Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam
Biên
Quyển 2
Phần 4
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Minh Tiến & Huệ Trang
336. Thư trả lời cư sĩ Trần Sĩ Mục (thư thứ bảy)
Nhận
được thư khôn ngăn vui mừng, an ủi. Pháp danh của cha ông trùng với tên lót của
các cháu, hãy nên đổi thành Pháp Hòa. Hòa là hợp, tức là phỏng theo Quán Âm Bồ
Tát trên hợp với bản giác diệu tâm của mười phương chư Phật, dưới hợp với ý đau
xót ngưỡng mộ đồng nhất của mười phương hết thảy chúng sanh. Xin hãy làm cho cụ
chân thật sanh lòng tin phát nguyện thì lợi ích do nghe đạo mới trở thành sự thật
được. Nếu không, chẳng sanh Tây Phương, dẫu có phước báo trời - người [thì phước
báo ấy] hệt như sương buổi sớm, trong khoảnh khắc chẳng còn, có ích chi đâu? Vợ
ông đã phát tâm niệm Phật, hãy nên chuyên chú trọng niệm Phật, [trong khi] tịnh
tọa cũng nên niệm thầm trong tâm thì mới không mắc khuyết điểm nào.
Sợ rằng cách tịnh tọa của Đồng Thiện Xã là cách vận khí; bởi lẽ phàm hết thảy ngoại đạo đều lấy vận khí luyện đan làm bí quyết, chẳng chịu nói với kẻ chưa nhập môn, [bọn họ] chẳng biết đấy vốn là pháp để dưỡng sắc thân, chẳng ăn nhập gì với đạo cả! Đức Phật dạy người đoạn trừ phiền não tập khí, minh tâm kiến tánh; nhưng chúng sanh nghiệp sâu huệ cạn chưa thể chứng đắc ngay trong đời này, cho nên Ngài mở toang phương tiện lớn lao, dạy [chúng sanh] tín nguyện niệm Phật để mong cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Cách tịnh tọa của bọn họ (tức Đồng Thiện Xã) chẳng thể gọi là Thiền Định được! Thiền có nghĩa là Tịnh Lự. Do bọn họ chẳng biết ý nghĩa của danh từ Thiền, nhận bừa danh xưng thuộc chánh pháp, nhưng trong tâm xen tạp những vọng tưởng của tà ma, ngoại đạo, cho nên bị ma dựa phát cuồng (luyện đan, vận khí, cầu thần thông, thấy thần, thấy quỷ, trong tâm ý niệm suy lường tưng bừng, làm sao có thể là Tịnh được?)
Cần biết rằng: Đức Phật dạy con người chuyên chú cực lực giữ vẹn luân thường, nghiêm túc trọn hết bổn phận của chính mình, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, ăn chay, niệm Phật, trọn chẳng có điều gì không thể nói với người khác được! Cái đạo “đóng cổng, khóa cửa, truyền dạy riêng cho nhau” của họ, đừng nói trong ấy có những điểm xấu, ngay như cho rằng pháp luyện đan vận khí là chánh đáng đi nữa thì đấy cũng chẳng phải là đạo để liễu sanh tử. Huống chi chưa chắc là chánh đáng ư? Xin hãy chuyên tu Tịnh nghiệp, khi tịnh tọa bèn lắng lòng, thầm niệm Phật hiệu, đừng xen thêm công phu của bọn họ thì sẽ chẳng trở ngại gì! (ngày mồng Bảy tháng Mười Một năm Ất Sửu - 1925)
337. Thư trả lời cư sĩ Trần Sĩ Mục (thư thứ tám)
Có
thể nói là mẹ ông đã có thiện căn từ đời trước, nên mới được cả nhà ông niệm Phật
[để hộ niệm lúc cụ lâm chung]. Nếu những lời ông kể về các tướng trạng lúc cụ sắp
mất và sau khi đã qua đời đều là chân thật chẳng dối thì chắc chắn cụ được vãng
sanh. Nếu là lời đơm đặt sẽ chẳng có ích gì cho mẹ, ngược lại còn mắc lỗi lớn! Ông
chỉ nên bớt đau buồn để niệm Phật và bảo người nhà đều cùng niệm Phật. Tuy nói
là “vì cầu siêu cho mẹ mà niệm”, nhưng thật ra đem so với việc chỉ niệm cho
chính mình thì công đức càng lớn hơn nhiều lắm! Dùng những điều này để bảo ban,
họ sẽ đều phát lòng hiếu thảo. Trong khóa tụng sớm tối, Quang sẽ hồi hướng cho
mẹ ông bảy ngày để trọn hết tình bạn.
Người đời nay đa số hiếu danh,
[khi cha mẹ đã khuất bèn] viết truyện, soạn ký, đều là màu mè rỗng tuếch! Chỉ
nên dốc hết sức tu trì để cha mẹ chưa được vãng sanh sẽ lập tức được vãng sanh,
đã vãng sanh sẽ tăng cao phẩm vị. Đấy mới là nhiệm vụ trọng yếu nhằm trọn hết tấm
lòng của kẻ làm con đối với cha mẹ; những chuyện khác đều nhằm làm inh tai rộn
mắt thế tục mà thôi! Cha ông tuổi đã cao, hãy gấp dốc sức khuyên cụ siêng tu để
khỏi kém sút mẹ ông. Đời người chuyện gì cũng có thể nhường người khác được, chỉ
có chuyện này chẳng thể nhường ai! Vì thế, Khổng Tử nói: “Đương nhân bất nhượng ư sư” (gặp việc nhân thì phải làm, dẫu thầy
mình cũng không nhường)[1].
Ông nói đến chuyện “giấy vàng viết thần chú bằng tiếng Phạn”, lẽ đâu không có lợi
ích! Nhưng cái gốc của lợi ích nằm nơi lòng Thành. Nếu có lòng Thành thì lợi ích
càng lớn. Nếu luông tuồng như trò đùa trẻ con thì lợi ích sẽ nhỏ nhoi lắm! Tục
ngữ có câu: “Nhân tâm quả thành, kim thạch
vị khai” (Lòng người nếu thành thật; đá, vàng còn phải nứt), huống là Phật,
Bồ Tát há chẳng cảm ứng ư? Chung Thất (lễ bốn mươi chín ngày) thỉnh Tăng niệm
kinh, cũng nên đổi thành niệm Phật. Nếu có vị Tăng thanh tịnh thì được; chứ nếu
chỉ có loại Tăng ăn mặn uống rượu thì hãy nên dành khoản tiền ấy để giúp đỡ người
gặp cảnh ngặt nghèo. Chỉ cần gia quyến niệm Phật mà thôi, cần gì phải bắt chước
làm theo khuôn sáo thế tục? Cũng không nhất định phải tới Phổ Đà. Hễ thuận tiện
thì tới; nếu không, đừng tới! Thấy mặt Quang trọn chẳng ích lợi gì! Do vậy, chẳng
thà chuyên tâm y theo Văn Sao để hành thì tốt hơn!
Hiện thời thế đạo nhân tâm bại hoại đến cùng cực, không thể vãn hồi! Chỉ có cực lực đề xướng nhân quả báo ứng và giáo dục trong gia đình để làm cơ duyên xoay chuyển. Giáo dục trong gia đình cũng phải chú trọng nhân quả, báo ứng. Dạy dỗ con gái nên kèm thêm chuyện ăn chay, bởi lẽ cõi đời thiếu người hiền là vì trong thế gian thiếu mẹ hiền. Nếu con cái từ bé đã được mẹ hiền dạy dỗ, un đúc thành tánh thì sau này ắt sẽ có thể giúp chồng thành tựu phẩm đức, dạy con cái đều thành người hiền. Nữ nhân lấy việc giúp chồng dạy con làm thiên chức, trách nhiệm ấy so ra càng nặng nề, to lớn hơn nam nhân. Người đời chẳng biết giảng nói, suy xét nơi đây, cứ lầm lạc muốn cho nữ nhân tham dự chuyện chánh trị giống như đàn ông, chẳng biết sự vụ đến mức tột bực như thế đó! Do vậy, cõi đời ngày một hết sức loạn lạc, người hiền ngày một hiếm hoi! (ngày mồng Chín tháng Chín năm Dân Quốc 15 - 1926)
338. Thư trả lời cư sĩ Trần Sĩ Mục (thư thứ chín)
Nhận
được thư ông và thư của Mân Phật Hóa Xã, cùng với bài ký tường thuật đại cương
những chuyện quan trọng, hiểu rõ [đường lối của] Phật Hóa Xã là chánh đáng,
nhưng còn thiếu chuyên chú nơi một môn Tịnh Độ để mong thoát lìa thế gian Sa Bà
ngay trong đời này. Chương trình [hoạt động, đào tạo của Phật Hóa Xã] vẫn chưa
thể quyết đoán. Qua chương trình học tập nghiên cứu dành cho nữ giới, biết xã hữu
vẫn học tràn lan, chưa hiểu rõ tột cùng đạo lý Tịnh Độ. Bọn họ đã chịu quy y,
hãy nên trần thuật đại lược những nghĩa trọng yếu, những điều khác hãy bảo họ đọc
trong Văn Sao.
Liên Anh hiếu thảo sâu đậm, thật
đáng khâm phục, kính trọng. Ngộ Chánh nói “chẳng hồi hướng vẫn được lợi ích lớn
lao!” Lời ấy không thỏa đáng! Bởi lẽ, phàm phu thiếu sức chánh niệm hồi hướng
thì những gì đã tu sẽ đều quy về phước báo trời người. Không hồi hướng mà có thể
khiến cho cha mẹ đã khuất từ lâu được hưởng lợi ích siêu độ thì chỉ có bậc
thánh nhân đắc đạo mới làm được như thế! Lời của Ngộ Chánh đã nói chính là lẫn
lộn giữa thánh và phàm, coi cả hai giống hệt như nhau, chớ nên nghe theo! Hễ nghe
theo thì đừng nói là không được vãng sanh, ngay cả phước báo nhân thiên cũng chẳng
ổn thỏa. Bởi lẽ, không có Cảm thì sẽ chẳng thể cậy vào Phật lực; nếu chỉ nhờ
vào sức tu trì của chính mình thì so ra sự cơ cảm ấy sẽ khác xa vời vợi sự cơ cảm
do lòng Thành tạo nên! Còn như nói nhìn vào hạnh nguyện, đạo lực của con cái để
phán đoán sự vãng sanh thì còn có đạo lý, nhưng cũng chẳng thể chấp chặt hẹp
hòi một bề, cho là chính mình được Thượng Phẩm Thượng Sanh, còn cha mẹ thuộc Hạ
Phẩm! Do tâm nguyện của con cái, do túc căn của cha mẹ và sự phát tâm trong hiện
tại, nên mỗi trường hợp đều khác biệt.
Khuyên điểm[2]
kinh điển thì phải thành, phải kính. Nếu làm theo cách của kẻ học vấn lão luyện
chấm câu cho văn chương thì quả thật cái tội khinh nhờn thật nhiều, hãy nên răn
dè! Nói chung, ai nấy đều phải chú trọng sự thật. Những kẻ xướng ra những thuyết
lạ lùng, hủy báng Lăng Nghiêm, Khởi Tín đều do cái lòng ham danh gây ra, mong
được thiên hạ hậu thế xưng tụng mình bằng hư danh “là bậc đại trí huệ, là vị biết
được chỗ kẻ khác chẳng hiểu biết”, chứ chẳng biết trong đời này bị người sáng mắt
xem là kẻ đáng thương xót, khi mất đi sẽ đọa trong ác đạo vĩnh viễn, không có
lúc thoát khổ. Cái danh khiến cho con người bị lầm lạc đến mức như thế đó!
Cháu ông và các cư sĩ vốn đều
có thiện căn từ đời trước, cho nên biết được chánh lý của Phật pháp, chẳng bị
ngoại đạo mê hoặc. Bọn họ đã gởi thư xin quy y, sẽ đặt pháp danh cho từng người
và gởi thư cùng chương trình thẳng sang Phước Châu. Bản Văn Sao Tăng Quảng [Chánh
Biên] sắp được xếp chữ xong, hiện thời tăng thêm một trăm mười trang, sẽ in
trong tháng Hai hay tháng Ba. Nếu muốn kết duyên, xin hãy gởi thư sớm. Lần này
sách dày hơn bốn trăm trang, lại do gần đây giấy đắt, mỗi bộ giá khoảng chừng bảy
tám cắc hoặc tám chín cắc. Do chưa xếp chữ xong nên chưa thể định giá được. Nếu
để lỡ dịp in chung lần này, sau này thỉnh sẽ đắt hơn nữa!
339. Thư trả lời cư sĩ Trần Sĩ Mục (thư thứ mười)
Nhận
được thư đầy đủ, lời Khải quyên mộ cho Ngọa Phật Điện[3]
rất hay, nhưng cũng khó thể nào phục hưng được vì các xứ đang gặp phải tai nạn
đao binh, lo cứu mạng [cho những nạn nhân] còn không xuể, sức đâu lo đến chuyện
này! Quang gởi thư cho Phước Châu Phật Hóa Xã vào ngày mồng Mười tháng Giêng và
bốn gói Đại Sĩ Tụng, lại kèm thêm một gói chương trình, bản ghi chép những chuyện
quan trọng trong Phật Hóa Xã và bốn bộ Vô Lượng Thọ Kinh Sớ, đặc biệt gởi bằng
thư bảo đảm, nhưng trọn chẳng có hồi âm. Ngày Hai Mươi Hai tháng Hai lại gởi
thư cho La Khanh Đoan, hỏi đã nhận được sách và thư hay chưa, đến nay vẫn chẳng
có hồi âm! Do chiến sự, Văn Sao bị chậm trễ chưa xong. Gần đây, đường thư tín
sang Thượng Hải vẫn còn thông suốt, nhưng mấy lần gởi thư sang Thư Cục đều chẳng
thấy hồi âm, rốt cuộc chẳng biết là như thế nào!
Khoản tiền năm mươi đồng để in
sách như đã nói đó, hãy nên gởi sang chùa Thái Bình ở bến Trần Gia, Thượng Hải,
giao cho hòa thượng Chân Đạt, đừng gởi tới Phổ Đà. Đường bưu điện lẫn hối đoái
tại Phổ Đà đều chẳng thông. Nếu chuyển tiền sang Định Hải hoặc Ninh Ba, vẫn phải
nhờ người đi lãnh, rất bất tiện! Gởi sang Thượng Hải là ổn thỏa nhất. Hiện nay
[tình thế] đại loạn vừa mới dấy lên, hãy nên tích cực niệm Phật. Ngoài chuyện
này ra, chẳng có điều gì để dặn dò nữa!
340. Thư trả lời cư sĩ Trần Sĩ Mục (thư thứ mười một)
Thư
nhận được đầy đủ, vui mừng, an ủi tột bực. Nay gởi một gói Tịnh Nghiệp Chỉ
Tôi vốn muốn qua Thượng Hải
vào cuối tháng Tư để sắp xếp in Đại Sĩ Tụng, nhưng về sau có chuyện phải trì hoãn,
lại thêm phong trào [đình công của công nhân] đang sôi nổi; phải đợi khi phong
trào lắng xuống mới đi được. Sẽ ra sách trong năm sau. Đây là dự tính đem in
trong thời gian gần. Nếu nhất thời chẳng bình yên được, càng chẳng biết sẽ phải
trì hoãn bao nhiêu lâu nữa! Thư của Hàn Giang trong phần ký tên ở cuối thư chỉ
viết là “cẩn thượng” (kính trình),
trước đấy Quang chưa đọc kỹ, đến khi đã phúc đáp rồi mới trông thấy nên phê vào
cuối thư. Ông ta chẳng những không biết Phật pháp mà ngay cả những lối cư xử thông
thường cho đẹp lòng người trong thế gian cũng chẳng hiểu biết. Hỏi Phật pháp với
người khác mà ngạo nghễ như thế, há người như vậy có thể đạt được lợi ích chân
thật nơi Phật pháp ư? Cũng chẳng qua là góp phần náo nhiệt mà thôi!
Ông ta tính tự đặt pháp hiệu
là Thiện Căn, Quang đặt tên cho ông ta là Huệ Hải. Đấy chẳng phải là đặt pháp
danh quy y cho ông ta vì ông ta chẳng xin quy y. Dẫu có xin cũng không chấp nhận,
vì tâm ông ta chẳng chịu nhún nhường, cho nên không thật tình quy y! Phàm thư từ
gởi đến, mặc cho người gởi ngạo nghễ như thế nào Quang đều trả lời, đáng quở
trách thì quở trách, hễ cần phải nói thẳng thì chẳng cần biết người ta có cung
kính hay không [cứ nói thẳng]! Nếu ai gởi thư xin quy y mà chẳng chịu nhún mình
bèn cự tuyệt chẳng chấp nhận. Cũng có người gởi thư khẩn cầu lần thứ hai, nhưng
cũng có kẻ chẳng trả lời thư Quang gởi đến nữa! Lễ giáo suy vi đáng than thở
thay!
341. Thư trả lời cư sĩ Huệ Minh
Cụ
già tám mươi ba tuổi tháng ngày chẳng còn mấy. Vận nước của Trung Hoa Dân Quốc
nguy ngập như trứng chồng. Gặp nhằm hai chuyện này, hãy nên miệt mài niệm Phật
để cầu vãng sanh. Lại còn phải suất lãnh người nhà nhất trí niệm Phật để dự bị
khi ông qua đời bọn họ có thể trợ niệm. Lại còn phải dặn đi dặn lại lúc ông lâm
chung họ chớ nên tắm rửa, thay quần áo sẵn, hỏi chuyện (những điều này hãy
nên giao phó sẵn), an ủi, khóc lóc v.v… Mặc cho
khi ấy ngồi chết cũng được, nằm chết cũng xong, mọi người đồng thanh niệm Phật;
niệm mãi cho tới hơn ba tiếng đồng hồ sau khi tắt hơi rồi mới sắp đặt hậu sự,
muôn phần đừng làm quá sớm. Không riêng gì người già chết nên như thế mà ngay
người trẻ tuổi chết cũng nên như thế. Đấy chính là một đại sự khẩn yếu nhất lúc
cuối cùng. Nếu chẳng tập luyện sẵn và nói sẵn lẽ lợi - hại, chưa có ai chẳng bị
quyến thuộc vì phô trương mù quáng mà làm hỏng chuyện.
Một pháp Niệm Phật chính là
pháp môn lớn nhất để Phật phổ độ hết thảy chúng sanh. Nếu gặp nguy hiểm, hễ niệm
liền có thể gặp dữ hóa lành. Lúc vô sự mà niệm sẽ tiêu tai, tăng phước, nhưng cần
phải cầu sanh Tây Phương thì mới là lợi ích lớn lao rốt ráo. Chín trang pháp
danh được viết trong một tờ giấy khác. [Những pháp danh] như Tông Viễn, Tông
Trì v.v… đều nhằm dạy [người quy y] sùng phụng, noi theo các vị tổ sư hoằng
dương Tịnh Độ thuở trước. Tông là gốc, là chủ. Viễn chính là Viễn Công đại sư đời
Tấn (tên là Huệ Viễn), là Sơ Tổ của Liên
Tông. Trì chính là em của ngài, tức Huệ Trì[4].
Vĩnh là Huệ Vĩnh[5].
Xước chính là Đạo Xước. Chiếu là Pháp Chiếu. Loan (巒)
là Đàm Loan, [chữ Loan (巒)] cũng [có khi] viết
là Loan (鸞). Đạo là ngài Thiện Đạo. Tức là dạy họ nương theo các
vị đại tổ sư trong Liên Tông để tu trì. Đứa cháu nội bé có tên là Phước Hà: Phước
đã cao xa, thọ ắt dài lâu! Những tên khác không cần phải giảng giải. Vương Ấu
Nông chưa hề quy y, vợ và đứa con thứ tư đều quy y. Đứa con thứ hai và một cô
con gái chưa quy y. Nay gởi mười gói Cảm Ứng Thiên Trực Giảng, gồm một trăm mấy
chục cuốn, bảo những đứa trẻ ngây thơ đọc tụng, lại còn giải nói cho chúng, sau
này chúng sẽ chẳng đến nỗi không biết nhân quả, dấn mình vào lối mòn của hạng
người trộm cướp.
342. Thư trả
lời cư sĩ Lý Thính Đào (thư thứ nhất)
Nhận
được thư, biết đứa con thứ [của ông] bị chết yểu. Khi gặp tình cảnh ấy, lòng
người thường khởi lên oán hận, sanh biếng nhác. Hãy nên biết rằng: “Đời người nhân quả phức tạp, hễ có nhân, ắt
có quả; hễ có quả, quyết chẳng thể không có nhân!” Biết “nhân trước, quả
sau” sẽ chẳng sanh oán hận. Biết “đức cảm được trời”, ắt chẳng đến nỗi gặp nghịch
cảnh nhỏ nhoi bèn biếng nhác tu tâm. Ví như trời lúc thoạt đầu thì nóng, chợt đột
nhiên mát rượi; hoặc thoạt đầu đang mát, chợt lại nóng hừng hực. Đấy chính là
biến động tạm thời, chứ không phải lúc nào cũng thường như thế. Chỉ tận hết tấm
lòng ta để tu, chẳng cần bận tâm ta gặp phải nghịch cảnh hay thuận cảnh! Người
làm được như thế, ắt sẽ vĩnh viễn hưởng nhiều phước. Nếu do gặp chuyện nhỏ chẳng
vừa ý bèn nói “tu trì vô ích”, đấy chính là tri kiến của kẻ vô tri vô thức. Dẫu
cho cả đời không gặp chuyện gì trái ý, cũng khó thể đạt đến địa vị “trọn hết bổn phận, vui theo mạng trời”.
Nếu có thể tu trì không lười, ắt sẽ sanh được đứa con tốt lành sống lâu, đức hạnh. Nếu chẳng cần biết tốt - xấu, chỉ cốt sao nó không chết yểu, lỡ nó vơ vét mỡ màng của trăm họ để cất giữ trong ngân hàng ngoại quốc, cũng như [gặp phải] đứa giết cha giết mẹ; có đứa con yêu chẳng bị chết yểu [kiểu đó] có bao giờ là may mắn đâu! Thứ con cái không ra gì ấy nếu chết yểu chính là do đức lớn cảm thành; bởi nó không chết yểu sẽ khiến cho nhân dân cả nước lầm than. Nếu trong lúc đó những đứa con thuộc loại ấy chết yểu hết sạch thì nước ta đâu đến nỗi hết thuốc chữa chỉ còn đợi chết ư? Chỉ nên lắng lòng niệm Phật để tiêu nghiệp hòng chiêu cảm tốt lành (tháng Chín năm Quý Dậu - 1933)
343. Thư trả lời cư sĩ Lý Thính Đào (thư thứ hai)
Ngữ lục của lệnh tổ[6] không liên quan gì với Sơn Chí. Nếu là bài minh trên tháp hoặc tiểu truyện thì có lẽ còn cần đến. Chứ đối với hình tượng thì cổ đức các đời đều không có điện thờ hình ảnh, dù có gởi đến cũng chẳng tiện sắp đặt. Bởi lẽ Linh Nham hiện thời hoàn toàn chẳng kế thừa Linh Nham xưa kia. Sau loạn Hồng Dương[7], chùa chỉ còn lại một cái tháp nát, những thứ khác đều cháy sạch ra tro. Huống chi pháp môn [nhà chùa hành trì] hiện thời là Tịnh Độ, lệnh tổ là bậc tri thức trong Thiền tông. Luận về phía chùa miếu thì không phải là thừa kế, luận theo phương diện pháp đạo thì là môn đình khác. Ví như ngồi thuyền đi đường thủy hoặc ngồi xe theo đường bộ, sau khi về đến nhà thì hoàn toàn giống nhau, nhưng xét trên đường đi thì mỗi cách mỗi khác! Người đời nay chẳng phải là đại thông gia, trọn chớ nên nói lời viên dung, chỉ mong sao dễ nghe, đến nỗi không được lợi ích thật sự! Trữ Công[8] chính là đệ tử cao nhất của sư Hán Nguyệt Tạng[9]. Hán Nguyệt muốn làm cao nhân bậc nhất xưa nay, hết sức kình chống tổ Thiên Đồng Mật[10]. Bọn Hoằng Nhẫn, Cụ Đức v.v… đều là phường khinh miệt Tổ. Trữ Công vẫn không có thứ tập khí ấy, đúng là bậc đáng cho người đời sau khâm phục, kính trọng vậy (tháng Hai năm Giáp Tuất - 1934)
344. Thư trả lời cư sĩ Trương Đức Điền (thư thứ nhất)
Đối
với đạo để cầu con, người ta thường trái nghịch. Ông muốn có đứa con thân thể mập
mạp, tánh tình hiền thiện, ba thứ phước - huệ - thọ đều trọn đủ thì phải nghe
theo lời tôi thì mới được thỏa lòng. Người đời không có con liền cưới nhiều vợ
lẽ, thiếp mọn, thường uống thuốc tráng dương, thường ân ái. Đấy chính là cách để
chóng chết, chứ không phải là phương pháp để cầu con! May mắn sanh được con thì
cũng như trồng giống lúa lép hoặc chẳng mọc được, hoặc có mọc cũng khó thể đơm
bông kết hạt.
Điều quan trọng bậc nhất là phải
ngưng ân ái, hoặc nửa năm, tối thiểu là một trăm ngày, càng lâu càng hay. Hãy
nên nói rõ với vợ, đôi bên đều giữ ý niệm này, mỗi người ở khác phòng. Nếu
không có nhiều phòng, quyết phải nằm giường riêng. Lúc thường ngày trọn chẳng
tưởng vợ là vợ, hãy nên tưởng như chị em gái, chẳng khởi một tà niệm nào! Đợi
khi thân được dưỡng sức đầy đủ rồi, đợi cho vợ sạch kinh nguyệt, cần phải nhằm
lúc tiết trời trong sáng, nhằm ngày lành tháng tốt, ăn nằm với nhau một đêm, ắt
sẽ có thai. Từ đấy vĩnh viễn chấm dứt chuyện ân ái, cho đến khi sanh con tròn một
trăm ngày rồi mới có thể tiếp tục ân ái. Sau khi vợ thọ thai, nếu ăn nằm một lần,
bọc thai sẽ dầy thêm một lần, gieo nguy cơ thai độc một lần. Hoặc còn có thể vì
lẽ đó mà tử cung thường bị mở ra, chắc dễ bị sẩy thai. Những điều kiêng kỵ này
nhiều người không biết. Dẫu có kẻ biết cũng chẳng chịu tuân theo. Vì thế đến nỗi
chẳng sanh được con, hoặc con chẳng thành hình được, hoặc [sanh ra đứa con] bấy
bớt, đoản mạng, chẳng biết do chính mình chẳng khéo dụng tâm, ngược ngạo đổ hô
vận mạng xui xẻo, ngược ngạo biến ăn nằm thành chuyện thường xuyên, hằng ngày cứ
làm, chẳng bị chết kể ra là may mắn lớn!
Lại phải giữ tấm lòng từ thiện,
lợi người, lợi vật. Lợi người lợi vật thì chẳng nhất định cần đến tiền, mà chỉ
cần giữ tấm lòng tốt, nói lời lành, làm chuyện tốt. Phàm những tâm, những lời,
những chuyện không lợi ích đều chẳng giữ, chẳng nói, chẳng làm! Đầy ắp bụng dạ
là một khối nguyên khí thái hòa, bừng bừng ý niệm vì chúng sanh. Lại còn phải
chí thành niệm “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát” (hãy nên niệm theo cách này), niệm càng nhiều càng tốt. Sáng - tối lễ bái, niệm bao
nhiêu đó; ngoài ra, đi - đứng - nằm - ngồi đều niệm. Lúc đi ngủ tuy vẫn niệm,
nhưng phải giữ lòng cung kính: Hãy nên mặc áo quần, đừng nên trần truồng. Hãy
nên niệm thầm, chớ nên niệm ra tiếng. Niệm thầm thì nếu nhiều chữ sẽ khó niệm,
có thể bỏ đi hai chữ Nam Mô, chỉ niệm năm chữ Quán Thế Âm Bồ Tát. Chú Bạch Y niệm
cũng được, không niệm cũng chẳng sao. Ông giữ tấm lòng như thế, làm việc vẫn niệm,
và bảo vợ cũng giữ tấm lòng như thế, niệm trong khi làm việc, cho đến khi sanh
nở vẫn niệm. Lúc đang sanh nở chớ nên niệm thầm, phải niệm ra tiếng. Những người
săn sóc chung quanh đều nên lớn tiếng niệm giúp cho người ấy. Đảm bảo không có
những chuyện đau khổ, khó sanh.
Chớ nên niệm thầm trong khi
sanh nở, vì [lúc ấy phải] dùng sức đẩy đứa con ra, nếu niệm thầm chắc bị bệnh tổn
khí. Nữ nhân hễ cấn thai chớ nên nổi nóng. Hễ nổi nóng đùng đùng sẽ bị sẩy thai;
cũng như tánh tình ngang ngược, hung dữ ấy sẽ truyền qua đứa con khiến tánh
tình nó trở thành hung ác. Thêm nữa, khi cho con bú ắt phải tâm bình khí hòa. Nếu
nổi nóng đùng đùng, sữa liền biến thành chất độc. [Trẻ bú sữa ấy] nặng là chết
ngay, nhẹ là nửa ngày hay một ngày sau mới chết, quyết chẳng có trường hợp nào
không chết! Nếu hơi nổi đóa thì chất độc ít, tuy con chẳng chết cũng sẽ sanh bệnh.
Vì thế, con cái của nữ nhân ưa nổi đóa bị chết nhiều lắm, bệnh tật nhiều lắm!
Chính mình cho con bú hoặc mướn vú em cho con bú đều giống như nhau. Hễ nổi
nóng đùng đùng, muôn vàn chớ nên cho trẻ bú, trong lúc ấy phải nên buông xuống.
Đợi cho tâm bình khí hòa, qua nửa ngày rồi mới cho bú. Lúc cho bú trước hết phải
vắt sữa ra chừng nửa chén trà đổ đi, lau chùi đầu vú rồi mới cho trẻ bú [thì trẻ]
sẽ không bị họa ương gì. Nếu trong tâm vẫn nóng giận bừng bừng thì cả ngày hôm ấy
cũng không được cho trẻ bú. Cho bú thì trẻ không chết cũng bị bệnh nặng! Chuyện
này sách y học xưa nay đều chưa chỉ rõ. Gần đây, do từng trải mới biết mối họa
này.
Nữ nhân từ nhỏ phải học tánh
nhu hòa, khiêm tốn; sau này sanh con ắt dễ tính, ắt hiền lành, ắt chẳng bị chết,
ắt chẳng đổ bệnh. Phàm con cái chết từ lúc bé hay bệnh tật quá nửa là do mẹ nổi
nóng mà ra, chỉ có một số ít là chính mạng nó phải chết sớm. Thiên hạ xưa nay
do sữa độc giết hại con trẻ, chẳng biết bao nhiêu Hằng hà sa số, chẳng đáng buồn
ư? Do ông làm vui lòng cha mẹ nên tôi nói tường tận với ông. Hãy nên khuyên mẹ
ông ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Ông và vợ ông cũng đều nên như thế.
345. Thư trả lời cư sĩ Trương Đức Điền (thư thứ hai)
Nhận
được thư của ông hồi tháng Chín, Quang lấy cớ già cả, không có mục lực và tinh
thần để từ chối. Hiện thời binh lính, giặc cướp tràn ngập trên đường, thư từ,
bưu kiện thường khó đến nơi. Lá thư kế tiếp gởi trả lại điệp văn của ông chưa
nhận được. Lá thư vào tháng Mười Hai thì nhận được. Quang chẳng nghĩ biện pháp
của ông là đúng lắm. Tính đến khoảng tháng Hai khi không có chuyện gì, sẽ soạn
một chương trình cầu con nối dõi. Trước hết, dạy [người cầu có con nối dõi] tiết
dục, tu đức để bồi đắp Tiên Thiên. Kế đó bảo họ niệm Phật, Bồ Tát để cầu có được
đứa con phước đức, trí huệ. Tiếp đấy, khuyên họ tích cực giáo huấn [con cái] từ
lúc bé để chúng trở thành hiền thiện. Như thế thì càng nhiều con càng hay. Nếu
không, chẳng tiết dục, dẫu có sanh được con, cũng thuộc hạng bấy bớt, không nên
cơm cháo gì! Chẳng giáo huấn sẽ nuôi thành phường bại hoại, làm nhục tổ tông,
chẳng thà không có con còn tốt hơn! Nếu Quang soạn hoàn chỉnh [chương trình ấy]
rồi thì sẽ đem gởi tới; xin đừng gởi thư tới nữa! Chậm nhất là Quang sẽ giao
thư cho bưu điện vào cuối tháng Hai. Đây là thứ văn tự chẳng cần ngay lập tức
nên không cần phải miệt mài [soạn cho xong]!
346. Thư trả lời cư sĩ Trương Đức Điền (thư thứ ba)
Năm
ngoái gởi thư cho ông nói có thể gởi [chương trình cầu con] vào cuối tháng Hai.
Gần đây do Chân Đạt lão hòa thượng đã hơn ba năm chưa gặp mặt, nay Ngài bèn
cùng các đệ tử quy y thuở trước và pháp sư Đức Sâm đến núi trong ngày Hai Mươi
tháng này; do vậy không rảnh rỗi để viết lách. Tôi đã nói với pháp sư Đức Sâm bảo
Thương Vụ Ấn Thư Quán chế bản kẽm. Quang bỏ ra năm mươi đồng để làm chi phí chế
bản, chắc cũng đủ dùng. Bản kẽm [làm xong] sẽ cất ở chỗ pháp sư Đức Sâm tại Thượng
Hải ngõ hầu tín sĩ có thể ấn loát bất cứ lúc nào. Đợi khi bản kẽm được chế hoàn
chỉnh sẽ cậy họ tạm định một giá. Ông thỉnh bao nhiêu đó hãy gởi bưu phiếu qua
bưu điện về chùa Thái Bình ở đường Bắc Thành Đô, Thượng Hải, tiếp xúc với pháp
sư Đức Sâm. Sợ rằng càng về sau này, giấy càng đắt hơn, giá sách càng về sau
này càng đắt hơn, chẳng thể dựa theo giá in lúc đầu được. Nếu ông lo liệu chuyện
này, quyết khó thể mỗi chuyện đều đúng pháp được. Sư Đức Sâm giúp Quang giảo
chánh, đối chiếu mười mấy năm, chắc chắn mỗi mỗi đều đúng như pháp. Chỉ có điều
sách in ra có gởi sang đất Ôn (thuộc tỉnh Chiết Giang) được hay không vẫn là điều
khó đoán biết trước được! Nếu có bạn bè tin cậy có thể đem tới tận nơi thì tiện
lợi hơn nhiều lắm.
347 Thư trả lời cư sĩ Thí Nguyên Lượng (thư thứ nhất)
Trong
thư nên viết cả tục danh, chớ nên chỉ dùng pháp danh, ngay cả họ cũng không
ghi. May là có Cừu cư sĩ; nếu không, thư trả lời cũng khó đưa tới nơi được vì
pháp danh người ta phần nhiều chẳng biết, chắc sẽ đến nỗi bị chậm trễ hay thất
lạc. Sáu người ấy đã muốn quy y, đều đặt pháp danh cho mỗi người. Xin hãy giao
cho họ. Lại cần phải nói với bọn họ: Đã quy y Tam Bảo ắt phải sốt sắng tu trì Tịnh
nghiệp, ai nấy lại còn phải trọn hết bổn phận của chính mình, để người đời đều
cùng khâm phục chính mình đã trọn hết đạo luân thường, hiếu, đễ, trung, tín, lễ,
nghĩa, liêm, sỉ thì mới đáng gọi là đệ tử thật sự của đức Phật. Nếu không, dẫu
được cái danh quy y xuông, trọn chẳng có thật hạnh tu trì, sẽ trở thành kẻ ham
danh ghét thật. Do không có Thật thì danh cũng chẳng thể thật sự đạt được! Hiện
tại, thời cuộc nguy hiểm, bất luận già - trẻ - trai - gái đều nên niệm Phật, niệm
Quán Thế Âm để dự phòng. Những điều khác đã nói tường tận trong Gia Ngôn Lục
v.v… Quang già rồi, tinh thần, mục lực, công phu đều chẳng đủ, chớ thường gởi
thư tới ngõ hầu đôi bên chẳng bị quấy nhiễu thì mới nên!
348. Thư trả lời cư sĩ Thí Nguyên Lượng (thư thứ hai)
Ba
mươi ba pháp danh được viết trong một tờ giấy khác, gói chung với gói sách đựng
tro hương, gởi bằng thư bảo đảm. Hai mươi gói sách còn lại không gởi bằng thư bảo
đảm. Bọn họ đều phải nên giữ giới, ăn chay, niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Hãy
nên chiếu theo Gia Ngôn Lục mà hành. Chuyện bế quan cũng không cần thiết vì ông
có quyến thuộc, công việc, huống chi hiện nay thời cuộc bất định. Nếu như gia cảnh
dư dả thì thọ giới ở Hoa Sơn cũng được. Nếu không, chẳng cần phải góp phần vào
cuộc náo nhiệt ấy, thọ Phương Tiện Giới[11]
cũng được. Liên Xã là chỗ để đề xướng, chẳng nên thường đến đó niệm. Bình thường
cứ niệm ở trong nhà, còn thiếu niên, phụ nữ chỉ nên cho phép đến niệm Phật một lần
tại đó sau giờ Ngọ, nghe diễn giảng xong liền ra về. So với việc để họ suốt
ngày niệm Phật tại Liên Xã sẽ đỡ phải chuốc lấy bao nhiêu tiếng thị phi. Cách
này xét về cả hai mặt đều chẳng trở ngại gì. Nếu để cho họ niệm suốt ngày tại Liên
Xã, dẫu không có chuyện gì xấu xa, vẫn khó khỏi bị kẻ xấu mù quáng bịa chuyện
thì hai đằng đều phạm tội lỗi! Nữ giới đến niệm Phật chớ để cho họ nói chuyện
thị phi trong gia đình. Nếu họ không tuân theo quy củ, liền yêu cầu họ lần sau
đừng tới nữa. So ra, làm như thế sẽ có phần tốt hơn!
349. Thư trả lời cư sĩ Thí Nguyên Lượng (thư thứ ba)
Bốn
pháp danh được viết trong tờ giấy khác gởi kèm theo, xin hãy chuyển giao. Phàm
ai quy y đều nên dạy họ ai nấy phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt
lòng tà, giữ lòng Thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành. Người tại
gia thọ Ngũ Giới và thọ Bồ Tát Giới, chứ không thể thọ Tỳ Kheo Giới. Người thọ
Tỳ Kheo Giới mới gọi là Viên Cụ (trọn vẹn, đầy đủ), há nên xưng bừa? Người tại
gia thọ giới trên giới điệp (tờ phái quy y) chỉ viết quy y ở chùa nào, do vị thầy
nào [chứng minh], chẳng cần phải ghi những thứ như pháp phái v.v… Thọ giới ắt
phải trì giới, mà không thọ giới vẫn phải trì giới; chứ không phải là chưa thọ
giới thì sẽ chẳng trì giới! Vì sát sanh, trộm cắp, tà dâm, đại vọng ngữ (chưa
được nói là được, chưa chứng nói đã chứng, gọi là “đại vọng ngữ”. Tội ấy cực nặng) gọi là Tánh Giới, vì do thể tánh [của những điều ấy] mà
thành giới vậy. Giới uống rượu gọi là Giá Giới (Giá là ngăn dứt), chỉ người thọ giới mới không được uống. Kẻ chưa thọ
giới mà uống sẽ không mắc tội!
350. Thư trả lời cư sĩ Thí Nguyên Lượng (thư thứ tư)
Thư
nhận được đầy đủ, chuyện thọ giới ở Hoa Sơn chậm trễ cũng không sao. Trẻ nhỏ
lâm chung biết niệm Phật, lại được nhờ sức trợ niệm rốt cuộc được vãng sanh,
cũng có thể nói là nhân duyên hội đủ nên mới được lợi ích thật sự. Ông nói đến
chuyện chánh phủ sửa đổi [cho phép nhà trường] đọc sách Nho, muốn Hứa Chỉ Tịnh soạn
chú thích riêng [cho những kinh điển Nho gia] thì ông Hứa đã già rồi, chẳng thể
dụng tâm được! Dẫu có thể làm được thì ai chịu tuân theo? Đừng lo lắng quá về
chuyện này. Châu Tử (Châu Hy) chú thích ý nghĩa chữ Minh Đức hoàn toàn mượn những
nghĩa lý từ kinh Phật, nhưng không thể làm cho người ta lập tức hiểu rõ được vì
ông ta không nói thẳng vào nguyên do của Tánh Đức và Tu Đức. “Thân dân” hay
“tân dân” đều được cả. Chữ Thân (親) bao gồm ý nghĩa rất rộng,
Tân (新) là chỗ phát hiện của Thân (親).
Ông hãy nên dạy trẻ nhỏ niệm Phật trước, biết được chỗ hay của Phật pháp rồi thì
chỗ xấu xa của Tống Nho cũng có thể trở thành những điều phụ giúp cho Phật
pháp. Nếu không, đôi bên đều chẳng có ích gì! Với hai mươi đồng hương kính, tôi
đã bảo gởi mười mấy gói sách, chắc đã nhận được rồi. Hai ba hôm gần đây do phải
phơi kinh nên phúc đáp chậm trễ.
Nếu tượng Phật không thích hợp
thì đắp lại cũng không ngại gì; những vật được đặt trong lòng tượng Phật hay tượng
Bồ Tát cũng là do thói quen thế tục, chẳng có ý nghĩa sâu xa gì. Đặt kinh chú Đại
Thừa trong lòng tượng thì có ích, những thứ khác đều là [theo quan niệm] thế tục.
Ngay như những vật [dùng để yểm tượng] được nói tới trong Mật Tông vẫn là theo
tình cảm thế tục. Chuyện gây tai hại nhất cho người đời sau là dùng vàng, bạc,
vật báu để yểm tâm[12]
tượng, đến nỗi về sau kẻ vô tri hủy tượng để lấy báu vật. Của báu có được mấy
đâu, chỉ bỏ vào cho đủ theo danh mục mà thôi, nhưng cái họa hại người bắt nguồn
từ lúc yểm tâm tượng. Đây cũng là điều đáng để răn dè!
Xưa kia, một người ở Sơn Đông
ban đêm ăn trộm của báu yểm tâm tượng thần Nhị Lang[13].
Hôm sau, thần đạp đồng, nói: “Vật yểm tâm trong tượng ta đã bị người khác ăn trộm
mất!” Hỏi là ai, thần bèn nói: “Kẻ ấy lợi hại lắm! Khắp thân đều là lông, trên
đầu mọc ra một cái chân”. [Thần lại] nói: “Người này bọn ta tìm không ra, chỉ
đành kiếm bọn già các ngươi!” Gã ăn trộm đó về sau đi tiêu ngoài đồng, thấy một
con chó nhỏ chực bên cạnh. Chó đớp vào hậu môn một phát, ruột tuôn ra ngoài. Gã
ấy nói: “Khi ta ăn trộm vật yểm trong tượng thần, sợ thần nhận được mặt, bèn mặc
ngược áo bông, đầu trùm một cái vớ bằng vải bông”, nên thần mới tưởng “khắp
thân là lông, trên đầu có một cái chân”. Bọn dân hèn trong chốn làng quê không
lợi gì chẳng cầu. Vì thế, khi đắp tượng đừng yểm tâm! Nếu yểm tâm, sau này [tượng]
ắt sẽ bị kẻ ngu phá hủy.
351. Thư trả lời cư sĩ Phương Tử Phiên
Lệnh
di trượng[14]
nhiễm phải chứng Tinh Hồng[15]
là vì dụng tâm quá độ. Xin hãy khuyên ông ta toàn thân buông xuống hết, nhất
tâm niệm Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ liền được lành. Thêm nữa, uống nước tro hương Đại
Bi, chắc sẽ thấy hiệu nghiệm. Vị công đức chủ đã gởi hai ngàn đồng trước đây vốn
họ Trịnh, tên Tuấn, tự Triết Hầu ở Bình Lương, tỉnh Cam Túc. Năm sáu mươi bốn
tuổi từng làm Nghị Huyện Tri Sự v.v… là người hết sức chánh trực, nhưng không
tin Phật. Trước năm sáu mươi tuổi, nghe đến Phật pháp liền né như tránh đồ bẩn.
Tới năm sáu mươi tuổi, đọc Ấn Quang Văn Sao, An Sĩ Toàn Thư sanh lòng chánh
tín, gấp muốn vãng sanh Tây Phương. Vì thế, gởi một vạn ba ngàn đồng tới, cậy
Quang làm lễ trai tăng, phóng sanh, cầu siêu cho tổ tiên, phụ mẫu, siêu độ oán
gia và thỉnh các kinh sách. Phổ Đà lấy năm trăm đồng để tổ chức lễ Trai Tăng một
ngàn vị. Đối với chùa Linh Nham, chùa Pháp Vân ở Nam Kinh, chùa Thọ Lượng ở
Giang Tây đều chia ra [cúng dường]. Cam Túc là đất rét buốt, không giàu có lớn
lao. Người ấy cũng chẳng phải là giàu có lắm, nhưng do chí thiết tha vãng sanh
nên làm chuyện hao tốn lớn lao này, nhưng cũng chẳng thể tiếp tục để bố thí lớn
lao.
Vườn
phóng sanh của chùa Tịnh Viên có thể bù đắp cho nỗi niềm tiếc nuối của ông
Hoàng Hàm Chi. Quang già rồi, tinh thần lẫn mục lực đều chẳng đủ. Nếu trong
chùa ấy có bậc thông gia, xin hãy thỉnh vị ấy viết, chẳng cần phải chuốc lấy hư
danh. Nếu vị ấy chẳng chịu viết thì tôi cũng đành ra sức cho chuyện này, nhưng
ông phải thuật rõ lai lịch ngõ hầu chẳng đến nỗi bị thiếu sót. Nghe nói người đề
xướng [chuyện lập vườn phóng sanh] vào lúc ban đầu là lệnh từ và Đương Gia am Bạch
Vân, cũng nên nêu rõ tên ra. Hãy nên lập một tấm bia lớn, nay tôi gởi cho ông bản
nháp, xin hãy đọc để tiện chiếu theo đó mà lo liệu.
Thêm nữa, làm việc gì hãy nên
viên thông, chớ nên chấp nhặt, hẹp hòi. Một ngàn năm trăm đồng tiền phóng sanh nên
chia thành ba phần: Một phần để phóng sanh, một phần mua thức ăn [nuôi những
con vật được phóng sanh], một phần giữ làm quỹ. Vì nếu không phóng sanh sẽ nghịch
lòng vị thí chủ, không mua thức ăn thì những con vật ấy sẽ khiến cho người khác
phải bận lòng, không có quỹ sẽ khó thể tiếp tục về sau này được! Những khoản
quyên tặng sau này đều nên chuẩn theo cách này. Hơn nữa, khoản tiền tuy nhiều,
chớ nên dùng hết khoản tiền đó để mua [loài vật phóng sanh] ngay một lúc để ngừa
về sau muốn mua nhưng không có tiền để mua.
51. Thư trả
lời cư sĩ Hoa Thúc Cầm
Gần
đây nghe nói ông dời sang Thường Thục sống, chắc đã có thể chuyên nhất tịnh tu,
an ủi lắm. Thế đạo không tốt, mọi sự đều chẳng dễ thực hiện. Từ khi cư sĩ phát
tâm ấn tống Quán Âm Tụng đến nay đã mấy năm rồi mà vẫn chưa thể hoàn tất được,
đủ biết bao nhiêu chuyện tốt trong thế gian đều vì chiến tranh mà chẳng thể
thành tựu được! Trước kia, sư Diệu Liên bảo người Dương Châu khắc in, chiến sự nhiều
lần nổ ra, thường có những lúc đôi bên chẳng thể gởi thư cho nhau được. Đến khi
khắc xong xuôi rồi, Quán Âm Am lại bị lính đóng; vì thế sư Diệu Liên giảo đối
hơi thiếu chánh xác, cặn kẽ, chưa khắc phần Quyển Thủ[16]
nhưng đành coi như xong chuyện. Đến năm ngoái, cư sĩ phát tâm in tặng, bèn cậy
người thuộc viện Mồ Côi xin bản in của ngài Diệu Liên từ chỗ ở của ông Dương
[Nhân Sơn].
Đến khi in ra, tất cả những phần
như Thiêm Điều, Thư Diện[17],
Quyển Thủ đều không có, bèn sai tìm kỹ, mới biết chưa được khắc. Ngay khi ấy liền
cho khắc, nhưng bốn trăm bộ sách đến gần đây mới giao đủ. Sau này Quang giảo
chánh kỹ càng, biết những chỗ bị sai sót nặng nề cũng đến ba bốn trăm, còn những
chỗ sai lặt vặt không đúng cách thì nhiều lắm. Do vậy bèn sửa chữa một bộ, bảo
họ sửa lại bản in.
Sách được in lần này có kèm
theo một bản đính chánh. Phàm gởi sách cho ai đều kẹp thêm [bảng đính chánh]
trong sách để người nhận sách có thể dựa theo bảng ấy mà sửa. Ở chỗ ông có năm
mươi bộ, đã gởi tới vào năm ngoái, chắc đã chia ra biếu tặng hết rồi. Nay ông Ấu
Nông sang thăm nhà mới, tôi cậy ông ta cầm theo năm mươi trang đính chánh; phàm
những ai đã được tặng sách trước đây, xin hãy tặng mỗi người một tờ để họ sửa chữa
cho đúng. Thế đạo hiện thời khó thể thái bình ngay được, hãy nên lấy A Di Đà Phật
và Quán Thế Âm Bồ Tát làm tòa Thái Sơn để nương tựa, ngõ hầu chẳng đến nỗi gặp
phải nguy hiểm. Nhưng sự nguy hiểm trong thế gian là sự nguy hiểm nhỏ nhặt; nếu
chẳng sanh về Tây Phương, sự nguy hiểm vì luân hồi trong tương lai còn lớn hơn gấp
trăm ngàn vạn lần sự nguy hiểm trong lúc này. Xin hãy cùng với Huệ Nguyên và
các con đều tu Tịnh nghiệp, ngõ hầu có thể thoát khỏi đời Ngũ Trược này, sanh
sang cõi chín phẩm kia, thì thế đạo nguy hiểm hiện thời sẽ luôn luôn là sự hướng
dẫn vãng sanh Tây Phương nhằm vĩnh viễn lìa khỏi các khổ vậy.
352. Thư trả lời cư sĩ Dương Tông Thận
Thư
nhận được đầy đủ. Kẻ ngu trong thế gian chẳng biết nhân quả, thấy làm lành mà mắc
họa bèn bảo: “Chớ nên làm lành!” Thấy làm ác vẫn hưởng phước bèn nói: “Ác chớ
nên kiêng!” Chẳng biết họa - phước xảy đến, có gần, có xa, sớm hay muộn không
nhất định. Gần thì ai nấy đều thấy được, xa thì hoặc cách một đời hoặc cách mấy
đời, chẳng phải là người có Túc Mạng Thông sẽ chẳng thể biết rõ.
Nay lập ra một ví dụ cho dễ hiểu.
Làm lành hay làm ác giống như gieo mạ. Người ấy tuy lành nhưng trong đời trước hành
vi chẳng thể nào không phạm lỗi, vì thế ngày nay không thể nào chẳng hứng chịu
những điều trái nghịch. Cái thân đời này gọi là Báo Thân. Đời này làm nam hay nữ
hoặc đẹp hoặc xấu, cũng như thọ - yểu, giàu - nghèo, trí - ngu, khỏe mạnh hay bệnh
tật v.v… chính là quả báo chiêu cảm bởi những hành vi trong đời trước. Vì thế gọi
cái thân này là Báo Thân, hàm ý cái thân ấy là quả báo của những hành vi trong
đời trước; do cái nhân trong đời trước dẫn đến cái quả trong đời này.
Đời này tuy lành, nhưng do đời
trước nghiệp nặng, sẽ chẳng thể hưởng được quả báo tốt lành ngay, mà trước hết
phải gánh chịu ác báo từ đời trước. Như người năm ngoái không trồng lúa, năm
nay tuy siêng năng cày cấy, nhưng trước khi thâu hoạch, cũng chẳng tránh khỏi
không có lương thực. Không có lương thực chẳng phải vì năm nay siêng năng vất vả
cho nên không có, mà năm nay không có lương thực là vì năm ngoái chẳng gieo trồng
mà ra! Năm nay đã siêng năng cày cấy, gieo trồng thì sau khi thâu hoạch và năm
sau sẽ có thóc lúa. Kẻ làm ác chưa bị mắc họa là vì phước thừa còn chưa hết.
Như người năm ngoái siêng năng cày cấy gieo trồng, năm nay không cày cấy, gieo
trồng, vẫn chẳng đến nỗi chết đói là vì năm ngoái hãy còn thừa lại. Ăn hết rồi,
do năm nay không gieo trồng, sẽ không có cái để ăn nữa đâu! Cần biết rằng: Người
lành gặp ác báo, nếu chẳng làm lành, ác báo ấy càng nặng nề hơn! Do làm lành
nên ác báo sẽ theo đó giảm nhẹ đi. Người ác hưởng thiện báo, nếu chẳng làm ác,
thiện quả ấy càng lớn hơn. Do làm ác, thiện báo cũng theo đó mà giảm nhẹ đi.
Đối với cơm áo và những vật cần
thiết cho cái thân, người đời đều biết để dành sẵn để khỏi phải lúng túng khi xảy
ra chuyện; nhưng đối với chuyện liên quan đến thân tâm tánh mạng, chẳng những
không biết sắp đặt sẵn, lại còn coi những kẻ chuẩn bị sẵn là si dại, tự mình mặc
tình làm càn những chuyện dâm, giết, cho là mình có phước, có trí! Chẳng biết
những kẻ mù, điếc, câm ngọng, tàn phế, không nơi nương tựa trong thế gian và
trâu, ngựa, lợn, dê, hoặc phục dịch con người, hoặc [đem thân] trám đầy bụng miệng
con người đều là hạng người tự cho là mình có phước có trí đã gặt lấy quả báo “tốt
đẹp, chân thật” do thứ phước trí ấy! Người tu hành cần phải có tấm lòng quyết
liệt, mặc cho kẻ khác chê cười, hủy báng, ta trọn chẳng nghi ngờ, bận tâm gì! Nếu
nghe kẻ khác chê cười, hủy báng bèn ngã lòng thì hạng người ấy cũng là do thiện
căn đời trước hời hợt nông cạn mà ra, chẳng lấy lời Phật dạy làm chỗ nương về,
cứ lấy lời của ngu phu ngu phụ làm căn cứ. Vì thế sẽ luân hồi trong sanh tử dài
lâu, vĩnh viễn chịu nỗi khổ trong tam đồ, muốn được hưởng thân trời - người còn
khó, huống là đại lợi ích “liễu sanh tử, siêu phàm nhập thánh, cho đến thành Phật”
ư?
Pháp môn Tịnh Độ lấy “lòng tin
chân thật, nguyện thiết tha niệm Phật, quyết định cầu sanh Tây Phương” làm tông
chỉ. Nếu người niệm Phật chẳng nguyện cầu sanh Tây Phương tức là đã trái nghịch
lời Phật dạy. Ví như vương tử sống nhờ nước khác, chẳng tin chính mình là vương
tử, chỉ muốn suốt ngày xin ăn, chỉ không đến nỗi chết đói là đã thỏa chí vừa ý
rồi! Tri kiến kém hèn ấy chẳng khiến cho người khác thương xót ư? Bà Cao nhà họ
Vương thuộc kinh điển làu làu, nhưng nói “chẳng dám vọng tưởng sanh Tây”, sao
mà tâm chí cũng kém hèn cùng cực đến thế? Vị thầy bà ta thường ngày thân cận
cũng thuộc hạng tu mù luyện đui! Nếu vị thầy ấy biết pháp môn Tịnh Độ, làm sao trưởng
dưỡng ý tưởng ấy cho được?
Xin hãy nói với bà ta: “Nếu chẳng cầu sanh Tây Phương, chắc chắn chẳng
chấp thuận cho bà ta quy y. Chịu cầu sanh Tây Phương thì sẽ bằng lòng cho bà ta
quy y. Nay đặt pháp danh cho bà ta là Tông Tín, nghĩa là tin sâu lời Phật, chẳng
dám trái nghịch sự tu trì Tịnh nghiệp của chính mình. Lại cần phải dạy lũ con
cái, dâu, cháu đều cùng giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ
lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, kiêng giết, bảo vệ
sanh mạng, niệm Phật và niệm Quán Thế Âm để mong đời này nghiệp tiêu, phước
tăng, lâm chung vãng sanh Tây Phương. Tự hành như thế và giáo hóa gia đình cùng
với thân bằng, nhất định sẽ được vãng sanh như nguyện. Phật mở ra pháp môn Tịnh
Độ dạy người cầu sanh Tây Phương, bà là hạng người gì mà dám chẳng coi lời Phật
là đúng, mặc tình thỏa chí của mình ư? Vì thế cần phải lấy lời Phật dạy làm ‘tông
chủ, tông bổn’ (những điều chánh yếu, căn bản cần phải đề cao, tôn sùng) mà tín
phụng, chẳng dám có một niệm trái nghịch thì mới gọi là Tông Tín!”
Con gái bà ta là Hồ Vương Thị
pháp danh là Tông Tịnh. Chồng, vợ, con cái trong thế gian không ai chẳng phải
là do nghiệp duyên đời trước kết thành. Chồng bà ta mất sớm, con trai chưa cưới
vợ đã chết yểu, con gái vừa lấy chồng đã thành góa bụa; nếu luận theo mặt tình
cảm trong cõi đời thì chẳng tốt đẹp, nhưng nếu có thể nhờ đó mà biết tướng thế
gian vô thường, chuyên chí tu trì thì những tình cảnh khổ sở ấy quả thật là hướng
dẫn tốt lành khiến cho bà ta thoát khổ. Những kẻ phú quý, chồng - vợ - con cái
một nhà đoàn tụ, tinh thần luôn hao phí, bận bịu trong chuyện sanh nở, cưới gả,
dẫu muốn nhất tâm niệm Phật cũng chẳng thể như ý. Bà ta nghĩ được như vậy và dạy
con gái nhất tâm niệm Phật thì chồng, con, rể bà ta đâm ra sẽ trở thành người
giúp đỡ đạo nghiệp cho bà ta. Nếu bà ta một dạ vãng sanh thì chồng, con, rể
cũng sẽ nhờ sự tu trì ấy mà vãng sanh Tây Phương. Đấy gọi là “vàng do luyện được ròng, dao do mài mà bén,
chẳng trải một phen rét thấu xương, sao được hoa mai thơm ngát mũi”?
Để thành tựu cho con người, trời
có nghịch, có thuận. Nếu con người biết vui theo mạng trời thì nghịch đâm ra
thành thuận. Nếu không, thuận cũng đâm ra trở thành nghịch, chỉ do con người có
khéo dụng tâm hay không mà thôi! Lại nữa, hiện nay đang nhằm tình thế đại hoạn
nạn, phàm đao binh, nước, lửa, ôn dịch, sâu rầy, châu chấu, hoặc mắc bệnh vì
oán nghiệp thuốc men chẳng thể chữa trị được mà nếu chịu chí thành niệm Phật,
niệm Quán Thế Âm, chắc chắn sẽ có thể gặp dữ hóa lành!
Thêm nữa, nữ nhân khi sanh nở ắt
nên niệm ra tiếng rõ ràng “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát”, chắc chắn chẳng bị khó
sanh! Dẫu khó sanh sắp chết, dạy người ấy niệm sẽ tức khắc có thể an nhiên sanh
nở. Hãy nên nói lời này với hết thảy mọi người, khiến cho họ đều biết rõ thì thế
gian sẽ chẳng có chuyện sanh khó cũng như do vì khó sanh khiến cho mẹ lẫn con đều
chết. Chớ nên nói “lõa lồ, bất tịnh, niệm sợ mắc tội lỗi!” Đấy là lúc liên quan
đến tánh mạng của cả mẹ lẫn con, không làm sao khác được, chớ nên so sánh với
chuyện hết sức cung kính, hết sức khiết tịnh lúc bình thường! Lại còn phải niệm
ra tiếng rõ ràng, chớ nên niệm thầm trong tâm, do niệm thầm sức cảm ứng nhỏ, lúc
ấy lại còn phải dùng sức để đẩy đứa con ra, niệm thầm trong tâm chắc sẽ bị mắc
bệnh. Những người chăm sóc trong nhà cũng lớn tiếng niệm giúp cho người ấy. Người
nhà ở nơi phòng khác cũng có thể niệm giúp cho sản phụ ấy.
Dạy con gái niệm Phật từ bé,
sau này chắc chắn chẳng phát sanh những thứ đau khổ ấy. Tương lai lâm chung còn
có thể vãng sanh Tây Phương. Nếu không, hễ ốm nghén liền niệm, hoặc trước khi
sanh ba bốn bữa liền niệm, hoặc đến lúc sanh nở mới niệm đều được. Người đời
thường ngăn trở thiện niệm của kẻ khác, như phụ nữ sanh sản mọi người thường
coi đó là chuyện đáng sợ. Chẳng những chính sản phụ không dám niệm, ngay đến mẹ
chồng hoặc mẹ ruột thấy con dâu hoặc con gái sanh nở bèn trốn trước ra ngoài,
hơn một tháng mới dám mò về. Những kẻ ấy đều là vì nghe lời ngoại đạo, chỉ biết
cách thức cung kính lúc bình thường, chẳng biết tùy theo sự việc để quyền biến
cho thích nghi, khiến cho nhiều nữ nhân trong thế gian chịu đau khổ cùng cực hoặc
đến nỗi tử vong! Chẳng đáng buồn ư? Viết tạp nhạp như thế để mong lợi người.
353. Thư trả lời cư sĩ Nghiêm Bá Phóng (thư thứ nhất)
Thư
gởi đến một mực nói những lời sáo rỗng, khen ngợi quá lố, quả thật khiến cho
người ta chẳng chịu đựng nổi (ông Hứa và ông có cùng một cung cách,
Quang chẳng cho như thế là đúng). Cha ông đã mù
nhiều năm, hãy nên khuyên cụ chịu nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương, phản
chiếu hồi quang khiến cho tâm được quy nhất; chắc mắt sẽ được trở lại như cũ. Dẫu
chẳng thể phục hồi, nhưng do tâm địa thanh tịnh, ắt được cảm ứng đạo giao, được
Phật tiếp dẫn. Vì thế, pháp danh là Đức Minh. Cậu ông bị bệnh suyễn, nếu chí
thành niệm Phật chắc sẽ được lành. Nhưng đối với hết thảy việc nhà và những gì
trong chính thân tâm đều đừng để vướng mắc, nhất tâm niệm Phật khiến cho không
còn tâm niệm nào khác xen tạp. Vì thế, pháp danh là Đức Thuần.
Nay gởi [cho ông] một bao tro
hương Đại Bi. Bao này có thể pha uống được hai mươi lần; mỗi một lần pha, có thể
uống được mười mấy lượt. Chí thành khẩn thiết niệm “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát”,
đừng uống rượu, ăn thịt. Lúc pha, lấy một phần hai mươi [lượng tro] đổ vào tô lớn,
dùng nước sôi pha, khuấy lên, đợi cho chất tro lắng xuống (chất tro ấy
thêm nước vào để tưới cây) gạn lấy nước trong, chứa
trong đồ đựng để uống mười mấy lần. Mỗi ngày có thể uống ba lần. Uống hết lại
pha tiếp. Nếu lành bệnh, nên đem số tro còn thừa để ở nơi cao sạch, chớ nên
khinh nhờn. Phàm ai có bệnh ngặt nghèo, hãy đem tặng, bảo họ pha uống, chắc sẽ biến
chuyển bớt dần.
Ông muốn lợi người nên sốt sắng
làm chuyện quan trọng này. Cuốn sách ấy in bằng cỡ chữ Tam Hiệu Tự hết thì được,
chứ cỡ chữ Ngũ Hiệu Tự người già sẽ đọc không được. Sách ấy lại còn hoàn toàn
chưa được giảo chánh tường tận, [danh xưng] Hoằng Hóa Xã ở mấy chỗ đều in thành
Hoằng Quang! Chữ ông sử dụng cũng thiếu thỏa đáng! Trong sách có những chữ
Quang đọc không ra, huống chi lại có toa thuốc. Nếu có sai ngoa, sẽ có quan hệ
rất lớn. Ông thô tâm lớn mật như thế, sao Quang dám giao cho ông trông coi ấn
loát các thứ văn tự cho được? Từ nay về sau đừng gởi sách này đến nữa để người
ta khỏi thấy do Quang gởi tặng chắc sẽ nói Quang chẳng hiểu biết sự vụ gì hết!
354. Thư trả lời cư sĩ Nghiêm Bá Phóng (thư thứ hai)
Hôm
trước nhận được thư ông, biết ông được cậu chăm sóc, vun quén, nên mới có được
ngày nay, gởi khoản tiền năm mươi đồng để mong báo ân mẹ, ân cậu, ân mẹ kế và
siêu độ em gái. Gởi thư cho Đương Gia chùa Linh Nham thưa bày những chuyện cực
trọng yếu này, phần ký tên chỉ ghi là “cẩn ngôn” (kính thưa), một chữ nhún mình
cũng chẳng chịu viết; còn thư gởi cho Quang viết là “quỳ bẩm”. Nếu ông không có
những chuyện quan trọng phải cầu cạnh người khác, chẳng biết sẽ dùng chữ như thế
nào! Làm phận con, là đứa cháu chịu ơn sâu nặng mà viết như thế đó; sao chẳng
biết lễ nghi thế gian đến mức như vậy, huống là lễ nghi trong Phật pháp ư?
Quang sáng tối hồi hướng cho
cha mẹ ông, vẫn cần lễ Phật. Đại chúng Linh Nham gần một trăm vị, tán lễ, niệm
Phật hiệu [cho người thân của ông]. Mỗi khóa lễ ai nấy lạy hai mươi bốn lạy, mà
ông cầu xin họ rẻ rúng như thế, dẫu các Sư thành khẩn cũng khó đạt được cảm ứng
thù thắng. Ông đừng nói: “Quang muốn được người khác cung kính!” Thật ra, Quang
thương ông vô tri, chẳng dễ cảm Tam Bảo rủ lòng Từ gia bị. Hãy nên đối trước Phật
khẩn thiết sám hối, ngõ hầu mẹ, cậu ông, mẹ kế, em gái của ông đều được Phật từ
bi tiếp dẫn vãng sanh, cũng như tổ tông quá khứ, quyến thuộc hiện tại ai nấy đều
được Tam Bảo gia bị, lìa khổ được vui. Ông coi Quang là thầy, nếu chẳng nói
chuyện này thì Quang đã mất tư cách làm thầy. Nếu ông chẳng nghĩ như thế là
đúng, ông cũng đã mất tư cách làm con, làm cháu, làm anh, làm đồ đệ! Từ nay coi
nhau như người ngoài đường, chẳng cần phải xưng là đệ tử nữa!
Quang
suốt đời chẳng khởi ý tưởng điên đảo giống như thế tục, cái gì mà tám mươi với
lại chẳng tám mươi? Có ai bàn chuyện chúc thọ cho Quang, chẳng những Quang không
nhận lãnh tình cảm ấy mà còn ghét cay ghét đắng, hoàn toàn cho đấy là chuyện nhục
nhã lớn lao! Xin đừng đem chuyện này nói với Quang! Nếu ai nói chuyện chúc thọ
với Quang tức là đã coi Quang là hạng phàm tục vậy! (tái bút)
355. Thư trả lời cư sĩ Huệ Phố
Mấy
năm chưa gặp gỡ, đang trong cơn đại kiếp này, ông vẫn an cư không phải lo lắng
gì, khôn xiết vui mừng, an ủi! Muôn phần chẳng ở lâu trong thế giới này được,
hãy nên với quyến thuộc và các thân hữu cùng tu Tịnh nghiệp, cùng sanh Tây Phương;
ấy mới là kế hoạch tối thượng bậc nhất. Vì thế, đặt pháp danh cho Đàm Trần Thị
là Tông Tịnh. Tông là gốc, là chủ. Tịnh là tu Tịnh nghiệp để cầu sanh về cõi Phật
thanh tịnh Cực Lạc thế giới. Muốn sanh về Tịnh Độ, hãy nên lấy ăn chay, niệm Phật,
kiêng giết, bảo vệ sanh mạng làm gốc. Do sát nghiệp trong đời trước mà cảm
thành quả báo gặp phải sát kiếp này. Nay do ba nghiệp thân - miệng - ý thanh tịnh,
kèm thêm ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh sẽ tương ứng với thệ nguyện to tát, lớn
lao của A Di Đà Phật. Đến khi lâm chung, chắc chắn cậy vào Phật từ lực tiếp dẫn
vãng sanh. Lợi ích ấy chẳng thể tuyên nói bằng lời lẽ hay văn từ được đâu! Xin
hãy đem ý này nói với bà ta và hết thảy mọi người.
Ngoài ra, còn kèm theo Một Bức
Thư Trả Lời Khắp là khai thị châu đáo nhất, đơn giản nhất, rõ ràng nhất. Hãy tự
giữ một phần và cho bà Đàm một phần để mọi người đều được xem. Lại còn có một
trang dược phương cũng khá thần hiệu. Toa cai thuốc phiện, trị bệnh đau lói vì ứ
hơi ở gan và bao tử, dẫu là danh y hay Tây Y cũng không thể trị được, [còn dùng
toa này thì] đều hễ trị liền khỏi. Xin đừng coi thường rồi bỏ qua!
356. Thư gởi cư sĩ Tông Tịnh
Mấy
hôm trước nhận được thư bà, liền gởi ngay cho bà một gói Văn Sao Tục Biên, hình
chụp được kẹp trong trang đầu cuốn sách. Cái chết của con bà về mặt Sự là do lầm
thuốc, nhưng thật ra là nhằm dẫn dắt bà niệm Phật vãng sanh, siêu phàm nhập
thánh! Đừng bi ai, hãy nên sanh lòng vui mừng, may mắn! Các kinh sách Tịnh Độ bà
đã đều đọc cả rồi, chớ nên vẫn giống như hạng phụ nữ vô tri vô thức. Đang trong
lúc đại kiếp tàn phá rỗng toang cả trời đất này, hãy nên lấy thân làm gương để
tự hành, dạy người, khiến cho khắp những ai hữu duyên đều cùng tu Tịnh nghiệp,
cùng sanh về Tây Phương.
Gần đây nữ giới đúng là đã biến
thành yêu tinh, trang điểm còn lòe loẹt hơn bọn gái làng chơi. Bà hãy nên
nghiêm túc giữ theo quy cách cũ, thống thiết gột rửa những thói xấu theo đuổi
thời trang; áo vải, dép vải [là được rồi], đừng mặc áo lượt là lộng lẫy. Đừng giồi
phấn, đừng bôi nước hoa; vâng giữ giáo huấn của thánh nhân “trang điểm lả lơi sẽ khơi gợi lòng dâm [nơi kẻ khác]” để hết thảy
mọi người trông thấy bà đều sanh lòng khâm phục, kính trọng. Những kẻ ham chuộng
thời trang chính là nhằm làm cho hết thảy mọi người khởi tâm ô nhiễm đối với họ!
Há chẳng phải là tự khinh thường, tự rẻ rúng hay sao? “Quân tử chánh kỳ y quan, tôn kỳ chiêm thị, nghiễm nhiên nhân vọng nhi
úy chi” (Quân tử áo mũ ngay ngắn, nhìn ngó đàng hoàng, tư thái trang trọng
khiến người khác trông thấy phải kính nể). Như thế thì hết thảy mọi người đều
sanh lòng kính trọng, rồi lại nói với họ về pháp môn Tịnh Độ, ắt họ sẽ cảm động
sâu xa.
Xin hãy đọc kỹ bài Tịnh Độ Quyết
Nghi Luận trong bộ Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên và lá thư gởi cho hòa thượng
Quảng Huệ ở Ngũ Đài Sơn trong bộ Văn Sao Tục Biên thì sẽ biết rõ nguyên do của
pháp môn Tịnh Độ, sẽ có thể ở trước hết thảy mọi người tùy ý diễn nói. Có một
phụ nữ Hồi Hồi ở Vu Hồ tin tưởng Phật pháp sâu xa, năm ngoái gởi thư xin quy y,
bà ta thường khuyên người khác niệm Phật. Có một Nho sĩ cực thông minh chẳng
tin nhân quả, chẳng tin Phật pháp. Bà ta cùng người ấy biện luận, bảo ông ta đọc
Văn Sao, ông ta đọc chưa được mấy thiên đã cậy bà ta xin quy y giùm. Đấy chính
là vì bà ta nghiêm trang đoan chánh khiến người ta phải phục; do vậy người ta
kính vâng theo lời. Nếu trang điểm như yêu tinh, làm sao có thể khiến cho người
có đại học vấn tin tưởng hành theo được ư? Người Hồi Hồi khó giáo hóa nhất! Cha
mẹ, anh em, thân thích của bà ta cũng rất kính trọng bà, nhưng chẳng chịu nghe
theo bà ta ăn chay niệm Phật. Những người được bà ta khuyến hóa đều là người Hán.
Ông Mã Thuấn Khanh ở Hồ
357. Thư trả lời cư sĩ Đức Thành
Thư
ông nói toàn những lời náo nhiệt, bùi tai, hãy gấp nên tự chế. Phàm những chuyện
nào chẳng làm tới nơi tới chốn được, quyết chẳng chịu nói! Ông hãy đem lời phát
nguyện biến thành chuyện thực hành thường ngày, chuyện nào cũng làm đến nơi đến
chốn như nhau. Phát nguyện vốn nhằm để mong mỏi sâu xa nên không vướng khuyết
điểm mà còn có ích lợi lớn lao. Nếu là hằng ngày thường làm được thì hãy nên
nói; nếu làm không được mà cứ thường nói, lâu ngày sẽ bị ma dựa. Chỉ chuyên nói
xuông, chẳng thực hành mảy may nào mà nếu chẳng thống thiết sửa đổi, chắc chắn
sẽ chết vì ma.
Ông và một gã trẻ tuổi ở vùng
Quan Đông[18]
đúng là do cùng một mẹ sanh ra! Chàng ta gởi thư xin quy y, hai ba năm sau gởi
thư đến nói “muốn được thông hiểu khắp các tông của Phật giáo, thông hiểu ngôn
ngữ của khắp mọi nước, muốn truyền bá Phật giáo khắp toàn cầu”. Quang nói: “Như
lời ông nói thì bậc Pháp Thân đại sĩ từ xưa vẫn chưa thể làm được. Ông là hạng
người nào mà chẳng tự lượng vậy? Nếu vẫn không sửa đổi, sau này ắt sẽ chết vì
ma dựa”. Hai ba năm sau nữa, anh ta nhất quyết muốn xuất gia, Quang giữ vững ý
nguyện vĩnh viễn chẳng thâu nhận đồ đệ, thầy Minh Đạo chèo kéo anh ta đến xuất
gia. [Anh ta là] con người khá chất phác, trọn không chí dũng mãnh siêng học.
Chuyện không thuộc về bổn phận của mình, bất cứ ai cần đến cũng chẳng chịu nhọc
nhằn thay cho người khác. Lời ông đã nói nếu có thể làm được thì còn tốt đẹp;
chứ nói rồi mà suốt đời cũng chẳng làm được, đem nói với kẻ vô tri thì còn có
thể làm cho họ tin tưởng hoặc chẳng tin, nếu đem nói với người hiểu biết, người
ta sẽ xem ông chẳng đáng nửa đồng!
Ông xem các sách rồi mà vẫn chẳng
có kiến thức chọn thầy hỏi bạn, cứ cầu Quang khai thị; ông chân thật mong cầu
hay nhằm phô sự cuồng vọng vậy? Chuyện xuất gia đã thỏa, còn hỏi tôi làm chi? Đủ
thấy ông hoàn toàn theo thói sáo rỗng! Quang một mực chẳng ưa thói sáo rỗng,
nên đặc biệt nói thẳng thừng không úp mở nhằm mong hữu ích cho ông. Chịu nghe
hay không, tùy ý ông! Xuất gia rồi đừng tới Linh Nham, sợ tánh cách của ông chẳng
hợp với đạo tràng ấy sẽ thành vô ích! Quang già rồi, mục lực chẳng đủ, từ rày đừng
gởi thư đến nữa, gởi đến quyết không trả lời; bởi lẽ các kinh sách và Văn Sao
ông đâu có tuân theo thì cần gì phải có một bức thư nữa đây?
358. Thư trả lời cư sĩ Lâm Phố
Bệnh
di truyền cũng do túc nghiệp cảm thành, hãy nên chí thành khẩn thiết niệm thánh
hiệu Phật và Quán Âm sẽ có thể được lành, chẳng còn di truyền nữa. Nói đến cửa
ngõ giải thoát thì chỉ có một pháp tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương.
Đây chính là pháp môn cậy vào Phật lực để có thể thực hiện xong chuyện liễu
sanh tử ngay trong đời này. Nếu ai chẳng chuyên tu pháp này mà tu các thứ pháp
môn khác thì hạng phàm phu sát đất chẳng thể thực hiện được [chuyện liễu sanh tử]
trong một hai đời được! Chúng ta từ vô thủy đến nay vẫn luân hồi trong sanh tử
đều là vì trong khi luân hồi vẫn chưa gặp được pháp môn Tịnh Độ, hoặc đã gặp
nhưng chưa tu mà ra! Nay may mắn gặp gỡ, đừng để luống qua. Nay đặt pháp danh
cho ông là Tông Tín. Do ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh là chánh tông của Tịnh Độ;
điều cần thiết đầu tiên là lòng tin chân thật. Có lòng tin chân thật, nhất định
sẽ có nguyện chân thật, hạnh chân thật. Nếu không, chẳng gọi là “lòng tin chân
thật”. Một pháp Niệm Phật còn có thể siêu phàm nhập thánh, huống là chẳng chữa
lành được bệnh di truyền ư?
Đã quy y Phật pháp, ắt phải tận
lực thực hiện tám đức “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ” và sáu sự
“cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia” để mong đất nước bình
trị, thiên hạ thái bình. Cổ nhân nói: “Thiên
hạ chẳng yên, thất phu có trách nhiệm”. Trách nhiệm ấy nằm nơi đâu? Nằm ở
chỗ “vật [dục] chẳng bị trừ khử”. Nếu chịu trừ khử, ắt sẽ trí tri, ý thành, tâm
chánh, thân tu (một người được như thế thì cũng đã có lợi ích lớn lao.
Ai nấy đều như thế sẽ thái bình). Vật là gì?
Chính là những tư dục trong tâm. “Cách” là “cách trừ” (trừ khử), loại bỏ. Trong
tâm con người không có tư dục thì tri kiến tự chánh. Ví như kẻ yêu vợ, yêu con,
do trong tâm tình thương yêu lấp chặt, trọn chẳng thấy được những điều xấu của
vợ con. Nếu không có tình yêu sẽ thấy ngay vợ con đúng hay sai như gương soi
bóng, một tí ti cũng chẳng lầm lẫn.
Chớ nên hiểu theo cách họ Châu
chú giải: “Thúc đẩy tri thức của ta đến
cùng cực là trí tri, thấu hiểu cùng tận lý của mọi sự vật trong thiên hạ là
cách vật”. Nếu nói như thế thì ngay cả thánh nhân cũng chẳng làm được! Chuyện
chánh tâm thành ý dẫu là thất phu, thất phụ không biết một chữ nào, chỉ cần
không có lòng ham muốn thiên vị, riêng tư đều có thể làm được! Tám chuyện “cách,
trí, thành, chánh, tu, tề, trị, bình” nếu luận trên mặt gốc chỉ là một chuyện
“cách vật” (trừ khử vật dục). Vật dục đã được trừ khử rồi, sự thấy biết sẽ đạt
đến tột cùng (trí tri), ý thành, tâm chánh, thân tu. Họ Châu biến cội gốc cực
thân thiết, cực đơn giản, dễ dàng thành cành nhánh cực xa xôi, cực lợt lạt, cực
khó thể cùng tận, chôn vùi gốc đạo trị thiên hạ của thánh nhân, đến nỗi kẻ hậu
học học theo thánh nhân mà chẳng hiểu được pháp tắc để thực hiện một cách thân
thiết nhất, nên hoàn toàn chú trọng chuyện bên ngoài chứ không tự phản tỉnh bề
trong. Đã thế, lại còn đả phá, bài xích sanh tử, luân hồi, nhân quả, báo ứng,
cho là không có, đến nỗi hoại loạn Ngũ Luân, Bát Đức, phá xập phên giậu đạo đức.
Tội ác khiến cho hết thảy sanh linh lầm than đều phát sanh bởi đây, chẳng đáng
buồn ư? Bệnh di truyền ấy rất lớn, rất độc, nếu chẳng phải là bậc đại y vương Đại
Giác Thế Tôn sẽ chẳng thể trị được!
Lời này Quang chỉ nói với ông,
ông đừng nói bừa với kẻ vô tri. Nếu không, sợ rằng mọi người đều tuốt kiếm đứng
lên, sẽ không có cách nào cứu được đâu! Đã quy y Phật, ắt phải giữ vẹn luân thường,
trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ
các điều lành, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, ăn chay, niệm Phật, dùng lòng tín
nguyện sâu cầu sanh Tây Phương. Dùng điều này để tự hành, lại còn đem dạy người,
ngõ hầu chẳng uổng cuộc đời này, chẳng uổng dịp gặp gỡ này!
Nghề
nghiệp của Hoa Tôn hơi khó tu trì, nhưng hễ có lòng Thành sẽ tự có cảm ứng. Nay
tôi dùng một chuyện để làm chứng. Nơi đường lớn phía trong cửa Phụ Thành, Bắc
Kinh có quán bán thức ăn mặn lớn tên là Cửu Như Xuân, buôn bán rất phát đạt. Một
đêm, viên quản lý mơ thấy vô số người đến đòi mạng, tâm biết là những con vật bị
giết, bèn nói với họ: “Tôi chỉ có một thân, đền mạng cho các vị đông như vậy
thì đền tới chừng nào mới xong? Từ nay tôi chẳng theo nghề buôn bán này nữa, sẽ
thỉnh bao nhiêu đó vị hòa thượng niệm kinh, niệm Phật siêu độ cho các vị, được
chăng?” Đa số trả lời “được”, chỉ có một số ít không bằng lòng, nói: “Ngươi vì
mấy đồng hoặc vì mấy cắc bạc mà giết bọn ta khổ sở lắm. Nếu làm vậy thì thuận tiện
cho ngươi quá!” Nhóm đa số khuyên nhóm thiểu số: “Nếu hắn chịu làm như vậy, tốt
đẹp cho cả đôi bên, nhận lời hắn đi!” Nhóm thiểu số nói: “Hắn có thật sự làm được
thì mới tốt”. Viên quản lý nói: “Nhất định thực hiện được. Nếu không, các ông lại
đến tìm tôi”. Do vậy, bọn họ liền bỏ đi.
Nhằm đúng lúc ấy là canh năm
phải giết [loài vật], phổ ky[19]
thức dậy sắp giết; gà, vịt v.v… đều chạy tứ tán ra khỏi chuồng, họ vội mời viên
quản lý thức dậy để thưa chuyện. Viên quản lý nói: “Hôm nay chúng ta không mở cửa,
không giết những con đã bỏ chạy. Những con ở trong tiệm thì nhốt lại, con nào bỏ
chạy rồi cứ để mặc cho nó đi”. Ngày hôm sau, mời các cổ đông (người góp vốn) đến
thuật lại giấc mộng hồi đêm, từ bỏ chuyện làm ăn, quyết định không làm nữa! Cổ
đông nói: “Ông đã không muốn sát sanh, chúng ta thay đổi chương trình cũng chẳng
trở ngại gì, biến thành quán ăn chay”. Bèn đổi thành quán đồ chay, vẫn mang tên
là Cửu Như Xuân. Do vậy, người ăn chay rất đông, càng phát đạt hơn.
Nếu ông có thể phát tâm lợi
người lợi vật chí thành niệm Phật và niệm thánh hiệu Quán Âm để cầu gia bị thì
người góp vốn và người quản lý đều bỏ được chuyện giết heo, bởi [cửa tiệm bán]
hàng hóa mua về từ kinh đô là chuyện chánh, bán thịt chỉ là chuyện kèm thêm. Ông
nói ngồi niệm trên giường sợ [mắc tội] khinh nhờn là vì chẳng biết khi ngủ cũng
niệm được, nhưng niệm thầm, đừng niệm ra tiếng. Mẹ ông thương yêu ông, nói ăn
chay thân thể gầy yếu; cụ chẳng biết ăn thịt có chất độc, chẳng hợp phép dinh
dưỡng, lại còn phải nợ mạng. Hãy nên uyển chuyển khuyên mẹ ông ăn chay, niệm Phật,
cầu sanh Tây Phương. Cũng nên bảo vợ con ăn chay. Nếu chẳng thể ăn chay hoàn
toàn thì nói chung phải chú trọng kiêng sát sanh trong nhà. Dẫu mua thứ đã làm
sẵn cũng không nên ăn nhiều. Ăn nhiều phải trả nhiều, ăn ít trả ít, không ăn
không phải trả! Nếu ông có thể khiến cho người góp vốn và viên quản lý trong tiệm
cảm động thì sau này những người tiếp tục đề xướng sẽ nhiều. Công đức ấy do ông
khởi đầu, lợi ích lớn lắm.
Nên thường đọc Văn Sao hoặc
Gia Ngôn Lục (sách này trích lục những điều thiết yếu từ Văn Sao, trình
bày theo lối chia môn, phân loại để người mới học dễ xem đọc). Nay đặt pháp danh cho ông là Tông Nguyện (Tông
là chủ, có chủ (tức chủ kiến) thì sẽ chẳng bị những thứ khác xoay chuyển). Niệm Phật có tín - nguyện, quyết định sẽ được vãng
sanh Tây Phương khi lâm chung. Không có tín - nguyện thì chỉ được phước báo trời
- người mà thôi! Có tín không có nguyện thì chẳng gọi là chân tín. Có nguyện mà
không có tín thì chẳng gọi là chân nguyện. Hai pháp tín - nguyện như hai bánh của
cái xe, như hai cánh của con chim, thiếu một chẳng thể được! Nay gởi cho hai
người bọn ông mỗi người một cuốn Đồng Mông Tu Tri[20].
Cuốn sách này tuy nhỏ nhưng những sự tích cảm ứng về Phật học được in kèm theo
sách ấy và năm bài văn do Quang viết đều có quan hệ lớn đối với thế đạo nhân
tâm.
Chuyện sữa [bị biến thành chất]
độc [khi người mẹ nóng giận] giết chết trẻ thơ các nhà danh y xưa nay chưa hề
tìm ra. Biết sữa của người nóng giận bừng bừng sẽ giết trẻ thì sẽ biết ăn thịt
gây tổn hại lớn lao cho con người. Nợ mạng, đền mạng là chuyện thuộc về đời
sau. Sữa độc giết trẻ một khi được chỉ rõ liền biết những người phụ nữ sanh nhiều
mà không nuôi được mấy và con cái lắm bệnh đều do người mẹ ưa nóng giận mà ra! Nóng
giận đùng đùng [mà cho con bú] con sẽ chết ngay; nóng giận vừa vừa, tuy con chẳng
chết ngay, ắt sẽ thường bị bệnh. Phàm muốn cho con cái khỏe mạnh, không bệnh,
hãy nên tập thành tánh nhu hòa thì mới được! Xin hai vị hãy suy xét cặn kẽ!
359. Thư trả lời cư sĩ Thái Chương Thận
Hôm qua nhận được thư, khôn ngăn hổ thẹn. Quang già rồi, mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ, những chuyện sai khiến bút mực bên ngoài đều nhất loạt chẳng thể thực hiện được. Do vậy, miễn cưỡng viết tám chữ cho xong trách nhiệm. Trộm nghĩ đạo làm rạng danh cha mẹ nằm nơi nghiêm túc dạy dỗ con cháu để ai nấy đều sửa đức mình và chuyên dốc tu Tịnh nghiệp ngõ hầu tăng trưởng, phát khởi những điều tốt lành, trăm đời hưng thịnh. Các hạ đích thân soạn văn bia, hãy nên khắc chữ theo lối viết Thiếp, để cho con cháu mình và lũ hậu bối trong làng ấp đều được đọc tụng, phỏng theo, ai nấy đều mạnh mẽ nức lòng, tận lực thực hành sẽ có lợi ích lớn lao! Mười mấy năm trước, Quang đã viết bài tựa nêu tỏ những điều ẩn kín trong cuốn sách kỷ niệm sự vãng sanh của mẹ ông Khang Ký Dao, lời văn cực vụng về, chất phác, nhưng ý thì chấp nhận được (xem trong Ấn Quang Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên, quyển 4, trang 14, 15 nơi phần Tạp Trước), [nếu ông] chẳng ngại dùng ngòi bút tài hoa để nêu tỏ những ý nghĩa [trong bài văn ấy], ắt sẽ có ích cho thế đạo nhân tâm. So với việc chỉ phô bày cảnh núi sông thêm đẹp đẽ và lòng hiếu thảo lo xây dựng mộ phần sẽ khác biệt vời vợi hệt như một trời một vực! (ngày Hai Mươi Lăm tháng Chín)
360. Thư trả lời cư sĩ Niệm Phật
Hôm
qua nhận được thư gởi đến, biết rõ từng điều. Gần đây tôi đã soạn lời giải
thích xác đáng về “cách vật trí tri”, nay trình bày với ông. Giải rằng: “Cách trừ huyễn vọng tư dục vật, trí hiển
trung dung bỉnh di tri” (trừ khử vật huyễn vọng tư dục sẽ đạt đến sự hiểu
biết rõ ràng đạo Trung Dung, vâng giữ luân thường). Chữ “Vật” ở đây chính là những
tư dục chẳng hợp với lẽ trời tình người trong tâm. Hễ có tư dục thì sở tri sở
kiến đều lệch lạc chẳng chánh đáng. Nếu trừ khử được những tư dục huyễn vọng
không thật ấy thì [sở tri sở kiến] sẽ chẳng lệch, chẳng khác, tức là chánh tri
sẵn có trong bản tâm sẽ tự hiển hiện, nhất cử nhất động đều hợp tình hợp lý, trọn
chẳng lệch lạc, tà vạy. Đấy chính là đại pháp để tu dưỡng chính mình, trị tâm
do thánh nhân lập ra cho thiên hạ trong đời sau. Tu - tề - trị - bình ở tại đấy,
mà siêu phàm nhập thánh cũng bởi đấy! Dụng công ở nơi đấy sẽ đỡ tốn sức nhất, tùy
theo công phu sâu hay cạn của mỗi người mà lợi ích đạt được là thành hiền,
thành thánh, thậm chí thành Phật đều do đây mà được, huống là những sự thấp kém
hơn ư?
Tiếc cho những nhà Nho đời sau
không suy xét, cứ hiểu “vật” là “sự vật”, hiểu “tri” là “tri thức”, tức là xem cội
gốc của mọi cội gốc như cành nhánh của mọi cành nhánh, rồi lại tưởng cành nhánh
của mọi cành nhánh là cội gốc của mọi cội gốc. Chẳng những không hiểu được ý
thánh nhân, mà còn làm rối loạn văn của thánh nhân nữa! Vì sao nói thế? Do muốn
ý được chân thành, trước hết phải hiểu thấu suốt, [đạt đến] mức hiểu thấu suốt
là nhờ “cách vật” (trừ khử vật dục). Điều này hết sức đỡ tốn công, hết sức giản
tiện, hễ nghĩ tới liền hiểu được cách; [thế mà lại] bỏ đi không nhắc tới, cứ dạy
người ta thúc đẩy tri thức đến cùng cực, thấu hiểu cùng tận lý của mọi sự vật
trong thiên hạ để mong thành ý chánh tâm thì khắp cả cõi đời cũng khó kiếm được
người nào! Do Tống Nho hiểu lầm “vật” là “vật bên ngoài” nên sau này nhà Nho chỉ
nói “chánh, thành” chứ chẳng nhắc đến “cách, trí”. Lý này cực sáng tỏ, rõ ràng,
nhưng những kẻ tự xưng truyền thừa tâm pháp của thánh nhân lại hiểu sai đến nỗi
đạo “sửa mình, trị tâm” do thánh nhân dạy cho con người bị lu mờ, úng tắc,
không thể nào tỏa rạng được, chẳng đáng buồn ư?
Nếu chuyên chú trọng tự sửa đổi,
đối trị chính mình thì một pháp Cách Vật (trừ khử vật dục) cũng đủ dùng; vì hễ
khử được tư dục thì mọi điều ác đều trừ, mọi điều thiện đều sanh, nên nói là “đủ dùng”. Nếu muốn cho người trong khắp
cõi đời đều bỏ được tư dục để hiển lộ chánh trí mà không đề xướng nhân quả báo ứng
sẽ không thể được! Bởi lẽ, hễ ai muốn tự lợi sẽ chẳng rảnh đâu để xem xét coi
[những gì mình làm] có lợi hay gây hại cho người khác. Nếu biết thiện ác nhân
quả như bóng theo hình, như tiếng vang ứng theo âm thanh; âm thanh hòa hoãn thì
tiếng vang dễ nghe, hình ngay ngắn thì bóng đoan chánh! Hiểu được điều này, chẳng
mong [người khác] cách vật mà [họ sẽ] tự chịu cách vật.
Vì thế, Khổng Tử khen ngợi
Châu Dịch, vừa mở đầu liền nói: “Tích thiện
chi gia, tất hữu dư khánh. Tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương” (nhà
tích thiện điều vui có thừa, nhà tích điều bất thiện, tai ương có thừa). “Tích thiện, tích bất thiện” là nhân; “dư khánh, dư ương” là quả. Cơ Tử giảng
giải thiên sách Hồng Phạm, cuối cùng mới nói: “Hưởng dụng ngũ phước, oai dụng lục cực” (thuận theo thì được năm
thứ phước, trái nghịch sẽ bị sáu điều xấu). Câu này quả thật nói rõ cái nhân
trong đời trước, cái quả trong đời này. “Hưởng” chính là thuận, “dụng” là lấy,
là được. Chữ “oai” nên hiểu nghĩa là trái nghịch. “Cực” là cùng quẫn, tai ách. [Vì
vậy, câu “Hưởng dụng ngũ phước, oai dụng
lục cực” nên hiểu là] do những hành vi trong đời trước trái nghịch chánh đạo,
nên đến nỗi đời này hứng chịu những quả cùng quẫn, tai ách ấy.
Những nhà Nho đời sau chẳng
xét đến văn lý, một mực quy [Lục Cực] về sự cai trị của nhà vua, thành ra trái
nghịch thiên lý, vu báng sự cai trị của nhà vua. Trẻ nhỏ sanh trong nhà phú quý
liền hưởng phước, sanh vào nhà nghèo hèn liền chịu khổ, há có phải là do sự cai
trị của nhà vua khiến chúng nó phải sanh [vào những chỗ khác nhau] như vậy ư? Điều
thứ tư trong Ngũ Phước là “du hảo đức” (thường chuộng đức), chính là thói quen tu
đạo tu đức trong đời trước. Điều thứ nhất là Thọ, điều thứ hai là Phú, điều thứ
ba là Khang Ninh (khỏe mạnh, bình yên), điều thứ năm Khảo Mạng Chung (chết tốt
lành) chính là quả báo được cảm vời do đời trước tu đạo tu đức. Điều thứ nhất
trong Lục Cực là “hung đoản chiết” (xui xẻo, chết yểu), điều thứ hai là Tật (bệnh
tật), điều thứ ba là Ưu (lo lắng), điều thứ tư là Bần (nghèo), điều thứ năm là
Ác (diện mạo xấu xí gọi là Ác), điều thứ
sáu là Nhược (thân yếu đuối gọi là Nhược)
chính là quả báo do đời trước làm nhiều chuyện chẳng hợp đạo nghĩa! Há có nên
quy hết vào sự cai trị của nhà vua ư?
361. Thư trả lời cư sĩ Từ Giám Chương
Hôm
trước nhận được thư con, biết con tuổi trẻ phát tâm tu Tịnh nghiệp, khôn xiết
vui mừng, an ủi! Mong con hãy cung kính đọc kỹ càng Tịnh Độ Ngũ Kinh, Thập Yếu sẽ
hiểu tường tận nguyên do của pháp môn Tịnh Độ. Các pháp môn được nói trong cả một
đời đức Phật đều cậy vào tự lực để tu trì, đoạn Hoặc chứng Chân hòng liễu sanh
tử, khó khăn lắm, khó hơn lên trời! Nếu dùng tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây
Phương thì vạn người tu vạn người về. Nhưng phải giữ vẹn luân thường, trọn hết
bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều
lành, ăn chay, niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Dùng những điều này để tự hành,
lại dạy cho người khác, khiến cho khắp hết thảy mọi người cùng tu Tịnh nghiệp,
cùng sanh Tịnh Độ.
Con tuổi còn trẻ dại, phải hết
sức chú ý giữ gìn thân thể, hãy nên đọc kỹ cuốn Dục Hải Hồi Cuồng trong bộ An
Sĩ Toàn Thư và Thọ Khang Bảo Giám. Có nhiều thiếu niên khi ý niệm tình dục khởi
lên bèn thủ dâm. Chuyện ấy gây tổn thương thân thể cực lớn, chớ nên phạm. Hễ phạm
chính là tự tàn hại thân mình, nhơ bẩn tự tâm, khiến cho thân thể hữu dụng bị
chết yểu, hoặc thành phế nhân bấy bớt không nên cơm cháo gì! Hằng ngày phải phản
tỉnh, quán sát tội lỗi nơi thân tâm, ngõ hầu chẳng đến nỗi tự tàn, tự hại. Nếu
không, cha mẹ chẳng nói, sư trưởng không nói, bạn bèn đàn đúm xúi giục nhau đến
nỗi thành ra thói ác ấy. Nguy hiểm lắm, còn hơn vào vực sâu, đi trên băng mỏng!
Tăng Tử mang tư cách đại hiền
mà đến khi sắp chết mới nói: “Kinh Thi
chép: ‘Dè dặt kinh sợ, như vào vực sâu, bước trên băng mỏng’, từ nay trở đi, ta
biết thoát khỏi”. Chưa đến lúc sắp chết, vẫn thường dè dặt, kinh sợ, biết
mình ắt có chỗ thiếu sót. Nay sắp chết rồi, mới biết mình không thiếu sót! Cừ
Bá Ngọc năm hai mươi tuổi, biết mười chín năm trước sai trái; đến khi tuổi tròn
năm mươi, biết bốn mươi chín năm trước sai trái. Khổng Tử vào độ tuổi bảy mươi,
vẫn mong trời cho sống mấy năm nữa, hoặc dăm mười năm để học Dịch, ngõ hầu
tránh khỏi lỗi lớn. Đấy chính là cách dưỡng tâm giữ ý, phản tỉnh, quán sát của
thánh hiền, là cơ sở để học Phật liễu sanh tử vậy. Những điều khác đã nói tường
tận trong Văn Sao và các sách khác, nên không ghi cặn kẽ.
Con tên là Giám Chương, lại thêm có chánh trí huệ thì không gì chẳng hợp với Phật, với thánh, không gì chẳng đúng pháp thế tục. Người đời nay hơi thông minh bèn cuồng vọng. Đấy đều là chẳng biết nghĩa lý “vị học nhật ích, vị đạo nhật tổn” (vì việc học [đạo đức] ngày càng tăng thêm, vì đạo [thói xấu] ngày càng giảm bớt). “Vị đạo nhật ích” là đem đạo đức thánh hiền cất chứa trong thân tâm ta, “vị đạo nhật tổn” là nghiêm túc phản tỉnh, quán sát, để khởi tâm động niệm trọn chẳng có tội lỗi gì! Nếu không, chỉ là bậc văn tài lỗi lạc, đã chẳng thể vì việc học, huống là vì đạo ư? Hiện nay thời cuộc nguy hiểm, hãy nên khuyên hết thảy già - trẻ - trai - gái hằng ngày thường kiền thành niệm thánh hiệu Quán Âm để làm thượng sách cầu hòa bình, giữ gìn thân mạng. Ngoài cách này ra, không còn tìm được cách nào khác nữa đâu! (ngày Hai Mươi Sáu tháng Bảy)
362. Thư trả lời anh em Úc Liên Xương
Cha
ông do bịnh tật mà toan ăn thịt là vì chẳng biết hết thảy chúng sanh đều là cha
mẹ trong quá khứ, là chư Phật trong vị lai, cho nên mặc tình giết ăn. Nếu biết
là cha mẹ trong quá khứ, là chư Phật trong vị lai, cái tâm tham vị ngon ấy sẽ ngay
lập tức tiêu diệt chẳng còn! Ở đất Tần ta trước khi xảy ra loạn Hồng Dương, một
người dân quê ở huyện nọ tại Hưng An cùng với mẹ sống trong cảnh nghèo khó. Người
con đi làm thuê để nuôi mẹ; về sau mẹ chết, chỉ trơ trọi một mình, người con liền
chẳng sốt sắng đi làm thuê nữa. Một bữa nọ ngủ ngày, mộng thấy mẹ đau đớn khóc
lóc đến nói: “Mẹ chết đi biến thành lợn, nay đang ở chỗ X…, gã Y… nọ sắp giết mẹ,
con hãy mau đến cứu mẹ”. Người ấy kinh hoảng, tỉnh giấc, liền sang chỗ đó, thấy
người giết lợn khớp với giấc mộng, nhưng lợn đã bị giết rồi! Do vậy đau đớn
không chịu nổi, lăn lộn trên đất, gào khóc mất cả tiếng. Có người hỏi đến, do
không có tiền để mua con lợn bị chết ấy bèn nói: “Lòng tôi đau khổ, chẳng tiện
nói thẳng ra!” Từ đấy phát tâm ăn chay.
Do [anh ta là] kẻ dân ngu
trong làng chẳng biết pháp môn tu hành, bèn đi quyên hóa dầu thắp đèn, hễ được một
gánh đầy, liền gánh sang núi Võ Đang để cúng đèn trong Kim Điện[21].
[Anh ta] quyên mộ người khác, [quy định tiền] dầu thắp cho mỗi một ngọn đèn là
ba đồng; tiền ấy dùng để mua hương, nến, trái cây, đã đưa sang đấy mấy lần. Về
sau, có một gã đầu sỏ ngoại đạo muốn tạo phản, do sự việc bị tiết lộ bèn bỏ trốn,
quan phủ sai vẽ hình tróc nã khắp nơi. Do gã ấy có cùng tên họ, tướng mạo với
anh chàng quyên hóa dầu; anh chàng đi quyên hóa dầu liền bị bắt giữ. Anh ta thưa
trình chuyện mẹ bị biến thành lợn nên quyên hóa dầu, [nhưng quan] không tin.
Quan lại bắt được cuốn sổ ghi tên đến mấy ngàn người, vốn là tên của những người
cúng tiền mua dầu, bèn coi đó là danh sách tạo phản. Anh ta bị khổ hình tra khảo
tại dinh quan huyện Trúc Khê thuộc ranh giới tỉnh Hồ Bắc; nhân đó quan gán tội,
phán án xử tội chết.
Lại giải lên phủ Vân Dương
phúc thẩm. Tới phủ anh ta kêu oan, nhân đó thuật chuyện do mẹ biến thành lợn mà
quyên hóa dầu. Tri Phủ rất có cao kiến, do thấy vẻ mặt người ấy hết sức từ thiện,
quyết chẳng phải là kẻ tạo phản, nghe anh ta kể chuyện mẹ bị biến thành lợn, bảo:
“Lời ngươi nói đó, bổn phủ chẳng tin. Hôm nay bổn phủ buộc ngươi thôi ăn chay”,
sai dọn ra một bát thịt, ép ăn. Người ấy một tay bưng bát, một tay cầm đũa, Tri
Phủ vỗ “tỉnh mộc”[22]
thúc anh ta gắp ăn. Người ấy gắp một miếng thịt, chưa đưa đến miệng liền ói ra
một bụm máu. Tri Phủ mới biết anh ta bị vu cáo, liền tống đạt công văn xuống
huyện Trúc Khê gỡ tội cho anh ta, bảo đi xuất gia ở chùa Liên Hoa thuộc biên giới
huyện Trúc Khê.
Do chùa Liên Hoa thuộc quyền
quản trị của quan Trấn Đài Hưng An lẫn Trấn Đài Vân Dương, vào tháng Mười mỗi
năm hai tỉnh mở hội tranh tài tại chùa này, nên chùa có tiếng. Người ấy sau khi
xuất gia nhất tâm niệm Phật khá có cảm ứng. Về sau, trở về quê cũ ở Thiểm Tây, người
địa phương gọi là Châu lão thiền sư, dựng nên hai ngôi miếu nhỏ. Khi loạn Hồng
Dương nổ ra, đồ đệ, đồ tôn đều trốn hết, Sư sắp thị tịch bèn nói với người
làng: “Sau khi ta chết, nên bỏ vào chum, xây một cái tháp. Ba năm sau mở tháp
ra xem. Nếu đã rữa nát thì thiêu đi; nếu không rữa nát thì thờ bên cạnh đại điện”.
Về sau, mở tháp ra, [xác] chưa rữa nát, bèn thờ trong đại điện. Sư hiện thân
làm con trai quan huyện bên cạnh đi khám bệnh, bệnh lành chẳng nhận lễ tạ, nói:
“Nếu ngươi nghĩ đến ta thì đến chùa X… ở chỗ Y… để thăm hỏi”. Sau người ta đến
chùa thăm viếng, [nhà chùa] nói: “Đấy là tên của vị Tăng được thờ trong đại điện”,
đọc tên thấy chính là Ngài. Do vậy hương đèn suốt năm chẳng ngớt. Vị ấy chính
là sư công[23]
của vị Hòa Thượng truyền giới cho Quang vậy. Đã năm mươi tám, năm mươi chín
năm, tên người, tên chùa đều quên hết.
Vị ấy nếu mẹ không bị biến
thành lợn thì bất quá vẫn là một người dân lành yên phận mà thôi! Nếu quan phủ
Vân Dương chẳng ép vị ấy ăn thịt, thịt chưa đưa vào miệng đã hộc máu ra, án ấy
chắc chắn chẳng được sáng tỏ. Do vị ấy xem thịt đó giống như thịt mẹ mình, vì
oai thế của quan bức hiếp, chẳng dám không ăn, chưa ăn mà tim gan đã đau xé nên
hộc máu. Vì thế, quan biết là bị vu cáo, bèn tìm cách truyền đạt văn thư xóa tội,
bảo đi xuất gia. Nếu cha ông biết nghĩa này, chắc chắn chẳng nỗi cứ mong tưởng
mùi vị thịt mãi! Nếu vẫn còn khởi lên ý niệm ấy, liền tưởng như muốn ăn thịt
cha mẹ của chính mình, niệm ấy liền bị tiêu diệt! Người chết đi, biến thành súc
sanh vẫn còn tốt; nếu đọa trong ngạ quỷ, địa ngục, so với làm súc sanh chẳng biết
càng khổ hơn mấy vạn vạn lần!
Xin hãy đưa thư này cho cha ông xem. Chẳng những cụ không chịu mong tưởng ăn thịt nữa, mà còn chẳng chịu mong làm người mãi mãi trong thế gian này. Hãy nên nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương hòng khỏi bị đọa lạc trong tam đồ ác đạo nữa! Hãy nên hiểu rằng: Chẳng liễu sanh tử, dẫu có tu hành, cũng khó bảo đảm đời sau hay trong những đời sau nữa chẳng tạo ác nghiệp. Bởi lẽ người già bảy mươi tuổi, ăn chay trường nhiều năm, vẫn còn muốn ăn thịt; huống là đời sau, những đời sau nữa vẫn có thể chẳng tạo nghiệp, tu trì giống như đời này ư? Vì thế, Phật, Tổ đều khuyên người cầu sanh Tây Phương. Do sanh về Tây Phương liền dự vào cảnh giới Phật. Tâm phàm đã không còn, Phật huệ ngày một mở mang, tốt đẹp hơn tham Thiền, nghiên cứu Giáo, đại triệt đại ngộ, thâm nhập kinh tạng vô lượng vô biên lần vậy! (ngày mồng Hai tháng Hai năm Dân Quốc 29 - 1940)
363. Thư trả lời cư sĩ Nghê Huệ Biểu
Vãng
sanh hoàn toàn cậy vào tín nguyện chân thành, thiết tha. Nếu trước đó đã nghi
ngờ, sợ chẳng thể vãng sanh thì chẳng thể nào vãng sanh được! Huống chi như
ông, Tịnh nghiệp thuần thục, thần thức dạo chơi Tịnh Độ, rất khó có; nhưng chớ
nên nói lộ ra, vì sao vậy? Do người đời nay phần đông thích dối xưng là bậc
thông gia, chắc sẽ do ưa cầu danh mà bịa đặt đồn thổi khiến tự lầm, lầm người. Lời
lẽ này chính là lời chánh đại quang minh, đừng ngỡ là tôi ghen ghét sự tốt đẹp
của người khác! Bài kệ do ông đã soạn thật hay, hiềm rằng hai chữ “pháp vũ”
(mưa pháp) rất chẳng như pháp. Quang là một ông Tăng tầm thường chỉ biết cơm
cháo, há nên đề cao như thế?
Mười năm trước, ở Bắc Kinh có cuốn Tự Tri Lục. Thượng Hải, Hàng Châu, Dư Diêu đều muốn ấn hành để lưu truyền rộng rãi. Sách ấy toàn là những chuyện bịa đặt, Quang bảo họ hãy ngưng (bảo đừng in). Sau này có hai người cũng muốn phỏng theo ý ấy, gởi thư xin chứng minh; Quang đem chuyện Tự Tri Lục răn nhắc họ. Ông vốn thiếu từng trải, chẳng biết những kẻ cầu danh so với kẻ cầu lợi chẳng thua kém nhau đâu! Vì thế, chỉ xin ông hãy tự sốt sắng tu trì, đừng phô phang chuyện ấy, tuy có thể khơi gợi lòng tin cho người khác, nhưng cũng sẽ mở ra đầu mối cho kẻ khác mạo nhận đấy! (ngày mồng Hai tháng Chạp năm Dân Quốc 23 - 1934)
364. Thư trả lời cư sĩ Triệu Liên Châu
Hai
bài ca Dưỡng Khí và Quả Dục văn từ lẫn nghĩa lý đều viên diệu, quả thật là tác
phẩm hữu ích cho thân, tâm, tánh mạng. Nhưng trong thời gần đây, Nho sĩ chẳng dụng
công tận tụy thực hành, chuyên coi nói xuông là cao thượng, trở thành phường “kể
chuyện ăn, đếm của báu!” Dẫu nói đến mức một giọt nước chẳng rỉ cũng chỉ trở
thành hý luận mà thôi! Chẳng dám nói các hạ cũng cá mè một lứa với bọn họ,
nhưng cũng chẳng dám nhất quyết các hạ chẳng giống với bọn họ! Điều may mắn là
các hạ đã có tín tâm, hãy nên siêng năng niệm Phật. Hễ phiền não hiện tiền hãy
làm cho nó bị tiêu diệt ngay. Nếu dưỡng khí như thế thì khí chẳng đến nỗi thiếu;
quả quá (bớt lỗi) như thế, lỗi sẽ có thể dần dần không còn. Bỏ niệm Phật để nói
đến chuyện “dưỡng khí, bớt lỗi” rốt cuộc vẫn chưa phải là đạo rốt ráo, lại còn
tốn sức. Vì thế biết một pháp Niệm Phật quả thật là đạo nhất quán của cả Nho lẫn
Thích. Nếu chẳng dùng pháp này để tự tu mà muốn cầu được tâm pháp của Nho, của
Phật, khó khăn lắm đấy! Bởi lẽ chỉ có tự lực, không có Phật lực [gia hộ] vậy! (ngày
Mười Tám)
365. Thư trả lời cư sĩ Giang Hữu Bằng
Chúng
ta là sanh tử phàm phu, chớ nên mù quáng bịa đặt, những gì chính mình biết thì chẳng
thể không đề xướng; điều gì mình không biết há nên dối xưng thông gia rồi hồ đồ
tán dương ư? Những nhà Phong Thủy bói toán cố nhiên có thể làm cho con người hướng
lành tránh dữ, nhưng vừa mất công vừa tốn kém lắm. Châu Dịch là sách dạy người
hướng lành tránh dữ, vừa nhàn nhã lại chẳng tốn kém. Bởi lẽ, [Châu Dịch] chỉ
chú ý vào chỗ tăng tấn đức, sửa đổi nghiệp, sửa lỗi, hướng lành; chứ không phải
là dụng tâm nơi sửa cửa, dời bếp, bớt Đông, bù Tây. Gởi trả lại thư cho Từ cư
sĩ, hiện thời Quang không có tinh thần để soạn văn đâu! Một ông thầy Địa Lý ở
quê tôi đi xem đất cho người khác, chuyện cát - hung mấy chục năm sau ông ta đều
đoán biết. Đứa con ông ta mười mấy hôm sau chết, bố ông ta ba bốn tháng sau chết,
thầy Địa Lý đều không nói tới do chỉ biết chuyên dựa vào Địa Lý, chẳng bằng chuyên
dựa vào tâm đức vậy!
366. Thư trả lời Đào Đức Càn
Đang
trong lúc đói kém, loạn ly này, muốn cho những người cùng hàng đều cùng được gội
ân Phật, hãy nên tùy phận tùy sức khuyến hóa [người khác] tu trì sẽ tốn kém ít
mà lợi ích nhiều. Nếu vừa nhúng tay làm liền chú trọng xây cất, lại chẳng theo
đuổi cung cách đơn giản, chất phác thì tiền bạc không sẵn có, chẳng khỏi gặp
khó khăn! Những người tiền của ít ỏi sẽ coi [đạo tràng ấy] như chỗ đáng sợ, chẳng
dám đến. Hiện thời, chuyện nào cũng nên theo cách thức đơn giản, cũng chẳng cần
phải mong sao được hoàn thành ngay trong một thời gian! Phàm những người có tín
tâm trong bốn làng đều nên bảo họ ai nấy tu trì ở trong nhà của chính mình,
cũng chẳng cần phải bỏ lơi công việc, cũng chẳng tu tràn lan; lại còn có thể
làm cho gia đình quyến thuộc cùng sanh lòng tin tưởng.
Quang thấy những người đề xướng
các nơi đều lấy chuyện tạo dựng đạo tràng làm đầu, trộm chẳng nghĩ như vậy là
đúng! Nếu nhằm lúc thời cuộc thanh bình, yên ổn, nhân dân giàu có, dư dả thì
còn được, chứ đang trong thời buổi dân không lẽ sống, lại không có vị đại công
đức chủ đứng ra chịu trách nhiệm [xuất tiền xây dựng] một mình, cảm thấy khó
khăn nhất trong những chuyện khó! Ông nói đến chuyện [nhờ Quang] soạn văn, chuyện
ấy vạn phần chẳng thể làm được! Từ tháng Mười Một mùa Đông năm ngoái do giảo
chánh sách dưới ánh đèn điện, chữ lại quá nhỏ, mắt bị tổn thương nặng. Do vậy,
cự tuyệt hết thảy những chuyện sai khiến bút mực. Phàm ai gởi thư đến đều dặn về
sau đừng gởi thư đến nữa, cũng chẳng chấp nhận giới thiệu người khác quy y.
Ngay như thỉnh kinh sách từ Hoằng Hóa Xã cũng đừng thuận tiện gởi thư cho Quang
do mục lực chẳng thể thù tiếp nổi! Ngay như để đọc và trả lời hai lá thư này đều
phải dùng kính lão lẫn kính lúp thì mới xem và viết được lờ mờ. Nếu không, đọc
chẳng ra. Ông vẫn muốn sai khiến [viết lách] thì vạn phần chẳng thể được! Trong
Văn Sao có chỗ nào dùng được thì sao lục để làm khai thị, có trở ngại gì đâu!
367. Thư trả lời cư sĩ Dịch Tư Hậu
Đọc
thư ông gởi đến, biết ông đời trước có thiện căn, nhưng do chưa đọc kinh Phật
nên văn tự lẫn nghĩa lý vẫn chưa hiểu rõ ràng. Nếu như hiểu rõ sẽ chẳng cần phải
hỏi câu thứ nhất! Vì đoạn kinh văn ấy ghi: “Quán
Thế Âm Bồ Tát trong vô lượng kiếp trước thành Phật đã lâu, hiệu là Chánh Pháp
Minh, nhưng do bi tâm vô tận, từ thệ khôn cùng, nên lại hiện thân Bồ Tát và các
thân người, trời, phàm, thánh… trong mười phương thế giới để thí vô úy (ban cho
sự không sợ hãi), cứu vớt rộng rãi!” Phẩm Phổ Môn chép: “Nên dùng thân nào để độ được bèn hiện thân ấy
để thuyết pháp” (Trong phẩm Phổ Môn có ba mươi hai thứ hóa thân [tức
là những] thân người, trời, phàm, thánh, nam, nữ. Sao lại dựa theo tác phẩm
Hương Sơn Quyển do ngoại đạo bịa đặt rồi nghi ngờ vậy?) Sao ông không đọc đoạn văn tiếp theo đó: “Không những hiện thân hữu tình (trời, người, phàm, thánh,
nam, nữ đều có thân hữu tình, tức là có tâm thức, tri giác), mà ngay cả núi,
sông, thuyền, bè, cầu, bến, đường sá, cỏ thuốc, cây cối, lầu, đài, điện, gác, cũng
tùy cơ biến hiện”. Nói chung, [Bồ Tát] chuyên chú trọng [làm cho chúng sanh]
lìa khổ được vui, chuyển nguy thành an. Nếu ông hiểu rõ ràng đoạn văn này, quyết
chẳng hỏi [Bồ Tát] là nam hay nữ.
Do người đời chưa từng đọc
kinh Phật, thấy tượng Bồ Tát vi diệu trang nghiêm, do những người đắp, vẽ, điêu
khắc không phải là tay thợ khéo xuất sắc, cho nên [họ đã vẽ, tạc] hình tượng
Ngài giống với tướng người nữ, người đời bèn nghĩ Ngài mang thân nữ. Bồ Tát đối
với hết thảy đều tùy duyên, do tâm người đời nghĩ Bồ Tát là thân nữ, nên khi
hóa hiện trong mộng, phần nhiều Ngài hiện thân một bà cụ già. Do chúng sanh thiện
căn mỏng cạn, chẳng thể thấy được pháp tướng vi diệu trang nghiêm của Bồ Tát
nên Ngài chỉ tùy theo căn cơ của họ mà hiện thân.
Trong Phật pháp không có cuốn
sách nào có tên là Quyển cả! Phàm những thứ “bảo quyển” đều là do ngoại đạo mượn
một chuyện trong Phật pháp để mù quáng bịa đặt hòng dụ dỗ, gạt gẫm kẻ vô tri. Nói
chung, những gì các sách ấy nói đều là lấy luyện đan vận khí làm gốc, lấy
[chiêu bài]] “tam giáo đồng nguyên” (Nho - Phật - Lão cùng một nguồn) để làm
hòn núi dựa dẫm. Họ mù quáng trích dẫn những câu trong kinh sách của Nho, Phật,
Đạo giáo để biến chánh thành tà, hòng chứng minh đạo luyện đan vận khí là vô
thượng tôn quý nhất. Phàm ai theo đạo ấy, tuy có tấm lòng tốt nhưng đều là hạng
hồ đồ. Nếu là bậc có đủ chánh tri kiến sẽ lìa xa còn không kịp, há đâu lại bái
bọn chúng làm thầy, theo bọn chúng tu học ư?
Câu kinh Di Đà ông đã dẫn đó
chính là câu tuyệt đối chẳng hề có trong chánh kinh [của nhà Phật]! Chắc là do
kẻ muốn xưng là bậc thông gia, nhưng thật sự là kém hèn lớn mật tưởng mình
thông hiểu nhưng chẳng thông hiểu gì [bịa đặt ra]! Lời chú giải kinh văn của họ
cho thấy họ chẳng biết gì về nguồn cội của Tiểu Tam Tai và Đại Tam Tai, bèn gộp
nháo nhào Tam Tai Hỏa - Thủy - Phong thành một, nói loạn cào cào. [Chữ Kiếp] tiếng
Phạn là Kiếp Ba (Kalpa), cõi này (Trung Hoa) dịch là Thời Phần. Thời gian dài gọi
là Kiếp. Một đại kiếp là [khoảng thời gian] trời đất [trải qua] một lần hình
thành rồi hủy diệt. Như trong hiện tại gọi là Trụ Kiếp, vì một đại kiếp có bốn
trung kiếp, tức Thành, Trụ, Hoại, Không. [Thời gian của] ba kiếp Thành - Hoại -
Không đều lâu mau giống như Trụ Kiếp, [nhưng trong cả ba kiếp Thành, Hoại,
Không] đều không có người. Trong Trụ Kiếp có hai mươi tiểu kiếp tăng giảm. Hai
mươi kiếp tăng giảm đã xong thì đại địa bốc lửa, cho đến tận Sơ Thiền Thiên đều
biến thành lửa. Qua hết hai mươi kiếp tăng giảm, [cõi thế gian từ Sơ Thiền
Thiên trở xuống] mới hoàn toàn hoại. Lại phải qua hai mươi kiếp tăng giảm trong
kiếp Không, [thế giới] mới dần dần hình thành. Lại phải qua hai mươi kiếp tăng
giảm mới bước vào Trụ Kiếp, có con người và hết thảy chúng sanh. Trong ba trung
kiếp này, người lành hoặc sanh lên trời Nhị Thiền hoặc sanh sang thế giới
phương khác, kẻ ác thì sanh sang thế giới phương khác để chịu tội trong tam ác
đạo.
Thế giới bị hỏa thiêu bảy lần
như thế cho đến lần thứ tám thì thành Thủy Tai, nước ngập đến tận trời Nhị Thiền.
Khi nước hết ngập, không còn vật gì! Thủy Tai kéo dài suốt thời gian hai mươi
kiếp tăng giảm thì [những phần thế giới ở dưới trời Tam Thiền] mới hủy hoại hết.
Lại trống rỗng chừng đó thời gian rồi mới thành, trụ. Phàm trải qua bảy lần Hỏa
Tai xong, lần thứ tám là Thủy Tai. Sau bảy lần Thủy Tai lại có bảy lần Hỏa Tai,
rồi đến Phong Tai. Phong Tai sẽ hủy hoại cho đến tận trời Tam Thiền, gió thổi
cho đến không còn một vật gì. Tổng cộng có 7 x 8 = 56 lần Hỏa Tai, bảy lần Thủy
Tai, một lần Phong Tai. Đấy chính là Thủy - Hỏa - Phong Tam Tai. Bọn [ngoại đạo]
tưởng Tam Tai là một, nói năng mù quáng bậy bạ! Ông vẫn chưa hiểu rõ lời này
thì hãy nhất tâm niệm Phật, đừng nghĩ những lời lẽ mù quáng ăn nói càn quấy ấy
là đúng thì được rồi. Thế giới này đã thành rồi thì người lành, kẻ ác đều sanh
trở lại thế giới này. Ví như nhà của người ta bị hư hoại, mọi người dọn đi, nhà
cất xong lại dọn về. Lúc thành, lúc hoại nơi thế giới phương khác cũng sẽ chuyển
đi, dời về giống như ở phương này.
Cao
Vương Kinh[24]
trong Đại Tạng không có, nhưng tụng cũng khá có linh cảm, là vì trong ấy có nhiều
danh hiệu Phật, Bồ Tát. Kinh ấy đã có từ trước thời Tùy - Đường, nhưng người hoằng
pháp cũng chẳng khuyên người khác niệm, mà cũng chẳng ngăn trở người khác niệm,
cứ để mặc cho kẻ tục nhân tại gia trì tụng. Độ Kiếp Tôn Kinh, Đối Tâm Kinh, lại
còn có Tâm Kinh quyển trung và quyển hạ, Tâm kinh quyển trung lại có hai loại, đều
là những thứ do ngoại đạo ngụy tạo!
Quy Y là quy y Phật - Pháp - Tăng
Tam Bảo để mong y giáo tu trì hòng liễu sanh thoát tử, chứ chẳng phải chỉ như
thế gian bái sư rồi thôi! Nhưng thế gian bái sư để học chữ hoặc học một nghề, dẫu
nghề thấp kém nhất như cạo đầu, chữa chân, cũng phải ba lần lạy, chín lần khấu
đầu. Ông gởi thư xin quy y, lại còn hỏi cả đống câu, lại muốn có được mấy loại
sách, chẳng những không dùng chữ “đảnh lễ” mà ngay cả chữ “hiệp chưởng” (chắp
tay) cũng không dùng. Cầu người khác khai thị mà làm như thế cũng đã quá vô lý,
huống là cầu quy y, tức là [ông coi] chuyện quy y chẳng đáng nửa đồng, trở
thành chuyện chẳng đáng tôn trọng! Người đi đường hỏi lối còn phải vòng tay cúi
đầu; ông quy y, xin khai thị, xin sách mà chỉ dùng chữ “kính thượng” (kính trình)
là xong! Nếu không có ba chuyện ấy, chẳng biết sẽ ngạo mạn đến mức nào? Quang
nương theo tâm phổ độ chúng sanh của đức Phật mà khai thị cho ông, nhưng tuân
theo nghĩa duy trì pháp đạo mà cự tuyệt ông. Nếu không, Quang sẽ thành coi rẻ
Phật pháp, cũng như khiến cho ông khinh mạn Phật pháp. Vì thế, nói với ông về
những chỗ ông lầm lỗi. Ông cứ muốn quy y thì hãy xin quy y nơi chùa chiền ở Thường
Thục, Quang già rồi, không có mục lực lẫn tinh thần để thù tiếp. Từ nay về sau
đừng gởi thư đến nữa. Gởi đến quyết chẳng trả lời.
Quy y trong chùa nếu [pháp sư truyền giới] lên tòa nói [Tam Quy, Ngũ Giới], thì trước khi [pháp sư] lên tòa, [người xin thọ giới] đảnh lễ vị sư Tri Khách ở khách đường, đảnh lễ Hòa Thượng ở Phương Trượng. Hòa Thượng lên tòa, [người thọ giới] phải quỳ lạy hơn một tiếng đồng hồ. [Hòa Thượng] xuống tòa, tiễn Hòa Thượng về Phương Trượng, [người thọ giới] lại đảnh lễ, rồi đảnh lễ các vị sư trực ban và thầy Tri Khách. Ông gởi thư xin quy y, những chữ “đảnh lễ” đều không chịu viết, quá coi thường chuyện quy y Tam Bảo! Nếu Quang không nói thì Quang cũng mắc tội, cho nên mới phải nói! (ngày Mười Hai tháng Tám năm Đinh Sửu - 1937)
368. Thư trả lời cư sĩ Trí Chương
Tâm
tánh của chúng sanh và tâm tánh của Phật không hai. Phật rốt ráo đoạn hết Phiền
Hoặc nên được đại thọ dụng, pháp nào, chuyện nào cũng đều tự tại. Chúng sanh
thì toàn thể trong mê, nên ngược ngạo dùng sức công đức của Phật tánh để làm
cái gốc khởi Hoặc tạo nghiệp, chẳng đáng buồn ư? Dẫu có ai hiểu được nghĩa này,
ý muốn trái trần hiệp giác, chí tâm niệm Phật, nhưng vì chỗ chín quá chín, chỗ
sống quá sống, nên cũng chẳng dễ tương ứng với Phật! Nếu thân sa vào cảnh hoạn
nạn, thật sự có thể một mực dốc lòng thành, không ai chẳng được cảm ứng ngay lập
tức. Do khổ não bức bách, nhất tâm cầu cứu, hết thảy những tình kiến khác đều
chẳng hiện tiền. Vì thế cảm ứng mầu nhiệm chẳng thể nghĩ bàn!
Các pháp thế gian trọn không
có tướng nhất định. Họa - phước dựa dẫm lẫn nhau, tổn hại hay lợi ích chỉ do
con người tự chuốc lấy. Người khéo được lợi ích thì không gì chẳng có ích; kẻ
cam chịu tổn hại thì không gì chẳng phải là tổn hại. Nếu ông có thể thường giữ
được ý niệm “gặp nạn sắp chết niệm Phật” trong lòng, chắc chắn sẽ có thể vào
lúc báo thân này sắp mất, giã biệt Sa Bà, cao đăng Cực Lạc, làm đệ tử của Phật
Di Đà, làm bạn lành trong hải hội. Nguyện học trò tôi là Trí Chương thường giữ
được cái tâm dè dặt kinh sợ để hòng chẳng phụ ơn Di Đà Thế Tôn một phen đại từ
bi hiện thân cứu khổ thì may mắn lắm thay! (tháng Tám năm Mậu Thìn - 1928)
369. Thư trả lời cư sĩ Lý Huệ Thật (thư thứ nhất)
Tánh
tình ông thường ưa nói những lời vô vị. Nhà ông chẳng dư dật, lại còn có mẹ
già, sao lại nói “muốn tìm chỗ thanh tịnh để nhất tâm tu đạo?” Ông làm ở Cục Điện
Lực, nếu xem kinh tham Thiền thì công việc bận bịu vô cùng, thật khó thể dụng
công! Nếu nói niệm Phật, chỉ sợ ông chẳng phát chân tâm. Nếu thật sự phát tâm
liễu sanh tử thì tuy đông người cũng chẳng đến nỗi bị trở ngại, bởi lẽ niệm Phật
chỉ có một câu, dẫu cho bận bịu cũng chẳng thể phiền rộn được! Nếu tâm ông chẳng
chán ghét [pháp Niệm Phật] thì cố nhiên chẳng chướng ngại cho lắm. Nếu ông sanh
lòng chán, sẽ trở thành [niệm Phật] một khắc cũng thấy khó chịu đựng! Ông chẳng
thể bỏ nhà để kiếm chốn yên tịnh niệm Phật, sao lại xin tôi quyết đoán, há chẳng
phải là coi như chuyện đùa ư? Nếu ông có thể khuyên cha mẹ già, khuyên vợ con
cùng tu Tịnh nghiệp, há chẳng bằng ông ở riêng một chỗ vắng lặng để niệm Phật
ư?
Hơn nữa, đối với những chuyện thù tiếp thuộc về phương diện tình cảm giữa con người với nhau, nếu ông lấy cớ tu hành để giảm dần đi, ắt người ta chẳng đến nỗi trách móc. Hoặc khi bất đắc dĩ thì thù tiếp đại khái, chuyện gì bớt được thì bớt, có gì là không được? Sống trong cõi trần học đạo, nếu tu các pháp môn khác thật khó được lợi ích; chứ nếu tu Niệm Phật thì thật là ổn thỏa, thích đáng tột bậc! Nhưng do ông không có chuyện gì cứ bới ra chuyện, vọng tưởng quá nhiều, đừng nói là “chưa có được chỗ yên tịnh sẽ khó được lợi ích”, ngay cả khi đã có được chỗ yên tịnh rồi, vẫn khó được lợi ích! Sao ông khổ sở dùng tinh thần hữu dụng để nói năng, so đo vô ích, tự phiền, rộn người? Hãy nên tận lực ngăn ngừa bệnh này, tùy phận dụng công; đọc kỹ Văn Sao thì sẽ tự có thể trong hết thảy chỗ đều tự tại yên vui vậy! (mồng Tám tháng Tư)
370. Thư trả lời cư sĩ Lý Huệ Thật (thư thứ hai)
Tánh
tình của ông chuyên môn tìm tòi, bàn nói những chỗ không quan trọng, khẩn yếu!
Ví như kẻ thích đồ cổ, đầy nhà là đồ cổ, cũng có món giá trị thật sự quý báu,
nhưng cũng có cái chẳng đáng một hai đồng, nhưng tự mình vẫn tưởng là quý báu
không thể tính giá được! Thông thường, hễ có khách đến liền dẫn người ta đi
xem, kèo nài người ta thưởng lãm. Do đấy ôm lòng kiêu căng, khoe khoang, cho là
“vật quý báu trong thiên hạ đều về tay ta!” Tới khi họa hoạn xảy đến, những thứ
vật báu ấy đúng là tăng thêm họa táng thân, trọn chẳng có ích được một đồng. Những
gì ông nghiên cứu để thưa hỏi trọn chẳng khác gì chuyện này! Nay may mắn được
răn nhắc, liền gấp muốn coi trọng chuyện liễu sanh tử, nhưng cái tâm cứu độ cha
mẹ lại chờ cho tới sau khi được vãng sanh đắc [Vô Sanh Pháp] Nhẫn! Sao không nói
với cha mẹ, vợ con về nỗi khổ sanh tử luân hồi, mối họa do ăn thịt, sát sanh
ngay trong khoảng thời gian này, khiến cho hai cụ già và vợ con đều cùng niệm
danh hiệu Phật, cùng sanh về Tây Phương vậy?
Nếu ông có thể chân thật phát
tâm chí thành, đối trước đức Phật sám hối thay cho hai cụ, tuy hai cụ không tin
tưởng nhưng rồi cũng sẽ tin tưởng. “Lòng
Thành đến cùng cực, đá vàng còn phải nứt”, huống hồ hai cụ vốn yêu thương
con ư? Nếu có thể vứt sạch tập khí bàn bạc, nghiên cứu mù quáng trước kia, chắc
chắn sẽ được lợi ích lớn lao. Nếu không, sẽ trọn chẳng khác gì kẻ ưa chơi đồ cổ,
gieo được cái nhân xa đã là chuyện may mắn lắm rồi! Nhưng vẫn mắc tội bàn luận
Phật pháp xằng bậy cũng chẳng phải nhỏ đâu! Một pháp Niệm Phật hết thảy mọi người
đều nên tu, hết thảy mọi người đều có thể tu được, sao chẳng uyển chuyển khuyên
hai cụ [tu pháp ấy] ngay trong lúc này?
Ông nói ra những lời lẽ ấy, biết
ông đọc Văn Sao vẫn theo cái kiểu cưỡi ngựa vùn vụt xem đèn, trọn chẳng suy xét
tường tận những điều đã được nói [trong bộ sách ấy]! Xin hãy nương tựa toàn
thân nơi Văn Sao và An Sĩ Toàn Thư. Tuy Thọ Khang Bảo Giám vẫn chưa phải là
sách quan hệ khẩn yếu cho chính mình, nhưng hãy nên lấy đó làm của báu gia truyền,
lại hãy nên nói với hết thảy những kẻ trẻ tuổi về lẽ lợi - hại, hãy nên khuyên
hết thảy những người già nương theo đó mà răn nhắc con cháu. Dùng những điều
này để tự hành, lại còn dạy người, nhờ vào công đức ấy ắt sẽ có thể làm cho cha
mẹ già và vợ con cùng thoát khỏi biển khổ.
Nay đặt pháp danh cho ông là
Huệ Thật, nghĩa là áp dụng trí huệ vào thật sự, thật lý, chẳng còn Đông kéo Tây
lôi, cũng như chỉ giải thoát nơi cửa miệng, trọn chẳng có lợi ích thật sự gì!
Ông đọc kỹ Văn Sao sẽ chẳng đến nỗi bỏ lơ hai cụ già, chỉ mong vãng sanh Tây
Phương đắc Nhẫn rồi mới cứu độ họ. Trong tháng Nhuận, Quang sẽ sang Thượng Hải,
sợ là tháng Ba vẫn còn ở Thượng Hải. Chưa đến Phổ Đà thì đừng nên tới Phổ Đà
ngay. Nếu cứ muốn tới, nên tới chùa Thái Bình ở bến Trần Gia, Thượng Hải hỏi
thăm sẽ biết rõ là Quang còn ở đó hoặc đã qua nơi khác. Quang rất muốn ai cũng
niệm Phật vãng sanh Tây Phương cho nên mới dài dòng một phen như thế này!
371. Thư trả lời cư sĩ Lý Huệ Thật (thư thứ ba)
Đầu
mùa Đông năm ngoái tôi phải giảo chánh sách, đến ngày Hai Mươi Mốt lại bị bệnh
hơn cả tuần, nay đã bình phục. Để thỏa nguyện cho ông bèn soạn một bài tựa. Dùng
nguyên tên gọi và đăng ảnh chụp đều là cách để cầu danh chuốc nhục, ấy chính là
điều Quang ghét cay ghét đắng. Xin ngàn muôn phần chớ bắt chước kiểu cách hời hợt
hoa mỹ trong cõi đời mấy lúc gần đây. Mọi người hãy nên chú trọng thực hiện tiết
kiệm, chất phác, chuyên chí tu trì sẽ có lợi ích lớn lao! Năm Dân Quốc thứ chín
(1920) có mấy đệ tử ấn hành Văn Sao ở Thượng Hải (tháng Giêng năm Dân Quốc
thứ mười in xong, chính là bản Văn Sao gồm hai cuốn), liền thỉnh ý Quang về chuyện đăng ảnh chụp, viết tiểu sử; Quang bảo nếu
làm như thế sẽ nhất quyết không chấp nhận cho in Văn Sao, họ bèn thôi.
Ông chẳng biết chuyện ấy, vì
thế tôi nói với ông để ông khỏi xoay sở xin ảnh chụp rồi in bừa bãi. Dẫu Quang
chẳng thể vãn hồi thói xấu hời hợt, hoa mỹ, xa xỉ, lòe loẹt trong cõi đời gần
đây, nhưng quyết chẳng chịu theo sóng đuổi sóng để bắt chước làm như họ! Lời tựa
gồm hơn bốn trăm chữ, in thành một trang, ghi tên người làm công đức đằng sau;
bài kệ Hồi Hướng chỉ dùng những câu văn trong kinh Hoa Nghiêm: “Nguyện tương dĩ thử thắng công đức, hồi hướng
pháp giới chư hữu tình, phổ nguyện trầm nịch chư chúng sanh, tốc vãng Vô Lượng
Quang Phật sát” (nguyện đem công đức tuyệt vời này, hồi hướng hữu tình các
pháp giới, nguyện khắp chúng sanh đang đắm chìm, mau sanh cõi Phật Vô Lượng
Quang) là được rồi, chứ chẳng cần phải viết gì khác!
372. Thư trả lời cư sĩ Vương Thành Trung
Nhận
được thư đầy đủ, Quang là một ông Tăng hèn kém chỉ biết cơm cháo, thiếu những
hiểu biết thông thường, tuổi gần bảy mươi, chẳng có thành tựu gì! Các hạ tưởng
lầm là thiện tri thức tức là đã lầm lẫn lớn, lại còn muốn quy y, tức là muốn học
lấy bản lãnh của ngu phu, ngu phụ. Đã học bản lãnh của ngu phu, ngu phụ thì bản
lãnh của bậc thông gia quyết chẳng còn trông mong chi nữa! Nếu chẳng coi đó là
sai lầm, tôi chẳng ngại lấy sai lầm làm chuẩn.
Nay đặt pháp danh cho ông là
Huệ Trung, nghĩa là trí huệ do có lòng Thành ở bên trong, ắt trí huệ sẽ thấu đạt
ra ngoài, khiến cho hết thảy người hữu duyên đều nương theo ý chỉ “lòng Thành
bên trong thấu đạt ra ngoài” tu trì Tịnh nghiệp, tự lợi, lợi tha. Để hưng khởi
Phật pháp trong cõi đời ngày nay, chẳng lo không biết lý tánh cao sâu huyền diệu,
chỉ lo không biết nhân quả báo ứng và giáo dục trong gia đình để thực hành những
điều đáng nên hành! Nếu như hết thảy mọi người đều có thể thực hành những điều
đáng nên hành thì thiên hạ thái bình, nhân dân an lạc, Phật nhật thêm sáng,
pháp luân thường xoay.
Do vậy, Quang thường nói với hết
thảy mọi người: Ắt phải giữ vẹn luân thường, nghiêm túc trọn hết bổn phận của
chính mình, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đánh đổ những ham muốn xằng bậy của
chính mình để khôi phục lễ nghĩa, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện,
kiêng giết, ăn chay, tín nguyện niệm Phật, quyết chí cầu sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Dùng những điều này để tự hành, dùng những điều này để dạy người khác,
trong là cha mẹ, anh em, vợ con, ngoài là thân thích, xóm giềng, bè bạn, để họ
cùng tu tịnh nghiệp, ngõ hầu đáng gọi là đệ tử thật sự của đức Phật. Làm được
như thế thì sống là bậc thánh hiền, mất lên cõi Cực Lạc. Lợi ích xuất thế gian
lẫn thế gian đều do đây mà được. Đấy là những điều ngu phu ngu phụ có thể làm
được, trọn chẳng có chỗ nào cao sâu huyền diệu chẳng thể mong mỏi được! Tiếc
cho người đời phần nhiều cầu những điều khác, chẳng cầu nơi những điều này; vì
thế khó được lợi ích chân thật!
Ông nói: “Phải trông coi công việc trong Cư Sĩ Lâm, chẳng thể chuyên tu, rất sợ khó đắc nhất tâm, chưa thể vãng sanh được, hoặc khó được như nguyện!” Cần biết rằng: Bồ Tát hành đạo lấy lợi người làm đầu. Pháp môn Tịnh Độ lấy Tín - Nguyện để dẫn đường. Có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu chưa đắc nhất tâm cũng có thể vãng sanh. Không có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dù đã đắc nhất tâm vẫn khó thể vãng sanh (người trong nhà Thiền niệm Phật phần nhiều chẳng nói đến tín - nguyện thì vẫn là tự lực, khó được nhờ vào Phật lực; do bọn họ đã không cảm thì Phật cũng khó thể rủ lòng ứng! Đây là chuyện khẩn yếu cùng cực, vì thế phải nói trắng ra).
Chỉ cần chịu nghe theo những chuyện Quang đã nói trên đây, tận lực thực hiện sẽ tương ứng với chánh nhân của Tịnh nghiệp như Quán Kinh đã dạy và tương ứng với bổn nguyện của Phật. Vì thế, chẳng cần phải ngờ vực, do dự mình khó được vãng sanh! Thế đạo, nhân tâm hiện thời bại hoại đến cùng cực. Phàm những ai dự vào Cư Sĩ Lâm niệm Phật, ắt phải bảo họ đề xướng nhân quả báo ứng và giáo dục trong gia đình, cần nhất là chú trọng nhân quả báo ứng. Lại phải chú trọng dạy dỗ con gái. Làm như thế thì còn có hy vọng sau này người hiền sẽ dấy lên đông đảo, kẻ bại hoại diệt tuyệt. Nếu không, sở học đều là mưu mô dối trá. Mưu mô dối trá càng tinh xảo, càng khéo léo thì thiên tai nhân họa càng khốc liệt! Đạo “gốc chánh nguồn trong” nằm ở chỗ bình thường này, chứ không có gì lạ lùng cả! (ngày Mười Một tháng Chín)
Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên
Quyển 2
Phần 4 hết
[1] Chúng tôi dịch câu này theo cách diễn giải của Luận
Ngữ Giảng Yếu. Ý nói: Hễ gặp việc nhân đáng làm thì bèn dũng mãnh làm ngay,
không chần chừ.
[2] Ý nói đặt dấu chấm câu vì sách vở tiếng Hán viết theo
lối xưa không có dấu chấm câu.
[3] Đây là cách gọi thông tục của Niết Bàn Đường trong
các ngôi đại tự. Do trong điện ấy thờ tượng Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật nằm
trong rừng Sa La trước khi nhập Niết Bàn nên dân gian quen gọi là Ngọa Phật (Phật
nằm). Khải là một lối văn trình tấu của cấp dưới gởi lên cấp trên. Tờ Khải nói ở
đây là bài văn kêu gọi bá tánh quyên góp tu bổ Ngọa Phật Điện.
[4]
Huệ Trì (337-412) sống vào đời Đông Tấn, người xứ Lâu Phiền, huyện Nhạn Môn
(Sơn Tây), em trai ngài Huệ Viễn, thông minh mẫn tiệp từ bé, có văn tài. Năm 18
tuổi theo anh xuất gia với ngài Đạo An, học trọn khắp Tam Tạng và ngoại điển.
Sau theo anh về Lô Sơn. Sư rất được Lang Nha Vương là Tư Mã Tuần coi trọng. Khi
ấy, do ngài Tăng Già La Xoa khéo tụng bộ Tứ A Hàm, Vương liền sai Ngài giảo duyệt
kinh văn, giảng nói kinh Pháp Hoa, A Tỳ Đàm Luận. Năm Long An thứ ba (399), Sư
nghe nói núi Nga My ở Ba Thục rất thù thắng, ý
muốn sang thăm, bèn đi sang Tây đến Thành Đô, nghỉ tại Long Uyên Tinh Xá, hoằng
dương Phật pháp, đại chúng khâm phục nên mỗi khi Ngài lên pháp tòa giảng mọi
người đều gọi là Đăng Long Môn. Lúc Sư thị tịch, dạy đệ tử rằng: “Kinh dạy: ‘Giới như đất bằng, mọi điều thiện
đều do đấy mà sanh!’ Các ông đi, đứng, nằm, ngồi đều phải cẩn thận!”
[5] Huệ Vĩnh (332-414), sống vào thời Đông Tấn, người xứ Hà Nội (tỉnh Hà Nam), xuất gia năm 12 tuổi, theo học với ngài Trúc Đàm Hiện, về sau theo ngài Huệ Viễn đến học với ngài Đạo An. Sư muốn cùng ngài Huệ Viễn sang núi La Phù, nhưng ngài Huệ Viễn bị Đạo An giữ lại, nên đến niên hiệu Thái Nguyên đời Đông Tấn, Huệ Vĩnh đi sang La Phù trước. Đến Tầm Dương, Sư được người trong quận ấy là Đào Phạm giữ lại trụ trì chùa Tây Lâm tại Lô Sơn. Không lâu sau, ngài Huệ Viễn cũng đến. Đại chúng nghe danh, tụ tập về quá đông, phải lập thêm Đông Lâm tinh xá. Sư bèn lập riêng một thảo am trên đảnh núi để tiện thiền quán, tu trì. Những người đến bên am tranh đều ngửi thấy mùi hương lạ, bèn gọi nơi ấy là Hương Cốc. Sư sống cùng một con hổ trong am ấy; hễ có ai đến, Sư bèn đuổi hổ chạy lên núi. Người đi rồi, hổ lại về chầu hầu bên cạnh. Sư rất thích nghiên cứu kinh điển, giảng nói rất giỏi, vẻ mặt tươi cười, chưa hề nói lời thương tổn ai. Cơm xoàng, áo vải, siêng năng tinh tấn, khổ hạnh, nguyện sanh Tây Phương. Năm Nghĩa Hy thứ mười (414), Sư thị hiện bị bệnh nhưng trì giới không xao nhãng, khi lâm chung tự đắp y, chắp tay, bảo đại chúng: “Phật đến rồi đó!” Nói xong, tươi cười qua đời, thọ 83 tuổi. Đại chúng trong núi đều ngửi thấy mùi hương lạ, bảy ngày mới tan.
[6] Tiếng gọi ông nội người khác với hàm ý tôn kính.
[7] Tức loạn Thái Bình Thiên Quốc. Do Hồng Tú Toàn và
Dương Tú Thanh là những lãnh tụ phiến loạn hàng đầu của Thái Bình Thiên Quốc
nên Sử thường gọi là loạn Hồng Dương.
[8] Trữ Công ở đây chính là Hoằng Trữ (1605-1672). Sư thuộc
tông Lâm Tế sống vào cuối đời Minh, đầu đời Thanh, người Thông Châu, Giang Nam,
pháp tự Kế Khởi, pháp hiệu Thoái Ông. Thuở nhỏ gia đình gặp cảnh tai biến, được
bà nội đem về nuôi dưỡng. Sư tuy chăm học nhưng không ham công danh, chí mộ Phật
pháp, thích đạo Thiền, lãnh hội Phật pháp. Năm 25 tuổi, Sư xuất gia với Hán
Nguyệt Pháp Tạng, siêng tu nhọc nhằn, đắc ngộ tâm pháp. Sư thông hiểu học thuyết
của bách gia chư tử, học vấn tinh thâm, tư cách đoan nghiêm, khiến đại chúng rất
ngưỡng mộ. Sư tưởng nhớ nhà Minh, thường mong khôi phục. Khi quân phản Thanh phục
Minh dấy lên ở vùng Ngô - Việt, Sư nhiều lần ám trợ, từng bị bắt giam, sau được
nghĩa sĩ cứu ra. Mỗi năm vào ngày vua Sùng Trinh tuẫn tiết, Sư đều mặc tang phục,
lễ bái, khóc lóc. Suốt hai mươi tám năm đều giữ đúng lệ như vậy. Đệ tử nổi tiếng
dưới tòa có cả hằng trăm người. Sư thị tịch năm Khang Hy mười một (1672), thọ
sáu mươi tám tuổi. Sư còn để lại các trước tác như Ngữ Lục (100 quyển), Nam Nhạc
Kế Khởi Hòa Thượng Ngữ Lục (10 quyển), Nam Nhạc Lặc Cổ, Linh Nham Ký Lược.
[9] Hán Nguyệt Pháp Tạng (1573-1635) là đệ tử của ngài Mật Vân Viên Ngộ, sống vào cuối đời Minh, xuất gia từ năm 15 tuổi. Năm Thiên Khải thứ tư (1624) đến chùa Kim Túc, yết kiến ngài Mật Vân, được ấn khả. Sư cực thông minh, rất có biện tài, nhưng lại lập ra dị thuyết, soạn ra bộ Ngũ Tông Nguyên, chỉ trích mạt sát nặng nề tông Tào Động, coi bốn tông kia là đọa lạc, đều không hiểu tông chỉ nhà Thiền, chỉ riêng tông Lâm Tế là nắm được yếu lãnh của Lục Tổ. Luận thuyết của Sư khiến cho thiền đức các tông thời ấy tranh luận ồn ào. Ngài Viên Ngộ nhiều lần gởi thư khuyên răn Sư hãy bỏ luận thuyết dị kỳ ấy, nhưng Sư không thèm nghe theo. Sư chết năm Sùng Trinh thứ tám (1635), thọ 62 tuổi. Tác phẩm Ngũ Tông Nguyên gây nên tranh luận kéo dài mãi đến đời Thanh, vua Ung Chánh phải viết Ngự Chế Giản Ma Biện Dị Lục vạch ra những điểm sai lầm trong cuốn sách nói trên và hạ lệnh cấm tuyệt lưu hành Ngũ Tông Nguyên, nhưng do đồ đảng của Hán Nguyệt đến lúc ấy vẫn còn rất đông nên cuốn Ngự Chế Giản Ma Biện Dị Lục không được đưa vào Đại Tạng. Hoằng Nhẫn và Cụ Đức đều là đệ tử của Hán Nguyệt. Hoằng Nhẫn còn cực đoan, đả phá các phái Thiền khác gấp mấy lần Hán Nguyệt.
[10] Mật Vân Viên Ngộ (1566-1642) là cao tăng thuộc tông Lâm Tế, sống vào đời Minh, thụy hiệu là Huệ Định Thiền Sư. Ngài là con nhà nông, do tình cờ đọc Lục Tổ Đàn Kinh bèn ham chuộng pháp Thiền. Một ngày nọ đang chất củi bỗng tỉnh ngộ, bèn xuất gia với ngài Huyễn Hữu Chánh Truyền tại chùa Long Trì. Năm Vạn Lịch 30 (1602), ngài Chánh Truyền lên kinh đô, giao cho Sư làm Giám Viện chùa Vũ Môn. Một hôm, trong khi đi ngang qua núi Động Quan, Ngài chợt khai ngộ. Năm Vạn Lịch 39 (1611), được Huyễn Hữu trao y bát. Ngài lần lượt làm trụ trì nhiều đạo tràng Thiền Tông nổi tiếng, do thời gian Ngài làm trụ trì chùa Thiên Đồng lâu nhất nên thường được gọi là Thiên Đồng Mật. Ngài được coi là người có công trung hưng tông Lâm Tế, đệ tử đến hơn ba vạn người. Sư thị tịch năm Sùng Trinh 15 (1642) tại chùa Huyền Thông, thọ 76 tuổi.
[11] Theo Phật Học Thường Kiến Từ Vựng (cư sĩ Trần Nghĩa
Hy chủ biên), Phương Tiện Giới gọi đầy đủ là Thập Chủng Phương Tiện Giới hoặc
Tam Thế Vô Chướng Ngại Giới, chính là Thập Thiện.
[12] Đây là một niềm tin cho rằng tượng không được yểm tâm
(tức là bỏ những thứ quý báu, kinh sách, bùa chú, chỉ ngũ sắc đã tụng chú kết
thành gút, những khối hương v.v… vào trong tượng) thì tượng thờ sẽ không linh.
Sau khi đã yểm tâm, lại còn phải làm lễ khai quang điểm nhãn, hô thần nhập tượng
thì tượng ấy mới được thần thánh, trời, Phật ngự vào, mới trở thành thiêng
liêng. Nếu không, tượng ấy sẽ chỉ là đất, gỗ, đồng, sắt, xi-măng, không có tác
dụng gì!
[13] Thần Nhị Lang còn gọi là Quán Khẩu Nhị Lang là một vị thần nổi tiếng trong Đạo Giáo, được coi là vị thần chuyên ngăn ngừa tai nạn lửa nước, có miếu thờ chính ở gần đập Đô Giang, huyện Quán tỉnh Tứ Xuyên, nên mới gọi là Quán Khẩu Nhị Lang. Có rất nhiều cách giải thích lai lịch vị thần này. Dưới ảnh hưởng của truyện Tây Du Ký, người ta thường nghĩ Nhị Lang Thần chính là Dương Tiễn, tức con trai của em gái Ngọc Hoàng Thượng Đế. Em gái Thượng Đế động lòng trần, trốn xuống trần gian lấy chồng, đẻ ra Dương Tiễn. Phong Thần Diễn Nghĩa cũng giải thích Nhị Lang Thần là Dương Tiễn, nhưng lại bảo Dương Tiễn là sư điệt của Khương Tử Nha! Có thuyết cho rằng Nhị Lang Thần chính là con trai của Lý Băng dưới đời Tần, do có công giúp cha giết giao long, trị thủy ở Quán Khẩu nên được phong thần. Dưới đời Tùy, Nhị Lang Thần được hiểu là Triệu Dục, vốn là quan Thái Thú ở Gia Châu, cũng có công trị thủy. Đến đời Tống, Triệu Dục lại được hiểu là một đạo sĩ ở núi Thanh Thành, do có công trị thủy nên được Tống Chân Tông phong là Thanh Nguyên Diệu Đạo Chân Quân. Ngoài ra vào đời Đường còn có truyền thuyết Nhị Lang Thần chính là con thứ hai của Tỳ Sa Môn thiên vương. Khi An Lộc Sơn làm loạn, Nhị Lang từng suất lãnh thiên binh, thiên tướng cứu giúp hoàng thất nhà Đường!
[14] Tiếng gọi chồng của dì (tức dượng) người khác với ý
kính trọng.
[15] Tinh Hồng, gọi đủ là Tinh Hồng Nhiệt (Scarlet Fever) là một chứng bệnh sốt cấp tính do máu bị nhiễm Liên Cầu Khuẩn (Streptococcus) loại A, hoặc khí quản bị viêm nhiễm bởi loại vi khuẩn này. Bệnh nhân bị sốt cao, khó thở, cổ họng đau nhức, lưỡi đóng bợn vàng dầy đặc, toàn thân xuất hiện những đốm đỏ tươi nhất là ở vùng cổ, ngực, nách, cánh tay, đùi, nên gọi là Tinh Hồng Nhiệt. Do bệnh nhân thường là những người có cơ thể suy yếu, tạo điều kiện thuận lợi cho Liên Cầu Khuẩn dễ tấn công, nên Tổ mới nói “lệnh di trượng mắc chứng Tinh Hồng do dụng tâm quá độ”, bởi lẽ dượng ông Phương Tử Phiên quá sức lo nghĩ cho nên cơ thể suy yếu, nguy cơ bị nhiễm trùng cao hơn người khác.
[16] Quyển Thủ là phần đầu cuốn sách bao gồm mục lục, lời
tựa, cũng như Phàm Lệ (những quy định được dùng trong sách) v.v… Quyển Thủ được
khắc với mục đích giúp người đọc dễ tìm phần muốn tra cứu.
[17] Thiêm Điều (Thư Thiêm) là trang giấy đầu tiên của một
quyển sách sau phần Thư Diện, hoặc trang đầu của từng quyển trong một bộ sách,
ghi tên sách, tên người đề tựa sách, ấn chương (con dấu, dấu kiềm) của người đề
tên sách (những kinh sách chữ Hán trước khi in thường nhờ người viết chữ đẹp,
có đạo đức, danh vọng ghi tựa đề sách) và số thứ tự (tức quyển số mấy) trong một
bộ sách. Đôi khi Thư Thiêm còn bao gồm cả tiểu mục lục của từng chương sách.
Thư Diện là trang đầu tiên của cả bộ sách, được chia
làm hai phần: Phần thứ nhất gồm ba dòng ghi tên người biên soạn sách, tựa đề
sách và nhà xuất bản, phần thứ hai (còn gọi là Thư Bài hoặc Bài Ký) ghi rõ ngày
tháng sách được ấn hành. Nếu là sách được tái bản từ những thư tịch cổ sẽ ghi
thêm lần tái bản này dựa theo bản in nào, theo tài liệu nào, ai là người giám định,
nhuận sắc, hiệu đính, giảo chánh.
[18] Quan Đông là danh từ chỉ chung ba tỉnh thuộc phía
Đông Bắc Trung Hoa, tức Liêu Ninh, Hắc Long Giang và Cát Lâm.
[19] Nguyên văn là “khỏa kế”. Thông thường, những người
cùng giúp việc kiếm ăn cho mình được gọi là Khỏa Kế (夥計).
Do vậy, những người hầu trong các tiệm ăn cũng được gọi là Khỏa Kế. Ta thường đọc
chữ này theo giọng Quảng Đông thành
[20] Đồng Mông Tu Tri (trẻ nít nên biết) là một tài liệu
do Châu Hy biên soạn vào đời Tống nhằm làm tài liệu dạy dỗ trẻ nhỏ về đức dục,
khuôn phép ứng xử. Đến đời Thanh, ông Lý Dục Tú rút gọn thành cuốn Đệ Tử Quy.
[21] Kim Điện được xây trên đảnh núi Thiên Trụ tức ngọn núi chánh của rặng Võ Đang thuộc tỉnh Hồ Bắc. Kim Điện thường được gọi là Kim Đảnh, xây từ năm Vĩnh Lạc 14 (1416) nhà Minh, là kiến trúc bằng đồng lớn nhất Trung Quốc. Toàn bộ ngôi điện được ghép bằng những phần nhỏ đúc bằng đồng, chạm trổ hết sức tinh xảo. Trong điện thờ Huyền Thiên Chân Vũ Đế Quân (Huyền Thiên Thượng Đế) có Thủy Hỏa đại tướng (Quy - Xà nhị tướng) đứng hầu hai bên.
[22] Tỉnh Mộc (Thiền gia thường gọi là Thủ Xích, hoặc gọi
tắt là Xích) là một khối gỗ nhỏ, có thể nắm gọn trong tay thường được các quan
dùng trong công đường để vỗ xuống án nhằm tạo tiếng động lớn khiến cử tọa chú ý
hoặc để thị oai. Trong Phật môn, Thủ Xích dùng để vỗ xuống bàn khiến đại chúng
chú ý trước khi tuyên pháp ngữ.
[23] Sư công: thầy của sư phụ, ta thường gọi là “sư ông”.
[24]
Cao Vương Kinh nói ở đây có tên đầy đủ là Cao Vương Quán Thế Âm Chân Kinh, khác
với Nhất Thiết Pháp Cao Vương Kinh do ngài Cù Đàm Bát Nhã dịch trong Đại Tạng.
Nhất Thiết Pháp Cao Vương Kinh dạy các hạnh nghiệp của người thọ Bồ Tát giới gia
nhập Tăng đoàn, các lợi ích do tu tập như chứng đắc Tứ Quả, tu Bồ Tát hạnh v.v…
Còn Quán Thế Âm Cao Vương Kinh có nội dung khá lộn xộn, tập trung những danh hiệu
Phật, rồi kết thúc bằng chú Thất Phật Diệt Tội. Xin trích dẫn đoạn đầu: “Quán Thế Âm Bồ Tát, nam mô Phật, nam mô
Pháp, nam mô Tăng, Phật hữu nhân duyên, Phật pháp tương nhân thường lạc ngã tịnh,
hữu duyên Phật pháp. Nam mô Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, thị đại thần chú. Nam mô
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, thị đại minh chú… Nam mô Tịnh Quang Bí Mật Phật, Pháp
Tạng Phật, Sư Tử Hống Thần Túc U Vương Phật. Phật cáo Tu Di Đăng Vương Phật,
Pháp Hộ Phật, Kim Cang Tạng Sư Tử Du Hý Phật, Bảo Thắng Phật, Thần Thông Phật…”
Theo ngu ý, bản kinh này ngụy tạo vì từ đầu đến cuối chứa lẫn lộn những câu chữ
trích từ Tâm Kinh, cũng như những danh hiệu Phật được nói trong các kinh Đại Thừa.