Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên
Quyển
3
Phần 1
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ
tử Như Hòa
Giảo chánh: Minh Tiến &
Huệ Trang
Trích Dẫn
Pháp Ngữ Của Ấn Quang Đại Sư
Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn đặc
biệt trong giáo pháp của cả một đời đức Như Lai, thích hợp khắp ba căn, thâu
nhiếp trọn vẹn lợi căn lẫn độn căn. Bậc Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thể vượt ra
ngoài; tội nhân Ngũ Nghịch Thập Ác cũng có thể dự vào trong số ấy. Chẳng đoạn
Hoặc nghiệp mà được thoát khỏi luân hồi; ngay trong một đời này chắc chắn lên cõi
Phật. Chúng sanh đời Mạt căn cơ kém hèn, bỏ pháp môn này làm sao yên được? Phàm
là người tu Tịnh nghiệp, điều thứ nhất là phải nghiêm trì tịnh giới, điều thứ
hai là phải phát Bồ Đề tâm, điều thứ ba là phải có tín nguyện chân thật. Giới
là cơ sở của các pháp, Bồ Đề tâm là chủ soái của tu đạo, Tín - Nguyện dẫn đường
cho sự vãng sanh. Pháp môn Tịnh Độ lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông:
Không có Tín làm sao phát ra Nguyện được? Không có Nguyện làm sao khởi Hạnh?
Không có Diệu Hạnh Trì Danh làm sao chứng được Tín, mãn được Nguyện? Được vãng sanh
hay không, hoàn toàn do có Tín - Nguyện hay không! Phẩm vị cao hay thấp hoàn
toàn do trì danh sâu hay cạn.
Tín - Nguyện
- Hạnh như ba chân của cái đỉnh, thiếu một sẽ đổ. Nếu chẳng chú trọng Tín - Nguyện,
chỉ mong trì danh đến mức nhất tâm; dẫu cho đạt được nhất tâm sâu xa, cũng khó
thể liễu sanh thoát tử. Vì sao vậy? Do Phiền Hoặc chưa hết, chẳng thể cậy vào tự
lực để liễu sanh tử; Tín - Nguyện đã không có, sẽ chẳng thể nương theo Phật lực
để liễu sanh tử. Trong đời có những kẻ ham cao chuộng xa, thường bàn lan man về
tự lực, miệt thị Phật lực, chẳng biết: Từ sống đến chết, không một chuyện nào
chẳng phải nhờ vào sức người khác nhưng chẳng lấy đó làm thẹn; sao lại riêng với
một mình chuyện lớn liễu sanh tử, ngay cả Phật lực cũng chẳng muốn nhận? Mất
trí điên cuồng đến mức như thế đấy! Hành giả Tịnh tông hãy nên răn dè!
Đối với
pháp tắc tu trì thì thường nên như con nhớ mẹ, đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng,
im lặng, qua lại, một câu Phật hiệu miên miên mật mật, bất cứ sự duyên nào cũng
chẳng để gián đoạn, nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối. Người làm được như
thế chắc chắn sẽ vãng sanh. Tâm lại phải thường nghĩ tới nhân từ, khoan dung,
tánh tình hồn hậu, hòa thuận, nhẫn được điều người khác chẳng thể nhẫn, làm được
chuyện người khác chẳng thể làm, chịu nhọc nhằn thay cho người khác, thành tựu
sự tốt đẹp cho người ta, thường nghĩ tới lỗi mình, đừng bàn tới sự sai trái của
kẻ khác!
474. Thư trả lời cư sĩ Dương Bội Văn
Xá-lợi chưa tới chỗ cũ[1],
càng đúng là thần biến khôn ngằn. Ấy chính là Phật, Bồ Tát muốn làm cho ông và
hết thảy những ai thấy nghe đều gieo thiện căn sâu xa, nên đặc biệt thị hiện [như
vậy]. Tiếng Phạn xá-lợi (Śarīra), cũng có khi phiên là Thiết-lợi-la
(danh từ này hiện thời tuyệt chẳng dùng đến),
ở đây (Trung Hoa) dịch là Thân Cốt (xương nơi thân). Đây chính là ước theo sau
khi đức Phật nhập Niết Bàn, thiêu thân hóa hiện tám hộc bốn đấu[2]
xá-lợi mà nói. Đấy chính là ước theo đa số để nói.
Cũng có loại xá-lợi không phải
từ xương trên thân [đức Phật mà có], như người đời Tống khắc ván in cuốn Long
Thư Tịnh Độ Văn tìm được ba hạt xá-lợi trong tấm ván, ba hạt xá-lợi tìm được ở
ba chỗ. Lại nữa, thiện nữ nhân thêu kinh, đâm kim xuống bị vướng, nhìn vào tìm
được xá-lợi. Lại có người niệm Phật, từ trong miệng có được xá-lợi. Có vị cao
tăng tắm gội, bảo học trò kỳ lưng, nghe có vật lanh canh rơi xuống, nhìn xem
thì thấy được xá-lợi. Tuyết Nham Khâm thiền sư[3]
cạo đầu, tóc [rớt xuống] biến thành một chuỗi xá-lợi. Trường Khánh Nhàn thiền
sư đời Tống viên tịch, ngày hỏa thiêu Ngài, trời nổi cơn gió lốc lớn, khói bay
xa ngoài bốn mươi dặm. Khói lan đến đâu, trên nóc nhà, ngọn cây, ngọn cỏ, đều
có xá-lợi, nhặt được hơn bốn thạch[4].
Ngoại đạo chẳng biết xá-lợi
chính là do sức của Giới - Định - Huệ tạo
thành, bèn bảo [xá-lợi] là do Tinh - Khí - Thần[5]
luyện thành. Đây là ăn trộm danh từ của Phật
giáo, chứ tuyệt chẳng biết nghĩa lý trong Phật giáo, liền đơm đặt bịa chuyện. [Xá-lợi]
phần nhiều do dời chuyển mà có được, như khắc ván, thêu kinh và do miệng niệm
Phật mà có, cũng như [xá-lợi] của ông do từ hoa đèn mà được đều là vì lòng Thành
chuyên ròng đến cùng cực nên đức Phật rủ lòng Từ gia bị, thị hiện. Hơn nữa, xá-lợi
của Phật càng thần biến khôn ngằn. Như khi Tùy Văn Đế (Dương Kiên) chưa làm
hoàng đế, một vị Phạn tăng (tăng nhân Ấn Độ) tặng cho mấy viên xá-lợi, đến khi
lên ngôi xem lại thì thấy có rất nhiều viên (mấy trăm viên). Do vậy bèn dựng hơn năm mươi tòa bảo tháp. Tháp đựng
xá-lợi ở chùa A Dục Vương có thể nâng lên xem, mỗi người thấy một khác, hoặc cùng
một người nhưng trong mỗi lúc thấy [xá-lợi] chuyển biến lớn, nhỏ, cao, thấp và
màu sắc thay đổi, hoặc chẳng thay đổi khác nhau. Như vậy là chẳng thể dùng phàm
tình để suy lường được. Người đời dùng phàm tình để suy lường Phật pháp nên chỉ
bị tổn hại, chẳng được lợi ích.
Ông muốn
quy y, nay đặt pháp danh cho ông là Huệ Tiềm, nghĩa là: Tâm ngầm khế hợp với
trí huệ của Phật. Đấy chính là như cổ nhân đã bảo: “Ngu phu, ngu phụ cắm đầu hùng hục niệm Phật, liền có thể ngầm thông Phật
trí, thầm hợp diệu đạo” vậy! Hiện thời sắp xảy ra cơn đại kiếp, bất luận là
người trong nhà hay người ngoài, đều nên khuyên họ chí thành niệm Phật và niệm
Quán Âm để làm kế dự phòng. Nếu không, họa hoạn xảy tới, trọn chẳng nương tựa
vào đâu được! Đừng nói niệm Phật ắt chẳng bị táng thân tổn mạng; dẫu táng thân
tổn mạng nhưng linh hồn đi về đâu mỗi người mỗi khác. Vì thế, chớ nên vì niệm
Phật không thể cứu vãn được kiếp nạn mà bảo: “Niệm cũng vô ích!” Nay gởi cho
ông một gói sách, lại có một tờ Một Lá Thư Gởi Khắp. Dù phiền toái hay đơn giản
đều có thể nương theo đó để hành được. Chớ nên gởi thư tới nữa khiến tự phiền,
rộn người vậy!
475. Thư trả lời anh em Khai Sanh, Ninh Sanh (thư thứ nhất)
Hôm qua nhận được thư các ông, biết
cha các ông bệnh hết sức trầm trọng. Chớ nên làm theo cách si tâm vọng tưởng của
thế gian, mà hãy nương theo Phật pháp dùng câu Nam-mô A Di Đà Phật để trợ niệm
và cầu cho cha: “Nếu tuổi thọ đã tận sẽ mau được đức Phật từ bi tiếp dẫn vãng
sanh Tây Phương. Nếu tuổi thọ chưa hết, sẽ mau được lành bệnh”. Cha các ông tuổi
đã ngoài bảy mươi, đang trong thời thế nguy hiểm này, cả nhà hãy nên nhất tâm
niệm Phật, cầu Phật tiếp dẫn cụ vãng sanh Tây Phương. Nếu cụ tuổi thọ chưa hết,
cũng sẽ do công đức trợ niệm mà chóng được lành bệnh. Nhưng chớ nên chỉ cầu
lành bệnh, chẳng cầu vãng sanh Tây Phương. Nếu tuổi thọ của cụ đã hết, [cầu như
thế] sẽ làm hỏng đại sự. Hãy vì cha các ông mà nhất tâm trợ niệm. Nếu cụ niệm
được thì niệm theo. Chẳng thể niệm, hãy nhất tâm nghe các ông niệm.
Phàm những
chuyện khẩn yếu thì phải hỏi han trước; chuyện chẳng khẩn yếu đều nhất loạt chớ
nên nhắc tới. Nếu có những cư sĩ chí thành khẩn thiết, hãy nên thỉnh mấy vị
cùng với các ông chia phiên trợ niệm liên tục chẳng ngớt. Niệm mãi cho đến khi
cụ tắt hơi vẫn cứ niệm giống như thế. Niệm tiếp tục như vậy cho đến ba tiếng đồng
hồ sau mới ngừng niệm. Hơn nữa, trước khi cụ chưa chết và lúc vừa mới tắt thở, đừng
nên lau rửa thân thể, thay áo, khóc lóc. Những hành vi ấy đều là lôi cụ xuống
biển! Người thế gian tưởng đấy là hiếu, nhưng [thật ra] đã phá hoại chánh niệm
khiến cho [người đã mất] chẳng thể vãng sanh mà đâm ra bị đọa lạc. Tội giống
như giết cha mẹ, khẩn yếu đến cùng cực!
Bữa nay ở
Linh Nham liền thỉnh mười vị Tăng mở một Phật thất. Phật thất tốn một trăm đồng;
lại lập cho cụ một bài vị bằng gỗ để thờ vĩnh viễn trong Niệm Phật Đường. Niệm
Phật quanh năm, lợi ích rất lớn, phải tốn năm mươi đồng. Một trăm năm mươi đồng
ấy nên gởi qua bưu điện, chuyển thẳng cho đại sư Diệu Chân thuộc Linh Nham Sơn
Tự ở trấn Mộc Độc. Phật thất cũng là để cầu Phật tiếp dẫn. Nếu tuổi thọ chưa hết,
cũng sẽ mau được lành. Các ông muốn giảm tuổi thọ của chính mình để [cầu] tăng
tuổi thọ cho cha, Quang chẳng nghĩ như thế là đúng. Vì sao vậy? Đang trong lúc cụ
tuổi đã cao này, lại nhằm đời loạn lạc, chuyện mai sau chẳng biết như thế nào!
Cố nhiên, hãy nên cầu cho cha mẹ mau được sanh về Tây Phương, để khỏi gặp cảnh
mai sau chẳng bằng hiện thời, sẽ càng khó thể trợ niệm!
Nay gởi
kèm cho ông một ít tro hương Đại Bi. Hãy đem tro hòa vào nước, gạn lấy phần nước
lắng trong để uống. Dẫu cụ đã đến lúc chết, uống vào thì thần thức cũng sáng suốt,
chánh niệm vãng sanh. Nếu chưa đến lúc chết, sẽ mau được lành bệnh. Đối với
chuyện sau khi cụ đã mất, đừng bày vẽ mù quáng, làm lễ phúng điếu, nhóm họp
thân hữu. Dẫu cho bạn bè thân thiết tìm đến cũng nên đãi cỗ chay, vĩnh viễn chấm
dứt rượu thịt. Ma chay, kính thần, đãi khách đều dùng món chay. Vàn muôn phần chớ
nên dùng rượu thịt! Trong đám tang chẳng dùng rượu thịt, cổ lễ Nho gia đã là
như vậy đó, chứ không riêng gì Phật giáo mới vậy. Nếu Hoàng Thái Tử đang cư
tang mà lén lút uống rượu thì sử quan ắt phải ghi chép chuyện ấy để truyền cho
hậu thế!
Hiện thời
lễ giáo bỏ phế, đang cư tang vẫn tấu nhạc, sát sanh để giữ thể diện. Các ông đừng
học theo thói cực ác ấy! Lại có kẻ còn đem hành trạng của người đã khuất in ra,
thỉnh danh nhân đề lời tán tụng, tặng cho khắp mọi thân hữu. Chuyện ấy cũng hết
sức vô lễ! Đem hình ảnh của cha mẹ in trên đấy, người ta nhận được xem qua một
lần rồi quăng vô đống giấy lộn, chẳng biết đã khinh nhờn đến đâu! Các ông muốn
làm cho cha mẹ được nở mày nở mặt, hãy nên trong mỗi niệm luôn tự phản tỉnh, khởi
tâm động niệm, xử sự, chẳng dám có một niệm không xứng đáng với Phật, Bồ Tát,
thiên địa, quỷ thần. Nếu có thể giữ được như thế suốt đời thì mới là đại hiếu,
tôn kính cha mẹ. Nếu không, do hành vi bất thiện, ắt người ta sẽ nói cha các ông
tổn đức nên mới có đứa con không ra gì như vậy! Do đó, con người chẳng thể
không tự trọng!
476. Thư trả lời anh em Khai Sanh, Ninh Sanh (thư thứ hai)
Thư nhận được đầy đủ. Kẻ làm con cái trong thế gian khi cha mẹ lâm chung phần nhiều là “đã rớt xuống giếng còn quăng đá!” Anh em ông chịu nghe theo lời tôi, cho nên cha các ông vãng sanh Tây Phương. Đấy là chân hiếu! Ông nên biết rằng: Bất luận già - trẻ - trai - gái lâm chung đều nên trợ niệm như thế. Đều phải là sau khi đã tắt hơi rồi, tối thiểu là trong vòng ba tiếng đồng hồ chẳng được đụng vào thân thể người ấy, chẳng ngớt tiếng niệm Phật, chẳng được khóc lóc, để càng lâu càng hay (Do [nếu khuyên] để lâu thì sợ kẻ chẳng hiểu việc sẽ khó thể nghe theo được, nên chỉ nói là “ba tiếng đồng hồ”). [Cha các ông] thần thức không sáng suốt, sau khi uống nước Đại Bi, thần thức liền sáng suốt; đủ biết Phật lực chẳng thể nghĩ bàn, pháp lực chẳng thể nghĩ bàn, chúng sanh tâm lực cũng chẳng thể nghĩ bàn (tức là lòng Thành của các ông).
Mẹ ông Ngô
Trạch Nam lâm chung, lưỡi cứng không động đậy được. Trạch Nam đem nước Đại Bi
chấm vào lưỡi, trong khoảnh khắc lưỡi [của bà cụ] liền mềm mại có thể niệm Phật
được. Bình thường cụ luôn niệm Phật cực nhỏ, lúc ấy lớn giọng niệm liên tiếp ba
câu rồi qua đời. Cảnh tượng lúc cha ông lâm chung nếu chẳng phải là thêu dệt
thì chắc chắn cụ được vãng sanh. Người bình thường chết rồi chẳng có tí hơi
nóng nào, thân thể cứng đờ. Người niệm Phật mấy ngày xác chẳng cứng, đấy là
chuyện thường. Chuyện “hồi sát”[6]
là kiến thức phàm tục của người đời. Phàm ai chết trong chùa miếu đều không có
chuyện “hồi sát”. Quê tôi gọi là “xuất ương” (thoát tai nạn).
Người niệm
Phật vãng sanh Tây Phương chẳng thể làm theo cách lo toan mù quáng của tục
nhân. Nay tôi lập cho các ông một biện pháp thích hợp với cả đạo Nho lẫn đạo
Thích. Nhằm hôm “hồi sát”, cả nhà hãy chí thành niệm Phật, hoặc một tiếng đồng
hồ, hoặc hai ba tiếng đồng hồ là được; chớ nên làm theo cách thức “hồi sát” của
người đời thì người chết lẫn kẻ sống đều được lợi ích lớn lao. Đối với chuyện thiết
lễ phúng điếu, đãi tiệc khách [đến phúng điếu], quả thật đã thất lễ đến cùng cực.
Hãy nên dùng khoản tiền ấy để làm chi phí cứu trợ tai nạn, đem công đức ấy hồi
hướng Tây Phương thì là tốt lành nhất! Nếu chẳng thể không có một người khách
nào đến viếng, quyết chớ nên dùng rượu thịt; ngay như cúng thần cũng dùng cỗ
chay. Khi các ông gởi tới lá thư lần trước, trong khóa tụng sớm tối, Quang đã hồi
hướng vãng sanh cho cha ông. Nay sẽ hồi hướng thêm ba thất nữa để trọn hết tình
thầy trò. Còn chuyện thỉnh danh nhân đề lời tán tụng, viết điếu văn đều là bày
vẽ rỗng tuếch bề ngoài, trọn chẳng ích gì cho người đã khuất cả!
Đang trong
lúc nước nhà tan hoang, dân chúng khốn đốn này, đừng nên làm những chuyện lòe
loẹt rỗng tuếch ấy mới là đúng. Các ông nên biết: Làm phận con chẳng gây nhục
cho cha mẹ chính là lòng hiếu thảo suốt đời. Nếu thực hành chuyện “giữ vẹn luân
thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác,
vâng giữ các điều lành” thì người ta do thấy những hành vi của các ông luôn tốt
đẹp, dẫu miệng họ chẳng ca ngợi đức hạnh của cha mẹ các ông, trong lòng họ đã
ngưỡng mộ, khâm phục đức hạnh của cha mẹ các ông. Đấy là chuyện làm rạng danh
cha mẹ lớn lao. Chứ nếu ăn uống, nhậu nhẹt, chơi bời, cờ bạc, không gì chẳng
làm, dẫu có đem đức hạnh của cha mẹ ra khoe cho nhiều, trong lòng người ta ắt
nghĩ: “Cha mẹ ngươi ắt làm chuyện tổn đức. Nếu không, sao lại sanh thứ con chẳng
xứng đáng như ngươi cơ chứ?” Khiến cho cha mẹ nhục nhã quá sức! Vì cha các ông
mà Quang nói với các ông như thế; các ông có chịu nghe theo hay không, tôi chẳng
thể ép buộc được! Các ông hãy thử suy nghĩ chín chắn, suy xét cặn kẽ xem lời
này có đáng nghe theo hay chăng?
477. Thư trả lời cư sĩ Ngô Kính Nhân
Thư nhận được đầy đủ, muốn cho quốc
dân giàu mạnh, phải bắt đầu từ đề xướng nhân quả báo ứng. Nếu con người đều biết
đến nhân quả, sẽ tự chẳng làm chuyện vượt lý, phạm phận, cũng chẳng chịu chuyên
trọng cầu hoa mỹ, hao phí tiền bạc hữu dụng, vung vãi
[tiền bạc] trong sự sưu tập những món vật ưa thích, chôn vùi ý chí. Mấy chục
năm qua, đem mỡ màng của nhân dân để mua khí giới tự sát, mỗi năm chẳng biết đã
chở ra ngoại quốc mấy ngàn vạn vạn [đồng]. Đấy chính là cái gốc khiến cho
nước ta tự tàn hại, cướp bóc lẫn nhau. Quyền ấy tuy chẳng nằm trong tay người
không có địa vị, nhưng nào ngại nói với hết thảy mọi người để họ đừng ngả theo
thói ấy.
Ông đã cầu
quy y, nay đặt pháp danh cho ông là Đôn Bổn. Kính là gốc của đức; hễ kính thì sẽ
kìm nén được giận dữ, ngăn chặn lòng dục, chẳng làm các điều ác. Nhân là gốc của
đạo; hễ nhân thì sẽ có thể nhân từ với dân, yêu thương loài vật, vâng làm các
điều lành. Lại còn sanh lòng tin, phát nguyện, niệm Phật cầu sanh Tây Phương,
khuyên hết thảy mọi người đừng tạo cái nhân giết chóc để khỏi phải chịu sát
báo. Hễ vãng sanh Tây Phương thì sẽ siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử.
[Phong thái ấy] sẽ từ nhà lan đến làng, đến ấp, chẳng tiếc tâm lực để kính
khuyên; ấy chính là “làm nghề mà cũng tăng tấn đạo” vậy! Đối với chỗ trọng yếu
nơi tu trì thì Văn Sao đã có nói đủ, xin hãy đọc kỹ sẽ tự biết rõ. Chỗ cốt yếu nằm
nơi thực hành và chí thành. Nếu không, sẽ chẳng phải là Đôn Bổn (đôn đốc, vun
quén cái gốc), mà là Hại Bổn. Nay gởi cho ông Một Lá Thư Trả Lời Khắp và toa
thuốc để mong lợi khắp các đồng nhân.
478. Thư trả lời cư sĩ Chấn Hạc (thư thứ nhất)
Ông đã phát tâm quy y, nay đặt pháp
danh cho ông là Huệ Mại, nghĩa là nương theo pháp môn Tịnh Độ được nói từ trí
huệ của Phật để tu, sẽ liền có thể vượt ra ngoài tam giới sanh tử; vì thế gọi
là Huệ Mại[7].
Ông đã có các sách như Văn Sao v.v… chỉ nên y theo [những sách] đó để tu trì sẽ
liền được lợi ích chân thật. Quang mục lực chẳng đủ, không thể viết tường tận
được. Đã quy y Tam Bảo, ắt phải kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, ăn thuần đồ chay.
Nếu trong nhất thời chẳng thể ăn thuần đồ chay được, cũng nên trì Thập Trai hoặc
Lục Trai, nhất là phải biết sâu xa những lỗi lầm do ăn thịt. Dẫu chẳng phải là
ngày ăn chay cũng nên cực lực giảm thiểu ăn thịt, càng phải nên nhất tâm niệm
Phật. Nếu có tượng Phật thì sớm chiều đối trước [tượng] Phật thắp hương, lễ niệm.
Trừ những lúc ấy ra, đi - đứng - nằm - ngồi đều niệm. Dẫu nhằm ngày ăn mặn cũng
vẫn phải niệm, phải ngày ngày, giờ giờ thường niệm. Lại phải dạy hết thảy mọi
người trong nhà và hết thảy những người ngoài đều niệm. Lại còn phải giữ vẹn
luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều
ác, vâng giữ các điều lành thì mới là đệ tử thật sự của đức Phật, mới có tư
cách vãng sanh Tây Phương. Những điều khác đã nói tường tận trong Văn Sao và Một
Lá Thư Trả Lời Khắp.
479. Thư trả lời cư sĩ Chấn Hạc (thư thứ hai)
Thư tháng Chạp năm ngoái tôi chưa nhận
được. Nay viết pháp danh cho vợ ông, lại gởi hai gói sách. Quang già rồi, mục lực
lẫn tinh thần đều chẳng đủ, từ nay về sau vĩnh viễn đừng gởi thư đến nữa, cũng
đừng giới thiệu ai quy y bởi không có mục lực lẫn sức lực để thù tiếp. Dẫu thỉnh
sách từ Hoằng Hóa Xã cũng đừng gởi kèm thư cho Quang qua thư ấy. Hễ gởi kèm cũng
nhất quyết không trả lời. Hai gói sách này tôi tặng cho ông, cũng đừng gởi tiền
đến để đôi bên khỏi phải mệt trí. Nữ nhân lấy “giúp chồng dạy con” làm thiên chức,
trong Văn Sao, Gia Ngôn Lục đã nói nhiều lần. Trong Một Lá Thư Trả Lời Khắp
cũng nói đại lược. Chịu hành theo đó thì thọ dụng cả đời cũng chẳng hết!
480. Thư trả lời các cư sĩ thuộc Niệm Phật Hội
Bạch Huệ Tu đến đây cầm theo thư, cậy
tôi ước định chương trình của Trợ Niệm Đoàn. Đối với điều này thì trong Sức
Chung Tân Lương đã có định chương trình rồi, có thể châm chước [theo đó] để áp
dụng. Quang già rồi, tinh thần lẫn mục lực đều chẳng đủ, trong mùa Đông năm
ngoái đã cực lực cự tuyệt hết thảy thư từ, viết lách. Phàm thư gởi đến đều dặn:
“Từ nay về sau đừng gởi thư tới nữa! Gởi đến quyết không trả lời, cũng chẳng chấp
nhận giới thiệu người khác quy y” để khỏi bị mệt nhọc quá đến nỗi mù mắt lẫn tổn
mạng! Tất cả mười một pháp danh đều viết ra cả rồi. Sáu đồng hương kính và hai
đồng của Bạch Huệ Tu, Bạch Phước Kính cộng lại thành tám đồng, đều dùng để gởi
cho quý hội những sách dành cho người sơ cơ và Tịnh Nghiệp Nhật Khóa. Từ nay về
sau nếu vẫn gởi thư đến nữa, chắc chắn không trả lời. Xin ai nấy hãy giữ vẹn
luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều
ác, vâng giữ các điều lành, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương để chẳng
thẹn là đệ tử Phật. Trong đời này bèn có thể siêu phàm nhập thánh, liễu sanh
thoát tử. Xin hãy nói với các vị ấy thì may mắn lắm. Một Lá Thư Trả Lời Khắp
quan hệ thật lớn. Hết thảy mọi người đều y theo đó mà hành thì lợi ích lớn lao
lắm!
481. Thư trả lời cư sĩ Kiều Tuân
Mùa Đông năm ngoái nhận được thư, biết
ông ở chùa Thái Bình viết sách thay cho cụ Chân (hòa thượng Chân Đạt) đã có
thành tích, khôn ngăn vui mừng, an ủi. Phàm mọi chuyện bất luận lớn - nhỏ hễ
thuộc về bổn phận của ta đều nên tận tâm tận lực mà làm. Ấy gọi là “sư tử bắt thỏ cũng dùng toàn lực”. Con
người sống trong thế gian, chớp mắt liền qua. Hễ may mắn còn sống trong thế
gian đều phải sốt sắng mà làm. Nếu không, thời thế, tuổi tác đã qua, muốn làm
nhưng chẳng thể làm được. Quang đã tám mươi tuổi, chẳng thành được chuyện nào,
chỉ biết mặc áo, ăn cơm. Đấy gọi là “thiếu
tráng bất nỗ lực, lão đại đồ thương bi” (trẻ khỏe chẳng gắng sức, già lụn
luống buồn đau). Ông tuổi trẻ, chí nguyện, sức lực mạnh mẽ, hãy nên gắng sức
theo đuổi để khỏi phải uổng công tiếc nuối bi thương!
482. Thư trả lời cư sĩ Bạch Tĩnh Tu
Thư nhận được đầy đủ. Trời nóng, công
việc bận bịu, chẳng rảnh rỗi để viết nhiều. Nay đặt pháp danh cho ông là Huệ
Tu, nghĩa là nương theo trí huệ của Phật để tu Tịnh Độ, tự lợi, lợi tha. Những
điều khác hãy chiếu theo những gì đã nói trong Một Lá Thư Trả Lời Khắp để làm
thì pháp thế gian lẫn xuất thế gian đôi đằng đều được đầy đủ, không thiếu sót.
Sợ ông thấy nghe chưa rộng nên nay gởi cho ông một bộ Tịnh Độ Thập Yếu. Chúng
sanh đời Mạt chẳng y theo pháp này để tu thì tuy tu hành vẫn đáng thương lắm!
Do chẳng biết cậy vào Phật lực, cứ lệch lạc muốn cậy vào tự lực, sợ rằng bao kiếp
cũng không có ngày thoát khỏi sanh tử. Một bộ Phật Học Cứu Kiếp Biên, một bộ An
Sĩ Toàn Thư, một cuốn Sức Chung Tân Lương, có những sách này để làm người hướng
dẫn cho tương lai, sẽ tự chẳng đến nỗi bị lầm lạc vì những kẻ tự phụ thông minh
vậy.
483. Thư trả lời cư sĩ Tiết Huệ Trúc
Kẻ ngu trong thế gian thích tự lập môn đình, ăn trộm những lời lẽ trong Tam Giáo, lập ra đạo bí mật “chẳng được nói với người khác!” Do bí mật nên kẻ không biết nội dung đều như nhặng bu theo mùi thối. Vì trước khi được truyền đạo đã phát lời thề độc địa nên kẻ ngu đến chết cũng chẳng dám trái nghịch. Hết thảy ngoại đạo trong thế gian đều cậy vào hai biện pháp này để truyền khắp thiên hạ, không thể nào diệt được! Nếu bọn chúng không có hai biện pháp này thì không một loại ngoại đạo nào có thể tồn tại, đứng vững trong thế gian! Các ông may đã thoát khỏi đường tà, trở về chánh đạo. Hãy nên giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, nghiêm túc tuân phụng Phật pháp. Pháp danh của hai ông Vũ và Tả được viết trong một tờ giấy khác. Gởi cho hai người ấy mỗi người bốn gói sách để làm khai thị. Xin hãy nói với bọn họ. Trong năm nay sẽ có hai lần gởi đến chừng đó cuốn sách (ngày Mười Ba tháng Tám)
484. Thư trả lời cư sĩ Lạc Quý Hòa (thư thứ nhất)
Nhận được thư, khôn ngăn cảm kích, hổ
thẹn. Quang thuở bé thiếu học vấn, tuổi già chẳng biết gì; ai nấy đều đem sai
ngoa lan truyền sai ngoa, lầm bảo Quang là tri thức. Lọt vào thế bất đắc dĩ, chỉ
đành góp nhặt lời quê mùa cho xong trách nhiệm. Nào ngờ các hạ cũng vì thấy
muôn người đồn đãi như thật mà tưởng là thật, chẳng suy xét [Quang được tiếng
thiện tri thức như vậy] thật ra là do một người lan truyền hư giả. [Quang viết]
lời tựa Tâm Kinh ông chẳng bắt tội thì là đã rộng dung rồi, huống chi lại còn
khen ngợi quá đỗi! Xấu hổ há thể nào cùng cực! Tờ báo của quý vị đổi thành nguyệt
san, rất hữu ích. Còn những bài viết hủ bại của Quang đâu đáng để chiếm chỗ tốt
đẹp ấy! Huống chi tôi bận việc đa đoan, không có ai chịu nhọc nhằn giùm tôi, dẫu
có một hai bài hơi đáng để mắt đến thì cũng đâu rảnh rang để sao ra gởi tới!
Còn như
các hạ nói “xuất gia để chuyên tu”, Quang trọn chẳng nghĩ như thế là đúng; bởi
các hạ tài trí đủ để hoằng pháp, suất lãnh người nhà cùng tu Tịnh nghiệp thì
đôi bên đều được lợi ích. Nếu xuất gia thì người nhà khốn khổ, ắt sẽ dấy lòng
báng pháp. Như vậy là chưa thể tự lợi mà đã hại người nhà trước, nỡ lòng làm
chăng? Phật pháp không một ai chẳng kham tu, mà cũng không một ai chẳng thể tu
được. Chỉ nên trong niệm niệm biết “chẳng tu tịnh nghiệp sanh về Tây Phương thì
sẽ luân hồi cả kiếp dài lâu, chẳng thể thoát được!” Do vậy, xót mình, xót người,
thương ta, thương người, lớn tiếng hô hào để gần là người nhà, xa là người đời
đều cùng tu đạo này! So với việc chỉ cầu tự giải thoát cho chính mình, lợi ích há
nào phải khác biệt vời vợi như trời với đất? Đang trong thời buổi hoại loạn đến
tột cùng này, muốn vãn hồi thế đạo nhân tâm thì càng phải coi sự lý nhân quả
báo ứng là chuyện quan tâm bậc nhất. Biết nhân quả báo ứng, sẽ tự gắng sức làm
người lương thiện. Nếu chỉ bàn nói điều huyền lẽ diệu, chẳng chú trọng nhân quả,
chắc sẽ trở thành phường “miệng miệng nói
không, bước bước làm có!” Lợi ích cũng chẳng qua là gieo hạt giống trong
tương lai mà thôi! Nếu chú trọng nhân quả sẽ giữ được tấm lòng “sửa lỗi, hướng
lành”. Đấy chính là điều phải gấp rút bàn đến khi hoằng pháp trong thuở hiện tại
này.
485. Thư trả lời cư sĩ Lạc Quý Hòa (thư thứ hai)
Nhận được thư hôm Hai Mươi Bốn, khôn
ngăn cảm kích, hổ thẹn. Văn của Quang hệt như gom lá mà các hạ và Lý Khế Nguyên
lại phỏng theo lầm lạc, cho là “có thể làm cho người khác sanh lòng tin tưởng!”
Quang cũng chỉ đành đem lầm đáp lạc. Hiềm rằng mấy hôm gần đây công chuyện quá
nhiều, thật chẳng có buổi rảnh rỗi, vì thế lần khân đến nay, chịu lỗi khôn cùng!
Tôi vốn muốn đọc Phật Pháp Yếu Luận hai lượt nhưng không có thời gian, sức lực,
chỉ đọc đuợc một lần. Do trong bản giảo chánh gốc, những chữ được viết theo lối
Phá Thể đều được liệt kê, nên tôi cũng bắt chước theo, trong [sách] ấy có mấy
chữ đáng nên thương lượng, châm chước thì tôi cũng nêu ra. Xin hãy cân nhắc.
Soạn được
lời tựa gồm sáu trăm mấy chục chữ, chi ly, dông dài, thật chẳng đáng xem; chẳng
qua cậy vào đó cho xong trách nhiệm. Nếu ghép [bài tựa ấy] vào đầu cuốn sách thì
cũng chỉ là thêm thắt râu ria, chứ trọn chẳng có chỗ nào nêu bật được những ý
nghĩa trọng yếu của cuốn sách. Hôm Hai Mươi Sáu, do Phương Viễn Phàm thấy lòng
các hạ từ đầu đến cuối muốn sao chép lại, liền gởi tới hai bản, cậy Quang giảo
chánh một lượt. Do vậy liền đọc hai lần, ngày hôm sau liền gởi đi. Do lúc sắp xếp,
giảo chánh còn có chỗ sai sót, sợ rằng ông ta sẽ phải in bản đính chánh, nên chẳng
dám để lâu. Ngày Hai Mươi Tám, cư sĩ Liên Hàng cũng gởi đến một bản, chắc các hạ
đã xem qua rồi. Những chữ bị sai chắc các hạ cũng đã biết hết rồi, nên không gởi
đi. Chỉ có dòng mười bảy trong trang mười chín và dòng thứ hai trong trang hai
mươi tựa hồ bị sót câu văn, xin hãy xem kỹ. Nếu thật sự bị sai sót, xin hãy gởi
sang cho cư sĩ Phương Viễn Phàm ở số Bảy Mươi Bốn, ngõ Hằng Dũ, đường Thanh
Vân, thuộc Áp Bắc, Thượng Hải. Ông ta ở nhà người em rể. Thư của Lý Khế Nguyên gởi
trả lại theo thư này.
486. Thư trả lời cư sĩ Lạc Quý Hòa (thư thứ ba)
Nhận được thư và bài văn đã sửa đổi rất
hay. Cuốn sách ấy (tức Phật Pháp Yếu Luận) văn lẫn nghĩa đều hay, chỉ có mình
chỗ ấy dường như bị khiếm khuyết. Vì thế, Quang xin các hạ thêm vào [nguyên bản]
để lúc tái bản sẽ in thêm vào. Ngoài ra đều không có gì khiếm khuyết cả. Tất cả
hai mươi mấy chữ sai đều do kẻ sao chép vô ý gây ra, Quang đang tính cách tái bản,
nên với những chữ sai, chữ viết theo lối Tục Thể và đa số là những chỗ thiếu dấu
chấm câu, mỗi mỗi đều ghi ra, gởi cho ông Phương Viễn Phàm. Nay tôi đem bản liệt
kê [những chỗ sai] ấy gởi cho ông, xin hãy xem qua. Đây là chuyện giảo chánh, đối
chiếu nhỏ nhặt, nào dám gọi là “giám đính?”[8]
Sách đã có lời tựa của ngài Đế Nhàn thì đã đủ để phát khởi lòng kính ngưỡng cho
người ta rồi, đâu cần lời tựa của Quang!
Huống chi
Quang lắm việc bận bịu, không lâu sau phải sang Thượng Hải để lo liệu chuyện [ấn
tống] Quán Âm Bổn Tích Tụng. Lại còn phải sắp đặt một bản Văn Sao khác, tính sắp
xếp sao cho mỗi trang tăng thêm hai hàng, mỗi hàng thêm hai ba chữ, [thành ra]
thêm ba vạn chữ vào lời văn. Nếu chẳng thể mở rộng diện tích in chữ trong một
trang thì cũng là một cách để giảm bớt chi phí.
Thêm nữa,
do thanh niên không biết tiết dục cũng như [chẳng biết] những chuyện [cần phải]
kiêng kỵ trong ăn nằm; do vậy mất mạng không biết là bao nhiêu, hoặc trở thành
tàn tật cũng không đếm xuể. Bởi vậy, tôi phát tâm in cuốn Bất Khả Lục, tăng
thêm một vạn chữ, đổi tên thành Thọ Khang Bảo Giám. Một vị cư sĩ bỏ ra một ngàn
sáu trăm đồng để ấn tống, có thể in gần tới ba vạn bản. Lần này sang Thượng Hải
để lo liệu sắp chữ. Cuối Thu, Văn Sao lẫn Thọ Khang đều có thể in ra sách; do vậy,
bận túi bụi. Ước chừng giữa tháng Năm chắc sẽ quay về núi. Tâm Kinh Thiển Thuyết
chưa thấy gởi đến, không cần phải lo chuyện này. Dẫu có một hai chữ bị sai cũng
không ảnh hưởng lớn lao, người thông hiểu văn nghĩa sẽ đều nhận biết.
487. Thư trả lời cư sĩ Lạc Quý Hòa (thư thứ tư)
Thư hôm Mười Một chắc ông đã nhận được
rồi. Hôm qua nhận được thư, khôn ngăn cảm kích, hổ thẹn. Đôi bên tâm giao, há cần
phải khiêm hư quá mức như vậy? Tâm Kinh Thiển Giải không bị sai ngoa nhiều lắm,
do thấy có lúc các hạ dùng chữ theo kiểu Phá Thể
nên Quang bèn căn cứ theo đó để nêu ra cặn kẽ; nếu có một hai chỗ thay đổi, xin
hãy xem xét kỹ để chẳng đến nỗi “khoét thịt thành vết thương”. Do năm ngoái có
chiến tranh nên chẳng dám phát hành bản đính chính cho cuốn Đại Sĩ Tụng (có
hơn hai ngàn cuốn ở Trung Hoa [Thư Cục]). Sau đấy
do nước cạn, chẳng thể ra khỏi núi được. Nay bản chánh vẫn chưa gởi đến; do vậy
tạm thời dùng giấy Mao Thái[9]
in một vạn tờ cho mọi người xem. Nội trong tháng này sẽ phát ra.
Các hạ
dùng chữ “có thể rộng lòng ban cho mấy bộ
được chăng?” sao mà xem Quang hẹp lượng đến thế? Quang tính quyên góp in mấy
chục vạn cuốn để lưu truyền khắp trong ngoài nước. Tuy chưa thể như nguyện, nhưng
đã được sáu vạn bộ rồi. Tuy hoàn toàn giao cho người bỏ tiền ra in tự biếu tặng,
nhưng cũng có hơn một vạn bộ cậy Quang biếu tặng. Các hạ đã hỏi xuất bản [hay
chưa] thì được, chứ nói “có thể rộng lòng
ban cho hay chăng?” thì quá khiêm hư, đâm ra coi nhẹ Ấn Quang! Quang bận bịu
quá nhiều chuyện, không rảnh rang để soạn văn. Vào ngày Hai Mươi Mốt, Hai Mươi
Hai sẽ sang Thượng Hải để lo liệu chuyện [ấn tống] Quán Âm Tụng và nhờ Trung Hoa
[Thư Cục] sắp chữ để in một bản Văn Sao khác.
Lại còn
cho sắp chữ cuốn Bất Khả Lục bản tăng đính, ước chừng trong năm nay đều có thể
in ra sách. Bất Khả Lục là do một cư sĩ được Tam Bảo gia bị, chẳng dùng thuốc mà
được lành căn bệnh ngặt nghèo suốt mấy tháng (do vợ ông ta cầu nguyện suốt
đời ăn chay nên ngay hôm ấy liền có chuyển biến, chẳng thuốc men mà được lành); do bệnh đã lâu chưa được bình phục hoàn toàn mà đã phạm
“phòng sự” (ăn nằm) liền đến nỗi mất mạng[10].
Quang nghĩ: Người đời chẳng biết kiêng kỵ đến nỗi người tử vong chẳng biết là
bao nhiêu, liền phát tâm in sách này nhằm cứu giúp bọn thanh niên một cách vô
hình, đạt đến bình trị khi chưa loạn, giữ yên đất nước khi còn chưa nguy. Nếu vị
cư sĩ ấy biết được chuyện này sẽ trọn chẳng đến nỗi gặp phải kết quả ấy. Người ấy
còn là người thành thật ưa thích điều nghĩa, chứ không phải là kẻ đớn hèn; tiếc
là do chẳng biết kiêng kỵ đến nỗi mất mạng! Do vậy, người vợ hiền chí thành cầu
đảo cho chồng được lành bệnh rốt cuộc trở thành ác phụ giết chồng, đều là do
lúc thường ngày chẳng hiểu biết về đạo ăn nằm giữa vợ chồng nên mới đến nỗi như
thế. Các hạ hành nghề Y, càng phải nên răn nhắc [bệnh nhân] về chuyện kỵ húy
này để hết thảy mọi người chẳng đến nỗi lầm lạc mất mạng. Công đức ấy so với
công dùng thuốc trị bệnh sẽ càng rộng lớn hơn nhiều.
Từ nay về sau, nếu không có chuyện gì khẩn yếu đừng gởi thư đến; bởi tôi ra khỏi cửa bận bịu lắm việc, không rảnh rỗi để phúc đáp được đâu! Ước chừng giữa tháng Năm tôi sẽ trở về núi, vì trong tháng Ba năm ngoái, vị Trụ Trì đã thoái ẩn của ngôi chùa tôi ở đã giao cho tôi giám đính Phổ Đà Sơn Chí (do một Nho sĩ tu chỉnh), đã cả năm rồi nhưng vẫn chưa rảnh rỗi để xem đến. Khi về núi, phải lo chuyện này trước để sách được lưu thông (ngày Mười Bốn tháng Ba)
488. Thư trả lời cư sĩ Bàng Khế Thành
Toa thuốc cai á phiện gởi kèm theo thư
cực hay. Trong hai bản khắc gỗ và đúc kẽm bộ An Sĩ Toàn Thư và Văn Sao, Quang đều
có đính kèm [toa thuốc này]. Lại còn gởi khắp cho những bạn bè quen biết các
nơi, mong [toa thuốc ấy] được lưu truyền. Y theo toa thuốc ấy mà cai nghiện,
trong mười người có đến tám chín người khỏi nghiện. Những kẻ không cai nghiện
được quá nửa là do thân thể người ấy trước đó đã sẵn bệnh, hễ cai hút liền đổ
ra bệnh khác. Đây chẳng phải là thuốc không linh nghiệm mà là do [cơ thể] người
ấy thiếu căn bản (tức không đủ mạnh để có sức chịu đựng những vật vã khi cai
nghiện – chú thích của người dịch). Ấy là tánh chất đặc biệt, chứ không phải là
điều phổ cập tổng quát. Sợ có một hai kẻ thấy toa thuốc không linh nghiệm bèn
nói toa thuốc ấy chẳng hay, nên tôi giãi bày nguyên do. Ôi! Người nước ta mê muội
đến thế, coi chất Trầm độc[11]
là bổ dưỡng, nào biết nó đã khiến cho nhà tan nước nghèo, nhân dân suy đồi, tàn
phế! Chao ôi, buồn thay!
489. Thư trả lời cư sĩ Bách Linh
Học đường hiện thời đúng là hầm bẫy
người. Chẳng hãm trong tà thuyết thì cũng hãm trong tự do luyến ái, mặc tình ăn
chơi bừa bãi. Phải biết rằng con người chỉ là một động vật cao bốn năm thước mà
cùng với trời đất xưng thành Tam Tài thì cái danh xưng Con Người tôn quý không
chi bằng. Danh đã tôn quý, ắt phải có thực chất tôn quý thì mới đáng gọi là Người.
Nếu không, sẽ thành “cầm thú đội mũ, mặc áo”, do không có hơi hướng của con người!
“Tài” là khả năng. Trời có khả năng sanh ra vật, đất có khả năng chở vật, con
người có khả năng kế thừa bậc thánh đời trước, mở mang lối học cho người đời
sau, giúp cho những chỗ trời đất chẳng thể sanh thành, trưởng dưỡng! Vì thế, mới
cùng với trời đất xưng là Tam Tài. Nếu chỉ biết ăn uống, trai gái, chẳng biết
hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ thì so ra còn xấu hèn hơn cầm thú.
Người như thế chỉ mang xuông cái thân người suốt cả một đời, trọn chẳng có một
điểm nào mang hơi hướng con người! Khi một hơi thở ra không hít vào được nữa, sẽ
đọa địa ngục trải trăm ngàn kiếp trọn chẳng có thuở thoát ra. Muốn làm cầm thú
còn chưa thể được; huống là lại được làm thân người ư?
Thuở ban đầu
ông không biết nghĩa này, nghe bạn xấu xúi giục bèn ăn chơi bừa bãi, đến khi bị
mắc bệnh phong tình đau đớn không chịu đựng nổi. Lành bệnh rồi lại ăn chơi, lại
đổ bệnh, lại phạm, cũng là kẻ chẳng biết tốt - xấu quá mức, quá thiếu chí hướng,
khí tiết! Cần biết rằng đàn ông ăn chơi bừa bãi và nữ giới lén lút tằng tịu với
người khác trọn chẳng hơn kém nhau! Người đời thường coi chuyện nữ giới lén lút
tằng tịu với người khác là hèn hạ, chẳng chê trách nam giới ăn chơi bừa bãi. Đấy
đều là chẳng biết đến ý nghĩa tên gọi Con Người, cho nên mới có tri kiến kém
hèn như thế. May là ông đã nhiều lần chịu khổ, mới biết quay đầu, cũng là do
thiện căn trong đời trước xui khiến. Nhưng Quang vẫn phải nói rõ nguyên do, vì
sợ ông chưa chết hẳn cái tâm ấy, chắc sau này sẽ lại giẫm theo vết xe đổ ấy!
Vì thế, muốn
làm cho ông biết danh hiệu Con Người tôn quý, chẳng đến nỗi tự ruồng rẫy, tự vứt
bỏ! Và còn dùng những điều này để khuyên nhủ hết thảy thanh niên nam nữ cùng
vâng giữ danh xưng Con Người tôn quý, thực hành điều lành thế gian là “giữ vẹn
luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều
ác, vâng giữ các điều lành”. Lại còn phát Bồ Đề tâm, làm lợi khắp ta lẫn người,
đều cùng sanh lòng tin, phát nguyện, niệm thánh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương
để tu điều lành xuất thế. Như vậy sẽ đáng gọi là Con Người, tuy chưa thể kế thừa
bậc thánh đời trước, mở mang lối học cho người đời sau, giúp đỡ quyền sanh
thành trưởng dưỡng của trời đất giống như bậc thánh hiền thời cổ, nhưng đã có
chút phần công đức “kế thừa, mở mang, giúp đỡ” thì cái danh xưng Con Người mới
có thực tế, chẳng thành nói xuông!
Nay đặt cho ông pháp danh là Tông Thành. Tông là chủ, là gốc. Nghĩa là dùng lòng chí thành chân thật để tự hành, dạy người, chẳng để một mảy may ý niệm hư giả và xấu hèn [nẩy sanh] đến nỗi cô phụ một chữ Người vậy! Ngũ Giới hãy nên tự trì trước. Đã có thể trì thật sự lâu ngày rồi mới thọ, sẽ chẳng khó khăn gì! Nếu tâm vẫn còn do dự sẽ gọi là “trò đùa trẻ nít!” Chẳng những ông tự mắc tội lỗi mà Quang cũng cùng phạm tội lỗi (ngày mồng Tám tháng Sáu)
490. Thư trả lời cư sĩ Huệ Tài
Nhiều lần mơ thấy giấc mộng tốt đẹp, ấy
chính là do nhân trong đời trước lẫn lòng khẩn thiết trong đời này cảm vời. Đại
tự viện [trong giấc mộng] chính là pháp hội Hoa Nghiêm, nhưng do chưa phá Phiền
Hoặc, chỉ thấy được tướng tầm thường, chẳng thấy được tướng thù thắng, nhưng thấy
được cảnh giới ấy cũng chẳng dễ dàng gì! Đối với chuyện [ông nằm mộng thấy] vị trưởng
giả đưa nước cho uống, ấy chính là Văn Thù Bồ Tát đem cam lộ ban cho ông. Hãy
nên thường gắng sức để khỏi phụ một phen ân đức gia bị.
Ấy là vì
phàm phu sát đất phần nhiều bị cảnh chuyển. Vì thế nên Tăng Tử khi sắp mất, mới
nói: “Kinh Thi có câu: ‘Dè dặt kinh sợ
như vào vực sâu, đi trên băng mỏng’, từ nay trở đi, ta biết thoát khỏi”. Chưa
đến lúc lâm chung, vẫn sợ có khi bị vây hãm, chìm đắm, chẳng dám nói lời lớn lối
ấy. Những kẻ thích ăn nói lớn lối hiện thời đều là những gã cuồng trọn chẳng dụng
công nơi những điều họ có thể thực hiện được! Lệnh hữu thiệt căn (lưỡi) không
nhanh nhạy chính là vì túc nghiệp. Niệm kinh Pháp Hoa cố nhiên là tốt, nhưng niệm
Phật, niệm Quán Âm cũng có thể tiêu nghiệp, tăng huệ được; chớ nên cố chấp, cho
là “chỉ có niệm kinh Pháp Hoa mới được như thế”. Nếu thật sự chí thành niệm Phật
còn có thể siêu phàm nhập thánh, nào phải chỉ khiến cho thiệt căn được lanh lợi
mà thôi ư? (ngày Hai Mươi Lăm tháng Giêng năm Đinh Sửu - 1937)
491. Thư trả lời cư sĩ Huệ Hoa
Mấy hôm
trước nhận được thư ông, khôn ngăn khiến người khác đau lòng! Thiên tai, nhân họa
liên tục giáng xuống các tỉnh nước ta, dân không lẽ sống, thật đáng đau đớn thở
than. Truy tìm nguyên nhân thì cái nhân xa là do Trình - Châu đả phá nhân quả
luân hồi, cái nhân gần là do nhà cầm quyền đương thời vứt bỏ pháp tắc của bậc
thánh nhân thời cổ, noi theo đường lối của người Tây Phương, đến nỗi cả nước
như cuồng, lòng người ngày càng bại hoại, thiên tai thường giáng xuống. Nhà ông
ở gần bờ sông, chẳng những nhà cửa đã không còn, chỉ sợ ruộng nương cũng tan
nát. Suy tính đến kế sách cho tương lai, hãy nên đưa mẹ già và gia quyến dọn đến
sống nơi tỉnh thành, có tiền lương của ông thì cũng còn duy trì được. Nếu lòng
mơ tưởng xa xỉ quá mức, muốn khôi phục lại nhà cửa, ruộng đất như xưa, sợ không
có sức làm như vậy được đâu!
Nếu cứ cưỡng
làm, chắc sẽ không thể nào chẳng noi theo hành vi của người hiện thời, tức là vẫn
hiềm tai ương còn bé nhỏ, càng tạo cái nhân cho tai họa lớn lao hơn, đấy chính
là cách suy nghĩ tính toán của kẻ si vậy! Nếu có thể toàn thân buông xuống, chỉ
quan tâm đến tình trạng hiện thời, quyết chẳng dám lại tạo cái nhân tai họa nữa
thì mai sau sẽ hưởng tình cảnh tốt đẹp không mong đợi! Quân tử hành xử theo
đúng địa vị (chính là lúc hiện tại vậy).
Đấy chính là cách tốt lành “gặp cảnh hoạn
nạn bèn hành xử theo cảnh hoạn nạn”. Còn chuyện lập cách để cứu giúp thì
Quang đâu có sức lực lớn lao ấy. Năm nay tôi đã tiêu lặt vặt vào chuyện cứu tế
tai nạn và công ích hơn một ngàn đồng. Với những khoản tiền do người khác quyên
tặng để in sách, tôi đã bảo họ đem cứu tế tai nạn tại Thiểm Tây tới hơn hai
ngàn đồng. Huống chi Quang một mực chẳng chịu hướng về người khác quyên mộ, chẳng
qua họ đã phát tâm, liền bảo họ chuyển [khoản tiền ấy] sang [làm chuyện khác]
mà thôi!
Điều đáng
nên dốc sức là phải cực lực đề xướng nề nếp đạo đức cũ, nhân quả, báo ứng. Trước
mắt [tôi cho] ấn hành cuốn Bát Đức Tu Tri, đợi khi sách được in ra sẽ gởi cho
ông mấy gói để làm căn cứ đề xướng. Hiện thời Quang bận bịu cùng cực, hết thảy
chuyện thù tiếp đều tạ tuyệt. Do kể từ mùa Xuân năm ngoái phải tu chỉnh ba bộ
Sơn Chí Thanh Lương, Nga Mi, Cửu Hoa, thỉnh ông Hứa Chỉ Tịnh soạn những ý
chánh, còn chuyện sửa chữa, sắp đặt đều giao về cho Quang. Gần hết một năm rồi
mà chưa xong được bộ nào cả! Nay Thanh Lương Chí đã cho sắp chữ, nếu không cự
tuyệt hết thảy thì thật khó thể nào như pháp được. Ước chừng năm sau vào thời
điểm này chắc sẽ đều xong xuôi hết. Nếu có bộ nào được in ra, cũng sẽ gởi cho
ông. Xin đừng gởi thư tới, dẫu nhận được sách cũng chỉ ghi giản lược là “đã nhận
được” mà thôi!
492. Thư trả lời cư sĩ Trần Bá Đạt (thư thứ nhất)
Nhận được thư, biết lệnh nghiêm[12]
gặp rất nhiều chuyện linh cảm, khôn ngăn khâm phục, an ủi. Nếu ước theo lúc nhận
lãnh pháp thì Đại Sĩ và thiên long bát bộ đều hiện, nhưng chắc là do có giới cấm
của Mật Tông không cho phép tuyên truyền cảnh giới nhiệm mầu [cho nên cụ không
nói ra]. Đấy có phải là vì Bồ Tát thuận lòng người chuyên phụng thờ Cơ Đốc
(Christ) mà thị hiện đó chăng? Nếu ước theo nghĩa này để phán định thì cụ nhất
định có sở chứng. Nếu cụ không có sở chứng, chắc chắn bậc thánh chẳng khinh suất
ứng hiện xuông được! Nếu nói để khơi gợi lòng tin mà thấy Ứng Thân thì đấy
chính là tướng trạng khi người niệm Phật lâm chung, do chưa phá vô minh nên thân
[của Phật, Bồ Tát, thánh chúng] được thấy đều là Ứng Thân, bởi lẽ, do thiện căn
của người ấy chưa thể thấy được Pháp Thân và Báo Thân. Đối với cảnh tượng được
thấy nơi động Phạm Âm ở Phổ Đà, ấy chính là Bồ Tát thuận theo lòng chúng sanh để
tăng trưởng tín tâm cho họ. Ai nấy đều được thấy, nên chẳng thể lấy đó để làm lệ
được! Nếu lấy đó làm lệ, sẽ khiến cho hết thảy mọi người đều dựa vào đấy để bịa
đặt rêu rao.
Người thời
cổ thấy được đức Văn Thù ở Ngũ Đài khá nhiều, nhưng [mỗi vị ấy] đều có đại nhân
duyên hoặc có công phu sâu xa. Ai thấy được Ngài bèn ngộ giải, chứng nhập. Năm
Quang Tự mười hai (1886), Quang triều bái Ngũ Đà. Trước [khi lên núi] đã tìm
nát cả con đường Lưu Ly Xưởng ở Bắc Kinh nhưng chỉ kiếm được một bộ Thanh Lương
Sơn Chí, hằng ngày thường đọc. Do trời lạnh nên đến đầu tháng Ba mới tới được
núi, ở lại núi hơn bốn mươi ngày, thấy người đến núi triều bái phần nhiều bảo
đã thấy được Văn Thù Bồ Tát, nhưng rất ít người chân thật hành trì, nên biết rằng
những kẻ đến núi bảo “thấy được Bồ Tát” đều là nói hùa theo sự tích của cổ nhân
để khoe khoang. Nếu thật sự thấy thì người ấy ắt phải vàng - thau khác hẳn với
những kẻ thuận giòng vỗ sóng. Nếu không, đức Văn Thù chẳng tự trọng, khinh thị
hiện thân để làm gì cơ chứ? [Từ ngữ] “Lý Tức Phật”[13]
để chỉ hết thảy chúng sanh, chứ không phải chỉ nói về kẻ trái trần hiệp giác. Nếu
trái trần hiệp giác thì đã thuộc về Danh Tự [Tức Phật].
Ông X… lúc
nhập định giống như đức Tỳ Lô Giá Na, xuất định vẫn là phàm phu mà còn chẳng biết
hổ thẹn, ăn nói lớn lối gạt người! Nếu thật sự giống như đức Tỳ Lô Giá Na, chắc
chắn chẳng đến nỗi vẫn là phàm phu! Ông ta vốn muốn dùng Mật Tông để ép người,
chẳng biết Quang tuy chẳng biết Mật Tông, há chẳng biết đúng - sai, ông ta liền
có thể lung lạc Quang hay sao? Cha ông cả đời gặp chuyện linh cảm quá nhiều, dẫu
người ở ngoài ngàn dặm hay trăm dặm nghe thấy cũng sẽ phát sanh lòng tin. Huống
chi lúc mẹ ông mất, hiện tướng lành đài vàng, lại còn trở lại báo tin cho anh
em ông và các nàng dâu biết ư? Nếu chẳng sanh lòng tin,
[các ông] cũng đáng gọi là “hạng cứng cổ đến cùng cực!” Cha mẹ ông lúc
còn sống hay sau khi đã mất đều có dấu tích siêu phàm nhập thánh, nhưng ông chẳng
sanh lòng cảm kích nơi lợi ích lớn lao ấy mà vẫn cứ lo so đo gia đạo giàu - nghèo,
bảo là “thờ Chúa thì giàu, thờ Phật thì nghèo!” Do vậy chẳng sanh khởi tín tâm.
Chuyện này trọn chẳng khác gì kẻ trông thấy bảo châu Ma Ni có thể thuận theo lòng
người mà tuôn ra các món báu, nhưng vẫn khinh rẻ bảo châu, quý trọng mắt cá,
coi như của báu tột cùng! Mất trí điên cuồng cùng cực đến mức ấy, đến nỗi mẹ
ông lại phải nhọc công hiện thân mới hơi ngớt lời gièm báng! Thật đúng là “phụ hữu trường thiệt, duy lệ chi giai” (tạm
dịch: Mụ vợ lưỡi dài, cội nguồn mối họa[14]), cô phụ ân Phật, cô phụ ân mẹ!
Nghịch cảnh, tình huống khổ sở tuy xấu xa, nhưng muốn thành tựu đạo nghiệp thì vẫn phải nhờ vào đấy để nhắc nhở. Nếu không, hằng ngày sẽ rong ruổi trong chốn thanh, sắc, vật chất, lợi lộc, rảnh đâu để đoái hoài “chính ta sẵn có Phật tánh” để hòng miệt mài muốn được đích thân chứng nhập ngõ hầu được thọ dụng. Chúng sanh sống chết không ngơi đều vì có Ngã. Nếu vô ngã thì tham - sân - si, giết - trộm - dâm sẽ do đâu sanh khởi? Do lầm nhận cái Ngã do Tứ Đại giả hợp này nên Chân Ngã trọn đủ bốn tịnh đức “Thường - Lạc - Ngã - Tịnh” hoàn toàn bị mai một! Do vậy, thế đạo, nhân tâm ngày một đi xuống, giết người đầy đồng ngập thành chẳng sanh xót thương, đều là vì Ngã gây ra. Quang vốn là kẻ lòng dạ thẳng băng, chẳng thể không nói thật tình với ông (ngày Hai Mươi Sáu tháng Mười năm Ất Sửu - 1925)
493. Thư trả lời cư sĩ Trần Bá Đạt (thư thứ hai)
Ông nói: “Để tự lợi thì phải xuất gia,
còn làm lợi người khác thì đừng xuất gia!” Chẳng biết: Tu Giới - Định - Huệ chỉ
có xuất gia là dễ dàng; chứ nếu tu pháp môn Tịnh Độ thì tại gia càng dễ đắc lực
hơn. Nếu cho rằng tại gia quyết khó thể tu hành, thì xuất gia cũng chẳng thể tu
hành được! Vì sao vậy? Do khi còn tại gia chẳng dốc sức thì khi xuất gia làm
sao sốt sắng cho được? Đây là tình thế “quyết chẳng thể thực hiện” có thể dự
đoán được! Nhà ông có vợ con, [nếu ông xuất gia] họ sẽ không nơi nương tựa, há
nên khởi ra vọng tưởng ấy? Đấy chính là tình kiến chần chừ, so đo vậy! Nếu ông
thật sự xuất gia thì vẫn là kẻ lười trễ, biếng nhác, chẳng có thành tựu gì!
Quang đã thấy nhiều lắm rồi!
Đối với
chuyện thọ giới, “không làm các điều ác,
vâng làm các điều thiện” chính là Giới tổng quát của ba đời chư Phật, ai chẳng
chấp nhận cho ông tự phát tâm thọ? Ngay cả Ngũ Giới, ai không cho phép ông đối
trước đức Phật tự thệ thọ giới? Cần gì phải đến Phổ Đà mới thọ được ư? Ngàn vạn
phần đừng tới Phổ Đà. Do tới đây phải tốn chừng đó tiền tàu xe, mất chừng đó
ngày, chẳng qua [vị thầy truyền giới] chỉ truyền danh tướng của Ngũ Giới mà
thôi! Nếu cứ muốn phải thọ từ thầy thì ở Thường Thục cũng có Tăng nhân thanh
tu, há [vị ấy] chẳng thể truyền giới được mà cứ muốn phải thọ từ Quang mới được
ư? Người học Phật trước hết phải biết thực hiện cẩn thận, dè dặt nơi nhân quả.
Đã có thể thận trọng, dè dặt thì tà niệm tự trong lặng, đâu đến nỗi có những
chuyện chẳng đúng pháp! Nếu có, hãy nên dốc sức đoạn diệt thì mới là chân thật
tu hành. Nếu không, học một đằng, hành một nẻo, tri kiến càng cao, hành vi càng
tệ. Đấy chính là vết thương thấu xương của những kẻ học Phật tự xưng là thông
gia hiện thời! Nếu chẳng vướng vào hai khuyết điểm ấy thì học một phần sẽ được một
phần lợi ích thật sự.
Cõi đời hiện thời chính là đời hoạn nạn. Trước kia, Quang thỉnh ông Hứa Chỉ Tịnh soạn cuốn Quán Âm Bổn Tích Cảm Ứng Tụng đã cho sắp chữ. Nay gởi cho ông một trang thuyết minh [cách đứng ra chịu trách nhiệm in]. Có ai muốn lợi người thì chẳng ngại gì bảo họ đứng ra chịu trách nhiệm ấn hành để lưu truyền. Hiện thời đã có người chịu trách nhiệm đến năm sáu vạn bộ. Quang tính in mấy chục vạn cuốn để lưu truyền khắp trong ngoài nước. Sợ chẳng dễ gì đạt đến như vậy. Trên mười vạn bộ chắc sẽ làm được! (mồng Bảy tháng Mười Một năm Ất Sửu - 1925)
494. Thư trả lời cư sĩ Châu Văn San (thư thứ nhất)
Chúng sanh
đời Mạt muốn liễu sanh thoát tử ngay trong đời này mà nếu chẳng niệm Phật cầu
sanh Tây Phương, chắc chắn sẽ chẳng thể đạt được! Vì sao vậy? Do không có sức để
đoạn Hoặc. Do niệm Phật cầu sanh Tây Phương là cậy vào Phật từ lực nên kẻ chưa
đoạn Hoặc cũng có thể vãng sanh. Đã vãng sanh rồi thì ba thứ Hoặc - Nghiệp - Khổ
đều cùng tiêu diệt. Ví như mảnh tuyết rớt vào lò luyện lớn, chưa đến nơi đã tan
mất. Do Tây Phương là cảnh giới của Phật, Bồ Tát, nên phàm phu hễ [sanh] đến đó,
phàm những gì chẳng mong đoạn đều tự đoạn. Nếu ông muốn liễu sanh tử hãy nên thỉnh
Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao (có bán ở Phật Học Thư Cục tại Thượng Hải) đọc kỹ sẽ tự nhiên hiểu rõ ràng. Quang già rồi, mục lực
lẫn tinh thần đều chẳng đủ, từ nay đừng gởi thư đến nữa, gởi đến cũng không trả
lời. Do Văn Sao là một bộ sách khai thị, cần gì phải có một lá thư [để khai thị]
nữa? Hơn nữa, Quang sẽ chết trong sáng tối, chẳng thể thù tiếp được ư? (ngày
Mười Hai tháng Tám)
495. Thư trả lời cư sĩ Châu Văn San (thư thứ hai)
Thư gởi hôm Mười Bốn đã nhận được, do
bận việc chẳng thể trả lời ngay. Năm đồng sẽ dùng làm tiền in Văn Sao Tục Biên.
Quang vốn chẳng muốn in nữa, cho nên từ năm Dân Quốc 15 (1926) [sau khi] Trung
Hoa Thư Cục ấn hành bản Tăng Quảng Văn Sao hoàn chỉnh, tất cả văn tự thù tiếp đều
nhất loạt chẳng giữ lại bản thảo. Nhưng Đương Gia chùa Báo Quốc là thầy Minh Đạo
sai người lén sao chép. Năm Dân Quốc 24 (1935), thầy ấy mất, những bản thảo sao
chép được giao cho Đương Gia chùa Linh Nham [là thầy Diệu Chân]. Thầy ấy lại
sưu tập những lá thư từ các tờ bán nguyệt san v.v…, Quang chỉ đành thuận theo ý
thầy ấy; hiện thời đã cử người sao lại theo lối Chân Thư[15]
để khỏi bị sai ngoa khi sắp chữ.
Ông quyết
định muốn cầu sanh Tây Phương, hãy nên thỉnh Ấn Quang Pháp Sư Tăng Quảng Văn
Sao và Gia Ngôn Lục từ Phật Học Thư Cục tại ngay nơi mình ở. Nếu có lúc rảnh rỗi
thì thỉnh Tịnh Độ Thập Yếu, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục (hai loại sách này đều
do Quang đứng ra ấn hành), Tịnh Độ Ngũ Kinh (thuộc
loại kinh sách để đọc tụng, cũng do Quang ấn hành)
để xem thì những điểm chánh yếu của pháp môn Tịnh Độ sẽ đều biết rõ. Đã muốn
sanh về Tây Phương, ắt phải ba nghiệp thanh tịnh, hãy nên kiêng giết, ăn chay,
cũng khuyên cha mẹ, anh em trai, chị em gái, vợ con đều cùng ăn chay niệm Phật
cầu sanh Tây Phương. Sanh về Tây Phương sẽ siêu phàm nhập thánh, liễu sanh
thoát tử, sao nỡ để bậc sanh ra ta và những người “đồng khí liên chi”[16]
với ta chẳng được hưởng lợi ích thù thắng này? Đối với người chung quanh, người
trong cõi đời còn phải nên khuyên họ tu trì, huống là cha mẹ quyến thuộc của
chính mình ư?
Cần biết rằng: Niệm Phật cầu sanh Tây Phương chính là pháp môn đặc biệt trong nhà Phật. Đa số kẻ tham Thiền giảng kinh chẳng đề xướng pháp này, hãy nên lập chí quyết định, bất luận họ nói như thế nào, ông trọn chẳng nghe theo lời họ rồi tu pháp khác! Vì sao vậy? Do Niệm Phật là cậy vào Phật lực để liễu sanh tử. Có lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, chí thành khẩn thiết niệm thì ai nấy đều giải quyết xong xuôi [sanh tử]. Những pháp môn khác đều phải đoạn sạch phiền não (tức Kiến Hoặc và Tư Hoặc trong tam giới) rồi mới có thể liễu được! Sự khó - dễ [giữa pháp môn này và các pháp môn khác] giống như sự cách biệt giữa trời và vực vậy (ngày Mười Bảy tháng Tám).
496. Thư trả lời cư sĩ Mã Tông Đạo (thư thứ nhất)
Nhận được thư, biết niệm mỗi ngày một
thuần, khôn ngăn vui mừng, an ủi. Năm nay loạn lạc quả là từ ngàn xưa chưa hề
nghe nói tới! Đấy đều là vì ác nghiệp của chúng ta từ trong những kiếp xa xưa cảm
vời, nên tuy chưa thật sự chịu khổ mà sự kinh hoảng, thê thảm đã chẳng thể nào diễn
tả được! Các hạ đã biết nóng giận có hại, sao trong lúc nổi nóng chẳng nghĩ
mình đã chết? Chết rồi thì mặc cho ai làm gì thì làm, trọn chẳng tranh chấp với
họ! Nếu luôn nghĩ sẽ chết thì đạo niệm sẽ tự thiết tha, tình niệm sẽ tự dứt.
Người đời
nay thích lập ra chương trình mới, những kẻ phế bỏ luân thường, vứt bỏ lòng thẹn
v.v… còn công khai đề xướng, muốn thúc đẩy tiến hành trên khắp toàn quốc. Chúng
ta tuân theo giáo giới của đức Phật, kiêng giết, ăn chay, há còn sợ những người
cùng một tôn giáo dị nghị? “Gặp chuyện
nhân chẳng nhường, thấy chuyện nghĩa liền dũng mãnh làm”, vẫn mong lấy thân
làm gương để dẫn dắt những kẻ câu nệ nơi giáo vào được pháp môn Đại Thừa ngõ hầu
chẳng phụ ân Phật, chẳng phụ tánh linh của chính mình thì mới là đạo cứu thế.
Người cao tuổi cố nhiên nên nhất tâm
niệm Phật; đọc kinh luận Đại Thừa chẳng qua là để hiểu rõ Lý Tánh, gieo thiện
căn mà thôi! Nếu đã muốn liễu thoát ngay trong đời này, xin hãy như đã đến lúc
lâm chung, như đọa trong nước lửa lớn mong được cứu vớt mà niệm Phật, ắt sẽ có
thể cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Nếu không, sẽ khó giữ vững được!
Xin hãy đọc kỹ Văn Sao sẽ tự biết.
Người đời thường câu nệ vào giới hạn
giữa các giáo đến nỗi suốt đời chẳng nghe đại pháp, mà vẫn tự cho là có công
tuân thủ bổn giáo (giáo pháp của chính mình [đang tu học]). Nếu [vị nào] thật sự
là thánh hiền của bổn giáo mà chỉ cho phép người khác nương theo [những lý lẽ
trong] bổn giáo để luận giáo, còn những lý thuộc các giáo khác dẫu có hay hơn bổn
giáo cũng chẳng chấp nhận đưa vào; nếu có đưa vào đi nữa thì cũng không tán
thành. Nếu vậy thì thật sự chẳng khác gì tri kiến của lũ trẻ nhỏ ở ngoài chợ
búa, há còn đáng gọi là thánh hiền nữa ư? Do vậy, biết rằng: Tự ràng buộc mình
bởi giáo điều đều là trái nghịch tâm của các vị thánh hiền trong bổn giáo.
Ông vốn là
Hồi giáo, tín phụng Phật pháp, quy y Tam Bảo, đáng gọi là “bậc hào kiệt”. Nhưng
phải gắng sức giữ vẹn luân thường, nghiêm túc trọn hết bổn phận của chính mình,
đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây
Phương. Dùng những điều này để tự hành, lại còn dùng đấy để dạy người, chắc chắn
sẽ tự có thể thoát khỏi đời ác Ngũ Trược này, sanh sang cõi sen thanh tịnh kia,
chẳng đến nỗi trên phụ ân Phật, dưới phụ tánh linh của chính mình. Nay đặt pháp
danh cho ông là Tông Đạo, vợ ông là Tông Đức, Văn Khánh có pháp danh là Huệ Sướng,
Văn Dũ có pháp danh là Huệ Phong, Văn Trí có pháp danh là Huệ Thuần, Văn Hinh
pháp danh là Huệ Phức để bọn họ đều cùng ăn chay niệm Phật. Nếu chẳng thể ăn
chay thuần thì đừng mặc sức ăn [mặn]. Một là gìn giữ tâm Từ, hai là bảo vệ thân
thể. Tôn giáo của ông ăn thịt trâu bò, hãy nên kiêng tránh, bởi trâu bò có công
đối với con người, ăn vào sẽ càng thêm tội lỗi.
Người Hồ
Nam ăn cơm [có thói quen] không ăn hết, phong tục ấy thật tệ. Đối với người
dân, thức ăn trọng như trời, sao dám phung phí? Hãy nên nói với con cái và tôi
tớ về nguyên do này, dẫu một hạt hay nửa hạt cũng không nên phí! Nếu con người
quăng vứt ngũ cốc, chắc chắn đời sau sẽ không có cơm ăn, cũng có kẻ bị quả báo
chết đói ngay trong đời này! Nếu con người giẫm đạp giấy viết chữ, chắc chắn đời
sau sẽ không mắt, ngu si, vô tri.
Hãy nên dạy
con cái v.v… cùng đọc Âm Chất Văn, Cảm Ứng Thiên, giảng nói cho bọn họ hiểu để
họ biết tới đạo làm người và lý nhân quả ba đời, tương lai sẽ chẳng đến nỗi
thành phường bạo ác. Kẻ giết cha, giết mẹ, phế luân thường, vứt bỏ lòng thẹn đều
do từ lúc ban đầu đã chẳng biết đạo làm người và nhân quả báo ứng. Vừa được nghe
tà thuyết bèn cực lực nương theo để thỏa cái tâm phóng túng không kiêng dè,
đáng buồn thay! Nay gởi cho ông Di Đà Kinh Bạch Thoại, Tâm Kinh Chú, Học Phật
Thiển Thuyết, Cảm Ứng Thiên Vựng Biên, gộp chung thành một gói để ông lấy đó làm
căn cứ giáo huấn lũ con về đạo lập thân tu đức.
Ông chưa hết lòng đọc kỹ Văn Sao. Nếu
có đọc cũng chỉ hời hợt lướt mắt qua mà thôi!
1) Ông nói “thoạt đầu, từ Thập Niệm mà
tiến hành”, chẳng biết pháp Thập Niệm vì người cực bận rộn mà lập ra. Do họ suốt
ngày không được rảnh rang, chỉ có thể niệm mười hơi vào buổi sáng. Nếu là người
có thời gian và sức lực, há phải chỉ có mười niệm là xong ư? Nếu trước hết niệm
mười niệm, rồi dựa theo thân phận của chính mình mà lập ra công khóa để thực hiện
thì được. Nếu chỉ mười niệm rồi thôi, sẽ không được! Huống chi đang trong tình
thế hoạn nạn này, nguy cơ họa hại mai phục bốn phía. Nếu chẳng chuyên dốc chí
niệm Phật và niệm Quán Âm, lỡ một mai họa hoạn xảy tới, còn có cách nào để được
yên vui nữa đây? Huống chi gia đình ông còn mang tiếng là “có của ăn, của để”,
tuy hiện thời đã kém trước kia, nhưng những kẻ si dại thường muốn đoạt lấy. Ông
không biết pháp môn Tịnh Độ thì thôi! Đã biết rồi há nên tu trì hờ hững? Nếu
nói “duyên thế gian khó thể vô ngại” thì chỉ nên “hễ có chuyện bèn giảm lần”.
Lúc vô sự, sao không chuẩn bị sẵn cho lúc hữu sự để khỏi mắc lỗi gián đoạn chẳng
tu tập vậy?
2) Xét theo lý, nên ăn chay thuần; dẫu
gặp tình thế khó thể ăn chay ngay, cũng nên bớt ăn [mặn]. Dẫu ăn thì cũng nên
giữ tấm lòng thương xót, độ thoát, chứ không phải là “người ăn mặn chẳng được
niệm Phật!”
3) Niệm Phật há có chương trình nhất định!
Chỉ nên chọn sao cho thích nghi. Lúc sáng suốt, tỉnh táo thì niệm theo lối Kim
Cang trì hoặc niệm thầm. Lúc hôn trầm thì niệm nhỏ tiếng hoặc niệm lớn tiếng.
4) Lễ Phật một lạy diệt tội hà sa. Hãy
nên lượng theo khả năng của chính mình, đừng chỉ mong sao an nhàn, thảnh thơi.
5) Lễ Phật chỉ cốt sao chí thành, cung
kính; cố nhiên chẳng phải chấp chặt theo hình thức lễ nghi thế gian hay xuất thế
gian.
6) Nên lấy kinh Di Đà làm công khóa
sáng tối. Nếu có thời gian rảnh rang, lúc sáng sớm rửa ráy, súc miệng xong xuôi,
trước hết dùng pháp Thập Niệm. Kế đó lại lễ Phật ba lạy, niệm kinh Di Đà một biến,
Vãng Sanh Chú ba biến, niệm Kệ Tán Phật, niệm Phật năm trăm câu hoặc một ngàn
câu rồi niệm Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng mỗi danh hiệu ba câu.
Tiếp đó niệm Hồi Hướng Văn, Tam Quy Y. Hãy chiếu theo cách tu hành được nêu ra trong
Văn Sao hoặc trong phần phụ lục ở cuối cuốn Di Đà Kinh Bạch Thoại Chú. Những
kinh khác như Kim Cang Kinh v.v… hãy nên tụng vào một thời khác tùy theo khả
năng của chính mình.
7) Phật hiệu lẫn kinh Di Đà đều không
có chữ nào cần đọc theo âm khác. Chữ “phạn
thực” (飯食) đọc thành “phản tự” (反寺) là âm đọc thế
gian, Tứ Thư, Ngũ Kinh đều đọc như thế. Do người ta thường vô ý nên tưởng là
cách đọc đặc biệt. Ông hãy thử tra trong tự điển; nhưng chữ Phạn Thực đọc theo
âm gốc của nó cũng được. Đọc theo âm gốc thì Phạn (飯)
chính là cơm, Thực (食) là ăn, đọc theo âm đặc biệt thì Phản (飯) chính
là ăn, Tự (食) chính là cơm[17],
cho nên hai nghĩa này đều thông với nhau. Chỉ có trong Phật hiệu thì hai chữ
Nam Mô (南無) phải đọc là Nạp Mạc (納莫)[18].
Cuối sách Bạch Thoại Chú đã giải thích tường tận
ý nghĩa này, chớ nên đọc theo âm gốc của nó.
8) Niệm Phật hãy nên dựa theo phòng ốc
của chính mình để cân nhắc khoảng không gian rộng hay hẹp. Nếu có thể đi nhiễu
được (đi vòng quanh) thì trước hết nên đi
nhiễu, hoặc đi nhiễu ngoài phòng cũng được. Khi nhiễu cũng nên hít thở thong thả,
điều hòa (nhiễu Phật nhằm thể hiện sự tùy thuận ý Phật), chẳng phải chỉ nhằm biểu thị đi theo chiều thuận mà
thôi. Hãy nên giữ sao cho sự tu trì của chính mình được thành kính, còn quỳ, đứng,
ngồi, đi nhiễu [để niệm Phật đều được] miễn sao thuận tiện. Nếu muốn như pháp
thì khi tụng kinh Di Đà nên quỳ, đứng tụng cũng được. Đến khi niệm Phật thì trước
hết đi nhiễu, nhiễu niệm được một nửa số [câu hạn định] bèn ngồi niệm. Lúc ngồi
niệm sắp xong, bèn quỳ niệm [Phật] mười tiếng, lại niệm Quán Âm, Thế Chí, Thanh
Tịnh Đại Hải Chúng mỗi danh hiệu mười tiếng, hoặc mỗi danh hiệu ba tiếng, cốt
sao thân tâm thư thái, chẳng quá sức buông lung, hơi thở thông suốt, thân thể thoải
mái, sẽ có ích không bị tổn hại!
Ông cho biết
hãy còn mẹ, cố nhiên hãy nên đem lý này kính khuyên mẹ khiến cụ sanh lòng tin
niệm Phật để mong cụ thoát khỏi biển sanh tử; há nên nói là “[làm như vậy] quá
xấc xược?” Lòng cha mẹ yêu con không đâu chẳng thấu tới. Nếu cụ biết là hữu
ích, há lẽ nào chẳng chịu tán thành, chấp nhận ư? Nếu cụ chẳng biết đến ích lợi
này thì càng phải dùng nhiều cách khơi gợi, hướng dẫn để đấng sanh ra ta được hưởng
lợi ích thật sự nơi Phật pháp. Đấy gọi là Hiếu. Nếu bà cụ cố chấp ý kiến của
chính mình, chẳng chịu sanh lòng tin, hãy nên sám hối tội nghiệp thay cho cụ. “Lòng thành đến tột bậc, vàng đá cũng phải nứt”;
huống chi mẹ con vốn sẵn mối liên quan thiên tánh. Nếu ông thật sự chân thành
sám hối thay cho mẹ thì mẹ sẽ được Tam Bảo gia bị, sẽ có ngày chuyển lòng sanh
tin tưởng. Lại nên khuyên Tông Đức, Huệ Sướng v.v… đều hành như thế thì tình
thân cốt nhục một nhà đều cùng thành thượng thiện nhân trong cõi sen, may mắn
nào bằng!
Thế sự ngày càng nhiễu nhương! Hãy nên
siêng niệm Phật và niệm Quán Âm. Thầy Chân Đạt đi triều bái núi Cửu Hoa. Ngày
Hai Mươi Lăm tháng Bảy, Quang đến chùa Thái Bình để lo chuyện in sách, sợ phải trong
khoảng tháng Mười mới trở về núi được. Sách Nho Thích Nhất Quán của Dương Lệ Đường
vẫn chưa in ra được. Sách ấy in ra chậm trễ thì sự chọn lựa ắt sẽ kỹ càng,
nhưng nhiệm vụ quan trọng trong hiện thời chỉ là sốt sắng niệm Phật mà thôi!
Phàm mọi chuyện cần phải dựa theo thời tiết, nhân duyên và năng lực của chính
mình để luận. Ví như kẻ gặp nạn muốn trốn đi xa, tuy vàng ngọc đầy nhà đều chẳng
dám cầm theo. Thứ chẳng thể không đem theo chỉ là lương thực; bởi lẽ một ngày
không có cái ăn, ắt sẽ chẳng thể sống được! Nếu cầm theo vàng ngọc, chắc sẽ đến
nỗi chuốc lấy cái họa mất mạng! Ông muốn được lợi ích trong thời thế này mà có
các sách Tịnh Độ thì đã có thể không băn khoăn gì! Nếu chẳng chuyên tâm dốc
chí, nếu lại coi rộng các sách đến tột cùng, chắc sẽ đến nỗi coi rẻ Tịnh Độ.
Sáng - tối
nên tụng kinh Di Đà, chớ nên chỉ Thập Niệm. Vào lúc khởi đầu nên lễ Phật Thích
Ca ba lạy. [Niệm Phật xong, đọc] nguyện văn tùy ý, ắt phải nên dựa theo bài văn
ấy mà phát tâm thì mới là nguyện. Nếu xét theo những cảnh tượng của Nghê phu
nhân như đã nói thì bà ta chắc chắn được vãng sanh. Trước tiên, bà ta thấy một
cụ già râu bạc, chẳng thấy Phật và hoa sen; ấy là do công hạnh còn cạn nên thấy
được [cảnh tượng] khá kém cỏi. Nói tới phẩm vị thì sẽ là thuộc vào khoảng Trung
Phẩm Trung Sanh hay Trung Phẩm Hạ Sanh. Nhưng chín phẩm [vãng sanh] của Tây
Phương chỉ là nói đại khái; chứ thật ra trong mỗi phẩm đều có vô lượng trăm
ngàn vạn ức phẩm. Chỉ cần được vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, liễu sanh
thoát tử. Tuy [vãng sanh] trong Hạ Phẩm Hạ Sanh, đã cao trỗi sanh lên cõi trời
trăm ngàn vạn lần!
Gần đây
tôi lại in Cảm Ứng Thiên Trực Giảng hai vạn bộ, vẫn chưa đóng bìa xong, khi
hoàn tất sẽ gởi cho ông một gói. Hãy bảo con cái ông đều cùng đọc tụng, thọ trì
thì khi chúng lớn khôn quyết chẳng đến nỗi chạy theo trào lưu làm những chuyện
phế bỏ luân thường, vứt bỏ lòng thẹn v.v… Muốn cho con cái đều thành hiền thiện
mà chẳng bắt tay thực hiện từ đây sẽ không có cách nào cả! Sách Khuê Phạm do
ông Ngụy Mai Tôn đề xướng in một ngàn bộ vào năm ngoái, Quang cũng chịu tiền in
năm mươi bộ. Năm nay Quang tự đề xướng in ba ngàn bộ. Sách này in bằng lối thạch
bản, không có bản khắc ván, không có ai bán, nay gởi tới cho ông một gói. Lại
có một gói [Học Phật] Thiển Thuyết, một gói Cảm Ứng [Thiên] Trực Giảng; hãy nên
bảo con cái đều đọc sách này sẽ chẳng đến nỗi bị trào lưu xấu ác xoay chuyển. Ông
hãy nên đọc kỹ lưỡng kinh điển và các trước thuật Tịnh Độ, còn các kinh Đại Thừa
như Pháp Hoa, Lăng Nghiêm v.v… nếu cứ một mực nghiên cứu chắc sẽ ngược ngạo coi
thường pháp môn Tịnh Độ, thì pháp được nghiên cứu sẽ chẳng phải là pháp để
nương cậy được, mà pháp đáng để nương cậy thì do chẳng chuyên nghiên cứu, tìm
tòi, chắc sẽ đâm ra không thể nương cậy được! Như vậy thì sẽ do đâu mà thoát khỏi
biển khổ mịt mờ đây? Há chẳng phải là “cầu thăng hóa đọa, khéo quá thành vụng”
ư?
Nếu thánh
nhân giáng lâm vào Phàm Thánh Đồng Cư Độ trong thế giới Sa Bà cũng vẫn thị hiện
làm phàm phu. Ắt họ phải tận tụy thực hành luân thường còn hơn người khác để
người ta thấy họ đáng khâm phục, đáng bội phục. Sau đấy chắc sẽ thị hiện tướng
trạng “từ mê đắc ngộ, cực lực tu trì”; hoặc suốt đời chẳng thị hiện tướng trạng
tu trì Phật đạo, chết rồi mới thị hiện chuyện lạ lùng khiến cho người khác sanh
lòng tỉnh ngộ sâu đậm. Bốn giáo Nho, Đạo, Gia Tô, Hồi đều có thánh hiền, nhưng
lý tánh được họ nêu tỏ chỉ là Nhân thừa hay Thiên thừa trong Phật giáo mà thôi!
Đối với bản tánh của tự tâm đều chưa thể nêu tỏ rốt ráo! Có kẻ chẳng hiểu nghĩa
này, cho rằng: “Họ đều là thánh nhân nên sẽ đều là bình đẳng, chẳng có cao - thấp!”
Hoặc cho rằng: “Do họ chưa nói đến tột cùng nguồn đạo, nên họ chẳng phải là
thánh nhân!” Đối với tôn giáo của họ, họ đáng là bậc thánh nhân, nhưng đều chưa
luận nói [tâm tánh, quả vị giải thoát] triệt để. Người giảng đạo luận đức trong
cõi đời phần nhiều là như vậy.
Tìm lấy [một
giáo pháp] chỉ bày trọn hết, trọn chẳng thừa sót gì “cội nguồn của chân - vọng,
nguyên do sanh tử, chỗ cùng cực nơi tâm tánh, chúng sanh và Phật giống nhau,
khác nhau như thế nào” mà loại Phật giáo ra thì sẽ không còn tôn giáo nào khác
nữa! Bồ Tát thệ nguyện độ thoát chúng sanh vô cùng vô tận, tùy loại hiện hình,
đủ mọi phương tiện để cảm hóa. Ấy gọi là “nên
dùng thân nào để độ được bèn hiện thân ấy để thuyết pháp”. Nói tới “thuyết
pháp”, cũng không phải chỉ riêng cho sự thuyết pháp bằng miệng, mà còn là dùng
thân để nói; hoặc sau khi mất đi liền thị hiện những chuyện lạ lùng để thuyết
pháp. Con dâu ông Mã Ngọc Cao và người đàn bà ăn mày xưa kia suốt đời tận tụy
thực hiện [giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành,
đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành luân thường, tuân giữ đạo đức],
đáng gọi là bậc “giữ vững đức hạnh nữ giới, nêu gương mẫu cho giới khuê các”. Ở
đây tôi nêu lên những dấu tích con người có thể thấy nghe, còn sau khi chết đi,
hiện ra các tướng thì trong kinh của Nho, Đạo, Gia Tô, Hồi chẳng thể có được, ấy
chính là tướng chứng quả ngay trong hiện đời của Phật giáo.
Tiếc là
trong cõi đời kẻ biết đạo ít ỏi, không thể nêu rõ chuyện này, [nên sự thị hiện
các tướng nhằm biểu thị người vừa mất ấy đã chứng quả ngay trong đời này] chỉ
trở thành một thứ sự tích lạ lùng được lưu truyền. Bồ Tát muốn hóa độ ngoại đạo
khiến cho họ theo Phật đạo mà nếu chẳng thị hiện hình tích của ngoại đạo thì kẻ
ngoại đạo ấy không cách chi sanh lòng tin tưởng, ngưỡng mộ để bắt đầu tu trì được!
Những hình tích được thị hiện cũng là những phương tiện chẳng thể nói trọn hết
được! Những gì được nói trong phẩm Phổ Môn bất quá là thuật bày đại khái mà
thôi! Hiện nay, thế đạo bại hoại đến cùng cực, kẻ tín phụng Phật giáo niệm Phật,
niệm Quán Âm được linh cảm rất nhiều. Quang do bận bịu, tinh thần chẳng đủ, cho
nên không ghi chép. Nếu ghi chép sẽ thành một quyển sách lớn!
Ông tương đối có của ăn của để, gặp nhằm
thời thế này hãy nên cạn lòng thành, tận lòng kính cùng với Tông Đức, Huệ Sướng
v.v… niệm Phật và niệm thánh hiệu Quán Âm để được nương cậy. Đối với việc nghiên
cứu giáo nghĩa và các nghĩa lý trong Mật Tông, cũng chẳng qua nhằm để mở mang,
phát khởi trí thức mà thôi. Nếu muốn nhờ vào đấy để liễu sanh tử, sẽ trọn chẳng
thể được đâu! Vì sao vậy? Do trong các tông khác đều phải cậy vào tự lực để tu
đến mức “nghiệp tận, tình không” thì mới có phần liễu sanh tử. Nếu không, dẫu
cho ngộ xứ sâu xa, công phu cao cả, công đức lớn lao, vẫn đều chẳng thể liễu được!
Chỉ có một pháp Tịnh Độ là chẳng đoạn Hoặc nghiệp mà có thể cậy vào Phật từ lực
để đới nghiệp vãng sanh. Hết thảy các pháp môn khác chẳng thể sánh với pháp này
được! Nếu không có thiện căn thật sự, chắc chắn khó thể tin tưởng triệt để. Nói
tới Quán Kinh thì đấy chính là Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh; trong Văn Sao đã dẫn
hoặc trích lục hai ba câu, những câu tiếp đó là phần giảng rõ ý nghĩa. Ông đã
không chỉ rõ trang số mấy nên cũng chẳng tiện để tra duyệt. “Phật cáo A Nan và Vi Đề Hy” chính là phần
kinh văn của Quán Kinh. Hai chữ “Quán Kinh” chính là tựa đề của kinh nhưng viết
giản lược.
Cũng chớ nên hiểu lầm câu nói “các giáo chẳng chia môn đình”. Nếu để lẫn
lộn không phân biệt thì đại, tiểu, tà, chánh, làm sao phán đoán được! Nếu xét tới
cái gốc rốt ráo để [các giáo] quy nạp về thì chẳng quy vào Phật giáo sẽ quy về
đâu? Ví như sông to, rạch lớn đã tự rộng lớn, sâu thẳm, nhưng nếu chẳng quy về
biển cả thì sẽ từ đâu mà có được? Biển đã tồn tại kể từ lúc có trời đất, ngày
ngày vẫn như thế, thâu nhận [các dòng nước đổ vào] vẫn chẳng thấy tăng thêm;
còn sông to thì khi mưa Thu trút xuống sẽ mênh mông, tràn ngập. Ông nói “khi chết sẽ theo cùng một đường” cũng
không thích đáng lắm! Chỉ có Chết là giống nhau, nhưng sanh trong lục đạo và chứng
Tứ Thánh, khổ - vui khác biệt một trời một vực! Sao lại nói là “cùng một đường” cho được?
[Ông nói]:
“Các giáo tùy theo sự tu tập mà mắc tội, được phước. Thiên Đường, địa ngục cố
nhiên không hai. Nhưng coi là một thì lẽ ra các giáo đều chẳng có chân nghĩa”.
Nói như vậy, ông vẫn chưa biết lẽ chân thật trong các giáo, mà cũng chưa thể mỗi
mỗi đều bình đẳng. Những gì được coi là lẽ chân thật trong các giáo ấy đều là
chút phần của sự thật trong Phật giáo, chứ chưa thể hoàn toàn chân thật, trọn
chẳng có sai khác! Nếu đã hoàn toàn đều là thật thì cần gì phải “nên dùng thân nào để độ được, bèn hiện thân
ấy để thuyết pháp”? Trương Thuần
Nhất chính là đầu lãnh Gia Tô giáo, do ông ta học vấn uyên bác nên sau đấy mới
biết đến Phật; năm sáu năm trước đây đã cùng vợ quy y với Quang. Ông ta có pháp
danh là Chứng Lý, bà vợ pháp danh là Chứng Từ. Dương Lệ Đường gởi cho Thuần Nhất
một cuốn sách là vì Thuần Nhất trước đó tin tưởng đạo Cơ Đốc, sau theo Phật
giáo.
Ông lẫn lộn,
tưởng “hiện thân” là thật nghĩa, chẳng hiểu “hiện thân là rủ lòng tiếp dẫn cùng
lên nẻo giác”. Đủ thấy, đối với đạo lý, ông còn chưa hiểu rõ nên mới ăn nói lẫn
lộn, không chọn lựa, phân biệt. Nếu chấp đó là đúng sẽ tự lầm, lầm người chẳng
cạn đấy! Xin hãy sốt sắng sửa lỗi hướng lành, niệm danh hiệu Phật, lâu ngày sẽ
tự bật cười. Cổ nhân giải thích câu: “Như
Lai chẳng bỏ [kẻ chỉ có] phước [nhỏ nhoi] vừa lọt đầu mũi kim” như sau: “Như ông lão tám mươi múa may để dạy con
cháu”; hiện thân thuyết pháp cũng giống như thế đấy! Nếu ông tưởng hiện những
thân ấy là đắc đạo rốt ráo thì sẽ hoàn toàn trái nghịch với ý nghĩa hiện thân của
Bồ Tát. Nếu như ông nói thì các giáo đều có người đắc đạo, cần gì Bồ Tát phải rủ
lòng hiện thân trong giáo của họ để hoằng dương giáo ấy nữa? Ông chẳng biết Bồ
Tát biến hiện chính là phương tiện quyền xảo, thị hiện đồng sự[19]
để dẫn bọn họ vào trong Phật thừa. Đối với văn mà ông còn chưa hiểu rõ rệt, huống
là hiểu ý nghĩa ư? Nhưng ông tự cho là đã biết, đã hiểu rõ, nên mới có thứ ngôn
luận ấy. Nếu Quang chẳng chỉ ra, đả phá, sợ ông gặp phải một vị tri thức vướng
mắc nơi phương diện tình kiến cứ hàm hồ phân tích, giải thích thì sự bưng bít
[nơi kiến giải của ông] sẽ khó thể đục phá được!
Quang già
rồi, không làm được gì. Hơn mười năm qua, thù tiếp hết sức bận rộn; nay thì thù
tiếp ngày càng nhiều, tinh thần ngày một giảm! Cứ kéo dài như thế này ắt sẽ mệt
nhọc chết mất! Đã vô ích cho người, mà chính mình còn bị tổn hại! Vì thế, dự định
xuống núi vào cuối tháng Hai, qua chùa Thái Bình ở bến Trần Gia, Thượng Hải, lo
liệu chuyện in sách; đến tháng Sáu vẫn trở về núi vì ở Thượng Hải quá nóng.
Tháng Bảy xuống núi không trở về nữa. Đến tháng Tám, tháng Chín chuyện in sách
[kết thúc], lưu Chỉ Bản ở chỗ cất giữ [thuộc thư cục] để tùy ý ai muốn ấn loát
thì giao thiệp với Thư Cục. Sắp xếp thoả đáng mọi chuyện xong sẽ ẩn náu, diệt
tung tích lâu dài. Từ đấy vĩnh viễn chẳng qua lại, giao thiệp với hết thảy mọi
người nữa! Ông chỉ nên y theo Văn Sao, Gia Ngôn Lục mà tu, quyết chẳng đến nỗi
không được liễu thoát. Nếu lầm lạc muốn làm đại thông gia, coi pháp môn Tịnh Độ
là thừa thãi, theo thiện tri thức các tông học các pháp môn Tông, Giáo, Mật
v.v… thì làm đại thông gia chắc đạt được một hai phần, nhưng muốn nhờ vào sự hiểu
biết nửa vời ấy để mong liễu sanh tử thì có mộng cũng chẳng mơ thấy đâu! Đấy là
lời cuối cùng Quang dành cho ông, chẳng biết ông có nghĩ như vậy là đúng hay
chăng?
Dùng niệm Phật [để cầu nguyện chánh
đáng] thì mọi sở cầu đều được thỏa. Cầu phước thọ cho cha mẹ hiện tại, cầu cho
tổ tông quá khứ được siêu thăng đều được cả; nhưng cần phải chí thành đến cùng
cực thì mới có cảm ứng. Nếu hời hợt, hờ hững thì cũng sẽ được lợi ích hời hợt,
hờ hững. Đối với bài văn hồi hướng thì hãy nên ngay sau phần chánh hồi hướng[20],
tùy theo ý mong cầu của mình mà đọc mấy câu, chỉ nhằm biểu lộ tấm lòng, chẳng cần
phải phô phang. Ông đã biết pháp môn Tịnh Độ thì càng phải nên nói với hết thảy
mọi người về lợi ích ấy khiến cho họ tu trì, huống là cha mẹ sanh ra ta ư? Hồi
hướng cho cha mẹ cố nhiên là chuyện hợp lẽ đến tột cùng; nhưng chẳng khuyên lơn
cha mẹ, chỉ tự mình tu trì là đã đánh mất ý nghĩa hiếu thảo chân thật với cha mẹ
vậy!
Nếu tánh
tình cha mẹ trái nghịch với Phật, hãy nên chí thành trì niệm hồi hướng thay cho
cha mẹ để họ được tiêu trừ túc nghiệp. Lâu ngày chầy tháng, [cha mẹ] sẽ tự sanh
lòng tin tưởng, tu trì. “Lòng Thành đến tột
cùng, đá vàng cũng nứt”. Huống chi cha con sẵn mối liên quan tự nhiên, lẽ
nào chẳng thể chuyển dời được ư? Hãy nên nghiêm túc dạy dỗ con cái bằng lý nhân
quả báo ứng và đạo làm người, như cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính v.v… ai
nấy tự trọn hết bổn phận của chính mình. Nếu ông có thể nghe theo lời tôi thì sống
sẽ dự vào bậc thánh hiền, mất về cõi Cực Lạc, ấy chính là chuyện quyết định không
còn nghi ngờ vậy!
Cõi đời hiện thời nguy hiểm vạn phần;
hãy nên suất lãnh người nhà niệm Phật và niệm thánh hiệu Quán Âm lâu dài, ắt sẽ
có cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn. Chuyện ăn chay thật ra cực dễ dàng, chỉ vì chưa
thấu hiểu suy xét sâu xa nên mới cảm thấy rất khó khăn. Chúng ta đã sợ tai nạn
đao binh, hãy nghĩ hết thảy sanh vật có tự chịu mổ, chặt, nấu, thui để thỏa sự
ham muốn phát xuất từ miệng bụng của chúng ta hay chăng? Há chúng nó có muốn chết,
vui vẻ chịu làm thức ăn cho con người hay chăng? Thánh nhân dạy “trung hậu, khoan thứ là cách đạo chẳng xa;
điều gì ta chẳng muốn người khác làm cho ta thì cũng đừng làm điều ấy cho người
khác” nhằm giảng rõ ý nghĩa này. Thử nghĩ ta và chúng cùng được phú bẩm cái
tâm này, cùng biết “tham sống, sợ chết”, cùng biết “hướng lành, tránh dữ”, cùng
biết “cảm ơn, ôm hận”; há nên hằng ngày vẫn ăn thịt bọn chúng ư? Đã nhẫn tâm ăn
thịt bọn chúng, tức là cùng một tâm hạnh với lũ thổ phỉ, giặc cướp! Đã chẳng muốn
bị bọn thổ phỉ cướp đoạt, sát thương; sao lại yên tâm khoái ý giết chóc, nấu nướng,
ăn nuốt hết thảy sanh mạng trên đất dưới nước? Nguyên do đều là vì chẳng chịu
phản tỉnh nên đến nỗi cách xa đạo vời vợi!
Chỉ sợ
không tin pháp môn Tịnh Độ tới nơi tới chốn. Nếu tin đến nơi đến chốn thì hết
thảy mọi người đều được vãng sanh. Đã có sức đại từ bi của Phật, cần gì đến
Quang? Con người gần đây phần đông thấy lạ nghĩ khác, kẻ có tín tâm thường chẳng
biết cội nguồn của pháp môn Tịnh Độ, hoặc học những pháp Thiền, Giáo, Mật v.v… Nếu
muốn làm vị thiện tri thức đại thông gia thì được, chứ nếu muốn cậy vào Phật từ
lực để vãng sanh Tây Phương ngay trong đời này thì do sở học quá nhiều, chắc sẽ
coi thường Tịnh Độ! Do đã chẳng thể đoạn Hoặc chứng Chân để tự lực liễu thoát,
lại không có tín nguyện niệm Phật để cậy vào Phật lực hòng liễu thoát thì nỗi
khổ nơi tam đồ lục đạo trong tương lai so với nỗi khổ hiện thời sẽ còn gấp trăm
ngàn vạn lần!
Nhân dân hiện thời không ai chẳng
trong cảnh nước sâu lửa bỏng, nhưng những kẻ có thế lực ai nấy đều muốn cho con
cháu mình được phú quý tôn vinh vĩnh cửu, chẳng đoái hoài nhân dân nghèo nàn, khốn
khổ, tử vong. Cái gốc họa ấy đều là do Trình - Châu và bọn Lý Học đả phá bài
xích nhân quả báo ứng và sanh tử luân hồi ươm thành. Nếu bọn họ đề xướng nhân
quả báo ứng, sanh tử, luân hồi, thì những nhà Nho đời sau đều chẳng dám bảo
[nhân quả, báo ứng, luân hồi] đều là không có. Dẫu bọn họ muốn làm chuyện tổn
người, lợi mình, thương thiên, hại lý đi nữa, nhưng do thấy có ác báo, sợ mai
sau chịu khổ khó kham, do đấy sẽ chẳng dám! Vì Trình - Châu cho là không có những
chuyện ấy, nên những kẻ xấu hèn, tàn nhẫn dám làm ác không kiêng dè gì! Lại
thêm gió Âu vừa thổi tới thì chuyện phế kinh điển, phế luân thường, giết cha, gian mẹ đều cùng được cực lực đề xướng nhằm
mong được thực hiện. Nguồn gốc của mối họa này bắt nguồn từ Lý Học, chẳng đáng
buồn sao? Do vậy hãy nên sốt sắng sanh lòng tin phát nguyện để cầu sanh Tây
Phương.
Chữ
“phạn thực” (飯食) trong kinh Kim Cang được đọc thành “phản tự” cũng chẳng
phải là nghĩa trong nhà Phật, mà là nghĩa theo sách Nho, nhưng con người chẳng
tự suy xét! [Trong các bản kinh Kim Cang được lưu hành], câu chữ [có một đôi chỗ]
khác nhau, như “tức” (即) và “tắc” (則)
các bản thường dùng thay thế cho nhau. Điều này không khẩn yếu lắm! Nếu kinh
ghi là Tức thì đọc là Tức, ghi là Tắc thì đọc là Tắc, bởi Tắc có nghĩa là Tức,
không sai biệt cho lắm. Có kẻ bịa chuyện quốc vương Cao Ly húy là Tắc (稷: tên một
loại lúa) nên đổi chữ Tức thành Tắc. Đây
là lời bàn luận mù quáng của kẻ chẳng biết sự việc. Thêm nữa, đoạn “Nhẫn Nhục Ba La Mật…” có bản chép thành
hai câu, có bản chép thành ba câu. Nên biết rằng: Ghi thành hai câu thì ý nghĩa
cũng hoàn toàn là ba câu, chứ không phải là “hai câu hoàn toàn chẳng có nghĩa của
ba câu”, nhưng dựa theo bản kinh mà niệm hai câu hay ba câu đều không trở ngại
gì. Bản kinh chép là ba câu liền niệm ba câu, chép là hai câu liền niệm hai
câu.
Trong các câu “nguyện nhạo dục văn” (nguyện ưa thích
muốn nghe), “thị nhạo A Lan Na hạnh giả”
(là kẻ ưa thích hạnh Tịch Tĩnh), chữ Nhạo (樂)
đọc giọng Khứ Thanh, giống như chữ Yếu[21]
(要). Trong kinh, hễ chữ Hành (行) được dùng để chỉ
cho hành động của người làm thì nhà Nho đọc là Hưng (興), Khứ thanh, đều đọc
như âm Hạn (限)[22], tức là biến âm của chữ “thực hành”. Những bản in các
bài chú như Đại Bi v.v… hơi khác nhau, cứ chiếu theo bản in để đọc sẽ chẳng trở
ngại gì, bởi lẽ chú là tiếng Phạn, con người không thể biết được [nghĩa], chỉ
chí tâm niệm ắt có lợi ích lớn lao, chẳng cần phải suy luận theo mặt chữ. Bản [chú
Đại Bi] được lưu thông ở Hồ Nam tôi cũng chưa được thấy, chẳng thể nói là đúng
hay sai. Chỉ cần chí thành trì tụng thì sẽ tự được công đức chẳng thể nghĩ bàn,
muôn phần chớ nên hoài nghi bản kinh có sai ngoa thì sẽ đạt được lợi ích. Theo
lý, phải nên niệm tựa đề kinh.
Ước theo mặt Sự, quả thật Tịnh
Độ có cảnh tượng trang nghiêm đến cùng cực. Ước về mặt Lý thì duy tâm sở hiện, do
tâm thanh tịnh nên các cảnh giới ấy đều thanh tịnh. Cố nhiên, Lý và Sự chẳng thể
tách rời, chẳng qua nhấn mạnh nơi nghĩa nào mà chia ra thành Sự hay thành Lý.
Ông chỉ nên đọc kỹ bài Tông Giáo Bất Nghi Hỗn Lạm Luận [trong Văn Sao Chánh
Biên], sẽ tự biết rõ văn và lý của Chân Đế và Tục Đế, cũng như nghĩa lý ước
theo cảnh để thí dụ vậy. Kiến địa của ông đã như thế thì chỉ nên học theo kẻ thật
thà chất phác nhất tâm niệm Phật. Nếu do lòng ham cao chuộng xa rồi lầm lạc
sanh cái tâm ức kiến (đoán mò, tự dựa theo những ý kiến phỏng đoán của chính
mình) thì chỉ sợ chưa được lợi ích mà đã bị tổn hại trước!
Đang trong
lúc thiên tai nhân họa ngập tràn này, cố nhiên hãy nên suất lãnh người nhà sốt
sắng niệm Phật và niệm thánh hiệu Quán Âm, còn hết thảy những nghĩa khác dẫu
chưa hiểu rõ ràng đều chẳng bận tâm, đợi khi nào nghiệp tiêu trí rạng sẽ tự có
thể “vừa đọc liền hiểu rõ ngay”. Nếu không, dẫu có hiểu rõ rệt văn lẫn lý, cũng
chỉ là ăn nói lưu loát, chứ khi tai nạn giáng xuống, sanh tử xảy đến, nhất định
chẳng dùng được gì! Hai pháp Sự và Lý chẳng tách rời nhau, bởi có tịnh tâm thì
mới có tịnh cảnh. Nếu không có tịnh cảnh, làm sao hiển được tịnh tâm? Tâm tịnh
thì cõi Phật tịnh, đấy gọi là “tâm có đủ”. Nếu tâm không có đủ thì nhân chẳng cảm
được quả!
Ông nghĩ Sự
chỉ là sự tướng trang nghiêm, Lý chỉ là tâm tánh lý thể; [nếu] Lý ở ngoài Sự, Sự
ở ngoài Lý thì làm sao gọi là Lý - Sự cho được? Ví như dựng nhà, kèo, xà, rường,
cột, tường, vách là Sự, khoảng không trong nhà chính là Lý. Chỉ vì có kèo, xà,
rường, cột nên mới có được khoảng không trong nhà; do có khoảng không ấy nên có
thể xếp đặt kèo, xà, rường, cột! Lý - Sự dùng lẫn cho nhau, cũng như Không và Hữu
dùng lẫn cho nhau. há nên chấp chết cứng vào thiên kiến, cho là Hữu thì chẳng
có Không, đã Không thì chẳng có Hữu vậy? Nếu chẳng hiểu rõ ràng thứ nghĩa lý
này, hãy nên siêng năng trì tụng, đừng suy lường xằng bậy! Lâu ngày chầy tháng,
nghiệp tiêu trí rạng, sẽ tự có thể [thấy những suy đoán xằng bậy ấy] ví như một
trò cười! Lúc ban đầu, cổ nhân luôn sốt sắng dụng công dốc sức, chứ chẳng bận
tâm suy lường. Bởi vậy, cổ nhân nhất cử nhất động không gì đều chẳng phải nhằm
làm cho mọi người đều thực hiện được!
497. Thư trả lời cư sĩ Mã Tông Đạo (thư thứ hai)
Đã nhận được thư trước, do không có
chuyện gì quan trọng, khẩn yếu nên không trả lời. Ông hỏi ông X… là người như
thế nào? Ông ta vốn sẵn có nhân duyên từ đời trước, nhưng [tánh cách] do dự, chẳng
sốt sắng. Ông ta là đệ tử của Phùng Mộng Hoa ở Kim Đàn (tỉnh Giang Tô), là đồng
môn với ông Ngụy Mai Tôn. Mấy năm trước đã từng gặp Quang. Năm ngoái do có chuyện
nọ nên rất cảm kích Quang, bèn nói với ông Mai Tôn muốn quy y, từng nhờ ông Mai
Tôn cầu xin với Quang; đã vì kinh ở tháp Lôi Phong[23]
mà đề mấy câu làm kỷ niệm, nhưng do chần chừ, nên chưa hành ngay. Còn như nói: “Thân tộc kinh hãi” ấy là mượn cớ đó để lấp
liếm dấu vết biếng nhác, lười trễ, chẳng chịu tu trì. Ông cũng mượn cớ đó để nghi
ngờ, bàn định! Phàm người học Phật pháp há nên vứt bỏ bổn tông (tông mình đang
theo)[24].
Chỉ ngoài bổn tông, lấy thêm lời Phật dạy để tu trì! Người đời làm đủ mọi chuyện
ác, chẳng sợ thân tộc kinh hãi. Nay học đại pháp của Như Lai lại ngược ngạo sợ
thân tộc kinh hãi, đấy có còn gọi là “chân tâm học đạo” ư? Cả cõi đời đều đục,
riêng ta trong, mọi người đều say, riêng ta tỉnh. Ta làm theo chí ta, ai khống
chế được ta? [Nại cớ như vậy thì còn] chưa phải là học trò của thánh hiền, huống
là học đại đạo xuất thế ư?
Quang diệt
tung tích, trọn chẳng gây trở ngại cho người khác, bởi tuổi tác lẫn cơ hội đều đã
qua, tinh thần ngày một suy, chuyện thù tiếp ngày càng nhiều, sức chẳng thể chống
chọi được! Nếu hiểu [Quang ẩn dật] là vì lý do khác, tức là đã hiểu lầm rồi!
Chuyện niệm Phật cố nhiên quý ở chỗ thuần nhất không gián đoạn. Do vậy trong hết
thảy thời, hết thảy chỗ đều phải nên niệm. Tụng kinh chẳng thể thường xuyên
không gián đoạn như niệm Phật được! Hơn nữa, cớ gì phải tụng kinh nơi chỗ ô uế?
Nếu trì danh đến mức cùng cực thì chẳng quán tưởng mà tịnh cảnh đều hiện cả. Nếu
kẻ nào công phu không thuần, cứ lầm lạc muốn thấy thánh cảnh, chắc sẽ phải lo bị
ma dựa. Do vậy, cổ đức phần nhiều chú trọng Trì Danh bởi pháp này thực hiện dễ
mà thành công cao.
Nếu thật sự
đã tin tưởng pháp môn Tịnh Độ tới nơi tới chốn, giữ được [tín nguyện] vững vàng
rồi thì đối với các kinh luận Đại Thừa sẽ đều có thể tùy theo sự ưa thích của
chính mình mà đọc tụng. Nhưng nếu chưa hiểu rốt ráo đạo này, cứ một mực đọc rộng,
sợ rằng sẽ bỏ pháp này lấy pháp kia thì muốn liễu sanh tử sẽ trở thành chuyện
khó nhất trong các chuyện khó. Có kẻ nói Quang cấm người khác đọc kinh Đại Thừa,
[nói như vậy là đã hiểu lầm ý Quang, vì] lời nói ấy vốn dành cho kẻ chẳng biết
lợi - hại, cứ lầm lạc muốn làm bậc thông gia! Có kẻ nói: “Y theo pháp của họ,
tu một trăm ngày hoặc bốn mươi tám ngày sẽ có thể thành Phật!” Ông hãy nhường
cho người khác thành! Nếu ông cũng muốn cùng được “thành” như họ thì thành Phật
hay thành ma, Quang chẳng thể nào biết được!
Lâm chung
là chuyện khẩn yếu nhất. Dẫu ông chẳng thể giáo hóa được người khác, vẫn nên thường
nói cặn kẽ nguyên do với vợ con ngõ hầu họ đều tin đến nơi đến chốn và giữ cho
chắc. Như lúc mẹ ông lâm chung, khai thị Niệm Phật cho cụ và trợ niệm, ắt có lợi
ích lớn lao! Pháp này bất luận già - trẻ - trai - gái đều nên trợ niệm. Dẫu là
kẻ lúc thường ngày chẳng niệm Phật, [được trợ niệm] cũng có lợi ích lớn lao!
Hãy nên chiếu theo tiểu đoạn “lâm chung thiết yếu” thuộc phần “sanh tử chuyện lớn”
trong Gia Ngôn Lục để hành thì tuy chẳng sanh Tây Phương vẫn gieo được thiện
căn lớn lao. Đây là nghĩa tối thiết yếu.
Nếu bảo tôn
giáo ấy trói buộc thì chính là ông tự trói buộc, chứ tôn giáo đâu có trói buộc
được ông? Nếu nói “trong cõi đời có đạo vượt trỗi tôn giáo của ta thì cũng chẳng
chịu học”, ấy chính là tâm hạnh của kẻ nhỏ nhen trong thế gian, chứ đâu phải là
tâm hạnh đáng có của một vị sáng lập một tôn giáo! Nếu có ý ấy, còn đáng gọi là
giáo chủ ư? Đấy chính là cách “đem tớ thay cho chủ, đem lính thay cho tướng
soái!” Đối với việc học Phật, ông ôm lòng nghi ngờ, kinh sợ, tức là cái tâm học
Phật chẳng cứng cỏi, mạnh mẽ, quyết liệt như cái tâm tạo nghiệp. Há có phải là người
thật sự tin Phật ư?
Tông Đức
đã sanh hay chưa? Nay đặt pháp danh [cho đứa bé sắp sanh] là Huệ Ý. Ý (懿)
là đức tốt đẹp. Chỉ có trí huệ thì mọi việc làm đều tốt đẹp, dùng ngay cái tên
này để đặt, không cần phải chọn tên khác. Phàm người niệm Phật, trong hết thảy
thời, hết thảy chỗ đều phải nên thầm giữ một câu Phật hiệu nơi tâm. Nếu áo mũ
chỉnh tề, nơi chốn sạch sẽ, niệm ra tiếng hay niệm thầm đều được. Nếu không được
như thế thì chỉ nên niệm thầm trong tâm. Còn như phụ nữ lúc sanh con, hãy nên
niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát ra tiếng, chắc chắn sẽ không có những nỗi khổ
như bị tai nạn khi sanh nở v.v… Nếu nói “lúc ấy lõa lồ bất tịnh, niệm sẽ mắc tội”
thì đấy là chẳng biết đạo “giữ lẽ thường, thông đạt quyền biến”. Đấy là lúc
liên quan đến tánh mạng, chẳng thể không lõa lồ, ô uế; không thể đem so với
chuyện cố ý khinh nhờn. Hơn nữa, Bồ Tát sẵn tâm cứu khổ, ví như con cái té
trong lửa - nước, kêu cầu cha mẹ cứu giúp, cha mẹ trọn chẳng đến nỗi vì con cái
thân thể không khiết tịnh, áo mũ không chỉnh tề mà chẳng chịu rủ lòng cứu vớt.
Từ nay về sau, hễ có ai sanh nở đều nên bảo họ niệm sẵn. Đến khi sanh nở đúng
là lúc phải nên sốt sắng niệm. Chẳng những dễ sanh mà còn gieo đại thiện căn.
Hãy nên nói cặn kẽ điều này với Tông Đức và các con gái của ông, đấy chính là
vô thượng diệu pháp để cứu sẵn tánh mạng họ khỏi bị khổ ách.
Một người
bạn cậy Quang ấn hành cuốn Đạt Sanh Biên, phụ lục cách trị kinh phong mạn chứng,
sẽ in tám vạn cuốn; hai vạn cuốn giao cho Quang để kết duyên hoặc cho người
khác thỉnh. Đợi khi in ra sẽ gởi cho ông một gói. Trong lời tựa cũng có nói đến
chuyện niệm Quán Âm. Quang vốn tính diệt tung tích vào cuối tháng Chín, hiện thời
do phải sắp chữ bộ Lịch Sử Cảm Ứng Thống Kỷ, chỉ đành chậm lại một tháng. Sách
này có quan hệ lớn lao đối với thế đạo nhân tâm, do ông Hứa Chỉ Tịnh chọn lọc
những sự tích cảm ứng từ hai mươi bốn bộ sử, kèm thêm lời bình luận; quả thật
là bộ sách có sức khuyến thiện mạnh mẽ nhất, bởi lẽ những chuyện trong ấy đều
được ghi trong chánh sử, kẻ tà kiến chẳng dám bảo là hư cấu! Lần này sắp chữ
xong xuôi liền in hai vạn bộ. Lại in một bản khác bằng giấy báo với cỡ chữ Tứ
Hiệu Tự để tiện cho con em đang độ thanh niên cũng có thể mua đọc. Con người sống
trong thế gian phải trọn hết đạo làm người. Nếu giữ được hiếu, đễ, trung, tín,
lễ, nghĩa, liêm, sỉ thì mới đáng gọi là người. Nếu không, tuy mang hình dáng
con người, nhưng tâm là cầm thú! Hãy nên cực lực dạy dỗ Huệ Sướng v.v… khiến
cho chúng đều biết đạo làm người và biết nhân quả báo ứng thì gia phong của ông
sẽ chẳng đến nỗi dần dần đọa lạc! Đối với chữ Phong (豐)
trong [cái tên] Huệ Phong, há nên hiểu là 豊[25] (phong: thịnh vượng)? [Nếu hiểu như vậy thì] chính là
đọc theo âm dùng trong Lễ Ký, mà cũng là ý nghĩa được dùng trong Lễ Ký, chứ không
phải là ý nghĩa Quang định chọn, hãy nên sửa cho đúng: Huệ Phong nghĩa là trí
huệ dồi dào, không điều nhỏ nhặt nào chẳng chiếu tới!
498. Thư trả lời cư sĩ Mã Tông Đạo (thư thứ ba)
Hai lần nhận được thư biết ông vừa
sanh được đứa con tốt lành, lại trọn không bị tai hoạn gì. Do vậy biết đấy
chính là Phật, Bồ Tát từ bi gia bị nên có những chuyện chẳng thể nghĩ bàn được.
Điều đáng chú ý nhất là hãy khéo dạy dỗ, khiến cho các con đều thành người hiền,
người lành thì đối với gia đình ông, đối với nước nhà đều có lợi lớn lao không
chi bằng! Quang thường nói “Dạy con là
căn bản để trị quốc bình thiên hạ, nhưng dạy con gái càng cần thiết hơn, do con
người được thành chánh khí hay chăng quá nửa là do được mẹ un đúc, giáo hóa từ
lúc mới hiểu biết cho đến lúc trưởng thành”. Đạo nghĩa, đức hạnh là căn bản
của con người. Từ thuở bé đã dạy nó noi theo pháp tắc thì khi lớn lên sẽ tự chẳng
trái vượt, ngỗ nghịch, cũng như có đủ mọi hành vi xấu hèn!
Giấc mộng
của Tông Đức chính là do Bồ Tát ngầm báo cho biết điềm sẽ có giặc kéo đến. Nếu
không, sẽ bị mất mát lớn lắm. Bà ta mộng thấy Bồ tát đòi cây mơ (mai tử) của mẹ,
đấy chính là có kẻ khác muốn đoạt lấy. Lời này có ý nghĩa khá sâu, thật khó suy
lường được! Nay tôi chỉ suy đoán mò, tuy chẳng phải là bổn ý của Bồ Tát, cũng
chẳng trái nghịch ý của Bồ Tát. [Theo tôi nghĩ] Bồ Tát nghĩ thương người trong
tôn giáo của ông chẳng biết tới đại đạo, muốn cho ông và Tông Đức tùy theo cơ
duyên mà giáo huấn, khiến cho họ đều sanh lòng tin, gieo thiện căn nơi Phật
pháp. Chữ Mai (梅) một nửa là chữ Mộc (木),
nửa kia là chữ Mỗi (每). Chữ Mỗi là một nửa của chữ Hối (誨)[26],
chữ Mộc là một nửa của chữ Căn (根). Cả nhà ông đã được
nhuần gội sự giáo hóa của Phật, lại còn được cảm ứng như thế, về mặt Lý lẫn mặt
Sự đều đáng tự tin tưởng, há nên lặng thinh chẳng tuyên nói ra, chẳng làm cho
người hữu duyên đều cùng được nhuần gội lợi ích lớn lao không chi bằng này?
Phàm mọi chuyện vào lúc ban đầu đều do một hai người phát khởi, sau đấy mới dần
dần được mở rộng. Đã có nhiều người tụ họp trong nhà ông để cầu hiện tướng, đủ
biết là u - hiển cảm ứng quyết khó hình dung được! Nếu vợ chồng ông có thể phát
Bồ Đề tâm, vì những kẻ câu nệ hẹp hòi kia mà chỉ bày bầu trời vô lượng vô biên,
họ sẽ tự có thể thoát khỏi chỗ hẹp hòi ấy, thấy được mặt trời và biển cả.
Ông chỉ
nên nhất tâm niệm Phật, sao lại hỏi ngày giờ sanh của Quang? Biết ngày giờ sanh
của Quang thì rốt cuộc có ích gì đâu? Trước hết, hãy nên đem lợi ích này uyển
chuyển khuyên nhủ mẹ ông, tiếp đó khuyên lơn những thân bằng hiểu lý. Hiểu lý rồi
lại biết chuyện cảm ứng thì họ sẽ sanh lòng tin. Hơn nữa, ông đã có năm đứa
con, Tông Đức đã mang thai tám lần, khí huyết đều hư nhược. Từ nay hãy nên đoạn
dục chuyên tu Tịnh nghiệp ngõ hầu chẳng đến nỗi gây lụy cho Tông Đức càng thêm hư
nhược, hao tổn. Nam nữ lập gia đình vốn là cuộc hôn nhân thơm thảo để nối tiếp
dòng dõi cho tổ tông, phụ mẫu. Đã có mấy đứa con rồi, tức là chẳng đến nỗi phải
lo không có người nối dõi. Nếu vẫn không chịu đoạn dâm dục, tức là kẻ chẳng biết
yêu mình và nhẫn tâm chẳng biết yêu thương vợ! Huống chi ông và Tông Đức đều muốn
tu Tịnh nghiệp sanh Tây Phương. Nếu tình dục nam nữ chẳng thể đoạn được thì tịnh
niệm bị dục niệm xen tạp, chẳng dễ gì được lợi ích. Ông đừng nói Quang là Tăng
nhân sao vẫn bàn chuyện ăn nằm giữa vợ chồng người khác. Hãy nên biết rằng: Những
người có thành tựu trong thế gian đều phải tiết dục, huống là người học Phật ư?
Huống chi Tông Đức do sanh nở đã bị tổn thương, chẳng kham sanh nở thêm nữa ư?
499. Thư trả lời cư sĩ Ôn Quang Hy (thư thứ nhất)
Lúc vọng tưởng dấy lên chỉ mặc kệ nó
thì sẽ chẳng đến nỗi “trên vọng lại sanh thêm vọng”. Ví như đứa nhỏ làm mình
làm mẩy, nếu người lớn không ngó ngàng tới, nó chẳng cậy vào đâu [để tiếp tục
giở chứng] được. Nếu dùng biện pháp cứng rắn để trấn áp, nó cũng dùng cách cứng
rắn để đối phó. Nếu dùng biện pháp mềm mỏng để vỗ về nó, ắt nó sẽ tưởng người lớn
sợ nó, lại càng quyết liệt hơn. Cả hai đằng đều tổn nhiều ích ít, chỉ bỏ mặc [vờ
như] không thấy không nghe. Nó đã không có đà làm tới chỉ đành tần ngần bỏ đi.
Ông vẫn chưa có thể tự lợi, sao lại trù tính chuyện làm lợi cho người khác được!
Quân tử chẳng nghĩ ra ngoài địa vị. Cần biết rằng: Tâm ấy tuy tốt nhưng cũng là
chướng ngại cho việc học đạo. Cổ nhân nói: “Chỉ
phạ bất thành Phật; vật sầu Phật bất hội thuyết pháp” (Chỉ sợ chẳng thành
Phật, chẳng lo Phật không thể thuyết pháp). Ông chỉ nên tự hành có chứng đắc thì
sẽ giống như thần long được một giọt nước bèn có thể mưa khắp toàn quốc. Nếu chẳng
phải là thần long, dẫu được nước của cả con sông cũng không thể [tuôn mưa] trọn
khắp được.
Làm ác có nhân duyên: Tự tâm là nhân,
ngoại cảnh là duyên. Nếu tin sâu nhân quả, biết “do điều ác nhỏ, ắt chịu khổ lớn”
thì tuy gặp duyên cực lớn cũng chẳng thể làm ác. Những kẻ làm ác xưa nay đều là
do cái tâm tin nhân quả nhỏ nhoi, yếu kém mà ra! Nếu không, dẫu ngoại duyên mạnh
mẽ, dữ dội đến đâu cũng chẳng làm gì được ta. Niệm Phật biết có vọng, đấy chính
là chỗ hay của niệm Phật. Nếu không niệm Phật, bằng cách nào mà ông biết được [chính
mình] có lắm vọng như thế?
Mật Tông quả thật là pháp môn chẳng thể
nghĩ bàn, thật sự có chuyện “thành Phật trong thân hiện tại”, nhưng những người
hoằng truyền Mật Tông đều chẳng phải là hạng người ấy. Có mấy ai thật sự là thượng
căn? Đều toàn tự xưng là thượng căn! Giả dối mượn chuyện ấy để dụ dỗ những phường
ham cao chuộng xa, ngạo nghễ, ngã mạn, tạo thành tự lầm,
lầm người, gây hại há có thể nào cùng cực? Những điều khác chẳng cần phải nhắc
tới! Gã X… và gã Y… nọ quá sức to gan, tự xưng đã vượt trỗi các bậc thượng
căn. Họ chửi bới Khổng - Mạnh còn hơn đứa trẻ đầu đường xó chợ chửi người khác;
chẳng biết chửi Khổng Tử tức là chửi Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ, chính
là diệt chánh lý luân thường của thế gian. Tôi chẳng biết họ học Mật Tông kiểu
nào, muốn ứng dụng Mật Tông như thế nào: Để làm kẻ tận lực truyền bá phế kinh
điển, phế luân thường, vứt bỏ lòng hiếu, mặc kệ lòng thẹn, giết cha, giết mẹ?
Hay là vẫn làm người truyền bá hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ vậy?
Nếu để làm
kẻ truyền bá phế kinh điển, giết cha thì thuyết của bọn chúng còn có thể cưỡng
lập được, chứ nếu để làm người truyền bá hiếu - đễ - trung - tín thì bọn chúng
đã đả đảo phế diệt, cắt trừ đạo của nhị đế tam vương do Khổng Tử vâng giữ, kế
thừa mất rồi! Nếu vẫn bảo Mật Tông của bọn chúng là dạy làm lành thì chính bọn
chúng cũng chẳng thể tự hiểu được [cách ăn nói ngược ngạo ấy]! Những kẻ giống
như gã X… và gã Y… thật có thể gọi là những tên đầu sỏ bại hoại Phật pháp vậy!
Hạng người ấy có thể thành Phật nơi thân hiện tại thì cũng chẳng ngại gì vào
trong địa ngục A Tỳ để hưởng tự thụ dụng tam-muội của đức Tỳ Lô Giá Na nơi non
đao, rừng kiếm, vạc dầu, lò than!
Hơn nữa,
căn tánh của gã X… nếu luận theo con người hiện thời thì cũng có thể gọi là thượng
căn: Tự mình phát tâm xuất gia, chưa đầy mấy năm mà yếu chỉ của Thai Giáo (giáo
pháp của tông Thiên Thai) thảy đều hiểu
rõ. Qua Đông Dương (Nhật Bản) học Mật Tông, người Đông Dương hết sức bội phục,
tôn sùng, kính trọng; chết rồi còn được dựng tháp trên núi Cao Dã[27].
Nếu bảo là ông ta đã đắc chánh truyền của Mật Tông thì cũng chẳng thể nói là
ông ta không thể thành Phật ngay trong thân hiện tại, nhưng đến lúc sắp chết, chẳng
thể niệm Phật được mà cũng chẳng thể niệm chú được. So với ngu phu ngu phụ niệm
Phật ngồi ngay ngắn qua đời đã kém cỏi hơn nhiều lắm! Đấy còn là kết quả của bậc
thượng căn đắc chánh truyền nơi Mật Tông, những kẻ khác đâu đáng để bàn tới nữa!
Cách nói “hiện
thân thành Phật” và “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật” của Tông môn khá
giống nhau. Vẫn phải đoạn Hoặc thì mới chứng Chân, mới có thể liễu sanh thoát tử
được. Nếu nói ngay trong đời hiện tại Tam Hoặc đã đoạn sạch, Nhị Tử vĩnh viễn mất,
an trụ Tịch Quang, trọn không sự gì, sẽ thành tà thuyết, là lời lẽ của ma! Những
ai chê “Tịnh Độ dành cho bọn thiên chấp, tiểu căn, chậm lụt, độn căn”, ta hãy
nhường cho bọn họ tu pháp “viên, đại, thẳng, chóng, thành Phật trong thân hiện
tại”. Chúng ta chỉ y theo ngôn giáo Tịnh Độ để tu trì, đôi bên chẳng gây trở ngại
lẫn nhau; cần gì phải dẫn chứng Vãng Sanh Chú, A Di Đà Phật chính là Mật Tông của
bọn họ!
Cần biết rằng:
Phật tùy theo căn cơ của chúng sanh mà nói ra các giáo, lời lẽ tuy khác nhau,
nhưng tinh thần đều là dung thông. Ví như đại địa chia ra cho hết thảy nhân
dân, tuy có cương vực này, biên giới kia, nhưng đây - kia chẳng thể cắt đứt, chặt
rời ra được, trọn chẳng chấp nhận ai đến trong cõi tôi! Bởi lẽ nếu chặt rời thì
họ cũng không có sanh lộ để đi nữa! Bọn họ đã bảo Vãng Sanh Chú v.v… chính là Mật,
sao lại bảo niệm Phật chẳng bằng tu Mật? Nay nói đơn giản, thẳng thừng: Văn
Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ v.v… đều là bậc thượng căn, đều có thể chân thật
thành Phật trong thân hiện tại. Nếu [tự xét] thấy ta chẳng bằng được các vị ấy
thì đừng có dùng [danh xưng] thượng căn để tự lầm, lầm người, noi theo tà kiến
của gã X… và kết quả là bị chết hồ đồ của ông Y… khiến cho ngu phu ngu phụ chê
cười!
Tôi quên mất chuyện bà nội kế của ông
là Sài lão thái phu nhân. Nếu ông thật sự phát tâm hiếu, dẫu cho Sài lão thái
phu nhân đọa trong ác đạo, do ông có thể dùng tâm chí thành niệm Phật cho cụ, cụ
vẫn có thể cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương, huống hồ chưa chắc cụ đã đọa
trong ác đạo ư? Là do ông có chí thành hay chăng! Chớ nên đem cảnh tượng lúc mất
của Sài lão thái phu nhân để phán đoán. Đặt pháp danh cho [người đã mất] cũng
là chuyện bày vẽ! Người thế tục do thuyết U Minh Giới cho người đã khuất bèn đặt
pháp danh; nhưng ắt phải cạn lòng thành, kiệt lòng kính niệm Phật cho người ấy
thì mới là kế sách tối thượng. Đừng nên chỉ lấy chuyện bày vẽ bề ngoài của thế tục
để trọn lòng hiếu thì ông sẽ được hưởng lợi ích lớn lao, chứ không phải do niệm
Phật cho Sài lão thái phu nhân mà ông chẳng được lợi ích. Nên biết rằng: Ông do
tấm lòng hiếu thảo báo ân, niệm Phật cho Sài lão thái phu nhân, so với chuyên
niệm cho chính mình công đức càng lớn hơn! Do vậy, [nhà Phật] mong cho con người
vì khắp tứ ân tam hữu pháp giới chúng sanh mà hồi hướng. Huống hồ lão thái phu
nhân là người mà ta đã nhận đại ân ư? Ông cứ theo đó mà suy thì cũng có thể tùy
theo cơ duyên để hướng dẫn vậy!
500. Thư trả lời cư sĩ Ôn Quang Hy (thư thứ hai)
Nhận được thư ông đầy đủ. Ông vọng tưởng
đến cùng cực, làm chuyện rất rạng rỡ, lớn lao, rộng lớn, nhưng chẳng biết đấy đều
là những chuyện đi xuống, chứ không phải là hướng thượng! Đang trong thời thế
này, ông có thần thông, đạo lực gì mà muốn làm chuyện kinh thiên động địa? Dẫu
để làm việc trong chánh trường đi nữa, có ai không phải vận động bẩn thỉu để lọt
vào. Đã do vận động bẩn thỉu mà đạt được địa vị ấy thì có thể hiên ngang, thẳng
thắn, chẳng phải bợ đỡ cấp trên hay chăng? Quan văn chẳng mê tiền, nếu chẳng
bóc lột mỡ màng của dân chúng thì tiền vốn vận động còn chưa thể có được, huống
là [có tiền để] dâng cúng cấp trên ư? Dâng cúng cấp trên vẫn chưa phải là chánh
yếu, đối với những thuộc hạ của cấp trên đều phải dựa theo thời, theo dịp để tặng
quà, để mong họ nói tốt trước mặt cấp trên, chẳng buông lời gièm xiểm. Nếu là
người thật sự vì trăm họ, chẳng những không có tiền mà sợ còn khó giữ được tánh
mạng!
Ông mơ giấc
mộng to quá, đúng là chí lớn, ăn nói lớn lối, chẳng biết tài năng của chính
mình ra sao cũng như đang ở trong thời nào. Hãy nên nói với họ về lợi - hại của
chuyện tiết dục và buông lung lòng dục thì về lý lẫn về tình đều được ổn thỏa.
Ông chỉ biết ăn nói đao to búa lớn, chẳng biết lời lẽ lớn lao phải phát xuất từ
thật hành thì mới có ích. Học vấn cần phải phát xuất từ thực tiễn thì mới có thể
tự lợi, lợi người. Nếu không, học vấn càng cao, càng dễ làm hỏng việc. Vì thế
nói: “Hữu đức giả tất hữu ngôn; hữu ngôn
giả bất tất hữu đức” (Người có đức ắt thốt lời, kẻ thốt lời chưa chắc đã có
đức). Nếu chính mình chánh kiến chưa mở mang, lầm lạc học theo cái học ma quỷ của
ngoại đạo, hiếm có ai chẳng bị biến đổi theo chúng. Ông còn chưa biết đến sự xấu
xa của gã X…. Gã X… xấu xa không phải vì thiếu học vấn mà vì chẳng biết tự lượng,
dối xưng là đại thông gia! Phận sự chánh yếu ông còn lo chưa rồi, há nên phát
ra cái tâm ấy? Muốn vào hang hùm thì thân sẽ táng trong bụng hùm là điều đoán
chắc!
Trước kia,
khi ông chưa có tiền tài, thế lực, bèn hâm mộ sự vinh hiển, giàu có của những kẻ
có thế lực, toan dùng đó để khoe khoang trong làng xóm, cho là đã làm rạng mày
nở mặt tổ tiên. Nếu tổ tiên có thiêng, ắt sẽ khóc cạn nước mắt! Sợ ông hễ được
đắc ý sẽ hoàn toàn chôn vùi cái chí ban đầu, chắc sẽ đến nỗi càng tệ hại hơn bọn
họ! Vì sao vậy? Do nhiệt thành hâm mộ sự phú quý bất nghĩa, nên hễ được phú quý
sẽ bị phú quý xoay chuyển. Chẳng đáng buồn ư? Ông hoàn toàn là một kẻ không có
chánh tri kiến, đã niệm Phật lâu ngày lại ngờ niệm Phật sẽ lôi kéo quỷ tới rồi
sanh lòng sợ hãi. Có tri kiến như vậy há có thể nào chẳng ngả theo thế lực quan
quyền phú quý, chẳng tạo nghiệp ác ư? Anh chàng X… và ông Y… đều là kẻ hiểu Duy
Thức, nếu dùng Duy Thức để kiếm tiền, sao dám bảo “noi theo dấu ngài Huyền
Trang?” (Do trước đó ông đã nói đến việc dõi theo dấu chân của Huyền
Trang Tam Tạng). Ông muốn thấy người khác liền
nói nhân quả để hết thảy mọi người đều tin nhận vâng làm, mà lại còn kiếm tiền
được, bất luận vị đại lão quan hay gã trai khổ não nào, trai trai, gái gái, đều
cùng họ bàn luận kỹ càng, khiến họ đều sanh lòng vui thích thì chỉ có cách xem
tướng là hữu ích nhất. Nếu nghề nghiệp thật sự tinh thông thì bất luận kẻ ương
ngạnh khó giáo hóa đến đâu, hễ được ông chỉ bày tiền nhân hậu quả ắt sẽ nghe
theo. Đấy là chuyện dễ làm nhất trong chốn giang hồ.
Nếu lại
còn biết xem Bát Tự thì càng thu hút rộng rãi. Trong thời Hàm Phong - Đồng Trị
nhà Thanh, có một người học xem tướng nhưng học không thành, xin học thuật Đạt
Ma tướng pháp[28]
cũng không hiểu được lẽ ảo diệu của nó. Sau đấy bèn dốc hết lòng Thành lễ bái,
lâu ngày liền sáng suốt, những chuyện trong nhà và đời trước của người ta đều
biết rõ hết. Một buổi sáng gặp mấy tên lính, cầm lệnh phù sang kho đạn lãnh thuốc
súng, bèn hỏi họ sẽ lãnh mấy thùng. Họ đáp sáu thùng; ông ta nói: “Sáu thùng
không đủ đâu, nên lãnh bảy thùng!” Bọn họ nói: “Quân lệnh nào dám trái!” Ông ta
chỉ nói: “Tôi bảo các anh lấy, sáng mai sẽ biết. Nếu không, tôi sẽ chịu phạt”.
Họ liền lấy bảy thùng. Đêm ấy khéo sao bọn giặc tới cướp doanh trại, dùng hết sáu
thùng thuốc súng, giặc vẫn không lui, bèn khui thùng thứ bảy thì bọn giặc liền
rút lui. Vị thầy xem tướng ấy do nhất tâm cầu Tam Bảo gia bị chuyển hóa mà biết
được chuyện đời trước, đời sau.
Ông nên
lưu tâm học xem tướng, lại còn chuyên chí lễ bái đức Đại Bi Linh Cảm Quán Thế
Âm Bồ Tát Ma Ha Tát. Tuy chưa thể cao minh như người ấy, nhưng đã có thể vượt
trỗi những thầy tướng hiện thời, lại còn dùng sự lý nhân quả tội phước để bình
luận thì tiền tài, danh dự, công đức đều có thể đạt được. Đấy là chuyện ổn thỏa
nhất trong hiện tại, mượn thuật ấy để hành thì không đâu chẳng thông. Những câu
giải đáp được liệt kê như sau:
1) [Vương] Dương Minh là nhà Nho. Dựa
theo nghĩa lý của nhà Nho để giảng giải thì khá gần với đạo lý Phật pháp; nhưng
nếu như lời ông nói thì có thể khiến cho nhà Nho đều hành theo hay chăng? Cổ
nhân nêu tỏ đạo mầu phần nhiều mượn thí dụ “tấm
lòng của con đỏ, hồn nhiên không phân biệt”; do [tấm lòng của con đỏ] gần
giống như sự không phân biệt bởi đã hết sạch nhân dục, thiên lý lưu hành. Ông
bèn chấp trước, đem so sánh “cái tâm của
con đỏ” với Chân Như bổn tánh, há có đáng gọi là “kẻ khéo dạy người khác nhập
đạo” ư? [Người ta] nêu cái quạt để ví mặt trăng, mượn sự lay động của cây cối để
giải thích về gió, ông liền tìm ánh sáng nơi quạt, tìm sự phất phơ nơi cây, tức
là hoàn toàn chẳng biết pháp phương tiện để dạy người! Dẫu nói cho thật hữu lý
thì vẫn chẳng phải là pháp để làm lợi kẻ sơ tâm. Huống chi nhà Nho trọn chẳng
biết đến Chân Như Phật tánh! Chẳng nêu bày ở chỗ ấy thì chẳng có cách nào nhập
đạo được!
2) Nhà Nho ăn nói phải dựa theo những
điều vốn được [Nho giáo] đề cao. Nếu nói đến Phật tâm chính là xiển dương Phật
pháp. Cố nhiên những kẻ ấy do học Phật mà có sở đắc, nhưng lời lẽ vẫn y theo
khuôn mẫu của Nho gia. Chẳng qua là ý nghĩa gần gũi với nhà Phật, ông có biết
hay chăng?
3) Sách của
Vương Dương Minh, thoạt đầu tôi chưa xem qua. Bốn năm trước, do thỉnh một bộ
Dương Minh Toàn Tập, giở xem đại lược, rảnh đâu để học theo ông ta! Năm trước, do
tôi muốn ẩn dật tại Hương Cảng nên bèn gởi [bộ sách ấy] về [tặng] thư viện huyện
Cáp Dương.
4) Trong
thời buổi này, ông luôn niệm niệm mong thành danh để lập từ đường, coi đó là
chuyện để rạng mặt nở mày cha mẹ. Chí ấy ô trược, hèn tệ, đã gây nhục cho bà nội
kế là Sài lão thái quân nơi chín suối. Huống chi nếu thật sự có thể thỏa mãn mục
đích của Sài lão thái phu nhân thì sợ rằng sẽ khiến cho ông bà nội và cha mẹ
ông đều cùng đọa xuống tầng chót trong địa ngục A Tỳ! Buồn thay!
5) Viên Tử
Tài là gã cuồng! Thoạt đầu chẳng hề tin Phật, nếu tin Phật sao lại báng Phật? Đến
tuổi già do từng trải sâu hơn, biết Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn, nên các chuyện
cảm ứng đều ghi chép lại, nhưng trọn chưa từng thân cận tri thức và đọc nhiều
kinh luận Đại Thừa nên những gì ông ta nói phần nhiều đều chẳng đúng pháp. [Chẳng
hạn như ông ta biện bác] “giới luật chẳng
cho tổn thương đến một cọng cỏ nên chẳng thể ăn chay bởi lẽ ăn rau là sát
sanh”. Lời lẽ ấy đều là những lời lẽ cong vạy, hư vọng, nhằm ngăn cản người
khác ăn chay, khuyên người ta ăn thịt! Sao không nói: “Ta cũng có thịt, xin hãy
ăn thịt ta trước”. Dẫu có giết ông ta, ông ta cũng chẳng chịu thốt lời ấy! Coi
ăn rau là sát sanh cũng là tà thuyết giống như “khuyên ăn thịt” vậy, chẳng cần
công kích mà tự bị phá!
Con người
sống trong thế gian ai có thể chẳng hít thở? Coi hít thở gây tổn hại cho những
loài trùng tí xíu là ăn thịt, sát sanh, nhưng lại khuyên người ta hằng ngày giết
những con vật lớn để ăn thịt! Loại tà thuyết ấy giống như kẻ ngu thấy người
khác dùng phân để bón cho đất màu mỡ thì các loại hạt ngũ cốc mập chắc, rau cỏ
tươi non, mập mạp, sởn sơ, thơm ngon, bèn bảo: “Phân là vật tốt nhất. Hãy nên
chuyên ăn thứ này thì càng được tốt đẹp chẳng khác gì!” Người đời phần nhiều cậy
vào thứ tà thuyết chẳng dựa theo đạo lý ấy để cản người khác ăn chay, khen ngợi
kẻ sát sanh. Năm xưa có người đem chuyện này hỏi, tôi liền dùng một thí dụ để
đáp lời. Chúng ta sống trong vòng trời đất, ai có thể không hít thở? Do hít thở
gây tổn thương những sanh vật nhỏ bé liền nói “ăn chay không hợp lý”, ấy chính
là cái tâm xấu hèn của gã tiểu nhân ngăn trở người khác làm lành vậy!
Ví như có kẻ
sanh trưởng trong nhà xí, thường nghĩ thức ăn trong nhà xí quả thật là cao sang
nhất, ngon lành nhất. Nhưng ở chỗ ấy có vị trưởng giả giàu có lớn; hắn ta sợ vị
trưởng giả đó chưa từng được hưởng qua những vị ngon lành ấy, do vậy đưa thư mời
trưởng giả vào nhà xí dự tiệc. Vị trưởng giả kinh ngạc, mắng: “Ngươi đúng là kẻ
chẳng biết hổ thẹn! Toàn thân ngươi nằm trong hầm phân, hằng ngày lấy phân làm
cơm áo, sao dám mời ta đến chỗ ngươi ở?” Kẻ ở trong hầm phân nghe vậy, nổi giận
đùng đùng, chửi bới: “Đồ hầm cầu nhà ngươi sao dám chửi ta hằng ngày ăn phân
nhơ? Trong bụng ngươi đầy ắp phân tiểu. Kè kè cái thùng đựng phân ấy mà còn muốn
nói thanh tịnh! Muỗi, ve, chấy, rận xả phân vãi tiểu trên đầu ngươi, thân ngươi.
Ngươi hoàn toàn là một cái hầm phân, sao dám chửi người khác? Hơn nữa, gạo nước
ngươi ăn vào đó đều đã có trùng thải phân vãi tiểu lẫn trong ấy, chẳng phải
ngươi đã ăn phân, uống nước tiểu ư? Sao dám chửi ta là ăn phân, uống nước tiểu?”
Vị trưởng
giả ấy tuy khiết tịnh, nhưng những lời trách mắng của kẻ trong hầm phân đều chẳng
tránh khỏi, vậy thì cứ theo đúng những gì mình có thể làm được mà nói đến chuyện
khiết tịnh, hay là sẽ vâng theo lời kẻ sống trong hầm phân đến chỗ hắn dự tiệc ư?
Đã chỉ nên dựa theo những gì mình có thể làm được để làm, sao lại đem chuyện
không làm được để trách móc người khác ư? Cứ muốn buộc người khác ăn thịt, sao
chẳng mời người khác ăn thịt mình? Lời nói này cũng có thể làm tấm gương sáng
cho những kẻ tà kiến vậy! Ông đã soạn cuốn sách Khuyến Tu Hành Giới Sát Ngật Tố
Văn (văn khuyên tu hành kiêng giết ăn chay); trong tương lai khi tái bản sách ấy,
hãy nên đem ý này thêm vào để chỉ bày cho kẻ thiếu tri kiến trong thiên hạ đời
sau.
6) Ông lập
ra thuyết ấy khá hữu lý, nhưng ông đả phá Dương Minh, mà ở chỗ ấy ý ông và
Dương Minh đâu có khác gì? “Nhân tâm duy
nguy, đạo tâm duy vi” (lòng người nguy hiểm khó lường, đạo tâm nhỏ nhiệm[29]),
nói xuông thì dễ, thực hành khó lắm! Ông Ôn Quang Hy đừng mơ phát tài làm quan.
Nếu Ôn Quang Hy phát tài làm quan, quyết chẳng thể vượt trỗi hạng tầm thường, lập
công nghiệp lớn lao được! Do ông còn chưa được phú quý, ở đậu tạm thời trong nhà
họ Kê, mà trước hết đã không giữ được nổi [cái tâm không ham muốn sự giàu sang
của người ta] thì sau này làm sao giữ được?
7) Coi lời thành thật từ kim khẩu của
đức Phật là ngụ ngôn, đấy chính là tà kiến, báng Phật, báng Pháp; làm sao nói
nhân quả để cảm hóa người khác cho được? Phụ nữ nhà giàu có ở Trùng Khánh muốn
làm gái làng chơi, cũng là do đã coi mối quan hệ vợ chồng do thánh nhân chế định
như sự đặt bày trống rỗng. Trong ý họ há cũng có lý “vợ chồng nhất định chẳng
được hỗn tạp” ư?
8) Các nhà khoa học nói như thế cũng
phải là không có lý do, nhưng họ chẳng biết tới nghĩa “duy tâm sở cảm, duy tâm sở hiện”. Vì thế trở thành tà thuyết dối
dân, hủy báng Phật pháp, ngăn trở người khác tấn tu.
9) Ông nói như vậy thì tâm can của ông
đã hoàn toàn lộ rõ hết ra, như vậy thì ông nói học đạo nhưng đâu phải là học đạo,
mà chính là học nghề đấy chứ!
10) Cảm Ứng Thiên vốn xuất phát từ
sách Bão Phác Tử, nhưng lời lẽ trong sách ấy (tức Cảm Ứng Thiên) có ích cho cõi
đời, nên được tôn là “Thái Thượng quân tử” (bậc quân tử cao quý nhất), chứ
không coi là lời lẽ vớ vẩn của con người. Có mấy ai biết được năm ngàn chữ? Người
tầm thường hiểu biết năm ngàn chữ ấy sẽ không bằng một người tầm thường biết tới
Cảm Ứng Thiên, do đã đạt được lợi ích thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia rất
nhiều. Ông bàn luận “có nên đưa [Cảm Ứng Thiên] vào chánh sử hay không nên đưa
vào”, còn tôi chỉ quan tâm ở chỗ sách ấy có ích cho thân ta lẫn nước ta mà
thôi!
11) Hai pháp Định - Huệ được bao quát
trong việc học Phật đạo. Nếu chỉ hiểu là một chữ Tĩnh sẽ nhỏ nhoi lắm! Trần Bạch
Sa, Châu Hối Am[30]
cho là “rớt vào chỗ trống rỗng, mờ mịt” là vì họ tưởng “ngoan không” (trống
không rỗng tuếch) chính là Tĩnh của nhà Phật. Nếu không phải là ma mãnh cố ý hủy
báng thì họ chẳng biết gì về ý nghĩa Chân Tĩnh trong nhà Phật cả! Chuyện “kính”
chính là cửa ngõ để nhập đạo. Nếu lý luận một cách trái lẽ sẽ thành trái nghịch
đạo trời, là đại bất kính. Những vị tiên sinh bên Lý Học chú trọng vào “tiểu
kính” (sự cung kính nhỏ nhặt, vụn vặt) nhưng đều phạm đại bất kính! Do những lời
lẽ họ bàn luận về lý tột cùng của tâm tánh đều là trái trời nghịch lý, cho nên
gọi họ là “họ phạm đại bất kính”. Ông nên biết như vậy.
12) Châu Tử (Châu Hy) dạy người khác đừng
tụng kinh tức là báng Phật pháp, còn tôi dạy người khác đừng tụng kinh là vì thận
trọng nơi chuyện ấy. Do ân cha mẹ sâu nặng, hãy nên nghiêm túc thỉnh tăng sĩ có
đạo tâm niệm Phật; chớ nên thỉnh những ông tăng chuyên làm kinh sám đến tụng
kinh, bái sám, làm đàn Thủy Lục chỉ nhằm phô trương, hoa mỹ trống rỗng. Sao ông
chẳng đọc những đoạn văn trên và dưới câu ấy, lại cắt lấy một câu ở chính giữa
rồi luận đúng - sai xằng bậy! Do vậy tôi biết ông tâm bộp chộp, tánh tình hời hợt,
mọi chuyện đều cẩu thả. Từ nay ông đừng gởi thư đến nữa, gởi đến sẽ không trả lời.
Nếu trả lời thì không có tinh thần ấy, ông có biết hay chăng? Nguyện vợ chồng
con cái ông siêng năng niệm Phật, xin hãy sáng suốt soi xét.
501. Thư trả lời cư sĩ Ôn Quang Hy (thư thứ ba)
Lá thư ông tự thố lộ mình đã khởi dâm niệm ở
Trùng Khánh Điện Ảnh Viện tôi đã nhận được rồi. Tình niệm của con người như nước,
lễ pháp như đê. “Nam nữ thọ thọ bất thân”[31],
chính là thánh nhân đã ngừa trước chuyện “do trao - nhận đồ vật mà đụng chạm,
chắc sẽ khởi lên ý niệm không trong sạch”. Muốn nắm tay thì khi chưa nắm đã có
chín phần dâm niệm rồi. Những nữ nhân khiêu vũ ấy mặc áo mỏng như the, như lượt,
nam nữ ôm nhau mười mấy phút, tới lần thứ ba thì đèn vặn mờ đi gần như chẳng thấy
được ai. Tình hình ấy hoàn toàn là hành vi cầm thú, nhưng khắp các ấp lớn đều ồ
ạt dựng cờ gióng trống mở trường dạy khiêu vũ. Chánh phủ và các nhà giáo dục đều
chẳng hỏi tới. Thế đạo nhân tâm còn mong chi tốt lành được nữa? Hãy nên nỗ lực
đoạn trừ những thứ tình niệm chẳng đúng pháp ấy, như [người xưa] đã nói: “Khử một phần tập khí nhơ bẩn, được một phần
lợi ích”.
Niệm Phật mà thấy các cảnh tượng thì đối với
cảnh ác chớ nên sợ hãi, chỉ nhiếp tâm chánh niệm, cảnh ấy liền tiêu. Với thiện cảnh
chớ nên hoan hỷ, chỉ nhiếp tâm chánh niệm, ắt sẽ có sở đắc, tức là nghiệp tiêu,
trí rạng. Nhưng [sở đắc] có cạn, có sâu, chớ nên sanh ý tưởng thỏa mãn, cho là
đã đầy đủ rồi, [không tu tập nữa]. Nhiếp tâm chánh niệm thì thiện cảnh càng rõ
rệt hơn hoặc liền biến mất, đừng quan tâm đến nó. Chỉ cốt sao niệm chẳng lìa Phật,
Phật chẳng lìa niệm là được rồi. Thấy thiện cảnh tâm địa thanh lương, trọn chẳng
có tâm vọng động, bộp chộp, chấp trước, cũng chẳng đoan chắc là đã nhập định.
Biết rõ đấy chỉ là duy tâm sở hiện, chẳng phải là đối cảnh vô tâm.
“Chẳng nhờ đến phương tiện mà tâm tự được mở mang” nghĩa là niệm như con nhớ mẹ, đấy chính là phương tiện
tối thượng, chẳng phải nhờ cậy vào các phương tiện khác! Ông hiểu lầm “không chấp
trước” là “quét sạch” nên mới có [nhận định] tương phản với pháp được tạo lập ấy.
“Như con nhớ mẹ” sao lại bảo là “quét
sạch”? Nếu thánh cảnh hiện, biết cảnh ấy chỉ là duy tâm; hễ chấp trước thì
không phải là duy tâm. Do kẻ sơ tâm hễ thấy thánh cảnh, phần nhiều chẳng biết
là duy tâm, nên sanh lòng chấp trước. Hễ chấp trước thì nếu không phải là hạng
“được chút ít đã cho là đủ” thì cũng là “bị ma dựa phát cuồng!” Do đó, kinh dạy:
“Nếu tâm chẳng cho đó là thánh cảnh, bảo
là mình đã chứng thì gọi là cảnh giới tốt lành. Nếu tưởng là thánh cảnh, liền bị
vướng trong lũ ma, bị ma dựa phát cuồng”.
Ông là một
gã si dại chẳng hiểu chuyện, há nên đem chuyện dụng công lúc thường ngày để
sánh ví với sự đau xót, khẩn thiết dốc sức khi lâm chung lúc tướng địa ngục hiện!
Như đứa con hiếu lúc bình thường nghĩ đến cha mẹ, tuy cực khẩn thiết, trọn chẳng
thể buồn rầu, đau đớn bằng khi cha mẹ đã chết, chẳng màng đến thân mạng [của
chính mình] nữa! Ông hãy nên dựa theo sự tướng, chí thành khẩn thiết để tu. Nếu
nói lý mà tâm thật sự chẳng thông thì đã vừa vô ích mà còn tự bị tổn hại! Hễ cảnh
hiện bèn khám nghiệm, ông bảo đấy là phân biệt; nhưng ông đã thấy được cảnh thì
khám nghiệm nó đâu có trở ngại gì? Người khám nghiệm chẳng khởi lên một phương
pháp nào khác, vẫn là nhiếp tâm nơi Phật, chẳng để niệm thứ hai khởi lên.
Do ông chẳng
biết cách khám nghiệm, tưởng rằng có cách khám nghiệm khác nên ngược ngạo biến
thành phân biệt. Người niệm Phật trọn chẳng phải là kẻ lơ mơ, không phân biệt
hiểu biết! Như gương soi vật, vật đến liền hiện bóng; vật đi sẽ không còn [hình
bóng] nữa! Lời ông nói đều là chưa bị ma dựa lại muốn bị ma dựa, chứ đâu phải
là nói về cách ngăn ngừa cho khỏi bị ma dựa! Do ông dùng cái tâm bộp chộp, vọng
động gấp gáp muốn đạt được cảnh ấy nên đâm ra trở thành chướng ngại. Đang trong
đại kiếp này, há nên chẳng chí tâm niệm Phật mà cứ vọng tưởng tơi bời, luận nói
những lời xuông rỗng ư? Sự nguy hiểm trong Mật tông quả thật chẳng có bút mực
nào có thể diễn tả được! Xin hãy giữ chết cứng Tịnh Độ để tu trì, nhường cho kẻ
khác [tu các pháp khác] đều thành Phật. Xin hãy sáng suốt suy xét!
502. Thư trả lời cư sĩ Ôn Quang Hy (thư thứ tư)
Hôm mồng Hai tôi gởi sang Trùng Khánh
một lá thư, chắc ông đã nhận được rồi. Phàm là người tu hành chỉ nên lắng lòng
tịnh niệm, chớ nên dấy lên những mong mỏi vượt phận. Ngay như chuyện nhắm mắt
thấy ánh sáng trắng, tâm chẳng nghĩ là có sở đắc, cố nhiên sẽ là dấu hiệu tốt
lành. Nếu cho là đã đắc, thì nhẹ là lui sụt, lười nhác, mà nặng là phát cuồng! Người
bệnh nhất tâm niệm Phật đợi chết, nếu tuổi thọ chưa hết sẽ mau được lành bệnh.
Nếu tuổi thọ đã hết, chắc chắn được vãng sanh. Nếu lúc đang bệnh tật, mong
chóng được lành, trọn chẳng có ý niệm cầu vãng sanh thì nếu tuổi thọ chưa hết,
do cầu gấp được lành bệnh, sẽ chẳng chịu nhất tâm niệm Phật. Tuy niệm Phật,
nhưng vọng niệm “cầu được lành bệnh” quá nặng, đâm ra chẳng tương ứng với Phật,
quyết khó thể mau chóng lành bệnh được! Nếu tuổi thọ đã hết, do tâm cầu lành bệnh
thiết tha, chắc chắn chẳng có chuyện vãng sanh, sẽ trở thành cầu đọa trong tam
đồ lục đạo, vĩnh viễn chẳng thoát lìa vậy!
Người đời
nay đa số khởi vọng tưởng vượt phận, mong được thần thông bèn học Mật Tông (những
người tu Mật tông chân thật không thuộc trong số này), như gã ma Phó X…. chết ở Bắc Bình, các đệ tử của gã Y… có kẻ muốn
phát tài lớn đâm ra bị hao hụt một hai trăm vạn. Có kẻ muốn được quyền lợi đâm
ra mấy chục người bị nhốt trong lao ngục. Có kẻ muốn được thành Phật ngay tức
khắc, đâm ra bị ma dựa phát cuồng. Gã A… nọ tôn lạt-ma B… làm thầy; vị thầy ấy
có thần thông biết được quá khứ, vị lai. Gạn hỏi đến chuyện độc lập, thì liền mất
mạng ngay trong hôm độc lập. Lạt ma B… và thần thông của ông C…. khiến cho nhiều
đệ tử hết sức sùng phụng họ bị liên lụy, đủ biết thầy lẫn đệ tử đều chẳng giữ
yên bổn phận. Không có thần thông, há nên mạo xưng thần thông! Học Phật pháp,
há nên mù quáng quấy rối, mưu toan phát tài lớn lao, được quyền hành lớn lao ư?
Nhân địa chẳng thật, sẽ chuốc lấy cái quả cong vẹo. Ông hãy nên giữ phận, mặc kệ
cho người ta đều thành Phật, dẫu cho ông chẳng đạt được điều gì lớn lao, nhưng
đã có nhiều vị Phật như thế đấy thì họ sẽ chẳng thể nào không độ được ông!
503. Thư trả lời cư sĩ Ôn Quang Hy (thư thứ năm)
Nhận được cuốn sách Trúc Hư của lệnh nội[32]
ở Thành Đô, biết rõ bà ta mang tâm lợi sanh sâu đậm, khôn ngăn cảm kích, khâm
phục. Nhưng nói “Ấn Quang quả thật có thể
lấy tri kiến của Phật làm tri kiến [của chính mình]” thì Quang là hạng người
nào mà dám nhận sự khen ngợi quá lố như thế? Chẳng qua lòng dạ thẳng băng, ăn
nói thẳng tuột, nói ra những điều tôi thấy được mà thôi! Dẫu thích đáng hay
không thích đáng, cứ mặc cho người đọc phán đoán mà thôi, Quang quyết chẳng suy
tính đến điều ấy.
Từ xưa chư
Tổ hoằng pháp đều dựa theo thời tiết, căn cơ để hướng dẫn cho hàng hậu học đạt
được lợi ích, chẳng được bảo là [các Ngài] thiên chấp! Phải thấu hiểu nỗi khổ
tâm của các ngài trong thời buổi ấy. “Duy
tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà”, lời ấy vốn không có khuyết điểm gì! Khuyết điểm
là do người học chẳng hiểu ý nghĩa trọn vẹn, cứ chấp chết cứng vào một bên, bèn
giống như gã thấy biết hẹp hòi, lệch lạc, chấp trước. Kẻ chưa chứng đắc trong
nhà Thiền chỉ chấp vào “duy tâm Tịnh Độ,
tự tánh Di Đà”, nói Tịnh Độ lẫn Di Đà đều chẳng phải là thật có. Hạng người
ấy vốn chẳng hiểu Thiền, huống hồ Tịnh Độ? “Duy
tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà” như các vị cổ đức Tịnh Độ đã nói, chính là nói:
“Tây Phương Tịnh Độ chẳng ra ngoài duy
tâm, A Di Đà Phật chẳng rời ngoài tự tánh”. Tánh - tướng, lý - sự, nhân - quả
đều được phô bày trọn vẹn trong ấy. Các hạ mắc bệnh thiên chấp, chẳng thể nhiếp
trọn khắp được! Nếu bảo là người học do độn căn nên khó thể lãnh hội thì được,
chứ nếu bảo lời ấy của cổ đức có khuyết điểm thì không được!
“Sanh thì quyết định sanh, đi thì thật sự chẳng đi” và “sanh thì thật
sự chẳng sanh, đi thì quyết định đi”, đều là những lời khuôn phép nêu tỏ cả
Sự lẫn Lý; cần gì phải suy lường quá lố? Chẳng qua là vì con người hiện thời phần
nhiều đối với Sự lẫn Lý đều chưa hiểu trọn, chẳng thà cứ dựa theo Sự mà nói, chứ
chẳng nên dựa theo Lý để nói ngõ hầu họ khỏi bị hiểu lầm đến nỗi trở thành rộng
rãi, khoáng đạt xuông! Quang hổ thẹn đến cùng cực, đối với Lý Tánh tôi cũng
chưa hiểu rõ lắm. Nếu bắt chước con két học nói tiếng người thì cũng chẳng phải
là hoàn toàn không thể nói được! Chỉ có điều chẳng dám nhận mình là bậc thông
gia! Nếu ai chẳng chê Quang chưa thông suốt thì chẳng ngại gì đem sự không
thông suốt [của mình] thưa với họ. Do vậy, tôi chẳng chủ trương nói tới Lý Tánh
và những điều huyền diệu.
Các hạ tuổi
trẻ nhập đạo, học thức uyên bác, tâm lợi sanh tha thiết, nhưng do chưa thấu hiểu
sâu xa đạo “tùy theo căn cơ mà ban bố giáo pháp, do thời mà chế định những điều
nên làm” đến nỗi chê “cổ đức sai lầm”. Đấy cũng là dấu hiệu chỉ rõ ông hàm dưỡng
chưa đến nơi đến chốn! Đối với hạnh nguyện của Phật, Bồ Tát thì “một nhiếp hết
thảy”. Người đời sau khi nêu tỏ ai nấy đều tùy theo sự thấy biết của chính
mình, lẽ đâu dựa vào đó để chê cổ đức kém cỏi! Nếu chấp vào nghĩa ấy để hành, dẫu
cho đức Bổn Sư Thích Ca, Di Đà Thế Tôn cũng khó thoát nạn được!
Quang bế quan
trước, quả thật là vì sợ gây lầm lẫn cho người khác, chứ chẳng phải là muốn tự
lợi. Xin hãy tâm bình, khí hòa, chân thật thực hành thì sẽ có thể làm bậc đạo
sư cho cõi đời lúc này. Nếu không, sợ rằng Ôn Quang Hy đúng hay sai tuy khác với
Vương Canh Tâm, nhưng Ôn Quang Hy tự phụ chẳng khác gì Vương Canh Tâm vậy! Do
các hạ là người tu đạo, Quang cũng là người tu đạo nên nói thẳng thừng chẳng úp
mở gì!
Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tam Biên
Quyển 3
Phần 1
hết
[1] Trong lá thư gởi cho cư sĩ Phương Diệu Đình (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2, thư số 270), tổ Ấn Quang cho biết: “Hôm trước, Quán Âm Am ở Hoài An gởi tới một viên xá-lợi to bằng hạt kê, màu như ngọc Phỉ Thúy, nói là [viên xá-lợi ấy] kết từ hoa đèn thắp trước bàn Phật của một liên hữu; gởi tới muốn cậy Quang chứng minh, bình luận để khơi gợi lòng tin cho người khác. Quang liền đựng trong một cái hộp sứ cho mọi người xem; xem xong để thờ trước tượng Phật. Ngày hôm qua, sau buổi tụng kinh khóa sáng, mở hộp ra xem thì không còn nữa, chắc là đã trở về am đó rồi! Hôm qua tôi đã gởi thư hỏi chuyện ấy”. Như vậy là khi Tổ viết thư cho Dương Bội Văn, viên xá-lợi ấy vẫn chưa trở về Quán Âm Am. Xin xem thêm chi tiết về chuyện này trong “Bài ký về chuyện cư sĩ Dương Bội Văn được xá-lợi” thuộc Ấn Quang Văn Sao Tam Biên, quyển 3.
[2]
Hộc và Đấu là những đơn vị đo lường thời cổ,
có dung lượng biến đổi theo triều đại. Thời Tần, một Hộc bằng mười Đấu, mỗi Đấu
là 2 lít. Từ đời Tống trở đi, một Hộc bằng năm Đấu và dung lượng của Đấu lớn dần
lên, đến đời Thanh, một Đấu bằng 10 lít. Do kinh Phật đa số được dịch từ thời
Hán đến giữa đời Tống, nên ta có thể ước lượng một Hộc bằng mười Đấu và mỗi Đấu
từ 2 đến 3 lít.
[3] Tuyết Nham Khâm chính là hòa thượng Tuyết Nham Tổ Khâm (?-1287), thuộc phái Dương Kỳ tông Lâm Tế, người xứ Vụ Châu, pháp hiệu Tuyết Nham. Làm sa-di lúc năm tuổi, được thọ Cụ Túc năm mười sáu tuổi, trước sau từng tham học với các vị Diệu Phong Chi Thiện, Diệt Ông Văn Lễ (chùa Tịnh Từ) v.v… Sau đến Kính Sơn tham học với ngài Vô Chuẩn Sư Phạm, về sau làm người nối pháp của vị này. Từng được vua tặng ca sa tía, thanh danh lừng lẫy một thời. Sư thị tịch vào năm Chí Nguyên 24 đời Nguyên (1287), còn để lại Tuyết Nham Hòa Thượng Ngữ Lục (bốn quyển). Người nối pháp của Sư là ngài Cao Phong Nguyên Diệu (vị này chính là thầy thế độ cho ngài Trung Phong Minh Bổn).
[4] Thạch: Có hai đơn vị đo lường cùng gọi là Thạch.
1) Để đo dung tích thì một Thạch là 67 lít
2) Để đo trọng lượng thì một Thạch bằng 76 kg.
[5]
Tinh - Khí - Thần vốn là những khái niệm y học, được nhắc đến trong bộ sách y
khoa cổ nhất của Trung Quốc là Hoàng Đế Nội Kinh, bọn đạo sĩ đã thần bí hóa
khái niệm ấy và gán ghép rất nhiều cách giải thích phức tạp. Ông Thái Nhật Sơ
trong bài “Tinh - Khí - Thần Và Hoạt Động Sống Còn” đã giải thích khá rõ ràng
như sau: “Theo Trung Y Học, cái gọi là
Tinh tức là những vật chất tinh vi trong cơ thể con người, tức là những vật chất
cơ sở cấu tạo thành thân thể con người, là cái gốc của sanh mạng. Khí chính là
những công năng, động lực duy trì cuộc sống con người. Tánh mạng và sự hoạt động
của con người được duy trì bởi Khí, Thần là biểu hiện của Khí. Nói cách khác,
Thần là những gì được biểu hiện ra ngoài của sanh mạng và công năng của động lực
sống của con người như âm thanh, dáng vẻ, hình vóc, thái độ, tình cảm v.v… Như
vậy, Tinh là vật chất nuôi sống, Khí là vật chất có tác dụng dinh dưỡng được
chuyển hóa thành những năng lượng cần thiết cho cuộc sống, Thần bao gồm những
hoạt động sinh lý (bioglogical) và tâm lý của con người”.
[6] “Hồi sát” (回煞) là một thứ tín ngưỡng thông tục trong tang ma Trung Hoa đã có từ trước thời
Tần. Sát (煞) có nghĩa là tính ngày người chết trở về thăm nhà, mà
Sát cũng có nghĩa là các hung thần, tai vạ. Do vậy, Hồi Sát thường được hiểu
thành “đẩy lùi hung tai, hung thần”. Theo tín ngưỡng dân gian, linh hồn người
chết sẽ quay trở lại nhà do Sảnh Thần (眚神) dẫn đường trong một
thời gian ngắn sau khi chết. Ngày giờ ấy thường được giới đạo sĩ tính ra, gọi
là ngày Hồi Sát hay Tiếp Sảnh (接眚:
thường trong vòng từ bảy ngày đến mười bốn ngày
sau khi chết). Ngày hôm ấy, phải mời đạo sĩ cử hành cúng tế, yểm đảo với mục
đích ngăn ngừa những tà thần theo hồn người chết về bắt người thân chết theo
(người Việt thường gọi là Thần Trùng), đồng thời thân nhân người chết đêm ấy phải
ăn một số côn trùng đã hấp và tặng một loại bánh gọi là bánh Trạng Nguyên (hay
Tiếp Bài Cao) cho những hàng xóm thân thích để họ khỏi bị Thần Trùng quấy nhiễu.
Có những trường hợp theo bói toán, bị kỵ tuổi quá nặng, đến tối hôm Hồi Sát, cả
nhà phải bỏ trốn đi nơi khác mấy ngày.
[7] Mại (邁) là vượt xa, bước
đi.
[8] Giám đính phức tạp hơn giám định. Giám đính bao gồm
đính chánh những lỗi sai ngoa, kể cả ý tưởng, sửa đổi câu văn cho gãy gọn, gọt
giũa, sắp xếp lại văn bản nếu cần thiết, lược bỏ những ý kiến vũ đoán, thiên chấp,
tăng thêm những ý kiến, lý luận, chứng cứ để vấn đề trình bày mang tính cách
thuyết phục hơn, cũng như đưa ra ý kiến quyết định nếu một vấn đề được nêu
trong tác phẩm chưa rõ ràng, dứt khoát. Giám định phần nhiều là sửa sai, nhuận
sắc câu văn cho gãy gọn nhưng phải đảm bảo không sai ý tác giả. Giám định thường
áp dụng cho những tác phẩm của chính mình viết hoặc là do người khác sao chép lại
những lời mình nói để nhằm bảo đảm người biên tập, ấn hành sao chép tuân thủ
trung thành với ý tưởng của mình. Giám định đôi khi chỉ đơn giản là sửa cho
đúng những chỗ sai ngoa trong những tác phẩm cổ do sao chép, khắc in để bảo đảm
khôi phục đúng diện mục của các văn bản cổ. Ở đây, Tổ chỉ nêu ra những lỗi do
thiếu chấm câu, chữ bị sai nét, không đúng quy cách, hoặc bị sót chữ cho cuốn
Phật Pháp Yếu Luận nên chỉ gọi là “giảo đối”.
[9] Mao Thái là một loại giấy có màu ngà, hơi tối, không
dày lắm, sản xuất chủ yếu tại hai tỉnh Giang Tây, Phước Kiến vào đầu thời Dân
Quốc
[10] Vị cư sĩ này tên là La Tế Đồng, xin coi chi tiết
trong bài “Lời tựa sách Thọ Khang Bảo
Giám” (số 95) trong Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên, quyển
3.
[11] Trầm độc: Theo truyền thuyết Trầm (còn đọc là Trấm)
là một giống chim rất độc, một cái lông của nó rớt xuống nước thì cả dòng nước
liền hóa độc.
[12] Từ ngữ để gọi cha người khác nhằm thể hiện lòng kính
trọng.
[13] Do hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh (hay còn gọi
là sẵn có vị Phật thiên chân trong tâm) nên xét về Lý đều là Phật. Do vậy gọi
là Lý Tức Phật.
[14] Đây là một câu trích từ bài Chiêm Ngưỡng thuộc phần Đại
Nhã trong Kinh Thi. Theo từ điển Hán Tự Thành Ngữ, Lệ là tai họa, rắc rối, hoạn
nạn, Giai là bậc thềm, đầu mối dẫn dắt. Do vậy, câu này có thể tạm hiểu theo mặt
chữ là “vợ lưỡi dài chỉ tổ dẫn đến tai họa rắc rối”. Từ đó mới có thành ngữ “trường thiệt chi phụ” để chê những người
vợ lắm điều, thích bàn tán thị phi, gièm xiểm, càm ràm suốt ngày.
[15] Nguyên văn “Chân thể”, tức lối viết theo kiểu Chân
Thư, viết đầy đủ nét, không dùng cách viết tắt theo kiểu Tục thể, Phá thể, hoặc
Cổ thể để người đọc không bị hiểu lầm hoặc đọc sai.
[16] “Đồng khí liên chi” hay còn gọi là “đồng khí liên
căn” là thành ngữ dùng để chỉ tình thân thiết giữa anh chị em ruột thịt giống
như những cành nhánh mọc từ cùng một cái cây, cùng được hưởng sự vun bồi, nuôi
dưỡng từ thân cây.
[17] Đây là chỉ cách đọc thuận hay nghịch tùy theo cách hiểu
khác nhau của vai trò từng chữ trong câu:
1) Chữ 飯 nếu dùng như danh từ
thì đọc là Phạn có nghĩa là cơm. Nếu hiểu là động từ thì phải đọc thành Phản
(có nghĩa là ăn).
2) Chữ 食 nếu hiểu như động từ
thì đọc là Thực (ăn), còn hiểu là danh từ thì đọc thành Tự (đồ ăn), cho nên Tổ
mới nói Tự là cơm.
[18] Cho đến giữa đời Đường chữ Vô vẫn đọc với vận mẫu M
trong Hoa ngữ nên chữ 南無 thường được dùng để
phiên âm chữ Namo trong tiếng Phạn. Về sau, do âm Quan Thoại đọc hai chữ này thành Nán-wú nên để ghi âm đọc cho đúng với âm Phạn,
người Hoa thường phải dùng chữ Nạp-mạc (âm Quan Thoại là Nán muó; vì thế khi gặp
chữ này, người Việt thường đọc trại thành Nạp Mồ) để mô phỏng cách đọc trong
tiếng Phạn.
[19] Đồng Sự (Samānārthatā-samgraha) gọi đủ là Đồng Sự Nhiếp
(hoặc Đồng Sự Nhiếp Sự, Đồng Sự Tùy Thuận Phương Tiện, Tùy Chuyển Phương Tiện),
là một trong bốn nhiếp pháp của bậc Bồ Tát. Bồ Tát tùy thuận theo cơ duyên của
chúng sanh mà thị hiện, sống cùng với họ, mang hoàn cảnh giống như họ, làm việc
chung với họ để nhằm tạo lợi ích cho họ hòng dẫn dắt họ nhập Phật đạo, tiến nhập
Đại Thừa.
[20] Gọi là Chánh Hồi Hướng vì người niệm Phật phải cầu
mình và hết thảy hữu tình đều được vãng sanh Tây Phương, không mong cầu phước
báo đời sau. Những điều cầu nguyện khác như cầu siêu cho cha mẹ tổ tông đã quá
vãng được siêu thăng chỉ là điều cầu nguyện thêm.
[21] Khứ Thanh là một trong bốn âm điệu chánh của âm Quan
Thoại, hơi từa tựa như dấu sắc của tiếng Việt nhưng nhẹ hơn, thường được chú âm
giống như dấu huyền. Chữ 樂 có ba âm đọc là Lạc
(lè: vui), Nhạc (yuè: âm nhạc) và Nhạo (yào: ưa thích). Do ở đây được dùng với
ý nghĩa “ưa thích” nên phải đọc là Nhạo. Do trong tiếng Quan Thoại, Nhạo và Yếu
có cùng một âm đọc là Yào (lên giọng) nên Tổ mượn chữ Yếu để chỉ cách đọc chữ
Nhạo.
[22] Trong tiếng Quan Thoại, chữ 行
có bốn âm đọc là Xíng (động từ, có nghĩa là “làm”, âm Hán Việt tương ứng là
Hành, cùng âm Quan Thoại với chữ Hưng), háng (hãng xưởng, âm Hán Việt tương ứng
là Hàng hoặc Hãng), hàng (hàng, dãy, âm Hán Việt là Hàng), héng (việc làm, đạo
hạnh, âm Hán Việt là Hạnh). Chữ Hạn (限:xiàn) cũng có âm đọc
na ná như chữ Hưng và Hành nên Tổ dùng chữ Hạn để mô phỏng âm đọc chữ Hành.
[23] Lôi Phong Tháp vốn có tên là Hoàng Phi Tháp, do Tiền Thục (vua nước Ngô Việt thời Ngũ Đại) xây vào năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 2 (997) để cầu quốc thái dân an. Tháp nằm tại phía Nam của Tây Hồ, Hàng Châu, được coi là một thắng cảnh của vùng Hoa Nam. Dưới đáy tháp có lập địa cung tàng trữ xá-lợi Phật, tượng Phật, và những phẩm vật trân quý khác của Phật giáo thời ấy. Nổi tiếng nhất trong số ấy là bản kinh Nhất Thiết Như Lai Tâm Bí Mật Toàn Thân Xá Lợi Bảo Khiếp Ấn Đà La Ni, thường được gọi là Lôi Phong Tháp Kinh, dài đến 2 mét, nét chữ khắc cực kỳ tinh xảo, cũng như những hình vẽ, họa tiết trang trí, Phạn tự trong bản kinh đều không có một bản nào khác sánh bằng nên được coi là quốc bảo của Trung Hoa.
[24] Do ông Mã là người Hồi giáo nên Tổ khuyên cứ thực
hành Phật pháp, đừng bỏ đạo vì sẽ gây nên những tranh biện, mâu thuẫn trong
thân tộc.
[25]
Chữ Phong (豊)
là cách viết theo lối cổ của chữ Phong (豐),
âm đọc theo Lễ Ký hơi khác, nhưng âm đọc hiện thời đều là Fēng. Trong âm Hán Việt, chỉ có một cách đọc
là Phong. Phong (豊) chỉ có nghĩa là thịnh vượng, còn Phong (豐)
có nhiều nghĩa hơn.
[26] Hối là giáo huấn, khuyên răn. Như vậy ở đây có thể hiểu
điềm mộng của bà Tông Đức là Bồ Tát khuyên dạy vợ chồng ông Mã Tông Đạo hãy nên
khuyên lơn mẹ khiến cho thiện căn của bà cụ được nẩy nở trước nên Bồ Tát mới
đòi lấy cây mơ của mẹ ông Mã.
[27] Cao Dã Sơn (Kōya-san) là rặng núi thiêng đối với Phật giáo Nhật Bản, thuộc huyện Hòa Ca Sơn (Wakayama ken) của Nhật Bản. Đây là nơi Sai Nga Thiên Hoàng (Saga-tennō) ban cho Hoằng Pháp Đại Sư Không Hải (Kobodashi Kūkai), sáng tổ Chân Ngôn Tông (Shingon shu) Nhật Bản để lập đạo tràng tu hành sau khi Sư đã dùng đạo đức, mật pháp thuyết phục triều đình chấp nhận Chân Ngôn Tông (Mật Tông) do Sư du nhập từ Trung Quốc về vào năm Hoằng Nhân thứ bảy (816). Toàn núi có đến 117 ngôi chùa, được coi là Tổng Bổn Sơn (đạo tràng gốc) của mọi chi phái Mật Tông Nhật Bản. Ngôi chùa chánh yếu là Kim Cang Phong Tự (Kongōbu-ji).
[28] Đạt Ma tướng pháp là một trong các cách xem tướng người
(nhân tướng) khá phổ biến ở Trung Hoa dựa theo một bài khẩu quyết có tên là Đạt
Ma Tổ Sư Tướng Pháp Bí Quyết, tương truyền do tổ sư Bồ Đề Đạt Ma trong chín năm
diện bích tại động Thiếu Thất đã “ngộ” ra. Theo ngu ý, đây cũng là một thứ học
thuật của người Trung Hoa chế ra rồi mạo nhận tên Tổ Sư để tăng uy tín cho thuật
bói toán này. Cũng như Dịch Cân Kinh thường được coi là của tổ sư Bồ Đề Đạt Ma
truyền, nhưng dựa trên văn phong, thuật ngữ, các nhà nghiên cứu cho biết Dịch
Cân Kinh chỉ có thể xuất hiện sớm nhất vào đầu đời Minh!
[29] Đây là một câu nói trích từ thiên Đại Vũ Mô, sách
Thương Thư. Câu này dịch theo cách giải thích của Hán Tự Thành Ngữ Từ Điển.
[30] Trần Bạch Sa (1428-1500) tên thật là Hiến Chương, tự
Công Phủ, hiệu Thật Trai, do từng sống ở thôn Bạch Sa nên được gọi là Bạch Sa
tiên sinh. Chịu ảnh hưởng sâu đậm của Lý Học, từng theo học với học giả Ngô Dữ
Bật. Ông ta học rộng, có tài văn chương, rất được các danh nhân đương thời tán
thưởng, nhưng suốt đời nghèo hèn, thường nói: “Có hai khoảnh ruộng để cày cấy
là đủ rồi!” Ông ta đề xướng đường lối để thấu hiểu đạo Nho là “lấy Tĩnh làm chủ,
ngồi yên lắng lòng, trong sự yên tĩnh, dưỡng thần sẽ thấy được đầu mối”. Những
kẻ theo đường lối ấy được gọi là Giang Môn Học Phái.
Châu Hối Am chính là Châu Hy, tức một trong những người
sáng lập Lý Học.
[31]
Đây là một câu nói trích từ thiên Ly Lâu sách Mạnh Tử: “
[32] Danh xưng tỏ vẻ tôn kính vợ của người khác.