùy lúc thâm nhập Thiền Định để liễu đạt lý Tam Đế của Thật Tướng.

[31] Thông Giáo là một trong bốn giáo do tông Thiên Thai thành lập, coi những giáo pháp thuộc thời Phương Đẳng và Bát Nhã đều thuộc về Thông Giáo. Theo cuốn Tứ Giáo Nghĩa của Trí Giả đại sư thì chữ Thông gồm tám nghĩa:

1) Giáo thông: Ba thừa cùng vâng nhận giáo pháp này.

2) Lý thông: Ba thừa cùng thấy lý thiên chân.

3) Trí thông: Ba thừa cùng được Nhất Thiết Trí khéo độ.

4) Đoạn thông: Ba thừa cùng đoạn những Kiến Hoặc, Tư Hoặc trong tam giới.

5) Hạnh thông: Ba thừa cùng tu những hạnh khiến Kiến Hoặc, Tư Hoặc đều không còn sót thừa.

6) Vị thông: Ba thừa cùng trải qua những địa vị từ Càn Huệ cho đến Bích Chi Phật.

7) Nhân thông: Ba thừa cùng lấy chín thứ vô ngại làm nhân.

8) Quả thông: Ba thừa cùng đắc hai thứ Niết Bàn giải thoát

[32] Địa vị Tam Hiền trong Đại Thừa là những quả vị trước khi chứng được mười địa vị thuộc về hàng Thập Địa Bồ Tát. Như vậy Tam Hiền gồm ba mươi địa vị thuộc Thập Trụ, Thập Hạnh và Thập Hồi Hướng.

[33] Theo tông Thiên Thai, Biệt Giáo bao gồm những giáo nghĩa chỉ dành riêng cho căn cơ Đại Thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Niết Bàn v.v… Những pháp ấy hàng Nhị Thừa không thể lãnh hội hoặc tin nhận được nên gọi là Biệt. Giáo pháp ấy riêng vì hàng Bồ Tát mà nói ra hằng sa lý Tục Đế, dùng Đạo Chủng Trí đoạn Trần Sa Hoặc và những Kiến Hoặc, Tư Hoặc ở ngoài tam giới, phá Vô Minh Hoặc, tu các Ba La Mật để tự hành hóa tha… Do giáo pháp này không dành cho Nhị Thừa nên còn gọi là Bất Cộng Giáo. Biệt Giáo chú trọng dạy về những Sự vượt ngoài tam giới, nhưng sự lý chưa viên dung tương tức như trong Viên giáo.

[34] Nguyên văn: “Đại tân, phú phẫu” (thay củi, bịt vò). Lấy tích từ chuyện Dương Hùng đời Hán soạn sách Thái Huyền chú giải kinh Dịch nhằm muốn lưu danh hậu thế. Lưu Hâm đọc xong quở: “Học giả trong thiên hạ còn không hiểu kinh Dịch, sao ông dám soạn Thái Huyền? Chỉ sợ người đời sau đem sách này để bịt vò tương mà thôi”. Do đó, có thành ngữ “đại tân phú phẫu” (thay củi, bịt vò) với ngụ ý văn chương vô giá trị, chỉ đáng dùng giấy in thứ văn chương ấy để bịt miệng vò tương hay đốt thay củi mà thôi!

[35] Do người Nhật thường tự gọi là Hòa Nhân nên văn tự của họ thường được gọi là Hòa Văn, Hòa văn dung hợp ba thể loại Kanji (Hán tự) và hai loại chữ để viết những chữ đặc thù trong tiếng Nhật gọi là Hiragana (Bình Bản Danh) và Katakana (Phiến Bản Danh). Hiragana nét viết mềm mại thường dùng để ghi những chữ gốc Nhật không vay mượn từ Hán tự, hoặc ghi những trợ từ đặc thù trong câu như no, wa v.v… hoặc để ghi những âm cuối diễn tả thì quá khứ, hiện tại v.v… của động từ hay trạng từ như bemashita chẳng hạn. Ví dụ như, chữ Ta (: ăn), viết theo thời quá khứ thành tabemashita (食べました). Còn Katakana thường dùng chủ yếu để phiên âm những chữ vay mượn từ tiếng ngoại quốc hoặc những danh từ khoa học. Trong lối chữ Kiragana và Katakana, mỗi chữ là một âm, không như trong Kanji, một chữ Hán có thể đọc thành nhiều âm, chẳng hạn chữ Sơn () đọc thành Yama, Thần () đọc thành Kami, Đế () đọc thành Mikado trong Hòa văn v.v… Đôi khi cùng một chữ Hán được đọc thành nhiều âm khác nhau rất bất tiện, như Nhân () đọc thành Jin, Nin hoặc Hito tùy theo ngữ cảnh.

[36] Đại Chánh San Kinh Hội, gọi đủ là Đại Chánh Nhất Thiết Kinh San Hành Hội (về sau đổi tên là Đại Tạng Xuất Bản Châu Thức Hội Xã) được thành lập vào năm Đại Chánh (Taishō) thứ 13 (1924) ở Nhật Bản (Đại Chánh là niên hiệu của hoàng đế Gia Nhân (Yoshihito), tức ông nội của Thiên Hoàng Minh Nhân (Akihito) hiện thời). Hội này do ông Cao Nam Thuận Thứ Lang (Takakushu Junjiro) và pháp sư Độ Biên Hải Húc (Watanabe Kaigyoku) đề xướng, tập hợp những pháp sư, những nhà nghiên cứu Phật học có uy tín nhằm tham gia biên tập Đại Tạng Kinh, hiệu đính cho thật tinh xác, hoàn chỉnh.

[37] Ở Trung Hoa thuở xưa thường có truyền thuyết rằng: Tại Tây Vực, trước khi kết hạ an cư trong ba tháng, mỗi vị Tăng phải đúc một tượng người bằng sáp có phân lượng bằng chính mình để cất giữ. Sau ba tháng An Cư, Tăng đoàn sẽ cân người thật và tượng sáp để kiểm nghiệm xem vị ấy có giữ giới thanh tịnh không? Nếu người thật nhẹ hơn tượng sáp tức là đã không nghiêm trì giới luật trong ba tháng An Cư. Bách Trượng Thanh Quy chương tám đã biện định về vấn đề này như sau: “Tăng không tính theo tuổi mà tính theo Lạp vì khác thế tục. Trong ba thời, Tây Vực dùng một thời để an cư, cấm ngặt ra vào. Phàm Thiền, tụng, đi, ngồi đều phải thọ phải theo đúng thứ tự như giới đã thọ. [Phép an cư] được chế ra để thúc giục [Tăng chúng] siêng năng nơi đạo. Dùng ba tuần [trước khi an cư] để chuẩn bị những vật cần dùng để dưỡng cho thân tâm trong ngoài đều được yên ổn, định kỳ hạn tấn tu để khỏi bỏ lỡ thời gian, mến tiếc, bảo vệ sanh mạng loài vật cũng như thực hành lòng từ nhẫn… Do tùy theo thời tiết từng nơi mà an cư cho thích đáng nên gọi là “tọa hạ” hoặc “tọa lạp”, ý nghĩa của Giới Lạp bắt nguồn ở chỗ này. Còn như nói kiểm nghiệm người sáp (lạp nhân) xem có bị chảy hay không để xét định người an cư kiết hạ giới hạnh có còn trong sạch hay không, hoặc nói đem người sáp chôn xuống đất để kiểm nghiệm xem người an cư kiết hạ có giữ giới trọn vẹn hay không, đều là những lời quê kệch vu báng phàm tục, chẳng phải là ngoa truyền ư?” Như vậy, có lẽ do người Trung Hoa thời cổ đã lầm lẫn chữ Lạp (: tuổi) với chữ Lạp (: sáp) nên mới có những lời ngoa truyền như vậy.

[38] Tức dấu sẹo tròn do đốt những viên hương trên đỉnh đầu khi thọ Cụ Túc Giới. Thông thường, người ta lấy hương nghiền nát trộn với bột giấy bản cho dễ cháy, hòa thành viên rồi tùy theo sự phát nguyện của người thọ giới mà đốt từ một đến mười hai viên, thông thường là ba viên, cũng có những vị không đốt.

[39] Sở dĩ Tổ nhấn mạnh chuyện đốt hương thọ giới vì thời ấy sau khi nhà Thanh bị lật đổ, nam giới Trung Hoa thôi gióc tóc đuôi sam, bắt đầu hớt tóc ngắn theo lối Âu Tây. Dân nghèo thường cạo trọc luôn cho tiện và đỡ tốn tiền hớt tóc. Do vậy, khó thể phân biệt được Tăng và Tục nếu không có dấu sẹo thọ giới.

[40] Lộc Dã (Mrgadāva) thuộc về thành phố Sārnāth hiện nay. Theo truyền thuyết đây là nơi các tiên nhân ở để tu khổ hạnh trong quá khứ nên loài nai được sống bình yên do đó có tên Lộc Dã Uyển, cũng do đây là nơi các tiên nhân thường ở nên còn gọi là Tiên Nhân Trụ Xứ. Đại Tỳ Bà Sa Luận cho biết trong đời quá khứ Phật là Tối Thắng tiên nhân, từng tu tập nơi ấy. Đây là nơi đức Phật cùng nhóm Kiều Trần Như năm người cùng tu khổ hạnh trước khi thành đạo.

[41] Đề Vị, gọi cho đủ là Đề Lý Phú Sa (Trapusa) và Ba Lợi (Bhallika) là hai vị thương nhân được phước báo cúng dường và quy y đức Phật đầu tiên sau khi Ngài mới đắc đạo. Theo Phương Quảng Đại Trang Nghiêm Kinh quyển 10, Đề Vị Ba Lợi Kinh, Thái Tử Thụy Ứng Bổn Khởi Kinh, Phổ Diệu Kinh và Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh, khi ấy, đức Phật đã thành đạo được bốn mươi chín ngày, tính đi đến Lộc Dã Uyển để độ nhóm Kiều Trần Như, giữa trưa Ngài đang tịnh tọa dưới cội cây trong rừng Đa Diễn thì thấy anh em ông Đề Vị đẩy năm trăm cỗ xe châu báu đi qua. Họ thấy Phật bèn ghé lại thưa hỏi, cúng dường lương khô lên Phật và được thọ pháp Ưu Bà Tắc đầu tiên. Hai vị này xin đức Phật ban cho vật kỷ niệm để đem về nước thờ phụng, đức Phật liền ban cho mấy sợi tóc và móng tay. Hai ông đem về nước dựng tháp cúng dường. Theo Đại Đường Tây Vực Ký quyển một, phần chép về nước Phược Yết nói: “Cách đại thành về phía Bắc hơn 50 dặm có thành Đề Vị, cách thành Đề Vị về phía Bắc 40 dặm lại có thành Ba Lợi, trong mỗi thành đều có tháp cao hơn ba trượng để thờ tóc và móng tay của Như Lai”. Người Miến Điện tin tưởng những sợi tóc này đã được đưa sang thờ tại chùa Shwedagon ở Ngưỡng Quang (Yangon, hoặc Rangoon), Miến Điện.

[42] Thúc Tu là thịt muối hay thịt khô được bó chặt lại, thường được dùng thay cho học phí thuở xưa.

[43] Hoàng Quyển Xích Trục: Đôi khi còn gọi là Hoàng Quyển Châu Trục hoặc Hoàng Chỉ Châu Trục. Do thời cổ nhằm tỏ ý trân trọng, kinh được chép trên một tờ giấy dài màu vàng, hai đầu có gắn trục sơn son để cuộn lại cho dễ bảo quản. Sơn son vừa nhằm mục đích trang trí cho đẹp, vừa cho dễ thấy, để chỉ nắm lấy hai đầu trục mà mở ra từ từ, không làm rách giấy. Phong tục này không biết bắt nguồn từ thời nào, có thuyết cho rằng từ thời Trinh Quán (627-649) nhà Đường, vua ban chiếu chép kinh lên giấy nhuộm nghệ vàng để khỏi bị mối mọt cắn. Từ đấy về sau, kinh thường được chép trên giấy có màu vàng. Cũng có truyền thuyết cho rằng năm Vĩnh Bình 14 (630) đời Hán Minh Đế, vua chấp thuận lời thỉnh cầu của bọn đạo sĩ cho phép dùng lửa thí nghiệm xem kinh Phật hay kinh Đạo giáo kinh nào cao quý hơn. Rốt cuộc kinh của Đạo giáo cháy tan thành tro, chỉ còn kinh Phật bị khói hun nên ngả sang màu vàng. Do đó, kinh Phật được gọi là “hoàng quyển” từ đó.

[44] Thân Tử là cách dịch nghĩa tên ngài Xá Lợi Phất trước thời pháp sư Cưu Ma La Thập. Từ thời pháp sư Huyền Trang trở đi, nếu dịch nghĩa chữ Xá Lợi Phất sẽ dịch là Thu Tử, hoặc Thu Lộ Tử.

[45] Ngũ Giáo ở đây là Ngũ Giáo do đại sư Hiền Thủ phán định vào thời Đường, chứ không phải là Ngũ Thời Bát Giáo của tổ Trí Giả. Theo Hoa Nghiêm Ngũ Giáo Chương, quyển một, ngài Hiền Thủ phán định một đời giáo hóa của đức Phật gồm năm loại giáo pháp: Tiểu Thừa Giáo (ngu Thanh Văn giáo), Đại Thừa Thủy Giáo (Quyền giáo), Đại Thừa Chung Giáo (Thật giáo), Đốn Giáo và Viên Giáo.

[46] Hai ông được nói đến ở đây chính là đại sư Vân Thê Liên Trì và đại sư Cừ Am U Khê.

[47] Đoàn Chấp Chánh chính là Đoàn Kỳ Thụy (1864-1936), một tay quân phiệt dưới thời Dân Quốc, từng làm Quốc Vụ Tổng Lý và tổng trưởng Lục Quân, kiêm nhiệm nhiều bộ dưới thời Dân Quốc. Ông này vốn có tên là Khải Thụy, tự là Chi Tuyền, người Hợp Phì (tỉnh An Huy), từng được huấn luyện quân sự tại Đức Quốc, là tay chân của Viên Thế Khải. Ông ta từng luôn tích cực phát động chiến tranh để tranh giành quyền bính. Do họ Đoàn giữ chức Lâm Thời Chấp Chánh (tương ứng với chức Đại Tổng Thống) từ năm 1924 đến năm 1926, lá thư này phải được viết vào khoảng thời gian đó.

[48] Nguyên văn “Tiết kinh triệu doãn”: Tiết là tên họ, còn Kinh Triệu Doãn chức vụ được đặt ra từ thời Tần giữ nhiệm vụ quản lý hành chánh và trị an ở kinh đô. Về sau, tất cả những vị trưởng quan quản trị hành chánh và trị an ở thủ đô đều được gọi là Kinh Triệu Doãn. Chúng tôi dùng chữ Đô Trưởng để tạm dịch như vì người Việt thường gọi chức vụ này bằng Đô Trưởng. Tiết Kinh Triệu Doãn là ông Đô Trưởng họ Tiết.