Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam
Biên
Quyển 3
Phần 2
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Minh Tiến & Huệ Trang
511. Thư trả lời cư sĩ Ôn Quang Hy (thư thứ sáu)
Đọc
những gì ông nói, biết rõ ông tuy đọc Văn Sao, Gia Ngôn Lục mà vẫn y như cũ, chẳng
chú ý tới chỗ khác biệt giữa Thiền và Tịnh. Nếu ông tin tưởng tới nơi tới chốn
lời giải thích về giới hạn giữa Thiền và Tịnh, cần gì phải đi qua bảy tỉnh để cầu
người quyết trạch[1]
nữa ư? “Triệu Châu bát thập do hành cước”
(Triệu Châu tám mươi tuổi vẫn hành cước[2])
là chuyện “quyết trạch kiến địa” trong nhà Thiền. Người niệm Phật chỉ nương
theo ba kinh Tịnh Độ do đức Phật đã dạy, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây
Phương, cho nên chẳng cần phải lần lượt tìm người khai thị. Cổ nhân lập ngôn, mỗi
vị đều có hạnh riêng, do ứng với căn cơ bất đồng nên nói ra những lời bất đồng.
Hãy nên tự lượng chính mình thuộc tư cách nào thì mới chẳng hiểu sai ý nghĩa thật
sự của những lời cổ nhân đã nói ra nhằm tương ứng với từng căn cơ!
Người đời nay trọn chẳng có
duyên tu đạo như cổ nhân, thể lực của chính mình yếu đuối, tâm lượng hẹp hòi,
nhỏ nhen, hoặc lại cuồng ngạo, trái nghịch; muốn kiếm được người hiểu biết, có đủ
nhãn quan như cổ nhân thì trong ngàn vạn kẻ khó kiếm được một, hai! Có được
pháp môn cậy vào Phật lực để liễu sanh tử này mà vẫn cứ coi rẻ, toan hướng đến bậc
tri thức thuộc những pháp môn cậy vào tự lực để tìm tòi đường tắt liễu sanh tử
thì đã là chẳng biết lợi - hại! Huống hồ lỡ gặp phải các bậc đại quyền thị hiện
những hạnh chẳng hợp với đạo ư? Nếu ông chết được si tâm vọng tưởng, chắc chắn
sẽ có thể vãng sanh Tây Phương ngay trong đời này. Nếu chưa tu mà đã muốn thấy
được cảnh tốt đẹp ngay, chắc chắn mai sau sẽ có ngày bị ma dựa phát cuồng đấy!
Ví như mài gương, chất dơ mất
đi, ánh sáng còn lại; lúc bụi nhơ chưa trừ sạch hết, làm sao có tướng tốt lành
hiện ra cho được? Ông nói “hiện thời chưa
thể nhất tâm, khi lâm chung sẽ khó thể đắc lực”, cũng là bàn luận theo kiểu
chỉ biết nhặt nhạnh những lời cổ nhân đã nói, chứ chẳng tự lượng theo những gì chính
mình làm được! Ông vừa mới phát tâm, chỉ mong không có hết thảy những tạp niệm
vô vị đã là rất khó khăn rồi. Sao lại muốn ngay trong khi ấy sẽ thấy được những
tướng tốt đẹp vậy? Ví như muốn cho trẻ gái mới vừa sanh ra liền đẻ được con, có
lẽ ấy hay chăng? Nếu ông là hạng đại căn tánh túc căn đã chín muồi thì cố nhiên
chẳng khó khăn cho lắm. Nếu không, do gấp gáp [mong cầu] sẽ phát cuồng, vĩnh viễn
cắt đứt thiện căn. Muốn báo ân bà nội là Sài lão thái phu nhân và ân cha mẹ, nhưng
chẳng chú ý nơi một pháp Niệm Phật, há chẳng phải là bỏ đại lợi ích để cầu tiểu
lợi ích ư? Pháp Niệm Phật trọng tại lòng từ của đức Phật gia bị, dẫu là hạng
phàm phu đầy dẫy Hoặc nghiệp vẫn có thể nương theo Phật từ lực đới nghiệp vãng
sanh; hết thảy những pháp khác trọn chẳng có nghĩa này!
Ông nói năm sáu năm qua, từ
sau khi ra trường, mắc bệnh xương khớp rã rời, gần như đã chết một nửa người.
Có phải vì [trong thuở còn đi học ấy] bạn bè đàn đúm tụ họp, cùng nhau đọc tiểu
thuyết[3]
đến nỗi chân tinh mất mát, thủ dâm liên tục, do vậy mới có hiện tượng ấy hay
chăng? Đấy chính là căn bệnh chung của lũ học sinh trong hiện tại, trong mười đứa
có đến tám chín đứa [vướng phải]. Do cha mẹ, thầy, bạn đều chẳng chịu nhắc đến,
nên kẻ bị bệnh ngày thấy càng nhiều, chẳng thể ngăn dứt được! Do chuyện này,
Quang liền cho in tám trăm cuốn Thọ Khang Bảo Giám. Hễ kẻ trẻ tuổi gặp Quang,
Quang đều nói rõ lẽ lợi - hại với họ, bảo họ giữ gìn thân thể đừng phạm. Dù là
thủ dâm hay tà dâm đều phải nghiêm túc kiêng dè, đừng phạm; ngay như vợ chồng
ăn nằm với nhau cũng phải có chừng mực, cũng như biết kiêng kỵ để khỏi đến nỗi
bị mất mạng oan uổng! Nếu không, người cực tốt cũng vẫn có thể chết vì chuyện
này. Xúm nhau đổ thừa cho số mạng, chẳng biết tự mình đã nộp mạng! Ông còn rất
trẻ mà đã bị bệnh, hãy nên thường đọc sách ấy, cũng như bảo Đức Chánh thường đọc.
Đôi bên răn nhắc lẫn nhau, ngõ hầu những đứa con đã sanh như Quân Tốn v.v… đều
được mũm mĩm, trưởng thành, tánh tình hiền thiện, vợ chồng ông sống hạnh phúc đến
già, cùng sanh Tây Phương.
Nói tới chuyện làm quan lớn
hay làm giáo viên có chức vụ cao, mà nếu có thể thay đổi phong tục, dẫn dắt dân
hướng đến chỗ nhân từ, sống lâu theo đúng lẽ thánh hiền, cố nhiên là điều vinh
hạnh. Chứ nếu chỉ có thể giúp cho những chuyện phế kinh điển, phế hiếu, phế
luân thường v.v… thì địa vị càng lớn, tội nghiệp càng sâu, nhục nhã khôn cùng!
Nếu ông vẫn coi chuyện bị [kẻ khác] đối xử lạnh nhạt là khổ thì ông sẽ trở
thành một kẻ chẳng biết tốt - xấu! Ông muốn mưu tính [có được địa vị quan lớn
hay một chức vụ lớn trong ngành giáo dục] là để cầu danh hay là để hành đạo vậy?
Nếu để hành đạo thì hãy nên mưu tính, chứ để cầu danh thì đừng nên mưu toan! Do
ông còn có cơm ăn, tổ phụ (ông nội) của ông là Hưng Toàn Công âm đức chẳng ít;
há có nên vì cái danh xuông ấy mà chịu quỵ lụy kẻ khác, dẫu chẳng muốn gây nghiệp,
há có được chăng? Ông hãy nên bỏ cái tâm ấy đi để sau này khỏi phải hối hận “cắn
rốn không kịp”[4].
May là Đức Chánh hiền huệ, hãy nên bảo cô ta đọc kỹ Gia Ngôn Lục, Khuê Phạm, Lịch
Sử [Cảm Ứng] Thống Kỷ, để trở thành bậc thầy khuôn mẫu cho nữ giới, mà con cái
sanh ra sẽ đều thành hiền nhân, thiện nhân, may mắn chi hơn?
Gia cảnh ông khá dư dả, hãy
nên in Lịch Sử Thống Kỷ bao nhiêu đó bộ để tặng cho đất Xuyên (Tứ Xuyên), ngõ hầu
những tay hào kiệt dấy lên sau này đều biết “nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi
cũng là nhiệm vụ trọng yếu khiến cho đời yên dân lành”. Nếu muốn in, hãy tiếp
xúc với ông X… Mấy chục năm qua, Quang gởi cho Tứ Xuyên các thứ sách thật nhiều.
Một là vì đất Xuyên quá xa, cũng như do thầy tôi xuất gia tại núi Nga Mi. “Tinh tinh” nghĩa là “tỉnh ngộ, hiểu
rõ”, ông dùng chữ ấy sao được? Ăn nói vẫn là lời lẽ hồ đồ, lại tự xưng là “chừng
mực, tinh tinh đến cùng cực!” Dùng chữ hãy nên lưu tâm! Nói chung, ông đã quy y
Phật pháp, ắt phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ
lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành. Lại còn phải thật vì
sanh tử, phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật, quyết định cầu
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Dùng những điều ấy để tự hành, lại còn dạy
người, sẽ là đệ tử thật sự của đức Phật, đáng gọi “chẳng khiến đấng sanh ra ta
phải hổ thẹn!” Nguyện ông và Đức Chánh cùng cố gắng thì may mắn lắm thay!
512. Thư trả lời cư sĩ Ôn Quang Hy (thư thứ bảy)
Tánh
tình ông đúng là hệt như trẻ nít. Lần trước tôi đã gởi cho ông một bức thư dài
vì sợ ông ham danh sẽ gia nhập quân đội hay tham dự chánh trường. [Trong lá thư
ấy] đã cực lực bày tỏ lẽ lợi - hại, sao không lấy những lời bàn luận ấy để định
hướng cho tương lai? Ông lại hận vì [do tôi] bế quan nên chẳng thể chỉ dạy trọn
khắp, lại than “mờ mịt không chỗ nương theo!” Nếu ông nghe lời tôi, sao lại “mờ
mịt không chỗ nương theo” cho được? Ông không nghe lời tôi thì sẽ mờ mịt không
chỗ nương theo cho đến tận sau khi đã nhắm mắt. Gia cảnh ông may mắn không thiếu
hụt, lẽ ra hãy nên trong lúc này càng thêm gắng sức tu trì nhằm mong khỏi bị mắc
họa, lại cứ muốn đâm đầu vào hang họa để được cái hư danh chẳng đáng một tiếng
than ư? Chẳng tính tới cái họa cùng cực là “đời đời kiếp kiếp vĩnh viễn đọa
trong ác đạo”; bệnh cuồng của ông có thể nói là cực cuồng!
Gia Ngôn Lục, Văn Sao chẳng phải
là khai thị ư? Những sách trước kia và những cuốn sách rút gọn v.v… chẳng phải
là khai thị ư? Nếu như ý ông, dẫu có bao nhiêu sách vở đến nỗi phải dùng lừa, lạc
đà để chở tới chắc cũng chẳng vừa ý ông. Ông thật đúng là kẻ đáng thương! Xin
hãy nhất tâm trì chú Đại Bi và danh hiệu Quán Âm để khỏi mắc phải các họa hoạn.
Gần đây, ở đất Tô có mấy vị thiện nhân dạy người khác niệm Ma Lợi Chi Thiên Chú
để bảo vệ chính mình lẫn gia đình, cầu thái bình. Họ đã in mười vạn tờ, tặng
cho mỗi gia đình ở nơi đây một tờ, tặng cho mỗi cơ quan từ thiện các nơi khác mỗi
nơi chừng đó tờ, mong [những nơi ấy] sẽ phân phát giùm, lại còn in thêm nữa. Lời
Bạt [trong tờ chú ấy] do Quang sửa chữa giùm cho họ. Họ muốn Quang ký tên cho
người khác trông thấy sẽ tin tưởng; vì thế, tôi thuận theo ý họ mà ký vào. Họ lại
mời hai mươi người lành nhưng nghèo khổ thiếu cơm ăn đến hội từ thiện của họ để
niệm chú ấy trong một trăm ngày, mỗi ngày cung cấp thức ăn và trả tiền tụng chú
để họ có cái nuôi nấng gia đình. [Việc này] đáng gọi là một hành động trọn đủ
nhiều điều tốt đẹp. Đang trong cơn đại kiếp mênh mông này, chẳng phát tâm lợi
người lợi vật một phen thì khi ngọc lẫn đá đều cháy, há chẳng đành than xuông
khi xưa đã lỡ làng ư? Nay gởi cho ông ba tờ, xin hãy niệm kèm thêm, ắt sẽ có cảm
ứng chẳng thể nghĩ bàn.
Trong thư, ông thường than bận
rộn, bận rộn vì lẽ gì vậy? Thật sự là bận rộn bởi những chuyện vô vị! Từ xa mấy
ngàn dặm đến đây gặp Quang chỉ vì nghe danh, để rồi gặp xong một bữa bèn chẳng
chịu ở lại nữa. Những điều cực chánh yếu trong suốt một đời Quang và đời ông,
Quang đã đều chỉ hết cho ông rồi. Ngoài những điều ông xin hỏi ra, [tôi còn giải
đáp thêm bằng] một bức thư dài, nhưng ông vẫn như chưa hề thấy một chữ nào mà
cũng chẳng buồn nhắc tới. Lại cứ thường than thở thiếu duyên, đúng là nực cười
đến cùng cực! Nếu có thể chết sạch lòng [mong ngóng, khiêm hư] sát đất, y theo
lời tôi thì từ đây sẽ được vui sướng vô cùng. Nếu không, sẽ giống như gã câm nuốt
phải Hoàng Liên[5],
chịu đắng nhưng chẳng thể nói được! Xin hãy sáng suốt suy xét, đây là lời dặn
dò cuối cùng của Quang!
513. Thư trả lời cư sĩ Ôn Quang Hy (thư thứ tám)
Ông
vọng tưởng tơi bời mà vẫn gấp muốn được nhất tâm bất loạn, tâm ấy chính là cái
gốc cho ma dựa. Vì thế, Quang nói: “Pháp
môn Tịnh Độ trọng tại tín - nguyện”. Nếu tín - nguyện chân thật, thiết tha,
dẫu chưa đắc nhất tâm vẫn có thể vãng sanh. Nếu không có tín - nguyện, dẫu đắc
nhất tâm, vẫn chẳng thể cậy vào tự lực để liễu sanh thoát tử! Vì thế, chẳng
khuyên ông miệt mài cầu nhất tâm. Do ông vọng tưởng tơi bời, hễ cầu nhất tâm,
nhất định sẽ bị ma dựa! Ông chẳng xét hiểu ý Quang, bèn nghĩ là “mặc kệ, miễn
sao thuận tiện thì thôi”. Những kẻ tùy tiện chuyện trước mắt chắc chắn chẳng phải
là người tín - nguyện chân thiết! Nếu tín - nguyện chân thiết, quyết chẳng đến
nỗi hờ hững tùy tiện để rồi đều chẳng được vãng sanh. Lý vốn chẳng chướng, do
ông coi vô lý là hợp lý nên tự sanh chướng ngại thì còn oán trách ai?
Quán Âm Đại Sĩ chính là quá khứ
cổ Phật. Nhà khảo chứng tầm mắt nhỏ tí như hạt đậu nhưng cứ nói bừa đạo lý! Há ông
chẳng từng đọc phẩm Phổ Môn trong quyển bảy kinh Pháp Hoa, chương Quán Âm Viên
Thông trong quyển sáu kinh Lăng Nghiêm? Đọc hai kinh ấy sẽ bật cười trước những
lời lẽ của bọn khảo chứng. Sách [Quán Thế Âm Bồ Tát] Bổn Tích [Cảm Ứng] Tụng
không gì chẳng nói rõ. Chỉ vì ông tâm khí thô phù, trọn chưa hề hiểu rõ ngữ khí,
ý nghĩa của đoạn văn trước lẫn đoạn văn sau, nên mới mờ mịt, không biết theo hướng
nào! Ba cô con gái của vua Diệu Trang[6]
là ngoa truyền. Cao Vương Kinh là ngụy kinh. Tụng kinh ấy thì vẫn có công đức
chẳng ít, do [trong ấy] có thật nhiều danh hiệu Phật. Kinh này đã lưu truyền từ
thời Lục Triều[7].
Người thật sự thông hiểu Phật pháp chẳng đề xướng, nhưng muốn cho tục nhân gieo
thiện căn nên cũng chẳng ra sức ngăn trở.
Ông thật đáng gọi là kẻ cuồng
bậc nhất! Tâm vinh hoa trong cõi đời như sóng biển vỗ đập ào ào mà muốn ngay lập
tức gió yên sóng lặng, lắng trong, bất động. Tâm gấp muốn cầu được bất động chính
là cái gốc của mọi sự đua nhau dấy động đấy! Lại như nồi đã sôi trào, cứ tận lực
tăng thêm lửa mà mong cho nó chẳng trào sùng sục, há có được chăng? Quang nói với
ông toàn là những chuyện “lặng gió, rút bớt củi”, nhưng ông chẳng xét kỹ, vẫn
cho là khuấy sóng, sôi trào thêm, há chẳng đáng buồn quá đỗi ư? Ông hãy đọc kỹ
Văn Sao, Gia Ngôn Lục, ắt sẽ chẳng đến nỗi tự phụ bạc ông. Nếu không, đừng coi
tôi là thầy, hãy bái vị cao minh [nào khác làm thầy], Quang cũng chẳng hỏi đến
ông nữa!
514. Thư trả lời cư sĩ Ôn Quang Hy (thư thứ chín)
Lá
thư dài đã nhận được. Do ông nói sẽ đi ngay, tôi tính gởi thư sang cho Đức
Chánh ở Trùng Khánh, nên trả lời chậm trễ. Hôm qua nhận được thư ông, biết ông
vẫn chưa trở về Tứ Xuyên, nên tôi nói đại lược. Sát kiếp hiện thời có thể nói là
“từ xưa đến nay chưa hề có!” Đang trong lúc thế đạo nhân tâm chìm đắm đến cùng
cực này, làm dân đen cố nhiên là khổ, nhưng nỗi khổ của trưởng quan còn sâu đậm
hơn trăm họ gấp hằng hà sa lần! Cha ông là Hoàn Quân Ông có tầm nhìn gần giống
như ông, đều chưa thấy thấu suốt! Quân nhân hiện thời nói chung phải chú trọng
thắng địch, từ sáng đến tối luôn suy nghĩ cách đánh thắng địch. Ông muốn đắc nhất
tâm, thấy được hảo tướng ngay mà vẫn còn có thứ vọng tưởng ấy. May mà ông được
Quang nói toạc ra. Nếu không, chắc chắn bị ma dựa!
Ước theo thân phận ông để luận,
hãy nên giữ vững chí thành, cung kính, lễ niệm là được rồi, đừng miệt mài cầu
tương ứng thì sẽ có ích, không bị tổn hại. Nếu không, sẽ nguy hiểm hơn vào vực
sâu, bước trên băng mỏng đấy! Ông nói: “Làm sĩ quan thì người khác chẳng dám
khinh khi!” Hãy thử nghĩ xem quỷ có dám khinh ông hay chăng? Đã làm sĩ quan, há
chẳng thể không chú trọng giết địch? Nếu giết cho đúng thì vẫn còn chưa đến nỗi
bị trời phạt rành rành. Nếu không, sẽ như Bào Siêu[8]
ở quý tỉnh, Quách Tử Mỹ ở Hồ Nam, chẳng đáng thương xót lắm ư? Đầu đời Tống,
Tào Bân[9]
làm nguyên soái, chẳng giết lầm một ai, nên [con cháu] mấy đời sang quý, vinh
hiển. Tào Hàn là phó soái của Tào Bân, do Giang Châu đã lâu chưa chịu hàng bèn
tàn sát cả thành. Không lâu sau, thân chết, con cháu tuyệt diệt, còn nhiều lần
mang thân lợn (vào thời Vạn Lịch nhà Minh, ông ta từng báo mộng cho Lưu
Ngọc Thụ[10]) bị người khác mổ xẻ. Những con vật nay làm thức ăn
cho người khác, phần nhiều là do những đại nhân vật giống như vậy biến thành,
há nên hâm mộ sự hống hách một thời ư?
Nếu chủ soái có lòng nhân như
Tào Bân, chính mình đã biết nhân quả Phật pháp, hễ gia nhập quân đội, chánh trường
sẽ có thể trừ bạo an dân, ngõ hầu đối với mình và đối với dân đều có công. Nếu
nay coi mạng người như cỏ rác, binh sĩ lại không có kỷ luật, đến đâu cũng đều
cướp bóc, gian dâm; ông đã bị người khác khống chế, há chẳng thể không tận hết
chức trách ư? Hễ tận hết chức trách thì chẳng thể thuận theo lòng mình nghĩ mà
phải hoàn toàn tuân theo mạng lệnh của người khác. Như vậy thì tuy có thể làm
cho dân quê kính sợ, nhưng tôi trộm sợ quỷ thần chẳng kính sợ, sẽ muốn giáng họa,
đến nỗi chính mình và người thân đều bị tổn hại đấy!
Cha ông tuy là một thiện nhân,
nhưng tâm chuộng thể diện quá lớn, vì thế đang trong đời loạn này vẫn gấp muốn xây
dựng từ đường. Thử nghĩ người nghèo khổ không có từ đường cũng vẫn làm người được,
cần gì cứ phải kiếm một chức quan trong đời loạn, dựng ngay từ đường ư? Ông
nghe theo hay không, Quang chẳng cản ông; chỉ không thể chẳng thuật lợi - hại
cùng ông! Nếu ông biết điều này thì ở trong cả hai giới quân sự lẫn chánh khách
cũng đều rất có ích, chứ không phải là những lời nói thừa thãi vô dụng! Ông
không hiểu chuyện quá sức, Quang quở trách ông vẫn là vì ông không hiểu rõ mà
chỉ dạy ông. Lời lẽ chẳng thống thiết sẽ không thể động tâm ông được! Ông lại
tưởng là tôi giận dữ bèn hai lần dùng chữ “vạn tử” (đáng chết vạn lần), ba lượt
dùng chữ “vạn vọng vật giới ý” (muôn vàn mong mỏi đừng để ý). Vậy là ông nghĩ
tôi là hạng sân độc không thể hình dung được, là hạng người bỉ ổi, thô ác, hung
tợn chẳng đáng tiếp xúc. Sao chẳng biết sự vụ đến mức như thế? Không có chuyện
gì chớ nên gởi thư đến nữa!
515. Thư trả lời cư sĩ Ôn Quang Hy (thư thứ mười)
Sao
ông không biết sự vụ đến mức như thế. Quang là hạng người nào mà có thể sánh
bàn với Liên Trì đại sư? Ông nói lời ấy nhằm tâng bốc Quang, chẳng biết là đã hủy
báng Quang vậy! Từ nay về sau đừng dùng [lời lẽ] “đem phàm lạm thánh” để tâng bốc
tôi như thế nữa! Tôi thấy lời ấy như bị đánh, như bị nhạo báng, hổ thẹn khôn ngằn!
1)
“Tâm thanh, trăng hiện”, há nên bàn
luận theo kiểu chấp chết cứng? Cần biết rằng: Phàm phu có sự trong lặng hiển hiện
của phàm phu, Thanh Văn có sự trong lặng hiển hiện của Thanh Văn, Bồ Tát có sự trong
lặng hiển hiện của Bồ Tát; chỉ có thành Phật mới có thể đạt tới sự trong lặng
hiển hiện rốt ráo. Nếu nói đúng như pháp thì trong hết thảy những địa vị khác đều
chẳng phải là trong lặng hiển hiện, chỉ có Phật mới là trong lặng hiển hiện. [Do
vậy, ông cho rằng] lời đại sư Liên Trì trở thành sai ngoa, chẳng biết chính
mình hoàn toàn chưa mở được chánh nhãn nên mới có thứ lập luận mù quáng ấy! Sao
lại khổ sở như thế?
Sự trong lặng hiển hiện của
phàm phu là sự trong lặng hiển hiện do quán hạnh. Thanh Văn đoạn Kiến Hoặc, Tư
Hoặc chính là sự trong lặng hiển hiện thuộc về địa vị Tương Tự. Bồ Tát thuộc địa
vị Nội Phàm, [tức là những địa vị] từ Sơ Tín đến Thất Tín cũng giống như Thanh
Văn. Bát, Cửu, Thập Tín phá Trần Sa, chứng Pháp Không, há nên nói là “phá Pháp
Không”? Sơ Trụ liền phá Vô Minh, chứng Pháp Thân. Đây chính là địa vị đầu tiên
của bậc Phần Chứng. Cho đến Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Đẳng Giác (Đẳng
Giác là địa vị cuối cùng thuộc Phần Chứng. Trong các địa vị thuộc Phần Chứng,
phàm những gì Phật chứng được, họ đều chứng, nhưng chưa chứng được viên mãn rốt
ráo). Bốn mươi mốt địa vị chính là sự trong lặng
hiển hiện nơi Phần Chứng; chỉ có Phật mới là trong lặng hiển hiện rốt ráo.
Hơn nữa, ngay trong một địa vị
còn có vô lượng vô biên [tầng cấp chứng ngộ] sâu - cạn bất đồng. Ví như người nước
ngoài đến Trung Quốc, vừa đến biên giới Trung Quốc liền có thể nói là “đã đến
Trung Quốc”, nhưng từ đấy vẫn còn có đường dài mấy ngàn dặm mới tới được kinh
đô Trung Quốc. Ý ông cho rằng: “Đã đến rồi thì không cần bàn đến đường đi nữa;
đã chưa đắc đạo mà nói sự hiển hiện trong lặng thì thành sai ngoa, trái nghịch
với sự tướng cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh”. Lỗi ấy là do ông thích
xưng là bậc thông gia, chứ không phải vì Liên Trì đại sư nói lời chẳng thích
đáng! Từ nay về sau, hãy nên sốt sắng niệm Phật, bớt nói lời phô trương! Nếu vẫn
[dùng lời lẽ] đem phàm lạm thánh tâng bốc Quang như thế tức là khiến cho thiên
hạ hậu thế thóa mạ Quang! Sao lại khổ sở làm những chuyện tổn hại vô ích như thế?
2)
Lời của Liên Trì đại sư là lời viên dung vô ngại. Nếu căn cơ sâu, y theo đó tu
trì sẽ có đại lợi ích. Nếu căn cơ nông cạn, hoặc mắc khuyết điểm chấp Lý phế Sự,
chỉ nên chiếu theo sự tướng chí thành trì danh thì mới là ổn thỏa. Thuyết “Lý
nhất tâm” do không làm được, có nói cũng vô ích; chỉ không đề xướng là được rồi,
[chứ thốt ra] hai chữ “bài xích” chẳng phải là ăn nói vớ vẩn hay sao? “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật”. Nếu
chẳng làm Phật mà nói “tâm này là Phật”
thì có thể bài xích được. Nếu niệm Phật mà nói “tâm này là Phật” thì đấy chính là căn bản để khuyên người, há nên
lẫn lộn thốt lời bài xích! Nếu bài xích sẽ trở thành tà kiến, tội cực nặng!
Phàm quán tưởng hay trì danh đều gọi là “làm
Phật”.
3)
Lời ấy của Liên Trì đại sư dành cho kẻ chuyên chí quán tưởng. Ông đem cái tâm suy
tưởng tán loạn của ông để so đo, nên trở thành
lời lẽ chẳng biết thân phận! Phàm phu tâm như khỉ - vượn, chẳng thể định được
trong khoảnh khắc nào, há có thể tưởng tướng nào sẽ thấy được tướng ấy ư? Nếu
thâm tâm quán tưởng, quán cái này lại thấy cái kia, tức là không tương ứng. Vì
thế gọi là tà, là chẳng tương ứng! Ông lại cho là ma thì là đã sai quá rồi! Nhưng
nếu chẳng tương ứng mà chẳng nhận biết thì lâu ngày chắc sẽ có ma sự!
4)
Ông thật sự là một gã hồ đồ chẳng biết trời cao đất dầy nên mới dám dẫn chuyện
Thiện Đạo đại sư xả thân để làm tiền lệ. Ngài Thiện Đạo niệm Phật miệng tỏa
quang minh, chính là bậc thánh nhân đại thần thông. Lâm chung Ngài trèo lên cây
liễu nói kệ, nhảy xuống bèn đứng qua đời, ông ngỡ là Ngài từ trên cây té xuống
chết! Ông đúng là tội lỗi, mắt quáng mà chuyên thích nói lời lẽ mù quáng. Ông
muốn xả thân sẽ thành con quỷ chết oan, mong sanh Tây Phương thì có mộng cũng
chẳng mơ được đâu! Trong những truyện ký về Thiện Đạo đại sư, đôi khi có những
chỗ lời văn chưa thể hiện rõ ý nghĩa mầu nhiệm này cho nên ông tưởng là Ngài xả
thân mà chết!
Ông từng thấy chuyện của Châu Tiến
Sĩ trong Kim Cang Kinh Cảm Ứng[11]
hay chưa? [Ông Châu] nghe bốn câu kệ của kinh Kim Cang sanh lòng hoan hỷ; chẳng
lâu sau mộng thấy theo năm kẻ [tội nhân] nọ ngồi xe đến một nhà. Năm người đều
uống canh, ông ta muốn uống, nhưng người dẫn ông ta đi (tức gã quỷ sứ áp giải tội
nhân) không cho uống, liền tỉnh giấc. Trong tâm hết sức lạ lùng, tìm đến nhà ấy,
họ nói có sáu con chó vừa mới sanh, một con chết ngay. Do vậy, ông ta chuyên
trì kinh Kim Cang, đến năm tám mươi chín tuổi trèo lên cây nói kệ, rồi buông
mình xuống, đứng yên qua đời. Người ấy trong đời này [đáng lẽ] biến thành chó, nhưng
do mấy chục năm trì kinh Kim Cang nên vẫn có thể từ trên cao nhảy xuống qua đời
như thế; huống hồ Thiện Đạo đại sư là bậc đại thánh nhân thần thông mầu nhiệm khôn
lường ư? Ông tưởng là xả thân, đáng thương lắm thay! Điều này cũng là cùng một
tri kiến với kẻ ngu, thấy Phật nhập Niết Bàn bèn bảo là “Phật chết”.
5)
Ông vọng tưởng tột cùng, so với sóng cuộn trong biển cả còn sôi sục hơn rất nhiều.
Chỉ nên tự lượng thân phận của chính mình để hành, nào sợ kẻ khác chê cười! Nếu
ông trở về nhà ở Thành Đô, nên đem tâm tướng ấy khuyên cha ông là Hoàn Quân Ông
hãy thong dong đôi chút để đôi bên đều được thành tựu. Nếu ông tinh thành niệm
Phật thì quyến thuộc cũng sẽ có dịp chuyển biến. Ông nội ông là Hưng Toàn Ông
còn để lại gia nghiệp, mà ông vẫn nói “khổ chẳng thể chịu đựng được!” Nếu ông vốn
là gã nghèo cùng, chắc sẽ chẳng muốn làm người nữa ư? Nay ông cực lực muốn chống
đỡ thể diện xuông, chính mình lại hoàn toàn khởi lên những vọng tưởng chẳng dựa
theo đạo lý ấy. Vọng tưởng ấy có thể làm rạng mày nở mặt tổ tông, trọn hết phận
con, báo đáp bà nội kế là Sài lão thái phu nhân, trọn hết trách nhiệm của một
tín đồ Phật giáo hay không? Đã biết cảm kích ơn người dẫn dắt nhập đạo, sao
chính mình lại làm những chuyện phụ bạc ơn của khắp mọi người thân lẫn ân Phật?
Từ nay về sau, ông chỉ nên đọc Văn Sao, đừng gởi thư tới nữa. Tôi quả thật chẳng
có tinh thần để thù tiếp những lời lẽ ma mị của ông!
516. Thư trả lời cư sĩ Ôn Quang Hy (thư thứ mười một)
Nhận
được thư và khoản tiền gởi đến. Đọc thư ông, biết ông cảnh ngộ khốn cùng, biết
ông chẳng giữ yên bổn phận. Ông tiền bạc không dư dả, há nên vẫn ương ngạnh giữ
thể diện đối với Quang? Quân tử hành xử theo đúng địa vị, hễ nghèo cùng thì chẳng
lấy tiền tài làm lễ; huống hồ đối với vị thầy chính mình đã coi như cha như mẹ
ư? Do vậy biết ông một mực luôn mang thứ tình kiến này: “Do không chống giữ được
thể diện, bèn muốn tìm cái chết!” Ông chẳng biết đã mang thứ tâm hạnh ấy, hễ chết
rồi thì so với việc bị mất thể diện sẽ còn khó chịu đựng hơn
vô lượng vô biên hằng hà sa lần!
Trước đây, ông từng nói Trùng
Khánh Phật Học Xã khá chuộng Mật Tông, ông muốn lập một cơ sở khác chuyên tu Tịnh
Độ. Đấy cũng là lời nói chẳng biết giữ yên bổn phận! Phàm tạo dựng cơ sở, điều
thứ nhất là phải được mọi người tin phục. Điều thứ hai là phải có tiền để ứng
ra. Tuy quyên mộ mọi người nhưng chính mình vẫn phải bỏ ra trước. Trong hai điều
này, ông chẳng có được một điều nào! Há nên khởi lên những thứ suy tính vượt phận
ấy ư? Trong nhà đã có cơm ăn, chẳng cần phải mong phát tài nứt đố đổ vách nữa!
Đối với hai giới quân sự và chánh khách hiện thời, nếu ông chẳng quan tâm đến đầu
mặt[12]
trong đời sau thì cứ gia nhập cũng chẳng sao. Nếu vẫn lo đến đầu mặt đời sau
thì đừng gia nhập sẽ là kế sách tối thượng thượng. Hãy nên bảo cặn kẽ với Đức
Chánh Kê thị[13]
buông xuống tập khí phú quý, kiêu căng, xa xỉ, hãy ăn mặc, trang sức như phụ nữ
nông dân chốn làng quê, cùng với bà ta trở về gia đình ở Thành Đô, nghiêm túc
giữ gìn sản nghiệp của tổ phụ. Đấy sẽ là biện pháp rốt ráo ổn thỏa, thích đáng
nhất. Những điều khác trước đây tôi đã đều nói qua, nên không cần phải nhắc lại
nữa!
517. Thư trả lời cư sĩ Ôn Quang Hy (thư thứ mười hai)
Đọc
thư ông, khôn ngăn hoan hỷ! Bọn họ trong bảy ngày liền có thể vãng sanh, liền
có thể thành Phật thì người trong khắp cả thế gian đều thành Phật. Chúng ta là
nghiệp lực phàm phu, ắt sẽ có vô lượng vô biên Phật độ thoát, may mắn chi hơn?
Nhưng chúng ta hãy giữ bổn phận ta, nhường cho bọn họ thành Phật độ thoát chúng
ta, há chẳng phải là càng ổn thỏa hơn ư? Như bọn họ còn có nguy hiểm, chứ trong
pháp môn này của ta trọn chẳng có nguy hiểm! Nếu nghe bọn họ nói thì thật bùi
tai, khôn ngăn nhiệt tâm dấy lên. Nếu thành thì may mắn, nhưng bại sẽ thành quyến
thuộc ma, thật khiến cho người ta nguội lạnh cõi lòng! Thần thông của gã X… đã
hoàn toàn thất bại. Ngôn luận của gã X… và gã Y… đều đúng là vu báng, miệt thị thánh
hiền. Bọn họ đã thành Phật, sao lại có hiện tượng ấy? Do vậy biết: Bọn họ hoàn
toàn chẳng khác gì lũ trẻ đầu đường xó chợ, nói chi có Phật tâm cho được? Những
điều khác chẳng cần phải nhắc đến nữa!
518. Thư trả lời cư sĩ Ôn Kê Đức Chánh
Chồng
bà là Đức Trung Ôn Quang Hy nói: “Bà phát tâm cúng dường tôi”, tôi sẽ dùng món
tiền ấy để in sách lợi người. Bà may mắn được gả vào gia đình giàu có, trọn chẳng
biết đến những nỗi khổ trong đời người, lại không có ai khuyên dạy, khai thị nên
sống uổng một đời. Như vậy thì sau này làm sao thoát khỏi luân hồi lục đạo cho được?
May chồng bà là Quang Hy hơi biết Phật pháp. Tuy bà chưa thể tin nhận ngay,
nhưng đã dần dần được tiêm nhiễm, lâu dần sẽ có ngày thiện căn phát hiện. Bà nằm
mộng thấy cảnh tượng kỳ quái liền sanh lòng sợ hãi, cầu xin tôi nói cách cứu vớt,
che chở. Bà chẳng biết: So với tướng trạng luân hồi trong tam đồ lục đạo, tướng
khổ ấy nhỏ nhoi chẳng thể nào thí dụ được! Sự khổ trong luân hồi giống như đại
địa, còn nỗi khổ [bà cảm nhận trong giấc mộng] ấy giống như vi trần. Chúng sanh
tâm lượng hẹp hòi nên chỉ thấy được chuyện nhỏ nhoi, chẳng thể thấy được chuyện
lớn lao. Bà sanh lòng sợ hãi nơi sự khổ nhỏ nhoi, cầu tôi nói pháp cứu khổ, sao
lại trọn chẳng để ý tới nỗi khổ sanh tử lớn lao vậy?
Nay tôi nói cho bà một pháp để
cứu chung đại khổ lẫn tiểu khổ. Nếu bà có thể y theo lời tôi nói, chắc chắn
trong hiện tại bà sẽ không gặp nỗi kinh sợ nhỏ nhoi ấy, tương lai nhất định thường
an lạc. Pháp ấy ra sao? Chính là chí thành khẩn thiết niệm Phật và niệm danh hiệu
Quán Âm Bồ Tát. Pháp tắc niệm như thế nào nên hỏi Quang Hy. Chớ nên chỉ biết an
vui, nhàn tản, bỏ uổng thời gian. Lại còn nghiêm túc trọn hết bổn phận của
chính mình, nghĩa là “hiếu thuận với cha mẹ ruột, với bố mẹ chồng, hòa thuận với
anh em trai, chị em gái, chị em dâu, vợ chồng kính trọng nhau như khách, khuyên
nhau làm lành, nhắc nhở nhau sửa lỗi, khéo dạy dỗ con cái, đối đãi khoan dung với
kẻ dưới”. Làm được như thế chính là hiền nhân! Lại còn kiêng giết, bảo vệ sanh
mạng, niệm danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương; dẫu cho nỗi sợ hãi lớn lao là
sanh tử cũng sẽ hoàn toàn tiêu diệt, huống hồ những nỗi sợ hãi nhỏ nhặt trong
giấc ngủ mà chẳng lập tức ngưng mất ư?
Tôi là phàm phu, nhưng lời này
của tôi có thể khiến cho hết thảy mọi người siêu phàm nhập thánh. Bà hãy nên
chí tâm tin nhận sẽ có lợi ích lớn lao. Sách Khuê Phạm đã hết, đợi khi nào có
người sang Thượng Hải sẽ bảo họ thỉnh Nữ Tử Nhị Thập Tứ Hiếu (hai mươi bốn tấm
gương hiếu nữ), Nữ Tứ Thư[14],
Liệt Nữ Truyện[15]
v.v… gởi tới để tặng cho những phụ nữ thông hiểu văn lý, biết luân thường. Lại
còn có Đạt Sanh Thiên cũng sẽ gởi tới một hai gói. Đối với những chuyện trước
khi sanh, trong khi sanh và sau khi sanh, sách này đều nói tường tận. Trong lời
Tựa của Quang lại còn giảng rõ: “Trong
khi sanh nở, niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát nhất định sẽ không bị sản nạn mà
mẹ lẫn con đều được vẹn toàn, gieo đại thiện căn”. Bà hãy nên thường đem
chuyện niệm Phật, niệm Quán Thế Âm để giáo hóa hàng phụ nữ quen biết ngõ hầu ai
nấy xoay vần khuyên chỉ lẫn nhau thì sẽ có lợi ích lớn lao cho bà lẫn những người
quen biết. Bà chớ nên gìn giữ mãi thói kiêu ngạo, lười nhác, thích làm chuyện
vô ích như cờ bạc, la cà ngoạn cảnh, sẽ chẳng thể nào không đạt được lợi ích lớn
lao. Đối với bệnh của Quân Tốn và hai cô con gái Quân Tĩnh, Cẩm Du cũng có thể
niệm Quán Thế Âm Bồ Tát để trị. Quán Thế Âm Bồ Tát không ai cầu chẳng được ứng
nghiệm, chỉ sợ con người chẳng chí tâm mà thôi! Xin hai vợ chồng bà khéo thấu
hiểu lòng tôi thì may mắn lắm thay!
519. Thư trả lời cư sĩ Giang Dịch Viên (thư thứ nhất)
Nhận
được thư, biết các hạ thường viết nhiều bài đề xướng sự lợi ích Tịnh Độ, vui mừng,
an ủi tột bậc. Sẽ gởi cho Thượng Hải Tịnh Nghiệp Xã để họ đăng tải trong nguyệt
san, ngõ hầu độc giả đều cùng sanh lòng tin. Ông nói khí lực, thể lực hết sức
suy yếu, tợ hồ có lẽ nên chuyển lòng đau buồn thương xót thành niệm Phật cho mẹ
để người mất lẫn kẻ còn đều được lợi ích lớn lao, cần gì cứ phải khăng khăng giữ
lòng buồn đau, tiều tụy mới là hiếu!
Ngày Hai Mươi Lăm tháng Ba,
Quang đến chùa Thái Bình ở Thượng Hải. Vào ngày Hai Mươi Sáu thì khoản tiền hai
trăm đồng từ Nam Thông chuyển tới. Thoạt đầu do bận bịu đến nỗi quên báo cho
Thư Cục, sau đấy bảo họ gởi chừng đó sách, chẳng biết họ đã gởi hay chưa? Nay lại
từ Phổ Đà gởi tới cho ông một gói nữa, xin hãy xem qua. Đợi khi sách được in ra
vào lần thứ hai, lần thứ ba, sẽ gởi thêm nữa. Một trăm đồng sẽ thỉnh được ba
trăm bộ; dẫu các hạ không gởi tiền, Quang cũng cần phải gởi ngần ấy bộ để mong
ai nấy đều biết đến ân đức từ bi của Đại Sĩ. Hiện thời đã có người đảm nhiệm in
đến bảy vạn bộ. Do năm ngoái có chiến tranh, chưa đưa giấy ra khỏi núi được; năm
nay lại bị hạn hán đến nỗi lần khân tới tháng Tư.
Phật Quang Xã được các hạ đề
xướng nào có thiếu sót gì mà cần Quang phải góp lời. Người tu Tịnh nghiệp chớ
nên dính vào chút điểm xảo thuật nào. Nếu vẫn thích những chuyện kỳ lạ, không
ưa chuyện bình thường, ắt sẽ biến khéo thành vụng. Do điều này, người thông
Tông thông Giáo thường chẳng bằng ngu phu ngu phụ thật thà niệm Phật lại được
ích lợi thật sự. Nếu chịu giữ nề nếp bình thường, đạm bạc, chất phác, thật thà
thì sanh về Cực Lạc sẽ là điều có thể dự đoán chắc chắn được! Nếu không, chẳng
sanh về Cực Lạc cũng là điều có thể đoán chắc được! Xin hãy thiết thực khuyên
xã hữu tin tưởng như thế, hành như thế thì lợi ích lớn lao thay!
520. Thư trả lời cư sĩ Giang Dịch Viên (thư thứ hai)
Chưa
trả lời thư đã lâu, thiếu sót quá! Trước đây tôi đã nhận được tờ đặc san kỷ niệm
Phật Quang Xã tròn một tuổi được in bằng ronéo, thấy in bài viết của Châu Mạnh
Do ca ngợi Quang thật đáng khiến cho người ta hổ thẹn muốn chết. Mạnh Do vô tri
làm càn, sao các hạ lại cho đăng tải bài ấy, khiến tội Quang sâu thêm! Xin từ
nay về sau, hễ bài viết nào dính dấp thói ấy hãy đều loại bỏ để người đọc khỏi
bàn ra tán vào!
Nay nhận được thư và khoản tiền
của ông Ngô Điệp Khanh và tờ Phật Quang Xã San. Ngô thái phu nhân phước lẫn thọ
đều vẹn toàn, điều thiếu sót là chẳng biết tới pháp môn Tịnh Độ. Nay con của cụ
là Điệp Khanh thành tâm cầu siêu, ắt cụ sẽ nương theo Phật từ lực để được vãng
sanh. Với món tiền hai trăm đồng ấy, tôi sẽ dùng một trăm để cử hành Phật thất,
thỉnh mười sáu vị Tăng niệm Phật. Hiện thời khí trời nóng bức phi thường, Quang
tính biếu riêng cho mỗi vị một đồng, tổng cộng là mười sáu đồng. Tám mươi bốn đồng
còn lại thì đợi tới khi sắp chữ Văn Sao bản mới và Thọ Khang Bảo Giám (sách
này chính là cuốn Bất Khả Lục được giảo chánh, sửa đổi, tăng thêm bài, tính in
ra mấy vạn cuốn để cứu vớt những kẻ thanh niên trước khi họ bị bệnh) xong, năm sau khi in ra sẽ gởi sách vừa đúng với số tiền
ấy đến nhà họ Ngô để mong kết duyên.
Quán Âm [Bổn Tích Cảm Ứng] Tụng
in lần thứ hai vừa được mười mấy hôm thì trong ngày mồng Hai tháng Bảy, toàn thể
công nhân bãi công! Lần này do họ đòi hỏi phi lý, chắc Trung Hoa Thư Cục khó thể
đáp ứng được, sợ là trong nhất thời, chẳng thể giải quyết xong! Bởi vậy, dù in
hay sắp chữ đều phải chậm trễ! Xã San (tờ báo của Phật Quang Xã) rất hay, nhưng
chữ quá nhỏ, mắt già rất khó đọc! Giấy dày thì bưu phí sẽ đắt thêm chừng đó nữa!
Thư gởi cho ông Phùng Bất Cửu,
Quang không có bản nháp, nay [lá thư ấy] đã được đăng tải trên Xã San, Quang sẽ
cho chép lại để đưa vào Văn Sao[16].
Những điều khác chẳng có quan hệ lớn lao gì, chỉ có một đoạn nói “nhưng tiên sinh [Giang] Thận Tu tạo ra
thiên địa nhật nguyệt chẳng thể vận hành, [nhờ] được khí Âm của đứa tớ gái mới
vận hành” là rất có quan hệ. Đưa lá thư ấy vào Văn Sao cũng phá trừ được tà
kiến, khiến cho [người đọc] biết được chánh pháp. Nhưng trong lá thư ấy, có nhiều
chỗ bị sao lục thiếu sót câu văn; những đoạn khác đều chẳng quan trọng khẩn yếu
cho lắm, chỉ có đoạn thứ hai “một Âm một
Dương gọi là Đạo”, nơi dòng thứ sáu ở phía trên đã chép lẫn lộn “Thành tức Minh Đức, Minh tức Minh Minh Đức
chi Minh thành minh”[17],
trong mười ba chữ ấy cũng có chữ sai, nhưng không có quan hệ khẩn yếu lớn lao. Đọc
sơ qua những bài khác thì thấy không bị sai ngoa nhiều lắm, chỉ có lá thư này bị
sai khá nhiều.
Quang mục lực lẫn tâm lực đều
thiếu, nhưng bận bịu quá sức, nên chẳng thể ra sức viết lách cho Phật Quang Xã
được, thật thiếu sót! Các hạ đã cực lực đề xướng nên mọi người hiền đều nhóm tới,
quả thật là một chuyện vui lớn lao trong đời người, mà cũng là một niềm đại hạnh
phúc cho quý địa. Biên nhận [mở Phật thất] niệm Phật cho nhà ông Ngô gởi kèm
theo thư, xin hãy báo với ông ta về chuyện sử dụng một trăm đồng còn lại. Thầy
Chân Đạt tính giúp một trăm đồng để thỉnh kinh điển cho Phật Quang Xã, sai
Quang liệt kê một danh sách những kinh sách phổ biến thường được đọc nhiều, đợi
tới cuối tháng lên Thượng Hải sẽ thỉnh rồi gởi tới. Đừng lo! Trong năm sau, Quang
in Tăng Quảng Văn Sao bản mới và Thọ Khang Bảo Giám bản tăng quảng xong, cũng sẽ
gởi sang Phật Quang Xã chừng đó cuốn để kết tịnh duyên. Các hạ và bạn bè viết lời
khen ngợi Bất Huệ tức là đã mắc tội “đem phàm lạm thánh”. Xin từ nay về sau vàn
muôn phần đừng dùng cách ấy nữa để đôi bên đều được thoải mái.
521. Thư trả lời cư sĩ Giang Dịch Viên (thư thứ ba)
Nhận
được thư khôn ngăn cảm thán. Lệnh sư Sắc Am vì sanh kế chưa thể sốt sắng tu trì
pháp môn Tịnh Độ, nhưng các hạ đã đem lòng chí thành cầu siêu cho cụ, ắt cụ sẽ
được nương theo Phật từ lực tiếp dẫn vãng sanh. Do thấy Đại Sĩ Tụng (tức Quán
Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng) bị chậm trễ đã lâu, trong mồng Một tháng
này Quang liền xuống núi. Mồng Ba tới Thượng Hải, tiếp xúc Thư Cục. Mồng Bốn đến
Ninh Ba, thương lượng chuyện xây cất đại điện chùa Pháp Vân (năm sau mới
xây cất). Mồng Bảy về Thượng Hải, thư của lệnh
điệt[18]
Tri Nguyên và khoản tiền gởi tới đều nhận được rồi.
Chùa Thái Bình hiện đang có Phật
Thất, chẳng thể cùng tiến hành được. Do vậy, đến Tịnh Nghiệp Xã thương lượng với
ông Quan Quýnh Chi; ông ta rất hoan hỷ, quyết định sẽ khởi thất từ hôm mồng Mười.
Ở chỗ ông ta, Tăng sĩ niệm Phật chỉ có mấy vị, nhưng cư sĩ rất đông. Quang cho
rằng cư sĩ đến [tham dự], ắt cần phải cung cấp cơm nước, sợ đông người quá chắc
họ phải bù thêm tiền. Ông ta nói: “Bù đắp chút ít cũng đâu có sao! Nhờ vào đấy
để mọi người gieo thiện căn”. May mắn chi bằng! Thí Tỉnh Chi, Hoàng Hàm Chi
v.v… lúc ban ngày bận việc, ban đêm khi nào được rảnh rỗi cũng đến niệm. Họ nhờ
Quang khai thị hôm mồng Mười[19].
Phật Thất lần này so ra có ích hơn việc chỉ thỉnh mười mấy vị Tăng niệm Phật nhiều
lắm. Đây cũng là do lòng Thành của các hạ cảm thành và cũng do túc nhân của lệnh
sư mà có.
Thầy Chân Đạt đã thỉnh cho Phật
Quang Xã một trăm lẻ bảy đồng kinh sách, đợi khi có người thuận dịp trở về Vụ
Nguyên sẽ nhờ họ mang đến. Đừng lo! Tôi đã nhận được đầy đủ sách của các hạ đã
từ Phổ Đà chuyển đến vào hôm mồng Tám. Không lâu nữa Quang sẽ trở về Phổ Đà, đợi
tháng Ba hay tháng Tư năm sau sẽ lại sang Thượng Hải để lo liệu các khoản chi
phí in các bộ Đại Sĩ Tụng v.v…
522. Thư trả lời cư sĩ Giang Dịch Viên (thư thứ tư)
Thư
trả lời lần trước, chắc [các hạ] đã nhận được rồi! Năm giờ chiều hôm qua tôi đến
Tịnh Nghiệp Xã, hỏi Quan Quýnh Chi có mấy vị Tăng nhân [tham dự Phật Thất], ông
ta cho biết có chín vị. Cư sĩ nam nữ hơn một trăm người. Chiều hôm qua do bọn họ
thông báo, người đến tham dự càng nhiều hơn nữa. Quang trình bày đại lược duyên
do và lợi ích của việc niệm Phật trong khoảng một tiếng năm phút. Ngày hôm nay,
bảo đem những kinh sách đã thỉnh từ trước giao sang chùa Thái Bình, tổng cộng
là hai mươi lăm gói nhỏ, phía ngoài dùng bao lác[20]
bọc thành bốn bọc lớn. Phiếu giao sách tổng cộng là bốn trang được gởi kèm theo
thư để tiện kiểm nhận.
Thầy
Chân Đạt xin các hạ hãy cho người viết tên của từng loại kinh sách đã thỉnh vào
phần Thư Căn như An Sĩ Toàn Thư v.v… thì sẽ chẳng đến nỗi tạp loạn khó tìm.
Trong ấy có [những kinh sách số lượng khác biệt] một, hai, ba, bốn, năm bộ. Nếu
đối với những sách dư ra mà dùng để kết duyên
thì không cần phải phân biệt, chứ nếu đều lưu giữ trong Phật Quang Xã thì cần
phải chép rõ mỗi bộ giống như thế để chẳng đến nỗi bộ này bộ kia so le không đều
đến nỗi khó coi. Số sách ấy đợi có người tiện dịp trở về Vụ Nguyên sẽ cậy họ
đem theo. Nay gởi trước phiếu giao sách kèm theo thư để khi sách gởi đến sẽ có cái
để dựa theo đó mà kiểm nhận.
523. Thư trả lời cư sĩ Giang Dịch Viên (thư thứ năm)
Nhận
được thư hôm trước, biết lệnh từ niệm Phật vãng sanh, khôn ngăn mừng cho lệnh từ,
xót cho các hạ. Tuy nhiên, lệnh từ đã siêu phàm nhập thánh, cố nhiên chẳng cần
phải bi thương vô ích giống như kẻ thế tục. Các hạ đề xướng Tịnh Độ, thoạt đầu lệnh
phu nhân vãng sanh, nay thì lệnh từ vãng sanh. Đủ thấy “hết thảy chúng sanh đều
có Phật tánh; đạo do người hoằng, hễ đề xướng ắt có người phụ họa”. Nhưng do Quang
bận bịu đến cùng cực, chẳng thể soạn thuật ngay, cảm thấy thiếu sót đến cùng cực.
Tôi sửa chữa đôi chút cuốn Tam Tự Kính[21].
Hôm trước Tuyết Tinh đến đây cầm đi, ông ta muốn sao lục, liền thay mặt gởi đi.
Truyện của lệnh từ thật quá sơ sài, nay tôi đem nguyên cảo gởi trả lại kèm theo
thư, xin hãy thêm thắt, sửa đổi, sao cho truyện được hoàn bị. Lại nên bảo Hữu Bằng[22]
sao ra mấy bản, gởi cho các tờ báo Phật giáo. Do gần đây Quang bận bịu quá nhiều
việc, chẳng thể sửa chữa cặn kẽ được!
Tám gói sách đã gởi trước đây,
ông đều nhận được rồi, tôi yên tâm lắm. Quang định sẽ diệt tung tích ẩn náu lâu
dài vào cuối tháng Chín do chuyện thù tiếp ngày một nhiều, tinh thần ngày một
giảm. Nếu chẳng ẩn dật lâu dài, chắc sẽ quanh năm suốt tháng bận bịu vì người
khác, chẳng có lúc nào ngơi! Tất cả những bản gốc của các sách được in gần đây
đều giao hết cho Cư Sĩ Lâm, họ tính mở Phật Học Thư Cục để lưu thông rộng rãi.
Chẳng qua họ mang tánh chất doanh nghiệp, so với [Hoằng Hóa Xã của] Quang chỉ
tính giá vốn thì giá sách [của Phật Học Thư Cục] sẽ đắt gần gấp rưỡi!
524. Thư trả lời cư sĩ Giang Dịch Viên (thư thứ sáu)
Pháp
danh của bảy người [xin quy y] được viết trong một tờ giấy khác. Thời cuộc nguy
hiểm, hãy nên bảo ai nấy đều ăn chay, niệm Phật và niệm Quán Âm để cầu Phật, Bồ
Tát gia bị khiến cho chiến sự sớm chấm dứt, ngõ hầu nước nhà đều được yên vui.
Điều quan trọng nhất là phải biết nhân, hiểu quả. Nước ta loạn lạc đến cùng cực
như thế này đều là do người đời trước cao giọng đề xướng học thuyết bài bác
nhân quả, coi “hễ có làm gì để làm lành đấy là làm ác” mà ươm thành. Nếu vẫn chẳng
chịu nói điều này mà muốn cho thiên hạ thái bình thì sợ rằng sẽ chẳng có ngày ấy
đâu!
525. Thư trả lời cư sĩ Giang Dịch Viên (thư thứ bảy)
Đã
lâu chưa gởi thư. Tháng trước lệnh điệt Thủ Tiên đã gởi Tục Thi[23]
đến. Quang do bận bịu cùng cực, phải đến hơn nửa tháng mới xem trọn hết đầu
đuôi. Tôi cảm thấy [Ấn Quang Văn Sao] Tục Biên so ra còn quan hệ lớn lao hơn [Ấn
Quang Văn Sao] Chánh Biên, do vậy gởi đi, chắc anh ta đã gởi thư báo tin rồi.
Trước tác của các hạ có ích rộng lớn, thi văn đáng để dẫn dắt kẻ không có lòng
tin sanh khởi lòng tin. Xin hãy giữ gìn sức khỏe để tu trì Tịnh nghiệp.
526. Thư trả lời cư sĩ Trần Huệ Thành
Nhận
được thư đầy đủ. Trong khoảng Xuân - Thu năm sau, Quang vẫn còn có nhiều chuyện
phải lo liệu, chẳng có lúc nào rảnh rỗi để đi tới một chỗ nào cả! Chỉ có vào
mùa Đông là muốn sang chỗ ấm áp để tránh rét. Sau đấy sẽ hành tung bất định, đến
đâu cũng là nhà. Chưa đầy dăm ba tháng sau, lại qua chỗ khác để khỏi phải thù
tiếp thư từ đến nỗi tự hỏng chuyện [liễu sanh tử của chính mình]. Trong bài kệ
niệm Phật, có [những đoạn] văn nghĩa của phần trên và phần dưới chẳng liên quan
mật thiết, hoặc âm vận chẳng phù hợp, hoặc có chỗ dùng chữ chưa khéo, tôi đều sửa
đổi đôi chút. Bài kệ cuối cùng và bài kệ theo lối mỗi câu năm chữ tiếp ngay sau
đó, ngữ ý quá ngạo mạn nên tôi sửa đổi. Phàm làm người chớ nên tự cao tự đại; tự
đại thì người khác chẳng trọng, chớ nên không biết [điều này]!
Long Thư Tịnh Độ Văn chưa gởi vì [số sách tôi có] thì đã gởi đi hết không còn. Tác phẩm này đắt lắm, mỗi cuốn là ba cắc. Vì thế không đủ sức để in nhiều. Những vị như Vương Châu Thị v.v… đã muốn quy y thì nay đặt pháp danh cho họ. Vương Châu Thị pháp danh là Huệ Thục, Mã Viên Thị pháp danh là Huệ Ý, Viên Tam Thư pháp danh là Huệ Trinh. Xin hãy bảo bọn họ đều y theo Văn Sao, Gia Ngôn Lục để tự hành, lại còn dạy người thì sẽ chẳng thẹn là đệ tử đức Phật. Tôi bận bịu đa đoan chẳng rảnh rỗi để nói cặn kẽ được! (mồng Mười tháng Chạp, viết dưới đèn)
527. Thư trả lời cư sĩ Vương Trí Trác
Chúng
sanh trong đời Mạt muốn liễu sanh tử mà chẳng cậy vào Phật lực quyết khó được
như nguyện. Các pháp môn trong các tông đều nên nghiên cứu, nhưng kẻ trí thức nông
cạn, ít ỏi, việc đời bận bịu làm sao lo trọn được? Muốn học các tông khác, ắt
phải đã thông suốt hoàn toàn Tịnh Độ, trọn chẳng có nghi hoặc gì thì mới được. Chứ
nếu chưa thông Tịnh Độ, vừa học các tông khác, hễ hơi có sở đắc sẽ gác bỏ Tịnh
Độ ra ngoài. [Như vậy thì] lợi ích đạt được trong tương lai chỉ có thể làm cái
nhân đắc độ trong vị lai, chứ quyết chẳng thể thoát sanh tử ngay trong đời này.
Đối với Tịnh Độ ông còn chưa biết đường lối, sao lại muốn học Duy Thức? Người học
Phật hiện thời quá nửa đều thuộc hạng ham cao chuộng xa, muốn thành bậc thông
gia trước mặt đại chúng, chứ trọn chẳng học Phật để liễu sanh tử!
Ông muốn học Phật, ắt phải giữ
vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các
điều ác, vâng giữ các điều lành, thật vì sanh tử, phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện
sâu, trì danh hiệu Phật. Người làm được như thế sẽ là đệ tử thật sự của đức Phật.
Nếu hành vi trái nghịch với Phật, dẫu có tu chuyên ròng cũng khó thể cảm ứng được
Phật bởi tâm hạnh đã trái nghịch với Phật. Nay đặt pháp danh cho ông là Trí
Trác, nghĩa là dùng trí huệ để tự lập vững vàng thì sẽ tự được lợi ích chân thật.
Để dạy dỗ trẻ nhỏ, hãy thường lấy Âm Chất Văn, Cảm Ứng Thiên làm cửa ngõ dẫn nhập
đức hạnh, để cho trẻ ngay từ thơ ấu đã biết đạo làm người và lý nhân quả thì
mai sau quyết định chẳng dám làm chuyện vượt lý phạm phận. Nếu không, chúng nó
sẽ bị tà kiến dụ dỗ, chắc sẽ đến nỗi làm những chuyện giống như những kẻ phế hiếu,
phế luân thường, vứt bỏ lòng thẹn như trong cõi đời hiện
nay vì trong hiện tại có quá nhiều những thứ tà thuyết như thế ấy! Nay gởi
cho ông một gói sách, xin hãy đọc kỹ. Quang bận bịu đến tột cùng, đừng gởi thư
đến nữa!
528. Thư trả lời cư sĩ Hà Huệ Chiêu (thư thứ nhất)
Nhận
được thư, khôn ngăn cảm thán. Huệ Kính chí tâm hoằng pháp, đột nhiên qua đời. Sợ
rằng vẫn khó thể thật sự vãng sanh Tây Phương. Sanh tử nguy hiểm thật đáng kinh
sợ, phải đề phòng sẵn. Tuy do người khác chôn cạnh mộ mẹ ông ta đến nỗi có chuyện
xung phạm, nhưng nên biết rằng: Chuyện xung phạm ấy cũng là do túc nghiệp chiêu
cảm. Nếu có đức lớn, chắc sẽ có chuyện bổ trợ bất ngờ [để hóa giải sự xung phạm
ấy]. Chuyện này chỉ nên quy cho số mạng, đừng đổ lỗi cho người ta. Nếu đổ lỗi
cho người ta, chắc đôi bên sẽ càng kết thêm oán nghiệp! Xin hãy nói cặn kẽ cùng
gia đình ông ấy. Ai nấy đều làm chủ đất của chính mình, chẳng thể làm chủ đất của
người ta được. Nhà mình chôn trong đất của mình, chớ nên chôn trong đất của người
khác. Đất của nhà người ta, há có thể ngăn người ta đừng chôn vào đấy ư? Đối với
kẻ biết đạo lý ấy, dẫu thật sự xung phạm cũng chẳng dám oán người. Huống chi
chưa thể phán quyết đích xác là do xung phạm mà chết ư? Do bởi lẽ này, quân tử
chẳng oán trời, hận người!
Ông nghe tiếng khánh trong trẻo
vang động trong không trung, ấy chính là [cảnh tượng được biến hiện] khi thanh
tĩnh đến cùng cực. Sau đấy, biết [tiếng khánh trong trẻo ấy] là do răng và lưỡi
va vào nhau, chứ trọn chẳng phải cảnh được biến hiện ở bên ngoài. Biết được điều
này thì mới chẳng đến nỗi sanh khởi ý tưởng hiếm lạ, huyền diệu rồi do đấy sẽ
khởi tâm kiêu căng, chẳng được lợi ích. Ông nói “có tiếng phát ra từ trong tai”,
nhưng các sách vở Tịnh Độ chẳng đề xướng điều này. Bởi lẽ, trong pháp môn Tịnh
Độ, điều cốt yếu là Tín - Nguyện - Hạnh; những cảnh giới ấy vốn do mỗi người dụng
công mà tự đạt được cảnh giới khác biệt, làm sao thiện tri thức có thể nêu rõ trước
được! Nếu nêu rõ thì sẽ được lợi ích ít ỏi, bị tổn hại lại nhiều! Còn như sách
Tự Tri Lục chuyên môn thuật bày những cảnh giới, nhưng thật ra những cảnh giới ấy
vẫn là những [cảnh giới biến hiện từ] suy tưởng thuộc về mặt Lý. Họ muốn dựa
vào đó để khoe khoang môn đình bèn đặc biệt trình bày như những cảnh giới chẳng
thể nghĩ bàn! Nếu Quang không ngăn cản, chắc rằng họ sẽ in ra nhiều vạn cuốn để
dẫn nhập người khác vào lối ma!
Công phu thanh tịnh của ông
tuy tốt đẹp, nhưng đối với căn cơ và Giáo vẫn còn thiếu từng trải nên mới nói lời
ấy. Nếu từng trải, dẫu có sở đắc lớn lao vẫn chẳng nghi cổ nhân giấu diếm! Lời
dạy của Giang Công Vọng chính là nói về pháp Phản Văn (xoay tánh Nghe lại để
nghe nơi tự tánh). Khéo áp dụng sẽ có ích; không khéo áp dụng sẽ trở thành một
môn chuyên cậy vào tự lực trong nhà Thiền. Phàm là người tu hành hãy nên giữ
chánh niệm. Ngoại trừ Phật hiệu ra, tất cả các niệm đều chẳng để nẩy sanh, đó gọi
là “nhất tâm”. Vì thế kinh Kim Cang dạy: “Phàm
những gì có tướng đều là hư vọng”.
Ông chỉ nhất tâm niệm Phật mà
thôi, há nên lầm lạc muốn vói cao pháp Nhĩ Căn Viên Thông của [Quán Thế Âm] Đại
Sĩ. Ông phải biết: Pháp Phản Văn của Đại Sĩ hoàn toàn chẳng phải là nghe âm
thanh mà là nghe nơi tánh Nghe! Vì thế nói: “Phản văn, văn tự tánh, tánh thành vô thượng
đạo” (xoay cái Nghe để nghe nơi tự tánh, tánh thành vô thượng đạo). Có âm
thanh hay không đều nghe được cả. Nếu theo như ông nói thì ắt phải có âm thanh
mới nghe được! Chúng ta niệm Phật, [lắng] nghe theo âm thanh niệm Phật ấy, cũng
là mang hơi hướng Phản Văn, đừng tự giữ lấy pháp Viên Thông mà hãy chuyên nhất
lấy vãng sanh làm điều mong mỏi của chính mình thì sẽ có ích, không bị tổn hại.
Nếu không, do hướng theo [sự xoay lại nghe nơi tánh Nghe], tâm bị chia chẻ bởi
thói phân biệt pháp môn cao - thấp thì vô lượng vô biên lợi ích chân thật sẽ bị
đoạn hết bởi thói “biết nhiều, bàn lắm” ấy.
Bốn bài thơ ông đã soạn, thanh
vận thanh tao, du dương, Quang vốn chẳng làm thơ nên không thể họa được! Hiện thời
đang bận bịu trọn chẳng được rảnh rỗi, nên muốn diệt tung tích gấp. Lại còn có
bộ Lịch Sử Cảm Ứng Thống Kỷ khá có quan hệ đối với thế đạo nhân tâm vẫn chưa sắp
chữ xong, chắc là suốt ngày lẫn đêm đều phải lo liệu. Hiện thời bản in theo cỡ
chữ Tam Hiệu Tự đã sắp đặt xong, in ra một vạn bộ; sau hôm Hai Mươi sẽ có thể in
ra sách, sẽ gởi tới mấy gói. Một vạn cuốn in trong lần hai đã được ấn hành. Lại
còn ấn bản với cỡ chữ Tứ Hiệu Tự in bằng giấy báo vừa mới sắp chữ được một nửa.
Nếu bản này sắp chữ xong, sẽ in một vạn bộ hoặc hai vạn bộ, rồi ra đi mãi mãi.
Ước chừng vào nửa sau tháng Chạp, tôi sẽ sang Hương Cảng để khỏi phải suốt ngày
bận bịu thù tiếp thư từ đến nỗi lỡ làng đại sự của chính mình!
529. Thư trả lời cư sĩ Hà Huệ Chiêu (thư thứ hai)
Nhận
được thư, biết ông túc căn sâu dầy, hạnh trong hiện tại khá thuần. Vì thế mới
có đủ mọi cảnh tướng thù thắng hiện ra. Nhưng người đời nay quá nửa là chuộng
thể diện, xây lầu gác trên không, có một phần hay nửa phần bèn nói có trăm ngàn
vạn phần! Như những cảnh giới trong cuốn sách của cư sĩ X… (tức cuốn Tự Tri Lục)
hoàn toàn do ngọn bút vẽ vời, chứ không phải do tâm địa tạo thành. Cố nhiên ông
không nói dối, nhưng tôi thật sợ ông có tập khí ấy thì lỗi chẳng nhỏ đâu! Đức Phật
xếp vọng ngữ vào năm giới căn bản, chính là để ngăn ngừa thói tệ này. Nếu thấy mà
nói chẳng thấy, chẳng thấy nhưng nói thấy thì thuộc vào loại vọng ngữ! Nếu xây
lầu gác trên không, bịa nói cảnh giới thù thắng, tức là phạm giới đại vọng ngữ.
Nếu chưa đắc bảo đã đắc, chưa chứng nói đã chứng, tội ấy còn nặng hơn giết - trộm
- dâm trăm ngàn vạn ức lần! Nếu kẻ ấy chẳng cực lực sám hối thì khi một hơi thở
ra không hít vào được nữa sẽ đọa trong địa ngục A Tỳ, bởi kẻ ấy hoại loạn Phật
pháp khiến cho chúng sanh lầm lạc, nghi ngờ! Ông phải rất thận trọng!
Cảnh thấy được một phân chẳng
được nói một phân mốt, cũng chớ nên nói chín ly chín. Nói quá cũng là bị tội lỗi,
mà nói giảm đi cũng không được! Vì sao vậy? Do tri thức chưa đắc Tha Tâm Đạo
Nhãn, chỉ có thể phán đoán theo lời kể. Thứ cảnh giới ấy nếu nói với tri thức để
cầu chứng minh tà - chánh, đúng - sai thì không phạm lỗi gì. Nếu chẳng nhằm cầu
chứng minh, chỉ muốn tự khoe khoang thì cũng chớ nên nói. Nếu nói với hết thảy
mọi người sẽ mắc tội lỗi. Trừ để cầu tri thức chứng minh ra, đều chớ nên nói! Hễ
nói ra thì sau này sẽ vĩnh viễn chẳng thể đạt được cảnh giới thù thắng ấy nữa
đâu! Đây là cái ải lớn nhất cho người tu hành, trong giáo pháp của tông Thiên
Thai đã nhắc đến nhiều lần. Trong thời gần đây, sở dĩ nhiều kẻ tu hành bị ma dựa
đều là do cái tâm vọng động, bộp chộp cầu cảnh giới thù thắng! Đừng nói cảnh ấy
là cảnh ma, dẫu là cảnh thù thắng mà hễ nẩy sanh những tâm như tham đắm, hoan hỷ
v.v… thì sẽ đều bị tổn hại, chẳng được lợi ích. Huống chi cảnh ấy còn chưa chắc
đích xác là cảnh thù thắng ư?
Nếu người ấy có hàm dưỡng, tâm
không vọng động, bộp chộp, không lòng tham đắm, thấy các cảnh giới mà hệt như
chẳng thấy; đã chẳng sanh hoan hỷ, tham đắm, lại chẳng sanh sợ hãi, kinh nghi,
đừng nói là cảnh thù thắng hiện ra sẽ có ích, dẫu cho cảnh ma hiện ra cũng vẫn
có ích. Vì sao vậy? Do chẳng bị ma chuyển nên có thể tiến hơn. Lời này chẳng
thường nói với người khác, do ông có những chuyện ấy nên cố nhiên tôi chẳng thể
không nói. Thoạt đầu ông lễ Phật, trông thấy hình tượng Đại Sĩ [hiện ra, tượng ấy]
không đích xác [là do Đại Sĩ biến hiện]! Bởi nếu đúng là thật thì sẽ chẳng vì
do ông nghĩ tượng ấy chẳng hợp với [những điều được mô tả trong] Quán Kinh bèn ẩn
mất; nhưng do đấy mà lòng tin của ông càng tha thiết thì cũng là nhân duyên tốt
đẹp! Tuy vậy, chớ nên thường muốn thấy hình tượng [của Đại Sĩ], chỉ nên chí
thành lễ bái mà thôi để khỏi phải lo nghĩ gì khác! Lúc ngủ thấy trước mắt có
ánh sáng trắng và khi lễ Phật thấy tượng Phật đứng lơ lửng trên hư không tuy thuộc
về thiện cảnh, chớ nên tham đắm! Từ nay đừng lấy đó làm điều mong mỏi thì [những
tướng ấy] sẽ chẳng hiện nữa!
Trộm xem căn tánh của ông, tợ
hồ trong đời trước đã từng tu tập Thiền Định nên mới nhiều lần thấy tướng ấy. Đời
Minh, ông Ngu Thuần Hy[24]
bế tử quan nơi chỗ ngài Cao Phong trên núi Thiên Mục, tịnh tu đã lâu, liền có
tài tiên tri. Có thể đoán trước trời âm u hay trong sáng, họa - phước của người
khác. Ông ta quy y với Liên Trì đại sư; đại sư nghe chuyện liền gởi thư tận lực
quở trách, bảo ông ta đã lọt lưới ma. Về sau ông ta không biết nữa! Cần biết rằng:
Người học đạo phải biết lẽ lớn lao. Nếu không, sẽ do được lợi ích nhỏ nhặt mà bị
tổn hại to lớn. Đừng nói những thứ cảnh giới ấy, ngay như thật sự đắc Ngũ Thông
cũng chẳng bận tâm đến thì mới hòng đắc Lậu Tận Thông! Nếu tham đắm, chắc sẽ khó
tấn tu, hoặc bị thoái đọa, chẳng thể không biết [điều này]!
Hai câu kinh văn như ông đã nhớ
trong giấc mộng vào điện Phật cố nhiên thuộc thiện cảnh. Hai câu ấy ngụ ý thật
rõ ràng: “Phản hư y giác lộ, quy chân ngộ
thường không” (quay lưng với sự hư huyễn, đi theo con đường giác. Theo về với
lẽ chân sẽ ngộ lẽ thường không), nghĩa là con người lầm tưởng các pháp thế gian
là thật, nên mê muội vào trong sanh tử. Nếu có thể quán ngược lại, [hướng theo]
bản thể của các pháp vốn không thì sẽ nương theo đường giác, thoát mê nhập ngộ,
quy Chân Đế, ngộ Chân Không Thật Tướng chân thường. Cảnh ma và cảnh thù thắng
được phân biệt ở chỗ nó có hợp với kinh giáo hay không? Nếu là thánh cảnh, cảnh
ấy sẽ làm cho tâm địa của người trông thấy liền được thanh tịnh, trọn không có
tâm vọng động, bộp chộp, chấp trước. Nếu là cảnh ma thì hễ trông thấy tâm liền
chẳng thanh tịnh, liền sanh lòng chấp trước, vọng động, bộp chộp v.v....
Hơn nữa, Phật quang tuy cực
sáng ngời, nhưng chẳng lóa mắt. Nếu ánh sáng chói mắt tức là không phải đức Phật
thật sự. Khi Phật hiện mà dùng lý “phàm
những gì có tướng đều là hư vọng” để khám nghiệm thì càng rõ rệt; nếu ma hiện
mà dùng lý ấy để khám nghiệm nó sẽ ẩn mất. Cách khám ấy là lò luyện lớn để nghiệm
chân - ngụy vậy. Ban đêm thấy ánh sáng trắng và những cảnh trong trắng trên hư
không v.v… đều là do tâm tịnh mà biến hiện, há nên coi đấy là pháp giới nhất tướng
tịch - chiếu bất nhị? Nếu tưởng như vậy, sẽ thành “đem phàm lạm thánh”, tội ấy
thật chẳng nông cạn đâu nhé! Hai câu kinh văn [ông vừa nói trên đây] chưa rõ xuất
xứ, chắc đấy cũng là lời văn trong ký ức từ đời trước, chứ chưa chắc là kinh
văn.
Người tu Tịnh nghiệp chẳng chú
trọng các thứ cảnh giới, nên cũng không có nhiều cảnh giới phát sanh cho lắm! Nếu
trong lòng chuyên muốn thấy cảnh giới thì cảnh giới sẽ nhiều. Nếu chẳng khéo dụng
tâm, ắt đến nỗi tự bị tổn hại, chẳng thể không biết [điều này]! Lời của vị Đầu
Đà kia nói chính là đạo lý trong nhà Thiền. Ông ta chưa đả phá Tịnh Độ thì cũng
là điều hay, nhưng trọn chẳng biết đến tông chỉ Tịnh Độ nên mới đem [Tịnh Độ] đối
chiếu với Thiền để bàn luận. Câu nói “chú
trọng cảnh thù thắng, ánh sáng tốt đẹp” của ông ta cần phải hết sức châm
chước. Nếu không, sẽ gây lầm lẫn cho người khác chẳng cạn! Ông ta lại nói: “Chớ nên chấp trước, bởi lẽ Phật pháp vô lượng,
hễ chấp sẽ thành hữu lượng, sẽ chẳng nhập Phật trí được”. Nào phải chỉ chẳng
nhập Phật trí mà còn có thể lọt vào ma giới nữa kia! Còn như ông ta nói “ai có Phật nấy” thì chính là lời lẽ nhà
Thiền ước theo lý nơi tâm để luận, chẳng ăn nhập gì với Tịnh tông hết! Ánh sáng
trắng trong vắt trên hư không vẫn chỉ là công đức nhỏ bằng đầu sợi lông của Như
Lai, sao ông lại hiểu lầm là pháp giới nhất tướng, tịch - chiếu bất nhị? Thật
ra đấy chính là cảnh Định trong đời trước do tâm tịnh mà hiện ra, cho nên ông đừng
nghĩ đấy là chuyện lạ lùng đặc biệt!
Pháp môn Tịnh Độ lấy ba pháp
Tín - Nguyện - Hạnh làm tông. Có tín - nguyện, bất luận hành nhiều - ít, sâu -
cạn, đều được vãng sanh. Không có tín - nguyện, dẫu đạt đến địa vị “Năng - Sở đều
mất, sáu căn thoát hẳn sáu trần”[25]
vẫn khó được vãng sanh! Do nếu thật sự chứng được Thật Lý “Năng - Sở đều mất, sáu
căn thoát hẳn sáu trần” sẽ liền có thể cậy vào tự lực để liễu sanh tử, [người
như vậy] không cần phải bàn tới nữa! Chứ nếu chỉ có công phu thấy được lý ấy, vẫn
chưa thật chứng mà nếu không có tín - nguyện thì cũng khó vãng sanh!
Thiền gia hễ nói tới Tịnh Độ đều
quy về Thiền Tông, không nhắc tới tín - nguyện. Nếu y theo đó mà hành thì vẫn
có thể khai ngộ, nhưng chưa đoạn Hoặc nghiệp mà muốn liễu sanh tử thì có mộng
cũng chẳng mộng được đâu! Vì phàm phu vãng sanh là do tín - nguyện cảm Phật nên
có thể cậy vào Phật từ lực để đới nghiệp vãng sanh. Nay đã chẳng sanh lòng tín -
nguyện, lại đem mỗi một lời đức Phật nói quy hết về tự tâm thì làm sao cảm Phật
được! Cảm và Ứng chẳng phù hợp thì chúng sanh là chúng sanh, Phật là Phật! Đem
pháp Hoành Siêu (vượt thoát theo chiều ngang) dùng làm pháp Thụ Xuất (thoát ra
theo chiều dọc) thì sẽ đạt được lợi ích nông cạn, bị tổn hại sâu xa! Chẳng thể
không biết [điều này]! Chỗ được lợi ích là nghe theo lời nói ấy thì cũng có thể
khai ngộ, nhưng chỗ bị tổn hại là đã bỏ tín - nguyện thì sẽ không cách gì cậy
vào Phật từ lực được! Do vậy, tôi nói: “Người
thật sự tu Tịnh Độ chẳng dùng đến khai thị của nhà Thiền do pháp môn, tông chỉ
bất đồng”. Xin hãy sáng suốt soi xét. Nếu chẳng nghĩ như vậy là đúng thì
xin hãy thưa hỏi nơi bậc đại thông gia cho khế hợp tâm chí của ông. Cố nhiên
Quang không chấp trước!
530. Thư trả lời hai vị nữ cư sĩ Huệ Thục và Huệ Khánh
Con
người sống trong thế gian ắt phải trọn hết chức phận của chính mình. Có trọn được
hết chức phận của chính mình thì mới chẳng phụ ân “trời che đất chở, mặt trời,
mặt trăng chiếu soi, cha mẹ sanh thành, sư trưởng giáo huấn”. Nếu không, tuy
mang tiếng là người, nhưng thật sự chẳng khác gì cầm thú cho lắm, sẽ thành phường
sống uổng chết phí, tương lai trầm luân trong ác đạo, trọn chẳng có thuở thoát
ra, chẳng đáng buồn sao? Nói tới chuyện trọn hết chức phận thì đối với thân phận
nữ nhân, quả thật [chuyện ấy] có quan hệ lớn lao nhất nhưng trọn chẳng tỏ lộ dấu
vết. Cõi đời bình trị hay loạn lạc, gia đình hưng thịnh hay suy sụp đều do nữ
nhân có trọn hết chức phận hay không! Chức phận của nữ nhân như vừa mới nói đó
chính là “hiếu thảo đối với bố mẹ chồng, hòa thuận với chị em dâu, giúp chồng dạy
con” v.v… Bởi lẽ, [nữ nhân] có thể hiếu thảo, hòa thuận, ôn nhu, cung kính, đấy
chính là “nghi gia”; có thể giúp đỡ chồng khiến cho đức hạnh lẫn nghề nghiệp của
ông ta ngày càng tiến triển, lỗi lầm ngày một ít, đấy chính là “nghi thất”[26].
Hễ nghi thất nghi gia thì con cái nhìn vào sẽ được cảm hóa, đều thành hiền thiện.
Con cái đã thành hiền thiện thì từ đấy trở đi, con cháu đời đời đều thành hiền
thiện. Vì thế, Quang thường nói: “Quyền
trị quốc bình thiên hạ, bọn nữ nhân nắm quá nửa”. Lại nói: “Dạy con là cái gốc để trị quốc bình thiên hạ,
nhưng dạy con gái lại càng quan trọng hơn”. Nếu không, chẳng những [nữ nhân]
không thể giúp chồng dạy con thành người lành được, mà ngược lại sẽ giúp chồng dạy
con thành kẻ ác đến nỗi trở thành tình thế vô pháp vô thiên như trong ngày nay!
Các bà đều có thiện căn từ đời
trước, được làm vợ chồng với Huệ Dung. Tuy sanh nhằm thời Phật pháp tàn diệt, nhưng
may mắn được nghe pháp môn Tịnh Độ là pháp môn phổ độ chúng sanh của đức Như
Lai! Chỉ cần chịu sanh lòng chân thật, phát nguyện thiết tha, xưng niệm A Di Đà
Phật vạn đức hồng danh, chắc chắn sẽ tiêu trừ Hoặc nghiệp, tăng trưởng thiện
căn trong đời này. Khi lâm chung, nương theo Phật từ lực vãng sanh Tây Phương,
quả thật là vô thượng đại pháp chẳng dễ gì gặp được trong ngàn đời vạn kiếp!
Các bà đã là chị em với nhau qua tình vợ chồng, ắt phải yêu thương, kính trọng
lẫn nhau, khuyên răn, khích lệ lẫn nhau. Chớ nên giống bọn nữ nhân vô tri chưa
nghe biết đạo: Hằng ngày cứ chuyên tranh cãi, ghen ghét, báng bổ, hạ nhục lẫn
nhau. Như thế thì tâm địa ngày một tối tăm, phước - thọ ngày một thu hẹp, khi một
hơi thở ra không hít vào được nữa sẽ khó khỏi đọa lạc trong ba ác đạo. Nỗi khổ ấy
chẳng thể nào diễn tả được đâu!
Các bà đã cùng quy y, tức là đồng
môn, đồng tu Tịnh nghiệp, tương lai cùng sanh Tịnh Độ, cùng thấy Phật A Di Đà,
cùng nghe Phật pháp, cùng chứng vô thượng đạo. Trong lúc này mọi người đều cùng
đồng tâm tận lực tu trì, há chẳng gắng công ư? Do Huệ Dung muốn cho hai người quý vị cùng được thấm nhuần sự giáo hóa của Phật
nên mới xin Quang đặt pháp danh cho hai bà và khai thị. Do vậy tôi mới nói dài
dòng như thế, thật sợ các bà tự nghĩ mình kém hèn, nhỏ nhoi, chẳng biết một niệm
tâm tánh của chúng sanh và Phật trọn chẳng khác gì, nhưng do mê - ngộ khác nhau
đến nỗi khác biệt vời vợi một trời một vực. Nay giảng đại lược nguyên do, những
điều khác đã nói tường tận trong Văn Sao, Gia Ngôn Lục, hãy xin Huệ Dung giảng
cho các bà thì sẽ đều biết rõ vậy.
531. Thư trả lời cư sĩ Từ Úy Như
Nhận
được thư, biết lệnh thúc[27]
sống - chết khá kỳ lạ. Các hạ nói đến chuyện [lệnh thúc sau khi mất, chuyển
sanh làm] thần Già Lam[28]
vốn là chuyện thực tình, nhưng đấy là tiểu Già Lam, chứ không phải là đại Già Lam.
Ông ta ăn chay, tụng kinh đều do túc căn xui khiến, tiếc chưa từng được gặp tri
thức của pháp môn Tịnh Độ đến nỗi [mất đi] vẫn đầu thai trong hàng hộ pháp có thần
thông. Người ấy tri kiến giống với kẻ bình thường, còn đối với cảnh giới của Đại
Sĩ đều chưa từng thấy. Nếu có thể dùng trí lực để biết đến cảnh giới của Đại Sĩ,
sẽ trọn chẳng đến nỗi sống hồ đồ suốt cả một đời rồi vẫn sanh làm một vị thần hộ
pháp có thần thông.
Lệnh đệ chẳng vì chuyện này mà
cực lực chú trọng vun bồi sự Tây quy cho cụ, cứ vẫn muốn làm thế nào để tăng tiến
địa vị cho ông cụ. Tâm ấy cố nhiên là tốt đẹp, nhưng nếu dựa theo Thật Lý để
tính toán cho lệnh thúc thì hãy nên khuyên con trai ông cụ thành kính tột bậc để
vun bồi nơi pháp môn Tịnh Độ, hồi hướng cầu cho cụ thoát khỏi chức cũ trong thần
đạo, sanh vào cõi Phật Cực Lạc. Nói đến chuyện vun bồi công đức thì mở mang tri
thức cho người khác là bậc nhất. Hiện thời Tăng Quảng Văn Sao đã sắp chữ xong
xuôi, nhưng vẫn chưa kết thúc. Đợi cho Thọ Khang Bảo Giám sắp chữ xong sẽ thôi
không đưa thêm bài [vào bộ Văn Sao nữa], cho in ra. Hiện thời đã dày tới bốn
trăm hai mươi trang, nhưng vẫn chưa định được số trang thật sự. In chữ lớn thì
mỗi bộ phải trên dưới tám cắc vì trong năm ngoái [tiền in mỗi cuốn] Đại Sĩ Tụng
phải tốn đến ba cắc bốn xu mà [Đại Sĩ Tụng] chỉ có hai trăm mười trang. Sách
này (tức Ấn Quang Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên) phải đắt gấp đôi!
Gần đây chiến sự dồn dập, giá
giấy tăng vùn vụt. Nếu lệnh đệ chịu bỏ tiền in bao nhiêu bộ để tự mình thí tặng
ngõ hầu hết thảy những người đọc [Văn Sao] đều biết nguyên do vãng sanh Tịnh Độ;
đem công đức ấy để làm bằng khoán vãng sanh cho cha, lại thêm chí thành, ắt sẽ
được như nguyện, sẽ có lợi ích công đức chân thật nhất. Tuy tợ hồ chẳng dính
líu đến Phổ Đà, nhưng cũng chẳng phải là không dính líu, vì mọi người đều nói “Phổ
Đà Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao” vậy. Tiếp theo đó, tôi phải giám đính Phổ Đà Sơn
Chí. Giám đính xong sẽ cho khắc ván, khoảng Xuân - Hè năm sau sẽ in thành sách.
Nếu chịu bỏ tiền in để hồi hướng thì so ra càng thù thắng lâu dài hơn những thứ
công đức khác!
532. Thư trả lời cư sĩ Lý Viên Tịnh (thư thứ nhất)
Nhận
được thư khôn ngăn cảm kích, hổ thẹn. Phương cách biên soạn tác phẩm lớn lao[29]
như ông đã trình bày cho thấy ông trống lòng, chẳng ỷ vào ý kiến của chính
mình, tôi hết sức khâm phục! Những kẻ hoằng pháp hiện thời thường muốn dẫn dắt
người khác vào trong Phật pháp, nhưng trước hết chính mình đã phải chiều theo [ý
thích] của người ta để làm thì đại thể đã mất[30],
làm sao có thể khiến cho người khác trọng pháp được? Thoạt đầu các hạ phỏng
theo cách thức mới, nay vẫn muốn khiến cho đại chúng chẳng giẫm theo thói tệ
khinh pháp, đáng gọi là “thật sự thấu hiểu thể thống hoằng pháp”.
Còn như Ấn Quang Văn Sao thì quả
thật văn chương chất phác, kém cỏi khó thể chịu đựng được, nhưng đối với kẻ sơ
cơ cũng chẳng phải là không tạo được lợi ích nhỏ nhặt. Do vậy, suốt mấy năm
qua, đã được sắp xếp ấn hành năm lần: Khắc ván một lần, [bản khắc ấy] hiện còn
giữ tại Dương Châu; Từ Úy Như in hai lần ở Bắc Kinh, in một lần tại Thượng Hải.
Trước kia Quang in một lần, nay lại in một lần nữa. Trong tháng Tư sẽ có thể ra
sách; in ra được mấy vạn. Bản in lần này nhiều hơn lần trước một trăm hai mươi
trang, đặt tên là Tăng Quảng Ấn Quang Văn Sao. Thường có người gởi thư yêu cầu,
đủ biết phần nhiều kẻ sơ cơ phát tâm chẳng vì văn chương chất phác kém cỏi mà
chê bỏ. Các hạ lại chọn lấy những điều trọng yếu, phân môn chia loại để lưu
truyền, so với trọn bộ sách sẽ tốn kém ít hơn mà lợi ích nhiều hơn, quả thật là
công đức chẳng thể nghĩ bàn! Lúc Quang mới xuất gia, thấy các tri thức dạy người
khác tu trì, trọn chẳng nhắc đến những chuyện nhân quả, luân thường v.v… đến nỗi
có kẻ tu trì khá tốt đẹp, nhưng đối với luân thường chẳng thể nghiêm túc trọn hết
bổn phận của chính mình; do vậy đã khiến cho những kẻ chẳng biết đến chân lý Phật
pháp phần nhiều dấy lòng báng bổ! Quang ôm ấp ý nguyện uốn nắn thói tệ ấy đã
lâu. Vì vậy, trong hết thảy những bài viết lách đều nhắc đi nhắc lại. Nếu các hạ
chẳng cho những gì tôi đã nói là thừa thãi, có lẽ nên sao lục [những lời đó] để
giúp vãn hồi thế đạo nhân tâm.
Các hạ chưa đầy ba mươi tuổi
mà đã hiện tướng suy yếu, cố nhiên hãy nên bỏ [cái học] rộng rãi để giữ lấy chỗ
ước lược, hãy chuyên tu Tịnh nghiệp. Khi Tịnh nghiệp đã thành tựu lớn lao rồi,
sẽ hoằng dương các pháp khác ngõ hầu thật sự tự lợi, lợi tha. Nếu không, tuy có
thể lợi người, nhưng [những pháp ấy] vẫn chưa phải là đạo rốt ráo để được thoát
sanh tử ngay trong đời này mà đối với chuyện thuộc về bổn phận của chính mình
thì chưa thể đoạn sạch Phiền Hoặc để liễu sanh tử.
Lại do chưa hoàn toàn chuyên
chí nơi Tịnh nghiệp, chắc sẽ nương vào giáo nghĩa theo đường lối thường rồi
nghi ngờ pháp môn đặc biệt. Nếu vậy, thì sẽ không thể nhờ vào Phật từ lực để đới
nghiệp vãng sanh được đâu! Tuy đã gieo thiện căn, nhưng vẫn là chén bát chưa
nung, hễ gặp trận mưa tái sanh ắt bị hư nát, đáng tiếc lắm thay! Sư Hiển Ấm sẵn
lòng đại từ bi, đặc biệt sợ bọn thanh niên thông minh sẵn có huệ căn bị mất đại
lợi ích, nên hiện ra tướng trạng đáng để dè dặt, răn nhắc[31]
ấy! Điều ấy chưa bao giờ không phải là khai thị chân thật để sâu xa khuyên nhủ
các hạ tận lực tu trì Tịnh nghiệp vậy!
533. Thư trả lời cư sĩ Lý Viên Tịnh (thư thứ hai)
Nhận
được thư, khôn ngăn cảm kích, hổ thẹn. Bản biên tập này của các hạ đúng là mày -
mắt rành mạch, lợi người nhiều lắm! Trộm nghĩ: Những đoạn được trích lục trong
bộ sách này đều lấy từ phần Thư Từ, nhưng ngay trong những phần Luận, Sớ, Tựa, Bạt
v.v… cũng có [những đoạn] có thể trích lục; chứ không phải là thư từ thì trích
lục được, còn những phần khác đều chẳng nên trích lục! Hơn nữa, cuốn sách này vốn
là sách trích lục, cố nhiên chẳng cần phải sợ bị phạm lỗi “xén cắt chương đoạn
để chọn lấy nghĩa”; nhưng trong thời thế hiện tại, càng phải nên chú trọng nhân
quả, thành kính, luân thường, coi đó là nhiệm vụ trọng yếu để cứu quốc, cứu
dân, hoằng pháp lợi sanh. Phàm những đoạn văn nào liên quan đến những ý nghĩa ấy
có lẽ nên thu thập cho nhiều. Ông lập ra mười khoa, khá là thông suốt. Đôi khi
có những chỗ câu chữ không đều và những chữ không trôi chảy rõ ràng cho lắm; do
vậy tôi bèn liệt kê [mười khoa ấy] như sau:
1) Tán Tịnh Độ siêu thắng (khen
ngợi Tịnh Độ siêu việt, thù thắng)
2) Giới tín nguyện chân thiết
(răn nhắc tín nguyện phải chân thật, thiết tha)
3) Thị tu trì phương pháp (dạy
về phương pháp tu trì)
4) Luận sanh tử đại sự (bàn về
đại sự sanh tử)
5) Miễn cư tâm thành kính (gắng
giữ lòng thành kính)
6) Khuyến chú trọng nhân quả
(khuyên chú trọng nhân quả)
7) Phân Thiền Tịnh giới hạn
(phân định giới hạn giữa Thiền và Tịnh)
8) Thích phổ thông nghi hoặc (cởi
gỡ những ngờ vực phổ biến)
9) Dụ tại gia thiện tín
(khuyên nhủ hàng thiện tín tại gia)
10) Tiêu ưng độc điển tịch (liệt
kê những kinh sách nên đọc).
Xin ông hãy cân nhắc!
534. Thư trả lời cư sĩ Lý Viên Tịnh (thư thứ ba)
Quang
thường nói: “Giáo dục trong gia đình
chính là cái gốc để trị an. Nhân quả báo ứng chính là pháp để chế ngự cái tâm!”
Trong gia đình, sự dạy dỗ của mẹ là trọng yếu. Nếu có mẹ hiền, trong thuở
thơ ấu con cái lại thường được giảng giải về nhân quả thì khi những đứa con ấy
lớn khôn chắc chắn sẽ chẳng đến nỗi làm những chuyện nghịch trời tổn đức v.v…
Tiếc cho những người hướng dẫn đề xướng dù tại gia hay xuất gia đều chẳng chú ý
tới chuyện này, đáng than lắm!
Ngày hôm qua đã dán thư xong,
khi bưu tá đến đây thì lại giao tiếp một lá thư khác. Do vậy, gắng gượng viết
bài đề từ gồm bốn mươi vần; chỉ vì tôi trọn chẳng làm thơ nên dùng chữ phần nhiều
khiên cưỡng, xin hãy sửa chữa. Bài Lâm Chung Châu Tiếp Yếu Ngữ (những lời lẽ
quan trọng dùng làm mái chèo cho chiếc thuyền [vượt biển sanh tử] lúc lâm
chung) được lưu truyền đã lâu, có khá nhiều chỗ bị sai ngoa. Đối với những chỗ
ý nghĩa chẳng trọn vẹn trong phần này, tôi đều tự tiện bổ túc. Phần luận kệ ở
phía sau, Quang từng thấy luôn luôn có, chẳng biết do ý gì ông lại lược bỏ đến
nỗi lời lẽ trở thành thiếu căn cứ? Mà đáng tiếc là phần nguyên văn cũng không
nêu ra tên của bài luận ấy. Xin ông hãy cân nhắc!
Thêm nữa, bài kệ ấy sợ là do
noi theo Du Già Luận[32]
mà soạn ra. [Tựa đề] Lâm Chung Châu Tiếp chỉ cần [viết] thấp xuống một chữ. Hai
chữ Yếu Ngữ (lời nói quan trọng) có lẽ nên bỏ đi và vẫn dùng cùng một cỡ chữ bởi
chữ nhỏ hơn thì người già xem sách sẽ phải tốn nhiều công. Phía trên tựa đề nên
thêm hai chữ Phụ Lục thì chánh - phụ sẽ rõ ràng. Hiện thời do chiến sự chẳng thể
gởi giấy tới được. An Sĩ Toàn Thư, Văn Sao trong nhất thời đều chẳng thể in ra
được. Xin hãy biên soạn thong thả, đừng gấp rút thì người đỡ tốn sức mà chuyện
lại được thong dong. Đối với những sách do Quang đã in đều cho làm bốn bức Chỉ
Bản. Nếu cuốn sách này sắp chữ xong, cũng nên làm ra nhiều Chỉ Bản để tốn công
một lúc, nhàn nhã lâu dài!
535. Thư trả lời cư sĩ Lý Viên Tịnh (thư thứ tư)
Hôm
qua tôi đã duyệt Gia Ngôn Lục được một nửa, hôm nay sẽ duyệt xong, nhưng vẫn phải
đọc kỹ, cũng như tìm cách để mong đỡ mỏi mắt. Những chữ sai trong ấy đều ghi ra
thành một bản gởi đi để làm căn cứ sửa đổi cho đúng khi tái bản. Trong bản giảo
chánh của Quang đã nêu ra cặn kẽ [từng chỗ sai sót] nhằm dùng làm bản mẫu để sắp
chữ [khi tái bản]. Trong tương lai, chuyện giảo đối sẽ do Quang tự đảm nhiệm.
Trần Thái Thái đã chịu tiền sắp chữ, tiền làm Chỉ Bản và tiền in một ngàn bộ, như
vậy là đỡ tốn công nhiều lắm. Tôi sẽ bảo ấn quán khi in xong một vạn bộ Văn Sao
sẽ in cuốn sách này trước. Vẫn sợ là trong khoảng tháng Mười Một, tháng Chạp mới
ra sách được. Quang ở đây chờ cư sĩ Tôn Hậu Tải, đợi ông ta đến rồi mới trở về
đất Hỗ được!
536. Thư trả lời cư sĩ Lý Viên Tịnh (thư thứ năm)
Hôm qua nhận được thư, tâm hết sức vui mừng, an ủi. Khi trước nghe nói chiến sự nổ ra tại Thượng Hải, tôi nghĩ Tam Bảo gia bị chắc [gia đình ông] sẽ chẳng đến nỗi bị nguy hiểm. Nay biết trong lúc ông không trốn tránh được thì Viên Minh lại dám đem xe hơi đến đón mà lính Nhật cũng chẳng làm điều hung ác, Bồ Tát cứu khổ cứu nạn quả thật chẳng thể nghĩ bàn thấu suốt được! Xin hãy khuyên hết thảy mọi người cùng niệm Quán Âm để mong Bồ Tát gia bị khiến cho thủ lãnh quân Nhật ngưng diệt ác tâm lẫn độc tâm thì chiến sự sẽ tự ngưng dứt. Đừng nên đem lòng ác nguyền rủa [quân Nhật] bởi chẳng khế hợp với tâm đại bi bình đẳng của Bồ Tát vậy (ngày mồng Chín tháng Giêng năm Nhâm Thân - 1932)
537. Thư trả lời cư sĩ Đồng Ảnh
Trong
tháng Chín tôi nhận được thư do anh của ông gởi, nói ông bị bệnh, tâm chí bất định:
Hoặc là gấp muốn được trị bệnh giống như không rảnh rỗi để chờ đợi nữa, hoặc thầy
thuốc đến kê toa nhưng không chịu uống, hoặc mời cả hai thầy thuốc v.v… thật giống
như tánh tình của con nít! Cầu thầy trị bệnh kiểu đó sẽ càng bệnh thêm; làm sao
lành bệnh cho được? Bởi lẽ, tâm niệm nóng nảy bộp chộp là tự mình tăng thêm bệnh.
Cắt thuốc loạn xạ là thầy thuốc tăng thêm bệnh. Ông phát tâm muốn xuất gia tu
hành, giải quyết cho xong đại sự sanh tử, nhưng thái độ phú quý kiêu căng ấy chưa
bỏ được mảy may nào, khi xuất gia lỡ bị bệnh ắt sẽ chết gấp! Ông có tánh kiêu
ngạo ấy, mà còn có thể cam chịu sự yên tĩnh, đạm bạc, xem thân này như thứ thừa
thãi được ư?
Hơn nữa, người học đạo hễ gặp
những chuyện chẳng như ý chỉ nên coi chúng như những cơ hội để hướng đến đạo. Cảnh
nghịch xảy tới bèn thuận chịu, dẫu có gặp chuyện nguy hiểm gì đi nữa thì trong
lúc ấy sẽ chẳng đến nỗi kinh hãi tới mức hoảng loạn, quýnh quíu! Chuyện gì đã
qua thì lòng cũng chẳng bận tâm tới nữa, coi như giấc mộng đêm qua; há nên thường
giữ mãi trong tâm đến nỗi tạo thành căn bệnh ngực đập như trống làng? Ông đã muốn
tu hành hãy nên biết hết thảy cảnh duyên đều do túc nghiệp cảm thành. Lại càng
phải nên chí thành niệm Phật thì sẽ chuyển được nghiệp. Chúng ta chẳng làm chuyện
nghịch trời tổn đức thì đâu có sợ gì. Người niệm Phật được thiện thần che chở,
gia hộ, ác quỷ tránh xa, còn sợ chi nữa?
Nếu ông thường sợ hãi, sẽ bị
ma sợ hãi dựa vào, ắt sẽ có oán gia từ vô lượng kiếp thừa dịp lòng ông sợ hãi
kéo đến dọa dẫm khiến cho ông mất trí điên cuồng để báo oán xưa. Đừng nói: “Ta
vẫn niệm Phật, đâu sợ đến nỗi như thế!” Chẳng biết rằng toàn thể chánh niệm của
ông đã quy vào lòng sợ hãi, khí phận đã cách ngăn với Phật, đã thông với ma!
Đâu phải là Phật chẳng linh mà là do ông đã đánh mất chánh niệm, đến nỗi niệm
Phật chẳng được lợi ích trọn vẹn. Xin ông thấy thư Quang hãy thống thiết sửa đổi
tâm trước, sẽ nghĩ anh mình một vợ một chồng, đâu có gì đáng lo? Nếu túc nghiệp
hiện tiền, dẫu sợ hãi há có tiêu diệt được chăng? Chỉ nên chẳng sợ, hễ giữ được
chánh niệm thì cư xử sẽ thích đáng, thần thái chân thật đã yên định thì tà quỷ
chẳng thể xâm phạm được. Nếu không, sẽ do tà chiêu tà, kẻ oán trong đời trước đều
kéo tới, gặp chuyện không quyết định được, hoàn toàn bó tay! Chẳng đáng buồn ư?
Nay tôi tính kế cho ông: Hãy
nên buông xuống những điều ôm giữ. Hết thảy mọi chuyện đều có thể lo liệu được,
chớ nên ôm đồm, lo lắng. Chỉ sợ hạnh mình có tỳ vết, chẳng sợ quỷ thần gây họa
hoạn. Nếu ông ở nhà tu hành tốt đẹp thì sẽ cùng với anh và vợ v.v… giúp đỡ nhau
tu trì Tịnh nghiệp. Nếu chẳng thể làm được như vậy thì hãy sang Thượng Hải ở nhờ
Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xã, hằng ngày thường được nghe giảng nói, cũng như hằng
ngày thường theo đại chúng niệm Phật. Hiện thời Tịnh Nghiệp Xã dời sang Nam
Viên của nhà họ Giản, có cơ sở chừng mười hai mười ba mẫu đất, là đạo tràng lớn
nhất. Năm sau, pháp sư Đế Nhàn sẽ giảng Niết Bàn Kinh Sớ[33]
tại đấy. Nơi ấy nhiều phòng ốc, chẳng chật hẹp như [cơ sở cũ] ở đường Ái Văn
Nghĩa (Avenue Road)[34].
Nếu ông đến thì mỗi tháng đóng góp bao nhiêu đó tiền ăn uống, chắc chắn sẽ được
như nguyện. Sau mấy tháng sẽ trở về nhà thăm một chuyến, bàn bạc chuyện nhà với
anh ông, hàn huyên với vợ, không đầy mấy ngày lại đi, quả thật là biện pháp tu
đạo hy hữu bậc nhất. Quang nghĩ ông làm như thế thì lợi ích đạt được sẽ trỗi
hơn vô lượng lần so với xuất gia, nhưng phải vứt bỏ kiến thức giống như trẻ nít
và lũ người vô tri đầu đường xó chợ đi thì sẽ đích thân đạt được vô biên lợi
ích!
Đang
trong tình thế nguy hiểm này, hãy nên mở rộng tấm lòng, tầm mắt, nỗ lực tu trì
Tịnh nghiệp. Tất cả cát - hung, họa - phước đều chẳng bận tâm đến, cứ tùy duyên
ứng biến. Dẫu cho đại họa đối đầu, vẫn nghĩ tới những người cùng mắc họa này chẳng
biết có mấy ngàn vạn ức. Trong lúc không thể làm gì được, vẫn còn có A Di Đà Phật,
Quán Thế Âm Bồ Tát để nương tựa được, nào còn sợ hãi chi! Lấy niệm Phật, niệm Quán Âm để làm căn cứ không sợ hãi. Mở rộng
tâm lượng, đừng sợ hãi trước thì bệnh tự lành, thân tự yên vui. Nếu chẳng
biết nghĩa này, chưa gặp cảnh nguy mà chính đã tự hãm vào trong cảnh nguy ngập
trước, dẫu Phật, Bồ Tát cũng chẳng thể cứu được đâu! Do vậy, quân tử gặp cảnh
hoạn nạn bèn hành xử theo cảnh hoạn nạn, cho nên trong bất cứ hoàn cảnh nào
cũng được yên vui!
538.
Thư trả lời cư sĩ Quán Tâm
Mấy
hôm trước, qua lá thư từ núi [Phổ Đà] chuyển đến, biết tâm ông mộ đạo tha thiết,
tu trì một niềm cẩn trọng, khôn ngăn vui mừng, hâm mộ, nhưng do quá bận bịu chẳng
thể trả lời ngay. Ngày hôm qua do có chuyện phải sang đất Hàng, được rảnh rang
đôi chút, bèn viết đại khái. “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng
giết, tu Thập Thiện nghiệp” chính là chánh nhân Tịnh nghiệp của tam thế chư Phật.
Ông hiếu thảo với cha mẹ, biết tiết kiệm, sống chất phác, ắt sẽ chẳng đến nỗi
nhận tiền tài phi nghĩa, tâm hạnh ấy khá hợp với Phật. Nếu lại còn thêm lòng
tín nguyện cầu sanh Tây Phương, ắt sẽ được như nguyện. Nhưng đã làm con người
khác, làm cha của kẻ khác thì hãy nên nghĩ đến cách làm sao cho cha mẹ ta, con
cái ta đều được rốt ráo an ổn. Há chẳng tận lực khuyên cha mẹ ta và con cái ta cùng
tu Tịnh nghiệp ư? Đấy là ước theo phía người thân mà luận, chứ hết thảy chúng
sanh đều là con Phật, ta đã biết như vậy, nỡ lòng nào chẳng làm cho anh em
trai, chị em gái, thân thích, làng nước của ta, hết thảy những người gần gũi mỗi
mỗi đều được biết tới [pháp môn Tịnh Độ] hay sao? Ông muốn quy y để mong vãng
sanh, chẳng nên phát hoằng thệ để thực hiện sẵn đạo “tùy phần, tùy sức độ người”
hay sao?
Nay đặt pháp danh cho ông là
Huệ Hoành (Hoằng); nghĩa là dùng trí huệ lớn lao để hành đạo tự lợi, lợi người,
tức là vì hết thảy chúng sanh mà nói “giữ vẹn luân thường, nghiêm túc trọn hết
bổn phận của chính mình, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đánh đổ ham muốn xằng bậy
để khôi phục lễ nghĩa, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, tín nguyện
niệm Phật, cầu sanh Tây Phương”. Trong Văn Sao đã nói đến [chuyện này] nhiều lượt,
nay nhắc lại với ông vì sợ có lẽ ông không chú ý đến nỗi bỏ qua. Vì thế, chẳng
ngại gì nhắc lại! Hơn nữa, thế đạo loạn lạc như hiện thời đều là vì không có
người khơi gợi, chỉ dẫn [những điều ấy]. Xét đến cội nguồn đều do trong gia
đình chẳng khéo dạy dỗ, cũng như chẳng nói đến nhân quả báo ứng mà ra. Thiên hạ
chẳng yên, thất phu thất phụ có trách nhiệm! Chú trọng giáo dục gia đình và
nhân quả báo ứng thì tự nhiên hiền tài sẽ đông đảo dấy lên, thiên hạ sẽ dần dần
được thái bình. Đối với mọi người, xin hãy đều đem lời này khẩn thiết bảo ban.
Đấy cũng là một đại sự quan trọng “sống trong cõi trần học đạo, chính mình chưa
đắc độ mà đã làm chuyện độ người”. Xin hãy sáng suốt suy xét thì may mắn lắm.
Những điều khác đã nói tường tận trong Văn Sao, ở đây không viết cặn kẽ!
539
. Thư trả lời cư sĩ Lý Cát Nhân
Nhận được thư hôm Rằm, do bận
bịu không rảnh rỗi nên lần khân đến nay. Nếu có thể đích thân tận mặt đến quy y
thì cố nhiên là đúng lý, nhưng nếu chẳng đích thân đến được, chỉ dùng lòng chí
thành khẩn thiết giống như đích thân lãnh nhận thì cố nhiên cũng chẳng khác gì!
Dẫu tận mặt quy y nhưng chẳng coi trọng chuyện quy y, suy nghĩ, cư xử vẫn giống
như cũ thì tuy mang tiếng là quy y Tam Bảo, nhưng thật ra là quyến thuộc của ma
vương. Lợi ích trong Phật pháp há có thể dùng hư danh để đạt được ư?
Niệm Phật cần phải nhiếp tâm
khiến cho tạp niệm không do đâu khởi lên được. Nếu muốn nhiếp tâm thì hãy nên lắng
nghe. Nếu nghe từng câu từng chữ cho rõ ràng thì tự nhiên tâm sẽ chẳng đến nỗi
tán loạn quá mức, dẫu không quán tưởng mà cũng giống như đang nhập quán. Nếu chẳng
thể nhiếp tâm được thì quán cảnh chẳng rõ ràng, lý tánh chẳnh rành rẽ, lầm lạc
muốn được sanh trong Thượng Phẩm, mặc theo ý mình quán tưởng sẽ bị ma dựa phát
cuồng nhiều lắm!
Há cứ phải quán tưởng thì mới
có thể vãng sanh Thượng Phẩm được ư? Niệm [Phật] đến mức nhất tâm kèm thêm đại Bồ
Đề tâm, lại còn tự hành, dạy người, hành rộng rãi Lục Độ, ai mà chẳng lên được
Thượng Phẩm? Nhưng lấy quán tưởng làm nhân cho Thượng Phẩm thì cũng là một cách
nói từ xưa đến giờ [dành riêng cho một hạng căn tánh nào đó], chứ nhiếp tâm niệm
Phật là đạo để [căn cơ] thượng - trung - hạ cùng tu, lợi ích đạt được sẽ tùy
theo [căn tánh và sự tu tập của] từng người mà chia ra lớn - nhỏ. Nếu quán tưởng
mà chẳng hiểu biết nguyên do thì quyết chớ nên mù quáng tu tập vì có thể bị ma
dựa! Nếu ông có thể nhất tâm niệm Phật, há ông chẳng được sanh trong Thượng Phẩm
ư?
Chú Đại Bi chỉ nên y theo lời
thầy đã dạy trong hiện thời mà niệm ắt sẽ có vô biên lợi ích. Cố nhiên hằng
ngày nên thường niệm, cần gì phải trong ngày Thập Trai [mới niệm]. Hơn nữa,
chuyện ăn thịt họa hại vô cùng. Vợ chồng ông đã phát tâm vãng sanh Thượng Phẩm,
sao chẳng ăn chay trường mà chỉ ăn Thập Trai vậy? Chẳng riêng gì chính mình ăn
chay mà còn nên khuyên con cái và người trong nhà đều cùng ăn chay. Đọc kỹ Văn
Sao sẽ tự biết (bài sớ kêu gọi [tu bổ] ao phóng sanh ở Nam Tầm đã giảng
giải khá tường tận) mối họa do ăn thịt và điều lợi
do không ăn thịt. Cố nhiên nên nỗ lực nơi chuyện này, đừng để tập tục trói buộc,
chỉ ăn Thập Trai mà thôi!
Thuốc lá của Tây Dương gây hại
thật sâu. Trong Văn Sao có in kèm thêm bài thuốc thần diệu để cai nghiện á phiện,
linh nghiệm tột bậc. Có rất nhiều người đều cai thành công. Kẻ nào chẳng dứt
nghiện được đều là vì thân thể đã mang sẵn bệnh tật khác. Ông hãy nên dựa theo
đó, định kỳ hạn cai nghiện thong thả lâu gấp đôi thì sẽ đoạn được cái gốc họa
này. Chuyện vãng sanh cố nhiên chẳng vì cai nghiện hay không [mà bị ảnh hưởng],
dẫu có tật ấy nhưng hễ sanh lòng tin chân thật, phát nguyện thiết tha, nhất tâm
niệm Phật thì không một ai chẳng được vãng sanh.
Thế đạo nhân tâm hiện thời bại
hoại đến cực điểm. Muốn cho quốc gia dần dần được khôi phục nguyên khí mà chẳng
vun bồi cho gia đình sẽ không thể được. Những kẻ hoại loạn thế đạo nhân tâm đều
do sẵn có tánh tình khác lạ, gia đình lại không dạy dỗ, khiến cho những kẻ sẵn có
tánh nết khác lạ ấy sanh khởi hành vi cuồng vọng, ra sức phóng túng, tà vạy. Nếu
những kẻ ấy được dạy dỗ đàng hoàng thì nếu cùng quẫn sẽ riêng mình thiện, khi
hiển đạt sẽ làm cho kẻ khác đều cùng thiện. Vì thế, Quang cực lực đề xướng dạy
dỗ con cái để mong thiên hạ thái bình, nhân dân yên vui. Điều quan trọng là dạy
cho [con cái] biết rõ sanh tử, luân hồi, nhân quả, báo ứng, giáo pháp ấy tuy
thông thường nhưng lợi ích hiển nhiên đến tột bậc! Đừng làm các điều ác, vâng
giữ những điều lành, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, đấy chính là một
đại pháp môn để ngàn đức Phật, vạn đức Phật phổ độ chúng sanh khiến cho gần là
thoát sanh tử, xa là thành Phật đạo. Đọc kỹ Văn Sao sẽ tự biết trọn vẹn!
540.
Thư trả lời cư sĩ Lâm Tán Hoa
(thư thứ nhất)
Trước
đây đã nhận được thư nhưng do bận bịu chưa thể trả lời ngay. Cổ nhân nói: “Bốc dĩ quyết nghi, bất nghi hà bốc”
(bói để giải lòng nghi; không nghi, bói làm gì). Như ông hỏi: “Niệm Phật là Chủ,
nghiên cứu Giáo là Trợ. Tùy duyên độ người, hồi hướng An Dưỡng” thì cần gì phải
hỏi [làm như vậy] là đúng hay không? Đối với chuyện Trí Tĩnh đọc tụng Lăng
Nghiêm, cần gì phải ngăn cấm? Niệm Phật, tụng kinh, về lý chẳng hai, nhưng phải
nên lắng lòng trì tụng, chớ nên chỉ chú trọng nghiên cứu văn nghĩa. Làm như thế
thì ý Phật còn lãnh hội được, huống là văn nghĩa ư? Lý Trác Ngô[35]
tuy có tri kiến hơn người, nhưng hành vi đa phần trái nghịch, sai bậy, dẫu tri
kiến hơn người vẫn chưa khỏi lệch lạc, tà vạy! Há nên nhất loại coi những kẻ chỉ
trích, phê phán ông ta là ngoan cố ư? Ngài Ngẫu Ích dẫn lời ông ta là do Ngài
chẳng vì [thấy tánh cách] của một con người [có những điểm đáng chê trách] mà sổ
toẹt những lời [hữu lý] của người ấy. Ông cho rằng ngài Ngẫu Ích đã dẫn lời ông
ta thì mọi lời lẽ của ông ta đều đáng lấy làm khuôn phép ư? Tôi chưa từng đọc sách
của Trí Ngô, nhưng đọc tiểu truyện của Trí Ngô trong Cư Sĩ Truyện và những chỗ
người đời trước chỉ trích những chỗ trái nghịch, sai lầm của Trí Ngô thì cũng
có thể biết ông ta là người như thế nào. Ấy là vì ông ta thiên tư cao nhưng xen
tạp tánh cuồng vọng, chống đối, chưa thể tận lực tu tập đạo “thành ý, chánh
tâm, đánh đổ ham muốn xằng bậy của chính mình để khôi phục lễ nghĩa” của thánh
hiền, cũng đáng tiếc lắm!
Để phá những mê chấp của các
nhà triết học, khoa học, cố nhiên nên lấy duy tâm duy thức làm chủ, nhưng cần
phải đề xướng nhân quả báo ứng thì nghĩa duy tâm duy thức mới được hoàn toàn
viên mãn. Tính kế sách cho hiện tại thì hãy nên cực lực đề xướng “giữ vẹn luân
thường, trọn hết bổn phận, hiểu nhân, rõ quả” và giáo dục trong gia đình, nhưng
đối với giáo dục trong gia đình lại càng cần phải chú trọng nhân quả báo ứng.
Hiện thời cõi đời loạn lạc đến cùng cực, dân không lẽ sống đều do chẳng nói đến
nhân quả báo ứng và giáo dục trong gia đình mà ra. Kẻ biết tốt - xấu chắc sẽ
không cho lời tôi nói là sai lầm, xằng bậy! Hình dáng Quang làm sao giống như
tướng Phật cho được? Hãy nên thường lễ Phật, kính cẩn chiêm ngưỡng, đừng nhớ tới
hình dáng của Quang!
541.
Thư trả lời cư sĩ Lâm Tán Hoa
(thư thứ hai)
Giảng
diễn về sự giáo dục thông tục đã chẳng thể nói đến Phật pháp thì hãy lấy những
đạo lý luân thường trong sách Nho làm chủ và dẫn những sự lý về nhân quả báo ứng
trong sách Nho, như “thiên tác nghiệt do
khả vi, tự tác nghiệt, bất khả hoạt” (trời gieo oan nghiệt còn có thể né
tránh được, chứ tự mình gây ra oan nghiệt sẽ chẳng thể sống sót được)[36].
Lại còn: “Tích thiện chi gia tất hữu dư khánh,
tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương” (nhà tích thiện ắt sự vui có thừa,
nhà tích điều bất thiện, tai ương có thừa) v.v… để bọn họ biết đến lý nhân quả,
Nho giáo vốn có lý ấy, sự ấy. Đã biết nhân quả sẽ chẳng dám làm bậy, gian trá nữa!
“Cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm,
tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” phải từ Trung Thứ mà khởi. Trung
là chẳng dối tự tâm, Thứ (khoan dung) là từ mình nghĩ đến người. Đã trung thứ
thì hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ v.v… đều hành được.
Ông đã xin đặt pháp danh cho
cha mẹ mà ngay cả tên tuổi cũng không viết ra, đáng gọi là kẻ thô tâm! Nay đặt
pháp danh cho họ là Đức Thâm, Đức Uyên. Xin hãy khuyên họ quyết định cầu sanh
Tây Phương, chớ nên cầu phước báo trời người trong đời sau. Nếu được phước báo
trời người trong đời sau thì phước báo ấy sẽ thành gốc họa. Phước báo càng lớn,
tạo nghiệp càng to. Tạo nghiệp càng to, chịu khổ càng lớn! Nhất tâm niệm Phật cầu
sanh Tây Phương sẽ đáng gọi là Đức Thâm, Đức Uyên. Nếu không, sẽ là Nghiệp Thâm,
Nghiệp Uyên, từ kiếp này sang kiếp khác chẳng thể thoát lìa! Chẳng đáng buồn
sao? Tôi chưa biết đến sách Tuyên Giảng Đại Toàn, sẽ tìm hỏi xem. Tháng Chín
năm nay, tôi sẽ diệt tung tích, ẩn náu lâu dài; trong tháng Tám chớ nên gởi thư
đến nữa để khỏi bị thất lạc.
542. Thư trả lời cư sĩ Lâm Tán Hoa (thư thứ ba)
Ba
người bạn muốn quy y, nay đều đặt pháp danh cho họ. Những điều khác đã nói tường
tận trong Văn Sao và một lá thư dài, xin mọi người ai nấy đều chú trọng thực
hành, đừng chỉ kiếm danh xuông, kẻo chẳng được lợi ích chân thật! Những lá thư
còn giữ lại tùy ông sắp xếp, Quang không hỏi tới nữa! Nếu pháp “khi sanh nở niệm
Quán Âm” được lưu hành rộng rãi thì thiên hạ sẽ không có chuyện khó sanh và do
sanh nở mà bị mất mạng cũng như sanh xong bị băng huyết nguy hiểm, con cái sau
khi sanh ra bị các chứng kinh phong cấp tính hay mạn tính nguy hiểm. Mỗi người
hãy nên cung kính sao ra một bản để lưu truyền vĩnh viễn trong gia đình. Đấy là
lời Phật nói, nhưng người xưa chưa đề xướng. Người đời nay sát nghiệp lẫn tình
dục đều nặng nên sản nạn rất nhiều. Vì thế mới chẳng thể không chỉ dạy rõ ràng
vậy!
543. Thư trả lời cư sĩ Lâm Tán Hoa (thư thứ tư)
Đang
trong thời thế cả nước như cuồng này, cố nhiên tục đã đáng chán, mà Tăng cũng
đáng buồn! Đôi bên trái pháp đến nỗi thành ra hiện tượng ấy. Hội Phật giáo các
xứ đều là diễn lại chuyện cũ một cách hư rỗng để tạm thời ngăn ngừa người ngoài
khinh lấn, nhưng lâu ngày chầy tháng ắt sẽ sụp đổ, không lập được cách gì nữa! Phổ
Đà Phật Học Viện chỉ có cái danh mà thôi! Muốn học Giáo sao chẳng qua chùa Quán
Tông ở Ninh Ba mà lại muốn đến chùa Phổ Đà vậy? Trong mấy năm gần đây, ông X…
chịu ảnh hưởng của trào lưu mới, mùa Hạ này bị bệnh nặng mới biết hổ thẹn, nói “muốn
dụng công mười năm rồi mới hoằng pháp!” Trong cõi đời hiện thời, trừ đề xướng
nhân quả báo ứng và giáo dục trong gia đình ra, dẫu Phật, Bồ Tát, thánh hiền
cùng xuất hiện trong cõi đời cũng chẳng biết làm sao! Xin hãy đọc kỹ Văn Sao sẽ
tự biết. Nếu có thể xét kỹ thì không điều nghi nào chẳng cởi gỡ được!
544. Thư trả lời cư sĩ Lâm Tán Hoa (thư thứ năm)
Tà
thuyết ngoại đạo đều chẳng đáng lo, cái đáng lo là Tăng phần nhiều chẳng biết
pháp và những gã cuồng Tăng xưng bừa là hoằng pháp nhưng thật ra là diệt pháp!
Thế lực của họ rất lớn, nếu chẳng phải là bậc thánh nhân thần thông sẽ chẳng biết
làm sao được! Quang là một tăng nhân tầm thường chỉ biết cơm cháo, đã không có
đạo đức lại chẳng có tiếng tăm gì, làm sao có thể xoay chuyển lũ quyến thuộc
trong ngoài của ma vương ấy, khiến cho bọn họ giữ lòng chánh niệm, chẳng bị những
tà thuyết ấy mê hoặc ư? Đừng nói chẳng soạn luận, dẫu có soạn cũng chẳng ích
gì! Nếu các Tăng - tục ấy đều nương theo lời Phật, hành theo hạnh Phật thì những
kẻ có ý muốn diệt Phật pháp trông thấy đạo hạnh ấy cũng sẽ khâm phục, kính ngưỡng
khôn cùng, lại còn muốn hộ trì. Huống là những vị có hành vi càng sâu xa hơn nữa
ư? Hiện thời muốn hộ trì Phật pháp, không chi cấp bách hơn là tận tụy thực hành
đạo “giữ vẹn luân thường, nhân nghĩa” và pháp tín nguyện niệm Phật! Sợ ông lầm
lạc mong Quang soạn văn nên đặc biệt chỉ ra tình trạng không thuốc chữa, chỉ
mong ông thấu hiểu sâu xa!
545. Thư trả lời cư sĩ Lâm Tán Hoa (thư thứ sáu)
Đại
kiếp này vốn đã ươm mầm nhiều năm, nay mới phát hiện. Ví như nhọt chưa chín muồi,
nếu kẻ ngu lúc bình thường chẳng chữa trị thì khi nhọt loét ra, sẽ khó thể chữa
lành ngay được! Dẫu chẳng thể không tận hết sức người, vẫn khó thể chắc chắn
vãn hồi được. Hiểu rõ điều này sẽ chẳng đến nỗi sanh lòng áo não xuông, oán trời,
hận người. Ông Nhiếp Vân Đài[37]
do dụng tâm quá độ, hiện thời đang phải dưỡng bệnh, chẳng thể giao thiệp với ai
được.
Nghe nói ông X… đã sang Hồ Bắc,
người này đã được ông Y… hun đúc, nên trong tri kiến ông ta chỉ nghĩ Duy Thức là
đúng, các hạnh môn khác đều coi thường. Mùa Hạ này bị bệnh nặng mới thống thiết
hối hận sai lầm, chẳng biết rốt cuộc gần đây ra sao? Xin hãy đừng qua lại với hạng
người như vậy để khỏi bị họ xoay chuyển. Tất cả những hiện tượng trong hiện thời
đúng là nhằm thôi thúc con người chuyên tu Tịnh nghiệp để cầu vãng sanh. Đang
trong lúc này mà vẫn cứ hờ hững, hời hợt muốn làm đại thông gia thì đã chẳng thể
tự lợi mà còn chẳng thể lợi người, tính toán cũng sai lầm quá đỗi vậy!
546. Thư trả lời cư sĩ Lâm Tán Hoa (thư thứ bảy)
Giảng
kinh thì việc gì cứ phải mỗi năm giảng một kinh, chẳng thể giảng trùng lặp ư?
Đã phải ăn cơm hằng ngày sao lại ngại phải lập đi lập lại? Tâm Kinh nghĩa lý
uyên thâm, làm sao kẻ sơ cơ được lợi ích? Dẫu có sở đắc cũng chỉ là hiểu nghĩa [trên
mặt văn tự] mà thôi! Sao bằng pháp môn Tịnh Độ hễ nghe liền có thể thực hành được
ngay! Kể cả phẩm [Phổ Hiền] Hạnh Nguyện cũng không nhất định phải giảng nhiều bữa.
Đức Phật đem những nghĩa lý uẩn súc, uyên áo trong sáu trăm quyển Đại Bát Nhã nêu
tỏ chẳng sót trong hai trăm sáu mươi chữ [của Tâm Kinh], cần gì cứ phải kéo dài
lan man, chỉ cốt nói rộng nói nhiều để phô tài ăn nói vậy?
Đạo
Xước thiền sư là bậc cao tăng lỗi lạc, chuyên hoằng dương Tịnh Độ. Ngài thọ bảy
mươi mấy tuổi, suốt đời giảng ba kinh Tịnh Độ gần hai trăm lượt. Nếu Ngài bắt đầu
giảng từ năm hai mươi tuổi thì trong năm mươi mấy năm, mỗi năm phải giảng hai
ba lượt mới được như thế!
Qua lá thư gởi cho một vị cư
sĩ trong Triệt Ngộ Ngữ Lục, [ngài Triệt Ngộ Mộng Đông] đã viết: “Trong một mùa Hạ hai lượt giảng xong Lăng
Nghiêm; nào ngại Hạnh Nguyện văn dài chẳng thể giảng xong trong bảy ngày?”
Bảy ngày là quá rút gọn, có lẽ nên giảng mười ngày. Giảng kinh đâu có quy củ nhất
định buộc người giảng phải tận hết sức Đông kéo Tây lôi, chẳng chịu chỉ điểm
ngay chỗ chánh yếu? Tri kiến của ông là tri kiến tràn lan, không biết giữ lấy
chỗ giản ước, cứ muốn dùng sự rộng rãi để tạo lợi ích cho kẻ sơ cơ thì đấy là
chuyện tạo dựng môn đình vậy! “Một đêm
trò chuyện cùng anh, còn hơn đọc sách lanh quanh mười mùa. Để chữa lành bệnh
đâu cần tới lượng thuốc nhiều đến nỗi phải dùng lừa, lạc đà để chở”. Đấy đều
là những lời cổ nhân giáo huấn về cách giữ lấy sự giản ước vậy!
Hiện nay chiến sự phát sanh, đối
với chuyện sau này chớ nên lo liệu ngược ngạo, hãy nên khuyên hết thảy già - trẻ
- trai - gái cùng niệm A Di Đà Phật và niệm Quán Thế Âm Bồ Tát để cầu hễ còn sống
sẽ tránh được tai họa này, chết rồi sẽ về Cực Lạc. Giảng kinh vẫn chưa phải là
nhiệm vụ cấp bách hiện thời, điều cấp bách nên làm là thông cáo hết thảy già - trẻ
- trai - gái cùng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát để sau khi thái bình rồi hãy giảng
kinh, nhất là phải lấy việc “tạo cho kẻ sơ cơ có lòng chánh tín nơi Tịnh Độ”
làm đầu!
Nghê Thương Cần, Thí Lập Khiêm
đã biết quy y, đều đặt pháp danh cho mỗi người. Nghê Thương Cần pháp danh là
Tông Cần. Niệm Phật cầu sanh Tây Phương, tự hành, dạy người, đều phải lấy Cần (siêng
năng) làm gốc. Nếu lười nhác biếng trễ sẽ khó được thành công! Thí Lập Khiêm
pháp danh là Tông Khiêm. “Khiêm” là chẳng tự thỏa mãn, chẳng cho là đủ, như biển
dung nạp trăm sông, như hư không bao trùm muôn hình tượng. Mọi thứ tội nghiệp đều
do Khiêm mà tiêu. Đủ mọi công đức đều do Khiêm mà thành tựu.
Nay gởi cho ông và hai người ấy
một gói Tịnh Độ Thập Yếu, xin hãy chia ra tặng. Quang già rồi, mục lực lẫn tinh
thần đều không đủ, từ nay chớ nên thường gởi thư tới. Chỉ nên dựa theo những điều
đã nói trong sách Thập Yếu để tu thì đâu có thiếu sót gì mà cần phải thường hỏi
han! Nếu chẳng chú trọng chuyên tu Tịnh Độ, cứ muốn thông suốt khắp các giáo
nghĩa thì một hai lá thư cũng chẳng thể đạt được mục đích ấy! Xin hãy sáng suốt
suy xét. Sách Thập Yếu chính là sách trọng yếu trong tông Tịnh Độ. Đừng toan
tính những chuyện ham cao chuộng xa thì sẽ đạt được lợi ích tối cao tối thắng!
Một Lá Thư Trả Lời Khắp cũng nói những chuyện mọi người đều phải gấp nên chú trọng!
547. Thư trả lời cư sĩ Lâm Tán Hoa (thư thứ tám)
Đường lối để tạo vinh dự cho
cha mẹ của kẻ làm con chính là siêng năng tu đức để hết thảy mọi người đều vì
kính trọng ta mà tưởng nhớ đấng sanh ra ta. Đấy mới là phương pháp quan trọng
nhất. Thường thấy người đời khi cha mẹ đã khuất bèn phân phát cáo phó rộng khắp,
bịa đặt kể lể công trạng, đến các nơi xin những người có danh vọng, có địa vị ghi
lời tán tụng, viết tiểu sử, đề bài minh, bài biểu, chứ không miệt mài chú trọng
gắng sức tu đức, thể hiện lòng nhân để mong tạo thanh danh cho cha mẹ.
Tôi thường nói: “Người đời đa số chuộng danh ghét thật, chỉ
muốn phô trương trong một lúc, chứ chẳng nghĩ dùng sự tận tụy [tu đức] nơi thân
mình để tưởng nhớ báo đền cha mẹ”. Cha mẹ ông đã tin nhận Phật pháp, ông
cũng đã biết những nghĩa “tâm sẵn đủ, tâm
tạo, tâm làm, tâm là”, trong tương lai, khi cha mẹ nằm xuống, phàm những
chuyện ma chay, tế lễ, đãi khách v.v… đều tuân theo cấm chế của nhà Phật, đừng
dùng rượu thịt, kiêng giết, làm lành để xướng suất cho cả làng. Những vị như
Ngô Trí Hinh v.v… cũng đã sớm đem đạo lý này dặn dò con cháu. Hết sức khẩn yếu!
Bài ký nêu duyên khởi của Tịnh
Nghiệp Xã tôi đã soạn xong, nay đem gởi đi. Dựng bia chẳng có lợi ích lớn lao bằng
treo bảng vì chữ khắc trên bia chẳng thể phóng to được, bởi lẽ đá lớn sẽ tốn tiền.
Hơn nữa, có ai chịu đứng xem? Trong trăm người, chỉ được một hai kẻ chịu đứng
xem. Bảng thì dùng gỗ cứng để làm, [còn bài ký ấy thì] hoặc khắc, hoặc [chép ra
giấy] dán vào bảng, treo nơi chỗ ngồi, ắt sẽ có nhiều người xem. Lúc viết cần
phải dùng kiểu chữ Khải theo lối Chánh Thể. Chữ viết đừng quá nhỏ, cũng đừng để
sai ngoa, thiếu sót, hay thừa thãi.
Quang bận rộn cùng cực, đã cự
tuyệt hết thảy, chuyện này là ra ngoài thông lệ. Từ nay chớ nên đem chuyện bút
mực sai phái nữa! Nếu vẫn gởi thư đến, quyết chẳng trả lời. Văn từ trong bài sớ
mấy dòng đầu có chỗ từ lẫn ý chẳng được thông suốt cho lắm, phần văn sau tuy
trôi chảy, nhưng chỉ chú trọng câu chữ bóng bảy, chứ không nêu rõ được sự thật.
Văn nhân viết văn quá nửa là lời văn sắc sảo, nhưng không đạt được ý! Nói hoa mỹ,
bóng bảy đến cùng cực, chứ về mặt nêu bày sự thực lại chỉ phảng phất lờ mờ, nhưng
đã kể như là thiết thực lắm rồi!
Nay gởi cho ông một gói Tịnh Độ
Ngũ Kinh, ngoài những cuốn tự giữ ra, những cuốn khác hãy dùng để kết duyên.
Quang do bốn bộ Sơn Chí Ngũ Đài, Nga Mi, Cửu Hoa, Linh Nham bức bách không thể
trì hoãn được nên đã cự tuyệt hết thảy để mong sớm hoàn tất chuyện này. Hãy nên
sao bài ký nêu duyên khởi thành một bản để gởi cho ông Mạnh Do.
548. Thư trả lời cư sĩ Lâm Tán Hoa (thư thứ chín)
Chuyện
học nghề thuốc cần phải hết sức thận trọng. Chưa học kỹ Trung Y sao lại học
Châm Cứu? (Chữ Cứu (灸) âm đọc [gần giống như chữ] Cửu
(久), nhưng người đời thường viết
sai thành Chích (炙)[38].
Các sách thuốc lưu hành hiện thời cũng [viết sai] như thế, sao chẳng biết chữ
này?) Tôi không biết rõ ở Tô Châu có sở huấn luyện
châm cứu hay không, nhưng dẫu có đi nữa, thì đấy cũng chẳng phải là nơi người
nghèo theo học được. Thái Ất Thần Châm[39]
chẳng phải là bí truyền, nhưng phải hết sức cẩn thận khi án huyệt (nhận định
đúng vị trí của huyệt đạo) để cứu. Đồng Nhân Đường ở Bắc Kinh có bán thuốc để
châm cứu đã chế sẵn. Toa thuốc cũng công bố, ai muốn tự chế thì làm. Trong toa
thuốc có chất Xạ[40]
và bọ cạp nguyên con, hai vị thuốc ấy cũng chớ nên dùng.
Nếu người niệm Phật dùng Đại
Bi Chú và thánh hiệu Quán Âm để gia trì [thuốc rồi mới châm cứu] ắt sẽ càng hữu
hiệu. Có điều các pháp được liệt kê thêm ở cuối sách (đã quên mất tên
sách) dường như chẳng hợp thời nghi. Những sách
vở khác Quang đều không biết. Trước đây, Trần Cánh Phi đã nói: “Muốn ở trong
núi tu hành”, Quang đã bảo là không nên. Ông muốn Quang hạ một lời bổng hát[41]
thống thiết, bèn nói “luôn luôn nghĩ đến những chuyện sai trái”. Sao không nói
rõ chuyện ấy? Sao chẳng biết sự vụ đến mức như thế? Mắt Quang đã thành lòa,
tinh thần giảm sút đáng kể, chẳng thể thù tiếp được, từ nay đừng gởi thư tới; gởi
đến quyết không trả lời!
549. Thư trả lời cư sĩ Lâm Tán Hoa (thư thứ mười)
Ông
làm giáo viên kiêm hoằng dương Phật pháp, hãy nên tùy phận tùy sức, sao lại cưỡng
cầu nhân sĩ các giới phải tin tưởng, ngưỡng mộ? Lấy thân làm gương, đấy là căn
bản. Nếu trong những hành vi, lời lẽ có gì thiếu sót sẽ chẳng thể làm cho người
khác sanh lòng tin tưởng được! Cái học bên ngoài dù cao, nhưng cái hạnh thật sự
không có, ông muốn thông suốt thêm cũng chỉ là uổng công. Bởi lẽ “dùng lời để dạy sẽ bị tranh cãi; dùng thân
để dạy, người khác thuận theo”. Đây là chương trình “tự lợi, lợi người, tự
lập, lập người” [chắc chắn như] sắt thép vậy!
Trang nghiêm tượng Phật thì với
vàng [để thếp] hãy nên lấy màu sắc để định, há nên chấp chặt hẹp hòi phải là thứ
này, thứ nọ? Nhà nào (tức tiệm bán vàng) thường tốt, nhà nào thường gian dối? Nếu
chính mình có thể mua thì được, chứ nếu cậy người khác chắc sẽ có chuyện tệ hại,
Quang chẳng thể hỏi giùm chuyện này được! Phàm mọi chuyện đều phải tuân theo
chương trình: Tượng vẽ có người đương cơ quỳ ở trước thì có thể vẽ theo cách thức
[đức Phật] xoa đầu [kẻ đương cơ]. Nếu không có người đương cơ quỳ ở trước thì
chớ nên lầm lạc sửa đổi cách thức sẵn có. [Tạo tượng A Di Đà Phật] xòe tay tiếp
dẫn rất nên!
Người trong liên xã dám chửi kẻ
khác trước tượng Phật, tội đáng chết muôn phần! Đêm mộng thấy thần [hộ pháp] trách
phạt, đăng báo [chuyện ấy] sẽ có thể cảnh tỉnh người khác; nhưng trong xã quy
(quy củ của liên xã) hãy nên vạch rõ lỗi miệt thị người khác. Hễ xã quy nghiêm
túc thì sẽ tự chẳng có thái độ xấu hèn ấy nữa! Hút thuốc phiện cũng thế, nếu kẻ
hèn kém thiếu chí hướng [đã nắm giữ chức vụ, trót nghiện ngập nhưng] chẳng chịu
sửa đổi thì hãy buộc họ từ chức. Nay gởi cho ông một gói sách, trong ấy có hai
bộ Ngũ Đài Sơn Chí, mười cuốn Hám Sơn Niên Phổ Sớ, một số trang toa thuốc trị
chó dại cắn.
550. Thư trả lời cư sĩ Mậu
Trí Tu
Sau
khi tự quy y, bèn thật thà niệm Phật, chẳng lười nhác chút nào, tôi [cảm thấy] vui
mừng, an ủi đến tột bậc! Cư sĩ Châu Dung Đường đăng lính thay cho cha, lòng hiếu
đáng khen ngợi. Đã biết đời người lắm sự khổ, do vậy dốc sức tu Tịnh nghiệp.
Con người như thế mới là đệ tử thật sự của đức Phật. Ông ta đã bảy mươi ba tuổi,
sanh cùng năm với Quang. Nay muốn quy y, chẳng cần phải đi xa; chỉ nên nương
theo lời dạy trong Gia Ngôn Lục và Sức Chung Tân Lương để tự mình tu trì và dạy
dỗ con cháu trong nhà để mong khi lâm chung sẽ được họ trợ niệm, chẳng đến nỗi
phá hoại Tịnh nghiệp, kẻo vẫn luân hồi trong lục đạo chịu nỗi khổ sanh tử luân
hồi.
Nay đặt pháp danh cho ông ta
là Đức Ấm, nghĩa là có thể nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, ắt sẽ được đức
Phật rủ lòng Từ che chở, tiếp dẫn vãng sanh. Trong hằng ngày, dùng những điều ấy
để tự hành, lại còn đem dạy người thì hết thảy mọi người sẽ đều được che rợp bởi
lòng Từ của đức Phật. Vì thế nên gọi là Đức Ấm. Xin hãy nói với ông ta, tùy
[ông ta chọn] một ngày nào đó, đối trước tượng Phật đảnh lễ, tự thệ quy y là được!
551. Thư trả lời cư sĩ Vương Nghiễn Sanh (thư thứ nhất)
Thư nhận được đầy đủ.
Quang là một tăng nhân chỉ biết cơm cháo, há nên khen ngợi quá lố như thế? Chuyện
lập đàn cầu cơ Quang một mực chẳng xiển dương, bởi những lời giáng cơ phần nhiều
đều là mạo danh, chứ không phải mỗi mỗi đều do chân tiên giáng lâm, huống là Phật
ư? Bài văn do Quán Âm đã nói [trong buổi cầu cơ] lần này, cũng là mạo danh! Tôi
đoán bài văn ấy chắc là do họ đã sao lục bài văn cũ để đưa ra. Nếu không, sao
trong văn từ lại thường có những chỗ chẳng thể hiện được ý? Những điều được nói
trong ấy cũng phần nhiều là tán loạn, lan man, chẳng chỉ ra rõ ràng, rộng rãi
những điều quan trọng cho lắm! Cố nhiên Quang chẳng dám tự phụ là thông minh,
nhưng nếu các vị coi đó chính là lời đức Quán Âm nói, chắc sẽ bị người khác chê
cười! Do vậy tôi bèn sửa chữa đôi chút, so với bản trước đây trôi chảy hơn một tí,
nhưng đừng nói rõ là Quang đã sửa chữa.
Ông Khâu vãng sanh Tịnh Độ rồi
trở lại cõi này cố nhiên chẳng đáng nghi, nhưng do [các ông] chấp kinh văn mà chẳng
hiểu ý kinh nên trở thành mối nghi lớn! “Một
đại kiếp trong cõi Sa Bà bằng một ngày đêm nơi Cực Lạc”, câu này giảng rõ
thời gian ở Cực Lạc. Còn nói “một ngày, một đêm, bảy ngày, một kiếp, mười hai đại
kiếp” v.v… là đều ước theo thời gian phương này (cõi Sa Bà) để nói! Vì sao biết?
Vì người lợi căn hoặc độn căn ở phương này do thành khẩn đến cùng cực liền có
thể trong mấy chục ngày hoặc mấy năm sẽ đại triệt đại ngộ và đích thân chứng được
tam-muội, há lẽ nào người đã vãng sanh Tây Phương, trụ trong cảnh giới thù thắng,
nhiệm mầu, thường được thần thông, oai đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật, Bồ Tát gia
bị, so với người trong cõi [Sa Bà] này lại hưởng lợi ích chậm trễ gấp mấy lần sự
khác biệt giữa ngày và kiếp ư? Sự này, lý này, há đợi kẻ trí [giải thích] mới
biết ư? Các vị chẳng khéo hiểu ý [kinh văn], ăn nói điên đảo, nên mới phạm sai
lầm như thế!
Huống chi thời kiếp bất định,
thần thông đạo lực của Phật, Bồ Tát lại chẳng thể rút ngắn thời gian cả kiếp
thành một niệm ư? Hoặc chẳng thể kéo dài một niệm thành cả kiếp dài lâu ư? [Các
ông] chấp chặt [ông Khâu đã vãng sanh] năm năm lẽ ra không nên trở lại cõi này
là vì chấp vào kinh văn [thành ra] trái nghịch ý nghĩa của kinh. Được Quang nói
lời này, mọi mối nghi tự cởi gỡ. Huống chi người vừa mới vãng sanh liền trở lại
báo [cho người cõi này biết] đều là do nương vào oai thần của A Di Đà Phật, muốn
nhờ vào đó để khơi mở, chỉ dạy kẻ mê tối, chứ không phải do sức của chính mình
mà có thể tự tiện làm chuyện ấy được! Còn như ông Kế tức thời sanh Tây, chẳng vượt
thời hạn để quay trở lại báo tin, đều thuộc về nghĩa này.
Như [các ông chấp nệ kinh] nói:“Tu Đà Hoàn bảy lần sanh lên trời, bảy lượt
sanh trong nhân gian” chính là đã lầm lẫn đem chuyện của bậc Tu Đà Hoàn cõi
này để luận bậc Tu Đà Hoàn cõi Cực Lạc! Sự lầm lẫn ấy khiến cho người khác bị lầm
lạc chẳng nhỏ đâu nhé! Trong cõi kia tuy có loại danh tự Tiểu Thừa ấy, nhưng thật
ra họ đều đã liễu sanh tử, dự vào Bồ Tát thừa. Chẳng qua là tạm dùng các địa vị
đã chứng được mà đặt tên như thế. Nếu các vị dùng ngay địa vị Tu Đà Hoàn trong
cõi [Sa Bà] này để luận thì hóa ra trong Tây Phương Cực Lạc thế giới vẫn chưa
liễu sanh tử, vẫn luân hồi y như cũ ư? Sao chẳng thấu hiểu thật lý, thật sự nơi
hai cõi, cứ lầm lạc sanh khởi những thứ nghị luận sai quấy này? Chẳng sợ trái
kinh lầm người đến mức như thế đấy!
Hiện thời ai nấy đều nên nghiêm
túc tu Tịnh nghiệp thì mới đạt được lợi ích thật sự. Nếu học Thiền ngoài miệng
thì tuy là nhân lành, nhưng nhất định sẽ chuốc lấy quả ác! Thế đạo hiện thời bại
hoại đến cùng cực. Nếu muốn vãn hồi, cần phải đề xướng nhân quả, báo ứng, lại
phải chú trọng dạy dỗ con gái! Bởi lẽ, nếu không dạy dỗ con gái thì chẳng những
nó không thể giúp chồng dạy con thành tựu đức hạnh, mà trái lại còn giúp chồng dạy
con làm ác. Đấy chính là cội rễ khiến cho nước ta tan hoang, loạn lạc vậy! Bỏ
hai pháp này mà muốn thiên hạ thái bình, nhân dân yên vui, dẫu Phật, Bồ Tát, thánh
hiền cùng xuất hiện trong cõi đời đều không thể đạt được lợi ích thật sự! Huống
chi con người hiện thời sẵn có chủ kiến cuồng ngạo, trái nghịch ư?
Các vị đã cầu cơ tức là chẳng
hợp với tông chỉ tu Tịnh nghiệp. Nhưng các vị còn hiểu rõ lý, so với những kẻ sùng
phụng cầu cơ khác còn cao hơn một bực. Do vậy, tôi gởi sách cho các vị. Nếu chịu
đọc kỹ, chắc sẽ biết đầy đủ nguyên do. Quang bận bịu đến cùng cực, từ nay chớ
nên thường gởi thư tới hỏi dông dài như thế nữa! Chỉ nên đọc kỹ các sách như
Văn Sao v.v… thì không mối nghi nào chẳng cởi gỡ! Những điều khác đã nói tường
tận trong Văn Sao, không viết chi tiết ở đây!
552. Thư trả lời cư sĩ Vương
Nghiễn Sanh (thư thứ hai)
Tôi
đã đọc hết thư gởi đến. Vì độ chúng sanh nên Phật, Bồ Tát thị hiện sanh trong
thế gian. Nhìn từ phía chúng sanh thì các ngài cũng có sanh tử, chứ nhìn từ
nhãn quan của các vị Phật, Bồ Tát thì quả thật không có sanh tử. Ví như huyễn mộng,
tuy có nhưng chẳng thật, nhưng hễ có sanh tử thì có khổ, không sanh tử thì
không khổ. Há nên chia thành hai thứ “liễu sanh tử khổ” và “liễu sanh tử”? Tử
chính là khổ bởi có sanh tử. Đã liễu sanh tử thì sẽ tự không có khổ!
Cần biết rằng: Chính vì chúng
sanh mà Phật, Bồ Tát thị hiện tướng sanh tử ấy, chứ không phải thật sự vì trước
đó các Ngài chưa liễu sanh tử, đến nay mới liễu! Chuyện phóng sanh trứng cá được
chép trong bộ sách, tuy có hai chữ “Phật
ngôn”, nhưng cũng chưa từng thấy xuất phát từ kinh nào. Há nên vì lẽ ấy mà
khiến cho người khác báng pháp? Trong cõi đời có bao nhiêu kẻ thả trứng cá đâu?
Cần biết rằng: Chỗ gần biển ở phương Nam khác với các sông biển thông thường. Cá
biển hễ gặp phải nước ngọt sẽ chết ngay, còn cá trong sông ngòi gặp phải nước mặn
liền chết tươi. Nếu chưa biết rõ xuất xứ của chúng, dẫu có muốn cho nó sống, nó
cũng chẳng thể sống được. Phóng sanh là nhằm cảm phát lòng Từ kiêng giết ăn
chay của con người, há nên chuyên muốn chú trọng thả cho nhiều, để rồi tìm tòi,
giảng nói chuyện chẳng cấp bách ấy ư?
Nên biết rằng: Chuyện trong thế
gian có nhiều chuyện chẳng thể dùng lý hay sự để luận được. Một người bạn kể: “Một
năm nọ, tại một xứ nọ thuộc vùng Giang Bắc gặp dịch châu chấu, người địa phương
xin quan đi khám nghiệm. Có một chỗ dài đến mấy dặm, rộng hai ba dặm, châu chấu
non còn chưa mọc cánh bò lúc nhúc, dày đến hơn một thước. Người đạp lên, chân
ngập đến mấy tấc, khôn ngăn kinh hoảng đến cùng cực. Quan gấp sai đào hố để
chôn đi, nhưng buổi chiều trời đổ một trận mưa to, [châu chấu] hoàn toàn tiêu
diệt hết”. Loại châu chấu ấy rốt cuộc là loại châu chấu nào? Những con châu chấu
non do chúng sanh ra đều là hóa sanh, hiện ra tướng tai nạn ấy. Năm nay vùng
Giang Bắc cũng có nạn châu chấu dày mấy tấc, đường xe lửa bị nghẽn. Trước hết
phải đuổi chúng đi rồi mới dám mở đường. Phàm người tu hành hãy nên dốc sức nơi
chỗ quan hệ khẩn yếu lớn lao. Nếu hờ hững hời hợt tìm tòi, sợ sẽ chẳng có tinh
lực để lo liệu được đâu!
553. Thư trả lời cư sĩ
Phó Pháp Lâm
Đã
nhận được Dã Truật[42],
vẫn chưa bị mốc. Một người bạn ở Giang Tây nói: “Nếu chẳng chế biến mà ăn vào sẽ
bị đầy hơi”. Ông ta biết cách chế biến, sẽ chế biến để kết duyên. Những sách con
kể tên trong thư, có loại không còn, có loại hãy còn. Loại nào còn thì ta gởi đến
cho con, không còn thì chẳng thể nào gởi được! Nhưng đã có Văn Sao, An Sĩ Toàn
Thư, Gia Ngôn Lục, Cảm Ứng Thiên Trực Giảng v.v… thì tuy các loại khác không có
cũng đâu có thiếu sót gì! Điều đáng tiếc là tuy có sách mà chẳng xem thì cũng
như không có! Tuy xem nhưng chẳng tu trì theo đó thì cũng như không xem!
Thiện thư quý ở chỗ lưu thông,
nhưng cần phải là người hơi có tín tâm, thông đạt văn lý thì mới nên biếu tặng.
Lúc tặng lại nên nhắc nhở họ hãy đem lòng cung kính [xem đọc], đừng khinh nhờn.
Nếu khinh nhờn, ắt mắc tội lỗi! Những sách ấy đều là phương tiện dẫn đường để nhập
thánh siêu phàm, chớ nên rẻ rúng giống như hết thảy những loại tiểu thuyết hoặc
sách giải trí thì sẽ có ích đôi chút. Nay đem các loại sách ấy gởi chung trong
một bao. Nếu nhận được sách, xin hãy gởi thư báo cho thầy Minh Đạo ở chùa Thái
Bình biết. Từ nay về sau đừng gởi thư đến nữa, do Quang đã diệt tung tích,
không ai lo liệu đâu!
Con còn nhỏ tuổi, hãy nên dốc
hết sức làm người. Ắt phải nên hiếu thuận với cha mẹ, thân cận người có đức, xa
lìa những hạng hoang đường! Cần phải dứt lòng tà, giữ lòng thành, đánh đổ ham
muốn xằng bậy để khôi phục lễ nghĩa, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều
lành. Hiện nay chính là thời thế đại hoạn nạn. Tai nạn xảy đến chẳng thể dự liệu,
tránh né cũng không được, có ngừa cũng không ngừa được. Nếu có thể thường niệm
A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát, ắt sẽ có sự chuyển dời ngấm ngầm chẳng thể
nghĩ bàn, ngõ hầu có thể gặp dữ hóa lành, gặp nạn thành hên (nói đến “tốt
lành” thì chẳng phải là chuyện tốt đẹp đặc biệt gì! Gặp nạn nhưng chẳng bị nạn
đã là chuyện tốt lành không chi lớn bằng rồi).
Nhân tâm thế đạo ngày nay đã bại
hoại đến tận cùng. Phế kinh điển, phế hiếu, phế luân thường, vứt bỏ lòng thẹn,
giết cha, giết mẹ, đều được miệt mài đề xướng, đúng là muốn cho con người trọn
chẳng khác gì cầm thú thì mới thỏa lòng! Truy tìm căn nguyên, đều do một mực chẳng
nói đến nhân quả báo ứng và giáo dục trong gia đình. Những kẻ đọc sách thông
minh chỉ học thành hạng người có đủ mọi mánh khóe mưu mẹo, dối gạt mà thôi, cho
nên vừa nghe đến thứ tà thuyết ấy liền như bèo giạt theo gió, tụ họp trong hàng
ngũ tà ác ấy! Tội tuy do họ gây ra, nhưng thật ra cha mẹ họ cũng chiếm quá nửa!
Vì sao vậy? Do không khéo dạy dỗ từ nhỏ, lại còn dạy họ những mánh khóe mưu mẹo,
dối gạt mà ra!
Con đã biết tốt - xấu, hãy nên
đi theo đường chánh. Đừng nói đi theo đường chánh sẽ được trời giúp, người
kính, cửa nhà hưng thịnh, con cháu đều thành hiền thiện; dẫu cho túc nghiệp đã
chín muồi, gặp phải cảnh ngộ ngang trái, trọn chẳng phải là do học theo những sự
tốt đẹp cho nên mới gặp phải những nghịch cảnh như thế để rồi oán trời hận người.
[Có hiểu như vậy] thì mới chẳng thẹn là người đọc sách, chẳng hổ là người học
Phật! Xin con hãy suy xét cặn kẽ, tận lực thực hành.
554. Thư trả lời cư sĩ
Hoàng Đức Vỹ
Nhận được thư đầy đủ, lời dạy của Đa Đa Bồ
Tát có thể nói là chân thật đến cùng cực. Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát và Đa Đa Bồ
Tát như cùng một đường mà ra. Đủ thấy chuyện cầu cơ chẳng đáng để nương tựa. Bồ
Tát làm chuyện phi đạo để thông đạt Phật đạo![43]
“Trước hết phải dùng dục lôi kéo để sau đấy sẽ thâm nhập Phật trí”[44],
qua chuyện này có thể thấy trọn. Đa Đa Bồ Tát đã có đại ân, quả thật chẳng thể
quên, nhưng cũng chớ nên đưa tên ngài vào nghi thức niệm Phật. Trong nghi thức
niệm Phật thì ngay cả danh hiệu của Văn Thù, Phổ Hiền, Địa Tạng, Di Lặc cũng
không đưa vào, huống là các vị khác ư? Nhưng các vị Bồ Tát ấy đều cùng gộp trong
danh hiệu Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. Nếu thêm tên Đa Đa Bồ Tát vào, cố
nhiên đối với Tịnh Nghiệp Xã của các ông chẳng trở ngại gì, nhưng nơi khác
không biết sẽ đâm ra chuốc lấy sự nghi ngờ, dị nghị. Chỉ nên thờ Ngài riêng một
chỗ, sáng chiều lễ bái là được rồi!
555. Thư trả lời cư sĩ Trình Tiểu Bằng
Quang tự xét mình kém hèn, một mực chẳng
xứng làm thầy người khác. Trước kia ông Từ Úy Như đã thấu hiểu ý Quang nên thôi
[không xin làm đệ tử nữa]. Sao các hạ vẫn cứ đề cao kẻ kém hèn là cao thượng vậy?
Bất đắc dĩ chỉ đành chiều theo ý các hạ. Ví như có người lấy đất nặn tượng, biết
rõ là đất, nhưng cúng dường tượng ấy cũng không phải là không được! Dẫu nói ấy
là đất ở nơi nọ, muốn trả nó về đúng vị trí thì cũng chẳng phải là không được! Bỏ
hay lấy do nơi người, đất không chọn lựa.
Nay đặt pháp danh cho các hạ
là Huệ Nhuận, nghĩa là đem mây mưa trí huệ nhuần thấm khắp chúng sanh khô khao
khiến cho họ đều được nẩy mầm pháp, thành tựu đạo quả. Nhưng muốn nhuần thấm khắp
hết thảy thì trước hết phải nhuần thấm trí của chính mình. Nếu lời lẽ, hành vi
đều chẳng quan tâm đến thì chính mình đã khô khao trước, làm sao có thể nhuần
thấm hết thảy được? Đấy chính là tấm lòng mong mỏi của kẻ không chân mong bước
lên đường mây. Quang bận bịu đến cùng cực, không rảnh rỗi để thù tiếp; Thượng Hải
lắm danh nhân, cần gì cứ phải do Quang viết thì mới có ích ư?
Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên,
Quyển 3,
Phần 2 hết
[1] Quyết Trạch (Nairvedhika), gọi đủ là “quyết đoán giản trạch”, tức là dùng vô lậu thánh trí để giải quyết dứt khoát các mối nghi, phân biệt chọn lựa pháp thích đáng. Về sau, Quyết Trạch được dùng như một từ ngữ diễn tả sự chọn lựa, phân định một giáo nghĩa là chánh hay tà, giải trừ mối nghi, chọn lựa đường lối tu hành thích hợp.
[2] Hành Cước, còn gọi là Du Phương, Du Hành, nghĩa là vị
Tăng không có nơi ở nhất định, nhằm tham phỏng các vị danh sư mà đi khắp bốn
phương.
[3] Chữ “tiểu thuyết” ở đây nhằm chỉ những thứ tiểu thuyết
bị coi là “dâm thư” do khơi gợi tình yêu trai gái suồng sã như Tây Sương Ký,
Kim Bình Mai, Hồng Lâu Mộng v.v…
[4] Nguyên văn: “Phệ tễ bất cập” vốn là một thành ngữ ngụ
ý: Giống như con thú tự mình cắn rốn lôi ruột ra, có hối hận cũng đã muộn rồi!
[5] Hoàng Liên (Coptischinensis Franch) vốn là một loại dược thảo, phần làm thuốc chính là phần củ (thân ngầm) vị rất đắng, được tin là có tác dụng giáng hỏa, tiêu độc, thường dùng để chữa các chứng bệnh tiêu chảy, ói mửa, đau răng, tai có mủ v.v…
[6] Dân gian Trung Hoa thường truyền tụng xưa kia tại
Trung Hoa có vua Diệu Trang (nhưng không hề nói rõ vua Diệu Trang sống vào thời
đại nào) có ba cô con gái. Hai người con đầu xa hoa, tham lam quyền thế, vật chất,
tìm mọi cách lấy lòng cha, gièm xiểm người em út. Người con gái thứ ba tên là
Diệu Thiện hâm mộ Phật pháp, nhạt mùi danh lợi, trốn hoàng cung đi tu, về sau
chứng quả, trở thành Quán Thế Âm Bồ Tát. Thậm chí để giải thích hình tượng
Thiên Thủ Thiên Nhãn của đức Quán Âm, có nơi còn vẽ rắn thêm chân như sau: Do
làm nhiều chuyện ác, đốt chùa, đuổi Tăng, vua Diệu Trang bị đọa địa ngục. Để cứu
cha, Diệu Thiện xuống địa ngục, quỷ sứ đòi chuộc mạng, Diệu Thiện phải cắt một
cánh tay biếu cho quỷ sứ ăn. Khi trở về dương gian, do cảm mộ tấm lòng từ bi của
Diệu Thiện và thấy Ngài mất một cánh tay, dân chúng đã tự động dùng ngọc, đá,
vàng, bạc làm thành cánh tay biếu tặng Ngài. Do mạnh ai nấy phát tâm nên dân
chúng đã đúc ra 999 cánh tay. Không thể phụ lòng tốt của người khác, Diệu Thiện
phải tiếp nhận tất cả. Do vậy Bồ Tát có đến một ngàn cánh tay!
[7] Lục Triều có hai cách hiểu:
1) Sáu triều đại ở phương Nam tức Đông Ngô, Đông Tấn, Nam Tề, Lương, Trần đều đóng đô tại Kiến Khang Nam Kinh nên sử thường gọi là Nam Triều Lục Triều.
2) Sáu triều đại ở phương Bắc là Tào Ngụy, Tây Tấn, Bắc Ngụy, Bắc Tề, Tây Châu, Tùy đều ở phương Bắc nên sử gọi là Bắc Triều Lục Triều.
Dù hiểu theo cách nào thì kinh Cao Vương cũng xuất hiện trễ nhất vào thời Trần - Tùy, tức khoảng năm 581.
[8]
Bào Siêu (1828-1886), tự Xuân Đình người xứ An Bình, tỉnh Tứ Xuyên, là một danh
tướng có công bình định loạn Thái Bình Thiên Quốc, nhưng không biết chữ, là một
hung thần đối với quân Thái Bình Thiên Quốc, từng được thăng tới chức Đề Đốc tỉnh
Chiết Giang. Tục truyền có lần đánh nhau với quân Thái Bình Thiên Quốc, ông ta
bị giặc vây hãm không cách nào phá vòng vây được, phải viết thư cầu cứu, nhưng
không biết chữ, đành viết một chữ Bào, vẽ vòng tròn kh
[9] Tào Bân (931-999) tự Quốc Hoa, người huyện Linh Thọ, Chân Định, là một đại tướng sống vào đầu thời Bắc Tống. Do có công đánh bại Khiết Đan và diệt nhà Bắc Hán, được thăng tới chức Khu Mật Trực Chỉ, rồi do diệt được nhà Hậu Thục nên được thăng lên chức Đô Giám. Trong những cuộc chinh phạt dẹp tan các vương triều đối lập với nhà Tống, ông giữ quân lệnh rất ngặt, nghiêm cấm binh sĩ không được lạm sát dân chúng vô tội, không được gian dâm, cướp bóc bừa bãi khi chiếm được thành.
[10] Tào Hàn (924-992): Thoạt đầu phục vụ dưới trướng Châu
Thế Tông (Sài Vinh), từng theo Thế Tông đánh Cao Bình và Ngõa Kiều Quan. Khi
Triệu Khuông Dẫn tạo binh biến, cướp ngôi của ấu chúa nhà Châu, lập ra nhà Tống,
ông ta liền theo Tống, từng tham dự nhiều trận đánh. Trong khi theo Tống Thái Tổ
diệt Nam Đường, vây thành Giang Châu (nay là huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tô),
ông ta đã tàn sát cả thành. Năm 979, lại tùng chinh diệt Bắc Hán, đánh Khiết
Đan, lập rất nhiều chiến công. Do sát nghiệp quá nặng, con cháu ông ta hoặc chết
yểu, hoặc phá tan gia nghiệp, sống lang thang, vất vưởng, rất khổ sở. Đến thời
Vạn Lịch nhà Minh, Lưu Tích Nguyên (tự Ngọc Thụ), vốn là người Tô Châu, làm Chủ
Khảo khoa thi năm Nhâm Tý (1612) ở Quý Châu. Khi chấm thi xong, trở về quê,
thuyền đi ngang một bến sông, chợt mộng thấy một người mặt mũi dài sọc đến
thưa: “Tôi là tướng quân Tào Hàn triều Tống. Vào thời Đường làm thương nhân, từng
đi qua một ngôi chùa thấy pháp sư giảng kinh, phát tâm thiết trai cúng dường,
nghe kinh nửa ngày. Do thiện nhân ấy, từng làm những chức quan nhỏ mấy đời. Đến
triều Tống làm Tướng Quân, tức là Tào Hàn, do vì đánh thành Giang Châu đã lâu
không được, khi phá được thành liền tức giận tàn sát cả thành. Do sát nghiệp ấy,
đời đời làm lợn. Khi sanh trong nhà một tá điền của Ngài, từng được Ngài cứu sống.
Ở chỗ Ngài dừng thuyền đây, con lợn bị giết đầu tiên vào sáng mai, chính là
tôi, có duyên gặp gỡ Ngài, xin xót thương phát tâm từ bi cứu mạng cho tôi!” Lưu
Tích Nguyên tỉnh giấc bèn lên bờ, quả nhiên thấy có một lò mổ gần đấy. Đồ tể
khiêng ra một con lợn đang kêu ầm ĩ, Tích Nguyên bèn bỏ tiền ra mua, chở về Tô
Châu, thả trong khu vườn phóng sanh của một ngôi chùa ở ngoài cửa Xương Môn. Hễ
ai hô “Tào Hàn!” lợn liền cúi đầu, ngoắt đuôi tỏ vẻ mừng rỡ.
[11] Tác phẩm này có tên là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Cảm Ứng Truyện, không rõ tác giả, được đánh số 1632 trong Tục Tạng Kinh, ghi chép truyện của bốn mươi người do trì kinh Kim Cang được cảm ứng, khởi đầu bằng Diễm Pháp Sư, kết thúc bằng truyện của Lục Ông.
[12] Do Trung Hoa thời đó loạn lạc đến cùng cực, quân phiệt
chiếm lãnh các tỉnh, tự xưng hùng xưng bá, liên tục đánh phá, triệt hạ lẫn
nhau, làm quân nhân hay chánh khách thời đó sẽ tạo nghiệp rất lớn, đời sau sẽ bị
đọa lạc trong tam đồ, sẽ thay đầu đổi mặt, làm ngạ quỷ, súc sanh hay đọa trong
địa ngục.
[13] Vợ ông Ôn Quang Hy họ Kê, pháp danh là Đức Chánh.
[14] Nữ Tứ Thư là bốn bộ sách tương ứng với Tứ Thư của nam giới, gồm:
1) Nữ Giới (răn dạy nữ nhân) do nữ sử gia Ban Chiêu soạn dưới thời Đông Hán, giảng giải về Tam Tùng, Tứ Đức, cũng như những lời khuyên răn, trau giồi những phẩm đức của phụ nữ như kính thuận, đạo làm vợ, hòa thuận, khiêm cung v.v…
2) Nội Huấn do Nhân Hiếu Hoàng Hậu (vợ vua Minh Thành Tổ, con gái Từ Đạt) biên soạn vào năm Vĩnh Lạc thứ hai (1404), trích lục những giáo huấn của cổ nhân về phẩm đức của phụ nữ, chẳng hạn trau giồi đức hạnh, tu thân, thận trọng trong lời ăn tiếng nói, tiết kiệm, tích thiện, hướng lành v.v…
3) Nữ Luận Ngữ do nữ học sĩ Tống Nhược Sân soạn vào thời Đường, mô phỏng theo văn phong Luận Ngữ, thác danh Tào đại gia (tức Ban Chiêu) v.v… ghi lại những lời vấn đáp giữa bà mẹ của quan Thái Thường Vĩ Trình thời Tiền Tần là Tống Thị đáp lời thưa hỏi của các bậc anh thư như Tào đại gia v.v… để thuyết minh về đức hạnh của nữ giới cũng như cách tu dưỡng các đức hạnh ấy.
4) Nữ Phạm Tiệp Lục do bà Lưu Thị, mẹ nhà học giả Vương Tướng soạn vào cuối đời Minh, cũng nói về các phẩm đức của phụ nữ, đồng thời bao gồm những lời chú giải ngắn gọn các tác phẩm trước đó như Nữ Giới, Nội Huấn v.v…
[15] Liệt Nữ Truyện do Lưu Hướng soạn vào thời Đông Hán, bao gồm những tấm gương trinh liệt của nữ giới. Sách gồm bảy quyển, bao gồm 105 tấm gương, được chia thành các tiểu loại như mẫu nghi, hiền minh, nhân trí, trinh thuận v.v…
[16] Lá thư này được đăng tải trong Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tăng Quảng Chánh Biên, quyển 2, đánh số 169.
[17]
Theo lá thư gởi cho ông Phùng Bất Cửu trong Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tăng Quảng
Chánh Biên thì câu này phải là: “Thành tức
Minh Đức. Minh tức minh Minh Đức chi minh. Thành Minh hợp nhất, tắc thị minh
Minh Đức, tắc thị Phục Hy, Thần Nông, Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ, Châu
Công, Khổng Tử sở truyền chi đạo”. (Thành chính là Minh Đức, Minh chính là sự sáng tỏ (minh) trong “minh Minh Đức”. Thành và Minh hợp nhất chính
là “minh Minh Đức”. Đấy chính là đạo
được truyền bởi các vị Phục Hy, Thần Nông, Nghiêu, Thuấn, Vũ (vua Đại Vũ),
Thang (vua Thành Thang), Văn (tức Châu Văn Vương), Võ (tức Châu Võ Vương), Châu
Công, Khổng Tử)
[18] Tiếng gọi tỏ vẻ tôn kính cháu trai bên nội
của người khác. Điệt (姪) là
cháu gọi ta bằng chú hay bác; nếu là cháu gọi bằng cậu sẽ gọi là Sanh (甥).
[19] Xin đọc bài Pháp Ngữ
Khai Thị Tại Tịnh Nghiệp Xã trong quyển 4, phần Pháp Ngữ.
[20] Nguyên văn “bồ bao”: Bồ
là một thứ cỏ thường dùng để kết thành chiếu hay áo tơi, có thể đan thành bao để
gói đồ vật nên gọi là “bồ bao”. Chúng tôi tạm dịch là bao lác (bị cói) cho dễ
hiểu.
[21] Tam Tự Kính (không phải
là cuốn Tam Tự Kinh để dạy vỡ lòng cho trẻ của Nho gia) là một tác phẩm của
Giang Dịch Viên nêu lên những gương niệm Phật, lợi ích do niệm Phật, cũng như
khuyên nhủ nên niệm Phật, do mô phỏng theo lối văn vần ba chữ một của Tam Tự
Kinh nên đặt tên như thế.
[22] Hữu Bằng là con trai của Giang Dịch Viên.
[23] Tức tác phẩm Dương Phục Trai Thi Kệ Tụng Tập của
Giang Dịch Viên, Tổ Ấn Quang có viết lời đề từ cho tác phẩm này. Xin xem lời đề
từ ấy trong cuốn 4 của Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên.
[24] Ngu Thuần Hy
(1533-1621), tự Trường Nhụ, quê ở huyện Tiền Đường, tỉnh Chiết Giang. Ông có tướng
lạ là khi ngủ không nhắm mắt. Lúc mới ba tuổi đã niệm Phật suốt ngày không ngừng.
Niệm đến nỗi hoa sen, cây báu hiện bóng trong phòng. Ông đem chuyện này kể với
bà nội, bà bảo: “Đấy là cảnh giới trang nghiêm của Tây Phương Cực Lạc thế giới”.
Tuy vậy, bà cụ vẫn dạy cháu tu Thiền Định (Đáng tiếc thay! Kẻ không thông hiểu,
vô tình phá hoại, ngăn trở túc căn của người khác). Về sau, ông cùng với em là
Thuần Trinh nghiên cứu giáo nghĩa tông Thiên Thai trong thời gian cư tang mẹ.
Trong thời gian chưa hiển đạt, để kiếm sống, ông làm thầy đồ dạy học, thường dạy
học trò tu Sổ Tức Quán khiến phụ huynh của chúng rất bực mình. Sau khi đậu Tú
Tài, ông cùng người trong xã tụng Lương Hoàng Sám cảm được quang minh đủ màu
chiếu xuống rực rỡ, đang trong tiết Đông mà hoa nở tươi thắm. Năm Vạn Lịch 14
(1583) ông đậu Tiến Sĩ, ra làm quan. Do cư tang cha bèn dựng lều tranh bên cạnh
mộ cha suốt ba năm. Sau thời gian cư tang, ông lại ra làm quan, giữ chức Viên
Ngoại ở bộ Lễ, không lâu sau trở về, nhập tử quan ẩn tu ở chỗ Cao Phong thiền
sư trên núi Thiên Mục, ngày đêm tinh tấn dụng công đến nỗi có khả năng tiên tri
được đủ mọi chuyện. Người kéo đến hỏi cát - hung nườm nượp. Vị thầy quy y của
ông ta là Liên Trì Đại Sư nghe chuyện than dài: “Chàng họ Ngu đã đọa trong lưới
ma mất rồi!” rồi gởi thư thống trách, ông ta mới thôi nói chuyện tiên tri. Ông
quyết chí tinh tấn tu Thiền, đến ngày thứ 21, quá mệt mỏi, sắp gục xuống gối ngủ,
bỗng thấy dường như Cao Phong thiền sư đậu trên cánh tay trái, ngay lập tức có
chỗ ngộ, bèn xuống núi cầu ấn chứng với Liên Trì Đại Sư. Đại Sư dạy: “Phàm là người từ trong mộng tỉnh giấc, nếu
chẳng chải gỡ, rửa ráy, đội khăn, lại gối đầu lên mền bông, chắc chắn sẽ ngủ
thiếp đi rất nhanh. Người từ trong u mê tỉnh ngộ, nếu chẳng vãng sanh trong Tịnh
Độ trang nghiêm, cứ thân cận thế giới uế trược, chắc chắn sẽ lại mê mất. Hoa sen trong
lửa dễ khô héo, trúc mới mọc dễ gãy. Ông phải tự mình suy nghĩ đắn đo, ngàn vạn
phần chớ nên để một điểm tỉnh ngộ này ngăn trở tiến bước trên con đường tu
hành”. Họ Ngu y giáo phụng hành, suốt
đời tu tập pháp môn Tịnh Độ (theo Đức Viên Tập).
[25] Nguyên văn “căn
trần huýnh thoát”, đây là một thuật ngữ trong tông Thiên Thai, chỉ cảnh giới
đã đạt được đến mức tâm thanh tịnh, các Căn không bị các Trần làm ô nhiễm nữa
nên gọi là “thoát”. Do những đối tượng bên ngoài không còn bị ô nhiễm bởi các
phiền não bên trong nên chúng được nhận biết khách quan như gương chiếu bóng,
nên khi ấy sáu Trần không còn gọi là Trần nữa mà gọi là Cảnh. Vì thế gọi là
“huýnh thoát” (vượt khỏi hẳn, vượt xa).
[26] “Nghi thất nghi gia” là một thành ngữ chỉ gia đình êm ấm, vợ chồng hòa thuận. Từ ngữ này xuất phát từ câu thơ Đào Yêu trong phần Châu Nam của kinh Thi: “Đào chi yêu yêu, chước chước kỳ hoa. Chi tử vu quy, nghi kỳ thất gia” (Cây đào mơn mởn, chi chít những hoa. Cô về nhà chồng, yên cửa vui nhà).
[27] Tiếng gọi nhằm tỏ vẻ kính trọng chú của người khác.
[28] Già Lam Thần hiểu theo nghĩa rộng là chư thiên, thiện
thần thủ hộ nhà chùa. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì từ ngữ Già Lam chỉ cho mười
tám vị thiện thần thủ hộ các chùa. Theo Thất Phật Bát Bồ Tát Sở Thuyết Đại Đà
La Ni Thần Chú Kinh, quyển 4, tên của 18 vị Già Lam là 1) Mỹ Âm 2) Phạm Âm 3)
Thiên Cổ 4) Xảo Diệu 5) Thán Mỹ 6) Quảng Diệu 7) Lôi Âm 8) Sư Tử Âm 9) Diệu Mỹ
10) Phạm Hưởng 11) Nhân Âm 12) Phật Nô 13) Thán Đức 14) Quảng Mục 15) Diệu Nhãn
16) Triệt Thính 17) Triệt Thị 18) Biến Quán.
[29] Chỉ cuốn Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục do Lý Viên Tịnh
biên soạn.
[30] Ở chỗ này nếu không chú ý sẽ dễ hiểu lầm ý Tổ nên
chúng tôi xin mạn phép giải thích thô thiển như sau: Để hoằng pháp hữu hiệu,
người đứng ra hoằng pháp đừng cậy theo thiên kiến của chính mình, mà phải quán
sát thời cơ, căn tánh của đại chúng đương thời để hoằng dương đúng pháp sao cho
giản tiện, thiết thực, đừng bày vẽ những chuyện lập dị, phô trương; chẳng hạn
tu Tịnh Độ mà chuyên chú trọng thấy tướng hảo, cầu thần thông, hoặc xen tạp thật
nhiều Mật chú nhằm phô trương thần thông, kiến thức, hoặc áp dụng phương cách tọa
thiền để trì danh, hoặc mong được người khác ca ngợi, cầu sau khi chết sẽ lưu lại
xá-lợi, hoặc khoe khoang, bịa đặt cảnh giới chứng đắc,
quên bẵng mục đích chính là cầu được vãng sanh, khiến cho Tăng - tục
không thể chuyên tu. Tiếp đó, khi hoằng pháp phải tỉnh táo noi theo đúng chương
trình ban đầu, đừng vì nể nang hay tài lợi mà chiều theo ý thích của một số
đàn-na thí chủ sẵn tiền bạc để rồi sửa đổi chương trình theo đúng ý những người
ấy, không quan tâm đến chương trình tu tập có thật sự đem lại lợi ích thiết thực
cho những người khác hay không. Do người có tiền, có thế lực có thể chi phối đạo
tràng thì làm sao họ còn tôn trọng pháp sư, tôn trọng pháp được hoằng dương bởi
pháp sư hay thiện tri thức nữa!
[31] Sư Hiển Ấm là đệ tử của pháp sư Đế Nhàn, cực thông
minh, chưa đầy hai mươi tuổi đã thông thạo giáo nghĩa tông Thiên Thai, qua Nhật
học Mật Tông, sau ba năm đã thấu hiểu giáo nghĩa Mật Tông. Do quá thông minh
nên đâm ra ngạo nghễ, thường viết những bài gởi đăng trên tờ Hải Triều Âm đề
cao Mật Tông, cho rằng các tông phái khác đều là thấp kém, và chỉ có mình mới
hiểu đúng Mật Tông. Khi Sư trở về nước, đến gặp thầy với vẻ hiu hiu tự đắc.
Pháp sư Đế Nhàn từ bi khuyên Hiển Ấm nên ẩn cư hàm dưỡng cho sâu dầy rồi mới ra
hoằng pháp để tránh va vấp, nhưng Hiển Ấm lại tưởng lầm thầy mình đố kỵ, cố
tình chèn ép, nên đau bực đến nỗi ngã bệnh. Trong khi bị bệnh vẫn dùng thế trí
biện thông để tranh biện với những ai vấn nạn nên cuối cùng đã phải kiệt sức chết
khi chưa đầy 24 tuổi. Khi mất, Sư thần trí mê loạn, không niệm Phật mà cũng
không trì chú được nên rất khó thể khỏi bị đọa.
[32] Du Già Luận có tên đầy đủ là Du Già Sư Địa Luận (Yogacārabhūmi) do Bồ Tát Di Lặc giảng, ngài Vô Trước ghi lại, ngài Huyền Trang dịch sang tiếng Hán. Đây là một trong những bộ luận căn bản cho tông Duy Thức, mà cũng là một bộ luận quan trọng cho những ai nghiên cứu giáo nghĩa Đại Thừa. Bộ luận này giảng cặn kẽ về Du Già Hạnh quán pháp, chủ trương đối tượng khách quan và tâm thức căn bản của nhân loại (A Lại Da Thức) đều là những hiện tượng giả hiện; cho nên phải xa lìa những quan niệm đối đãi Có và Không, tồn tại - bất tồn tại v.v… để có thể ngộ nhập Trung Đạo.
[33] Bộ sách này có tên đầy đủ Đại Bát Niết Bàn Kinh Sớ, 33 quyển, do ngài Quán Đảnh soạn từ năm Đại Nghiệp thứ mười (614) cho đến năm Đại Nghiệp mười lăm (619) đời Tùy. Thoạt đầu chỉ gồm mười hai quyển giải thích kinh văn và một quuyển giảng huyền nghĩa. Về sau, ngài Kinh Khê Trạm Nhiên lại sửa chữa, mở rộng thêm thành mười lăm quyển. Đến thời Vạn Lịch nhà Minh, ngài Viên Trừng lại tăng thêm phần chú sớ, vựng biên, tạo thành ba mươi sáu quyển, nhưng bị hậu nhân chê là “tự tiện sửa chữa, cắt xén, ý tưởng hỗn loạn”. Trải qua nhiều lần tu chỉnh, bản phổ biến nhất hiện thời là bản ba mươi ba quyển.
[34] Con đường này vốn có tên là Bình Kiều. Khi Thượng Hải
bị biến thành tô giới, con đường này nằm ngay phía Đông của tô giới công cộng
nên bị đổi tên thành Avenue Road. Khi chánh quyền Uông Tinh Vệ chiếm lại tô giới,
đã đổi tên con đường này thành Đại Đồng. Vào năm 1945, nó lại bị đổi tên lần nữa
thành Bắc Kinh Tây Lộ.
[35] Lý Trác Ngô (1527-1602) tên là Chuế, hiệu Trác Ngô, còn có hiệu là Đốc Ngô, Hoằng Phủ, biệu hiệu Ôn Lăng Cư Sĩ, người huyện Tấn Giang, tỉnh Phước Kiến, là một nhà tư tưởng, sử gia, văn gia trứ danh đời Minh. Tánh tình thanh liêm, thương dân, siêng năng chánh sự. Bất mãn trước sự thối nát của nhà Minh thời Gia Tĩnh - Vạn Lịch, ông từ quan phiêu bạt giang hồ, dạy học kiếm sống, trước tác rất nhiều. Ông viết lời phê bình cho những bộ tiểu thuyết nổi tiếng thời ấy như Thủy Hử, Tây Sương Ký, Hoán Sa Ký v.v… Ông theo quan điểm chánh thống khắc nghiệt của Khổng - Mạnh, những gì không thuộc Khổng - Mạnh đều nhất loạt chê là dị đoan, phê phán mãnh liệt những sự hủ bại thối nát trong hệ thống cai trị đương thời, chủ trương phải giữ lòng hồn hậu như trẻ thơ. Do vậy, ông bị các quan lại đương thời lẫn triều đình căm ghét, nghi kỵ. Đa số các nhà trí thức đương thời cũng không tán đồng quan điểm thiên lệch, khắc nghiệt, hẹp hòi của ông trong những lý luận về Nho Học. Năm Vạn Lịch 29 (1601), ông ở Hồ Bắc, bị vu cáo đến nỗi gần mất mạng, phải trốn đến Thương Thành (Hà Nam), rồi sang nhà bạn thân là Mã Kinh Luân ở Thông Châu lánh nạn. Năm sau, ông lại bị vu cáo, bị khép tội “đề xướng bại hoại loạn đạo, lừa đời, gạt dân”, bị tống giam vào ngục, hành hạ khổ sở. Không chịu được nhục, ông tự tử trong tù.
[36] Đây là một câu nói trong sách Thương Thư của kinh
Thư, phần Thái Giáp. Mạnh Tử nhắc lại câu nói này trong thiên Công Tôn Sửu,
sách Mạnh Tử. Chúng tôi dịch câu này theo cách diễn giải của Tứ Thư Bạch Thoại
Giải.
[37] Nhiếp Vân Đài (1880-1953), tên thật là Nhiếp Kỳ Kiệt, hiệu là Vân Đài, pháp danh Huệ Kiệt, biệt hiệu Tức Sám, người Hành Dương, tỉnh Hồ Nam, là cháu ngoại của Tăng Quốc Phiên. Cha ông là Nhiếp Tập Quy từng làm Tuần Phủ tỉnh Giang Tô. Mẹ ông là Tăng Kỷ Phân, con út của Tăng Quốc Phiên. Thuở nhỏ ông theo cha sang sống tại Thượng Hải. Năm Quang Tự 19 (1893), trở về Hồ Nam tham gia khoa Đồng Thí (khoa thi dành cho thiếu niên), đậu Tú Tài. Ông học Anh ngữ, điện khí, công nghệ với người ngoại quốc, từng sang Mỹ du học. Trở về nước, ông tận lực chủ trương “giáo dục cứu quốc, tăng tấn kinh tế để cứu quốc” nên tận lực tiến hành xây dựng các xí nghiệp, thành lập các công ty dệt như Phục Thái, Hằng Phong v.v… nhiệt thành hướng dẫn chuyên viên về ngành dệt. Ông mạnh dạn nhập máy móc, cải tiến ngành dệt, và được coi như một trong những người khai sáng ngành dệt công nghiệp ở Trung Hoa. Ông cũng mở nhiều xưởng liên quan đến nhiều ngành khác và từng đảm nhiệm chức vụ Hội Trưởng của Thương Hội Thượng Hải. Tuy xuất thân từ một gia đình Phật giáo thuần thành, trong thời gian du học ở Mỹ, ông từng theo đạo Baptist và vợ ông là Tiêu Thị cũng là tín đồ Baptist. Đến năm Dân Quốc 13 (1924), kinh tế Trung Hoa suy vi, các xưởng do ông làm chủ hay làm Kinh Lý đều thua lỗ. Tới năm Dân Quốc 15 (1926), ông bị ép buộc phải rút lui, đã thế lại bị bệnh nặng mấy bận tưởng chết, bèn cảm ngộ thế sự vô thường, hướng lòng về Phật pháp, quy y với pháp sư Như Huyễn, lắng lòng học Phật, đóng cửa không qua lại với ai. Về sau, ông gặp được tổ Ấn Quang, hết sức kính mộ, xin được thọ Ngũ Giới, mấy lượt toan xuất gia nhưng bị mẹ già ngăn cản. Hằng ngày ông tận lực lễ bái Quán Thế Âm và Địa Tạng Bồ Tát, trì tụng kinh Kim Cang, Phổ Môn, và Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh. Ông gom góp tài sản còn lại để tận lực cứu trợ những nạn dân ở Hồ Nam, viết bài luận nổi tiếng là Bảo Phú Pháp (cách giữ giàu) chủ trương muốn được giàu có thì phải biết chia sớt tài sản cho người khác. Ông đề xướng Gia Đình Phật Học Hội, nhằm giảng diễn Phật học và Phật hóa sinh hoạt gia đình trong vòng thân tộc. Ngoài bộ Lịch Sử Cảm Ứng Thống Kỷ (tên ban đầu là Lịch Đại Cảm Ứng Thống Kỷ) viết chung với Hứa Chỉ Tịnh, ông còn để lại dịch phẩm Vô Tuyến Điện Học, Thác Nhĩ Tư Thái Truyện (tiểu sử Leon Tolstoy) và những tiểu phẩm có giá trị về Phật học như Cần Kiệm Cứu Quốc Thuyết, Địa Tạng Bồ Tát Linh Cảm Cận Văn Lục, Quán Âm Kinh Chú Cảm Ứng Hội Thiên v.v…
[38] Chữ Cứu (灸) có nghĩa là dùng dược
liệu (thường là ngải cứu) để đốt trên đầu kim châm để dẫn hơi nóng vào huyệt được
châm. Còn Chích (炙, có khi đọc là Chá) có nghĩa là nướng thịt, thân cận,
tiêm nhiễm.
[39] Thái Ất Thần Châm (năm quyển) là bộ sách dạy về
nguyên tắc, cách thức châm cứu, vị trí các huyệt trên thân thể, những điều cấm
kỵ trong khi châm cứu (chẳng hạn những bệnh nào không nên châm cứu, bịnh nhân
có thai không nên châm cứu, những huyệt nào không được châm v.v…), cũng như các
bài phú để dễ nhớ huyệt vị, kinh lạc v.v…. Sách đã mất tên tác giả, ước chừng
ra đời trong niên hiệu Ung Chánh nhà Thanh.
[40] Xạ là chất thơm của con hươu xạ (musk deer). Loài
hươu này con đực có bọng tiết ra chất dịch hết sức thơm ở bụng để quyến rũ con
cái trong mùa giao phối. Do chất Xạ cực thơm thường để chế nước hoa, hương liệu,
dược liệu… nên chúng bị săn bắn rất tàn nhẫn.
[41] Bổng là gậy đánh, Hát là tiếng hét. Tổ Lâm Tế dùng
phương pháp đánh hoặc hét để khai ngộ cho người đến học nên Thiền gia thường
dùng thuật ngữ “bổng hát” để chỉ những lời khai thị thống thiết có khả năng
khai ngộ, cảnh tỉnh mạnh mẽ.
[42] Dã Truật ở đây là loại Bạch Truật (Atractylodes Macrocephala) mọc hoang (gọi như vậy để phân biệt với loại Chủng Truật thường được trồng ở Phước Kiến, Hồ Nam, Chiết Giang…). Bạch Truật là loài thảo mộc có lá đơn, hẹp dài, hoa màu tím. Phần dùng làm thuốc là củ (thân ngầm), đôi khi còn gọi là Truật, Đông Truật, Chiết Truật, Kỳ Truật v.v… Bạch Truật có vị ngọt hơi đắng, tánh ôn, chủ trị các chứng bệnh về tỳ vị, tiêu hóa không tốt, hư trướng, tiêu chảy, viêm họng, thủy thũng v.v… nhưng phải chế biến rất kỹ.
[43] Do túc duyên của những người cầu cơ, hai vị Bồ Tát
cùng mượn cơ bút để hướng dẫn họ phát khởi tín tâm, tu tập Tịnh Độ. Khi tín tâm
của họ đã vững chắc, cả hai vị đều cùng quyết liệt răn cấm họ không được cầu
cơ, không được tin tưởng theo cơ bút nữa.
[44] “Dục” ở đây là những ham muốn, ưa thích, xin đừng hiểu
hạn hẹp là “dục vọng xác thịt”. Các ông này ham thích cầu cơ, xướng họa thi văn
với tiên, do thiện căn của họ đã chín muồi, Bồ Tát liền vờ xưng là tiên giáng
đàn để hướng dẫn họ về Phật đạo. Cũng cùng một mục đích, kinh luận nhà Phật thường
nêu lên rất nhiều công đức nhằm phát khởi lòng ham muốn đạt được thiện báo của
chúng sanh để họ tu tập theo pháp môn được dạy trong một kinh, chẳng hạn kinh
Pháp Hoa nói người trì kinh sẽ có bao nhiêu công đức nơi thân, miệng, ý v.v…
khiến cho người nghe hâm mộ, sốt sắng đọc tụng để dần dần sẽ ngộ nhập được Nhất
Thừa.