Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên

Quyển 3

Phần 2

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

Giảo chánh: Minh Tiến & Huệ Trang

 

511. Thư trả lời cư sĩ Ôn Quang Hy (thư thứ sáu)

 

      Đọc những gì ông nói, biết rõ ông tuy đọc Văn Sao, Gia Ngôn Lục mà vẫn y như cũ, chẳng chú ý tới chỗ khác biệt giữa Thiền và Tịnh. Nếu ông tin tưởng tới nơi tới chốn lời giải thích về giới hạn giữa Thiền và Tịnh, cần gì phải đi qua bảy tỉnh để cầu người quyết trạch[1] nữa ư? “Triệu Châu bát thập do hành cước” (Triệu Châu tám mươi tuổi vẫn hành cước[2]) là chuyện “quyết trạch kiến địa” trong nhà Thiền. Người niệm Phật chỉ nương theo ba kinh Tịnh Độ do đức Phật đã dạy, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương, cho nên chẳng cần phải lần lượt tìm người khai thị. Cổ nhân lập ngôn, mỗi vị đều có hạnh riêng, do ứng với căn cơ bất đồng nên nói ra những lời bất đồng. Hãy nên tự lượng chính mình thuộc tư cách nào thì mới chẳng hiểu sai ý nghĩa thật sự của những lời cổ nhân đã nói ra nhằm tương ứng với từng căn cơ!

Người đời nay trọn chẳng có duyên tu đạo như cổ nhân, thể lực của chính mình yếu đuối, tâm lượng hẹp hòi, nhỏ nhen, hoặc lại cuồng ngạo, trái nghịch; muốn kiếm được người hiểu biết, có đủ nhãn quan như cổ nhân thì trong ngàn vạn kẻ khó kiếm được một, hai! Có được pháp môn cậy vào Phật lực để liễu sanh tử này mà vẫn cứ coi rẻ, toan hướng đến bậc tri thức thuộc những pháp môn cậy vào tự lực để tìm tòi đường tắt liễu sanh tử thì đã là chẳng biết lợi - hại! Huống hồ lỡ gặp phải các bậc đại quyền thị hiện những hạnh chẳng hợp với đạo ư? Nếu ông chết được si tâm vọng tưởng, chắc chắn sẽ có thể vãng sanh Tây Phương ngay trong đời này. Nếu chưa tu mà đã muốn thấy được cảnh tốt đẹp ngay, chắc chắn mai sau sẽ có ngày bị ma dựa phát cuồng đấy!

Ví như mài gương, chất dơ mất đi, ánh sáng còn lại; lúc bụi nhơ chưa trừ sạch hết, làm sao có tướng tốt lành hiện ra cho được? Ông nói “hiện thời chưa thể nhất tâm, khi lâm chung sẽ khó thể đắc lực”, cũng là bàn luận theo kiểu chỉ biết nhặt nhạnh những lời cổ nhân đã nói, chứ chẳng tự lượng theo những gì chính mình làm được! Ông vừa mới phát tâm, chỉ mong không có hết thảy những tạp niệm vô vị đã là rất khó khăn rồi. Sao lại muốn ngay trong khi ấy sẽ thấy được những tướng tốt đẹp vậy? Ví như muốn cho trẻ gái mới vừa sanh ra liền đẻ được con, có lẽ ấy hay chăng? Nếu ông là hạng đại căn tánh túc căn đã chín muồi thì cố nhiên chẳng khó khăn cho lắm. Nếu không, do gấp gáp [mong cầu] sẽ phát cuồng, vĩnh viễn cắt đứt thiện căn. Muốn báo ân bà nội là Sài lão thái phu nhân và ân cha mẹ, nhưng chẳng chú ý nơi một pháp Niệm Phật, há chẳng phải là bỏ đại lợi ích để cầu tiểu lợi ích ư? Pháp Niệm Phật trọng tại lòng từ của đức Phật gia bị, dẫu là hạng phàm phu đầy dẫy Hoặc nghiệp vẫn có thể nương theo Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh; hết thảy những pháp khác trọn chẳng có nghĩa này!

Ông nói năm sáu năm qua, từ sau khi ra trường, mắc bệnh xương khớp rã rời, gần như đã chết một nửa người. Có phải vì [trong thuở còn đi học ấy] bạn bè đàn đúm tụ họp, cùng nhau đọc tiểu thuyết[3] đến nỗi chân tinh mất mát, thủ dâm liên tục, do vậy mới có hiện tượng ấy hay chăng? Đấy chính là căn bệnh chung của lũ học sinh trong hiện tại, trong mười đứa có đến tám chín đứa [vướng phải]. Do cha mẹ, thầy, bạn đều chẳng chịu nhắc đến, nên kẻ bị bệnh ngày thấy càng nhiều, chẳng thể ngăn dứt được! Do chuyện này, Quang liền cho in tám trăm cuốn Thọ Khang Bảo Giám. Hễ kẻ trẻ tuổi gặp Quang, Quang đều nói rõ lẽ lợi - hại với họ, bảo họ giữ gìn thân thể đừng phạm. Dù là thủ dâm hay tà dâm đều phải nghiêm túc kiêng dè, đừng phạm; ngay như vợ chồng ăn nằm với nhau cũng phải có chừng mực, cũng như biết kiêng kỵ để khỏi đến nỗi bị mất mạng oan uổng! Nếu không, người cực tốt cũng vẫn có thể chết vì chuyện này. Xúm nhau đổ thừa cho số mạng, chẳng biết tự mình đã nộp mạng! Ông còn rất trẻ mà đã bị bệnh, hãy nên thường đọc sách ấy, cũng như bảo Đức Chánh thường đọc. Đôi bên răn nhắc lẫn nhau, ngõ hầu những đứa con đã sanh như Quân Tốn v.v… đều được mũm mĩm, trưởng thành, tánh tình hiền thiện, vợ chồng ông sống hạnh phúc đến già, cùng sanh Tây Phương.

Nói tới chuyện làm quan lớn hay làm giáo viên có chức vụ cao, mà nếu có thể thay đổi phong tục, dẫn dắt dân hướng đến chỗ nhân từ, sống lâu theo đúng lẽ thánh hiền, cố nhiên là điều vinh hạnh. Chứ nếu chỉ có thể giúp cho những chuyện phế kinh điển, phế hiếu, phế luân thường v.v… thì địa vị càng lớn, tội nghiệp càng sâu, nhục nhã khôn cùng! Nếu ông vẫn coi chuyện bị [kẻ khác] đối xử lạnh nhạt là khổ thì ông sẽ trở thành một kẻ chẳng biết tốt - xấu! Ông muốn mưu tính [có được địa vị quan lớn hay một chức vụ lớn trong ngành giáo dục] là để cầu danh hay là để hành đạo vậy? Nếu để hành đạo thì hãy nên mưu tính, chứ để cầu danh thì đừng nên mưu toan! Do ông còn có cơm ăn, tổ phụ (ông nội) của ông là Hưng Toàn Công âm đức chẳng ít; há có nên vì cái danh xuông ấy mà chịu quỵ lụy kẻ khác, dẫu chẳng muốn gây nghiệp, há có được chăng? Ông hãy nên bỏ cái tâm ấy đi để sau này khỏi phải hối hận “cắn rốn không kịp”[4]. May là Đức Chánh hiền huệ, hãy nên bảo cô ta đọc kỹ Gia Ngôn Lục, Khuê Phạm, Lịch Sử [Cảm Ứng] Thống Kỷ, để trở thành bậc thầy khuôn mẫu cho nữ giới, mà con cái sanh ra sẽ đều thành hiền nhân, thiện nhân, may mắn chi hơn?

Gia cảnh ông khá dư dả, hãy nên in Lịch Sử Thống Kỷ bao nhiêu đó bộ để tặng cho đất Xuyên (Tứ Xuyên), ngõ hầu những tay hào kiệt dấy lên sau này đều biết “nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi cũng là nhiệm vụ trọng yếu khiến cho đời yên dân lành”. Nếu muốn in, hãy tiếp xúc với ông X… Mấy chục năm qua, Quang gởi cho Tứ Xuyên các thứ sách thật nhiều. Một là vì đất Xuyên quá xa, cũng như do thầy tôi xuất gia tại núi Nga Mi. “Tinh tinh” nghĩa là “tỉnh ngộ, hiểu rõ”, ông dùng chữ ấy sao được? Ăn nói vẫn là lời lẽ hồ đồ, lại tự xưng là “chừng mực, tinh tinh đến cùng cực!” Dùng chữ hãy nên lưu tâm! Nói chung, ông đã quy y Phật pháp, ắt phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành. Lại còn phải thật vì sanh tử, phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật, quyết định cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Dùng những điều ấy để tự hành, lại còn dạy người, sẽ là đệ tử thật sự của đức Phật, đáng gọi “chẳng khiến đấng sanh ra ta phải hổ thẹn!” Nguyện ông và Đức Chánh cùng cố gắng thì may mắn lắm thay!

 

512. Thư trả lời cư sĩ Ôn Quang Hy (thư thứ bảy)

 

      Tánh tình ông đúng là hệt như trẻ nít. Lần trước tôi đã gởi cho ông một bức thư dài vì sợ ông ham danh sẽ gia nhập quân đội hay tham dự chánh trường. [Trong lá thư ấy] đã cực lực bày tỏ lẽ lợi - hại, sao không lấy những lời bàn luận ấy để định hướng cho tương lai? Ông lại hận vì [do tôi] bế quan nên chẳng thể chỉ dạy trọn khắp, lại than “mờ mịt không chỗ nương theo!” Nếu ông nghe lời tôi, sao lại “mờ mịt không chỗ nương theo” cho được? Ông không nghe lời tôi thì sẽ mờ mịt không chỗ nương theo cho đến tận sau khi đã nhắm mắt. Gia cảnh ông may mắn không thiếu hụt, lẽ ra hãy nên trong lúc này càng thêm gắng sức tu trì nhằm mong khỏi bị mắc họa, lại cứ muốn đâm đầu vào hang họa để được cái hư danh chẳng đáng một tiếng than ư? Chẳng tính tới cái họa cùng cực là “đời đời kiếp kiếp vĩnh viễn đọa trong ác đạo”; bệnh cuồng của ông có thể nói là cực cuồng!

Gia Ngôn Lục, Văn Sao chẳng phải là khai thị ư? Những sách trước kia và những cuốn sách rút gọn v.v… chẳng phải là khai thị ư? Nếu như ý ông, dẫu có bao nhiêu sách vở đến nỗi phải dùng lừa, lạc đà để chở tới chắc cũng chẳng vừa ý ông. Ông thật đúng là kẻ đáng thương! Xin hãy nhất tâm trì chú Đại Bi và danh hiệu Quán Âm để khỏi mắc phải các họa hoạn. Gần đây, ở đất Tô có mấy vị thiện nhân dạy người khác niệm Ma Lợi Chi Thiên Chú để bảo vệ chính mình lẫn gia đình, cầu thái bình. Họ đã in mười vạn tờ, tặng cho mỗi gia đình ở nơi đây một tờ, tặng cho mỗi cơ quan từ thiện các nơi khác mỗi nơi chừng đó tờ, mong [những nơi ấy] sẽ phân phát giùm, lại còn in thêm nữa. Lời Bạt [trong tờ chú ấy] do Quang sửa chữa giùm cho họ. Họ muốn Quang ký tên cho người khác trông thấy sẽ tin tưởng; vì thế, tôi thuận theo ý họ mà ký vào. Họ lại mời hai mươi người lành nhưng nghèo khổ thiếu cơm ăn đến hội từ thiện của họ để niệm chú ấy trong một trăm ngày, mỗi ngày cung cấp thức ăn và trả tiền tụng chú để họ có cái nuôi nấng gia đình. [Việc này] đáng gọi là một hành động trọn đủ nhiều điều tốt đẹp. Đang trong cơn đại kiếp mênh mông này, chẳng phát tâm lợi người lợi vật một phen thì khi ngọc lẫn đá đều cháy, há chẳng đành than xuông khi xưa đã lỡ làng ư? Nay gởi cho ông ba tờ, xin hãy niệm kèm thêm, ắt sẽ có cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn.

Trong thư, ông thường than bận rộn, bận rộn vì lẽ gì vậy? Thật sự là bận rộn bởi những chuyện vô vị! Từ xa mấy ngàn dặm đến đây gặp Quang chỉ vì nghe danh, để rồi gặp xong một bữa bèn chẳng chịu ở lại nữa. Những điều cực chánh yếu trong suốt một đời Quang và đời ông, Quang đã đều chỉ hết cho ông rồi. Ngoài những điều ông xin hỏi ra, [tôi còn giải đáp thêm bằng] một bức thư dài, nhưng ông vẫn như chưa hề thấy một chữ nào mà cũng chẳng buồn nhắc tới. Lại cứ thường than thở thiếu duyên, đúng là nực cười đến cùng cực! Nếu có thể chết sạch lòng [mong ngóng, khiêm hư] sát đất, y theo lời tôi thì từ đây sẽ được vui sướng vô cùng. Nếu không, sẽ giống như gã câm nuốt phải Hoàng Liên[5], chịu đắng nhưng chẳng thể nói được! Xin hãy sáng suốt suy xét, đây là lời dặn dò cuối cùng của Quang!

 

513. Thư trả lời cư sĩ Ôn Quang Hy (thư thứ tám)

 

      Ông vọng tưởng tơi bời mà vẫn gấp muốn được nhất tâm bất loạn, tâm ấy chính là cái gốc cho ma dựa. Vì thế, Quang nói: “Pháp môn Tịnh Độ trọng tại tín - nguyện”. Nếu tín - nguyện chân thật, thiết tha, dẫu chưa đắc nhất tâm vẫn có thể vãng sanh. Nếu không có tín - nguyện, dẫu đắc nhất tâm, vẫn chẳng thể cậy vào tự lực để liễu sanh thoát tử! Vì thế, chẳng khuyên ông miệt mài cầu nhất tâm. Do ông vọng tưởng tơi bời, hễ cầu nhất tâm, nhất định sẽ bị ma dựa! Ông chẳng xét hiểu ý Quang, bèn nghĩ là “mặc kệ, miễn sao thuận tiện thì thôi”. Những kẻ tùy tiện chuyện trước mắt chắc chắn chẳng phải là người tín - nguyện chân thiết! Nếu tín - nguyện chân thiết, quyết chẳng đến nỗi hờ hững tùy tiện để rồi đều chẳng được vãng sanh. Lý vốn chẳng chướng, do ông coi vô lý là hợp lý nên tự sanh chướng ngại thì còn oán trách ai?

Quán Âm Đại Sĩ chính là quá khứ cổ Phật. Nhà khảo chứng tầm mắt nhỏ tí như hạt đậu nhưng cứ nói bừa đạo lý! Há ông chẳng từng đọc phẩm Phổ Môn trong quyển bảy kinh Pháp Hoa, chương Quán Âm Viên Thông trong quyển sáu kinh Lăng Nghiêm? Đọc hai kinh ấy sẽ bật cười trước những lời lẽ của bọn khảo chứng. Sách [Quán Thế Âm Bồ Tát] Bổn Tích [Cảm Ứng] Tụng không gì chẳng nói rõ. Chỉ vì ông tâm khí thô phù, trọn chưa hề hiểu rõ ngữ khí, ý nghĩa của đoạn văn trước lẫn đoạn văn sau, nên mới mờ mịt, không biết theo hướng nào! Ba cô con gái của vua Diệu Trang[6] là ngoa truyền. Cao Vương Kinh là ngụy kinh. Tụng kinh ấy thì vẫn có công đức chẳng ít, do [trong ấy] có thật nhiều danh hiệu Phật. Kinh này đã lưu truyền từ thời Lục Triều[7]. Người thật sự thông hiểu Phật pháp chẳng đề xướng, nhưng muốn cho tục nhân gieo thiện căn nên cũng chẳng ra sức ngăn trở.

Ông thật đáng gọi là kẻ cuồng bậc nhất! Tâm vinh hoa trong cõi đời như sóng biển vỗ đập ào ào mà muốn ngay lập tức gió yên sóng lặng, lắng trong, bất động. Tâm gấp muốn cầu được bất động chính là cái gốc của mọi sự đua nhau dấy động đấy! Lại như nồi đã sôi trào, cứ tận lực tăng thêm lửa mà mong cho nó chẳng trào sùng sục, há có được chăng? Quang nói với ông toàn là những chuyện “lặng gió, rút bớt củi”, nhưng ông chẳng xét kỹ, vẫn cho là khuấy sóng, sôi trào thêm, há chẳng đáng buồn quá đỗi ư? Ông hãy đọc kỹ Văn Sao, Gia Ngôn Lục, ắt sẽ chẳng đến nỗi tự phụ bạc ông. Nếu không, đừng coi tôi là thầy, hãy bái vị cao minh [nào khác làm thầy], Quang cũng chẳng hỏi đến ông nữa!

 

514. Thư trả lời cư sĩ Ôn Quang Hy (thư thứ chín)

 

      Lá thư dài đã nhận được. Do ông nói sẽ đi ngay, tôi tính gởi thư sang cho Đức Chánh ở Trùng Khánh, nên trả lời chậm trễ. Hôm qua nhận được thư ông, biết ông vẫn chưa trở về Tứ Xuyên, nên tôi nói đại lược. Sát kiếp hiện thời có thể nói là “từ xưa đến nay chưa hề có!” Đang trong lúc thế đạo nhân tâm chìm đắm đến cùng cực này, làm dân đen cố nhiên là khổ, nhưng nỗi khổ của trưởng quan còn sâu đậm hơn trăm họ gấp hằng hà sa lần! Cha ông là Hoàn Quân Ông có tầm nhìn gần giống như ông, đều chưa thấy thấu suốt! Quân nhân hiện thời nói chung phải chú trọng thắng địch, từ sáng đến tối luôn suy nghĩ cách đánh thắng địch. Ông muốn đắc nhất tâm, thấy được hảo tướng ngay mà vẫn còn có thứ vọng tưởng ấy. May mà ông được Quang nói toạc ra. Nếu không, chắc chắn bị ma dựa!

Ước theo thân phận ông để luận, hãy nên giữ vững chí thành, cung kính, lễ niệm là được rồi, đừng miệt mài cầu tương ứng thì sẽ có ích, không bị tổn hại. Nếu không, sẽ nguy hiểm hơn vào vực sâu, bước trên băng mỏng đấy! Ông nói: “Làm sĩ quan thì người khác chẳng dám khinh khi!” Hãy thử nghĩ xem quỷ có dám khinh ông hay chăng? Đã làm sĩ quan, há chẳng thể không chú trọng giết địch? Nếu giết cho đúng thì vẫn còn chưa đến nỗi bị trời phạt rành rành. Nếu không, sẽ như Bào Siêu[8] ở quý tỉnh, Quách Tử Mỹ ở Hồ Nam, chẳng đáng thương xót lắm ư? Đầu đời Tống, Tào Bân[9] làm nguyên soái, chẳng giết lầm một ai, nên [con cháu] mấy đời sang quý, vinh hiển. Tào Hàn là phó soái của Tào Bân, do Giang Châu đã lâu chưa chịu hàng bèn tàn sát cả thành. Không lâu sau, thân chết, con cháu tuyệt diệt, còn nhiều lần mang thân lợn (vào thời Vạn Lịch nhà Minh, ông ta từng báo mộng cho Lưu Ngọc Thụ[10]) bị người khác mổ xẻ. Những con vật nay làm thức ăn cho người khác, phần nhiều là do những đại nhân vật giống như vậy biến thành, há nên hâm mộ sự hống hách một thời ư?

Nếu chủ soái có lòng nhân như Tào Bân, chính mình đã biết nhân quả Phật pháp, hễ gia nhập quân đội, chánh trường sẽ có thể trừ bạo an dân, ngõ hầu đối với mình và đối với dân đều có công. Nếu nay coi mạng người như cỏ rác, binh sĩ lại không có kỷ luật, đến đâu cũng đều cướp bóc, gian dâm; ông đã bị người khác khống chế, há chẳng thể không tận hết chức trách ư? Hễ tận hết chức trách thì chẳng thể thuận theo lòng mình nghĩ mà phải hoàn toàn tuân theo mạng lệnh của người khác. Như vậy thì tuy có thể làm cho dân quê kính sợ, nhưng tôi trộm sợ quỷ thần chẳng kính sợ, sẽ muốn giáng họa, đến nỗi chính mình và người thân đều bị tổn hại đấy!

Cha ông tuy là một thiện nhân, nhưng tâm chuộng thể diện quá lớn, vì thế đang trong đời loạn này vẫn gấp muốn xây dựng từ đường. Thử nghĩ người nghèo khổ không có từ đường cũng vẫn làm người được, cần gì cứ phải kiếm một chức quan trong đời loạn, dựng ngay từ đường ư? Ông nghe theo hay không, Quang chẳng cản ông; chỉ không thể chẳng thuật lợi - hại cùng ông! Nếu ông biết điều này thì ở trong cả hai giới quân sự lẫn chánh khách cũng đều rất có ích, chứ không phải là những lời nói thừa thãi vô dụng! Ông không hiểu chuyện quá sức, Quang quở trách ông vẫn là vì ông không hiểu rõ mà chỉ dạy ông. Lời lẽ chẳng thống thiết sẽ không thể động tâm ông được! Ông lại tưởng là tôi giận dữ bèn hai lần dùng chữ “vạn tử” (đáng chết vạn lần), ba lượt dùng chữ “vạn vọng vật giới ý” (muôn vàn mong mỏi đừng để ý). Vậy là ông nghĩ tôi là hạng sân độc không thể hình dung được, là hạng người bỉ ổi, thô ác, hung tợn chẳng đáng tiếp xúc. Sao chẳng biết sự vụ đến mức như thế? Không có chuyện gì chớ nên gởi thư đến nữa!

 

515. Thư trả lời cư sĩ Ôn Quang Hy (thư thứ mười)

 

      Sao ông không biết sự vụ đến mức như thế. Quang là hạng người nào mà có thể sánh bàn với Liên Trì đại sư? Ông nói lời ấy nhằm tâng bốc Quang, chẳng biết là đã hủy báng Quang vậy! Từ nay về sau đừng dùng [lời lẽ] “đem phàm lạm thánh” để tâng bốc tôi như thế nữa! Tôi thấy lời ấy như bị đánh, như bị nhạo báng, hổ thẹn khôn ngằn!

      1) “Tâm thanh, trăng hiện”, há nên bàn luận theo kiểu chấp chết cứng? Cần biết rằng: Phàm phu có sự trong lặng hiển hiện của phàm phu, Thanh Văn có sự trong lặng hiển hiện của Thanh Văn, Bồ Tát có sự trong lặng hiển hiện của Bồ Tát; chỉ có thành Phật mới có thể đạt tới sự trong lặng hiển hiện rốt ráo. Nếu nói đúng như pháp thì trong hết thảy những địa vị khác đều chẳng phải là trong lặng hiển hiện, chỉ có Phật mới là trong lặng hiển hiện. [Do vậy, ông cho rằng] lời đại sư Liên Trì trở thành sai ngoa, chẳng biết chính mình hoàn toàn chưa mở được chánh nhãn nên mới có thứ lập luận mù quáng ấy! Sao lại khổ sở như thế?

Sự trong lặng hiển hiện của phàm phu là sự trong lặng hiển hiện do quán hạnh. Thanh Văn đoạn Kiến Hoặc, Tư Hoặc chính là sự trong lặng hiển hiện thuộc về địa vị Tương Tự. Bồ Tát thuộc địa vị Nội Phàm, [tức là những địa vị] từ Sơ Tín đến Thất Tín cũng giống như Thanh Văn. Bát, Cửu, Thập Tín phá Trần Sa, chứng Pháp Không, há nên nói là “phá Pháp Không”? Sơ Trụ liền phá Vô Minh, chứng Pháp Thân. Đây chính là địa vị đầu tiên của bậc Phần Chứng. Cho đến Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Đẳng Giác (Đẳng Giác là địa vị cuối cùng thuộc Phần Chứng. Trong các địa vị thuộc Phần Chứng, phàm những gì Phật chứng được, họ đều chứng, nhưng chưa chứng được viên mãn rốt ráo). Bốn mươi mốt địa vị chính là sự trong lặng hiển hiện nơi Phần Chứng; chỉ có Phật mới là trong lặng hiển hiện rốt ráo.

Hơn nữa, ngay trong một địa vị còn có vô lượng vô biên [tầng cấp chứng ngộ] sâu - cạn bất đồng. Ví như người nước ngoài đến Trung Quốc, vừa đến biên giới Trung Quốc liền có thể nói là “đã đến Trung Quốc”, nhưng từ đấy vẫn còn có đường dài mấy ngàn dặm mới tới được kinh đô Trung Quốc. Ý ông cho rằng: “Đã đến rồi thì không cần bàn đến đường đi nữa; đã chưa đắc đạo mà nói sự hiển hiện trong lặng thì thành sai ngoa, trái nghịch với sự tướng cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh”. Lỗi ấy là do ông thích xưng là bậc thông gia, chứ không phải vì Liên Trì đại sư nói lời chẳng thích đáng! Từ nay về sau, hãy nên sốt sắng niệm Phật, bớt nói lời phô trương! Nếu vẫn [dùng lời lẽ] đem phàm lạm thánh tâng bốc Quang như thế tức là khiến cho thiên hạ hậu thế thóa mạ Quang! Sao lại khổ sở làm những chuyện tổn hại vô ích như thế?

      2) Lời của Liên Trì đại sư là lời viên dung vô ngại. Nếu căn cơ sâu, y theo đó tu trì sẽ có đại lợi ích. Nếu căn cơ nông cạn, hoặc mắc khuyết điểm chấp Lý phế Sự, chỉ nên chiếu theo sự tướng chí thành trì danh thì mới là ổn thỏa. Thuyết “Lý nhất tâm” do không làm được, có nói cũng vô ích; chỉ không đề xướng là được rồi, [chứ thốt ra] hai chữ “bài xích” chẳng phải là ăn nói vớ vẩn hay sao? “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật”. Nếu chẳng làm Phật mà nói “tâm này là Phật” thì có thể bài xích được. Nếu niệm Phật mà nói “tâm này là Phật” thì đấy chính là căn bản để khuyên người, há nên lẫn lộn thốt lời bài xích! Nếu bài xích sẽ trở thành tà kiến, tội cực nặng! Phàm quán tưởng hay trì danh đều gọi là “làm Phật”.

      3) Lời ấy của Liên Trì đại sư dành cho kẻ chuyên chí quán tưởng. Ông đem cái tâm suy tưởng tán loạn của ông để so đo, nên trở thành lời lẽ chẳng biết thân phận! Phàm phu tâm như khỉ - vượn, chẳng thể định được trong khoảnh khắc nào, há có thể tưởng tướng nào sẽ thấy được tướng ấy ư? Nếu thâm tâm quán tưởng, quán cái này lại thấy cái kia, tức là không tương ứng. Vì thế gọi là tà, là chẳng tương ứng! Ông lại cho là ma thì là đã sai quá rồi! Nhưng nếu chẳng tương ứng mà chẳng nhận biết thì lâu ngày chắc sẽ có ma sự!

      4) Ông thật sự là một gã hồ đồ chẳng biết trời cao đất dầy nên mới dám dẫn chuyện Thiện Đạo đại sư xả thân để làm tiền lệ. Ngài Thiện Đạo niệm Phật miệng tỏa quang minh, chính là bậc thánh nhân đại thần thông. Lâm chung Ngài trèo lên cây liễu nói kệ, nhảy xuống bèn đứng qua đời, ông ngỡ là Ngài từ trên cây té xuống chết! Ông đúng là tội lỗi, mắt quáng mà chuyên thích nói lời lẽ mù quáng. Ông muốn xả thân sẽ thành con quỷ chết oan, mong sanh Tây Phương thì có mộng cũng chẳng mơ được đâu! Trong những truyện ký về Thiện Đạo đại sư, đôi khi có những chỗ lời văn chưa thể hiện rõ ý nghĩa mầu nhiệm này cho nên ông tưởng là Ngài xả thân mà chết!

Ông từng thấy chuyện của Châu Tiến Sĩ trong Kim Cang Kinh Cảm Ứng[11] hay chưa? [Ông Châu] nghe bốn câu kệ của kinh Kim Cang sanh lòng hoan hỷ; chẳng lâu sau mộng thấy theo năm kẻ [tội nhân] nọ ngồi xe đến một nhà. Năm người đều uống canh, ông ta muốn uống, nhưng người dẫn ông ta đi (tức gã quỷ sứ áp giải tội nhân) không cho uống, liền tỉnh giấc. Trong tâm hết sức lạ lùng, tìm đến nhà ấy, họ nói có sáu con chó vừa mới sanh, một con chết ngay. Do vậy, ông ta chuyên trì kinh Kim Cang, đến năm tám mươi chín tuổi trèo lên cây nói kệ, rồi buông mình xuống, đứng yên qua đời. Người ấy trong đời này [đáng lẽ] biến thành chó, nhưng do mấy chục năm trì kinh Kim Cang nên vẫn có thể từ trên cao nhảy xuống qua đời như thế; huống hồ Thiện Đạo đại sư là bậc đại thánh nhân thần thông mầu nhiệm khôn lường ư? Ông tưởng là xả thân, đáng thương lắm thay! Điều này cũng là cùng một tri kiến với kẻ ngu, thấy Phật nhập Niết Bàn bèn bảo là “Phật chết”.

      5) Ông vọng tưởng tột cùng, so với sóng cuộn trong biển cả còn sôi sục hơn rất nhiều. Chỉ nên tự lượng thân phận của chính mình để hành, nào sợ kẻ khác chê cười! Nếu ông trở về nhà ở Thành Đô, nên đem tâm tướng ấy khuyên cha ông là Hoàn Quân Ông hãy thong dong đôi chút để đôi bên đều được thành tựu. Nếu ông tinh thành niệm Phật thì quyến thuộc cũng sẽ có dịp chuyển biến. Ông nội ông là Hưng Toàn Ông còn để lại gia nghiệp, mà ông vẫn nói “khổ chẳng thể chịu đựng được!” Nếu ông vốn là gã nghèo cùng, chắc sẽ chẳng muốn làm người nữa ư? Nay ông cực lực muốn chống đỡ thể diện xuông, chính mình lại hoàn toàn khởi lên những vọng tưởng chẳng dựa theo đạo lý ấy. Vọng tưởng ấy có thể làm rạng mày nở mặt tổ tông, trọn hết phận con, báo đáp bà nội kế là Sài lão thái phu nhân, trọn hết trách nhiệm của một tín đồ Phật giáo hay không? Đã biết cảm kích ơn người dẫn dắt nhập đạo, sao chính mình lại làm những chuyện phụ bạc ơn của khắp mọi người thân lẫn ân Phật? Từ nay về sau, ông chỉ nên đọc Văn Sao, đừng gởi thư tới nữa. Tôi quả thật chẳng có tinh thần để thù tiếp những lời lẽ ma mị của ông!

 

516. Thư trả lời cư sĩ Ôn Quang Hy (thư thứ mười một)

 

      Nhận được thư và khoản tiền gởi đến. Đọc thư ông, biết ông cảnh ngộ khốn cùng, biết ông chẳng giữ yên bổn phận. Ông tiền bạc không dư dả, há nên vẫn ương ngạnh giữ thể diện đối với Quang? Quân tử hành xử theo đúng địa vị, hễ nghèo cùng thì chẳng lấy tiền tài làm lễ; huống hồ đối với vị thầy chính mình đã coi như cha như mẹ ư? Do vậy biết ông một mực luôn mang thứ tình kiến này: “Do không chống giữ được thể diện, bèn muốn tìm cái chết!” Ông chẳng biết đã mang thứ tâm hạnh ấy, hễ chết rồi thì so với  việc  bị mất thể diện sẽ còn khó chịu đựng hơn vô lượng vô biên hằng hà sa lần!

Trước đây, ông từng nói Trùng Khánh Phật Học Xã khá chuộng Mật Tông, ông muốn lập một cơ sở khác chuyên tu Tịnh Độ. Đấy cũng là lời nói chẳng biết giữ yên bổn phận! Phàm tạo dựng cơ sở, điều thứ nhất là phải được mọi người tin phục. Điều thứ hai là phải có tiền để ứng ra. Tuy quyên mộ mọi người nhưng chính mình vẫn phải bỏ ra trước. Trong hai điều này, ông chẳng có được một điều nào! Há nên khởi lên những thứ suy tính vượt phận ấy ư? Trong nhà đã có cơm ăn, chẳng cần phải mong phát tài nứt đố đổ vách nữa! Đối với hai giới quân sự và chánh khách hiện thời, nếu ông chẳng quan tâm đến đầu mặt[12] trong đời sau thì cứ gia nhập cũng chẳng sao. Nếu vẫn lo đến đầu mặt đời sau thì đừng gia nhập sẽ là kế sách tối thượng thượng. Hãy nên bảo cặn kẽ với Đức Chánh Kê thị[13] buông xuống tập khí phú quý, kiêu căng, xa xỉ, hãy ăn mặc, trang sức như phụ nữ nông dân chốn làng quê, cùng với bà ta trở về gia đình ở Thành Đô, nghiêm túc giữ gìn sản nghiệp của tổ phụ. Đấy sẽ là biện pháp rốt ráo ổn thỏa, thích đáng nhất. Những điều khác trước đây tôi đã đều nói qua, nên không cần phải nhắc lại nữa!

 

517. Thư trả lời cư sĩ Ôn Quang Hy (thư thứ mười hai)

 

      Đọc thư ông, khôn ngăn hoan hỷ! Bọn họ trong bảy ngày liền có thể vãng sanh, liền có thể thành Phật thì người trong khắp cả thế gian đều thành Phật. Chúng ta là nghiệp lực phàm phu, ắt sẽ có vô lượng vô biên Phật độ thoát, may mắn chi hơn? Nhưng chúng ta hãy giữ bổn phận ta, nhường cho bọn họ thành Phật độ thoát chúng ta, há chẳng phải là càng ổn thỏa hơn ư? Như bọn họ còn có nguy hiểm, chứ trong pháp môn này của ta trọn chẳng có nguy hiểm! Nếu nghe bọn họ nói thì thật bùi tai, khôn ngăn nhiệt tâm dấy lên. Nếu thành thì may mắn, nhưng bại sẽ thành quyến thuộc ma, thật khiến cho người ta nguội lạnh cõi lòng! Thần thông của gã X… đã hoàn toàn thất bại. Ngôn luận của gã X… và gã Y… đều đúng là vu báng, miệt thị thánh hiền. Bọn họ đã thành Phật, sao lại có hiện tượng ấy? Do vậy biết: Bọn họ hoàn toàn chẳng khác gì lũ trẻ đầu đường xó chợ, nói chi có Phật tâm cho được? Những điều khác chẳng cần phải nhắc đến nữa!

 

518. Thư trả lời cư sĩ Ôn Kê Đức Chánh

 

      Chồng bà là Đức Trung Ôn Quang Hy nói: “Bà phát tâm cúng dường tôi”, tôi sẽ dùng món tiền ấy để in sách lợi người. Bà may mắn được gả vào gia đình giàu có, trọn chẳng biết đến những nỗi khổ trong đời người, lại không có ai khuyên dạy, khai thị nên sống uổng một đời. Như vậy thì sau này làm sao thoát khỏi luân hồi lục đạo cho được? May chồng bà là Quang Hy hơi biết Phật pháp. Tuy bà chưa thể tin nhận ngay, nhưng đã dần dần được tiêm nhiễm, lâu dần sẽ có ngày thiện căn phát hiện. Bà nằm mộng thấy cảnh tượng kỳ quái liền sanh lòng sợ hãi, cầu xin tôi nói cách cứu vớt, che chở. Bà chẳng biết: So với tướng trạng luân hồi trong tam đồ lục đạo, tướng khổ ấy nhỏ nhoi chẳng thể nào thí dụ được! Sự khổ trong luân hồi giống như đại địa, còn nỗi khổ [bà cảm nhận trong giấc mộng] ấy giống như vi trần. Chúng sanh tâm lượng hẹp hòi nên chỉ thấy được chuyện nhỏ nhoi, chẳng thể thấy được chuyện lớn lao. Bà sanh lòng sợ hãi nơi sự khổ nhỏ nhoi, cầu tôi nói pháp cứu khổ, sao lại trọn chẳng để ý tới nỗi khổ sanh tử lớn lao vậy?

Nay tôi nói cho bà một pháp để cứu chung đại khổ lẫn tiểu khổ. Nếu bà có thể y theo lời tôi nói, chắc chắn trong hiện tại bà sẽ không gặp nỗi kinh sợ nhỏ nhoi ấy, tương lai nhất định thường an lạc. Pháp ấy ra sao? Chính là chí thành khẩn thiết niệm Phật và niệm danh hiệu Quán Âm Bồ Tát. Pháp tắc niệm như thế nào nên hỏi Quang Hy. Chớ nên chỉ biết an vui, nhàn tản, bỏ uổng thời gian. Lại còn nghiêm túc trọn hết bổn phận của chính mình, nghĩa là “hiếu thuận với cha mẹ ruột, với bố mẹ chồng, hòa thuận với anh em trai, chị em gái, chị em dâu, vợ chồng kính trọng nhau như khách, khuyên nhau làm lành, nhắc nhở nhau sửa lỗi, khéo dạy dỗ con cái, đối đãi khoan dung với kẻ dưới”. Làm được như thế chính là hiền nhân! Lại còn kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, niệm danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương; dẫu cho nỗi sợ hãi lớn lao là sanh tử cũng sẽ hoàn toàn tiêu diệt, huống hồ những nỗi sợ hãi nhỏ nhặt trong giấc ngủ mà chẳng lập tức ngưng mất ư?

Tôi là phàm phu, nhưng lời này của tôi có thể khiến cho hết thảy mọi người siêu phàm nhập thánh. Bà hãy nên chí tâm tin nhận sẽ có lợi ích lớn lao. Sách Khuê Phạm đã hết, đợi khi nào có người sang Thượng Hải sẽ bảo họ thỉnh Nữ Tử Nhị Thập Tứ Hiếu (hai mươi bốn tấm gương hiếu nữ), Nữ Tứ Thư[14], Liệt Nữ Truyện[15] v.v… gởi tới để tặng cho những phụ nữ thông hiểu văn lý, biết luân thường. Lại còn có Đạt Sanh Thiên cũng sẽ gởi tới một hai gói. Đối với những chuyện trước khi sanh, trong khi sanh và sau khi sanh, sách này đều nói tường tận. Trong lời Tựa của Quang lại còn giảng rõ: “Trong khi sanh nở, niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát nhất định sẽ không bị sản nạn mà mẹ lẫn con đều được vẹn toàn, gieo đại thiện căn”. Bà hãy nên thường đem chuyện niệm Phật, niệm Quán Thế Âm để giáo hóa hàng phụ nữ quen biết ngõ hầu ai nấy xoay vần khuyên chỉ lẫn nhau thì sẽ có lợi ích lớn lao cho bà lẫn những người quen biết. Bà chớ nên gìn giữ mãi thói kiêu ngạo, lười nhác, thích làm chuyện vô ích như cờ bạc, la cà ngoạn cảnh, sẽ chẳng thể nào không đạt được lợi ích lớn lao. Đối với bệnh của Quân Tốn và hai cô con gái Quân Tĩnh, Cẩm Du cũng có thể niệm Quán Thế Âm Bồ Tát để trị. Quán Thế Âm Bồ Tát không ai cầu chẳng được ứng nghiệm, chỉ sợ con người chẳng chí tâm mà thôi! Xin hai vợ chồng bà khéo thấu hiểu lòng tôi thì may mắn lắm thay!

 

519. Thư trả lời cư sĩ Giang Dịch Viên (thư thứ nhất)

 

      Nhận được thư, biết các hạ thường viết nhiều bài đề xướng sự lợi ích Tịnh Độ, vui mừng, an ủi tột bậc. Sẽ gởi cho Thượng Hải Tịnh Nghiệp Xã để họ đăng tải trong nguyệt san, ngõ hầu độc giả đều cùng sanh lòng tin. Ông nói khí lực, thể lực hết sức suy yếu, tợ hồ có lẽ nên chuyển lòng đau buồn thương xót thành niệm Phật cho mẹ để người mất lẫn kẻ còn đều được lợi ích lớn lao, cần gì cứ phải khăng khăng giữ lòng buồn đau, tiều tụy mới là hiếu!

Ngày Hai Mươi Lăm tháng Ba, Quang đến chùa Thái Bình ở Thượng Hải. Vào ngày Hai Mươi Sáu thì khoản tiền hai trăm đồng từ Nam Thông chuyển tới. Thoạt đầu do bận bịu đến nỗi quên báo cho Thư Cục, sau đấy bảo họ gởi chừng đó sách, chẳng biết họ đã gởi hay chưa? Nay lại từ Phổ Đà gởi tới cho ông một gói nữa, xin hãy xem qua. Đợi khi sách được in ra vào lần thứ hai, lần thứ ba, sẽ gởi thêm nữa. Một trăm đồng sẽ thỉnh được ba trăm bộ; dẫu các hạ không gởi tiền, Quang cũng cần phải gởi ngần ấy bộ để mong ai nấy đều biết đến ân đức từ bi của Đại Sĩ. Hiện thời đã có người đảm nhiệm in đến bảy vạn bộ. Do năm ngoái có chiến tranh, chưa đưa giấy ra khỏi núi được; năm nay lại bị hạn hán đến nỗi lần khân tới tháng Tư.

Phật Quang Xã được các hạ đề xướng nào có thiếu sót gì mà cần Quang phải góp lời. Người tu Tịnh nghiệp chớ nên dính vào chút điểm xảo thuật nào. Nếu vẫn thích những chuyện kỳ lạ, không ưa chuyện bình thường, ắt sẽ biến khéo thành vụng. Do điều này, người thông Tông thông Giáo thường chẳng bằng ngu phu ngu phụ thật thà niệm Phật lại được ích lợi thật sự. Nếu chịu giữ nề nếp bình thường, đạm bạc, chất phác, thật thà thì sanh về Cực Lạc sẽ là điều có thể dự đoán chắc chắn được! Nếu không, chẳng sanh về Cực Lạc cũng là điều có thể đoán chắc được! Xin hãy thiết thực khuyên xã hữu tin tưởng như thế, hành như thế thì lợi ích lớn lao thay!

 

520. Thư trả lời cư sĩ Giang Dịch Viên (thư thứ hai)

 

      Chưa trả lời thư đã lâu, thiếu sót quá! Trước đây tôi đã nhận được tờ đặc san kỷ niệm Phật Quang Xã tròn một tuổi được in bằng ronéo, thấy in bài viết của Châu Mạnh Do ca ngợi Quang thật đáng khiến cho người ta hổ thẹn muốn chết. Mạnh Do vô tri làm càn, sao các hạ lại cho đăng tải bài ấy, khiến tội Quang sâu thêm! Xin từ nay về sau, hễ bài viết nào dính dấp thói ấy hãy đều loại bỏ để người đọc khỏi bàn ra tán vào!

Nay nhận được thư và khoản tiền của ông Ngô Điệp Khanh và tờ Phật Quang Xã San. Ngô thái phu nhân phước lẫn thọ đều vẹn toàn, điều thiếu sót là chẳng biết tới pháp môn Tịnh Độ. Nay con của cụ là Điệp Khanh thành tâm cầu siêu, ắt cụ sẽ nương theo Phật từ lực để được vãng sanh. Với món tiền hai trăm đồng ấy, tôi sẽ dùng một trăm để cử hành Phật thất, thỉnh mười sáu vị Tăng niệm Phật. Hiện thời khí trời nóng bức phi thường, Quang tính biếu riêng cho mỗi vị một đồng, tổng cộng là mười sáu đồng. Tám mươi bốn đồng còn lại thì đợi tới khi sắp chữ Văn Sao bản mới và Thọ Khang Bảo Giám (sách này chính là cuốn Bất Khả Lục được giảo chánh, sửa đổi, tăng thêm bài, tính in ra mấy vạn cuốn để cứu vớt những kẻ thanh niên trước khi họ bị bệnh) xong, năm sau khi in ra sẽ gởi sách vừa đúng với số tiền ấy đến nhà họ Ngô để mong kết duyên.

Quán Âm [Bổn Tích Cảm Ứng] Tụng in lần thứ hai vừa được mười mấy hôm thì trong ngày mồng Hai tháng Bảy, toàn thể công nhân bãi công! Lần này do họ đòi hỏi phi lý, chắc Trung Hoa Thư Cục khó thể đáp ứng được, sợ là trong nhất thời, chẳng thể giải quyết xong! Bởi vậy, dù in hay sắp chữ đều phải chậm trễ! Xã San (tờ báo của Phật Quang Xã) rất hay, nhưng chữ quá nhỏ, mắt già rất khó đọc! Giấy dày thì bưu phí sẽ đắt thêm chừng đó nữa!

Thư gởi cho ông Phùng Bất Cửu, Quang không có bản nháp, nay [lá thư ấy] đã được đăng tải trên Xã San, Quang sẽ cho chép lại để đưa vào Văn Sao[16]. Những điều khác chẳng có quan hệ lớn lao gì, chỉ có một đoạn nói “nhưng tiên sinh [Giang] Thận Tu tạo ra thiên địa nhật nguyệt chẳng thể vận hành, [nhờ] được khí Âm của đứa tớ gái mới vận hành” là rất có quan hệ. Đưa lá thư ấy vào Văn Sao cũng phá trừ được tà kiến, khiến cho [người đọc] biết được chánh pháp. Nhưng trong lá thư ấy, có nhiều chỗ bị sao lục thiếu sót câu văn; những đoạn khác đều chẳng quan trọng khẩn yếu cho lắm, chỉ có đoạn thứ hai “một Âm một Dương gọi là Đạo”, nơi dòng thứ sáu ở phía trên đã chép lẫn lộn “Thành tức Minh Đức, Minh tức Minh Minh Đức chi Minh thành minh”[17], trong mười ba chữ ấy cũng có chữ sai, nhưng không có quan hệ khẩn yếu lớn lao. Đọc sơ qua những bài khác thì thấy không bị sai ngoa nhiều lắm, chỉ có lá thư này bị sai khá nhiều.

Quang mục lực lẫn tâm lực đều thiếu, nhưng bận bịu quá sức, nên chẳng thể ra sức viết lách cho Phật Quang Xã được, thật thiếu sót! Các hạ đã cực lực đề xướng nên mọi người hiền đều nhóm tới, quả thật là một chuyện vui lớn lao trong đời người, mà cũng là một niềm đại hạnh phúc cho quý địa. Biên nhận [mở Phật thất] niệm Phật cho nhà ông Ngô gởi kèm theo thư, xin hãy báo với ông ta về chuyện sử dụng một trăm đồng còn lại. Thầy Chân Đạt tính giúp một trăm đồng để thỉnh kinh điển cho Phật Quang Xã, sai Quang liệt kê một danh sách những kinh sách phổ biến thường được đọc nhiều, đợi tới cuối tháng lên Thượng Hải sẽ thỉnh rồi gởi tới. Đừng lo! Trong năm sau, Quang in Tăng Quảng Văn Sao bản mới và Thọ Khang Bảo Giám bản tăng quảng xong, cũng sẽ gởi sang Phật Quang Xã chừng đó cuốn để kết tịnh duyên. Các hạ và bạn bè viết lời khen ngợi Bất Huệ tức là đã mắc tội “đem phàm lạm thánh”. Xin từ nay về sau vàn muôn phần đừng dùng cách ấy nữa để đôi bên đều được thoải mái.

 

521. Thư trả lời cư sĩ Giang Dịch Viên (thư thứ ba)

 

      Nhận được thư khôn ngăn cảm thán. Lệnh sư Sắc Am vì sanh kế chưa thể sốt sắng tu trì pháp môn Tịnh Độ, nhưng các hạ đã đem lòng chí thành cầu siêu cho cụ, ắt cụ sẽ được nương theo Phật từ lực tiếp dẫn vãng sanh. Do thấy Đại Sĩ Tụng (tức Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng) bị chậm trễ đã lâu, trong mồng Một tháng này Quang liền xuống núi. Mồng Ba tới Thượng Hải, tiếp xúc Thư Cục. Mồng Bốn đến Ninh Ba, thương lượng chuyện xây cất đại điện chùa Pháp Vân (năm sau mới xây cất). Mồng Bảy về Thượng Hải, thư của lệnh điệt[18] Tri Nguyên và khoản tiền gởi tới đều nhận được rồi.

Chùa Thái Bình hiện đang có Phật Thất, chẳng thể cùng tiến hành được. Do vậy, đến Tịnh Nghiệp Xã thương lượng với ông Quan Quýnh Chi; ông ta rất hoan hỷ, quyết định sẽ khởi thất từ hôm mồng Mười. Ở chỗ ông ta, Tăng sĩ niệm Phật chỉ có mấy vị, nhưng cư sĩ rất đông. Quang cho rằng cư sĩ đến [tham dự], ắt cần phải cung cấp cơm nước, sợ đông người quá chắc họ phải bù thêm tiền. Ông ta nói: “Bù đắp chút ít cũng đâu có sao! Nhờ vào đấy để mọi người gieo thiện căn”. May mắn chi bằng! Thí Tỉnh Chi, Hoàng Hàm Chi v.v… lúc ban ngày bận việc, ban đêm khi nào được rảnh rỗi cũng đến niệm. Họ nhờ Quang khai thị hôm mồng Mười[19]. Phật Thất lần này so ra có ích hơn việc chỉ thỉnh mười mấy vị Tăng niệm Phật nhiều lắm. Đây cũng là do lòng Thành của các hạ cảm thành và cũng do túc nhân của lệnh sư mà có.

Thầy Chân Đạt đã thỉnh cho Phật Quang Xã một trăm lẻ bảy đồng kinh sách, đợi khi có người thuận dịp trở về Vụ Nguyên sẽ nhờ họ mang đến. Đừng lo! Tôi đã nhận được đầy đủ sách của các hạ đã từ Phổ Đà chuyển đến vào hôm mồng Tám. Không lâu nữa Quang sẽ trở về Phổ Đà, đợi tháng Ba hay tháng Tư năm sau sẽ lại sang Thượng Hải để lo liệu các khoản chi phí in các bộ Đại Sĩ Tụng v.v…

 

522. Thư trả lời cư sĩ Giang Dịch Viên (thư thứ tư)

 

      Thư trả lời lần trước, chắc [các hạ] đã nhận được rồi! Năm giờ chiều hôm qua tôi đến Tịnh Nghiệp Xã, hỏi Quan Quýnh Chi có mấy vị Tăng nhân [tham dự Phật Thất], ông ta cho biết có chín vị. Cư sĩ nam nữ hơn một trăm người. Chiều hôm qua do bọn họ thông báo, người đến tham dự càng nhiều hơn nữa. Quang trình bày đại lược duyên do và lợi ích của việc niệm Phật trong khoảng một tiếng năm phút. Ngày hôm nay, bảo đem những kinh sách đã thỉnh từ trước giao sang chùa Thái Bình, tổng cộng là hai mươi lăm gói nhỏ, phía ngoài dùng bao lác[20] bọc thành bốn bọc lớn. Phiếu giao sách tổng cộng là bốn trang được gởi kèm theo thư để tiện kiểm nhận.

      Thầy Chân Đạt xin các hạ hãy cho người viết tên của từng loại kinh sách đã thỉnh vào phần Thư Căn như An Sĩ Toàn Thư v.v… thì sẽ chẳng đến nỗi tạp loạn khó tìm. Trong ấy có [những kinh sách số lượng khác biệt] một, hai, ba, bốn, năm bộ. Nếu đối với những sách dư ra mà dùng để kết duyên thì không cần phải phân biệt, chứ nếu đều lưu giữ trong Phật Quang Xã thì cần phải chép rõ mỗi bộ giống như thế để chẳng đến nỗi bộ này bộ kia so le không đều đến nỗi khó coi. Số sách ấy đợi có người tiện dịp trở về Vụ Nguyên sẽ cậy họ đem theo. Nay gởi trước phiếu giao sách kèm theo thư để khi sách gởi đến sẽ có cái để dựa theo đó mà kiểm nhận.

     

523. Thư trả lời cư sĩ Giang Dịch Viên (thư thứ năm)

 

      Nhận được thư hôm trước, biết lệnh từ niệm Phật vãng sanh, khôn ngăn mừng cho lệnh từ, xót cho các hạ. Tuy nhiên, lệnh từ đã siêu phàm nhập thánh, cố nhiên chẳng cần phải bi thương vô ích giống như kẻ thế tục. Các hạ đề xướng Tịnh Độ, thoạt đầu lệnh phu nhân vãng sanh, nay thì lệnh từ vãng sanh. Đủ thấy “hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh; đạo do người hoằng, hễ đề xướng ắt có người phụ họa”. Nhưng do Quang bận bịu đến cùng cực, chẳng thể soạn thuật ngay, cảm thấy thiếu sót đến cùng cực. Tôi sửa chữa đôi chút cuốn Tam Tự Kính[21]. Hôm trước Tuyết Tinh đến đây cầm đi, ông ta muốn sao lục, liền thay mặt gởi đi. Truyện của lệnh từ thật quá sơ sài, nay tôi đem nguyên cảo gởi trả lại kèm theo thư, xin hãy thêm thắt, sửa đổi, sao cho truyện được hoàn bị. Lại nên bảo Hữu Bằng[22] sao ra mấy bản, gởi cho các tờ báo Phật giáo. Do gần đây Quang bận bịu quá nhiều việc, chẳng thể sửa chữa cặn kẽ được!

Tám gói sách đã gởi trước đây, ông đều nhận được rồi, tôi yên tâm lắm. Quang định sẽ diệt tung tích ẩn náu lâu dài vào cuối tháng Chín do chuyện thù tiếp ngày một nhiều, tinh thần ngày một giảm. Nếu chẳng ẩn dật lâu dài, chắc sẽ quanh năm suốt tháng bận bịu vì người khác, chẳng có lúc nào ngơi! Tất cả những bản gốc của các sách được in gần đây đều giao hết cho Cư Sĩ Lâm, họ tính mở Phật Học Thư Cục để lưu thông rộng rãi. Chẳng qua họ mang tánh chất doanh nghiệp, so với [Hoằng Hóa Xã của] Quang chỉ tính giá vốn thì giá sách [của Phật Học Thư Cục] sẽ đắt gần gấp rưỡi!

 

524. Thư trả lời cư sĩ Giang Dịch Viên (thư thứ sáu)

 

      Pháp danh của bảy người [xin quy y] được viết trong một tờ giấy khác. Thời cuộc nguy hiểm, hãy nên bảo ai nấy đều ăn chay, niệm Phật và niệm Quán Âm để cầu Phật, Bồ Tát gia bị khiến cho chiến sự sớm chấm dứt, ngõ hầu nước nhà đều được yên vui. Điều quan trọng nhất là phải biết nhân, hiểu quả. Nước ta loạn lạc đến cùng cực như thế này đều là do người đời trước cao giọng đề xướng học thuyết bài bác nhân quả, coi “hễ có làm gì để làm lành đấy là làm ác” mà ươm thành. Nếu vẫn chẳng chịu nói điều này mà muốn cho thiên hạ thái bình thì sợ rằng sẽ chẳng có ngày ấy đâu!

 

525. Thư trả lời cư sĩ Giang Dịch Viên (thư thứ bảy)

     

      Đã lâu chưa gởi thư. Tháng trước lệnh điệt Thủ Tiên đã gởi Tục Thi[23] đến. Quang do bận bịu cùng cực, phải đến hơn nửa tháng mới xem trọn hết đầu đuôi. Tôi cảm thấy [Ấn Quang Văn Sao] Tục Biên so ra còn quan hệ lớn lao hơn [Ấn Quang Văn Sao] Chánh Biên, do vậy gởi đi, chắc anh ta đã gởi thư báo tin rồi. Trước tác của các hạ có ích rộng lớn, thi văn đáng để dẫn dắt kẻ không có lòng tin sanh khởi lòng tin. Xin hãy giữ gìn sức khỏe để tu trì Tịnh nghiệp.

 

526. Thư trả lời cư sĩ Trần Huệ Thành

 

      Nhận được thư đầy đủ. Trong khoảng Xuân - Thu năm sau, Quang vẫn còn có nhiều chuyện phải lo liệu, chẳng có lúc nào rảnh rỗi để đi tới một chỗ nào cả! Chỉ có vào mùa Đông là muốn sang chỗ ấm áp để tránh rét. Sau đấy sẽ hành tung bất định, đến đâu cũng là nhà. Chưa đầy dăm ba tháng sau, lại qua chỗ khác để khỏi phải thù tiếp thư từ đến nỗi tự hỏng chuyện [liễu sanh tử của chính mình]. Trong bài kệ niệm Phật, có [những đoạn] văn nghĩa của phần trên và phần dưới chẳng liên quan mật thiết, hoặc âm vận chẳng phù hợp, hoặc có chỗ dùng chữ chưa khéo, tôi đều sửa đổi đôi chút. Bài kệ cuối cùng và bài kệ theo lối mỗi câu năm chữ tiếp ngay sau đó, ngữ ý quá ngạo mạn nên tôi sửa đổi. Phàm làm người chớ nên tự cao tự đại; tự đại thì người khác chẳng trọng, chớ nên không biết [điều này]!

Long Thư Tịnh Độ Văn chưa gởi vì [số sách tôi có] thì đã gởi đi hết không còn. Tác phẩm này đắt lắm, mỗi cuốn là ba cắc. Vì thế không đủ sức để in nhiều. Những vị như Vương Châu Thị v.v… đã muốn quy y thì nay đặt pháp danh cho họ. Vương Châu Thị pháp danh là Huệ Thục, Mã Viên Thị pháp danh là Huệ Ý, Viên Tam Thư pháp danh là Huệ Trinh. Xin hãy bảo bọn họ đều y theo Văn Sao, Gia Ngôn Lục để tự hành, lại còn dạy người thì sẽ chẳng thẹn là đệ tử đức Phật. Tôi bận bịu đa đoan chẳng rảnh rỗi để nói cặn kẽ được! (mồng Mười tháng Chạp, viết dưới đèn)

 

527. Thư trả lời cư sĩ Vương Trí Trác

 

      Chúng sanh trong đời Mạt muốn liễu sanh tử mà chẳng cậy vào Phật lực quyết khó được như nguyện. Các pháp môn trong các tông đều nên nghiên cứu, nhưng kẻ trí thức nông cạn, ít ỏi, việc đời bận bịu làm sao lo trọn được? Muốn học các tông khác, ắt phải đã thông suốt hoàn toàn Tịnh Độ, trọn chẳng có nghi hoặc gì thì mới được. Chứ nếu chưa thông Tịnh Độ, vừa học các tông khác, hễ hơi có sở đắc sẽ gác bỏ Tịnh Độ ra ngoài. [Như vậy thì] lợi ích đạt được trong tương lai chỉ có thể làm cái nhân đắc độ trong vị lai, chứ quyết chẳng thể thoát sanh tử ngay trong đời này. Đối với Tịnh Độ ông còn chưa biết đường lối, sao lại muốn học Duy Thức? Người học Phật hiện thời quá nửa đều thuộc hạng ham cao chuộng xa, muốn thành bậc thông gia trước mặt đại chúng, chứ trọn chẳng học Phật để liễu sanh tử!

Ông muốn học Phật, ắt phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật vì sanh tử, phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu, trì danh hiệu Phật. Người làm được như thế sẽ là đệ tử thật sự của đức Phật. Nếu hành vi trái nghịch với Phật, dẫu có tu chuyên ròng cũng khó thể cảm ứng được Phật bởi tâm hạnh đã trái nghịch với Phật. Nay đặt pháp danh cho ông là Trí Trác, nghĩa là dùng trí huệ để tự lập vững vàng thì sẽ tự được lợi ích chân thật. Để dạy dỗ trẻ nhỏ, hãy thường lấy Âm Chất Văn, Cảm Ứng Thiên làm cửa ngõ dẫn nhập đức hạnh, để cho trẻ ngay từ thơ ấu đã biết đạo làm người và lý nhân quả thì mai sau quyết định chẳng dám làm chuyện vượt lý phạm phận. Nếu không, chúng nó sẽ bị tà kiến dụ dỗ, chắc sẽ đến nỗi làm những chuyện giống như những kẻ phế hiếu, phế luân thường, vứt bỏ lòng thẹn như trong cõi đời hiện nay vì trong hiện tại có quá nhiều những thứ tà thuyết như thế ấy! Nay gởi cho ông một gói sách, xin hãy đọc kỹ. Quang bận bịu đến tột cùng, đừng gởi thư đến nữa!

 

528. Thư trả lời cư sĩ Hà Huệ Chiêu (thư thứ nhất)

 

      Nhận được thư, khôn ngăn cảm thán. Huệ Kính chí tâm hoằng pháp, đột nhiên qua đời. Sợ rằng vẫn khó thể thật sự vãng sanh Tây Phương. Sanh tử nguy hiểm thật đáng kinh sợ, phải đề phòng sẵn. Tuy do người khác chôn cạnh mộ mẹ ông ta đến nỗi có chuyện xung phạm, nhưng nên biết rằng: Chuyện xung phạm ấy cũng là do túc nghiệp chiêu cảm. Nếu có đức lớn, chắc sẽ có chuyện bổ trợ bất ngờ [để hóa giải sự xung phạm ấy]. Chuyện này chỉ nên quy cho số mạng, đừng đổ lỗi cho người ta. Nếu đổ lỗi cho người ta, chắc đôi bên sẽ càng kết thêm oán nghiệp! Xin hãy nói cặn kẽ cùng gia đình ông ấy. Ai nấy đều làm chủ đất của chính mình, chẳng thể làm chủ đất của người ta được. Nhà mình chôn trong đất của mình, chớ nên chôn trong đất của người khác. Đất của nhà người ta, há có thể ngăn người ta đừng chôn vào đấy ư? Đối với kẻ biết đạo lý ấy, dẫu thật sự xung phạm cũng chẳng dám oán người. Huống chi chưa thể phán quyết đích xác là do xung phạm mà chết ư? Do bởi lẽ này, quân tử chẳng oán trời, hận người!

Ông nghe tiếng khánh trong trẻo vang động trong không trung, ấy chính là [cảnh tượng được biến hiện] khi thanh tĩnh đến cùng cực. Sau đấy, biết [tiếng khánh trong trẻo ấy] là do răng và lưỡi va vào nhau, chứ trọn chẳng phải cảnh được biến hiện ở bên ngoài. Biết được điều này thì mới chẳng đến nỗi sanh khởi ý tưởng hiếm lạ, huyền diệu rồi do đấy sẽ khởi tâm kiêu căng, chẳng được lợi ích. Ông nói “có tiếng phát ra từ trong tai”, nhưng các sách vở Tịnh Độ chẳng đề xướng điều này. Bởi lẽ, trong pháp môn Tịnh Độ, điều cốt yếu là Tín - Nguyện - Hạnh; những cảnh giới ấy vốn do mỗi người dụng công mà tự đạt được cảnh giới khác biệt, làm sao thiện tri thức có thể nêu rõ trước được! Nếu nêu rõ thì sẽ được lợi ích ít ỏi, bị tổn hại lại nhiều! Còn như sách Tự Tri Lục chuyên môn thuật bày những cảnh giới, nhưng thật ra những cảnh giới ấy vẫn là những [cảnh giới biến hiện từ] suy tưởng thuộc về mặt Lý. Họ muốn dựa vào đó để khoe khoang môn đình bèn đặc biệt trình bày như những cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Nếu Quang không ngăn cản, chắc rằng họ sẽ in ra nhiều vạn cuốn để dẫn nhập người khác vào lối ma!

Công phu thanh tịnh của ông tuy tốt đẹp, nhưng đối với căn cơ và Giáo vẫn còn thiếu từng trải nên mới nói lời ấy. Nếu từng trải, dẫu có sở đắc lớn lao vẫn chẳng nghi cổ nhân giấu diếm! Lời dạy của Giang Công Vọng chính là nói về pháp Phản Văn (xoay tánh Nghe lại để nghe nơi tự tánh). Khéo áp dụng sẽ có ích; không khéo áp dụng sẽ trở thành một môn chuyên cậy vào tự lực trong nhà Thiền. Phàm là người tu hành hãy nên giữ chánh niệm. Ngoại trừ Phật hiệu ra, tất cả các niệm đều chẳng để nẩy sanh, đó gọi là “nhất tâm”. Vì thế kinh Kim Cang dạy: “Phàm những gì có tướng đều là hư vọng”.

Ông chỉ nhất tâm niệm Phật mà thôi, há nên lầm lạc muốn vói cao pháp Nhĩ Căn Viên Thông của [Quán Thế Âm] Đại Sĩ. Ông phải biết: Pháp Phản Văn của Đại Sĩ hoàn toàn chẳng phải là nghe âm thanh mà là nghe nơi tánh Nghe! Vì thế nói: “Phản văn, văn tự tánh, tánh thành vô thượng đạo” (xoay cái Nghe để nghe nơi tự tánh, tánh thành vô thượng đạo). Có âm thanh hay không đều nghe được cả. Nếu theo như ông nói thì ắt phải có âm thanh mới nghe được! Chúng ta niệm Phật, [lắng] nghe theo âm thanh niệm Phật ấy, cũng là mang hơi hướng Phản Văn, đừng tự giữ lấy pháp Viên Thông mà hãy chuyên nhất lấy vãng sanh làm điều mong mỏi của chính mình thì sẽ có ích, không bị tổn hại. Nếu không, do hướng theo [sự xoay lại nghe nơi tánh Nghe], tâm bị chia chẻ bởi thói phân biệt pháp môn cao - thấp thì vô lượng vô biên lợi ích chân thật sẽ bị đoạn hết bởi thói “biết nhiều, bàn lắm” ấy.

Bốn bài thơ ông đã soạn, thanh vận thanh tao, du dương, Quang vốn chẳng làm thơ nên không thể họa được! Hiện thời đang bận bịu trọn chẳng được rảnh rỗi, nên muốn diệt tung tích gấp. Lại còn có bộ Lịch Sử Cảm Ứng Thống Kỷ khá có quan hệ đối với thế đạo nhân tâm vẫn chưa sắp chữ xong, chắc là suốt ngày lẫn đêm đều phải lo liệu. Hiện thời bản in theo cỡ chữ Tam Hiệu Tự đã sắp đặt xong, in ra một vạn bộ; sau hôm Hai Mươi sẽ có thể in ra sách, sẽ gởi tới mấy gói. Một vạn cuốn in trong lần hai đã được ấn hành. Lại còn ấn bản với cỡ chữ Tứ Hiệu Tự in bằng giấy báo vừa mới sắp chữ được một nửa. Nếu bản này sắp chữ xong, sẽ in một vạn bộ hoặc hai vạn bộ, rồi ra đi mãi mãi. Ước chừng vào nửa sau tháng Chạp, tôi sẽ sang Hương Cảng để khỏi phải suốt ngày bận bịu thù tiếp thư từ đến nỗi lỡ làng đại sự của chính mình!

 

529. Thư trả lời cư sĩ Hà Huệ Chiêu (thư thứ hai)

 

      Nhận được thư, biết ông túc căn sâu dầy, hạnh trong hiện tại khá thuần. Vì thế mới có đủ mọi cảnh tướng thù thắng hiện ra. Nhưng người đời nay quá nửa là chuộng thể diện, xây lầu gác trên không, có một phần hay nửa phần bèn nói có trăm ngàn vạn phần! Như những cảnh giới trong cuốn sách của cư sĩ X… (tức cuốn Tự Tri Lục) hoàn toàn do ngọn bút vẽ vời, chứ không phải do tâm địa tạo thành. Cố nhiên ông không nói dối, nhưng tôi thật sợ ông có tập khí ấy thì lỗi chẳng nhỏ đâu! Đức Phật xếp vọng ngữ vào năm giới căn bản, chính là để ngăn ngừa thói tệ này. Nếu thấy mà nói chẳng thấy, chẳng thấy nhưng nói thấy thì thuộc vào loại vọng ngữ! Nếu xây lầu gác trên không, bịa nói cảnh giới thù thắng, tức là phạm giới đại vọng ngữ. Nếu chưa đắc bảo đã đắc, chưa chứng nói đã chứng, tội ấy còn nặng hơn giết - trộm - dâm trăm ngàn vạn ức lần! Nếu kẻ ấy chẳng cực lực sám hối thì khi một hơi thở ra không hít vào được nữa sẽ đọa trong địa ngục A Tỳ, bởi kẻ ấy hoại loạn Phật pháp khiến cho chúng sanh lầm lạc, nghi ngờ! Ông phải rất thận trọng!

Cảnh thấy được một phân chẳng được nói một phân mốt, cũng chớ nên nói chín ly chín. Nói quá cũng là bị tội lỗi, mà nói giảm đi cũng không được! Vì sao vậy? Do tri thức chưa đắc Tha Tâm Đạo Nhãn, chỉ có thể phán đoán theo lời kể. Thứ cảnh giới ấy nếu nói với tri thức để cầu chứng minh tà - chánh, đúng - sai thì không phạm lỗi gì. Nếu chẳng nhằm cầu chứng minh, chỉ muốn tự khoe khoang thì cũng chớ nên nói. Nếu nói với hết thảy mọi người sẽ mắc tội lỗi. Trừ để cầu tri thức chứng minh ra, đều chớ nên nói! Hễ nói ra thì sau này sẽ vĩnh viễn chẳng thể đạt được cảnh giới thù thắng ấy nữa đâu! Đây là cái ải lớn nhất cho người tu hành, trong giáo pháp của tông Thiên Thai đã nhắc đến nhiều lần. Trong thời gần đây, sở dĩ nhiều kẻ tu hành bị ma dựa đều là do cái tâm vọng động, bộp chộp cầu cảnh giới thù thắng! Đừng nói cảnh ấy là cảnh ma, dẫu là cảnh thù thắng mà hễ nẩy sanh những tâm như tham đắm, hoan hỷ v.v… thì sẽ đều bị tổn hại, chẳng được lợi ích. Huống chi cảnh ấy còn chưa chắc đích xác là cảnh thù thắng ư?

Nếu người ấy có hàm dưỡng, tâm không vọng động, bộp chộp, không lòng tham đắm, thấy các cảnh giới mà hệt như chẳng thấy; đã chẳng sanh hoan hỷ, tham đắm, lại chẳng sanh sợ hãi, kinh nghi, đừng nói là cảnh thù thắng hiện ra sẽ có ích, dẫu cho cảnh ma hiện ra cũng vẫn có ích. Vì sao vậy? Do chẳng bị ma chuyển nên có thể tiến hơn. Lời này chẳng thường nói với người khác, do ông có những chuyện ấy nên cố nhiên tôi chẳng thể không nói. Thoạt đầu ông lễ Phật, trông thấy hình tượng Đại Sĩ [hiện ra, tượng ấy] không đích xác [là do Đại Sĩ biến hiện]! Bởi nếu đúng là thật thì sẽ chẳng vì do ông nghĩ tượng ấy chẳng hợp với [những điều được mô tả trong] Quán Kinh bèn ẩn mất; nhưng do đấy mà lòng tin của ông càng tha thiết thì cũng là nhân duyên tốt đẹp! Tuy vậy, chớ nên thường muốn thấy hình tượng [của Đại Sĩ], chỉ nên chí thành lễ bái mà thôi để khỏi phải lo nghĩ gì khác! Lúc ngủ thấy trước mắt có ánh sáng trắng và khi lễ Phật thấy tượng Phật đứng lơ lửng trên hư không tuy thuộc về thiện cảnh, chớ nên tham đắm! Từ nay đừng lấy đó làm điều mong mỏi thì [những tướng ấy] sẽ chẳng hiện nữa!

Trộm xem căn tánh của ông, tợ hồ trong đời trước đã từng tu tập Thiền Định nên mới nhiều lần thấy tướng ấy. Đời Minh, ông Ngu Thuần Hy[24] bế tử quan nơi chỗ ngài Cao Phong trên núi Thiên Mục, tịnh tu đã lâu, liền có tài tiên tri. Có thể đoán trước trời âm u hay trong sáng, họa - phước của người khác. Ông ta quy y với Liên Trì đại sư; đại sư nghe chuyện liền gởi thư tận lực quở trách, bảo ông ta đã lọt lưới ma. Về sau ông ta không biết nữa! Cần biết rằng: Người học đạo phải biết lẽ lớn lao. Nếu không, sẽ do được lợi ích nhỏ nhặt mà bị tổn hại to lớn. Đừng nói những thứ cảnh giới ấy, ngay như thật sự đắc Ngũ Thông cũng chẳng bận tâm đến thì mới hòng đắc Lậu Tận Thông! Nếu tham đắm, chắc sẽ khó tấn tu, hoặc bị thoái đọa, chẳng thể không biết [điều này]!

Hai câu kinh văn như ông đã nhớ trong giấc mộng vào điện Phật cố nhiên thuộc thiện cảnh. Hai câu ấy ngụ ý thật rõ ràng: “Phản hư y giác lộ, quy chân ngộ thường không” (quay lưng với sự hư huyễn, đi theo con đường giác. Theo về với lẽ chân sẽ ngộ lẽ thường không), nghĩa là con người lầm tưởng các pháp thế gian là thật, nên mê muội vào trong sanh tử. Nếu có thể quán ngược lại, [hướng theo] bản thể của các pháp vốn không thì sẽ nương theo đường giác, thoát mê nhập ngộ, quy Chân Đế, ngộ Chân Không Thật Tướng chân thường. Cảnh ma và cảnh thù thắng được phân biệt ở chỗ nó có hợp với kinh giáo hay không? Nếu là thánh cảnh, cảnh ấy sẽ làm cho tâm địa của người trông thấy liền được thanh tịnh, trọn không có tâm vọng động, bộp chộp, chấp trước. Nếu là cảnh ma thì hễ trông thấy tâm liền chẳng thanh tịnh, liền sanh lòng chấp trước, vọng động, bộp chộp v.v....

Hơn nữa, Phật quang tuy cực sáng ngời, nhưng chẳng lóa mắt. Nếu ánh sáng chói mắt tức là không phải đức Phật thật sự. Khi Phật hiện mà dùng lý “phàm những gì có tướng đều là hư vọng” để khám nghiệm thì càng rõ rệt; nếu ma hiện mà dùng lý ấy để khám nghiệm nó sẽ ẩn mất. Cách khám ấy là lò luyện lớn để nghiệm chân - ngụy vậy. Ban đêm thấy ánh sáng trắng và những cảnh trong trắng trên hư không v.v… đều là do tâm tịnh mà biến hiện, há nên coi đấy là pháp giới nhất tướng tịch - chiếu bất nhị? Nếu tưởng như vậy, sẽ thành “đem phàm lạm thánh”, tội ấy thật chẳng nông cạn đâu nhé! Hai câu kinh văn [ông vừa nói trên đây] chưa rõ xuất xứ, chắc đấy cũng là lời văn trong ký ức từ đời trước, chứ chưa chắc là kinh văn.

Người tu Tịnh nghiệp chẳng chú trọng các thứ cảnh giới, nên cũng không có nhiều cảnh giới phát sanh cho lắm! Nếu trong lòng chuyên muốn thấy cảnh giới thì cảnh giới sẽ nhiều. Nếu chẳng khéo dụng tâm, ắt đến nỗi tự bị tổn hại, chẳng thể không biết [điều này]! Lời của vị Đầu Đà kia nói chính là đạo lý trong nhà Thiền. Ông ta chưa đả phá Tịnh Độ thì cũng là điều hay, nhưng trọn chẳng biết đến tông chỉ Tịnh Độ nên mới đem [Tịnh Độ] đối chiếu với Thiền để bàn luận. Câu nói “chú trọng cảnh thù thắng, ánh sáng tốt đẹp” của ông ta cần phải hết sức châm chước. Nếu không, sẽ gây lầm lẫn cho người khác chẳng cạn! Ông ta lại nói: “Chớ nên chấp trước, bởi lẽ Phật pháp vô lượng, hễ chấp sẽ thành hữu lượng, sẽ chẳng nhập Phật trí được”. Nào phải chỉ chẳng nhập Phật trí mà còn có thể lọt vào ma giới nữa kia! Còn như ông ta nói “ai có Phật nấy” thì chính là lời lẽ nhà Thiền ước theo lý nơi tâm để luận, chẳng ăn nhập gì với Tịnh tông hết! Ánh sáng trắng trong vắt trên hư không vẫn chỉ là công đức nhỏ bằng đầu sợi lông của Như Lai, sao ông lại hiểu lầm là pháp giới nhất tướng, tịch - chiếu bất nhị? Thật ra đấy chính là cảnh Định trong đời trước do tâm tịnh mà hiện ra, cho nên ông đừng nghĩ đấy là chuyện lạ lùng đặc biệt!

Pháp môn Tịnh Độ lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông. Có tín - nguyện, bất luận hành nhiều - ít, sâu - cạn, đều được vãng sanh. Không có tín - nguyện, dẫu đạt đến địa vị “Năng - Sở đều mất, sáu căn thoát hẳn sáu trần”[25] vẫn khó được vãng sanh! Do nếu thật sự chứng được Thật Lý “Năng - Sở đều mất, sáu căn thoát hẳn sáu trần” sẽ liền có thể cậy vào tự lực để liễu sanh tử, [người như vậy] không cần phải bàn tới nữa! Chứ nếu chỉ có công phu thấy được lý ấy, vẫn chưa thật chứng mà nếu không có tín - nguyện thì cũng khó vãng sanh!

Thiền gia hễ nói tới Tịnh Độ đều quy về Thiền Tông, không nhắc tới tín - nguyện. Nếu y theo đó mà hành thì vẫn có thể khai ngộ, nhưng chưa đoạn Hoặc nghiệp mà muốn liễu sanh tử thì có mộng cũng chẳng mộng được đâu! Vì phàm phu vãng sanh là do tín - nguyện cảm Phật nên có thể cậy vào Phật từ lực để đới nghiệp vãng sanh. Nay đã chẳng sanh lòng tín - nguyện, lại đem mỗi một lời đức Phật nói quy hết về tự tâm thì làm sao cảm Phật được! Cảm và Ứng chẳng phù hợp thì chúng sanh là chúng sanh, Phật là Phật! Đem pháp Hoành Siêu (vượt thoát theo chiều ngang) dùng làm pháp Thụ Xuất (thoát ra theo chiều dọc) thì sẽ đạt được lợi ích nông cạn, bị tổn hại sâu xa! Chẳng thể không biết [điều này]! Chỗ được lợi ích là nghe theo lời nói ấy thì cũng có thể khai ngộ, nhưng chỗ bị tổn hại là đã bỏ tín - nguyện thì sẽ không cách gì cậy vào Phật từ lực được! Do vậy, tôi nói: “Người thật sự tu Tịnh Độ chẳng dùng đến khai thị của nhà Thiền do pháp môn, tông chỉ bất đồng”. Xin hãy sáng suốt soi xét. Nếu chẳng nghĩ như vậy là đúng thì xin hãy thưa hỏi nơi bậc đại thông gia cho khế hợp tâm chí của ông. Cố nhiên Quang không chấp trước!

 

530. Thư trả lời hai vị nữ cư sĩ Huệ Thục và Huệ Khánh

 

      Con người sống trong thế gian ắt phải trọn hết chức phận của chính mình. Có trọn được hết chức phận của chính mình thì mới chẳng phụ ân “trời che đất chở, mặt trời, mặt trăng chiếu soi, cha mẹ sanh thành, sư trưởng giáo huấn”. Nếu không, tuy mang tiếng là người, nhưng thật sự chẳng khác gì cầm thú cho lắm, sẽ thành phường sống uổng chết phí, tương lai trầm luân trong ác đạo, trọn chẳng có thuở thoát ra, chẳng đáng buồn sao? Nói tới chuyện trọn hết chức phận thì đối với thân phận nữ nhân, quả thật [chuyện ấy] có quan hệ lớn lao nhất nhưng trọn chẳng tỏ lộ dấu vết. Cõi đời bình trị hay loạn lạc, gia đình hưng thịnh hay suy sụp đều do nữ nhân có trọn hết chức phận hay không! Chức phận của nữ nhân như vừa mới nói đó chính là “hiếu thảo đối với bố mẹ chồng, hòa thuận với chị em dâu, giúp chồng dạy con” v.v… Bởi lẽ, [nữ nhân] có thể hiếu thảo, hòa thuận, ôn nhu, cung kính, đấy chính là “nghi gia”; có thể giúp đỡ chồng khiến cho đức hạnh lẫn nghề nghiệp của ông ta ngày càng tiến triển, lỗi lầm ngày một ít, đấy chính là “nghi thất”[26]. Hễ nghi thất nghi gia thì con cái nhìn vào sẽ được cảm hóa, đều thành hiền thiện. Con cái đã thành hiền thiện thì từ đấy trở đi, con cháu đời đời đều thành hiền thiện. Vì thế, Quang thường nói: “Quyền trị quốc bình thiên hạ, bọn nữ nhân nắm quá nửa”. Lại nói: “Dạy con là cái gốc để trị quốc bình thiên hạ, nhưng dạy con gái lại càng quan trọng hơn”. Nếu không, chẳng những [nữ nhân] không thể giúp chồng dạy con thành người lành được, mà ngược lại sẽ giúp chồng dạy con thành kẻ ác đến nỗi trở thành tình thế vô pháp vô thiên như trong ngày nay!

Các bà đều có thiện căn từ đời trước, được làm vợ chồng với Huệ Dung. Tuy sanh nhằm thời Phật pháp tàn diệt, nhưng may mắn được nghe pháp môn Tịnh Độ là pháp môn phổ độ chúng sanh của đức Như Lai! Chỉ cần chịu sanh lòng chân thật, phát nguyện thiết tha, xưng niệm A Di Đà Phật vạn đức hồng danh, chắc chắn sẽ tiêu trừ Hoặc nghiệp, tăng trưởng thiện căn trong đời này. Khi lâm chung, nương theo Phật từ lực vãng sanh Tây Phương, quả thật là vô thượng đại pháp chẳng dễ gì gặp được trong ngàn đời vạn kiếp! Các bà đã là chị em với nhau qua tình vợ chồng, ắt phải yêu thương, kính trọng lẫn nhau, khuyên răn, khích lệ lẫn nhau. Chớ nên giống bọn nữ nhân vô tri chưa nghe biết đạo: Hằng ngày cứ chuyên tranh cãi, ghen ghét, báng bổ, hạ nhục lẫn nhau. Như thế thì tâm địa ngày một tối tăm, phước - thọ ngày một thu hẹp, khi một hơi thở ra không hít vào được nữa sẽ khó khỏi đọa lạc trong ba ác đạo. Nỗi khổ ấy chẳng thể nào diễn tả được đâu!

Các bà đã cùng quy y, tức là đồng môn, đồng tu Tịnh nghiệp, tương lai cùng sanh Tịnh Độ, cùng thấy Phật A Di Đà, cùng nghe Phật pháp, cùng chứng vô thượng đạo. Trong lúc này mọi người đều cùng đồng tâm tận lực tu trì, há chẳng gắng công ư? Do Huệ Dung muốn cho hai người quý vị cùng được thấm nhuần sự giáo hóa của Phật nên mới xin Quang đặt pháp danh cho hai bà và khai thị. Do vậy tôi mới nói dài dòng như thế, thật sợ các bà tự nghĩ mình kém hèn, nhỏ nhoi, chẳng biết một niệm tâm tánh của chúng sanh và Phật trọn chẳng khác gì, nhưng do mê - ngộ khác nhau đến nỗi khác biệt vời vợi một trời một vực. Nay giảng đại lược nguyên do, những điều khác đã nói tường tận trong Văn Sao, Gia Ngôn Lục, hãy xin Huệ Dung giảng cho các bà thì sẽ đều biết rõ vậy.

 

531. Thư trả lời cư sĩ Từ Úy Như

 

      Nhận được thư, biết lệnh thúc[27] sống - chết khá kỳ lạ. Các hạ nói đến chuyện [lệnh thúc sau khi mất, chuyển sanh làm] thần Già Lam[28] vốn là chuyện thực tình, nhưng đấy là tiểu Già Lam, chứ không phải là đại Già Lam. Ông ta ăn chay, tụng kinh đều do túc căn xui khiến, tiếc chưa từng được gặp tri thức của pháp môn Tịnh Độ đến nỗi [mất đi] vẫn đầu thai trong hàng hộ pháp có thần thông. Người ấy tri kiến giống với kẻ bình thường, còn đối với cảnh giới của Đại Sĩ đều chưa từng thấy. Nếu có thể dùng trí lực để biết đến cảnh giới của Đại Sĩ, sẽ trọn chẳng đến nỗi sống hồ đồ suốt cả một đời rồi vẫn sanh làm một vị thần hộ pháp có thần thông.

Lệnh đệ chẳng vì chuyện này mà cực lực chú trọng vun bồi sự Tây quy cho cụ, cứ vẫn muốn làm thế nào để tăng tiến địa vị cho ông cụ. Tâm ấy cố nhiên là tốt đẹp, nhưng nếu dựa theo Thật Lý để tính toán cho lệnh thúc thì hãy nên khuyên con trai ông cụ thành kính tột bậc để vun bồi nơi pháp môn Tịnh Độ, hồi hướng cầu cho cụ thoát khỏi chức cũ trong thần đạo, sanh vào cõi Phật Cực Lạc. Nói đến chuyện vun bồi công đức thì mở mang tri thức cho người khác là bậc nhất. Hiện thời Tăng Quảng Văn Sao đã sắp chữ xong xuôi, nhưng vẫn chưa kết thúc. Đợi cho Thọ Khang Bảo Giám sắp chữ xong sẽ thôi không đưa thêm bài [vào bộ Văn Sao nữa], cho in ra. Hiện thời đã dày tới bốn trăm hai mươi trang, nhưng vẫn chưa định được số trang thật sự. In chữ lớn thì mỗi bộ phải trên dưới tám cắc vì trong năm ngoái [tiền in mỗi cuốn] Đại Sĩ Tụng phải tốn đến ba cắc bốn xu mà [Đại Sĩ Tụng] chỉ có hai trăm mười trang. Sách này (tức Ấn Quang Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên) phải đắt gấp đôi!

Gần đây chiến sự dồn dập, giá giấy tăng vùn vụt. Nếu lệnh đệ chịu bỏ tiền in bao nhiêu bộ để tự mình thí tặng ngõ hầu hết thảy những người đọc [Văn Sao] đều biết nguyên do vãng sanh Tịnh Độ; đem công đức ấy để làm bằng khoán vãng sanh cho cha, lại thêm chí thành, ắt sẽ được như nguyện, sẽ có lợi ích công đức chân thật nhất. Tuy tợ hồ chẳng dính líu đến Phổ Đà, nhưng cũng chẳng phải là không dính líu, vì mọi người đều nói “Phổ Đà Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao” vậy. Tiếp theo đó, tôi phải giám đính Phổ Đà Sơn Chí. Giám đính xong sẽ cho khắc ván, khoảng Xuân - Hè năm sau sẽ in thành sách. Nếu chịu bỏ tiền in để hồi hướng thì so ra càng thù thắng lâu dài hơn những thứ công đức khác!

 

532. Thư trả lời cư sĩ Lý Viên Tịnh (thư thứ nhất)

 

      Nhận được thư khôn ngăn cảm kích, hổ thẹn. Phương cách biên soạn tác phẩm lớn lao[29] như ông đã trình bày cho thấy ông trống lòng, chẳng ỷ vào ý kiến của chính mình, tôi hết sức khâm phục! Những kẻ hoằng pháp hiện thời thường muốn dẫn dắt người khác vào trong Phật pháp, nhưng trước hết chính mình đã phải chiều theo [ý thích] của người ta để làm thì đại thể đã mất[30], làm sao có thể khiến cho người khác trọng pháp được? Thoạt đầu các hạ phỏng theo cách thức mới, nay vẫn muốn khiến cho đại chúng chẳng giẫm theo thói tệ khinh pháp, đáng gọi là “thật sự thấu hiểu thể thống hoằng pháp”.

Còn như Ấn Quang Văn Sao thì quả thật văn chương chất phác, kém cỏi khó thể chịu đựng được, nhưng đối với kẻ sơ cơ cũng chẳng phải là không tạo được lợi ích nhỏ nhặt. Do vậy, suốt mấy năm qua, đã được sắp xếp ấn hành năm lần: Khắc ván một lần, [bản khắc ấy] hiện còn giữ tại Dương Châu; Từ Úy Như in hai lần ở Bắc Kinh, in một lần tại Thượng Hải. Trước kia Quang in một lần, nay lại in một lần nữa. Trong tháng Tư sẽ có thể ra sách; in ra được mấy vạn. Bản in lần này nhiều hơn lần trước một trăm hai mươi trang, đặt tên là Tăng Quảng Ấn Quang Văn Sao. Thường có người gởi thư yêu cầu, đủ biết phần nhiều kẻ sơ cơ phát tâm chẳng vì văn chương chất phác kém cỏi mà chê bỏ. Các hạ lại chọn lấy những điều trọng yếu, phân môn chia loại để lưu truyền, so với trọn bộ sách sẽ tốn kém ít hơn mà lợi ích nhiều hơn, quả thật là công đức chẳng thể nghĩ bàn! Lúc Quang mới xuất gia, thấy các tri thức dạy người khác tu trì, trọn chẳng nhắc đến những chuyện nhân quả, luân thường v.v… đến nỗi có kẻ tu trì khá tốt đẹp, nhưng đối với luân thường chẳng thể nghiêm túc trọn hết bổn phận của chính mình; do vậy đã khiến cho những kẻ chẳng biết đến chân lý Phật pháp phần nhiều dấy lòng báng bổ! Quang ôm ấp ý nguyện uốn nắn thói tệ ấy đã lâu. Vì vậy, trong hết thảy những bài viết lách đều nhắc đi nhắc lại. Nếu các hạ chẳng cho những gì tôi đã nói là thừa thãi, có lẽ nên sao lục [những lời đó] để giúp vãn hồi thế đạo nhân tâm.

Các hạ chưa đầy ba mươi tuổi mà đã hiện tướng suy yếu, cố nhiên hãy nên bỏ [cái học] rộng rãi để giữ lấy chỗ ước lược, hãy chuyên tu Tịnh nghiệp. Khi Tịnh nghiệp đã thành tựu lớn lao rồi, sẽ hoằng dương các pháp khác ngõ hầu thật sự tự lợi, lợi tha. Nếu không, tuy có thể lợi người, nhưng [những pháp ấy] vẫn chưa phải là đạo rốt ráo để được thoát sanh tử ngay trong đời này mà đối với chuyện thuộc về bổn phận của chính mình thì chưa thể đoạn sạch Phiền Hoặc để liễu sanh tử.

Lại do chưa hoàn toàn chuyên chí nơi Tịnh nghiệp, chắc sẽ nương vào giáo nghĩa theo đường lối thường rồi nghi ngờ pháp môn đặc biệt. Nếu vậy, thì sẽ không thể nhờ vào Phật từ lực để đới nghiệp vãng sanh được đâu! Tuy đã gieo thiện căn, nhưng vẫn là chén bát chưa nung, hễ gặp trận mưa tái sanh ắt bị hư nát, đáng tiếc lắm thay! Sư Hiển Ấm sẵn lòng đại từ bi, đặc biệt sợ bọn thanh niên thông minh sẵn có huệ căn bị mất đại lợi ích, nên hiện ra tướng trạng đáng để dè dặt, răn nhắc[31] ấy! Điều ấy chưa bao giờ không phải là khai thị chân thật để sâu xa khuyên nhủ các hạ tận lực tu trì Tịnh nghiệp vậy!

 

533. Thư trả lời cư sĩ Lý Viên Tịnh (thư thứ hai)

 

      Nhận được thư, khôn ngăn cảm kích, hổ thẹn. Bản biên tập này của các hạ đúng là mày - mắt rành mạch, lợi người nhiều lắm! Trộm nghĩ: Những đoạn được trích lục trong bộ sách này đều lấy từ phần Thư Từ, nhưng ngay trong những phần Luận, Sớ, Tựa, Bạt v.v… cũng có [những đoạn] có thể trích lục; chứ không phải là thư từ thì trích lục được, còn những phần khác đều chẳng nên trích lục! Hơn nữa, cuốn sách này vốn là sách trích lục, cố nhiên chẳng cần phải sợ bị phạm lỗi “xén cắt chương đoạn để chọn lấy nghĩa”; nhưng trong thời thế hiện tại, càng phải nên chú trọng nhân quả, thành kính, luân thường, coi đó là nhiệm vụ trọng yếu để cứu quốc, cứu dân, hoằng pháp lợi sanh. Phàm những đoạn văn nào liên quan đến những ý nghĩa ấy có lẽ nên thu thập cho nhiều. Ông lập ra mười khoa, khá là thông suốt. Đôi khi có những chỗ câu chữ không đều và những chữ không trôi chảy rõ ràng cho lắm; do vậy tôi bèn liệt kê [mười khoa ấy] như sau:

1) Tán Tịnh Độ siêu thắng (khen ngợi Tịnh Độ siêu việt, thù thắng)

2) Giới tín nguyện chân thiết (răn nhắc tín nguyện phải chân thật, thiết tha)

3) Thị tu trì phương pháp (dạy về phương pháp tu trì)

4) Luận sanh tử đại sự (bàn về đại sự sanh tử)

5) Miễn cư tâm thành kính (gắng giữ lòng thành kính)

6) Khuyến chú trọng nhân quả (khuyên chú trọng nhân quả)

7) Phân Thiền Tịnh giới hạn (phân định giới hạn giữa Thiền và Tịnh)

8) Thích phổ thông nghi hoặc (cởi gỡ những ngờ vực phổ biến)

9) Dụ tại gia thiện tín (khuyên nhủ hàng thiện tín tại gia)

10) Tiêu ưng độc điển tịch (liệt kê những kinh sách nên đọc).

Xin ông hãy cân nhắc!

     

534. Thư trả lời cư sĩ Lý Viên Tịnh (thư thứ ba)

 

      Quang thường nói: “Giáo dục trong gia đình chính là cái gốc để trị an. Nhân quả báo ứng chính là pháp để chế ngự cái tâm!” Trong gia đình, sự dạy dỗ của mẹ là trọng yếu. Nếu có mẹ hiền, trong thuở thơ ấu con cái lại thường được giảng giải về nhân quả thì khi những đứa con ấy lớn khôn chắc chắn sẽ chẳng đến nỗi làm những chuyện nghịch trời tổn đức v.v… Tiếc cho những người hướng dẫn đề xướng dù tại gia hay xuất gia đều chẳng chú ý tới chuyện này, đáng than lắm!

Ngày hôm qua đã dán thư xong, khi bưu tá đến đây thì lại giao tiếp một lá thư khác. Do vậy, gắng gượng viết bài đề từ gồm bốn mươi vần; chỉ vì tôi trọn chẳng làm thơ nên dùng chữ phần nhiều khiên cưỡng, xin hãy sửa chữa. Bài Lâm Chung Châu Tiếp Yếu Ngữ (những lời lẽ quan trọng dùng làm mái chèo cho chiếc thuyền [vượt biển sanh tử] lúc lâm chung) được lưu truyền đã lâu, có khá nhiều chỗ bị sai ngoa. Đối với những chỗ ý nghĩa chẳng trọn vẹn trong phần này, tôi đều tự tiện bổ túc. Phần luận kệ ở phía sau, Quang từng thấy luôn luôn có, chẳng biết do ý gì ông lại lược bỏ đến nỗi lời lẽ trở thành thiếu căn cứ? Mà đáng tiếc là phần nguyên văn cũng không nêu ra tên của bài luận ấy. Xin ông hãy cân nhắc!

Thêm nữa, bài kệ ấy sợ là do noi theo Du Già Luận[32] mà soạn ra. [Tựa đề] Lâm Chung Châu Tiếp chỉ cần [viết] thấp xuống một chữ. Hai chữ Yếu Ngữ (lời nói quan trọng) có lẽ nên bỏ đi và vẫn dùng cùng một cỡ chữ bởi chữ nhỏ hơn thì người già xem sách sẽ phải tốn nhiều công. Phía trên tựa đề nên thêm hai chữ Phụ Lục thì chánh - phụ sẽ rõ ràng. Hiện thời do chiến sự chẳng thể gởi giấy tới được. An Sĩ Toàn Thư, Văn Sao trong nhất thời đều chẳng thể in ra được. Xin hãy biên soạn thong thả, đừng gấp rút thì người đỡ tốn sức mà chuyện lại được thong dong. Đối với những sách do Quang đã in đều cho làm bốn bức Chỉ Bản. Nếu cuốn sách này sắp chữ xong, cũng nên làm ra nhiều Chỉ Bản để tốn công một lúc, nhàn nhã lâu dài!

 

535. Thư trả lời cư sĩ Lý Viên Tịnh (thư thứ tư)

 

      Hôm qua tôi đã duyệt Gia Ngôn Lục được một nửa, hôm nay sẽ duyệt xong, nhưng vẫn phải đọc kỹ, cũng như tìm cách để mong đỡ mỏi mắt. Những chữ sai trong ấy đều ghi ra thành một bản gởi đi để làm căn cứ sửa đổi cho đúng khi tái bản. Trong bản giảo chánh của Quang đã nêu ra cặn kẽ [từng chỗ sai sót] nhằm dùng làm bản mẫu để sắp chữ [khi tái bản]. Trong tương lai, chuyện giảo đối sẽ do Quang tự đảm nhiệm. Trần Thái Thái đã chịu tiền sắp chữ, tiền làm Chỉ Bản và tiền in một ngàn bộ, như vậy là đỡ tốn công nhiều lắm. Tôi sẽ bảo ấn quán khi in xong một vạn bộ Văn Sao sẽ in cuốn sách này trước. Vẫn sợ là trong khoảng tháng Mười Một, tháng Chạp mới ra sách được. Quang ở đây chờ cư sĩ Tôn Hậu Tải, đợi ông ta đến rồi mới trở về đất Hỗ được!

 

536. Thư trả lời cư sĩ Lý Viên Tịnh (thư thứ năm)

 

      Hôm qua nhận được thư, tâm hết sức vui mừng, an ủi. Khi trước nghe nói chiến sự nổ ra tại Thượng Hải, tôi nghĩ Tam Bảo gia bị chắc [gia đình ông] sẽ chẳng đến nỗi bị nguy hiểm. Nay biết trong lúc ông không trốn tránh được thì Viên Minh lại dám đem xe hơi đến đón mà lính Nhật cũng chẳng làm điều hung ác, Bồ Tát cứu khổ cứu nạn quả thật chẳng thể nghĩ bàn thấu suốt được! Xin hãy khuyên hết thảy mọi người cùng niệm Quán Âm để mong Bồ Tát gia bị khiến cho thủ lãnh quân Nhật ngưng diệt ác tâm lẫn độc tâm thì chiến sự sẽ tự ngưng dứt. Đừng nên đem lòng ác nguyền rủa [quân Nhật] bởi chẳng khế hợp với tâm đại bi bình đẳng của Bồ Tát vậy (ngày mồng Chín tháng Giêng năm Nhâm Thân - 1932)

 

537. Thư trả lời cư sĩ Đồng Ảnh

 

      Trong tháng Chín tôi nhận được thư do anh của ông gởi, nói ông bị bệnh, tâm chí bất định: Hoặc là gấp muốn được trị bệnh giống như không rảnh rỗi để chờ đợi nữa, hoặc thầy thuốc đến kê toa nhưng không chịu uống, hoặc mời cả hai thầy thuốc v.v… thật giống như tánh tình của con nít! Cầu thầy trị bệnh kiểu đó sẽ càng bệnh thêm; làm sao lành bệnh cho được? Bởi lẽ, tâm niệm nóng nảy bộp chộp là tự mình tăng thêm bệnh. Cắt thuốc loạn xạ là thầy thuốc tăng thêm bệnh. Ông phát tâm muốn xuất gia tu hành, giải quyết cho xong đại sự sanh tử, nhưng thái độ phú quý kiêu căng ấy chưa bỏ được mảy may nào, khi xuất gia lỡ bị bệnh ắt sẽ chết gấp! Ông có tánh kiêu ngạo ấy, mà còn có thể cam chịu sự yên tĩnh, đạm bạc, xem thân này như thứ thừa thãi được ư?

Hơn nữa, người học đạo hễ gặp những chuyện chẳng như ý chỉ nên coi chúng như những cơ hội để hướng đến đạo. Cảnh nghịch xảy tới bèn thuận chịu, dẫu có gặp chuyện nguy hiểm gì đi nữa thì trong lúc ấy sẽ chẳng đến nỗi kinh hãi tới mức hoảng loạn, quýnh quíu! Chuyện gì đã qua thì lòng cũng chẳng bận tâm tới nữa, coi như giấc mộng đêm qua; há nên thường giữ mãi trong tâm đến nỗi tạo thành căn bệnh ngực đập như trống làng? Ông đã muốn tu hành hãy nên biết hết thảy cảnh duyên đều do túc nghiệp cảm thành. Lại càng phải nên chí thành niệm Phật thì sẽ chuyển được nghiệp. Chúng ta chẳng làm chuyện nghịch trời tổn đức thì đâu có sợ gì. Người niệm Phật được thiện thần che chở, gia hộ, ác quỷ tránh xa, còn sợ chi nữa?

Nếu ông thường sợ hãi, sẽ bị ma sợ hãi dựa vào, ắt sẽ có oán gia từ vô lượng kiếp thừa dịp lòng ông sợ hãi kéo đến dọa dẫm khiến cho ông mất trí điên cuồng để báo oán xưa. Đừng nói: “Ta vẫn niệm Phật, đâu sợ đến nỗi như thế!” Chẳng biết rằng toàn thể chánh niệm của ông đã quy vào lòng sợ hãi, khí phận đã cách ngăn với Phật, đã thông với ma! Đâu phải là Phật chẳng linh mà là do ông đã đánh mất chánh niệm, đến nỗi niệm Phật chẳng được lợi ích trọn vẹn. Xin ông thấy thư Quang hãy thống thiết sửa đổi tâm trước, sẽ nghĩ anh mình một vợ một chồng, đâu có gì đáng lo? Nếu túc nghiệp hiện tiền, dẫu sợ hãi há có tiêu diệt được chăng? Chỉ nên chẳng sợ, hễ giữ được chánh niệm thì cư xử sẽ thích đáng, thần thái chân thật đã yên định thì tà quỷ chẳng thể xâm phạm được. Nếu không, sẽ do tà chiêu tà, kẻ oán trong đời trước đều kéo tới, gặp chuyện không quyết định được, hoàn toàn bó tay! Chẳng đáng buồn ư?

Nay tôi tính kế cho ông: Hãy nên buông xuống những điều ôm giữ. Hết thảy mọi chuyện đều có thể lo liệu được, chớ nên ôm đồm, lo lắng. Chỉ sợ hạnh mình có tỳ vết, chẳng sợ quỷ thần gây họa hoạn. Nếu ông ở nhà tu hành tốt đẹp thì sẽ cùng với anh và vợ v.v… giúp đỡ nhau tu trì Tịnh nghiệp. Nếu chẳng thể làm được như vậy thì hãy sang Thượng Hải ở nhờ Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xã, hằng ngày thường được nghe giảng nói, cũng như hằng ngày thường theo đại chúng niệm Phật. Hiện thời Tịnh Nghiệp Xã dời sang Nam Viên của nhà họ Giản, có cơ sở chừng mười hai mười ba mẫu đất, là đạo tràng lớn nhất. Năm sau, pháp sư Đế Nhàn sẽ giảng Niết Bàn Kinh Sớ[33] tại đấy. Nơi ấy nhiều phòng ốc, chẳng chật hẹp như [cơ sở cũ] ở đường Ái Văn Nghĩa (Avenue Road)[34]. Nếu ông đến thì mỗi tháng đóng góp bao nhiêu đó tiền ăn uống, chắc chắn sẽ được như nguyện. Sau mấy tháng sẽ trở về nhà thăm một chuyến, bàn bạc chuyện nhà với anh ông, hàn huyên với vợ, không đầy mấy ngày lại đi, quả thật là biện pháp tu đạo hy hữu bậc nhất. Quang nghĩ ông làm như thế thì lợi ích đạt được sẽ trỗi hơn vô lượng lần so với xuất gia, nhưng phải vứt bỏ kiến thức giống như trẻ nít và lũ người vô tri đầu đường xó chợ đi thì sẽ đích thân đạt được vô biên lợi ích!

      Đang trong tình thế nguy hiểm này, hãy nên mở rộng tấm lòng, tầm mắt, nỗ lực tu trì Tịnh nghiệp. Tất cả cát - hung, họa - phước đều chẳng bận tâm đến, cứ tùy duyên ứng biến. Dẫu cho đại họa đối đầu, vẫn nghĩ tới những người cùng mắc họa này chẳng biết có mấy ngàn vạn ức. Trong lúc không thể làm gì được, vẫn còn có A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát để nương tựa được, nào còn sợ hãi chi! Lấy niệm Phật, niệm Quán Âm để làm căn cứ không sợ hãi. Mở rộng tâm lượng, đừng sợ hãi trước thì bệnh tự lành, thân tự yên vui. Nếu chẳng biết nghĩa này, chưa gặp cảnh nguy mà chính đã tự hãm vào trong cảnh nguy ngập trước, dẫu Phật, Bồ Tát cũng chẳng thể cứu được đâu! Do vậy, quân tử gặp cảnh hoạn nạn bèn hành xử theo cảnh hoạn nạn, cho nên trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng được yên vui!

 

538. Thư trả lời cư sĩ Quán Tâm

 

      Mấy hôm trước, qua lá thư từ núi [Phổ Đà] chuyển đến, biết tâm ông mộ đạo tha thiết, tu trì một niềm cẩn trọng, khôn ngăn vui mừng, hâm mộ, nhưng do quá bận bịu chẳng thể trả lời ngay. Ngày hôm qua do có chuyện phải sang đất Hàng, được rảnh rang đôi chút, bèn viết đại khái. “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện nghiệp” chính là chánh nhân Tịnh nghiệp của tam thế chư Phật. Ông hiếu thảo với cha mẹ, biết tiết kiệm, sống chất phác, ắt sẽ chẳng đến nỗi nhận tiền tài phi nghĩa, tâm hạnh ấy khá hợp với Phật. Nếu lại còn thêm lòng tín nguyện cầu sanh Tây Phương, ắt sẽ được như nguyện. Nhưng đã làm con người khác, làm cha của kẻ khác thì hãy nên nghĩ đến cách làm sao cho cha mẹ ta, con cái ta đều được rốt ráo an ổn. Há chẳng tận lực khuyên cha mẹ ta và con cái ta cùng tu Tịnh nghiệp ư? Đấy là ước theo phía người thân mà luận, chứ hết thảy chúng sanh đều là con Phật, ta đã biết như vậy, nỡ lòng nào chẳng làm cho anh em trai, chị em gái, thân thích, làng nước của ta, hết thảy những người gần gũi mỗi mỗi đều được biết tới [pháp môn Tịnh Độ] hay sao? Ông muốn quy y để mong vãng sanh, chẳng nên phát hoằng thệ để thực hiện sẵn đạo “tùy phần, tùy sức độ người” hay sao?

Nay đặt pháp danh cho ông là Huệ Hoành (Hoằng); nghĩa là dùng trí huệ lớn lao để hành đạo tự lợi, lợi người, tức là vì hết thảy chúng sanh mà nói “giữ vẹn luân thường, nghiêm túc trọn hết bổn phận của chính mình, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đánh đổ ham muốn xằng bậy để khôi phục lễ nghĩa, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương”. Trong Văn Sao đã nói đến [chuyện này] nhiều lượt, nay nhắc lại với ông vì sợ có lẽ ông không chú ý đến nỗi bỏ qua. Vì thế, chẳng ngại gì nhắc lại! Hơn nữa, thế đạo loạn lạc như hiện thời đều là vì không có người khơi gợi, chỉ dẫn [những điều ấy]. Xét đến cội nguồn đều do trong gia đình chẳng khéo dạy dỗ, cũng như chẳng nói đến nhân quả báo ứng mà ra. Thiên hạ chẳng yên, thất phu thất phụ có trách nhiệm! Chú trọng giáo dục gia đình và nhân quả báo ứng thì tự nhiên hiền tài sẽ đông đảo dấy lên, thiên hạ sẽ dần dần được thái bình. Đối với mọi người, xin hãy đều đem lời này khẩn thiết bảo ban. Đấy cũng là một đại sự quan trọng “sống trong cõi trần học đạo, chính mình chưa đắc độ mà đã làm chuyện độ người”. Xin hãy sáng suốt suy xét thì may mắn lắm. Những điều khác đã nói tường tận trong Văn Sao, ở đây không viết cặn kẽ!

 

539 . Thư trả lời cư sĩ Lý Cát Nhân

 

Nhận được thư hôm Rằm, do bận bịu không rảnh rỗi nên lần khân đến nay. Nếu có thể đích thân tận mặt đến quy y thì cố nhiên là đúng lý, nhưng nếu chẳng đích thân đến được, chỉ dùng lòng chí thành khẩn thiết giống như đích thân lãnh nhận thì cố nhiên cũng chẳng khác gì! Dẫu tận mặt quy y nhưng chẳng coi trọng chuyện quy y, suy nghĩ, cư xử vẫn giống như cũ thì tuy mang tiếng là quy y Tam Bảo, nhưng thật ra là quyến thuộc của ma vương. Lợi ích trong Phật pháp há có thể dùng hư danh để đạt được ư?

Niệm Phật cần phải nhiếp tâm khiến cho tạp niệm không do đâu khởi lên được. Nếu muốn nhiếp tâm thì hãy nên lắng nghe. Nếu nghe từng câu từng chữ cho rõ ràng thì tự nhiên tâm sẽ chẳng đến nỗi tán loạn quá mức, dẫu không quán tưởng mà cũng giống như đang nhập quán. Nếu chẳng thể nhiếp tâm được thì quán cảnh chẳng rõ ràng, lý tánh chẳnh rành rẽ, lầm lạc muốn được sanh trong Thượng Phẩm, mặc theo ý mình quán tưởng sẽ bị ma dựa phát cuồng nhiều lắm!

Há cứ phải quán tưởng thì mới có thể vãng sanh Thượng Phẩm được ư? Niệm [Phật] đến mức nhất tâm kèm thêm đại Bồ Đề tâm, lại còn tự hành, dạy người, hành rộng rãi Lục Độ, ai mà chẳng lên được Thượng Phẩm? Nhưng lấy quán tưởng làm nhân cho Thượng Phẩm thì cũng là một cách nói từ xưa đến giờ [dành riêng cho một hạng căn tánh nào đó], chứ nhiếp tâm niệm Phật là đạo để [căn cơ] thượng - trung - hạ cùng tu, lợi ích đạt được sẽ tùy theo [căn tánh và sự tu tập của] từng người mà chia ra lớn - nhỏ. Nếu quán tưởng mà chẳng hiểu biết nguyên do thì quyết chớ nên mù quáng tu tập vì có thể bị ma dựa! Nếu ông có thể nhất tâm niệm Phật, há ông chẳng được sanh trong Thượng Phẩm ư?

Chú Đại Bi chỉ nên y theo lời thầy đã dạy trong hiện thời mà niệm ắt sẽ có vô biên lợi ích. Cố nhiên hằng ngày nên thường niệm, cần gì phải trong ngày Thập Trai [mới niệm]. Hơn nữa, chuyện ăn thịt họa hại vô cùng. Vợ chồng ông đã phát tâm vãng sanh Thượng Phẩm, sao chẳng ăn chay trường mà chỉ ăn Thập Trai vậy? Chẳng riêng gì chính mình ăn chay mà còn nên khuyên con cái và người trong nhà đều cùng ăn chay. Đọc kỹ Văn Sao sẽ tự biết (bài sớ kêu gọi [tu bổ] ao phóng sanh ở Nam Tầm đã giảng giải khá tường tận) mối họa do ăn thịt và điều lợi do không ăn thịt. Cố nhiên nên nỗ lực nơi chuyện này, đừng để tập tục trói buộc, chỉ ăn Thập Trai mà thôi!

Thuốc lá của Tây Dương gây hại thật sâu. Trong Văn Sao có in kèm thêm bài thuốc thần diệu để cai nghiện á phiện, linh nghiệm tột bậc. Có rất nhiều người đều cai thành công. Kẻ nào chẳng dứt nghiện được đều là vì thân thể đã mang sẵn bệnh tật khác. Ông hãy nên dựa theo đó, định kỳ hạn cai nghiện thong thả lâu gấp đôi thì sẽ đoạn được cái gốc họa này. Chuyện vãng sanh cố nhiên chẳng vì cai nghiện hay không [mà bị ảnh hưởng], dẫu có tật ấy nhưng hễ sanh lòng tin chân thật, phát nguyện thiết tha, nhất tâm niệm Phật thì không một ai chẳng được vãng sanh.

Thế đạo nhân tâm hiện thời bại hoại đến cực điểm. Muốn cho quốc gia dần dần được khôi phục nguyên khí mà chẳng vun bồi cho gia đình sẽ không thể được. Những kẻ hoại loạn thế đạo nhân tâm đều do sẵn có tánh tình khác lạ, gia đình lại không dạy dỗ, khiến cho những kẻ sẵn có tánh nết khác lạ ấy sanh khởi hành vi cuồng vọng, ra sức phóng túng, tà vạy. Nếu những kẻ ấy được dạy dỗ đàng hoàng thì nếu cùng quẫn sẽ riêng mình thiện, khi hiển đạt sẽ làm cho kẻ khác đều cùng thiện. Vì thế, Quang cực lực đề xướng dạy dỗ con cái để mong thiên hạ thái bình, nhân dân yên vui. Điều quan trọng là dạy cho [con cái] biết rõ sanh tử, luân hồi, nhân quả, báo ứng, giáo pháp ấy tuy thông thường nhưng lợi ích hiển nhiên đến tột bậc! Đừng làm các điều ác, vâng giữ những điều lành, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, đấy chính là một đại pháp môn để ngàn đức Phật, vạn đức Phật phổ độ chúng sanh khiến cho gần là thoát sanh tử, xa là thành Phật đạo. Đọc kỹ Văn Sao sẽ tự biết trọn vẹn!

 

540. Thư trả lời cư sĩ Lâm Tán Hoa (thư thứ nhất)

 

      Trước đây đã nhận được thư nhưng do bận bịu chưa thể trả lời ngay. Cổ nhân nói: “Bốc dĩ quyết nghi, bất nghi hà bốc” (bói để giải lòng nghi; không nghi, bói làm gì). Như ông hỏi: “Niệm Phật là Chủ, nghiên cứu Giáo là Trợ. Tùy duyên độ người, hồi hướng An Dưỡng” thì cần gì phải hỏi [làm như vậy] là đúng hay không? Đối với chuyện Trí Tĩnh đọc tụng Lăng Nghiêm, cần gì phải ngăn cấm? Niệm Phật, tụng kinh, về lý chẳng hai, nhưng phải nên lắng lòng trì tụng, chớ nên chỉ chú trọng nghiên cứu văn nghĩa. Làm như thế thì ý Phật còn lãnh hội được, huống là văn nghĩa ư? Lý Trác Ngô[35] tuy có tri kiến hơn người, nhưng hành vi đa phần trái nghịch, sai bậy, dẫu tri kiến hơn người vẫn chưa khỏi lệch lạc, tà vạy! Há nên nhất loại coi những kẻ chỉ trích, phê phán ông ta là ngoan cố ư? Ngài Ngẫu Ích dẫn lời ông ta là do Ngài chẳng vì [thấy tánh cách] của một con người [có những điểm đáng chê trách] mà sổ toẹt những lời [hữu lý] của người ấy. Ông cho rằng ngài Ngẫu Ích đã dẫn lời ông ta thì mọi lời lẽ của ông ta đều đáng lấy làm khuôn phép ư? Tôi chưa từng đọc sách của Trí Ngô, nhưng đọc tiểu truyện của Trí Ngô trong Cư Sĩ Truyện và những chỗ người đời trước chỉ trích những chỗ trái nghịch, sai lầm của Trí Ngô thì cũng có thể biết ông ta là người như thế nào. Ấy là vì ông ta thiên tư cao nhưng xen tạp tánh cuồng vọng, chống đối, chưa thể tận lực tu tập đạo “thành ý, chánh tâm, đánh đổ ham muốn xằng bậy của chính mình để khôi phục lễ nghĩa” của thánh hiền, cũng đáng tiếc lắm!

Để phá những mê chấp của các nhà triết học, khoa học, cố nhiên nên lấy duy tâm duy thức làm chủ, nhưng cần phải đề xướng nhân quả báo ứng thì nghĩa duy tâm duy thức mới được hoàn toàn viên mãn. Tính kế sách cho hiện tại thì hãy nên cực lực đề xướng “giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, hiểu nhân, rõ quả” và giáo dục trong gia đình, nhưng đối với giáo dục trong gia đình lại càng cần phải chú trọng nhân quả báo ứng. Hiện thời cõi đời loạn lạc đến cùng cực, dân không lẽ sống đều do chẳng nói đến nhân quả báo ứng và giáo dục trong gia đình mà ra. Kẻ biết tốt - xấu chắc sẽ không cho lời tôi nói là sai lầm, xằng bậy! Hình dáng Quang làm sao giống như tướng Phật cho được? Hãy nên thường lễ Phật, kính cẩn chiêm ngưỡng, đừng nhớ tới hình dáng của Quang!

     

541. Thư trả lời cư sĩ Lâm Tán Hoa (thư thứ hai)

 

      Giảng diễn về sự giáo dục thông tục đã chẳng thể nói đến Phật pháp thì hãy lấy những đạo lý luân thường trong sách Nho làm chủ và dẫn những sự lý về nhân quả báo ứng trong sách Nho, như “thiên tác nghiệt do khả vi, tự tác nghiệt, bất khả hoạt” (trời gieo oan nghiệt còn có thể né tránh được, chứ tự mình gây ra oan nghiệt sẽ chẳng thể sống sót được)[36]. Lại còn: “Tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương” (nhà tích thiện ắt sự vui có thừa, nhà tích điều bất thiện, tai ương có thừa) v.v… để bọn họ biết đến lý nhân quả, Nho giáo vốn có lý ấy, sự ấy. Đã biết nhân quả sẽ chẳng dám làm bậy, gian trá nữa! “Cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” phải từ Trung Thứ mà khởi. Trung là chẳng dối tự tâm, Thứ (khoan dung) là từ mình nghĩ đến người. Đã trung thứ thì hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ v.v… đều hành được.

Ông đã xin đặt pháp danh cho cha mẹ mà ngay cả tên tuổi cũng không viết ra, đáng gọi là kẻ thô tâm! Nay đặt pháp danh cho họ là Đức Thâm, Đức Uyên. Xin hãy khuyên họ quyết định cầu sanh Tây Phương, chớ nên cầu phước báo trời người trong đời sau. Nếu được phước báo trời người trong đời sau thì phước báo ấy sẽ thành gốc họa. Phước báo càng lớn, tạo nghiệp càng to. Tạo nghiệp càng to, chịu khổ càng lớn! Nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương sẽ đáng gọi là Đức Thâm, Đức Uyên. Nếu không, sẽ là Nghiệp Thâm, Nghiệp Uyên, từ kiếp này sang kiếp khác chẳng thể thoát lìa! Chẳng đáng buồn sao? Tôi chưa biết đến sách Tuyên Giảng Đại Toàn, sẽ tìm hỏi xem. Tháng Chín năm nay, tôi sẽ diệt tung tích, ẩn náu lâu dài; trong tháng Tám chớ nên gởi thư đến nữa để khỏi bị thất lạc.

 

542. Thư trả lời cư sĩ Lâm Tán Hoa (thư thứ ba)

     

      Ba người bạn muốn quy y, nay đều đặt pháp danh cho họ. Những điều khác đã nói tường tận trong Văn Sao và một lá thư dài, xin mọi người ai nấy đều chú trọng thực hành, đừng chỉ kiếm danh xuông, kẻo chẳng được lợi ích chân thật! Những lá thư còn giữ lại tùy ông sắp xếp, Quang không hỏi tới nữa! Nếu pháp “khi sanh nở niệm Quán Âm” được lưu hành rộng rãi thì thiên hạ sẽ không có chuyện khó sanh và do sanh nở mà bị mất mạng cũng như sanh xong bị băng huyết nguy hiểm, con cái sau khi sanh ra bị các chứng kinh phong cấp tính hay mạn tính nguy hiểm. Mỗi người hãy nên cung kính sao ra một bản để lưu truyền vĩnh viễn trong gia đình. Đấy là lời Phật nói, nhưng người xưa chưa đề xướng. Người đời nay sát nghiệp lẫn tình dục đều nặng nên sản nạn rất nhiều. Vì thế mới chẳng thể không chỉ dạy rõ ràng vậy!

 

543. Thư trả lời cư sĩ Lâm Tán Hoa (thư thứ tư)

 

      Đang trong thời thế cả nước như cuồng này, cố nhiên tục đã đáng chán, mà Tăng cũng đáng buồn! Đôi bên trái pháp đến nỗi thành ra hiện tượng ấy. Hội Phật giáo các xứ đều là diễn lại chuyện cũ một cách hư rỗng để tạm thời ngăn ngừa người ngoài khinh lấn, nhưng lâu ngày chầy tháng ắt sẽ sụp đổ, không lập được cách gì nữa! Phổ Đà Phật Học Viện chỉ có cái danh mà thôi! Muốn học Giáo sao chẳng qua chùa Quán Tông ở Ninh Ba mà lại muốn đến chùa Phổ Đà vậy? Trong mấy năm gần đây, ông X… chịu ảnh hưởng của trào lưu mới, mùa Hạ này bị bệnh nặng mới biết hổ thẹn, nói “muốn dụng công mười năm rồi mới hoằng pháp!” Trong cõi đời hiện thời, trừ đề xướng nhân quả báo ứng và giáo dục trong gia đình ra, dẫu Phật, Bồ Tát, thánh hiền cùng xuất hiện trong cõi đời cũng chẳng biết làm sao! Xin hãy đọc kỹ Văn Sao sẽ tự biết. Nếu có thể xét kỹ thì không điều nghi nào chẳng cởi gỡ được!

 

544. Thư trả lời cư sĩ Lâm Tán Hoa (thư thứ năm)

 

      Tà thuyết ngoại đạo đều chẳng đáng lo, cái đáng lo là Tăng phần nhiều chẳng biết pháp và những gã cuồng Tăng xưng bừa là hoằng pháp nhưng thật ra là diệt pháp! Thế lực của họ rất lớn, nếu chẳng phải là bậc thánh nhân thần thông sẽ chẳng biết làm sao được! Quang là một tăng nhân tầm thường chỉ biết cơm cháo, đã không có đạo đức lại chẳng có tiếng tăm gì, làm sao có thể xoay chuyển lũ quyến thuộc trong ngoài của ma vương ấy, khiến cho bọn họ giữ lòng chánh niệm, chẳng bị những tà thuyết ấy mê hoặc ư? Đừng nói chẳng soạn luận, dẫu có soạn cũng chẳng ích gì! Nếu các Tăng - tục ấy đều nương theo lời Phật, hành theo hạnh Phật thì những kẻ có ý muốn diệt Phật pháp trông thấy đạo hạnh ấy cũng sẽ khâm phục, kính ngưỡng khôn cùng, lại còn muốn hộ trì. Huống là những vị có hành vi càng sâu xa hơn nữa ư? Hiện thời muốn hộ trì Phật pháp, không chi cấp bách hơn là tận tụy thực hành đạo “giữ vẹn luân thường, nhân nghĩa” và pháp tín nguyện niệm Phật! Sợ ông lầm lạc mong Quang soạn văn nên đặc biệt chỉ ra tình trạng không thuốc chữa, chỉ mong ông thấu hiểu sâu xa!

 

545. Thư trả lời cư sĩ Lâm Tán Hoa (thư thứ sáu)

 

      Đại kiếp này vốn đã ươm mầm nhiều năm, nay mới phát hiện. Ví như nhọt chưa chín muồi, nếu kẻ ngu lúc bình thường chẳng chữa trị thì khi nhọt loét ra, sẽ khó thể chữa lành ngay được! Dẫu chẳng thể không tận hết sức người, vẫn khó thể chắc chắn vãn hồi được. Hiểu rõ điều này sẽ chẳng đến nỗi sanh lòng áo não xuông, oán trời, hận người. Ông Nhiếp Vân Đài[37] do dụng tâm quá độ, hiện thời đang phải dưỡng bệnh, chẳng thể giao thiệp với ai được.

Nghe nói ông X… đã sang Hồ Bắc, người này đã được ông Y… hun đúc, nên trong tri kiến ông ta chỉ nghĩ Duy Thức là đúng, các hạnh môn khác đều coi thường. Mùa Hạ này bị bệnh nặng mới thống thiết hối hận sai lầm, chẳng biết rốt cuộc gần đây ra sao? Xin hãy đừng qua lại với hạng người như vậy để khỏi bị họ xoay chuyển. Tất cả những hiện tượng trong hiện thời đúng là nhằm thôi thúc con người chuyên tu Tịnh nghiệp để cầu vãng sanh. Đang trong lúc này mà vẫn cứ hờ hững, hời hợt muốn làm đại thông gia thì đã chẳng thể tự lợi mà còn chẳng thể lợi người, tính toán cũng sai lầm quá đỗi vậy!

 

546. Thư trả lời cư sĩ Lâm Tán Hoa (thư thứ bảy)

 

      Giảng kinh thì việc gì cứ phải mỗi năm giảng một kinh, chẳng thể giảng trùng lặp ư? Đã phải ăn cơm hằng ngày sao lại ngại phải lập đi lập lại? Tâm Kinh nghĩa lý uyên thâm, làm sao kẻ sơ cơ được lợi ích? Dẫu có sở đắc cũng chỉ là hiểu nghĩa [trên mặt văn tự] mà thôi! Sao bằng pháp môn Tịnh Độ hễ nghe liền có thể thực hành được ngay! Kể cả phẩm [Phổ Hiền] Hạnh Nguyện cũng không nhất định phải giảng nhiều bữa. Đức Phật đem những nghĩa lý uẩn súc, uyên áo trong sáu trăm quyển Đại Bát Nhã nêu tỏ chẳng sót trong hai trăm sáu mươi chữ [của Tâm Kinh], cần gì cứ phải kéo dài lan man, chỉ cốt nói rộng nói nhiều để phô tài ăn nói vậy?

      Đạo Xước thiền sư là bậc cao tăng lỗi lạc, chuyên hoằng dương Tịnh Độ. Ngài thọ bảy mươi mấy tuổi, suốt đời giảng ba kinh Tịnh Độ gần hai trăm lượt. Nếu Ngài bắt đầu giảng từ năm hai mươi tuổi thì trong năm mươi mấy năm, mỗi năm phải giảng hai ba lượt mới được như thế!

Qua lá thư gởi cho một vị cư sĩ trong Triệt Ngộ Ngữ Lục, [ngài Triệt Ngộ Mộng Đông] đã viết: “Trong một mùa Hạ hai lượt giảng xong Lăng Nghiêm; nào ngại Hạnh Nguyện văn dài chẳng thể giảng xong trong bảy ngày?” Bảy ngày là quá rút gọn, có lẽ nên giảng mười ngày. Giảng kinh đâu có quy củ nhất định buộc người giảng phải tận hết sức Đông kéo Tây lôi, chẳng chịu chỉ điểm ngay chỗ chánh yếu? Tri kiến của ông là tri kiến tràn lan, không biết giữ lấy chỗ giản ước, cứ muốn dùng sự rộng rãi để tạo lợi ích cho kẻ sơ cơ thì đấy là chuyện tạo dựng môn đình vậy! “Một đêm trò chuyện cùng anh, còn hơn đọc sách lanh quanh mười mùa. Để chữa lành bệnh đâu cần tới lượng thuốc nhiều đến nỗi phải dùng lừa, lạc đà để chở”. Đấy đều là những lời cổ nhân giáo huấn về cách giữ lấy sự giản ước vậy!

Hiện nay chiến sự phát sanh, đối với chuyện sau này chớ nên lo liệu ngược ngạo, hãy nên khuyên hết thảy già - trẻ - trai - gái cùng niệm A Di Đà Phật và niệm Quán Thế Âm Bồ Tát để cầu hễ còn sống sẽ tránh được tai họa này, chết rồi sẽ về Cực Lạc. Giảng kinh vẫn chưa phải là nhiệm vụ cấp bách hiện thời, điều cấp bách nên làm là thông cáo hết thảy già - trẻ - trai - gái cùng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát để sau khi thái bình rồi hãy giảng kinh, nhất là phải lấy việc “tạo cho kẻ sơ cơ có lòng chánh tín nơi Tịnh Độ” làm đầu!

Nghê Thương Cần, Thí Lập Khiêm đã biết quy y, đều đặt pháp danh cho mỗi người. Nghê Thương Cần pháp danh là Tông Cần. Niệm Phật cầu sanh Tây Phương, tự hành, dạy người, đều phải lấy Cần (siêng năng) làm gốc. Nếu lười nhác biếng trễ sẽ khó được thành công! Thí Lập Khiêm pháp danh là Tông Khiêm. “Khiêm” là chẳng tự thỏa mãn, chẳng cho là đủ, như biển dung nạp trăm sông, như hư không bao trùm muôn hình tượng. Mọi thứ tội nghiệp đều do Khiêm mà tiêu. Đủ mọi công đức đều do Khiêm mà thành tựu.

Nay gởi cho ông và hai người ấy một gói Tịnh Độ Thập Yếu, xin hãy chia ra tặng. Quang già rồi, mục lực lẫn tinh thần đều không đủ, từ nay chớ nên thường gởi thư tới. Chỉ nên dựa theo những điều đã nói trong sách Thập Yếu để tu thì đâu có thiếu sót gì mà cần phải thường hỏi han! Nếu chẳng chú trọng chuyên tu Tịnh Độ, cứ muốn thông suốt khắp các giáo nghĩa thì một hai lá thư cũng chẳng thể đạt được mục đích ấy! Xin hãy sáng suốt suy xét. Sách Thập Yếu chính là sách trọng yếu trong tông Tịnh Độ. Đừng toan tính những chuyện ham cao chuộng xa thì sẽ đạt được lợi ích tối cao tối thắng! Một Lá Thư Trả Lời Khắp cũng nói những chuyện mọi người đều phải gấp nên chú trọng!

 

547. Thư trả lời cư sĩ Lâm Tán Hoa (thư thứ tám)

 

Đường lối để tạo vinh dự cho cha mẹ của kẻ làm con chính là siêng năng tu đức để hết thảy mọi người đều vì kính trọng ta mà tưởng nhớ đấng sanh ra ta. Đấy mới là phương pháp quan trọng nhất. Thường thấy người đời khi cha mẹ đã khuất bèn phân phát cáo phó rộng khắp, bịa đặt kể lể công trạng, đến các nơi xin những người có danh vọng, có địa vị ghi lời tán tụng, viết tiểu sử, đề bài minh, bài biểu, chứ không miệt mài chú trọng gắng sức tu đức, thể hiện lòng nhân để mong tạo thanh danh cho cha mẹ.

Tôi thường nói: “Người đời đa số chuộng danh ghét thật, chỉ muốn phô trương trong một lúc, chứ chẳng nghĩ dùng sự tận tụy [tu đức] nơi thân mình để tưởng nhớ báo đền cha mẹ”. Cha mẹ ông đã tin nhận Phật pháp, ông cũng đã biết những nghĩa “tâm sẵn đủ, tâm tạo, tâm làm, tâm là”, trong tương lai, khi cha mẹ nằm xuống, phàm những chuyện ma chay, tế lễ, đãi khách v.v… đều tuân theo cấm chế của nhà Phật, đừng dùng rượu thịt, kiêng giết, làm lành để xướng suất cho cả làng. Những vị như Ngô Trí Hinh v.v… cũng đã sớm đem đạo lý này dặn dò con cháu. Hết sức khẩn yếu!

Bài ký nêu duyên khởi của Tịnh Nghiệp Xã tôi đã soạn xong, nay đem gởi đi. Dựng bia chẳng có lợi ích lớn lao bằng treo bảng vì chữ khắc trên bia chẳng thể phóng to được, bởi lẽ đá lớn sẽ tốn tiền. Hơn nữa, có ai chịu đứng xem? Trong trăm người, chỉ được một hai kẻ chịu đứng xem. Bảng thì dùng gỗ cứng để làm, [còn bài ký ấy thì] hoặc khắc, hoặc [chép ra giấy] dán vào bảng, treo nơi chỗ ngồi, ắt sẽ có nhiều người xem. Lúc viết cần phải dùng kiểu chữ Khải theo lối Chánh Thể. Chữ viết đừng quá nhỏ, cũng đừng để sai ngoa, thiếu sót, hay thừa thãi.

Quang bận rộn cùng cực, đã cự tuyệt hết thảy, chuyện này là ra ngoài thông lệ. Từ nay chớ nên đem chuyện bút mực sai phái nữa! Nếu vẫn gởi thư đến, quyết chẳng trả lời. Văn từ trong bài sớ mấy dòng đầu có chỗ từ lẫn ý chẳng được thông suốt cho lắm, phần văn sau tuy trôi chảy, nhưng chỉ chú trọng câu chữ bóng bảy, chứ không nêu rõ được sự thật. Văn nhân viết văn quá nửa là lời văn sắc sảo, nhưng không đạt được ý! Nói hoa mỹ, bóng bảy đến cùng cực, chứ về mặt nêu bày sự thực lại chỉ phảng phất lờ mờ, nhưng đã kể như là thiết thực lắm rồi!

Nay gởi cho ông một gói Tịnh Độ Ngũ Kinh, ngoài những cuốn tự giữ ra, những cuốn khác hãy dùng để kết duyên. Quang do bốn bộ Sơn Chí Ngũ Đài, Nga Mi, Cửu Hoa, Linh Nham bức bách không thể trì hoãn được nên đã cự tuyệt hết thảy để mong sớm hoàn tất chuyện này. Hãy nên sao bài ký nêu duyên khởi thành một bản để gởi cho ông Mạnh Do.

 

548. Thư trả lời cư sĩ Lâm Tán Hoa (thư thứ chín)

 

      Chuyện học nghề thuốc cần phải hết sức thận trọng. Chưa học kỹ Trung Y sao lại học Châm Cứu? (Chữ Cứu () âm đọc [gần giống như chữ] Cửu (), nhưng người đời thường viết sai thành Chích ()[38]. Các sách thuốc lưu hành hiện thời cũng [viết sai] như thế, sao chẳng biết chữ này?) Tôi không biết rõ ở Tô Châu có sở huấn luyện châm cứu hay không, nhưng dẫu có đi nữa, thì đấy cũng chẳng phải là nơi người nghèo theo học được. Thái Ất Thần Châm[39] chẳng phải là bí truyền, nhưng phải hết sức cẩn thận khi án huyệt (nhận định đúng vị trí của huyệt đạo) để cứu. Đồng Nhân Đường ở Bắc Kinh có bán thuốc để châm cứu đã chế sẵn. Toa thuốc cũng công bố, ai muốn tự chế thì làm. Trong toa thuốc có chất Xạ[40] và bọ cạp nguyên con, hai vị thuốc ấy cũng chớ nên dùng.

Nếu người niệm Phật dùng Đại Bi Chú và thánh hiệu Quán Âm để gia trì [thuốc rồi mới châm cứu] ắt sẽ càng hữu hiệu. Có điều các pháp được liệt kê thêm ở cuối sách (đã quên mất tên sách) dường như chẳng hợp thời nghi. Những sách vở khác Quang đều không biết. Trước đây, Trần Cánh Phi đã nói: “Muốn ở trong núi tu hành”, Quang đã bảo là không nên. Ông muốn Quang hạ một lời bổng hát[41] thống thiết, bèn nói “luôn luôn nghĩ đến những chuyện sai trái”. Sao không nói rõ chuyện ấy? Sao chẳng biết sự vụ đến mức như thế? Mắt Quang đã thành lòa, tinh thần giảm sút đáng kể, chẳng thể thù tiếp được, từ nay đừng gởi thư tới; gởi đến quyết không trả lời!

 

549. Thư trả lời cư sĩ Lâm Tán Hoa (thư thứ mười)

 

      Ông làm giáo viên kiêm hoằng dương Phật pháp, hãy nên tùy phận tùy sức, sao lại cưỡng cầu nhân sĩ các giới phải tin tưởng, ngưỡng mộ? Lấy thân làm gương, đấy là căn bản. Nếu trong những hành vi, lời lẽ có gì thiếu sót sẽ chẳng thể làm cho người khác sanh lòng tin tưởng được! Cái học bên ngoài dù cao, nhưng cái hạnh thật sự không có, ông muốn thông suốt thêm cũng chỉ là uổng công. Bởi lẽ “dùng lời để dạy sẽ bị tranh cãi; dùng thân để dạy, người khác thuận theo”. Đây là chương trình “tự lợi, lợi người, tự lập, lập người” [chắc chắn như] sắt thép vậy!

Trang nghiêm tượng Phật thì với vàng [để thếp] hãy nên lấy màu sắc để định, há nên chấp chặt hẹp hòi phải là thứ này, thứ nọ? Nhà nào (tức tiệm bán vàng) thường tốt, nhà nào thường gian dối? Nếu chính mình có thể mua thì được, chứ nếu cậy người khác chắc sẽ có chuyện tệ hại, Quang chẳng thể hỏi giùm chuyện này được! Phàm mọi chuyện đều phải tuân theo chương trình: Tượng vẽ có người đương cơ quỳ ở trước thì có thể vẽ theo cách thức [đức Phật] xoa đầu [kẻ đương cơ]. Nếu không có người đương cơ quỳ ở trước thì chớ nên lầm lạc sửa đổi cách thức sẵn có. [Tạo tượng A Di Đà Phật] xòe tay tiếp dẫn rất nên!

Người trong liên xã dám chửi kẻ khác trước tượng Phật, tội đáng chết muôn phần! Đêm mộng thấy thần [hộ pháp] trách phạt, đăng báo [chuyện ấy] sẽ có thể cảnh tỉnh người khác; nhưng trong xã quy (quy củ của liên xã) hãy nên vạch rõ lỗi miệt thị người khác. Hễ xã quy nghiêm túc thì sẽ tự chẳng có thái độ xấu hèn ấy nữa! Hút thuốc phiện cũng thế, nếu kẻ hèn kém thiếu chí hướng [đã nắm giữ chức vụ, trót nghiện ngập nhưng] chẳng chịu sửa đổi thì hãy buộc họ từ chức. Nay gởi cho ông một gói sách, trong ấy có hai bộ Ngũ Đài Sơn Chí, mười cuốn Hám Sơn Niên Phổ Sớ, một số trang toa thuốc trị chó dại cắn.

 

550. Thư trả lời cư sĩ Mậu Trí Tu

 

      Sau khi tự quy y, bèn thật thà niệm Phật, chẳng lười nhác chút nào, tôi [cảm thấy] vui mừng, an ủi đến tột bậc! Cư sĩ Châu Dung Đường đăng lính thay cho cha, lòng hiếu đáng khen ngợi. Đã biết đời người lắm sự khổ, do vậy dốc sức tu Tịnh nghiệp. Con người như thế mới là đệ tử thật sự của đức Phật. Ông ta đã bảy mươi ba tuổi, sanh cùng năm với Quang. Nay muốn quy y, chẳng cần phải đi xa; chỉ nên nương theo lời dạy trong Gia Ngôn Lục và Sức Chung Tân Lương để tự mình tu trì và dạy dỗ con cháu trong nhà để mong khi lâm chung sẽ được họ trợ niệm, chẳng đến nỗi phá hoại Tịnh nghiệp, kẻo vẫn luân hồi trong lục đạo chịu nỗi khổ sanh tử luân hồi.

Nay đặt pháp danh cho ông ta là Đức Ấm, nghĩa là có thể nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, ắt sẽ được đức Phật rủ lòng Từ che chở, tiếp dẫn vãng sanh. Trong hằng ngày, dùng những điều ấy để tự hành, lại còn đem dạy người thì hết thảy mọi người sẽ đều được che rợp bởi lòng Từ của đức Phật. Vì thế nên gọi là Đức Ấm. Xin hãy nói với ông ta, tùy [ông ta chọn] một ngày nào đó, đối trước tượng Phật đảnh lễ, tự thệ quy y là được!

 

551. Thư trả lời cư sĩ Vương Nghiễn Sanh (thư thứ nhất)

 

      Thư nhận được đầy đủ. Quang là một tăng nhân chỉ biết cơm cháo, há nên khen ngợi quá lố như thế? Chuyện lập đàn cầu cơ Quang một mực chẳng xiển dương, bởi những lời giáng cơ phần nhiều đều là mạo danh, chứ không phải mỗi mỗi đều do chân tiên giáng lâm, huống là Phật ư? Bài văn do Quán Âm đã nói [trong buổi cầu cơ] lần này, cũng là mạo danh! Tôi đoán bài văn ấy chắc là do họ đã sao lục bài văn cũ để đưa ra. Nếu không, sao trong văn từ lại thường có những chỗ chẳng thể hiện được ý? Những điều được nói trong ấy cũng phần nhiều là tán loạn, lan man, chẳng chỉ ra rõ ràng, rộng rãi những điều quan trọng cho lắm! Cố nhiên Quang chẳng dám tự phụ là thông minh, nhưng nếu các vị coi đó chính là lời đức Quán Âm nói, chắc sẽ bị người khác chê cười! Do vậy tôi bèn sửa chữa đôi chút, so với bản trước đây trôi chảy hơn một tí, nhưng đừng nói rõ là Quang đã sửa chữa.

Ông Khâu vãng sanh Tịnh Độ rồi trở lại cõi này cố nhiên chẳng đáng nghi, nhưng do [các ông] chấp kinh văn mà chẳng hiểu ý kinh nên trở thành mối nghi lớn! “Một đại kiếp trong cõi Sa Bà bằng một ngày đêm nơi Cực Lạc”, câu này giảng rõ thời gian ở Cực Lạc. Còn nói “một ngày, một đêm, bảy ngày, một kiếp, mười hai đại kiếp” v.v… là đều ước theo thời gian phương này (cõi Sa Bà) để nói! Vì sao biết? Vì người lợi căn hoặc độn căn ở phương này do thành khẩn đến cùng cực liền có thể trong mấy chục ngày hoặc mấy năm sẽ đại triệt đại ngộ và đích thân chứng được tam-muội, há lẽ nào người đã vãng sanh Tây Phương, trụ trong cảnh giới thù thắng, nhiệm mầu, thường được thần thông, oai đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật, Bồ Tát gia bị, so với người trong cõi [Sa Bà] này lại hưởng lợi ích chậm trễ gấp mấy lần sự khác biệt giữa ngày và kiếp ư? Sự này, lý này, há đợi kẻ trí [giải thích] mới biết ư? Các vị chẳng khéo hiểu ý [kinh văn], ăn nói điên đảo, nên mới phạm sai lầm như thế!

Huống chi thời kiếp bất định, thần thông đạo lực của Phật, Bồ Tát lại chẳng thể rút ngắn thời gian cả kiếp thành một niệm ư? Hoặc chẳng thể kéo dài một niệm thành cả kiếp dài lâu ư? [Các ông] chấp chặt [ông Khâu đã vãng sanh] năm năm lẽ ra không nên trở lại cõi này là vì chấp vào kinh văn [thành ra] trái nghịch ý nghĩa của kinh. Được Quang nói lời này, mọi mối nghi tự cởi gỡ. Huống chi người vừa mới vãng sanh liền trở lại báo [cho người cõi này biết] đều là do nương vào oai thần của A Di Đà Phật, muốn nhờ vào đó để khơi mở, chỉ dạy kẻ mê tối, chứ không phải do sức của chính mình mà có thể tự tiện làm chuyện ấy được! Còn như ông Kế tức thời sanh Tây, chẳng vượt thời hạn để quay trở lại báo tin, đều thuộc về nghĩa này.

Như [các ông chấp nệ kinh] nói:“Tu Đà Hoàn bảy lần sanh lên trời, bảy lượt sanh trong nhân gian” chính là đã lầm lẫn đem chuyện của bậc Tu Đà Hoàn cõi này để luận bậc Tu Đà Hoàn cõi Cực Lạc! Sự lầm lẫn ấy khiến cho người khác bị lầm lạc chẳng nhỏ đâu nhé! Trong cõi kia tuy có loại danh tự Tiểu Thừa ấy, nhưng thật ra họ đều đã liễu sanh tử, dự vào Bồ Tát thừa. Chẳng qua là tạm dùng các địa vị đã chứng được mà đặt tên như thế. Nếu các vị dùng ngay địa vị Tu Đà Hoàn trong cõi [Sa Bà] này để luận thì hóa ra trong Tây Phương Cực Lạc thế giới vẫn chưa liễu sanh tử, vẫn luân hồi y như cũ ư? Sao chẳng thấu hiểu thật lý, thật sự nơi hai cõi, cứ lầm lạc sanh khởi những thứ nghị luận sai quấy này? Chẳng sợ trái kinh lầm người đến mức như thế đấy!

Hiện thời ai nấy đều nên nghiêm túc tu Tịnh nghiệp thì mới đạt được lợi ích thật sự. Nếu học Thiền ngoài miệng thì tuy là nhân lành, nhưng nhất định sẽ chuốc lấy quả ác! Thế đạo hiện thời bại hoại đến cùng cực. Nếu muốn vãn hồi, cần phải đề xướng nhân quả, báo ứng, lại phải chú trọng dạy dỗ con gái! Bởi lẽ, nếu không dạy dỗ con gái thì chẳng những nó không thể giúp chồng dạy con thành tựu đức hạnh, mà trái lại còn giúp chồng dạy con làm ác. Đấy chính là cội rễ khiến cho nước ta tan hoang, loạn lạc vậy! Bỏ hai pháp này mà muốn thiên hạ thái bình, nhân dân yên vui, dẫu Phật, Bồ Tát, thánh hiền cùng xuất hiện trong cõi đời đều không thể đạt được lợi ích thật sự! Huống chi con người hiện thời sẵn có chủ kiến cuồng ngạo, trái nghịch ư?

Các vị đã cầu cơ tức là chẳng hợp với tông chỉ tu Tịnh nghiệp. Nhưng các vị còn hiểu rõ lý, so với những kẻ sùng phụng cầu cơ khác còn cao hơn một bực. Do vậy, tôi gởi sách cho các vị. Nếu chịu đọc kỹ, chắc sẽ biết đầy đủ nguyên do. Quang bận bịu đến cùng cực, từ nay chớ nên thường gởi thư tới hỏi dông dài như thế nữa! Chỉ nên đọc kỹ các sách như Văn Sao v.v… thì không mối nghi nào chẳng cởi gỡ! Những điều khác đã nói tường tận trong Văn Sao, không viết chi tiết ở đây!

 

552. Thư trả lời cư sĩ Vương Nghiễn Sanh (thư thứ hai)

 

      Tôi đã đọc hết thư gởi đến. Vì độ chúng sanh nên Phật, Bồ Tát thị hiện sanh trong thế gian. Nhìn từ phía chúng sanh thì các ngài cũng có sanh tử, chứ nhìn từ nhãn quan của các vị Phật, Bồ Tát thì quả thật không có sanh tử. Ví như huyễn mộng, tuy có nhưng chẳng thật, nhưng hễ có sanh tử thì có khổ, không sanh tử thì không khổ. Há nên chia thành hai thứ “liễu sanh tử khổ” và “liễu sanh tử”? Tử chính là khổ bởi có sanh tử. Đã liễu sanh tử thì sẽ tự không có khổ!

Cần biết rằng: Chính vì chúng sanh mà Phật, Bồ Tát thị hiện tướng sanh tử ấy, chứ không phải thật sự vì trước đó các Ngài chưa liễu sanh tử, đến nay mới liễu! Chuyện phóng sanh trứng cá được chép trong bộ sách, tuy có hai chữ “Phật ngôn”, nhưng cũng chưa từng thấy xuất phát từ kinh nào. Há nên vì lẽ ấy mà khiến cho người khác báng pháp? Trong cõi đời có bao nhiêu kẻ thả trứng cá đâu? Cần biết rằng: Chỗ gần biển ở phương Nam khác với các sông biển thông thường. Cá biển hễ gặp phải nước ngọt sẽ chết ngay, còn cá trong sông ngòi gặp phải nước mặn liền chết tươi. Nếu chưa biết rõ xuất xứ của chúng, dẫu có muốn cho nó sống, nó cũng chẳng thể sống được. Phóng sanh là nhằm cảm phát lòng Từ kiêng giết ăn chay của con người, há nên chuyên muốn chú trọng thả cho nhiều, để rồi tìm tòi, giảng nói chuyện chẳng cấp bách ấy ư?

Nên biết rằng: Chuyện trong thế gian có nhiều chuyện chẳng thể dùng lý hay sự để luận được. Một người bạn kể: “Một năm nọ, tại một xứ nọ thuộc vùng Giang Bắc gặp dịch châu chấu, người địa phương xin quan đi khám nghiệm. Có một chỗ dài đến mấy dặm, rộng hai ba dặm, châu chấu non còn chưa mọc cánh bò lúc nhúc, dày đến hơn một thước. Người đạp lên, chân ngập đến mấy tấc, khôn ngăn kinh hoảng đến cùng cực. Quan gấp sai đào hố để chôn đi, nhưng buổi chiều trời đổ một trận mưa to, [châu chấu] hoàn toàn tiêu diệt hết”. Loại châu chấu ấy rốt cuộc là loại châu chấu nào? Những con châu chấu non do chúng sanh ra đều là hóa sanh, hiện ra tướng tai nạn ấy. Năm nay vùng Giang Bắc cũng có nạn châu chấu dày mấy tấc, đường xe lửa bị nghẽn. Trước hết phải đuổi chúng đi rồi mới dám mở đường. Phàm người tu hành hãy nên dốc sức nơi chỗ quan hệ khẩn yếu lớn lao. Nếu hờ hững hời hợt tìm tòi, sợ sẽ chẳng có tinh lực để lo liệu được đâu!

 

553. Thư trả lời cư sĩ Phó Pháp Lâm

 

      Đã nhận được Dã Truật[42], vẫn chưa bị mốc. Một người bạn ở Giang Tây nói: “Nếu chẳng chế biến mà ăn vào sẽ bị đầy hơi”. Ông ta biết cách chế biến, sẽ chế biến để kết duyên. Những sách con kể tên trong thư, có loại không còn, có loại hãy còn. Loại nào còn thì ta gởi đến cho con, không còn thì chẳng thể nào gởi được! Nhưng đã có Văn Sao, An Sĩ Toàn Thư, Gia Ngôn Lục, Cảm Ứng Thiên Trực Giảng v.v… thì tuy các loại khác không có cũng đâu có thiếu sót gì! Điều đáng tiếc là tuy có sách mà chẳng xem thì cũng như không có! Tuy xem nhưng chẳng tu trì theo đó thì cũng như không xem!

Thiện thư quý ở chỗ lưu thông, nhưng cần phải là người hơi có tín tâm, thông đạt văn lý thì mới nên biếu tặng. Lúc tặng lại nên nhắc nhở họ hãy đem lòng cung kính [xem đọc], đừng khinh nhờn. Nếu khinh nhờn, ắt mắc tội lỗi! Những sách ấy đều là phương tiện dẫn đường để nhập thánh siêu phàm, chớ nên rẻ rúng giống như hết thảy những loại tiểu thuyết hoặc sách giải trí thì sẽ có ích đôi chút. Nay đem các loại sách ấy gởi chung trong một bao. Nếu nhận được sách, xin hãy gởi thư báo cho thầy Minh Đạo ở chùa Thái Bình biết. Từ nay về sau đừng gởi thư đến nữa, do Quang đã diệt tung tích, không ai lo liệu đâu!

Con còn nhỏ tuổi, hãy nên dốc hết sức làm người. Ắt phải nên hiếu thuận với cha mẹ, thân cận người có đức, xa lìa những hạng hoang đường! Cần phải dứt lòng tà, giữ lòng thành, đánh đổ ham muốn xằng bậy để khôi phục lễ nghĩa, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành. Hiện nay chính là thời thế đại hoạn nạn. Tai nạn xảy đến chẳng thể dự liệu, tránh né cũng không được, có ngừa cũng không ngừa được. Nếu có thể thường niệm A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát, ắt sẽ có sự chuyển dời ngấm ngầm chẳng thể nghĩ bàn, ngõ hầu có thể gặp dữ hóa lành, gặp nạn thành hên (nói đến “tốt lành” thì chẳng phải là chuyện tốt đẹp đặc biệt gì! Gặp nạn nhưng chẳng bị nạn đã là chuyện tốt lành không chi lớn bằng rồi).

Nhân tâm thế đạo ngày nay đã bại hoại đến tận cùng. Phế kinh điển, phế hiếu, phế luân thường, vứt bỏ lòng thẹn, giết cha, giết mẹ, đều được miệt mài đề xướng, đúng là muốn cho con người trọn chẳng khác gì cầm thú thì mới thỏa lòng! Truy tìm căn nguyên, đều do một mực chẳng nói đến nhân quả báo ứng và giáo dục trong gia đình. Những kẻ đọc sách thông minh chỉ học thành hạng người có đủ mọi mánh khóe mưu mẹo, dối gạt mà thôi, cho nên vừa nghe đến thứ tà thuyết ấy liền như bèo giạt theo gió, tụ họp trong hàng ngũ tà ác ấy! Tội tuy do họ gây ra, nhưng thật ra cha mẹ họ cũng chiếm quá nửa! Vì sao vậy? Do không khéo dạy dỗ từ nhỏ, lại còn dạy họ những mánh khóe mưu mẹo, dối gạt mà ra!

Con đã biết tốt - xấu, hãy nên đi theo đường chánh. Đừng nói đi theo đường chánh sẽ được trời giúp, người kính, cửa nhà hưng thịnh, con cháu đều thành hiền thiện; dẫu cho túc nghiệp đã chín muồi, gặp phải cảnh ngộ ngang trái, trọn chẳng phải là do học theo những sự tốt đẹp cho nên mới gặp phải những nghịch cảnh như thế để rồi oán trời hận người. [Có hiểu như vậy] thì mới chẳng thẹn là người đọc sách, chẳng hổ là người học Phật! Xin con hãy suy xét cặn kẽ, tận lực thực hành.

 

554. Thư trả lời cư sĩ Hoàng Đức Vỹ

 

       Nhận được thư đầy đủ, lời dạy của Đa Đa Bồ Tát có thể nói là chân thật đến cùng cực. Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát và Đa Đa Bồ Tát như cùng một đường mà ra. Đủ thấy chuyện cầu cơ chẳng đáng để nương tựa. Bồ Tát làm chuyện phi đạo để thông đạt Phật đạo![43] “Trước hết phải dùng dục lôi kéo để sau đấy sẽ thâm nhập Phật trí”[44], qua chuyện này có thể thấy trọn. Đa Đa Bồ Tát đã có đại ân, quả thật chẳng thể quên, nhưng cũng chớ nên đưa tên ngài vào nghi thức niệm Phật. Trong nghi thức niệm Phật thì ngay cả danh hiệu của Văn Thù, Phổ Hiền, Địa Tạng, Di Lặc cũng không đưa vào, huống là các vị khác ư? Nhưng các vị Bồ Tát ấy đều cùng gộp trong danh hiệu Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. Nếu thêm tên Đa Đa Bồ Tát vào, cố nhiên đối với Tịnh Nghiệp Xã của các ông chẳng trở ngại gì, nhưng nơi khác không biết sẽ đâm ra chuốc lấy sự nghi ngờ, dị nghị. Chỉ nên thờ Ngài riêng một chỗ, sáng chiều lễ bái là được rồi!

 

555. Thư trả lời cư sĩ Trình Tiểu Bằng

 

       Quang tự xét mình kém hèn, một mực chẳng xứng làm thầy người khác. Trước kia ông Từ Úy Như đã thấu hiểu ý Quang nên thôi [không xin làm đệ tử nữa]. Sao các hạ vẫn cứ đề cao kẻ kém hèn là cao thượng vậy? Bất đắc dĩ chỉ đành chiều theo ý các hạ. Ví như có người lấy đất nặn tượng, biết rõ là đất, nhưng cúng dường tượng ấy cũng không phải là không được! Dẫu nói ấy là đất ở nơi nọ, muốn trả nó về đúng vị trí thì cũng chẳng phải là không được! Bỏ hay lấy do nơi người, đất không chọn lựa.

Nay đặt pháp danh cho các hạ là Huệ Nhuận, nghĩa là đem mây mưa trí huệ nhuần thấm khắp chúng sanh khô khao khiến cho họ đều được nẩy mầm pháp, thành tựu đạo quả. Nhưng muốn nhuần thấm khắp hết thảy thì trước hết phải nhuần thấm trí của chính mình. Nếu lời lẽ, hành vi đều chẳng quan tâm đến thì chính mình đã khô khao trước, làm sao có thể nhuần thấm hết thảy được? Đấy chính là tấm lòng mong mỏi của kẻ không chân mong bước lên đường mây. Quang bận bịu đến cùng cực, không rảnh rỗi để thù tiếp; Thượng Hải lắm danh nhân, cần gì cứ phải do Quang viết thì mới có ích ư?

Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên,

Quyển 3,

Phần 2 hết



[1] Quyết Trạch (Nairvedhika), gọi đủ là “quyết đoán giản trạch”, tức là dùng vô lậu thánh trí để giải quyết dứt khoát các mối nghi, phân biệt chọn lựa pháp thích đáng. Về sau, Quyết Trạch được dùng như một từ ngữ diễn tả sự chọn lựa, phân định một giáo nghĩa là chánh hay tà, giải trừ mối nghi, chọn lựa đường lối tu hành thích hợp.

[2] Hành Cước, còn gọi là Du Phương, Du Hành, nghĩa là vị Tăng không có nơi ở nhất định, nhằm tham phỏng các vị danh sư mà đi khắp bốn phương.

[3] Chữ “tiểu thuyết” ở đây nhằm chỉ những thứ tiểu thuyết bị coi là “dâm thư” do khơi gợi tình yêu trai gái suồng sã như Tây Sương Ký, Kim Bình Mai, Hồng Lâu Mộng v.v…

[4] Nguyên văn: “Phệ tễ bất cập” vốn là một thành ngữ ngụ ý: Giống như con thú tự mình cắn rốn lôi ruột ra, có hối hận cũng đã muộn rồi!

[5] Hoàng Liên (Coptischinensis Franch) vốn là một loại dược thảo, phần làm thuốc chính là phần củ (thân ngầm) vị rất đắng, được tin là có tác dụng giáng hỏa, tiêu độc, thường dùng để chữa các chứng bệnh tiêu chảy, ói mửa, đau răng, tai có mủ v.v…

[6] Dân gian Trung Hoa thường truyền tụng xưa kia tại Trung Hoa có vua Diệu Trang (nhưng không hề nói rõ vua Diệu Trang sống vào thời đại nào) có ba cô con gái. Hai người con đầu xa hoa, tham lam quyền thế, vật chất, tìm mọi cách lấy lòng cha, gièm xiểm người em út. Người con gái thứ ba tên là Diệu Thiện hâm mộ Phật pháp, nhạt mùi danh lợi, trốn hoàng cung đi tu, về sau chứng quả, trở thành Quán Thế Âm Bồ Tát. Thậm chí để giải thích hình tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn của đức Quán Âm, có nơi còn vẽ rắn thêm chân như sau: Do làm nhiều chuyện ác, đốt chùa, đuổi Tăng, vua Diệu Trang bị đọa địa ngục. Để cứu cha, Diệu Thiện xuống địa ngục, quỷ sứ đòi chuộc mạng, Diệu Thiện phải cắt một cánh tay biếu cho quỷ sứ ăn. Khi trở về dương gian, do cảm mộ tấm lòng từ bi của Diệu Thiện và thấy Ngài mất một cánh tay, dân chúng đã tự động dùng ngọc, đá, vàng, bạc làm thành cánh tay biếu tặng Ngài. Do mạnh ai nấy phát tâm nên dân chúng đã đúc ra 999 cánh tay. Không thể phụ lòng tốt của người khác, Diệu Thiện phải tiếp nhận tất cả. Do vậy Bồ Tát có đến một ngàn cánh tay!

[7] Lục Triều có hai cách hiểu:

1) Sáu triều đại ở phương Nam tức Đông Ngô, Đông Tấn, Nam Tề, Lương, Trần đều đóng đô tại Kiến Khang Nam Kinh nên sử thường gọi là Nam Triều Lục Triều.

2) Sáu triều đại ở phương Bắc là Tào Ngụy, Tây Tấn, Bắc Ngụy, Bắc Tề, Tây Châu, Tùy đều ở phương Bắc nên sử gọi là Bắc Triều Lục Triều.

Dù hiểu theo cách nào thì kinh Cao Vương cũng xuất hiện trễ nhất vào thời Trần - Tùy, tức khoảng năm 581.

[8] Bào Siêu (1828-1886), tự Xuân Đình người xứ An Bình, tỉnh Tứ Xuyên, là một danh tướng có công bình định loạn Thái Bình Thiên Quốc, nhưng không biết chữ, là một hung thần đối với quân Thái Bình Thiên Quốc, từng được thăng tới chức Đề Đốc tỉnh Chiết Giang. Tục truyền có lần đánh nhau với quân Thái Bình Thiên Quốc, ông ta bị giặc vây hãm không cách nào phá vòng vây được, phải viết thư cầu cứu, nhưng không biết chữ, đành viết một chữ Bào, vẽ vòng tròn khoanh lại, giao thư cho người chuyển cho Tăng Quốc Phiên. Nhận thư, Tăng Quốc Phiên mở ra đọc, cười lớn, biết ngay là Bào Siêu đang bị vây hãm bèn phái quân đến cứu.

[9] Tào Bân (931-999) tự Quốc Hoa, người huyện Linh Thọ, Chân Định, là một đại tướng sống vào đầu thời Bắc Tống. Do có công đánh bại Khiết Đan và diệt nhà Bắc Hán, được thăng tới chức Khu Mật Trực Chỉ, rồi do diệt được nhà Hậu Thục nên được thăng lên chức Đô Giám. Trong những cuộc chinh phạt dẹp tan các vương triều đối lập với nhà Tống, ông giữ quân lệnh rất ngặt, nghiêm cấm binh sĩ không được lạm sát dân chúng vô tội, không được gian dâm, cướp bóc bừa bãi khi chiếm được thành.

[10] Tào Hàn (924-992): Thoạt đầu phục vụ dưới trướng Châu Thế Tông (Sài Vinh), từng theo Thế Tông đánh Cao Bình và Ngõa Kiều Quan. Khi Triệu Khuông Dẫn tạo binh biến, cướp ngôi của ấu chúa nhà Châu, lập ra nhà Tống, ông ta liền theo Tống, từng tham dự nhiều trận đánh. Trong khi theo Tống Thái Tổ diệt Nam Đường, vây thành Giang Châu (nay là huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tô), ông ta đã tàn sát cả thành. Năm 979, lại tùng chinh diệt Bắc Hán, đánh Khiết Đan, lập rất nhiều chiến công. Do sát nghiệp quá nặng, con cháu ông ta hoặc chết yểu, hoặc phá tan gia nghiệp, sống lang thang, vất vưởng, rất khổ sở. Đến thời Vạn Lịch nhà Minh, Lưu Tích Nguyên (tự Ngọc Thụ), vốn là người Tô Châu, làm Chủ Khảo khoa thi năm Nhâm Tý (1612) ở Quý Châu. Khi chấm thi xong, trở về quê, thuyền đi ngang một bến sông, chợt mộng thấy một người mặt mũi dài sọc đến thưa: “Tôi là tướng quân Tào Hàn triều Tống. Vào thời Đường làm thương nhân, từng đi qua một ngôi chùa thấy pháp sư giảng kinh, phát tâm thiết trai cúng dường, nghe kinh nửa ngày. Do thiện nhân ấy, từng làm những chức quan nhỏ mấy đời. Đến triều Tống làm Tướng Quân, tức là Tào Hàn, do vì đánh thành Giang Châu đã lâu không được, khi phá được thành liền tức giận tàn sát cả thành. Do sát nghiệp ấy, đời đời làm lợn. Khi sanh trong nhà một tá điền của Ngài, từng được Ngài cứu sống. Ở chỗ Ngài dừng thuyền đây, con lợn bị giết đầu tiên vào sáng mai, chính là tôi, có duyên gặp gỡ Ngài, xin xót thương phát tâm từ bi cứu mạng cho tôi!” Lưu Tích Nguyên tỉnh giấc bèn lên bờ, quả nhiên thấy có một lò mổ gần đấy. Đồ tể khiêng ra một con lợn đang kêu ầm ĩ, Tích Nguyên bèn bỏ tiền ra mua, chở về Tô Châu, thả trong khu vườn phóng sanh của một ngôi chùa ở ngoài cửa Xương Môn. Hễ ai hô “Tào Hàn!” lợn liền cúi đầu, ngoắt đuôi tỏ vẻ mừng rỡ.

[11] Tác phẩm này có tên là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Cảm Ứng Truyện, không rõ tác giả, được đánh số 1632 trong Tục Tạng Kinh, ghi chép truyện của bốn mươi người do trì kinh Kim Cang được cảm ứng, khởi đầu bằng Diễm Pháp Sư, kết thúc bằng truyện của Lục Ông.

[12] Do Trung Hoa thời đó loạn lạc đến cùng cực, quân phiệt chiếm lãnh các tỉnh, tự xưng hùng xưng bá, liên tục đánh phá, triệt hạ lẫn nhau, làm quân nhân hay chánh khách thời đó sẽ tạo nghiệp rất lớn, đời sau sẽ bị đọa lạc trong tam đồ, sẽ thay đầu đổi mặt, làm ngạ quỷ, súc sanh hay đọa trong địa ngục.

[13] Vợ ông Ôn Quang Hy họ Kê, pháp danh là Đức Chánh.

[14] Nữ Tứ Thư là bốn bộ sách tương ứng với Tứ Thư của nam giới, gồm:

1) Nữ Giới (răn dạy nữ nhân) do nữ sử gia Ban Chiêu soạn dưới thời Đông Hán, giảng giải về Tam Tùng, Tứ Đức, cũng như những lời khuyên răn, trau giồi những phẩm đức của phụ nữ như kính thuận, đạo làm vợ, hòa thuận, khiêm cung v.v…

2) Nội Huấn do Nhân Hiếu Hoàng Hậu (vợ vua Minh Thành Tổ, con gái Từ Đạt) biên soạn vào năm Vĩnh Lạc thứ hai (1404), trích lục những giáo huấn của cổ nhân về phẩm đức của phụ nữ, chẳng hạn trau giồi đức hạnh, tu thân, thận trọng trong lời ăn tiếng nói, tiết kiệm, tích thiện, hướng lành v.v…

3) Nữ Luận Ngữ do nữ học sĩ Tống Nhược Sân soạn vào thời Đường, mô phỏng theo văn phong Luận Ngữ, thác danh Tào đại gia (tức Ban Chiêu) v.v… ghi lại những lời vấn đáp giữa bà mẹ của quan Thái Thường Vĩ Trình thời Tiền Tần là Tống Thị đáp lời thưa hỏi của các bậc anh thư như Tào đại gia v.v… để thuyết minh về đức hạnh của nữ giới cũng như cách tu dưỡng các đức hạnh ấy.

4) Nữ Phạm Tiệp Lục do bà Lưu Thị, mẹ nhà học giả Vương Tướng soạn vào cuối đời Minh, cũng nói về các phẩm đức của phụ nữ, đồng thời bao gồm những lời chú giải ngắn gọn các tác phẩm trước đó như Nữ Giới, Nội Huấn v.v…

[15] Liệt Nữ Truyện do Lưu Hướng soạn vào thời Đông Hán, bao gồm những tấm gương trinh liệt của nữ giới. Sách gồm bảy quyển, bao gồm 105 tấm gương, được chia thành các tiểu loại như mẫu nghi, hiền minh, nhân trí, trinh thuận v.v…

[16] Lá thư này được đăng tải trong Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên, quyển 2, đánh số 169.

[17] Theo lá thư gởi cho ông Phùng Bất Cửu trong Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên thì câu này phải là: “Thành tức Minh Đức. Minh tức minh Minh Đức chi minh. Thành Minh hợp nhất, tắc thị minh Minh Đức, tắc thị Phục Hy, Thần Nông, Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ, Châu Công, Khổng Tử sở truyền chi đạo”. (Thành chính là Minh Đức, Minh chính là sự sáng tỏ (minh) trong “minh Minh Đức”. Thành và Minh hợp nhất chính là “minh Minh Đức”. Đấy chính là đạo được truyền bởi các vị Phục Hy, Thần Nông, Nghiêu, Thuấn, Vũ (vua Đại Vũ), Thang (vua Thành Thang), Văn (tức Châu Văn Vương), Võ (tức Châu Võ Vương), Châu Công, Khổng Tử)

[18] Tiếng gọi tỏ vẻ tôn kính cháu trai bên nội của người khác. Điệt () là cháu gọi ta bằng chú hay bác; nếu là cháu gọi bằng cậu sẽ gọi là Sanh ().

[19] Xin đọc bài Pháp Ngữ Khai Thị Tại Tịnh Nghiệp Xã trong quyển 4, phần Pháp Ngữ.

[20] Nguyên văn “bồ bao”: Bồ là một thứ cỏ thường dùng để kết thành chiếu hay áo tơi, có thể đan thành bao để gói đồ vật nên gọi là “bồ bao”. Chúng tôi tạm dịch là bao lác (bị cói) cho dễ hiểu.

[21] Tam Tự Kính (không phải là cuốn Tam Tự Kinh để dạy vỡ lòng cho trẻ của Nho gia) là một tác phẩm của Giang Dịch Viên nêu lên những gương niệm Phật, lợi ích do niệm Phật, cũng như khuyên nhủ nên niệm Phật, do mô phỏng theo lối văn vần ba chữ một của Tam Tự Kinh nên đặt tên như thế.

[22] Hữu Bằng là con trai của Giang Dịch Viên.

[23] Tức tác phẩm Dương Phục Trai Thi Kệ Tụng Tập của Giang Dịch Viên, Tổ Ấn Quang có viết lời đề từ cho tác phẩm này. Xin xem lời đề từ ấy trong cuốn 4 của Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên.

[24] Ngu Thuần Hy (1533-1621), tự Trường Nhụ, quê ở huyện Tiền Đường, tỉnh Chiết Giang. Ông có tướng lạ là khi ngủ không nhắm mắt. Lúc mới ba tuổi đã niệm Phật suốt ngày không ngừng. Niệm đến nỗi hoa sen, cây báu hiện bóng trong phòng. Ông đem chuyện này kể với bà nội, bà bảo: “Đấy là cảnh giới trang nghiêm của Tây Phương Cực Lạc thế giới”. Tuy vậy, bà cụ vẫn dạy cháu tu Thiền Định (Đáng tiếc thay! Kẻ không thông hiểu, vô tình phá hoại, ngăn trở túc căn của người khác). Về sau, ông cùng với em là Thuần Trinh nghiên cứu giáo nghĩa tông Thiên Thai trong thời gian cư tang mẹ. Trong thời gian chưa hiển đạt, để kiếm sống, ông làm thầy đồ dạy học, thường dạy học trò tu Sổ Tức Quán khiến phụ huynh của chúng rất bực mình. Sau khi đậu Tú Tài, ông cùng người trong xã tụng Lương Hoàng Sám cảm được quang minh đủ màu chiếu xuống rực rỡ, đang trong tiết Đông mà hoa nở tươi thắm. Năm Vạn Lịch 14 (1583) ông đậu Tiến Sĩ, ra làm quan. Do cư tang cha bèn dựng lều tranh bên cạnh mộ cha suốt ba năm. Sau thời gian cư tang, ông lại ra làm quan, giữ chức Viên Ngoại ở bộ Lễ, không lâu sau trở về, nhập tử quan ẩn tu ở chỗ Cao Phong thiền sư trên núi Thiên Mục, ngày đêm tinh tấn dụng công đến nỗi có khả năng tiên tri được đủ mọi chuyện. Người kéo đến hỏi cát - hung nườm nượp. Vị thầy quy y của ông ta là Liên Trì Đại Sư nghe chuyện than dài: “Chàng họ Ngu đã đọa trong lưới ma mất rồi!” rồi gởi thư thống trách, ông ta mới thôi nói chuyện tiên tri. Ông quyết chí tinh tấn tu Thiền, đến ngày thứ 21, quá mệt mỏi, sắp gục xuống gối ngủ, bỗng thấy dường như Cao Phong thiền sư đậu trên cánh tay trái, ngay lập tức có chỗ ngộ, bèn xuống núi cầu ấn chứng với Liên Trì Đại Sư. Đại Sư dạy: “Phàm là người từ trong mộng tỉnh giấc, nếu chẳng chải gỡ, rửa ráy, đội khăn, lại gối đầu lên mền bông, chắc chắn sẽ ngủ thiếp đi rất nhanh. Người từ trong u mê tỉnh ngộ, nếu chẳng vãng sanh trong Tịnh Độ trang nghiêm, cứ thân cận thế giới uế trược, chắc chắn sẽ lại mê mất. Hoa sen trong lửa dễ khô héo, trúc mới mọc dễ gãy. Ông phải tự mình suy nghĩ đắn đo, ngàn vạn phần chớ nên để một điểm tỉnh ngộ này ngăn trở tiến bước trên con đường tu hành”. Họ Ngu y giáo phụng hành, suốt đời tu tập pháp môn Tịnh Độ (theo Đức Viên Tập).

[25] Nguyên văn “căn trần huýnh thoát”, đây là một thuật ngữ trong tông Thiên Thai, chỉ cảnh giới đã đạt được đến mức tâm thanh tịnh, các Căn không bị các Trần làm ô nhiễm nữa nên gọi là “thoát”. Do những đối tượng bên ngoài không còn bị ô nhiễm bởi các phiền não bên trong nên chúng được nhận biết khách quan như gương chiếu bóng, nên khi ấy sáu Trần không còn gọi là Trần nữa mà gọi là Cảnh. Vì thế gọi là “huýnh thoát” (vượt khỏi hẳn, vượt xa).

[26] “Nghi thất nghi gia” là một thành ngữ chỉ gia đình êm ấm, vợ chồng hòa thuận. Từ ngữ này xuất phát từ câu thơ Đào Yêu trong phần Châu Nam của kinh Thi: “Đào chi yêu yêu, chước chước kỳ hoa. Chi tử vu quy, nghi kỳ thất gia” (Cây đào mơn mởn, chi chít những hoa. Cô về nhà chồng, yên cửa vui nhà).

[27] Tiếng gọi nhằm tỏ vẻ kính trọng chú của người khác.

[28] Già Lam Thần hiểu theo nghĩa rộng là chư thiên, thiện thần thủ hộ nhà chùa. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì từ ngữ Già Lam chỉ cho mười tám vị thiện thần thủ hộ các chùa. Theo Thất Phật Bát Bồ Tát Sở Thuyết Đại Đà La Ni Thần Chú Kinh, quyển 4, tên của 18 vị Già Lam là 1) Mỹ Âm 2) Phạm Âm 3) Thiên Cổ 4) Xảo Diệu 5) Thán Mỹ 6) Quảng Diệu 7) Lôi Âm 8) Sư Tử Âm 9) Diệu Mỹ 10) Phạm Hưởng 11) Nhân Âm 12) Phật Nô 13) Thán Đức 14) Quảng Mục 15) Diệu Nhãn 16) Triệt Thính 17) Triệt Thị 18) Biến Quán.

[29] Chỉ cuốn Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục do Lý Viên Tịnh biên soạn.

[30] Ở chỗ này nếu không chú ý sẽ dễ hiểu lầm ý Tổ nên chúng tôi xin mạn phép giải thích thô thiển như sau: Để hoằng pháp hữu hiệu, người đứng ra hoằng pháp đừng cậy theo thiên kiến của chính mình, mà phải quán sát thời cơ, căn tánh của đại chúng đương thời để hoằng dương đúng pháp sao cho giản tiện, thiết thực, đừng bày vẽ những chuyện lập dị, phô trương; chẳng hạn tu Tịnh Độ mà chuyên chú trọng thấy tướng hảo, cầu thần thông, hoặc xen tạp thật nhiều Mật chú nhằm phô trương thần thông, kiến thức, hoặc áp dụng phương cách tọa thiền để trì danh, hoặc mong được người khác ca ngợi, cầu sau khi chết sẽ lưu lại xá-lợi, hoặc khoe khoang, bịa đặt cảnh giới chứng đắc, quên bẵng mục đích chính là cầu được vãng sanh, khiến cho Tăng - tục không thể chuyên tu. Tiếp đó, khi hoằng pháp phải tỉnh táo noi theo đúng chương trình ban đầu, đừng vì nể nang hay tài lợi mà chiều theo ý thích của một số đàn-na thí chủ sẵn tiền bạc để rồi sửa đổi chương trình theo đúng ý những người ấy, không quan tâm đến chương trình tu tập có thật sự đem lại lợi ích thiết thực cho những người khác hay không. Do người có tiền, có thế lực có thể chi phối đạo tràng thì làm sao họ còn tôn trọng pháp sư, tôn trọng pháp được hoằng dương bởi pháp sư hay thiện tri thức nữa!

[31] Sư Hiển Ấm là đệ tử của pháp sư Đế Nhàn, cực thông minh, chưa đầy hai mươi tuổi đã thông thạo giáo nghĩa tông Thiên Thai, qua Nhật học Mật Tông, sau ba năm đã thấu hiểu giáo nghĩa Mật Tông. Do quá thông minh nên đâm ra ngạo nghễ, thường viết những bài gởi đăng trên tờ Hải Triều Âm đề cao Mật Tông, cho rằng các tông phái khác đều là thấp kém, và chỉ có mình mới hiểu đúng Mật Tông. Khi Sư trở về nước, đến gặp thầy với vẻ hiu hiu tự đắc. Pháp sư Đế Nhàn từ bi khuyên Hiển Ấm nên ẩn cư hàm dưỡng cho sâu dầy rồi mới ra hoằng pháp để tránh va vấp, nhưng Hiển Ấm lại tưởng lầm thầy mình đố kỵ, cố tình chèn ép, nên đau bực đến nỗi ngã bệnh. Trong khi bị bệnh vẫn dùng thế trí biện thông để tranh biện với những ai vấn nạn nên cuối cùng đã phải kiệt sức chết khi chưa đầy 24 tuổi. Khi mất, Sư thần trí mê loạn, không niệm Phật mà cũng không trì chú được nên rất khó thể khỏi bị đọa.

[32] Du Già Luận có tên đầy đủ là Du Già Sư Địa Luận (Yogacārabhūmi) do Bồ Tát Di Lặc giảng, ngài Vô Trước ghi lại, ngài Huyền Trang dịch sang tiếng Hán. Đây là một trong những bộ luận căn bản cho tông Duy Thức, mà cũng là một bộ luận quan trọng cho những ai nghiên cứu giáo nghĩa Đại Thừa. Bộ luận này giảng cặn kẽ về Du Già Hạnh quán pháp, chủ trương đối tượng khách quan và tâm thức căn bản của nhân loại (A Lại Da Thức) đều là những hiện tượng giả hiện; cho nên phải xa lìa những quan niệm đối đãi Có và Không, tồn tại - bất tồn tại v.v… để có thể ngộ nhập Trung Đạo.

[33] Bộ sách này có tên đầy đủ Đại Bát Niết Bàn Kinh Sớ, 33 quyển, do ngài Quán Đảnh soạn từ năm Đại Nghiệp thứ mười (614) cho đến năm Đại Nghiệp mười lăm (619) đời Tùy. Thoạt đầu chỉ gồm mười hai quyển giải thích kinh văn và một quuyển giảng huyền nghĩa. Về sau, ngài Kinh Khê Trạm Nhiên lại sửa chữa, mở rộng thêm thành mười lăm quyển. Đến thời Vạn Lịch nhà Minh, ngài Viên Trừng lại tăng thêm phần chú sớ, vựng biên, tạo thành ba mươi sáu quyển, nhưng bị hậu nhân chê là “tự tiện sửa chữa, cắt xén, ý tưởng hỗn loạn”. Trải qua nhiều lần tu chỉnh, bản phổ biến nhất hiện thời là bản ba mươi ba quyển.

[34] Con đường này vốn có tên là Bình Kiều. Khi Thượng Hải bị biến thành tô giới, con đường này nằm ngay phía Đông của tô giới công cộng nên bị đổi tên thành Avenue Road. Khi chánh quyền Uông Tinh Vệ chiếm lại tô giới, đã đổi tên con đường này thành Đại Đồng. Vào năm 1945, nó lại bị đổi tên lần nữa thành Bắc Kinh Tây Lộ.

[35] Lý Trác Ngô (1527-1602) tên là Chuế, hiệu Trác Ngô, còn có hiệu là Đốc Ngô, Hoằng Phủ, biệu hiệu Ôn Lăng Cư Sĩ, người huyện Tấn Giang, tỉnh Phước Kiến, là một nhà tư tưởng, sử gia, văn gia trứ danh đời Minh. Tánh tình thanh liêm, thương dân, siêng năng chánh sự. Bất mãn trước sự thối nát của nhà Minh thời Gia Tĩnh - Vạn Lịch, ông từ quan phiêu bạt giang hồ, dạy học kiếm sống, trước tác rất nhiều. Ông viết lời phê bình cho những bộ tiểu thuyết nổi tiếng thời ấy như Thủy Hử, Tây Sương Ký, Hoán Sa Ký v.v… Ông theo quan điểm chánh thống khắc nghiệt của Khổng - Mạnh, những gì không thuộc Khổng - Mạnh đều nhất loạt chê là dị đoan, phê phán mãnh liệt những sự hủ bại thối nát trong hệ thống cai trị đương thời, chủ trương phải giữ lòng hồn hậu như trẻ thơ. Do vậy, ông bị các quan lại đương thời lẫn triều đình căm ghét, nghi kỵ. Đa số các nhà trí thức đương thời cũng không tán đồng quan điểm thiên lệch, khắc nghiệt, hẹp hòi của ông trong những lý luận về Nho Học. Năm Vạn Lịch 29 (1601), ông ở Hồ Bắc, bị vu cáo đến nỗi gần mất mạng, phải trốn đến Thương Thành (Hà Nam), rồi sang nhà bạn thân là Mã Kinh Luân ở Thông Châu lánh nạn. Năm sau, ông lại bị vu cáo, bị khép tội “đề xướng bại hoại loạn đạo, lừa đời, gạt dân”, bị tống giam vào ngục, hành hạ khổ sở. Không chịu được nhục, ông tự tử trong tù.

[36] Đây là một câu nói trong sách Thương Thư của kinh Thư, phần Thái Giáp. Mạnh Tử nhắc lại câu nói này trong thiên Công Tôn Sửu, sách Mạnh Tử. Chúng tôi dịch câu này theo cách diễn giải của Tứ Thư Bạch Thoại Giải.

[37] Nhiếp Vân Đài (1880-1953), tên thật là Nhiếp Kỳ Kiệt, hiệu là Vân Đài, pháp danh Huệ Kiệt, biệt hiệu Tức Sám, người Hành Dương, tỉnh Hồ Nam, là cháu ngoại của Tăng Quốc Phiên. Cha ông là Nhiếp Tập Quy từng làm Tuần Phủ tỉnh Giang Tô. Mẹ ông là Tăng Kỷ Phân, con út của Tăng Quốc Phiên. Thuở nhỏ ông theo cha sang sống tại Thượng Hải. Năm Quang Tự 19 (1893), trở về Hồ Nam tham gia khoa Đồng Thí (khoa thi dành cho thiếu niên), đậu Tú Tài. Ông học Anh ngữ, điện khí, công nghệ với người ngoại quốc, từng sang Mỹ du học. Trở về nước, ông tận lực chủ trương “giáo dục cứu quốc, tăng tấn kinh tế để cứu quốc” nên tận lực tiến hành xây dựng các xí nghiệp, thành lập các công ty dệt như Phục Thái, Hằng Phong v.v… nhiệt thành hướng dẫn chuyên viên về ngành dệt. Ông mạnh dạn nhập máy móc, cải tiến ngành dệt, và được coi như một trong những người khai sáng ngành dệt công nghiệp ở Trung Hoa. Ông cũng mở nhiều xưởng liên quan đến nhiều ngành khác và từng đảm nhiệm chức vụ Hội Trưởng của Thương Hội Thượng Hải. Tuy xuất thân từ một gia đình Phật giáo thuần thành, trong thời gian du học ở Mỹ, ông từng theo đạo Baptist và vợ ông là Tiêu Thị cũng là tín đồ Baptist. Đến năm Dân Quốc 13 (1924), kinh tế Trung Hoa suy vi, các xưởng do ông làm chủ hay làm Kinh Lý đều thua lỗ. Tới năm Dân Quốc 15 (1926), ông bị ép buộc phải rút lui, đã thế lại bị bệnh nặng mấy bận tưởng chết, bèn cảm ngộ thế sự vô thường, hướng lòng về Phật pháp, quy y với pháp sư Như Huyễn, lắng lòng học Phật, đóng cửa không qua lại với ai. Về sau, ông gặp được tổ Ấn Quang, hết sức kính mộ, xin được thọ Ngũ Giới, mấy lượt toan xuất gia nhưng bị mẹ già ngăn cản. Hằng ngày ông tận lực lễ bái Quán Thế Âm và Địa Tạng Bồ Tát, trì tụng kinh Kim Cang, Phổ Môn, và Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh. Ông gom góp tài sản còn lại để tận lực cứu trợ những nạn dân ở Hồ Nam, viết bài luận nổi tiếng là Bảo Phú Pháp (cách giữ giàu) chủ trương muốn được giàu có thì phải biết chia sớt tài sản cho người khác. Ông đề xướng Gia Đình Phật Học Hội, nhằm giảng diễn Phật học và Phật hóa sinh hoạt gia đình trong vòng thân tộc. Ngoài bộ Lịch Sử Cảm Ứng Thống Kỷ (tên ban đầu là Lịch Đại Cảm Ứng Thống Kỷ) viết chung với Hứa Chỉ Tịnh, ông còn để lại dịch phẩm Vô Tuyến Điện Học, Thác Nhĩ Tư Thái Truyện (tiểu sử Leon Tolstoy) và những tiểu phẩm có giá trị về Phật học như Cần Kiệm Cứu Quốc Thuyết, Địa Tạng Bồ Tát Linh Cảm Cận Văn Lục, Quán Âm Kinh Chú Cảm Ứng Hội Thiên v.v…

[38] Chữ Cứu () có nghĩa là dùng dược liệu (thường là ngải cứu) để đốt trên đầu kim châm để dẫn hơi nóng vào huyệt được châm. Còn Chích (, có khi đọc là Chá) có nghĩa là nướng thịt, thân cận, tiêm nhiễm.

[39] Thái Ất Thần Châm (năm quyển) là bộ sách dạy về nguyên tắc, cách thức châm cứu, vị trí các huyệt trên thân thể, những điều cấm kỵ trong khi châm cứu (chẳng hạn những bệnh nào không nên châm cứu, bịnh nhân có thai không nên châm cứu, những huyệt nào không được châm v.v…), cũng như các bài phú để dễ nhớ huyệt vị, kinh lạc v.v…. Sách đã mất tên tác giả, ước chừng ra đời trong niên hiệu Ung Chánh nhà Thanh.

[40] Xạ là chất thơm của con hươu xạ (musk deer). Loài hươu này con đực có bọng tiết ra chất dịch hết sức thơm ở bụng để quyến rũ con cái trong mùa giao phối. Do chất Xạ cực thơm thường để chế nước hoa, hương liệu, dược liệu… nên chúng bị săn bắn rất tàn nhẫn.

[41] Bổng là gậy đánh, Hát là tiếng hét. Tổ Lâm Tế dùng phương pháp đánh hoặc hét để khai ngộ cho người đến học nên Thiền gia thường dùng thuật ngữ “bổng hát” để chỉ những lời khai thị thống thiết có khả năng khai ngộ, cảnh tỉnh mạnh mẽ.

[42] Dã Truật ở đây là loại Bạch Truật (Atractylodes Macrocephala) mọc hoang (gọi như vậy để phân biệt với loại Chủng Truật thường được trồng ở Phước Kiến, Hồ Nam, Chiết Giang). Bạch Truật là loài thảo mộc có lá đơn, hẹp dài, hoa màu tím. Phần dùng làm thuốc là củ (thân ngầm), đôi khi còn gọi là Truật, Đông Truật, Chiết Truật, Kỳ Truật v.v… Bạch Truật có vị ngọt hơi đắng, tánh ôn, chủ trị các chứng bệnh về tỳ vị, tiêu hóa không tốt, hư trướng, tiêu chảy, viêm họng, thủy thũng v.v… nhưng phải chế biến rất kỹ.

[43] Do túc duyên của những người cầu cơ, hai vị Bồ Tát cùng mượn cơ bút để hướng dẫn họ phát khởi tín tâm, tu tập Tịnh Độ. Khi tín tâm của họ đã vững chắc, cả hai vị đều cùng quyết liệt răn cấm họ không được cầu cơ, không được tin tưởng theo cơ bút nữa.

[44] “Dục” ở đây là những ham muốn, ưa thích, xin đừng hiểu hạn hẹp là “dục vọng xác thịt”. Các ông này ham thích cầu cơ, xướng họa thi văn với tiên, do thiện căn của họ đã chín muồi, Bồ Tát liền vờ xưng là tiên giáng đàn để hướng dẫn họ về Phật đạo. Cũng cùng một mục đích, kinh luận nhà Phật thường nêu lên rất nhiều công đức nhằm phát khởi lòng ham muốn đạt được thiện báo của chúng sanh để họ tu tập theo pháp môn được dạy trong một kinh, chẳng hạn kinh Pháp Hoa nói người trì kinh sẽ có bao nhiêu công đức nơi thân, miệng, ý v.v… khiến cho người nghe hâm mộ, sốt sắng đọc tụng để dần dần sẽ ngộ nhập được Nhất Thừa.