Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam
Biên,
Quyển 3
Phần 4
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Minh Tiến & Huệ Trang
585. Thư trả lời cư sĩ Huệ Hải (thư thứ nhất)
Nhận được thư đầy đủ, nhưng vì
gặp đúng kỳ [thiện tín tới Phổ Đà] dâng hương nên bận rộn chẳng thể trả lời
ngay được! Hôm trước, tôi đã nhờ phòng kế toán chùa Thái Bình ở Thượng Hải gởi [cho
ông] một trăm bộ Văn Sao. Nếu sách sắp hết thì có thể giảm số lượng xuống một nửa,
đều gởi bằng thư bảo đảm; họ sẽ gởi ngay. Nếu ở Tân Giang có nhiều người muốn thỉnh
thì khi Quang sang Thượng Hải sẽ gởi một trăm bộ nữa để mong kết duyên, khoản
tiền ấy không cần phải gởi trả! Nhưng ai có thể đứng ra in Quán Âm Bồ Tát Tụng
thì không nguyện nào chẳng được chu toàn, sẽ dần dần cảm hóa được quyến thuộc,
lâu ngày họ sẽ đều được cảm hóa mà không hay không biết; nhưng điều ấy tùy thuộc
cái tâm của chính mình có chân thành hay không? Nếu chính mình vẫn theo thói
sáo rỗng, bày vẽ giả dối bề ngoài thì sẽ không có sức cảm hóa, ngược lại còn
chuốc lấy nỗi nhục bị phỉ báng. [Bởi lẽ], pháp thế gian hay xuất thế gian đều lấy
thân làm gốc!
Thư từ bình thường chỉ nên dùng
những chữ dễ nhận biết là được rồi, cần gì phải cố ý dùng từ ngữ tinh xảo, bóng
bảy đến nỗi người đọc không hiểu trọn vẹn! Hết thảy những thiện sự đều xin tùy
hỷ, [làm được những việc ấy] quả thật là đại Bồ Đề tâm. Đợi sau này khi có lúc
rảnh rỗi, sẽ trình bày cặn kẽ nhân duyên thành lập Viện Mồ Côi chùa Pháp Vân,
xin ông hãy tùy tâm tán trợ. Trong Văn Sao đã có hai bài sớ về chuyện này, [đọc
hai bài sớ ấy] chắc sẽ hiểu được ý [của những người đứng ra xướng suất]. Chuyện
ấy không do Quang đề xướng mà do các vị như Ngụy Mai Tôn v.v… (Mai Tôn
giữ chức quan Hàn Lâm vào đời Thanh trước kia, đến thời Dân Quốc bèn ẩn cư, đủ
biết tánh tình khẳng khái của ông ta) lôi kéo
Quang vào đấy để giúp phần náo nhiệt vậy!
586. Thư trả lời cư sĩ Huệ Hải (thư thứ hai)
Nhận
được thư đầy đủ. Ông nói đến bệnh cũ, chắc đã lành hẳn rồi. Đã nhận được hối
phiếu, đừng lo. Sự vãng sanh của Không Tam tuy kỳ lạ, nhưng thật ra hết sức
bình thường, chẳng có mảy may lạ lùng, đặc biệt gì! Như người trở về nhà, hễ muốn
đi liền đi. Nếu trước hết chẳng quét dọn tâm địa cho sạch sẽ thì sẽ bị nghiệp
lôi kéo, chính mình cũng chẳng thể làm chủ được mảy may nào, chỉ đành theo nó
đi. Chuyện ấy nếu là thật thì ngài Đế Nhàn và sư Đàm Hư sẽ tự ghi chép để làm rạng
rỡ môn đình, chẳng cần đến ông và tôi nhọc lòng lo thay cho họ!
Còn đối với chuyện cưới gả của
con cái hiện thời thì một khi nó đã tự quyết định, chỉ đành thuận theo nó. Nếu
không, sau này bọn chúng chắc sẽ buông lời oán trách. Tuy nói là “không thốt ra
lời oán trách nào”, nhưng một mai tình yêu gần cạn thì những kẻ ly hôn, đi lấy
người khác chẳng biết số đến bao nhiêu! Nước nhà sắp hưng thịnh thì luân thường,
kỷ cương ắt sẽ chấn hưng; nước nhà sắp suy bại ắt luân thường, kỷ cương sẽ lỏng
lẻo, bỏ phế! Đã chẳng nói gì đến luân thường, kỷ cương, thì còn nói gì đến gia
giáo nữa? Gia giáo (giáo dục trong gia đình) đã không có thì đất nước há có người
hiền được ư? Đấy là một điều đại bất hạnh cho nước ta! Nếu chuyện con cái đã xong
xuôi rồi thì hãy để mặc cho chúng nó tự chủ trương nhằm chống đỡ thể diện theo
kiểu mới của bọn chúng! Chúng ta hãy chuyên tâm niệm Phật để tu pháp môn cũ kỹ
của chúng ta thì đôi bên đều được thoải mái, ngõ hầu chẳng đến nỗi phải lo lắng
quá sức về chuyện con cái để rồi đại sự sanh tử của chính mình xôi hỏng bỏng
không!
586. Thư trả lời cư sĩ Huệ Hải (thư thứ ba)
Niệm
kinh, niệm Phật đều siêu độ vong nhân được. Chỉ có điều niệm Phật thì có thể
không gián đoạn, chứ niệm kinh chẳng thể không gián đoạn như niệm Phật được! Hơn
nữa, niệm kinh tốn sức hơn niệm Phật. Do vậy, Quang thường khuyên người khác niệm
Phật. Ông phát nguyện niệm Địa Tạng Kinh rất tốt. Gần đây, Mai Tôn rất chân thật
niệm Phật, lo toan thực hiện những nghĩa cử tốt lành. Nói ông ta xuất gia chính
là lời đồn. Chí thành, cung kính quả thật là cái gốc để mong thành hiền, thành
thánh, học Phật, học Tổ. Hễ tâm con người chú trọng nơi cung kính thì hết thảy
những cái tâm phóng túng, tà vạy, xa xỉ sẽ tự không còn do đâu dấy lên được nữa!
Ông đã chân thật hành trì như thế, cũng phải nên khuyên vợ con tùy phần tùy sức
tu trì thì mới đúng là đạo “tự lợi, lợi người từ thân đến sơ” ngõ hầu ai nấy
tâm đều được tương ứng với Phật.
587. Thư trả lời cư sĩ Huệ Hải (thư thứ tư)
Nhận
được thư cho biết Hoàng Đích Viên sẽ sang Thượng Hải thăm viếng. Ngày hôm qua
ông ta có tới đây, tán gẫu về duyên do giữa Tịnh và Mật. Căn bệnh của người học
Mật Tông là “muốn đắc thần thông, muốn thành Phật ngay trong thân hiện tại”. Hễ
hỏi đến thì ai cũng nói không có ý niệm ấy, nhưng thật ra, không một ai chẳng
có ý niệm đó! Bởi lẽ, trước hết người xướng suất, hướng dẫn đã dùng thần thông
để thu hút, lay động kẻ khác thì người học sao lại chẳng có ý niệm ấy cho được?
Ngày hôm qua có khoảng năm sáu vị, chứ không phải một mình ông Hoàng. Bọn họ có
tin tưởng hay không, tôi chẳng bận tâm! Bọn họ học Mật mà hồi hướng Tịnh Độ cố
nhiên là chánh lý; chỉ sợ bọn họ đã coi rẻ sự vãng sanh Tịnh Độ, chỉ muốn thành
Phật ngay trong thân hiện tại thì chắc sẽ đến nỗi mắc bệnh!
Nếu bọn họ không có thứ tri kiến
ấy sẽ trọn chẳng đến nỗi khen ngợi Đại Ngu[1].
Đã khen ngợi Đại Ngu tức là coi những gì Đại Ngu đã nói là lời luận nghị hết sức
xác đáng! Nhưng đệ tử “thành Phật” của Đại Ngu hoàn toàn không có những biểu thị
cho thấy họ đã thành Phật! Đủ thấy ông ta hứa khả người khác đã [chứng đắc] bừa
bãi để mong được người đời cung kính cúng dường, tôn xưng mình là vị cao tăng
đã thành Phật. Ông ta phạm đại vọng ngữ, mắc tội “đem phàm lạm thánh” quả thật
chẳng nhỏ! Chúng ta chỉ nên giữ lấy cách tu trì Tịnh Độ, nhường cho hết thảy mọi
người đều được thành Phật để độ bọn ta thì may mắn chi hơn? Hai đứa con trai ông
cùng đến Bắc Bình, hãy cực lực khuyên chúng nó học hành giỏi giang. Muốn học
hành giỏi giang thì trước hết phải bắt đầu bằng lập chí, lập phẩm đức, biết
nhân, rõ quả. Không lập chí thì sẽ không có gì để hướng về. Không lập phẩm đức
thì việc làm bị kém hèn, nhơ bẩn. Không biết nhân quả thì không thể ngăn chặn
tà niệm hòng giữ được lòng Thành, ắt sẽ đến nỗi lọt vào phường tiểu nhân mà
không hay biết!
588. Thư trả lời cư sĩ Huệ Hải (thư thứ năm)
Nhận
được thư đầy đủ, ông đã ăn chay niệm Phật, hãy nên làm cho quyến thuộc cùng được
hưởng vô thượng lợi ích ấy thì mới là đạo tự lợi, lợi tha. Thế đạo hiện thời là
thế đạo hoạn nạn. Nếu chẳng tu trì sẵn, rốt cuộc chẳng biết sau này sẽ nguy hiểm
ra sao! Nếu có thể chí thành niệm Phật và niệm Quán Âm thì sẽ được gia hộ ngấm
ngầm. Trước đây, tôi sợ Văn Sao đã phát ra hết, nay thầy Chân Đạt từ chùa Thái
Bình trở về núi, cho biết hãy còn mấy trăm bộ. Nếu ông muốn kết duyên thì tôi sẽ
gởi tới ba bốn chục gói (mỗi gói là ba bộ),
chẳng cần phải thỉnh từ Thương Vụ Ấn Quán là loại sách in bằng giấy có độ bóng.
Đối với những lời tôn kính thừa
thãi thì ở nơi xa bất tiện, chẳng cần phải bắt chước theo thói tục sáo rỗng ấy.
Ngay như với những bộ Văn Sao đã gởi, cũng đừng gởi tiền [thỉnh sách] tới vì những
sách ấy vốn nhằm để kết duyên. Nếu có thể khiến cho người nơi đất Cáp (Cáp Nhĩ
Tân:
589. Thư trả lời cư sĩ Huệ Hải (thư thứ sáu)
Năm
mới[2]
đã đến, chúc ông đứng - ngồi hưởng phước, các duyên như ý. Ngày Hai Mươi Chín
tháng Chạp, Ngụy Mai Tôn từ Nam Kinh gởi thư đến có kèm theo thư ông, cho biết
đã đảm nhiệm in hơn ba ngàn cuốn Đại Sĩ Tụng, tôi cảm thấy vui mừng, may mắn
khôn cùng! Ông nói đến chuyện lệ phí chuyển tiền, bưu phí v.v… thì Quang đã ứng
ra rồi. Do Cáp Nhĩ Tân xa xôi, dẫu không có ai đứng ra bỏ tiền in, cũng sẽ gởi
chừng đó bộ để sự giáo hóa từ bi của Đại Sĩ được biết đến rộng rãi. Món tiền ấy
bất quá một hai trăm đồng, cần gì phải tính toán chi ly vậy? Đại Sĩ Tụng đã được
sắp chữ xong, tổng cộng hai trăm lẻ sáu trang, thêm hai trang ghi tên công đức,
thành ra hai trăm lẻ tám trang. Mỗi bộ sẽ tốn thêm một xu thì một ngàn bộ sẽ phải
tốn thêm mười đồng, nhưng chẳng cần phải gởi bù khoản tiền ấy. Như sau này có
ai muốn bỏ tiền ra in, hỏi tới thì hãy đem chuyện này bảo với họ để họ biết
nguyên do.
Đối với khoản tiền đã gởi, nếu
lần này Trung Hoa [Thư Cục] đã giao biên nhận thì thôi. Nếu như sau này có ai gởi
tiền thì bất luận bao nhiêu người cũng chỉ gởi một biên lai chung cho người đứng
ra gởi tiền, chẳng cần phải giao biên lai cho từng người, bởi lẽ chuyện này
khác với quyên mộ để làm thiện sự. Chuyện này sẽ có sách để giao cho người ta
thì cần gì phải giao biên lai nữa? Người đứng ra gởi tiền hễ nhận được biên lai
liền biết món tiền đem gởi đã được giao tới nơi không bị thất lạc là được rồi!
Lúc sách in xong, đa số sách ấy sẽ do công ty chuyển vận gởi đến tận chỗ ở. Xin
hãy dựa theo danh sách quyên mộ để phân phát thì so ra sẽ ổn thỏa, thích đáng
hơn!
Mai Tôn chẳng ở tại Thượng Hải,
vì thế gởi thư của ông cho Quang, nhờ báo với Trung Hoa [Thư Cục] rằng: “Đối với
chuyện ghi tên người làm công đức, hãy nên dùng biện pháp đỡ tốn giấy: Từ mười
đồng trở lên thì đề tên, còn dưới mười đồng thì chỉ ghi tổng cộng in bao nhiêu
bộ là được rồi” Do [mỗi bộ] đỡ tốn một trang giấy thì hai vạn bộ sẽ tiết kiệm
được ba mươi đồng, mười vạn bộ sẽ tiết kiệm được một trăm năm mươi đồng. Huống
chi đã có sách giao cho họ, chẳng đến nỗi bị dị nghị, cho là đã mất tiền xuông
v.v… Nêu tên người làm công đức và số sách [đứng in] thì một là để nêu rõ thiện
tâm của người đứng ra bỏ tiền in, hai là để nêu rõ người ấy đã lưu thông bao
nhiêu đó cuốn.
590. Thư trả lời cư sĩ Huệ Hải (thư thứ bảy)
Hôm
qua, cư sĩ Kiếm Thanh đến đây, cầm theo thư ông, khôn ngăn vui mừng, an ủi. Lễ
giáo thế gian suy vi, chuyện cưới gả phần nhiều chú trọng sát sanh để phô
trương, chẳng biết nam nữ lập gia đình là đầu mối của nhân luân, là chuyện vui
mừng đẹp đẽ nhất. Do tổ chức cuộc lễ vui mừng tốt đẹp ấy mà đến nỗi có vô số con
vật bị lâm vào tử địa để cung cấp cho con người ăn nuốt; hung ác, xui xẻo đến
cùng cực! Nhưng người đời vẫn cứ coi đó là sang vì quen thói xấu ác mà ra! Nếu
suy nghĩ, ắt cái tâm hồi hộp bất an sẽ tràn trề nẩy sanh. Phong tục chuyển biến
đều do một hai người đứng ra đề xướng mà được bắt đầu. Ông gả con gái như thế (tức
là đãi khách bằng cỗ chay) chắc sẽ có người bắt
chước làm theo, chắc là lề thói xa xỉ cũng sẽ do đây mà dần dần giảm bớt!
Tôi thường nói: “Thiên hạ chẳng yên, thất phu có trách nhiệm”, trách nhiệm ấy ở nơi đâu? Chính
là trong gia đình khéo dạy dỗ con cái, nhưng dạy dỗ con gái lại càng thiết yếu
hơn! Bởi lẽ, nếu con gái hiền ắt sẽ có thể giúp chồng thành tựu đức hạnh, nêu
gương mẫu cho con cái. Từ đấy, con cháu sẽ nối tiếp nhau làm người hiền thiện. Hãy
nên dạy cho lệnh ái[3]
hiểu cặn kẽ nghĩa này, trong Văn Sao đã nhiều lần nhắc đến. Nếu cô ta đọc thuộc
rồi tận lực thực hành thì lợi ích lớn lắm! Cư sĩ Kiếm Thanh đạo tâm chân thật,
thiết tha, thật chẳng dễ có; nhưng do thời gian ngắn ngủi, chỉ ở lại một đêm rồi
đi, thất vọng không chi hơn! Đã gởi đi năm gói Đại Sĩ Tụng trong hôm Mười Tám
tháng Tư, chắc đã nhận được rồi! Tổng cộng là ba mươi lăm bộ, sau đó lại gởi
bao nhiêu bộ đó nữa. Số còn lại thì đợi sách được in ra trong lần thứ hai, thứ
ba mới có thể giao trọn hết số lượng được. Văn Sao đã cho sắp chữ, ước chừng
trong năm nay có thể ra sách; so với lần trước tăng thêm ba bốn vạn chữ; nhưng
chỉ là “gom lá, đắp cát” mà thôi, rốt cuộc đều chẳng liên can gì tới Phật pháp
lẫn tâm pháp!
591. Thư trả lời cư sĩ Huệ Hải (thư thứ tám)
Nhận
được thư, biết ông từ chức về ở nhà, hằng ngày cùng quyến thuộc tu trì Tịnh
nghiệp để mong cùng thoát khỏi thế giới khổ sở này, lên cõi Cực Lạc kia, thường
được thân cận A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí và các thượng thiện nhân, khôn
ngăn vui mừng, an ủi. Mùa Đông năm ngoái, Chiết Giang Ấn Loát Công Ty ở Hàng
Châu gởi tới hai mươi gói Tăng Quảng Văn Sao bản in mới bằng thư bảo đảm, mỗi
gói là ba bộ, bốn gói Thọ Khang Bảo Giám, mỗi gói là hai mươi lăm cuốn; tôi đã
bảo gởi tới chỗ ông tại đường Hoa Viên, chẳng biết ông đã nhận được hay chưa?
Những sách ấy tặng cho ông để kết duyên. Nếu chưa nhận được, xin hãy đến bưu cục
hỏi xem những sách này rốt cuộc đã giao tới chỗ nào? Lại nữa, đã gởi tới Cáp Phụ
Tuyên Giảng Đường năm mươi gói An Sĩ Toàn Thư, mỗi gói bốn bộ, hai mươi gói Thọ
Khang Bảo Giám.
Sợ rằng chưa thể gởi được Văn
Sao vì trong hôm Hai Mươi tháng Chạp năm ngoái, [ấn quán] gởi hóa đơn giao hàng
tới, [cho biết có lẽ] ba bốn bữa sau sẽ gởi sách đi. Nào ngờ đến hôm Hai Mươi Bốn,
[ấn quán] bị chạm điện, gian nhà chánh bị cháy sạch nhà cửa lẫn đồ đạc. Sách
Quán Âm Tụng, An Sĩ Toàn Thư, Văn Sao, Bảo Giám, bốn bức Chỉ Bản của Quang đều
bị cháy ra tro. Tôi đã thỏa thuận với công ty ấy để in một vạn cuốn Văn Sao và
ba vạn cuốn Bảo Giám. Họ in trước năm ngàn bộ Văn Sao, hai vạn cuốn Bảo Giám nhưng
báo với Quang đã in xong xuôi toàn bộ, đã phát ra một nửa, đòi phải giao tiền.
Quang bảo họ gởi hóa đơn giao sách tới, nhưng khoản tiền ấy tôi chưa trả. Đến
khi chùa Thái Bình ở Thượng Hải sắp đem tiền tới, họ mới đem hóa đơn ấy gởi tới,
[khi ấy] tôi mới biết họ chỉ in một nửa, nhưng đã dùng lố tiền ấn loát hơn một
ngàn đồng. Ngày hôm trước nhận được hóa đơn ấy thì ngày hôm sau liền nhận được
tin họ bị hỏa hoạn. Đây là vì họ một mực gian trá, điêu ngoa khiến cho thần nổi
giận mà ra. Nếu ước theo lương tâm để nói, sách của Quang không đến nỗi bị cháy
nhiều lắm vì những sách đã đóng bìa xong đều được cất trong một căn nhà nhỏ ở phía
sau, căn nhà nhỏ ấy chưa cháy. Còn những sách chưa hoàn tất thì để ở chỗ đóng
bìa.
Nếu bọn họ không thiếu lương
tâm, giao hết số sách đã in xong cho Quang, Quang vẫn phải chịu thiệt trên dưới
một ngàn đồng (đây là món tiền họ xài lố).
Nếu bọn họ thiếu lương tâm, Quang sẽ tổn thất khoảng hai ngàn ba trăm đồng,
không tính bốn bức Chỉ Bản [bị cháy] trong [khoản tiền thất thoát] ấy. Đây là
vì Quang không có đạo đức, bọn họ vô lương tâm, hết thảy Tịnh nghiệp học nhân thiếu
duyên đọc những sách ấy cho nên mới có tai nạn này. Trong tháng Nhuận, tôi sẽ
sang in ở Thượng Hải. Phàm những ai đã bỏ tiền đều căn cứ theo số tiền mà giao
đủ sách, chẳng thiếu sót mảy may nào! Phàm những sách để kết duyên thì đành lượng
sức mà thôi, chẳng thể như trước được! Xin hãy đến Tuyên Giảng Đường hỏi xem An
Sĩ Toàn Thư, Thọ Khang Bảo Giám như tôi đã nói [ở phần trên] đã gởi tới hay
chưa? Văn Sao gởi tới bao nhiêu đó bộ; nếu chưa gởi tới trọn hết thì vẫn còn
thiếu họ sáu mươi sáu đồng, trong mùa Hạ sẽ gởi tới. Nếu đã gởi đủ số thì dư ra hơn hai trăm đồng.
Lệ phí chuyển tiền ở đất Cáp
Nhĩ Tân quá nặng. Bất luận là Tuyên Giảng Đường hay ông đều đừng nên gởi tiền tới.
Tuy Quang gặp phải nạn này nhưng vẫn chưa đến nỗi túng quẫn không làm gì được!
Trong khoảng Xuân - Hạ sẽ có đôi ba gói Di Đà Kinh Bạch Thoại Chú và Gia Ngôn Lục
được gởi tới. Hai loại sách này Quang đều cho tạo thành bốn bức Chỉ Bản, tính gởi
một bức sang Cáp Tuyên Giảng Đường hoặc chùa Cực Lạc, ngõ hầu sau này chẳng cần
phải thỉnh sách từ phương Nam nữa.
Thế đạo hiện thời không có
cách nào vãn hồi. Nếu muốn cứu đời, ngoại trừ đề xướng nhân quả báo ứng và giáo
dục trong gia đình, không thể nào thực hiện được. Giáo dục trong gia đình rất cần
chú ý đến nhân quả báo ứng, nhưng dạy dỗ con gái lại là thiết yếu nhất! Bởi lẽ,
không có hiền nữ sẽ không có hiền mẫu, không có hiền mẫu làm sao có con cái hiền
lương cho được? Đấy chính là pháp luân căn bản. Những điều con người hiện thời
đề xướng toàn là cành nhánh. Từ thuở bé đã chẳng biết đến đạo làm người và sự
lý nhân quả báo ứng thì một khi bị kẻ tà vạy dụ dỗ sẽ mặc sức làm càn. Những đứa
phế luân thường, vứt bỏ lòng thẹn, giết cha, gian mẹ đều do thuở ban đầu không được
mẹ hiền un đúc mà ra!
592. Thư trả lời cư sĩ Lý Thiếu Viên (thư thứ nhất)
Mấy
hôm trước, nhận được thư do Lý Viên Tịnh chuyển đến, biết cư sĩ gần đây tu trì khá thiết tha mà cái tâm lợi người lại càng hết sức
chân thật, thiết tha, tôi khôn ngăn vui mừng, an ủi! Chương trình của Niệm Phật
Đoàn khá hay, chỉ có lời khai thị trong khi trợ niệm không hợp lẽ cho lắm nên
tôi sửa đổi đại lược và nêu nguyên do. Đã giao cho Lý Viên Tịnh cầm đi, chắc
ông đã đọc qua rồi!
Gần đây, Quang bận bịu đến tột
bậc do phải giảo chánh, đối chiếu Lịch Sử Cảm Ứng Thống Kỷ. Sách ấy do Quang từng
khuyên Ngụy Mai Tôn biên tập vào năm Dân Quốc 13 (1924). Ông ta cũng hết sức
hoan hỷ, nhưng do tinh lực không đủ, phải bỏ dở giữa chừng. Năm trước, Nhiếp
Vân Đài thỉnh Hứa Chỉ Tịnh biên tập, hoàn thành bản thảo vào tháng Tám. Nhiếp
Vân Đài bị bệnh, chẳng thể lo toan được. Do muốn thỏa mãn ý nguyện xưa của
mình, Quang liền một mình gánh vác chuyện ấy, nay đã sắp chữ gần xong. Lại còn
sắp xếp một bản in khác với cỡ chữ Tứ Hiệu Tự, cho in bằng giấy báo; ước chừng
cuối tháng Mười Một sẽ có thể sắp chữ xong. Xong chuyện, sẽ ở ẩn lâu dài. Bộ
sách ấy thâu thập những sự tích cảm ứng trong hai mươi bốn bộ sử, lại còn có
thêm lời bình luận sao cho phù hợp với nhân quả ba đời như đức Phật đã nói. Nếu
hạng Nhất Xiển Đề chẳng thèm để mắt tới thì không biết làm sao; chứ nếu ngó tới,
ắt sẽ có ngày cải tà quy chánh! Do vậy, Quang chẳng tiếc sức nhọc nhằn để lo liệu.
Hiện thời đã quyên mộ đủ tiền in hai vạn bộ (trọn chẳng phải là đặc biệt
quyên mộ, mà là có những người biết được liền xin bỏ tiền giúp đỡ [ấn hành]). Một đồng có thể in được hai bộ. Sách được chia thành
bốn cuốn, gồm ba trăm năm chục, sáu chục trang. Hiện thời, do vẫn chưa sắp chữ
xong nên chưa thể biết chắc số trang được, nhưng ước chừng là như thế, dẫu bao
nhiêu đi nữa cũng không vượt quá số trang ấy.
Nói tới chuyện quy y thì ông
đã quyết định, Quang cũng chỉ đành tùy duyên. Nay đặt pháp danh cho ông là Trí
Viên, nghĩa là dùng cái trí vô ngại viên dung để tu Chân ngay trong cõi tục, hiểu
trọn vẹn các pháp, chuyên tu Tịnh nghiệp hòng tự lợi, lợi tha (tuy hiểu
trọn vẹn các pháp, nhưng quyết chẳng thể không chuyên tu Tịnh nghiệp. Nếu
không, sẽ chẳng phải là Tịnh nghiệp hành nhân mà chính là người tu pháp môn tự
lực theo đường lối thông thường). Những bậc đại
thông gia hiện thời phần nhiều muốn cho môn đình cao lớn, nên phần nhiều giảng
thuyết những pháp chẳng hợp căn cơ, hoặc chỉ bàn nói điều huyền lẽ diệu, chuyên
ỷ vào tự lực, chắc sẽ đến nỗi Chân lẫn Tục đều ngoắt ngoéo, bị cõi đời cười chê
(Phàm là người học Phật ắt phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận,
dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành. Chẳng
y theo điều này để dạy người thì sẽ chẳng hợp căn cơ! Muốn học Phật pháp, ắt phải
giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận. Nếu không, còn là tội nhân trong thế
gian, làm sao đạt được lợi ích chân thật nơi Phật pháp ư?) Những điều khác đã nói tường tận trong Văn Sao, Gia
Ngôn Lục, ở đây không viết cặn kẽ. Xin hãy sáng suốt suy xét thì may mắn thay!
Ông nói người vãng sanh ít ỏi, quả thật là do tín nguyện chẳng chân thật thiết tha mà ra! Nếu tín nguyện chân thật, thiết tha, dẫu lúc lâm chung mới niệm thì được vãng sanh vẫn là hợp lẽ. Nếu hời hợt, phù phiếm, trong tâm vẫn mơ màng phước báo đời sau, làm sao vãng sanh được? Gốc bệnh ở nơi ấy, chớ nên không biết! (ngày Hai Mươi Ba tháng Mười năm Dân Quốc 18 - 1929)
593. Thư trả lời cư sĩ Lý Thiếu Viên (thư thứ hai)
Nhận
được thư và Tự Tri Lục, biết tâm mộ đạo của cư sĩ và các vị hết sức chân thật,
thiết tha, tiếc là chưa biết gương mẫu tu hành tốt đẹp, bèn coi những lời nói
nhăng nói càn, đơm đặt bịa chuyện là quý báu nhất (chỉ Tự Tri Lục) rồi muốn lưu thông [những lời do kẻ khác bịa đặt], ngõ
hầu ai nấy đều đạt được cảnh ấy, chẳng biết đấy chính là lời lẽ ma mị đáng ghét
bậc nhất, dẫn dắt người khác lọt vào cảnh ma. Đầu mùa Hạ năm ngoái, cư sĩ La Tế
Đồng ở Thượng Hải có được cuốn sách ấy liền cho in thạch bản một ngàn cuốn để
biếu tặng người khác. Cư sĩ Đinh Quế Tiều muốn lưu truyền rộng rãi bèn bảo Tế Đồng
gởi cho Quang một gói; còn Quế Tiều tự viết thư cho Quang, xin Quang đọc để “hễ
sách chẳng đến nỗi làm cho người khác bị lầm lạc thì sẽ viết lời phê bình tường
tận”, còn cậy Quang viết lời tựa để mong được lưu truyền rộng rãi. Quang đọc
xong, khôn ngăn kinh dị, bèn để nguyên gói sách gởi trả lại cho Quế Tiều, cực lực
thuật rõ những cái họa của cuốn sách ấy.
Bởi lẽ, [sách ấy sẽ] lôi kéo
những kẻ sơ tâm chẳng dụng công nơi nhất tâm chí thành nghĩ nhớ, mà chỉ thường
muốn thấy cảnh giới tốt đẹp. Nếu họ vừa thấy cuốn sách này sẽ liền chẳng học
theo bà Hồ chân thật dụng công mà cứ chuyên muốn đạt được cảnh giới tốt đẹp giống
như bà Hồ. Do cái tâm cuồng vọng, gấp rút, thiết tha, thường khởi ý niệm như thế
ấy, ắt sẽ đến nỗi dẫn khởi oán gia trong đời trước biến hiện những cảnh kẻ ấy
hâm mộ và khi vừa được thấy cảnh ấy liền sanh lòng hoan hỷ lớn lao, oán gia sẽ
liền dựa vào thân. Kẻ ấy liền mất trí điên cuồng, Phật cũng chẳng thể làm sao [cứu
giúp người ấy] được! Quang cũng chẳng thể bảo “lời bà Hồ kể toàn là bịa chuyện”,
nhưng cũng chẳng dám bảo là chân thật không dối trá. Vì sao vậy? Nếu bà ta thật
sự đạt đến loại cảnh giới ấy, há lẽ nào chẳng biết những lời lẽ ấy sẽ khiến cho
người khác bị lầm lẫn. Xin hãy nói với ông La Tế Đồng, từ nay đừng gởi tặng cho
người khác nữa! Những sách còn lại hãy nên giao cho ngọn lửa để diệt mầm họa.
Chưa đầy một tháng sau, ông
Vương Mưu Phụng ở Hàng Châu lại nhận được cuốn sách ấy, khôn ngăn hoan hỷ, cũng
cho in thạch bản một ngàn cuốn. Có người bảo hãy gởi cho Quang xin chứng minh,
giám định. Do vậy ông ta viết thư và gởi sách đến, Quang liền lấy đại ý những lời
đã nói với ông Đinh Quế Tiều để phúc đáp. Vương Mưu Phụng mới ngưng in, đem thư
Quang đăng trên tờ Phật Học Châu San, sao các vị vẫn chưa đọc? Mùa Thu năm
ngoái tôi sang đất Hỗ, hỏi Tế Đồng đã phân phát hết hay chưa? [Ông ta] nói hãy
còn hai ba trăm cuốn, chẳng dám phân phát, tính đốt đi. Quang khen ngợi: “Ông
thiêu đi sẽ có công đức vô lượng vô biên!”
Mùa Hạ năm nay tôi đến đất Hỗ,
Tế Đồng từ kinh đô trở về, hỏi dò thực chất của bà Hồ mới biết con người ấy rất
thông minh nhưng phiền não rất nặng! [Bà ta] sống trong Cực Lạc Am, hễ có chuyện
nào hơi chẳng vừa ý bèn chửi bới người khác. Về sau bị bệnh thổ huyết, chẳng
lâu sau đã chết. Lúc chết chẳng biết có phải là vì thổ huyết hay không? Cũng chẳng
biết cảnh tượng lúc mất ra sao? Mà văn tự của bà ta cũng không được lưu loát
như thế đâu; đấy là do một cư sĩ ở Tứ Xuyên soạn ra, Quang biết người ấy, nhưng
chẳng muốn nêu tên! Đến tháng Sáu, có một cư sĩ người Hồ Nam từng sống tại Cực
Lạc Am, kể [về bà Hồ] chẳng khác gì lời Tế Đồng đã thuật! Đủ thấy bọn họ chỉ muốn
dối đời trộm danh, chẳng đoái hoài đã dẫn dắt người khác vào cái họa ma mị!
Than ôi, đau đớn thay!
Chư vị muốn được lợi ích thật
sự, hãy nên dựa theo lời Phật, Bồ Tát, Tổ Sư để tu, quyết sẽ được lợi ích chân
thật. Cổ đức dạy người, chỉ giảng cho người khác cách dụng công, ai lại lôi hết
cảnh giới của chính mình đã thấy để bảo ban người khác! Viễn công đại sư là Sơ
Tổ Liên Tông đến lúc lâm chung thấy Phật mới nói với môn nhân: “Ta đã thấy thánh tượng ba lần, nay lại được
thấy, ta vãng sanh đây!” Nếu luận về thân phận của Viễn Công thì cao hơn bà
Hồ đâu phải chỉ như sự cách biệt giữa trời với vực! Há phải Ngài chỉ ba lần thấy
thánh tượng, chẳng có một tí cảnh giới tốt đẹp nào khác ư? Nếu đạt đến lúc “tâm
không, cảnh tịch” thì còn có cảnh giới chi nữa! Ấy gọi là “tâm và Phật tương ứng, tâm lẫn Phật cùng mất, bốn tướng chẳng còn, ba
tâm[4]
há được?” “Vô niệm mà thường niệm” chính là niệm mà trọn chẳng có cái tâm để
niệm và [chẳng thấy có] đức Phật được niệm. Nơi ấy nào có cảnh giới? Nếu niệm đến
mức như thế thì chẳng ngại gì tịnh cảnh Tây Phương sẽ phô bày trọn vẹn triệt để.
Nhưng do “niệm tịch, tình vong” nên lại càng được lợi ích nơi đấy, quyết chẳng
đến nỗi sanh lòng hoan hỷ lớn lao, hiểu lầm tin tức đến nỗi ma dựa phát cuồng.
Nếu lúc chưa đạt đến nhất tâm
mà trong tâm cứ niệm niệm mong tưởng cảnh giới thì khi cảnh giới ấy hiện, chắc
chắn sẽ gặp họa. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Chẳng
nghĩ là thánh cảnh thì gọi là cảnh giới tốt lành; nếu coi là thánh cảnh thì sẽ
lạc vào các loài tà”. Đấy tuy vẫn chưa phải là cảnh ma được cảm vời bởi cái
tâm bộp chộp, vọng động, nhưng hễ sanh lòng hoan hỷ cho là “đã chứng thánh quả”
thì sẽ trở thành gã ma con! Huống chi ngay từ lúc ban đầu tâm đã như vậy, tâm
ma chiêu cảm cảnh ma, cứ tưởng là cảnh thánh ư? Xin hãy đọc kỹ Tịnh Độ Thập Yếu,
Tịnh Độ Thánh Hiền Lục thì sẽ có cái để noi theo, không cách chi bị ma dựa được!
594. Thư trả lời cư sĩ Tịnh Thiện (thư thứ nhất)
Nghề
Y dễ khuyến hóa người khác nhất. Phàm là kẻ có bệnh không ai chẳng mong bệnh
chóng lành. Bảo họ ăn chay niệm Phật sẽ tiêu trừ túc nghiệp, tăng trưởng thiện
căn thì tự họ sẽ chịu tin theo. Tin rồi niệm thì bệnh sẽ chóng lành. Hơn nữa, đừng
học theo Tây Y; nói chung [Tây Y] dạy người ta ăn thịt vì thịt giàu chất dinh
dưỡng; những hạng người ấy trong tương lai đều phải làm thức ăn cho kẻ khác bởi
nói đạo lý ngược ngạo, tự hại, hại người! Ông chịu giữ tấm lòng tốt đẹp ấy thì Y
đạo ắt sẽ tiến triển lớn lao. Sách Nhị Khóa Hiệp Giải[5]
đã không còn, tôi bảo gởi cho ông một bộ Văn Sao. Quang già rồi, chỉ nên y theo
Văn Sao tu trì, chẳng cần phải gởi thư tới nữa do không có sức để thù tiếp!
595. Thư trả lời cư sĩ Tịnh Thiện (thư thứ hai)
Mỗi
người nhập đạo đều có thời tiết, nhân duyên. Những sách thuộc loại khuyên răn
[kiêng giết, phóng sanh] thường chép truyện ông Triệu X… huyện lệnh Bồ Thành,
Phước Kiến ăn chay trường thờ Phật. Bà vợ trọn chẳng có lòng tin, nhằm dịp sanh
nhật năm mươi tuổi bèn mua rất nhiều con vật còn sống, tính giết để đãi khách.
Ông Triệu bảo: “Bà muốn chúc thọ nhưng lại khiến cho những con vật này đều bị
chết, có yên lòng được chăng?” Bà vợ đáp: “Ông toàn nói những câu vô ích! Nếu
nghe theo lời Phật dạy, nam nữ cũng không được ngủ chung, những con vật này
cũng không giết thì chưa đầy mấy chục năm, trọn khắp thế giới sẽ đều là súc
sanh hết!” Ông Triệu không biết làm sao, đành để mặc bà ta.
Đến đêm bà vợ mộng thấy đi xuống
bếp, trông thấy người ta giết lợn, tự mình đã biến thành con lợn. Đầu bếp trói
chặt bốn vó con lợn, đặt lên bàn mổ để giết, đầy tớ đứng bên cạnh xem, [bà ta] vội
kêu họ cứu nhưng chẳng một ai nghe tiếng! Giết rồi mổ bụng, móc ruột ra, vẫn cảm
thấy đau đớn. Giết xong con lợn lại giết những con vật khác thì chính mình lại
biến thành những con vật khác, đau đớn không thể nào nói nổi! Tạm ngưng một khắc,
lại thấy một đứa đầy tớ cầm một con cá chép vào. Nha đầu[6]
nói: “Đem con cá chép này giao cho đầu bếp nấu canh cá cho bà chủ, để khi bà chủ
thức dậy sẽ dùng làm món điểm tâm!” Họ liền chặt đầu đuôi, lóc vảy, chặt thành
từng miếng nhỏ. Mỗi một miếng đều cảm thấy đau đớn, thống khổ cùng cực, choàng
tỉnh dậy, kinh hồn vỡ mật! [Ngay lúc đó], nha đầu bưng canh cá lên mời ăn điểm
tâm, chẳng nỡ lòng ăn nữa, sai đem những con vật đã mua phóng sanh hết. Do đích
thân nếm mùi vị [thống khổ vì bị giết chóc], bèn theo chồng ăn chay niệm Phật,
cầu sanh Tây Phương. Vợ ông chắc cũng được oai thần Tam Bảo gia bị, cũng đích
thân nếm mùi vị ấy rồi cõi lòng mới xoay chuyển.
Lời đồn Lộc Uyển là nơi Ngô
Vương nuôi hươu chưa đủ để làm căn cứ! Sợ rằng xưa kia có Lộc Uyển Tự, do lâu
năm nên đã mất dấu. Nhà Nho bèn đem ý nghĩa [tên vườn] Linh Hữu[7]
của Văn Vương ghép vào. [Còn trong danh xưng] Lộc Uyển Liên Xã thì Lộc Uyển (Mrgadāva) là nơi đức Phật thuyết pháp khi mới thành đạo.
Liên Xã chính là pháp để người tu hành lúc lâm chung được vãng sanh Tây Phương.
[Như vậy thì danh xưng Lộc Uyển Liên Xã] đã nêu bật [ý nghĩa] “bao gồm hết thảy
những nghĩa từ đầu đến cuối trong giáo pháp của suốt cả một đời đức Phật”. Hiện
thời chiến tranh liên miên, tai họa kết lại, há nên khởi công xây dựng lớn lao?
Xây dựng chính là chuốc lấy họa bị bọn thổ phỉ cướp đoạt, là nền tảng chuốc lấy
cái họa bị phi cơ oanh tạc. Xây dựng càng đẹp đẽ, tai họa càng lớn! Nếu thật sự
hoằng pháp lợi sanh thì dù trong gia đình hay nơi đất trống đều là chỗ để diễn
thuyết lợi ích [của pháp môn Tịnh Độ]. Tu trì có chia ra mấy chỗ cũng đâu có trở
ngại gì, vừa chẳng tốn tiền, tốn sức mà cũng chẳng bỏ lỡ công việc, cũng giống
như đi ra chợ mua gom các thứ đem về nhà dùng[8].
Mở mang một đạo tràng hoằng
pháp lớn lao thì phải đợi sau này nhằm lúc tình thế hòa bình mới có thể làm được.
Hiện thời các tỉnh bị hạn hán dữ dội, sắp xảy ra thảm trạng con người ăn thịt lẫn
nhau. Một mai vỡ đê thì sẽ dùng cách nào để kiềm chế? Tri kiến của Quang trọn
chẳng giống với người khác. Y theo cách người ta làm trong hiện thời chắc sẽ có
lợi ích nhỏ nhoi, nhưng sẽ chuốc lấy họa lớn. Làm theo cách của Quang, tuy
không nổi tiếng, chói ngời lớn lao được, nhưng trọn chẳng phát sanh hiểm họa nhỏ
nhặt nào! [Ông yêu cầu Quang soạn] bài tựa duyên khởi thì đã có bài tựa cho Triều
Dương Phật Giáo Cư Sĩ Lâm do Bàng Đức Siêu đã khắc để làm gốc, chỉ cần sửa đổi
đôi chút địa danh và tên người cũng như những đặc điểm đặc biệt mà thôi. Chuyện
này không cần Quang phải đích thân soạn. Người thông văn lý đợi đến khi xây dựng
xong xuôi sẽ châm chước mà sử dụng [bài tựa duyên khởi ấy]. Hiện thời do không
nhắc đến chuyện xây cất thì cũng không cần phải soạn văn sẵn.
Các vị Thiện Đạo, Thiếu Khang
hoằng dương Tịnh tông, tiếng Phật hiệu vang khắp ngõ hẻm đường phố. Như xướng
khúc hát gieo mạ, ai nấy đều muốn nghe; như truyền thánh chỉ của nhà vua, ai nấy
đều tuân hành. Ai bảo là “không có chùa miếu sẽ chẳng thể hoằng pháp được?” Cần
biết rằng: Hễ có chân tâm thì sẽ tự khuyến hóa được. Lấy thân làm gương để mong
ai nấy trọn hết bổn phận, lấy cổ nhân làm khuôn phép, ngõ hầu nhà nhà đều trở
thành đạo tràng. Đang trong cõi đời đại loạn này, tốt nhất là nên hoằng pháp một
cách không dấu vết. So với những kẻ xây dựng lớn lao, tốn sức, bó tay, nhọc
lòng gánh vác nỗi lo thì sẽ khác biệt lớn lao vời vợi!
596. Thư trả lời cư sĩ Tịnh Thiện (thư thứ ba)
Thư
nhận được đầy đủ, cổ nhân nói: “Sau khi đại
loạn, dân sẽ dễ trị”. Đang trong lúc loạn lạc đến cùng cực này, nếu có người
đức cao vọng trọng đề xướng Phật pháp, dạy họ
kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, ăn chay, niệm Phật, nói với họ về nhân quả ba đời
và luân hồi trong lục đạo thì kẻ có lòng nhân ai mà chẳng bội phục? Nho giáo
nói: “Đối xử nhân từ với dân, yêu thương
loài vật”. Trong một đời người, cần phải bắt đầu thực hiện lời này kể từ
khi còn đang độ tuổi thơ ấu thì sự đối xử nhân từ với dân mới có thể [thực hiện]
rốt ráo được! Nếu chẳng thực hiện từ lúc còn thơ ấu thì đối xử nhân từ với dân [không
đúng cách] chắc sẽ đến nỗi trở thành gây phiền cho dân, lòng yêu thương ấy sẽ
trở thành nói xuông!
Nay tôi sẽ nói nguyên do: Trẻ
nhỏ vô tri thấy những con vật bay, chạy v.v… ắt giết ngay hoặc bắt lấy rồi nghịch
ngợm khiến chúng bị chết. Nếu bất luận là con vật nào, người lớn đều không cho
trẻ giết, bởi lẽ hễ giết thì chính mình sẽ bị tổn phước giảm thọ đến nỗi thiên
địa quỷ thần đều chẳng che chở, gia hộ. Từ lúc bé tẹo đã dưỡng thành thói quen ấy,
lớn lên quyết chẳng đến nỗi coi tàn sát lẫn nhau là vui. Mười mấy năm trước, có
người nước Anh tên là Lâm X… sống ở Nam Kinh, đến Phổ Đà gặp Quang, tặng cho
Quang mấy cuốn sách bảo do chính ông ta soạn. Ông ta nói tiếng Trung Quốc còn
chưa sõi lắm, sao lại có thể viết được những văn tự rất hay ấy? [Trong số ấy]
có một cuốn chuyên đề xướng phép giữ gìn sức khỏe, chuyên môn chú trọng sát
sanh. Những cuốn khác tôi đều đem tặng cho người ta, chỉ có cuốn sách nói về
phép giữ gìn sức khỏe ấy thì Quang xé nát, tống vào giỏ giấy vụn, sợ kẻ vô tri
cầm đi thì hại người, hại vật chẳng thể cùng tận!
Ông Châu đã lậm sâu chất độc của
người Tây Dương, chẳng biết đạo “bảo vệ sanh mạng, lợi người”. Con người là “vạn
vật chi linh”, nhưng cũng là một loài động vật. Ta và vạn vật cùng sống trong
vòng trời đất, chúng nó không đòi mạng ta, sao ta lại muốn đoạt mạng chúng? Nhà
nào đập ruồi, ruồi sẽ càng nhiều. Kẻ nào giết rết, thường bị rết cắn. Những kẻ
thường muốn bảo vệ sức khỏe trong đời này, chưa chắc đã được hưởng ích lợi ngay
trong đời hiện tại. Do cả một đời này tâm thường ôm lòng giết chóc thì tương
lai đời đời kiếp kiếp thường bị kẻ khác giết, nhưng do chưa đích thân thấy nên
vẫn vui sướng giết chóc quên mệt!
Trong sách cổ có [chép chuyện]
kẻ ghét kiến, kiến xúm đen xúm đỏ xác hắn ta. Kẻ ghét ruồi, ruồi bu trên thân,
không làm cách nào được, than thở xuông cũng chẳng làm gì được! Quang thấy chuyện
[giết chóc] ấy chính căn bản của đại sát kiếp. Nếu vẫn muốn noi theo ý kiến của
chính mình để làm thì trộm sợ rằng sau này có lúc hối hận chẳng kịp, đáng xót,
đáng thương lắm, không có cách gì cứu giúp được! Bậc quân tử sẵn lòng nhân sao
nỡ chuyên chú trọng giết hại loài vật khiến cho hết thảy những kẻ vô tri đều bắt
chước theo ư?
Mười mấy năm trước, một đệ tử
quy y có một đứa con nhỏ, mua một cái đập ruồi để làm đồ chơi, nó liền thường
hay đập ruồi. Một bữa nọ ruồi nhiều đến cùng cực, nó bèn cực lực đập, chợt thấy
cả nhà đều tối om. Người lớn bèn mở toang cửa cái, cửa sổ, niệm Phật sám hối; chẳng
mấy chốc ruồi bay đi hết. Từ đấy đem đốt cái đập ruồi, ruồi cũng không bu đến nữa.
Đấy chính là vì đệ tử Phật được gia bị bởi lòng Từ của đức Phật khiến cho sát
nghiệp chấm dứt. Nếu là kẻ không có lòng tin, sợ rằng sẽ chẳng gặp được điềm
báo như vậy thì đời kế tiếp, đời sau há thể tưởng tượng được ư?
Nếu chỉ gởi gạo Đại Bi thì rất
tốn công, nay gởi cho ông hai gói tro hương Đại Bi, so với gạo càng dễ cất giữ
hơn mà lợi ích cũng giống như gạo, để lâu không bị hư. Nếu gặp phải căn bệnh thầy
thuốc chẳng thể chữa lành thì lấy hai phần tro đổ vào một cái tô lớn, pha bằng
nước sôi, khuấy lên, đợi khi chất tro lắng xuống sẽ gạn lấy nước trong đổ vào đồ
đựng, chia ra uống mười lần. Mỗi ngày uống ba hay bốn lần. Hễ lành bệnh thì
không cần phải uống nữa. Hễ chưa lành lại pha tiếp. Bao tro ấy nên để thờ ở
phía dưới khám thờ Phật hoặc treo ở chỗ cao sạch, chớ nên khinh nhờn! Đây là loại
tro hương được gia trì hơn một vạn biến chú Đại Bi. Phàm bị bệnh nguy hiểm, [uống
nước tro Đại Bi vào] dẫu chẳng lành cũng thấy giảm bớt rồi mới chết. Chất tro
đã pha xong nên thêm nước vào để tưới cây hoặc trát lên nóc nhà.
Nay đem Vật Do Như Thử, Sức
Chung Tân Lương, Thọ Khang Bảo Giám, Tức Tai Khai Thị, Liễu Phàm Tứ Huấn, mỗi
thứ hai cuốn, lèn chặt [thành một bưu kiện]. Những thứ giấy dùng để chèn chỗ trống
cũng đừng vất đi, bởi đấy chính là Sớ Lễ Quán Âm Cầu Con và Ba Điều Trọng Yếu Để
Cầu Con, cũng là bài văn có quan hệ lớn lao cho hết thảy kẻ thanh niên. Bất luận
già hay trẻ đều chớ nên không biết! Nếu không, chẳng biết tiết dục mà mong sanh
con thì chưa sanh được con mà cha đã chết trước rồi! Hoặc mẹ do ân ái quá nhiều
bị mắc bệnh lao sái[9],
chẳng biết là bao nhiêu! Đồ Hữu Sanh khá thông minh. Những con em thông minh hiện
thời phần nhiều mắc bệnh thủ dâm, hãy bảo chúng nó đọc Thọ Khang Bảo Giám và Liễu
Phàm Tứ Huấn thì sẽ chẳng đến nỗi mắc phải những mối họa đau khổ như trở thành
tàn tật và đoản mạng mà chết. Xưa kia, thánh vương sai quan bố cáo [khuyên mọi
người không nên ăn nằm khi sấm sắp động vào đầu Xuân], nay thì cha, mẹ, thầy, bạn
nhất loạt chẳng nói đến chuyện này, cũng là do ác nghiệp của mọi người cảm
thành!
Có kẻ càng ngu hơn, hễ con cái
bị bệnh liền cưới vợ cho nó; ý muốn cho con mau được lành bệnh, thật ra là làm
cho nó chóng chết! Chẳng đáng buồn ư? Một người ở Hồ Nam có hai đứa con đều chết
vì lý do này. Đứa con thứ ba mắc bệnh vẫn muốn làm như thế, bị một người bạn quở
trách mới thôi. Ấy chính là quả báo do đời trước dụ dỗ kẻ khác chơi bời bừa bãi
đến chết. Một đứa đã chết còn chưa ngộ, hai đứa chết luôn mà vẫn chưa ngộ! Nếu
không bị người bạn quở trách chắc sẽ bị tuyệt tự! Rốt cuộc vì lẽ nào mà tâm kẻ ấy
ngu như thế? Nếu không phải do oán quỷ xui khiến, ắt chẳng đến nỗi ngu như thế!
Xin hãy sáng suốt thì may mắn thay!
597. Thư trả lời cư sĩ Tịnh Thiện (thư thứ tư)
Ông
nói hai vấn đề (chỉ có điều thứ nhất là đáng bàn bạc, chứ điều thứ hai
là nói nhăng nói càn. Khi điều thứ nhất đã hoàn toàn đả phá được thì không cần
phải nói [tới điều thứ hai nữa]. Nhưng lời này chỉ nên truyền miệng, đừng nên
đăng báo kẻo người xứ… trông thấy sẽ làm hại. Thiết yếu đến cùng cực). Vợ ông chẳng chịu ăn chay niệm Phật, hãy thử hỏi [bà
ta]: “Bà có muốn thường bị bọn người xứ... đánh chửi, làm nhục hay không?” Ắt bà
ta sẽ chẳng nói là “thường muốn!”
Ở Vô Tích, [bọn người xứ…] giết
huyện trưởng, vây thành ba ngày, lùng bắt những kẻ chống đối khiến cho cả nhà đều
phải bỏ trốn. Bọn chúng bắt được món đồ gì tốt đẹp liền tịch thâu, chẳng ai dám
hó hé! Trong nhà ông Viên Lệ Đình có rất nhiều người niệm Phật; lính xứ… chẳng
tới nhà ấy. Có nhà bị chúng lùng sục mấy lượt, những món đồ tốt đẹp đều bị cướp
đi hết. Lúc Tô Châu thất thủ, bọn lính xứ… gian dâm phụ nữ, thảm chẳng nỡ nghe!
Một nữ đệ tử vì mẹ chết, linh cữu (quan tài) còn đang quàn tại nhà, chẳng nỡ bỏ
trốn, bèn đóng cửa niệm Phật. Lính xứ… phá cửa, thấy cô ta đang niệm Phật nên
không làm nhục! Chúng chỉ vào cái rương, bắt đổ ngược hết ra, nhưng chẳng lấy một
món nào, bỏ đi! Nếu cô ta không niệm Phật thì bà già sáu bảy chục tuổi vẫn bị ô
nhục, huống hồ thiếu phụ mới ba mươi mấy tuổi ấy ư?
Nơi cửa thành, [bọn chúng] kiểm
soát rất ngặt (thoạt đầu do binh lính lục soát, về sau mới sai phụ nữ lục
soát), nữ nhân cũng bị sờ nắn khắp mình. Những
người cầm chuỗi niệm Phật đa số không bị xét gắt gao như vậy; cũng có người chẳng
bị xét, cho đi luôn. Niệm Phật chính là diệu pháp cứu nạn cứu mạng trong đời loạn.
Người xứ… tin Phật, đối với nam nữ cầm xâu chuỗi đều không ngược đãi quá đáng,
sẽ khiến cho hết thảy mọi người đều niệm Phật. Phàm những ai đi ra ngoài đều cầm
chuỗi niệm Phật, dẫu là kẻ chúng muốn bắt làm phu phục dịch cũng sẽ thả cho đi.
Một đệ tử ở Vu Hồ tên là Ngô
Thương Châu làm sĩ quan. Năm Dân Quốc 24 (1935), tham chiến tại Tuy Viễn, bị
lính xứ… bắt được, lột quần áo khám xét, thấy ông ta cổ đeo chuỗi niệm Phật liền
tỏ vẻ kính trọng, không xét nữa, dẫn đến gặp viên Tư Lệnh. Viên Tư Lệnh do thấy
ông ta vốn làm giáo viên ở trường X…, nói: “Ông cũng đến đây rồi!” Ông Ngô nói:
“Tôi đến đây để ngắm phong cảnh”. Viên Tư Lệnh liền ra lệnh thả cho ông ta đi. Nếu
chẳng đeo chuỗi niệm Phật ấy, chắc tánh mạng đã mất trong tay bọn lính rồi, có
còn gặp được viên Tư Lệnh hay chăng? Đấy chính là vô thượng diệu pháp để gặp dữ
hóa lành trong hiện tại. Vợ ông không chịu niệm, lỡ xảy ra những chuyện như
khám xét v.v… thì sẽ xử sự như thế nào? Đây là mối họa do con người gây ra. Nếu
gặp phải oán gia đối đầu trong đời trước mà nếu không niệm Phật sẽ đành bỏ mặc
cho nó làm gì thì làm, có cách nào để trốn tránh được đâu!
Dưới triều Tống, Trần Xí lỡ giết
người. Một hôm thấy kẻ ấy đi tới, biết là hắn đến đòi mạng, vội vã niệm Nam Mô
A Di Đà Phật, oán quỷ liền đứng sững không tiến lên được! Càng niệm rất gấp,
oán quỷ liền bỏ đi. Trần Xí liền sốt sắng niệm Phật, lại sống được mấy chục năm
rồi mới vãng sanh Tây Phương. [Vãng sanh rồi] còn trở về, nhập vào thân đứa
cháu nội gái nói chuyện ông ta đã vãng sanh. Người nhà nói: “Lúc cụ còn sống
chưa kịp vẽ hình tượng. Nếu cụ chịu hiện thân, sẽ vẽ hình tượng để thờ”, liền
hiện hình thân hình của người cõi Tây Phương.
Năm Dân Quốc 19 (1930), một thanh
niên hai mươi bốn tuổi ở Tô Châu tên là Quách Chấn Thanh nhà ở đường Cảnh Đức,
Tô Châu, mở tiệm bán giấy Hợp Pháp, theo một người già trong gia đình đến chùa
Báo Quốc quy y. Quang bảo anh ta: “Hiện thời đang nhằm tình thế hoạn nạn, hãy thường
niệm Phật và niệm thánh hiệu Quán Âm”. Chàng trai hai mươi bốn tuổi béo phục phịch
ấy liền chịu nghe theo. Tháng Chạp năm sau sang Thượng Hải; chiến sự nổ ra, chẳng
thể trở về đất Tô được. Đến Tết vẫn còn đánh nhau, chẳng biết tới bao giờ mới kết
thúc. Đường xe lửa đã bị cắt đứt, liền ngồi tàu thủy nhỏ vòng qua ngã Gia Hưng
trở về Tô Châu. [Tàu thủy] tới lui đều bị cường đạo cướp bóc, anh ta bèn thường
niệm thánh hiệu Quán Âm, nhưng chỉ niệm thầm chứ không niệm ra tiếng. Ban đêm
cường đạo đến cướp, anh ta đang ở dưới cabin. Trong cabin có rất nhiều người
nghèo. Bọn cướp lục soát trên boong xong liền xuống hầm tàu, tiền bạc của những
kẻ nghèo cùng đều bị tước sạch. Anh ta người béo phục phịch, lại mặc một cái áo
da, nhưng bọn cướp trọn chẳng thèm hỏi tới! Cả tàu đều bị cướp sạch, chỉ mình
anh ta là không buồn hỏi tới! Ấy chính là do Phật quang gia bị nên lũ cường đạo
chẳng thấy anh ta.
Một nữ nhân ở Hồ Nam sanh nở,
oán quỷ dựa vào thân, phát cuồng, cười ngặt nghẽo, cắn đứt thịt trên tay mình mấy
chỗ mà miệng vẫn cười! Cha mẹ chồng thấy vậy không biết làm cách nào, bèn lớn
tiếng niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. Cô ta liền như si ngốc, không cười nữa,
sanh đứa con ra. Ấy là do chí thành niệm Quán Ân, oán quỷ bỏ đi.
Vợ ông không biết “trong hiện
tại chẳng biết chắc lúc nào sẽ có họa lớn tầy trời”. Nếu hiểu được đạo lý ngừa
sẵn tai họa, dù có cấm cản bà ta đừng niệm, bà ta vẫn cứ muốn lén lút thầm niệm,
cần gì ông phải khuyên? Do bà ta là kẻ hồ đồ thiếu hiểu biết nên chẳng biết
mình đang hoàn toàn sống trong cảnh họa hoạn, ngược ngạo tưởng là yên vui. Tới
khi đại họa giáng xuống thân, không cách nào tránh né, hoảng sợ như sét nổ long
trời, bưng tai chẳng kịp! Người như vậy đáng gọi là “kẻ si dại đáng thương xót,
là phường ù ù cạc cạc chẳng thể cứu được, là kẻ sống oan uổng một đời”. Chẳng
đáng buồn sao! Chẳng đáng xót sao? Ông hãy đưa thư của tôi cho bà ta xem. Nếu
bà ta không biết chữ thì hãy giảng nói cho bà ta, chắc sẽ phát tâm! Nếu không, đành
mặc cho bà ta vào A Tỳ địa ngục, thường hưởng thụ những món cúng dường thượng
diệu của Diêm La đại vương như giường sắt, cột đồng, rừng gươm, núi đao, vạc
sôi, lò than, coi đó là sung sướng, sung sướng không chi hơn được! Thử hỏi bà
ta có muốn hưởng thụ những thứ cúng dường tốt đẹp ấy và muốn nhận lãnh sự yên
vui ấy hay không? Nếu bà ta muốn thì cũng đáng coi là một hảo hán. Sợ rằng dẫu
chỉ nghe [nói tới chuyện ấy] bà ta cũng chẳng muốn nghe. Chẳng chấp nhận làm gã
hảo hán ấy thì phải làm một bà cụ già vô dụng chỉ biết niệm Phật!
Ông làm nghề Y, đừng nên học
theo bọn thầy thuốc tầm thường “đau đầu bèn chữa đầu, đau chân bèn chữa chân”
hiện thời! Bất luận nam hay nữ [hễ bị bệnh] đều nên dạy họ ngưng ân ái, mãi cho
tới khi bình phục hoàn toàn, vẫn phải đợi hơn cả tháng rồi mới có thể ân ái một
lần. Nếu không, dẫu chẳng đến nỗi chết ngay, nhưng cũng trở thành kẻ tàn phế vô
dụng. Trừ khuê nữ, quả phụ là chẳng nên nói ra, đối với những kẻ khác đều phải
nên nói [chuyện này], chớ nên ngượng miệng! Hễ ai cầu con thì dạy họ ngưng ân
ái nửa năm để bồi bổ Tiên Thiên cho đầy đủ, đợi khi vợ sạch kinh nguyệt rồi,
vào đêm khí trời trong trẻo, nhằm ngày tốt không xui xẻo mới ân ái thì sẽ thụ
thai! Từ đấy vĩnh viễn ngưng ăn nằm, chắc chắn đứa con sanh ra thân thể mạnh khỏe,
tâm thức thông minh, mẫn tiệp, tánh tình hiền thiện. Lại dạy vợ chồng họ thường
niệm thánh hiệu Quán Âm, chắc chắn sẽ sanh được con cái phước đức, trí huệ, rạng
rỡ đất nước lẫn gia đình.
Thầy thuốc hiện thời chỉ biết
chữa bệnh, còn điều kiêng kỵ lớn lao đối với bệnh tật là ân ái đều nhất loạt chẳng
chịu nhắc tới. Họ chẳng biết do đây mà bao nhiêu thanh niên nam nữ bị chết mất.
Đấy chẳng phải là do thầy thuốc chữa bệnh làm chết bệnh nhân, nhưng vì chẳng chịu
nói những điều kiêng kỵ trong bệnh tật đến nỗi người bệnh phải chết, thì cũng
chẳng thể nào không gánh cái tội làm hại tánh mạng của người ta! Nếu bất luận
là bệnh nào, đều dạy họ thôi ăn nằm thì công đức lớn lao giống như ban cho người
ấy sức khỏe, trường thọ, yên vui vậy! Lại còn khuyên người ta ăn chay niệm Phật,
niệm Quán Âm thì còn có thể làm cho người ấy liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập
thánh, tức là “làm nghề mà tăng tấn đạo” vậy. So với những kẻ chỉ trị bệnh thì
công đức càng lớn lao hơn nhiều lắm!
Nữ nhân khi sanh nở niệm Quán
Âm chắc chắn chẳng bị khó sanh. Trong Một Lá Thư Trả Lời Khắp đã có nói rồi.
Con gái từ nhỏ phải học tánh từ thiện, chẳng nóng giận thì những điều tốt lành
sau này sẽ chẳng thể nào nói trọn. Nếu ưa nổi nóng thì những nỗi khổ sở sau này
cũng chẳng thể nào nói trọn! Nếu cho con bú sữa mà nổi nóng đùng đùng thì đứa
nhỏ ắt sẽ chết, nếu như nổi nóng vừa vừa thì đứa nhỏ ắt bị bệnh. Đấy chính là
điều các danh y, thần y từ xưa tới nay chưa hề nói rõ! Nữ nhân tánh tình nhu
hòa thì gia đạo cũng sẽ hòa thuận, con cháu nhìn theo bắt chước làm lành, lợi
ích vô cùng!
Bài thuốc trị bệnh sốt rét
trong Dược Phương dẫu người đã bị bệnh hơn mấy chục năm chẳng trị được cũng đều
hễ trị liền lành. Năm ngoái, một đệ tử trị lành bệnh cho một người ở Thường
Châu mắc bệnh sốt rét suốt mười bốn năm. Suốt mười bốn năm không biết người ấy
đã qua tay bao nhiêu thầy thuốc chữa trị! Toa cai thuốc phiện trị được bệnh khí
thống nơi gan, nơi bao tử. Dẫu ai bị bệnh khí thống mấy chục năm cũng hễ trị liền
lành. Do mắt Quang chẳng dám nhìn vào giấy trắng ngần để viết nên ghi vào đây.
Toa thuốc trị chó dại cắn có nhiều vị thuốc đắt tiền, các tiệm thuốc đều đem
thuốc giả thay vào, đến nỗi gây nguy hiểm cho tánh mạng người khác. Còn phương
thuốc này hết sức tiện lợi, nhưng trong ấy có Địa Ngao Trùng[10],
nhà người bệnh phải niệm Phật siêu độ cho loài trùng ấy sanh về Tây Phương thì
đôi bên đều được lợi ích. Quang già rồi, từ nay về sau đừng gởi thư tới nữa do
không có mục lực lẫn tinh thần để thù tiếp.
598. Thư trả lời cư sĩ Điển Uẩn
Hôm
qua nhận được thư của cha ông, cho biết đối với hai gói sách Quang gởi cho cụ
vào năm ngoái, ông đọc xong rất hoan hỷ, cũng muốn cùng với vợ quy y. Đối với
những sách đã gởi vào năm ngoái, nếu ông đọc kỹ lưỡng thì chẳng những biết pháp
tắc tu trì Tịnh nghiệp, mà ngay cả cách giữ mình cư xử trong cõi đời, thờ cha mẹ,
dạy con, đều có pháp tắc.
Hiện thời sát kiếp ngập tràn,
nhân dân lầm than, xét tới cội nguồn thì vẫn là do chính mình gây nên, chính
mình phải hứng chịu. Vì sao vậy? Do người đời tham ăn ngon cho sướng bụng, giết
các loài vật sống trong nước, trên mặt đất, bay trên không để thỏa thích bụng
miệng. Sát nghiệp kết lại lâu ngày nên to dần, trở thành sát kiếp. Đối với cái
nghiệp đã qua, chỉ có chí thành niệm Nam Mô A Di Đà Phật để siêu độ những sanh
mạng bị giết ăn trong nhiều đời nhiều kiếp. Từ nay kiêng giết, ăn chay để vừa dứt
sát nghiệp vừa rất phù hợp với cách thức giữ gìn sức khỏe lớn lao. Chẳng biết
cha ông đã ăn thuần món chay hay chưa? Ông hãy nên thuận theo chí cha mà ăn
chay. Nếu cha ông chưa ăn chay trường thì hãy nên khuyên cụ ăn chay trường. Đã
không ăn thịt thì một ngày sẽ đỡ giết bao nhiêu đó mạng, vui sướng chi hơn?
Ngay cả con cái cũng nên khuyên chúng ăn chay. Đấy là yêu thương chân thật vậy!
Ông đọc tờ thông cáo rộng rãi
về chuyện sữa độc giết chết trẻ con sẽ biết ăn thịt có hại, đã gây trở ngại lớn
lao cho phép giữ gìn sức khỏe hiện thời, huống chi lại còn phải đền trả thân mạng
trong đời sau, đời sau nữa! Thời cuộc hiện thời chẳng biết sẽ biến chuyển ra
sao. Ngoài lúc niệm Phật ra, hãy nên niệm thêm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát để dự
phòng. Nếu thật sự chí thành, chắc chắn sẽ có cảm ứng. Hãy nên đem lời tôi bảo
với hết thảy mọi người thì công đức vô lượng. Tôi đã quên mất tựa đề những cuốn
sách đã gởi trong năm ngoái. Nay gởi cho ông một cuốn Đồng Mông Tu Tri (trẻ nhỏ
nên biết), ở đầu cuốn sách này có bài tựa “Nêu bày ý nghĩa ẩn kín của việc dạy
dỗ con cái” và bài tựa “Nêu bày những ý nghĩa ẩn kín của chữ Người”; cuối sách
lại có Khuyến Niệm Quán Âm Văn, Bố Cáo Về Chuyện Sữa Độc Giết Chết Trẻ Con. Đây
là điều các vị danh y, thần y nước ta từ xưa chưa hề tìm ra, hãy nên đem nói với
hết thảy mọi người. Ai có tài lực hãy nên ấn tống rộng rãi để mong cả cõi đời đều
biết.
Nay đặt pháp danh cho vợ chồng
ông. Đặt pháp danh cho ông là Huệ Uẩn. Uẩn là những điều chất chứa trong lòng.
Những điều chất chứa trong lòng đều hợp với trí huệ thì sẽ là người hiền, người
lành. Vợ ông pháp danh là Huệ Tồn. Tồn tức là Uẩn. Niệm niệm hợp với trí huệ
thì sẽ có thể giúp chồng dạy con, làm bậc mẫu nghi trong chốn khuê các, làm bậc
thầy gương mẫu cho nữ giới, vinh hiển chi hơn? Quang già rồi, tuổi đã bảy mươi
tám, sẽ chết trong sáng tối. Con người sắp chết, ắt thốt lời tốt lành. Nguyện vợ
chồng ông đều nghe theo lời tôi thì sẽ là đệ tử thật sự của đức Phật. Từ nay đừng
gởi thư tới nữa do không có mục lực lẫn tinh thần để phúc đáp vậy!
599. Thư trả lời cư sĩ Lý Huệ Cơ
Huệ
Mẫn đã có huệ căn từ đời trước nên có thể vừa niệm liền được tương ứng. Cần biết
rằng: Người học Phật hãy nên trọn hết bổn phận của chính mình, ắt phải hiếu thuận
với cha mẹ ruột, cha mẹ chồng, khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây
Phương. Đối với anh em trai, chị em gái, chồng, vợ, chị em dâu, con cái, tôi tớ,
đều nên đem những điều này để khuyên răn. Người làm được như thế mới là đệ tử
thật sự của đức Phật. Pháp danh chỉ là cái tên xuông, [làm được] những điều như
vừa nói trên đây thì mới có thật đức. Phải chăm chú thật sự thực hiện “thật vì
sanh tử, phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu niệm Phật cầu sanh” và “giữ vẹn
luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều
ác, vâng giữ các điều lành”. Tự hành như thế mà dạy người cũng như thế. Đấy
chính là quy củ, khuôn mẫu lớn lao để tu Chân ngay trong cõi tục. Xin hãy nói
bà ta. Quang già rồi, chớ nên thường gởi thư tới, cũng như đừng giới thiệu người
khác quy y, do không có mục lực lẫn tinh thần để thù tiếp!
600. Thư trả lời cư sĩ Đặng Huệ Châu
Lòng
người hiện tại khó lường, chuyện gì cũng đều có thể làm giả. Đối với chuyện quy
y và truyền Ngũ Giới, Quang đều chẳng ghi sổ, nên không cách nào tra cứu được.
Huống chi tuổi già tinh thần suy vi, chuyện gì đã qua liền quên ngay. Hai người
ở Kim Sa [xưng họ là đệ tử quy y của Quang] chẳng biết là thật hay giả. Còn mười
người ở Song Đôn [khoe họ] cùng thọ giới một lúc thì từ trước đến nay chưa hề
có chuyện ấy. Nếu là cùng thọ giới trong một lần thì sợ rằng chẳng thật! Nếu mười
người ấy không thọ giới cùng một lúc, sẽ khó phán định là thật hay giả. Lòng
người khó lường! Từ nay nếu những ai không biết cặn kẽ tánh tình và không do
người rất thân quen giới thiệu thì nhất loạt không thuyết giới cho họ. Nếu
thông báo cho các vị lâm trưởng thì cũng khá nhọc lòng. Hãy nên cầu Vi Đà Bồ
Tát răn nhắc những kẻ giả dối để họ sửa lỗi hướng lành thì sẽ là thỏa đáng rốt
ráo nhất. Những sách ông cần, tôi đã bảo gởi đi rồi. Quang già rồi, hễ có ai
quy y thọ giới đều bảo họ xin thọ với vị Tăng nơi họ đang ở, do không có mục lực
lẫn tinh thần để thù tiếp vậy.
601. Thư trả lời cư sĩ X…
Con
người sống trong thế gian, thời hạn được mấy chục năm, chớp mắt liền qua. Nếu
chỉ sống uổng mà muốn có lại thời gian này, quyết sẽ chẳng khi nào có được nữa!
Con người thành hay bại hoàn toàn do lúc bé: Nếu từ lúc thơ ấu đã sống luống uổng
thì đến năm hai mươi tuổi đã đánh mất nhiều cơ hội rồi! Cha mẹ con đều coi ta
là thầy, ta rất hy vọng con sẽ thành một người chân chánh thuần thiện để an ủi
tấm lòng cha mẹ yêu thương con. Con hãy nên lập chí hướng lớn lao, học làm người
tốt. Đừng a dua những kẻ trẻ tuổi xấu xa, làm càn, làm quấy. Phàm làm một chuyện
gì, nói một lời nào, đều phải có ích cho mình lẫn người.
Hiện thời con đã trưởng thành,
đã lập gia đình rồi, không đầy một hai năm nữa sẽ là cha của kẻ khác. Nếu con
không có chí hướng chân chánh, ắt trong tương lai con cái của con sẽ học theo
con mà đọa vào phường tầm thường, chẳng có thành tựu gì! Cha mẹ là tấm gương
cho con cái. Ví như đúc vàng, cái khuôn đã không đẹp thì chắc chắn chẳng thể
đúc ra vật đẹp đẽ được! Con người tuy chí ngu, quyết không ai chẳng muốn cho con
cái tốt đẹp. Chẳng biết con cái sẽ tốt đẹp hay không ư? Hãy cầu tìm ngay trong
tâm hạnh của chính mình. Huống chi con sanh trong nhà phú quý, trọn chưa từng trải
qua gian khổ. Cần biết rằng: Con được yên vui hơn hai mươi năm chính là do công
sức của cha con gìn giữ. Nếu con không lập chí, lúc cha con còn sống thì còn dựa
dẫm được, nhưng cụ đã ngoài sáu mươi rồi, trọn chẳng thể chăm chút cho con suốt
đời được! Lúc này không lập chí, một khi cha con mất đi, chuyện gì con cũng
không đảm đương được, ắt sẽ phải lo khuynh gia bại sản, chẳng tránh khỏi đói
rét! Đến lúc ấy, dẫu có biết hối, vẫn chẳng kịp nữa rồi!
Hằng ngày con hãy nên đọc Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, Văn Xương Âm Chất Văn, Quan Đế Giác Thế Chân Kinh dăm ba lượt, tối thiểu là phải đọc một lượt, và cũng bảo vợ con hãy đọc hằng ngày thì sẽ tự biết đạo lý làm người. Đã biết được đạo lý làm người thì sẽ kế thừa được gia phong của cha con. Hết thảy mọi người sẽ đều khâm phục ngưỡng mộ con, cho rằng cha con là một người tốt lành trọn vẹn nên có được một đứa con trai như thế. Điều ấy vinh hiển chi hơn? Rạng rỡ tổ tông, thành gia lập nghiệp chỉ là do biết lập chí học hỏi những điều tốt lành mà thôi! Há có chỗ nào khó làm, khó thực hiện chi đâu? Xin hãy suy nghĩ cặn kẽ! (ngày Mười Sáu tháng Mười Một năm Dân Quốc 18 - 1929)
602. Thư trả lời cư sĩ Vương Tôn Liên
Nhận
được thư, biết sở học của cư sĩ là cái học cho chính mình, chứ chẳng phải chỉ
muốn làm một bậc đại thông gia phô trương thanh thế sáo rỗng mà thôi, khôn ngăn
vui mừng, an ủi. Kinh điển Tịnh Độ rất nhiều, trong Văn Sao đã nhiều lần ghi
chép đầy đủ như Quán Kinh Thiện Đạo Sớ (hiện thời có bản khắc mới ở Quán
Âm Am tại Nam Kinh, chánh xác hơn nhiều so với bản do cụ Dương Nhân Sơn đã khắc
trước đây), Vô Lượng Thọ Kinh Sớ, Phổ Hiền Hạnh
Nguyện Phẩm Sớ Sao Hiệt (bản này do ông Phạm Cổ Nông trích yếu). A Di Đà Kinh, Vô Lượng Thọ Kinh, Quán Vô Lượng Thọ Phật
Kinh, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm là bốn kinh Tịnh Độ. Đối với Vãng Sanh Luận Chú
thì cần phải thỉnh bản khắc mới ở Bắc Kinh, một là ít sai ngoa, hai là trình
bày rõ ràng. Sách này hay tuyệt vời.
Di Đà Kinh Sớ Sao tuy rộng lớn,
tinh vi, nhưng văn rườm, nghĩa lắm, đâm ra khiến cho kẻ sơ cơ khó được lợi ích,
nhưng Di Đà Yếu Giải quả thật là bản chú giải tuyệt diệu bậc nhất từ xưa đến
nay, chính là bản chú giải độc nhất vô nhị xưa nay, đừng nên xem thường thì sẽ
may mắn lắm! Đại Minh còn có hơn một ngàn bộ sách này, tính muốn gởi hết sang
Quan Trung để thỏa mãn ước nguyện pháp thí của ông ta, cho thỏa lòng ngu thành
muốn báo ơn quê nhà của tôi. Điều quan trọng trong học đạo là đối trị tập khí.
Thường có những kẻ học vấn càng sâu, tập khí càng mạnh; đấy chính là vì coi học
đạo như học nghề, cho nên học đạo càng nhiều, nghịch đạo càng sâu! Đấy chính là
nguồn cội khiến cho đạo Nho lẫn đạo Thích đều suy vi ở nước ta. Nếu cư sĩ chẳng
xuôi theo xu hướng ham thích [hời hợt] của xã hội trong hiện thời thì quê ta sẽ
may mắn lắm thay!
603. Thư trả lời cư sĩ Trịnh Tử Bình
Hôm
qua nhận được thư đề ngày mồng Một tháng Mười Một, khôn ngăn đau thương. Hiện
thời các xứ đều có chiến tranh, trù tính cứu trợ rất khó. Quang đã bảo một đệ tử
đem khoản tiền in Văn Sao (hai ngàn) và
tiền xây dựng đại điện chùa Pháp Vân (một ngàn) gộp thành ba ngàn đồng, chắc sẽ có người cùng chí hướng giúp cho bao
nhiêu đó nữa cũng không biết chừng. Đã cậy nhà đại từ thiện ở Thượng Hải là cư
sĩ Vương Nhất Đình gọi điện hỏi thăm tình hình đường sá, nếu thông suốt sẽ gởi
sang cho ông. Lại cậy ông ta tìm cách [giúp đỡ], hoặc nhiều, hoặc ít, chắc chắn
sẽ có. Quang cũng chẳng dám hướng về mọi người quyên mộ, bởi hiện thời đâu đâu
cũng bị tai nạn và đủ mọi nghĩa cử đều cầu xin Quang [giúp sức]. Nếu Quang thường
khuyên người khác [quyên góp] thì chẳng những Quang không thể làm người, mà người
ta còn coi Quang như kẻ đáng sợ, chẳng dám gặp mặt Quang nữa! Món tiền ba ngàn
đồng này đã là cắt thịt để đắp vết thương, là biện pháp vét sạch không còn sót
gì nữa! Từ nay về sau, bất luận như thế nào, đừng cầu Quang lo liệu nữa! Nếu vẫn
muốn lo liệu thì chỉ là một bức thư xuông. Ở chỗ ông Vương Nhất Đình và hòa thượng
Chân Đạt đều có bản sao lá thư của ông, bọn họ sẽ giúp đỡ. Dương Thúc Cát mở một
bệnh viện ở Nam Kinh, kinh doanh cũng èo uột. Hãy nên gởi thư hỏi ông Vương Ấu
Nông, ông ta biết địa chỉ của Thúc Cát.
Con người hiện thời phần nhiều
chẳng biết nhân quả. Năm Quang Tự thứ hai (1876), phàm những ai đứng ra phát chẩn
ở quê tôi, không một ai chẳng bị tuyệt tự hoặc mắc họa lớn vì bọn họ lấy tiền bạc,
lương thực cứu mạng để tự xài, ngồi nhìn dân đang đói
bị chết đói! Dẫu có phân phát thì cũng đều là gây đủ mọi nỗi tệ hại lớn
lao, [dùng chuyện phát chẩn] để che chắn thể diện. Há trời đất dung cho những kẻ
ấy được tồn tại ư? Vì thế, bọn chúng đều tử vong, tuyệt diệt hết! Nghe nói lần
trước ở Thiểm Tây bị hạn hán, tại Thượng Hải trù tính gởi đi cứu trợ một hai chục
vạn đồng, những kẻ cầm quyền ở Thiểm Tây đều phát tài, dùng [tiền ấy] để mở đường
xe hơi nhằm che giữ thể diện. Thứ tâm hạnh ấy so với cọp, beo, sài lang còn ác
độc hơn gấp vạn lần, chỉ biết cái lợi trước mắt, chẳng sợ hậu họa! Thật đáng
xót thương! Ông đừng mang ý niệm ấy nhé! Nếu nhờ vào chuyện cứu trợ này để tự thủ
lợi thì chẳng những chính mình sẽ đọa thẳng vào ác đạo mà sẽ còn gây lụy khiến
lệnh từ và tổ tiên đã khuất đều bị đọa ác đạo. Vợ con, anh em ông cũng đều sẽ bị
tử vong, đọa lạc đấy!
Xem khắp những kẻ lo phát chẩn
xưa nay: Phàm kẻ nào cắt xén, quyết chẳng có thiện báo! Phàm ai tận tâm tận lực
thì con cháu chắc chắn phát đạt. Ông và tôi chưa từng gặp mặt, do nỗi khổ của
dân đất Thiểm mà Quang đem món tiền muôn phần chẳng thể dùng vào việc khác để
chuyển sang cứu trợ. Ông hãy nên do việc này mà vun bồi đức, đừng do việc này
mà giở trò làm bậy! Nếu đã làm bậy thì tuy người không biết, thiên địa quỷ thần
há bị lường gạt ư? Bởi lẽ, tâm chính mình vừa động, thiên địa quỷ thần thảy đều
biết rõ. Muốn thiên địa quỷ thần không biết, trừ phi chính mình chẳng sanh cái
tâm ấy. Nếu vừa sanh tâm dù thiện hay ác, không chuyện gì chẳng rõ rệt như nhìn
vào ngọn lửa. Quang yêu mến, bảo vệ ông nên mới nói lời này. Nếu thực hành được
thì may mắn chi hơn. Còn nếu như giở trò sai trái, sau này sẽ hối không kịp đấy!
604. Thư trả lời cư sĩ Châu Thạch Tăng (thư thứ nhất)
Doãn
Vương Thị trọn chẳng ăn chay niệm Phật, vừa nghe pháp môn Tịnh Độ bèn có thể sốt
sắng tu trì, lại còn biến điền trang của chính mình thành Từ Vân Liên Xã để
mong những phụ nữ có chí tu trì đều cùng được nương tựa tu trì nơi đấy, quả thật
là khó có! Nếu chẳng phải do đời trước đã có thiện căn, làm sao được như thế?
Thật có thể gọi là “chín phẩm hoa sen” vậy! Sợ rằng bà ta chưa nghe thông suốt
pháp môn Tịnh Độ, nên đương nhiên phải làm cho bà ta sanh lòng tin chân thật,
phát tâm nguyện thiết tha, quyết định cầu mong lúc lâm chung được Phật tiếp dẫn
vãng sanh Tây Phương. Đừng xen tạp công phu luyện đan vận khí của ngoại đạo để
cầu trường sanh và đừng mong được thành thần tiên nơi cõi trời Đại La v.v...
thì sẽ chẳng uổng cuộc sống này, chẳng phí dịp gặp gỡ này.
Nay đặt pháp danh cho bà ta Huệ
Đạo, nghĩa là dùng trí huệ để dẫn dắt những người cùng hàng cùng sanh Tây
Phương. Lại phải khuyên người niệm Phật ai nấy trọn hết bổn phận của chính
mình, như cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân
từ, tớ trung thành, giữ tấm lòng tốt, nói lời tốt lành, làm chuyện tốt, đừng
làm các việc ác, vâng làm các việc lành. Dùng những điều ấy để tự hành, lại còn
dùng những điều ấy để dạy người khác thì kẻ vô tri chẳng dám sanh hủy báng xằng
bậy. Nếu chẳng thể trọn hết bổn phận của chính mình, dẫu có tu trì cũng khó
tương ứng với Phật, lại còn gợi cho kẻ vô tri lầm lạc bảo: “Phật pháp vô ích
cho luân thường, thế đạo”. Xem khắp xưa nay, những vị đại trung, đại hiếu, lòng
nhân sâu xa, phẩm đức sâu dầy, đa phần đều do học Phật đắc lực mà ra. Do vậy,
trong ba thứ chánh nhân Tịnh nghiệp của Quán Kinh, điều thứ nhất là hiếu dưỡng
cha mẹ, phụng sự sư trưởng (sư trưởng chính là người có đức), từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp. Có thể “hiếu,
đễ, từ” thì có thể khiến cho ba nghiệp nơi thân (ba nghiệp nơi thân là
giết, trộm, dâm), bốn nghiệp nơi miệng (bốn
nghiệp nơi miệng là nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, ác khẩu), ba nghiệp nơi ý (ba nghiệp nơi ý là tham -
sân - si) thảy đều lành. Người như thế chính là
vật báu cho quốc gia xã hội, sẽ khiến cho kẻ thấy người nghe nhìn theo bắt chước
làm lành. Đấy gọi là: “Dùng lời nói để dạy
sẽ bị tranh cãi, dùng thân để dạy, người khác sẽ thuận theo”.
Mọi chuyện trong thế gian đều
phải lấy thân làm gốc. Huống chi hiện thời tà thuyết dị kiến không thứ lạ lùng
nào chẳng có. Chúng ta học Phật nếu chẳng nghiêm túc suy xét từ luân thường, từ
khởi tâm động niệm thì công phu của chính mình cũng khó được lợi ích. Người
khác thấy nghe chắc sẽ thốt lời xầm xì, do vậy cần phải xét bàn từ luân thường,
suy xét từ nơi khởi tâm động niệm, hễ lập được cái gốc thì đạo sẽ sanh. Người đời
thấy nghe sẽ học theo mà không hay không biết. Ví như gió lùa cỏ rạp, nước chảy
thành khe. Những điều cần phải nói khác đã có đầy đủ trong lá thư gởi cho ông
Mã Tuấn Khanh [trong bộ Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên], đều nên đem những điều ấy
nói với bà ta. Giới thiệu người khác quy y quả thật là chuyện tốt đẹp nhất;
nhưng nếu là kẻ không có lòng chánh tín, đừng nên giới thiệu tràn lan. Sợ rằng
mai sau kẻ ấy sẽ lui sụt tạo nghiệp, đâm ra chẳng tốt đẹp gì! Nhân tâm khác biệt
như thế đó! Nếu gặp kẻ có túc căn, cố nhiên hãy nên hướng dẫn, còn kẻ không có
thiện tâm thì chớ nên dẫn dắt bừa bãi vì sợ đâm ra họ sẽ làm cho pháp môn bị nhục
lây!
605. Thư trả lời cư sĩ Châu Thạch Tăng (thư thứ hai)
Phàm
người quy y Phật pháp, bất luận nam hay nữ, đều phải giữ vẹn luân thường, trọn
hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các
điều lành, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, yêu tiếc sanh mạng loài vật, tín nguyện
niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Chớ nên dùng công phu luyện đan vận khí của ngoại
đạo để cầu trường sanh và sanh lên trời làm thần tiên cõi trời Đại La v.v… quyết
định phát nguyện cầu khi lâm chung được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Nếu
tín nguyện chân thật, thiết tha, ai nấy đều có thể vãng sanh. Nếu được vãng
sanh thì sẽ siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Nhưng muốn vãng sanh, ắt
phải nghiêm túc trọn hết bổn phận của chính mình, như cha từ, con hiếu, anh nhường,
em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành, dựa theo chức phận của
chính mình để trọn hết nghĩa vụ của chính mình. Lại còn đem pháp môn này khuyên
bảo gia đình cha mẹ, anh em trai, chị em gái, vợ con và bằng hữu thân thích,
xóm giềng, làng nước để hết thảy mọi người đều biết pháp này, đều tu pháp này, như
vậy thì do cái công khuyên người ấy chính mình sẽ đạt được lợi ích càng sâu xa,
lớn lao hơn!
Nữ nhân lấy “tương phu giáo tử” (giúp chồng dạy con)
làm thiên chức. “Tương” là giúp. [“Tương
phu giáo tử” là] giúp chồng thành tựu đức hạnh, khéo dạy bảo con cái, khiến cho
bọn họ đều thành hiền nhân, thiện nhân. Đấy chính là chức phận của nữ giới. Nữ
nhân hiện thời thường nuông chiều con cái quen thói kiêu căng, chẳng lấy đạo lý
làm người và nhân quả báo ứng để răn dạy. Vì thế con cái phần nhiều khó thành
người đàng hoàng. Do vậy, những kẻ đại thông minh mù quáng nhiễu loạn cõi đời
và những phường giặc cướp làm càn làm quấy trọn khắp thế gian khiến cho nước
không ra nước, dân chẳng thành dân, căn bản đều là do cha mẹ chúng nó chẳng biết
trọn hết chức phận giáo huấn con cái của người làm cha mẹ mà ra, cho nên loạn lạc
không có lúc nào yên. Nếu ai nấy đều khéo dạy dỗ con cái thì thế đạo sẽ tự
nhiên thái bình. Những điều khác hãy xem trong Gia Ngôn Lục v.v… đều có viết đầy
đủ về những điều ấy.
Hơn nữa, công đức niệm Phật
tiêu trừ hết thảy ác nghiệp. Phàm gặp những tai nạn như đao binh, nước, lửa, ôn
dịch, sâu rầy, hạn hán, lụt lội v.v… mà nếu có thể chí thành niệm Phật, niệm
Quán Thế Âm Bồ Tát, ắt sẽ gặp dữ hóa lành. Nữ nhân sanh nở, nếu sanh không được
mà chịu chí thành niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, chắc chắn sẽ lập tức an nhiên sanh nở.
Lúc bình thường chịu niệm thì càng có lợi ích lớn lao hơn. Đừng nên bảo “lõa lồ
bất tịnh, niệm sợ mắc tội!” Cần biết rằng Bồ Tát sẵn lòng cứu khổ, đấy chính là
lúc liên quan đến tánh mạng, do vì không làm sao khác được, chứ không phải là
có thể cung kính, khiết tịnh, mà chẳng chịu gắng hết sức cung kính, khiết tịnh!
Chẳng những sản phụ phải niệm ra tiếng rõ ràng, mà những người săn sóc bên cạnh
cũng phải niệm giúp cho người ấy. Dẫu khó sanh đến nỗi sắp chết cũng đều có thể
ngay lập tức an nhiên sanh nở. Hãy nên nói với hết thảy mọi người về chuyện
này, đấy chính là cứu vớt sẵn sự hoạn nạn và tánh mạng của người khác, công đức
rất lớn!
606. Thư trả lời cư sĩ Phí Phạm Cửu
Nhận được thư đầy đủ. Tôi soạn được lời tựa gồm tám trăm lẻ sáu chữ, nhưng câu chữ vụng về, chất phác, không có vị đại thông gia nào đọc đến chẳng chê bai, phê bình! Nếu có thể dùng được thì xin hãy cậy người viết chữ đẹp chép lại cho trang trọng, rõ ràng, cũng nên thêm dấu chấm câu để tránh cho những người chữ nghĩa ít ỏi không đọc thành câu được. Nếu không đọc được thành câu, làm sao hiểu nghĩa? Vì thế, bất luận là thứ văn tự nào đều phải nên chấm câu. Khi Quang viết thư cho ai, ngay cả khi [người nhận] là bậc đại thông gia, vẫn một mực chấm câu vì chẳng muốn người khác phải tốn chút công suy nghĩ nào để hiểu những lời lẽ hủ bại của tôi! Trong lời tựa đều không sử dụng lối Đài Đầu[11]. Nếu sử dụng lối Đài Đầu trong mọi chỗ sẽ quá phiền phức; không Đài Đầu cũng được! Nếu muốn Đài Đầu thì chỉ cần áp dụng trong câu nói về bức thánh tượng Quán Thế Âm do vị danh gia vẽ là được rồi (mồng Bốn tháng Chín năm Dân Quốc 27 - 1938).
607. Thư trả lời cư sĩ Trần Tân Nho
Thư
nhận được đầy đủ, trong bốn mươi tám nguyện, [có nguyện thứ mười tám là] “mười niệm xưng danh liền được vãng sanh, chỉ
trừ kẻ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp”. Đấy là nói về lúc bình thường! Bởi
lẽ Ngũ Nghịch đại tội, báng pháp chẳng tin, thứ tội chướng ấy há có thể dùng sự
tu trì hời hợt, hờ hững để tiêu diệt được ư? Theo Quán Kinh, kẻ Ngũ Nghịch Thập
Ác lúc sắp mạng chung, tướng địa ngục hiện, có thiện tri thức (ở đây bất
luận là Tăng hay tục, nam hay nữ, chỉ cần dạy người ấy niệm Phật thì cũng được
gọi là “thiện tri thức”) dạy niệm Phật, hoặc chỉ
niệm mười tiếng hoặc niệm chưa đến mười tiếng đã mạng chung, cũng sẽ được cậy
vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Mười niệm ấy so ra có khí thế dũng mãnh,
thiết tha hơn hẳn mười niệm lúc bình thường một trời một vực. Do vậy bèn được
vãng sanh. Do bị nỗi khổ cùng cực nơi địa ngục bức bách nên vừa được nghe danh
hiệu Phật bèn dốc hết toàn bộ tinh thần xưng niệm. Trừ niệm ấy ra, trọn chẳng
có niệm gì khác! Tuy chưa đích thân chứng được nhất tâm bất loạn, nhưng tâm đã
rốt ráo chẳng còn có niệm nào khác! Đang trong lúc ấy, trọn chẳng có tam tâm,
nhị ý, chẳng có tâm tướng tin tưởng - nghi ngờ xen lẫn! Vì thế chẳng gọi là “báng
pháp”.
Dẫu lúc bình thường là kẻ báng
pháp thì [khi lâm chung] ắt cũng sẽ giống như té vào nước lửa cầu xin cứu vớt, rảnh
đâu để sanh lòng nghi, khởi lòng báng bổ ư? Vãng Sanh Luận nói “kẻ báng pháp chắc
chắn không được vãng sanh” vì đã báng chánh pháp thì sẽ không có lòng chánh
tín, làm sao vãng sanh cho được? Đấy là lời lẽ nhằm cực lực khuyên con người phải
phát lòng chánh tín. Nếu trước kia đã từng báng pháp, về sau biết cải hối thì sẽ
được vãng sanh. Ví như lành bệnh liền trở thành người mạnh khỏe; kẻ quy hàng
chính là người dân đã quy thuận.
Nếu nói: “Kẻ báng pháp dù sau
này có cải hối cũng chẳng được vãng sanh” là đã hoàn toàn hiểu sai chuẩn mực tu
trì. Đối với Nho giáo còn chẳng hợp, huống là đức Phật thấy “hết thảy chúng
sanh đều có đủ Phật Tánh, đều sẽ thành Phật” ư? Kinh Thư chép: “Chỉ vì thánh mất niệm mà thành cuồng; cuồng
do khắc chế được ý niệm mà thành thánh”. Do vậy biết rằng Nho và Phật đều lấy
sửa lỗi hướng lành để chăm chú mong thành thánh, thành hiền, đoạn Hoặc, chứng
Chân. Người đời chẳng khéo hiểu ý này, chỉ chấp vào lời văn, tự sanh chướng ngại,
chẳng đáng buồn ư?
Quang là một ông Tăng tầm thường,
trọn chẳng có ưu điểm nào, gặp gỡ thì có ích gì? Chẳng gặp đâu bị tổn hại gì? Nếu
muốn gặp thì lại có khó khăn chi? Ước chừng vào nửa
sau tháng Bảy, ắt tôi sẽ sang chùa Thái Bình, phải lẩn quẩn ở đó hai ba tháng đợi
cho việc in sách xong xuôi rồi sẽ liền diệt tung tích ẩn náu lâu dài để vĩnh viễn
chẳng còn qua lại với hết thảy mọi người nữa. Ông muốn quy y thì nay đặt pháp
danh cho ông là Huệ Tân; nghĩa là trí huệ sẵn có vốn là vật cũ của chính mình,
nhưng do Hoặc nghiệp chướng lấp nên chẳng thể thọ dụng được. Nay dùng sức niệm
Phật để tiêu trừ Hoặc nghiệp, khiến cho trí huệ ấy lại được tỏ rạng. Tuy là vật
cũ, nhưng chẳng khác gì mới đạt được, cho nên gọi là Huệ Tân. Lại mong ông sẽ đem
pháp môn Niệm Phật này hóa độ hết thảy để bọn họ sẽ đều tự làm cho đức ấy được
trở thành mới mẻ thì may mắn lắm thay! Điều trọng yếu trong tu trì là giữ vẹn
luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều
ác, vâng giữ các điều lành. Những điều khác đã được nói tường tận trong Văn
Sao, Gia Ngôn Lục, xin hãy tìm đọc, ở đây không viết cặn kẽ!
608. Thư trả lời cư sĩ Khang Ký Dao (thư thứ nhất)
Nhận
được thư biết ông tới chỗ ngụ ở Thượng Hải an toàn, hết thảy đều như thường,
vui mừng, an ủi đến cùng cực. Thời cuộc chẳng yên, đừng nên bắt đầu tiến hành
[làm những chuyện đã định]. Nên đợi đến khi thái bình thì mới tiến hành. Nếu
không cẩn thận, sẽ hối chẳng kịp đấy! Vì vậy, đừng hạn định ngày tháng mà hãy
nên dựa theo thời thế để ứng biến. Thế đạo hiện thời chính là thế đạo hoạn nạn.
Tuy nói “niệm Phật diệt được túc nghiệp”, nhưng cần phải sanh lòng hổ thẹn lớn
lao, sanh lòng kinh sợ lớn lao, chuyển cái tâm “tổn người lợi mình” của chúng
sanh thành “hành hạnh Bồ Tát lợi khắp các chúng sanh” thì dù là túc nghiệp
(nghiệp trong quá khứ) hay hiện nghiệp (nghiệp hiện tại) đều bị quang minh của Phật
hiệu trong cái tâm đại Bồ Đề ấy tiêu diệt sạch sành sanh. Nếu đời trước và xưa
kia từng tạo nghiệp lớn, nay tuy đã thôi làm ác, nhưng chưa thể tận lực tu các
điều lành và chỉ niệm Phật hời hợt, hờ hững thì công chẳng cự được lỗi, cho nên
khó tránh vướng phải ác báo ấy được! Chẳng phải là niệm Phật uổng công, mà là
vì chưa phát Bồ Đề tâm, nhưng ác nghiệp lại đặc biệt rộng lớn nên [công đức niệm
Phật] chẳng thể che lấp [ác nghiệp] được! Nếu có thể phát đại Bồ Đề tâm thì sẽ
như mặt trời rực rỡ giữa hư không, sương móc tan ngay lập tức. Người đời phần
nhiều nửa đời làm ác, rồi sau này mới cải hối. Do chưa thể hoàn toàn không có
ác báo, bèn bảo: “Phật pháp chẳng linh, tu trì vô ích!”
Cư sĩ đã chẳng coi Quang là
người ngoài, nên cố nhiên Quang chẳng thể không trình bày đại lược nguyên do với
cư sĩ để mong ông thoát khỏi đường mê, lên bờ giác. Pháp môn Niệm Phật lấy ba
pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông, lấy Bồ Đề tâm làm căn bản. Do bởi thật nghĩa “tâm này là Phật, tâm này làm Phật, nhân trùm biển
quả, quả thấu nguồn nhân”, [cho nên] dùng “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” làm công phu thực hiện tối
thiết yếu. Dùng điều ấy để hành, lại còn Tứ Hoằng Thệ Nguyện thường chẳng rời
tâm thì tâm hợp với Phật, tâm hợp với đạo. Lúc đang còn sống sẽ dự vào bậc
thánh, lâm chung lên thẳng Thượng Phẩm, ngõ hầu chẳng phụ cuộc sống này. Phải
thường nên giảng nói với Chí Thường [những điều vừa nói trên đây] khiến cho tập
khí nữ nhi hẹp hòi, hèn kém của cô ta biến thành chánh trí Bồ Đề thì công đức lớn
lao lắm. Người tu Tịnh nghiệp ắt phải khuyên khắp người đời cùng tu Tịnh nghiệp,
“làm gương cho vợ mình rồi đến anh em, cho
đến khắp đất nước”[12]
cho nên chẳng khác gì sự giáo hóa của các vị vua.
609. Thư trả lời cư sĩ Khang Ký Dao (thư thứ hai)
Nhận
được thư đầy đủ. Đất Tần rét buốt, Tịnh Nghiệp Cư chỉ nên mở tiệm cơm chay thì
mới có đôi chút khả quan. Nếu chiếu theo biện pháp của Công Đức Lâm ở phương
Nam, ắt sẽ bị cụt vốn. Ở nơi ấy đã mang tên là Tịnh Nghiệp Cư thì hãy nên nhờ
người viết chữ đẹp dùng lối chữ Khải chánh thức đang thông dụng hiện thời để
sao chép công đức, lợi ích của Tịnh nghiệp và pháp tắc tu trì, rồi đem treo [những
bài viết ấy] trên các bức tường để người ta đọc tới sẽ dấy lòng cảm kích. Ở nơi
ấy chẳng thể tổ chức diễn giảng vì sợ có đông người đến nghe sẽ không đủ chỗ chứa,
đừng nên làm theo kiểu đó. Nếu cứ làm thì sẽ đâm ra bị chướng ngại mà cũng gây
trở ngại cho việc làm ăn.
Tịch Viên Liên Xã ắt phải
thanh tịnh, thơm sạch. Chủ nhân ắt phải cung kính, chí thành, chớ nên ngạo mạn
đối với người khác, cũng chớ đừng phô phang tỏ vẻ mình là người có đức hạnh.
Phàm có ai đến đều phải đối đãi ôn hòa, cung kính, khiêm tốn (xét trong
hiện thời, các hội Phật giáo các nơi hễ có quy mô hơi lớn thì thường phạm phải
thói xấu là ngạo mạn đối với người khác. Đọc đến đây hãy nên đau đáu răn dè. Hãy
chớ nên phân biệt sang - hèn, khiến cho khắp mọi người cùng được thấm nhuần
pháp vị, gieo thiện căn). Còn như khi chưa niệm
Phật và lúc đã niệm Phật xong, nhất loạt chẳng cho [những người đến niệm Phật] bàn
tán chuyện trong gia đình. Nếu có những nghĩa trọng yếu có thể bàn luận được
thì hãy bàn. Nếu không, ai về nhà nấy. Kẻ nào tuổi quá nhỏ thì chỉ nên niệm
trong nhà của chính mình. Nếu thường đến mà ở gần thì còn được, chứ như đường
xa sợ sẽ có chuyện xảy ra ngoài ý muốn, chẳng thể không cẩn thận! Nơi đây bất
quá là chỗ để đề xướng [tu Tịnh nghiệp] trong địa phương mà thôi, vẫn phải chú
trọng chuyên niệm Phật tại gia.
Ông đã đề xướng Liên Xã thì
người lớn kẻ nhỏ trong nhà đều phải đoạn trừ rượu thịt. Nếu vẫn cứ [ăn uống tùy
tiện] giống như người đương thời thì sẽ mất đi thể cách đề xướng. Chương trình
giản lược của Tịnh Nghiệp Cư văn lẫn lý đều hay, nhưng chữ Huân (葷)
bị viết sai thành chữ Vựng (暈: Quầng sáng
quanh mặt trời, mặt trăng. Chữ 暈
đọc giống như âm Vận) thật là thất cách, xin hãy
sửa cho đúng. Chữ Huân (葷) vốn chỉ những thứ
hành, hẹ, kiệu, tỏi, cho nên viết bằng bộ Thảo (草). Kinh Phạm Võng giảng rõ Ngũ Tân (五辛:
năm thứ cay nồng) là Đại Toán Thông (大蒜蔥: tức hẹ), Từ Thông (慈蔥: hành), Lan Thông (蘭蔥: tức là Tiểu
Toán 小蒜, chính là
kiệu), Huân Vật (葷物:
tỏi). Phương này (Trung Hoa) chỉ có bốn
thứ ấy, ở Tây Vực có thêm Hưng Cừ[13]
(興渠: củ nén) nên gọi là Ngũ Tân, cũng gọi là Ngũ Huân.
Cũng có ngoại đạo coi Nguyên Tuy[14]
là Huân (rau có mùi tanh hôi), lại có phái ngoại đạo coi Hồng La Bồ (củ giền)
là Huân, đều là bịa đặt!
Năm thứ Huân này vốn thuộc thảo
mộc, nhưng do có mùi hôi dơ nên không được ăn. Ăn vào thì tụng kinh niệm Phật đều
không được hưởng lợi ích lớn lao[15].
Huống chi thịt là thứ lấy từ thân thể chúng sanh, [con vật] đang sống sởn sơ
bèn giết đi để mong thỏa thích cái miệng. Người đời quen thói chẳng thấy đó là
chuyện kỳ quái, hễ nghĩ tưởng thì [sẽ thấy] đúng là vô lý đến cùng cực, đáng sợ
thay! Quang chưa thể định trước được thời hạn trở về, cần gì phải có người đón
tiếp; chỉ [để Quang] đi một mình thôi [là được rồi], nếu đón tiếp đâm ra trở
thành chướng ngại! Ngàn vạn phần đừng đến, nếu đến thì tôi chẳng trở về!
610. Thư trả lời cư sĩ Khang Ký Dao (thư thứ ba)
Nhận
được thư, kinh và bài minh trên tháp [thờ mẹ của ông] v.v… khôn ngăn vui mừng,
an ủi. Một thiên tự thuật đã bộc lộ khá thành khẩn; nhưng những điều được trình
bày ắt phải là những hạnh ta thấy rõ thì mới là thật nghĩa. Nếu không, sẽ trở
thành vọng ngữ, lừa mình, gạt người! Chẳng biết tháp của lệnh từ được xây theo
cách thức như thế nào. Theo chế định của Phật, Luân Vương (Chuyển Luân Thánh
Vương) mới được xây tháp nhưng không có tầng cấp. Đối với bậc xuất gia chứng
Sơ, Nhị, Tam, Tứ Quả thì tùy theo quả vị của họ đã chứng để phân định [được phép
xây] bao nhiêu tầng cấp. Nếu là phàm phu chớ nên xây tháp! Trong thời gần đây,
các Tăng đều xây tháp, nhưng chỉ có hình dáng chứ không phân tầng cấp thì vẫn
còn chấp nhận được; chưa hề nghe nói xây tháp cho người tại gia! Các đệ tử của
ông Dương Nhân Sơn xây tháp cho thầy, cách thức gần giống như tháp Phật chẳng
đáng để bắt chước theo; nhưng do ông ta có công lưu thông, hoằng dương Phật
pháp, nên các đệ tử tôn xưng quá mức. Lệnh từ tuy suốt đời thanh tu, lâm chung
chánh niệm vãng sanh, nhưng sở chứng của cụ chưa biết ra sao! Ở phương này (cõi
Sa Bà), quyết chớ nên mạo xưng là thánh nhân. Hễ nghĩ như vậy tức là đã “đem
phàm lạm thánh”.
Nếu cụ có chứng đắc sau khi
vãng sanh thì chẳng thể coi đó là sở chứng trong khi cụ còn sống ở phương này.
Vì thế, đối với chuyện ở phương này hay chuyện sau khi đã sanh sang cõi kia, đều
phải dựa theo nơi chốn mà phân chia rạch ròi thì mới chẳng trái nghịch cấm chế
của đức Phật. Nhưng cụ đã tu hành tốt đẹp thì cũng chỉ nên tùy ý lưu truyền,
nhưng chớ nên nghĩ làm như vậy là đúng, khiến cho những kẻ có tâm đều bắt chước
làm theo. Quang chẳng thể không nói rõ điều này! Ông chép kinh Bát Đại Nhân
Giác rất đẹp khiến cho người đọc sanh lòng hoan hỷ.
Ngày Hai Mươi Sáu tháng Chín,
Quang xuống núi. Đến cuối tháng, đến Thượng Hải, tưởng là ông và gia quyến đều trở
về nhà hết rồi, vì thế trọn chẳng hỏi đến. Tới mồng Năm tháng Chạp, ông Lý Cấp
Nhân tới thăm, mới biết là gia đình ông chưa trở về hết. Chuyện Quang trở về đất
Thiểm quả thật chẳng dễ dàng. Do đất Thiểm loạn lạc, lại còn rét buốt. Nếu quần
áo, đồ đạc đều bỏ lại hết thì khi tới đất Tần sẽ sắm sửa không được. Nếu cầm
theo hết thì hành lý sẽ cồng kềnh, thật khó khăn cho cả đôi bên. Vì thế, Quang
trọn chẳng có lòng trở về đất Tần. Huống chi hiện thời tại Phổ Đà đang tu chỉnh
Sơn Chí, tuy không do Quang chủ trương nhưng cố nhiên Quang chẳng thể bỏ mặc được.
Lại còn môn loại Đại Sĩ Bổn Tích, Quang đã cậy một người bạn ở Giang Tây biên
soạn tám chín tháng rồi, chuyện ấy vàn muôn phần chẳng thể nhờ tay người khác lo
liệu được! Phải đợi cho ông ta tu chỉnh xong xuôi, Quang đọc qua rồi mới đem ghép
vào Sơn Chí, hoặc cho lưu hành riêng, Quang đều phải tự lo liệu.
Ông đã biết hết thảy “chúng
sanh đều là cha mẹ trong quá khứ, là chư Phật trong vị lai”, thì tất cả quyến
thuộc chánh phụ[16]
trong nhà đều nên vĩnh viễn thôi ăn mặn, đấy mới là thật sự tu hành. Nhà Nho
trong cõi đời do thói quen cố kết coi ăn thịt là lẽ đương nhiên, trọn chẳng
nghĩ đến nỗi đau khổ khi những con vật bị giết hại; huống là bàn đến chuyện quá
khứ và vị lai ư? Buồn thay! Đời này chẳng độ được thân này thì đến đời nào mới
độ được? Sửa đổi nếp sống để tu thì chẳng thích hợp cho lắm. Hiện thời trời
đang chuyển sang vận khí tốt đẹp, con người vui vẻ, mùa màng sung túc, nghĩ tưởng
năm mới đã đến, [chúc ông] mọi duyên như ý, đứng ngồi hưởng phước, Chí Thường
và các cháu đều cát tường, yên vui, khôn ngăn vui mừng, an ủi. Viết thư này để
mong ông được an vui thuận lợi và chúc mừng năm mới, mong sao cả nhà đều yên
vui. Nếu không có chuyện gì quan trọng, đừng tới núi vì e rằng trong tháng Ba
Quang sẽ qua Hàng Châu. Nếu thuận tiện sẽ gặp mặt một phen.
611. Thư trả lời cư sĩ Khang Ký Dao (thư thứ tư)
Chuyện
vui chơi giải trí tổn hại nhiều, lợi ích ít, vĩnh viễn tránh không lo tính đến
chuyện này sẽ hợp lẽ nhất. Hôm trước, từ An Huy gởi tới tờ báo Giáo Dục số ra mỗi
quý (ba tháng) cũng có bàn đến chuyện này. Khéo sao, nay ông lại gởi thư này!
Người nước ta chỉ biết học theo cách thức của ngoại quốc, chẳng tính đến lợi -
hại, nên chỉ thường bị thua thiệt. Há có nên thuận theo ý mình để lập ra pháp tắc
ư? Ắt phải chuẩn theo [khuôn mẫu của] thánh nhân đời trước cũng như tình cảm
con người, sao cho đôi bề đều chẳng trái nghịch thì mới không vướng thói tệ. Gần
đây, những kẻ làm đại sự trong bao nhiêu năm đều chuyên lập dị, coi học theo người
ngoài là đúng, coi Nghiêu, Thuấn, Châu, Khổng đều chẳng đáng để noi theo! Hễ
chưa đắc chí bèn thành gã dân cuồng vọng, ương ngạnh khó giáo hóa. Kẻ đã đắc
chí bèn thành phường rối nước hại dân. Vì thế thiên tai, nhân họa liên tục dấy
lên, vận nước nguy ngập, dân không lẽ sống. Điều quý nhất nơi người học Phật là
phải đối trị tập khí, sửa lỗi, hướng lành. Nếu không có chuyện gì bận bịu thì dốc
hết sức học Phật; nếu có chuyện gì bèn gác bỏ học Phật thì sẽ trở thành kẻ mang
cái danh xuông, chẳng có mảy may ích lợi thật sự nào! Trong tháng Tư, Đại Minh
gởi thư đến cho biết ông ta muốn đưa mẹ xuống chơi miền Nam trong mùa Hạ, Quang
tận lực ngăn cản. Ông ta nói đầu mùa Thu sẽ đến Thượng Hải, rốt cuộc chưa từng
đến.
Trong kinh sử Nho gia, nhân quả
báo ứng cực nhiều. Tiếc rằng các Nho sĩ chẳng bận tâm đến sanh tử; vì thế “có
thấy cũng giống như không thấy!” Ngụy Mai Tôn tỵ nạn tại Thượng Hải, nghĩ đến
cuộc sống người dân khốn khổ là vì các tướng lãnh, quan lại [cai trị hà khắc
gây nên]. Do vậy, sao lục trong sử sách được ba mươi sáu câu chuyện dẫn dắt đến
điều tốt lành, và quả báo không ham giết chóc hay ham giết chóc của các tướng
lãnh, quan lại. Ông ta muốn cho cấp tốc ấn hành những chuyện ấy nên thưa với
Quang. Quang nói: “Mối họa hiện thời đã thành, không có thuốc chữa! Muốn tiêu
trừ mối họa cho tương lai thì hãy nên biên tập rộng rãi những chuyện nhân quả
báo ứng từ hai mươi hai bộ sử để truyền bá khắp cả nước thì sẽ có lợi ích lớn
lao”. Do vậy, tôi đem bộ Nhị Thập Nhị Sử Cảm Ứng Lục [của Bành Lan Đài] gởi cho
ông ta. Ông ta bèn nghe lời Quang nói, tận lực sưu tập. Quang bảo ông ta cậy
nhiều người giúp sức sao chép, lấy tối thiểu một năm làm hạn. Khi nào cuốn sách
ấy soạn xong sẽ in mấy vạn bộ để làm nền tảng gầy dựng thái bình cho vị lai.
Đã bảo gởi trước Văn Sao cho
ông và Vương Tôn Liên, mỗi người mấy chục gói. Hãy nên tùy duyên mà biếu tặng để
làm pháp thí cho Đại Minh. Câu chữ trong Vãng Sanh Chú là do ông Vương Long Thư
dựa theo bản chép trong Đại Tạng để chấm câu. Tiền nhân cho rằng chú văn ghi
trong Đại Tạng rời rạc (ý nói: Cách chấm câu thiếu mạch lạc, không hợp lý), chẳng
thể dựa theo cách chấm câu ấy được, cứ chiếu theo bản đang được lưu thông là
đúng.
Chớ nên dùng chữ “A Di Đà Phật”
ở cuối thư. Ba năm trước, Phạm Cổ Nông dùng [chữ A Di Đà Phật viết theo lối] triện
văn của sư Hoằng Nhất để in theo lối Câu Ấn[17].
Quang biết được, cực lực quở trách ông ta khinh nhờn, do vậy Cổ Nông mới ngừng in.
Hãy nên in những ngôn từ có tác dụng cảnh tỉnh, răn nhắc người đời [mạnh mẽ] nhất
thì sẽ hữu ích, không phạm lỗi. Nếu in danh hiệu Phật rồi viết bừa bãi trên đó,
xét về lý sẽ chẳng thích đáng! Năm Dân Quốc thứ sáu (1917), Ưng Đức Hoằng gởi
thư cho Quang, trên tờ thư phỏng theo kiểu chữ viết thiếp đời Tấn. Khi viết tới
hai chữ Di Lặc, lại vẽ thành hình đức Di Lặc; Quang lập tức quở là sai trái.
Người đời nay thích lập dị, nếu chẳng biết kiểm điểm, sẽ tràn lan, hỗn loạn,
không còn khuôn phép gì nữa! Con trai Vưu Tích Âm là Hóa Nhất có tín tâm tột bậc,
có hành trì, nhưng lại vẽ hình A Di Đà Phật đủ mọi kiểu cọ. Tích Âm đã dọ giá,
muốn đem khắc in. [Con trai thứ của Vưu Tích Âm là] Hóa Tam đến núi gặp Quang
[thưa trình], Quang cực lực quở trách lỗi ấy mới thôi. Xin hãy xét tường tận!
612. Thư trả lời cư sĩ Khang Ký Dao (thư thứ năm)
Nhận
được thư đầy đủ. Dương Thúc Cát đến đây cho biết nỗi khổ của dân đất Tần (Thiểm
Tây) chẳng khác gì ở trong địa ngục cho mấy! Đang trong lúc kiếp trược đời loạn
này, cố nhiên hãy nên đề xướng nhân quả báo ứng và pháp môn Tịnh Độ thì mới có
ích lợi thật sự. Những kẻ ham cao chuộng xa sợ rằng hễ đề xướng [như vậy] thì
tiếng tăm, giá trị sẽ bị hủy hoại! Vì thế, thà mặc kệ kẻ khác chẳng hiểu, chứ
quyết chẳng chịu hạ thấp môn phong của ta. Thử hỏi: Đối với những vật bên ngoài
dùng để điều hòa nuôi dưỡng thân tâm, tánh mạng, há bọn họ có thể cố chấp một lối,
chẳng cầu biến - thông hay không? Mùa Hạ mặc áo mỏng, mùa Đông mặc áo cừu, khát
uống, đói ăn. Trong suốt một ngày, ắt vẫn phải cầu sao cho thích nghi, nhưng
trong trí bọn họ đối với chuyện hoằng pháp lại ngược ngạo chẳng tính kế sách [ổn
thỏa] giống như nuôi nấng cái thân, há có đáng gọi là “thật sự muốn tạo lợi ích
cho người khác” hay sao?
Văn Sao tặng cho người có tín
tâm, thông văn lý là được rồi, cần gì phải kê khai một danh sách gởi tới? Há chẳng
phải là vô sự lại sanh sự đó chăng? Trịnh Tử Bình có tín tâm, sao chẳng bái vị
đại pháp sư hiện đang hoằng pháp làm thầy, cứ muốn tôn Quang làm thầy? Cũng là
do kiến địa chưa đến nơi đến chốn! Gần đây Quang bận bịu đa đoan, đúng là sức
chẳng thể chống chọi được nổi, hãy nên bớt gởi thư từ tới thì hơn. Nếu ông ta
tin tưởng thì chỉ nên y theo Văn Sao hành trì là được rồi, cần gì phải chuyên gởi
thư thỉnh giáo. Há lẽ nào Quang sẽ nói thêm những điều nào khác với những ý đã
được nói trong Văn Sao ư? Ông ta chịu quy y cao nhân thì may mắn không chi lớn
bằng! Nếu ông ta vẫn cố chấp không chuyển ý thì xin hãy thay tôi đặt cho ông ta
một cái tên là được rồi, chẳng cần phải gởi thư đến khiến cho đôi bên đều nhọc
sức!
613. Thư trả lời cư sĩ Từ Bình Hiên
Nhận
được thư, biết đích xác chuyện lệnh từ nắm chặt xâu chuỗi [sau khi đã mất], quả
thật là chẳng thể nghĩ bàn. Sở dĩ tôi phải hỏi cặn kẽ chuyện ấy là do người đời
nay hay giả dối, toàn là bỗng dưng bịa chuyện. Quang chỉ muốn truyền thuật sự
thực, chẳng muốn nói cho dễ nghe đến nỗi đem phàm lạm thánh! [Để yên thi thể cụ]
ba ngày [rồi mới chuẩn bị] nhập liệm, rồi mới
tắm rửa, thay quần áo [cho cụ], hết sức đúng! Bởi lẽ, tôi một mực nói [đừng động
đến thân thể người đã khuất] trong hai ba tiếng đồng hồ là vì kẻ chẳng hiểu
chuyện sẽ chẳng chịu chờ đợi lâu đến như thế! Nếu đúng ra, theo đúng lý, nên đổi
thành ba ngày, rồi mới “cử ai” (cất tiếng khóc), tắm rửa, thay áo. Đến bốn mươi
chín ngày mới “cử ai” thì về lý không bị trở ngại gì, nhưng xét về mặt Sự thì
dường như quá sức lợt lạt, chẳng đáng để noi theo. Ba ngày sau sẽ “cử ai” quả
thật là thích đáng đến cùng cực.
Vùng Giang - Chiết đại chiến bốn
mươi mấy ngày, trăm họ trôi giạt khắp các nẻo đường, thảm chẳng nỡ nghe. Nhà cửa
dân chúng nếu nằm trong vùng giao tranh thì những vật dụng để sanh sống chẳng
còn một thứ gì. Ngay như những kẻ lánh được ra ngoài dẫu không bị chết thì cũng
chẳng thể nào ổn định cuộc sống được. Mỗi phen nghĩ đến thật đau lòng. Thượng Hải
vừa mới đề xướng xong công cuộc từ thiện nên không có cách nào nhắc đến chuyện
cứu trợ nơi khác được đâu! Trước kia, ông Nữu Nguyên Bá cho biết tại Giang Tây
nước ngập ba mươi mấy huyện, đem sổ vàng cứu trợ gởi cho Quang, mong Quang
khuyên người khác quyên mộ. Quang chỉ đành tự quyên tặng khoản tiền một trăm đồng
cho trọn hết lòng tôi, quý hội cũng giúp đỡ một trăm đồng. Do Quang vốn chẳng
có tiền của tích cóp, đấy vẫn là khoản tiền tính dùng để góp phần in Đại Sĩ Tụng
nhằm mong sao các trưởng quan thống lãnh binh lính biết “người cùng nhà đánh
nhau sẽ là tự chặt tay chân và giết hại thân mạng của chính mình”, từ đấy buông
xuống cái tâm tàn độc tranh giành, kèn cựa, phát khởi ý niệm nhân từ “chung sống
hòa bình” thì nước nhà may mắn lắm thay, nhân dân may mắn lắm thay! Nếu không, “ngao - cò tranh nhau, ngư ông hưởng lợi!”
Muốn chẳng cùng lọt vào bụng kẻ khác, há có được chăng? Buồn thay! Xin ngoài thời
khóa chánh thức ra, hãy niệm thêm Quán Thế Âm để chuẩn bị dự phòng!
614. Thư trả lời cư sĩ Đường Đại Viên (thư thứ nhất)
Nhận
được thư, biết ông đại nguyện vô lượng, lại còn có thể tùy duyên, rất hợp thời
hợp thế. Muốn kiến lập pháp hóa trong lúc đất nước khốn
đốn, nhân dân nghèo cùng mà trước hết bèn xây dựng phô trương thì sẽ tốn
sức chẳng ít, sẽ khiến cho bọn tiểu nhân bắt chước thủ lợi, kẻ giàu có kiềng mặt
tránh xa. Nếu gặp hết thảy mọi người chỉ nên dạy họ ai nấy trọn hết luân thường,
đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, kiêng giết, phóng sanh, ăn chay,
niệm Phật thì [các tai nạn] sẽ biến mất không còn dấu vết. Do đôi bên chẳng bị
trở ngại chức trách, công việc, chẳng hao tốn tiền tài, có lẽ người ta sẽ dễ tiếp
nhận sự giáo hóa mà mình cũng nhẹ phần gánh vác, Phật pháp càng dễ lưu hành phổ
biến hơn!
Ông phát nguyện lập trường học
nơi đất trống, lập liên xã nơi đất trống, cố nhiên là đỡ tốn công, nhưng vẫn là
chẳng biết tùy địa phương, tùy duyên để tạo phương tiện cho dễ thực hiện. Trên
là nơi thanh miếu, minh đường[18],
dưới là bến nước, bên cội cây, hễ gặp được ai có thể trò chuyện liền dùng những
chuyện này để khuyên nhủ. Văn Lộ Công[19]
phát nguyện “sẽ khiến cho mười vạn người
niệm Phật cầu sanh Tây Phương” bèn kết Liên Xã. Tôi cho rằng: “Từ một người
cho đến vô lượng người đều nên làm cho họ vãng sanh Tây Phương trong đời này,
há nên lấy mười vạn người làm hạn định?”
615. Thư trả lời cư sĩ Đường Đại Viên (thư thứ hai)
Hôm
trước, nhận được thư, ông cho biết muốn trở về đất Tương (Hồ Nam), nhưng chưa
biết dự định trở về vào lúc nào. Hiện thời thế đạo nhân tâm chìm đắm đến cùng cực,
nhưng bưu điện thông tin thuận tiện, một ngày đi được ngàn dặm. Thường có những
gã vô lại tiểu nhân, nếu có hiềm khích với ai liền bịa đặt rêu rao, gởi truyền
đơn khắp nơi và đăng trên báo chí, chỉ muốn hủy hoại danh dự của người khác, chẳng
bận tâm chính mình bị tổn phước, giảm thọ và tương lai sẽ đọa lạc trong tam đồ,
hứng chịu các nỗi khổ cùng cực! Đáng thương xót quá! Bọn chúng đã thỏa lòng ham
muốn, còn những vị chánh nhân quân tử nhận phải những tờ truyền đơn hay đọc những
tờ báo ấy cố nhiên hiểu rõ mười mươi gan ruột bọn chúng; nhưng đối với những kẻ
phàm tục sẽ do một người lan truyền dối trá, qua tay một vạn người lan truyền thì
lời đồn đãi sẽ được coi như sự thật! Chẳng riêng gì những người chân chánh trong
thế gian bị coi như kẻ hết sức tầm thường, kém hèn, ngay cả những vị thánh hiền
lỗi lạc thời cổ cũng bị coi như những kẻ hết sức tầm thường, kém cỏi. Do vậy mới
có thuyết đề xướng Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Khởi Tín Luận v.v… là ngụy tạo. Nếu
chẳng xét đúng - sai, chỉ nghĩ những gì mình được nghe đều là đúng thì kinh điển
của thánh hiền trong Tam Giáo sẽ đều phải giao cho ngọn lửa hết!
Quang
sanh ra vốn là kẻ ngu ngốc, vụng về, nhất loạt chẳng dự vào những chuyện kết xã
lập hội. Do vì không phụ họa nên bèn oan uổng bị bọn họ vu báng, gán cho cái
danh hiệu đẹp đẽ là “đệ nhất ma vương”, còn ngài Đế Nhàn là đệ nhị, Phạm Cổ
Nông là đệ tam. [Những lời vu báng ấy] do Mã Nhất Phù[20]
là gã tội phạm đầu sỏ phá hoại Phật pháp đệ nhất, truyền đơn của hắn dài đến ba
ngàn mấy chữ, chắc là ông đã sớm từng đọc qua rồi! Quang một là không có môn
đình, hai là không quyến thuộc, ba là không làm một chuyện gì. Dẫu bị gieo lời
vu báng lệch trời, cũng chẳng được - mất gì, mà còn nhờ vào đó sẽ tiêu được tội
nghiệp, tăng trưởng thiện căn. Chẳng những không bị phá hoại mà còn được hưởng lợi
ích. Nhưng những vị như Đế Nhàn, Cổ Nông là các bậc hoằng pháp hiện thời, kẻ chẳng
biết đạo lý vừa trông thấy những thứ ngôn luận ấy, sẽ tưởng là chân thật rồi
lui sụt lòng tin, tăng các khẩu nghiệp thì đúng là đáng thương đến cùng cực! Do
vậy, hễ trông thấy truyền đơn, bài viết trên báo chí, chớ nên vừa đọc liền tưởng
là thật rồi viết vào sách đến nỗi xoay vần
truyền bá khiến cho cả mình lẫn người đều bị tổn hại.
616. Thư trả lời cư sĩ Đường Đại Viên (thư thứ ba)
Hôm
trước đến chỗ một người bạn, thấy lá thư của ông gởi cho Đại Hưu được đăng
trong báo Hải Triều Âm số ra thứ tư trong năm thứ năm khiến cho người khác kinh
ngạc, than thở khôn cùng! Đấy là những lời lẽ vu báng hẹp hòi, thù hằn của kẻ tiểu
nhân, nhưng thói đời bạc bẽo, ưa phô bày cái xấu của kẻ khác, liền trở thành
[hiện tượng] “một con chó sủa xuông, vạn con chó sẽ sủa theo”. Nào ngờ ông chẳng
suy xét, cho sao lục những lời xướng họa ấy đăng trên Hải Triều Âm, sao khỏi
khiến cho người có đủ chánh nhãn bảo tri kiến của ông chẳng khác lũ phàm tục,
chẳng xét thị phi, chỉ dựa theo lời đồn đãi để làm căn cứ phán định ư?
Chuyện đã như vậy thì lời vu
báng của Nhất Phù đối với Quang, đối với ngài Đế Nhàn và Cổ Nông cũng sẽ có cơ
sở! Như vậy thì trước đây hắn ta bảo Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Khởi Tín v.v… là ngụy
tạo cũng sẽ có căn cứ! Nếu không, thì như Hàn Thoái Chi[21]
tuy được gọi là nhà viết sử, nhưng thuật sự thiện - ác của người khác không
đúng sự thật, nếu chẳng mắc nhân họa thì cũng bị trời giáng tai ương. Ông phát
đại Bồ Đề tâm, muốn độ hết chúng sanh, nhưng lầm lẫn truyền tụng lời lẽ vu báng
người khác ấy trên tờ Hải Triều Âm, há chẳng làm ô nhục tiếng tăm của tờ Hải
Triều Âm cũng như gây tổn thương cho cái tâm Bồ Đề của ông hay sao? Do ông lầm
lẫn coi Quang là thầy nên chẳng thể không khuyên răn, khích lệ. Nếu chẳng nghĩ
là đúng thì xin hãy tuyệt giao ngay!
617. Thư trả lời cư sĩ Tần Minh Quang
Pháp
môn Tịnh Độ là pháp môn bình thường nhất nhưng cao sâu nhất trong Phật pháp. Nếu
không phải là người đã có huệ căn từ đời trước, quả thật khó thể sanh lòng
chánh tín sâu xa. Đừng nói Nho sĩ chẳng dễ sanh lòng tin, ngay cả những vị tri
thức thông Tông thông Giáo cũng thường đem những nghĩa thuộc bên Tông bên Giáo
để luận định, phán đoán, đến nỗi chẳng những không chịu tu pháp “khiến cho kẻ
phàm phu sát đất chưa đoạn Phiền Hoặc liền có thể liễu sanh thoát tử, siêu phàm
nhập thánh ngay trong đời hiện tại” chẳng thể nghĩ bàn này mà còn chẳng chịu dạy
cho người khác. Ấy là vì họ chẳng biết pháp này chính là pháp môn đặc biệt
trong Phật pháp. Bọn họ lấy những nghĩa bên Tông bên Giáo làm chuẩn nên mới phạm
phải sai lầm ấy! Nếu ngay từ đầu bọn họ đã biết được nghĩa này thì sẽ được lợi
ích lớn lao.
Người thông minh phần nhiều lấy
“hiểu lý, ngộ tâm” làm chí hướng, sự nghiệp, nhưng chẳng biết niệm Phật chính
là đường tắt để “hiểu lý, ngộ tâm”. Nếu niệm niệm có thể tương ứng thì sẽ tự “hiểu
lý, ngộ tâm”. Dẫu chưa làm được, nhưng cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây
Phương; so với những kẻ “hiểu lý, ngộ tâm”, nhưng chưa đoạn Phiền Hoặc, vẫn bị
luân hồi trong sanh tử trọn chẳng có lúc thoát ra, thì [sự cách biệt] giữa trời
và đất đã chẳng đủ để ví dụ cho sự bế tắc và hanh thông [giữa hai đường lối tu
tập] vậy! Huống hồ sau khi vãng sanh sẽ thân cận đức Di Đà và thánh chúng, sẽ
liền đích thân chứng được Vô Sanh Pháp Nhẫn, há nào phải chỉ có “hiểu lý, ngộ
tâm” mà thôi ư?
Pháp môn Tịnh Độ chỉ có bậc
thượng thượng căn và ngu phu ngu phụ mới được hưởng lợi ích thật sự, còn kẻ
thông minh thông Tông thông Giáo đa phần vì chí hướng to tát, lời lẽ lớn lối,
chẳng chịu cậy vào Phật từ lực, cứ lấy “cậy vào đạo lực của chính mình” làm chí
hướng sự nghiệp, cam phận nhường cho ngu phu ngu phụ sớm dự vào dòng thánh. Chắc
ở quý ấp cũng có những người mang thứ kiến giải ấy, cho nên tôi mới nói đại lược
nguyên do.
Đã muốn quy y thì nay tôi đặt
pháp danh cho ông là Khế Quang. Tiếng Phạn “A Di Đà”, ở đây (Trung Hoa) dịch là
Vô Lượng Thọ, cũng dịch là Vô Lượng Quang. Nếu có thể nhất tâm niệm Phật thì
chính là lấy Quả Địa giác làm Nhân Địa tâm. Nếu tâm tâm tương ứng thì nhân trùm
biển quả, quả tột nguồn nhân, cực bình thường mà cực huyền diệu. Nếu có thể tin
nhận được thì sẽ đáng gọi là bậc đại trượng phu lỗi lạc.
Do túc nghiệp, Quang vừa sanh
ra liền bị bệnh mắt, may là còn được thấy bầu trời bảy mươi mấy năm. Nay thì mắt
đã cực quáng lòa, cự tuyệt hết thảy những chuyện bút mực thù tiếp. Sợ ông sẽ bị
những người xướng suất, hướng dẫn những tông khác lay động, đoạt mất chí hướng,
nên mới đặc biệt nói đại lược hai nghĩa thông thường và đặc biệt, ngõ hầu ông
chẳng đến nỗi biến khéo thành vụng, cầu thăng lên đâm ra bị đọa xuống.
Hãy nên thường đọc Tịnh Độ Ngũ
Kinh thì sẽ biết pháp môn Tịnh Độ là pháp môn tổng trì để mười phương tam thế hết
thảy chư Phật trên thành Phật đạo dưới hóa độ chúng sanh. Đối với những điều
tôi chưa nói, hãy đọc Tịnh Độ Thập Yếu thì mọi mối nghi sẽ tan tác, được cởi gỡ,
vầng trăng nhất tâm rạng ngời. Tuy Văn Sao lời lẽ vụng về, chất phác, nhưng đã
giảng rõ được đại lược nguyên do giữa Thiền và Tịnh, cũng như dùng luân thường
xử thế hằng ngày để hỗ trợ [Tịnh nghiệp], cho nên cũng có thể giúp cho tự lợi,
lợi tha được.
618. Thư trả lời cư sĩ Viên Đức Thường (thư thứ nhất)
Muốn
nêu rõ sự linh thiêng, tốt lành của xá-lợi, hãy nên gởi thư đến hòa thượng
phương trượng chùa A Dục Vương ở huyện Cẩn, Ninh Ba, xin ban cho một bộ A Dục
Vương Sơn Chí. Đọc sách ấy sẽ tự biết đầu mối. Mùa Xuân năm Quang Tự 21 (1895),
Quang đến chùa Dục Vương lễ bái xá-lợi gần ba tháng. Từ đấy về sau, hằng ngày
thường theo người đến chiêm bái tới nhìn xá-lợi, thấy màu sắc giống như hạt Bồ
Đề ở Thiên Thai pha sắc hồng, mấy chục ngày không đổi. Nhưng lớn - nhỏ khác
nhau, tùy theo từng lúc nhìn mà biến đổi, chợt lớn, chợt nhỏ. Lớn thì bằng hạt
đậu xanh, nhỏ thì kích thước giảm bớt một phần ba. Đến năm Quang Tự 31 (1905),
do có việc đến chùa A Dục, lại nhìn lần nữa thì xá-lợi lớn bằng hạt đậu đen, có
màu sắc giống như hạt đậu đen nổi mốc trắng, dính chặt vào đáy chuông[22]
không lay động. Quang nghĩ [mình thấy xá-lợi] có sắc đen nổi mốc trắng, chắc là
năm ấy mình sẽ phải chết, nhưng [rốt cuộc] cũng không có chuyện lành hay chuyện
dữ gì. Đấy đều là những tướng thông thường do người bình phàm thường thấy được,
chứ trọn chẳng phải là chuyện cảm ứng lạ lùng, đặc biệt gì! Có sao lục ra để in
thì cũng chẳng có ích lợi gì đâu! Đừng nên lầm lạc bịa chuyện, biến chuyện
không cảm ứng thành có cảm ứng thì tội lỗi chẳng cạn đấy!
619. Thư trả lời cư sĩ Viên Đức Thường (thư thứ hai)
Hôm
trước nhận được thư ông hỏi: “Làm thế nào để phân biệt được Tam Tôn Phật?”
Thích Ca Phật kết Hàng Ma ấn, tức là tay trái đặt trong lòng, lưng bàn tay hướng
xuống dưới, lòng bàn tay ngửa lên trên, tay phải úp trên gối, lưng bàn tay hướng
lên trên. Dược Sư Phật kết Đại Tam Muội ấn, tức bàn tay phải đặt trên lòng bàn
tay trái, [hai tay] đặt ở trong lòng. Di Đà Phật kết Di Đà ấn, tức lòng bàn tay
trái đặt trên lòng bàn tay phải, [hai tay] đặt ở trong lòng. Nay gởi cho ông
năm mươi đồng, xin ông lại mua hai tờ giấy Tuyên sáu thước để vẽ hai tượng Quán
Âm và Thế Chí ngồi theo thế kiết già[23]
trên hoa sen (“song già phu”[24]
), Bạch Hào vẽ thành hình tròn. Quang vốn muốn tự
bỏ tiền ra, ông phát tâm quyên tặng để kết duyên, nay vẽ bức khác thì Quang
cũng được mãn nguyện. Hai đồng còn dư dùng để chi phí mua giấy, đi tàu xe và gởi
tượng. Xin hãy sáng suốt soi xét.
620. Thư trả lời cư sĩ Viên Đức Thường (thư thứ ba)
Dương Ấm Hồng phát tâm hộ quốc, vãn hồi kiếp vận, nhưng chỉ dạy người khác kiêng giết, ăn chay, chẳng đề xướng niệm Phật hay niệm danh hiệu Bồ Tát một câu nào; đủ biết đối với Phật pháp, ông ta vẫn chưa có đủ lòng chánh tín! Nếu thật sự biết Phật lực, pháp lực chẳng thể nghĩ bàn, đang trong lúc đại kiếp đối đầu này mà chỉ muốn dùng cái nguyện kiêng giết, ăn chay để tiêu trừ thì sở kiến sẽ giống như chỉ thấy được đầu mảy lông mùa Thu mà chẳng thấy được hòn Thái Sơn (quyết chẳng thể có lẽ ấy).
Trong tờ thông cáo gởi xã
viên, vàn muôn phần chớ nên sử dụng bốn chữ “Bồ Tát thị hiện”! Hễ sử dụng thì tội
lỗi vô lượng, lại còn khiến cho người có đầy đủ con mắt sẽ bảo Ấn Quang và ông
đều là phường cuồng vọng, dám xưng tụng xằng bậy phàm phu sát đất là Bồ Tát! Nếu
điều này không mắc lỗi khơi gợi người khác tạo tội thì cũng còn có thể tiêu trừ
được tội nghiệp cho ông và tôi. Nhưng kẻ vô tri trông thấy sẽ lấy đó làm lệ và
hết thảy tăng - tục đều xưng là “Bồ Tát thị hiện” thì thứ tội lỗi lớn lao ấy sẽ
do ông và tôi khởi xướng, sẽ gây ra thói tệ không cùng tận. Hãy nên dùng mực bôi
bốn chữ ấy đi, viết bên cạnh là “xét rõ thời cơ”, ngõ hầu đối với sự lẫn lý, đối
với mình lẫn người đều chẳng gây trở ngại gì! Xin hãy sáng suốt soi xét. Từ nay
về sau, hễ có ai nhắc đến văn tự của Quang thì chỉ nên chú trọng trích lục thẳng
thừng, đừng đội xằng thêm cái mũ cao cho Quang. Trong ý ông, tưởng đó là vinh dự,
chẳng biết: “Nếu chẳng phải là cái mũ của chính mình mà cứ đội bừa thì người
khác sẽ cho là giả mạo, là mù quáng mạo danh”, nhục nhã lắm!
Năm Dân Quốc thứ chín (1920),
ông Trang Uẩn Khoan ở Thường Châu đến chùa Pháp Vũ núi Phổ Đà có làm một bài
thơ. Quang đến phòng ông ta, ông ta liền đưa cho Quang, Quang đọc xong, cười khan,
đặt xuống bàn, chẳng cầm đi. Vì sao vậy? Cái mũ quá cao, muôn phần chẳng dám đội!
Nhưng kẻ ham danh trong cõi đời vẫn cầu người khác chế mũ cao cho mình. Tâm tướng
của Quang khác với bọn họ! Bọn họ cho là vinh, Quang thấy là nhục. Xin hãy đem
lời này nói với khắp các đồng môn, hãy nhớ kỹ nhé!
621. Thư trả lời cư sĩ Viên Đức Thường (thư thứ tư)
Ngày
hôm qua thầy Diệu Chân giao cho tôi sáu đồng hương kính nói do ông gởi. Pháp
danh của năm người xin quy y được viết trong một tờ giấy khác. Xin hãy nói với
họ: Quy y Phật pháp thì chẳng thể lại quy y tà ma, ngoại đạo nữa! Ai nấy hãy
nên trọn hết chức phận của chính mình, phải hiếu thuận với cha mẹ ruột và bố mẹ
chồng, phải giúp chồng thành tựu đức hạnh, phải dạy dỗ con cái khiến chúng đều
trở thành hiền nhân, thiện nhân. Phải ăn chay, phải niệm Phật cầu sanh Tây
Phương, chớ nên cầu sanh lên trời hay sanh vào nhà phú quý. Chớ nên niệm Huyết
Bồn Kinh, phá huyết hồ, trả tiền thọ sanh, gởi kho. Đấy là những chuyện ngụy tạo.
Chớ nên học theo ngoại đạo luyện đan, vận khí. Nếu vẫn chiếu theo kẻ vô tri vô thức
để làm như thế thì sẽ chẳng vãng sanh Tây Phương được đâu! Bởi lẽ đã nhất tâm
làm một con quỷ giàu có, hoặc muốn thành tiên, sanh lên trời, làm sao hưởng lợi
ích vãng sanh Tây Phương lớn lao cho được? Xin hãy nói với bọn họ thì sẽ có lợi
ích lớn lao.
Sách Đồng Mông Tu Tri tôi chưa
đọc qua, sợ rằng sẽ giống như Tiểu Nhi Ngữ, Tiểu Học Vận Ngữ có những lời lẽ
báng Phật trong ấy nên tôi chẳng dám viết lời tựa. Nhưng bài nêu bày ý nghĩa ẩn
kín “giáo dục trong gia đình chính là căn bản để thiên hạ thái bình” chắc cũng
có thể giúp nêu rõ ý nghĩa của sách Đồng Mông Tu Tri. Xin hãy cẩn thận trình
bày, giảo duyệt, cũng nên thêm dấu chấm câu. Trong gói sách đã gởi lần trước,
tôi có viết bài “Nêu tỏ ý nghĩa ẩn kín của chữ Người”. Phía sau đính kèm đôi
câu đối ghi trước bàn thờ Phật của Liên Trì đại sư. [Hai câu đối ấy] hay tuyệt,
không chi hơn được nữa! Sao lại còn cậy tôi soạn câu đối làm gì? Tôi viết lại ở
đây:
Chủ Cực Lạc lục bát đại nguyện chi từ tôn, tuyệt hạn lượng thọ mạng
quang minh, bất ly đương xứ.
Quá Sa Bà vạn triệu Phật bang chi tịnh độ, diệu trang nghiêm lâu đài
trì chiểu, nguyên thị ngô hương.
(Đức Từ Tôn chủ cõi Cực Lạc bốn
mươi tám đại nguyện, thọ mạng, quang minh không hạn lượng, chẳng rời chỗ này,
Cõi Tịnh Độ vượt khỏi Sa Bà vạn
triệu cõi nước Phật, lâu đài, ao chuôm đẹp trang nghiêm, đích thị quê ta).
Sợ thư [trước] bị thất lạc,
nên chép thêm vào đây!
622. Thư trả lời cư sĩ Trương Nhân Bổn
Qua
thư ông và bài Sanh Tây Ký đã biết cặn kẽ. Như thế thì [cha ông] chắc chắn sẽ
được vãng sanh. Nhưng con người khi lâm chung, điều khẩn yếu nhất là quyến thuộc
cả nhà phải trợ niệm sẵn cho [người sắp mất]. Nếu gia cảnh dư dả, hãy nên thỉnh
Tăng - tục, liên hữu đến trợ niệm. Niệm đến sau khi tắt hơi vẫn không động chạm
tới thân thể [của người đã mất]; cứ niệm Phật như thường cho tới ba tiếng đồng
hồ sau thì mới lo liệu những chuyện như tắm rửa, thay quần áo v.v… Trợ niệm như
thế nhất định [người đã mất] sẽ được vãng sanh. Chớ nên thường dùng tay thăm dò
nóng - lạnh. Nếu thần thức của [người chết] chưa rời khỏi [thân xác], hễ bị tay
[người khác] đụng vào chắc sẽ phát sanh sân niệm, sẽ làm hỏng chuyện chẳng nhỏ
nhoi đâu! Quang nói điều này để mong lúc mẹ ông lâm chung chẳng đến nỗi bị lầm
lẫn như thế.
Chết rồi hỏa thiêu là tốt nhất,
chỉ có điều nếu mua cái chum [để thiêu] có hình tượng Di Lặc Bồ Tát thì quả thật
là khinh nhờn. Hãy nên mua cái chum có hình hoa sen, đừng mua chum có khắc hình
tượng Di Lặc Bồ Tát hay tượng Phật. Lại hãy nên nói điều này với hết thảy mọi
người tin Phật. Cha ông đã được vãng sanh thì hãy nên khuyên mẹ ông cũng nên ăn
chay trường. Dẫu ông và vợ con chưa thể ăn chay trường thì cũng nên bớt ăn [đồ
mặn]. Cần biết rằng: Họa hại chiến tranh liên tiếp trong nhiều năm qua đều do mọi
người sát sanh ăn thịt cảm thành. Trong nhà vĩnh viễn cấm ngặt sát sanh thì tự
nhiên hết thảy mọi chuyện đều tốt lành. Trong đám tang, phàm cúng thần, đãi
khách, đều chẳng dùng rượu thịt.
Nay gởi cho ông một cuốn Tang Tế Tu Tri (những điều cần biết trong ma chay, cúng bái), một cuốn Đồng Mông Tu Tri (trẻ nhỏ nên biết), một cuốn Quán Âm Từ Lâm Tập[25], xin hãy đọc kỹ để nhất cử nhất động sau này đều tự được Phật, Bồ Tát gia bị, gặp dữ hóa lành, gặp nạn thành hên. Quang già rồi, mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ, chỉ riêng thư từ gởi đến, gởi đi này, đã phải dùng cả hai cái kính lão lẫn kính lúp để đọc và viết. Từ nay về sau đừng nên gởi thư đến nữa, cũng đừng giới thiệu người khác quy y do mục lực chẳng thể thù tiếp được! (ngày Mồng Tám tháng Bảy năm Dân Quốc 27 - 1938)
623. Thư trả lời cư sĩ Vương Vũ Tịch và Vương Tuyết Tịch
Trong
Phật pháp, pháp môn vô lượng, không một pháp môn nào chẳng lấy Giới làm cơ sở, chẳng
lấy Tịnh Độ là chỗ quy túc. Hai người các vị đã muốn quy y Tam Bảo thì hãy nên
sốt sắng giữ tịnh giới của đức Phật. Người tại gia lấy Ngũ Giới làm căn bản. Bốn
giới đầu trong Ngũ Giới, tức “giết, trộm, dâm, dối”, chính là Tánh Giới. Bất luận
đã thọ giới hay không đều chớ nên phạm; nhưng kẻ chưa thọ giới mà phạm thì dựa
theo sự để luận định tội lỗi. Kẻ thọ giới mà phạm thì ngoài việc dựa trên sự để
luận tội ra, còn phạm thêm một tầng tội lỗi nữa, tức là phạm giới. Giới “không
uống rượu” gọi là Giá Giới, nghĩa là đức Phật ngăn cấm, chẳng cho phép con người
uống rượu! Kẻ chưa thọ giới mà uống sẽ không phạm lỗi, nhưng nếu uống rồi làm
càn thì sẽ dựa theo chuyện kẻ ấy đã làm để luận tội. Vì thế, tuy chưa thọ giới
cũng chớ nên uống. Nếu đã thọ giới mà uống thì chỉ mắc tội phạm giới.
Nhưng đã phát tâm quy y Tam Bảo,
cố nhiên nên giữ trọn cả năm giới. Tuy Đức Phật đại từ đại bi có lệ cho con người
tùy ý thọ một, hai, ba, bốn giới, nhưng đấy là dành cho những người lâm vào
tình thế có những chuyện chẳng thể giữ được, đừng nên viện cớ đó để rồi dễ
duôi! Nói đến những chuyện khiến cho [người thọ giới] chẳng thể giữ được là như
kẻ đồ tể chẳng thể giữ giới sát sanh, tửu bảo chẳng thể giữ giới không uống rượu
v.v…
Người quy y Phật pháp tu trì Tịnh
nghiệp ắt phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng
thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, tín nguyện niệm Phật, cầu
sanh Tây Phương. Dùng những điều ấy để tự hành, lại còn dạy người, sao cho
trong là cha mẹ, anh em trai, vợ chồng, con cái, chị em gái, chị em dâu, tôi
trai, tớ gái, ngoài là xóm giềng, làng nước, thân thích, bằng hữu cùng với hết
thảy những người quen biết hữu duyên đều dùng những điều này để khuyên lơn họ.
Phàm muốn khuyên ai, chính mình ắt phải thực hành chuyện ấy thì người ta sẽ tự
làm theo. Chuyện thế gian hay xuất thế gian không gì chẳng lấy thân làm gốc. Đấy
gọi là “dùng lời lẽ để dạy sẽ bị tranh
cãi, dùng thân để dạy thì người ta sẽ thuận theo”.
Lại cần phải biết: Một pháp Niệm
Phật chính là pháp môn đặc biệt trong hết thảy các pháp do đức Phật đã nói
trong suốt cả một đời Ngài. Đạo lý ấy siêu việt hết thảy Thiền Giáo, Luật, Mật.
Trong hết thảy pháp môn, muốn liễu sanh tử thì ắt phải đoạn sạch Phiền Hoặc mới
có phần liễu sanh tử. Nếu phiền não Hoặc nghiệp chưa đoạn, mặc kệ anh kiến địa
cao siêu, công phu sâu đậm, trí huệ to lớn, đều chẳng giúp được gì cả! Do các
pháp môn ấy đều cậy vào tự lực cho nên khó khăn. Pháp môn Tịnh Độ hoàn toàn cậy
vào Phật lực nên dễ dàng. Nếu là kẻ có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha,
chí thành niệm Phật thì lâm chung sẽ được Phật tiếp dẫn, vãng sanh Tây Phương.
Đã vãng sanh Tây Phương thì phiền não chẳng mong đoạn mà tự đoạn. Do tất cả cảnh
giới trong Tây Phương đều khiến cho con người tăng trưởng công đức, trí huệ, trọn
không có gì khiến cho con người khởi tham - sân - si. Vì thế, Long Thọ Bồ Tát
xưng tụng là “đạo dễ hành”, Mã Minh Bồ Tát xưng tụng là “phương tiện tối thắng”.
Nhưng pháp này chẳng phải chỉ để độ phàm phu mà thật ra còn phổ độ hết thảy phàm
- thánh. Nay gởi cho các ông các thứ kinh sách, đọc rồi sẽ tự biết.
Quang già rồi, mục lực thật
suy yếu, chẳng thể khai thị tường tận được! Những sách này là những khai thị phổ
biến, tôi dùng hai mươi đồng [hương kính] của các ông [dâng cúng] để làm tiền
thỉnh sách và bưu phí. Trừ những cuốn tự giữ ra, [những cuốn còn dư] đều đem tặng
cho những ai thông văn lý, biết cung kính. Nếu là kẻ luông tuồng, không cung
kính, đừng tặng cho họ để họ khỏi tạo tội khinh nhờn, đâm ra bị tổn hại, không
có lợi ích. Do xưởng cơ giới chế tạo dụng cụ giết chóc, nếu như có thể từ chối
không làm, hoặc sửa thành những đồ vật sử dụng cho việc khác thì là thượng
sách.
Nay đặt pháp danh cho hai người
các ông, Vũ Tịch pháp danh là Trí Trạch, Tuyết Tịch pháp danh là Trí Tịnh. Dùng
pháp môn Tịnh Độ để nhuần thấm hết thảy, thanh tịnh hết thảy, ngõ hầu chẳng phụ
cuộc sống này và dịp gặp gỡ này. Người niệm Phật gần đây phần nhiều chẳng biết
tới tông chỉ của pháp môn Tịnh Độ, cho nên nếu không xen tạp Thiền Tông thì
cũng tôn sùng, đề cao Mật tông. Ở chỗ ông Thư Thứ Phạm xin hãy nói với ông ta
[về lời nhắc nhở này], những nơi khác đừng nói (ngày Hai Mươi Sáu tháng
Sáu).
624. Thư gởi luật sư Trương Tăng Thuần
Hôm
trước Vương Tông Nhất cầm đến thư của các hạ và thư của ba anh em ông ta, biết
các hạ đã sớm tu trì Tịnh Độ, nhưng sau đấy lại bỏ lửng. Nay lại phát tâm, đủ
thấy đã có thiện căn từ đời trước. Nói “dè dặt kinh sợ đối với nghiệp” là vì “dễ
tạo tội”. Nếu ước theo tri kiến thế tục thì quả thật là thật đúng như vậy. Nếu
chẳng chú trọng tiền bạc, chỉ ôm lòng giải oan gỡ rối, khuyên dạy lẫn nhau, chỉ
biết luận định theo lý, chẳng nhìn mặt “ông anh lỗ vuông”[26]
thì so với những nghề nghiệp khác càng dễ tích công lũy đức hơn! Nhưng tiền bạc
có thể làm cho con người bị mê muội, những kẻ vừa thấy “ông anh lỗ vuông” liền chôn
vùi đức hạnh của tổ tiên chẳng tiếc nuối gì, chính mình bị tổn phước, con cháu bị
diệt tuyệt, và chết đi đọa lạc trong ác đạo trong vạn người có đến mười ngàn kẻ!
Vì thế, chẳng thể không luôn luôn đề phòng “ông anh lỗ vuông” dụ dỗ, mê hoặc!
Ông đã phát tâm quy y, nay đặt
pháp danh cho ông là Huệ Thuần. Nếu có thể thuần nương theo Phật huệ thì “ông
anh lỗ vuông” chẳng làm gì được ta! Lấy công đức giải oan gỡ rối để làm Trợ Hạnh
cho niệm Phật vãng sanh sẽ như ngồi thuyền to vào trong biển cả, căng chiếc buồm
lớn, lại được thuận gió, hành trình ngàn dặm chỉ trong một buổi đã đến nơi, may
mắn chi hơn? Theo như ông nói thì trong bốn mươi chín ngày niệm Phật trước kia
đã có chút sở chứng, đấy chính là căn bản khiến cho đạo tâm bị lui sụt! Mới có
đôi chút tương ứng và cảm ứng, há nên tưởng đấy là đã chứng ư? Được chút ít đã cho
là đủ rồi vì đó liền lười nhác, buông bỏ, kẻ sơ tâm thường hay như thế. Từ nay
về sau, hãy nên thuần nhất cái tâm, càng có cảm ứng bèn càng cảm thấy thiếu sót
thì sẽ tránh được căn bệnh ấy.
Quang già rồi, chẳng thể khai thị tường tận. Nay gởi cho ông một bộ Tịnh Độ Thập Yếu. Sách này chính là sách thiết yếu nhất trong pháp môn Tịnh Độ, hãy nên lắng lòng đọc tụng thì nguyên do của pháp môn, pháp tắc tu trì và tất cả những điều tự lợi, lợi tha, đạo “tự hành, dạy người” đều biết rõ ràng! Một bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, một bộ Phật Học Cứu Kiếp Biên, một cuốn Gia Ngôn Lục. Muốn biết những ý đại cương này thì tìm kiếm trong Gia Ngôn Lục là dễ thấy nhất. Có những sách này thì những ý chánh yếu của Tịnh Tông sẽ rõ ràng, rạng ngời. Ngoài ra còn kèm thêm Đạt Sanh Biên, Thọ Khang Bảo Giám để ngăn ngừa [những tai ương] cho con cháu khi sanh nở và [có những khuôn phép để] giữ thân lập phẩm đức. Một Lá Thư Trả Lời Khắp chính là những điều cấp thiết mà hết thảy mọi người đều phải nên chú trọng, hành theo đó thì không điều nào chẳng tốt lành. Quang già rồi, từ nay về sau vĩnh viễn đừng gởi thư đến nữa, cũng đừng giới thiệu người khác quy y do tinh thần, mục lực, công phu đều chẳng đủ. Trong mùa Đông năm ngoái đã cự tuyệt hết thảy, phàm thư từ gởi đến đều dùng lời này để cự tuyệt cho họ khỏi gởi thư đến nữa ngõ hầu khỏi bị quá phiền rộn không thể chống chọi được, chắc sẽ đến nỗi mù mắt hay mất mạng! (ngày Mười Chín tháng Giêng)
625. Thư trả lời hai vị cư sĩ Tiết Anh Huệ và Lưu Nhất
Hạc
Nhận
được thư đầy đủ. Quang là một ông Tăng vô tri vô thức chỉ biết cơm cháo, chỉ
yên phận ngu hèn, chỉ biết tu trì Tịnh nghiệp để mong cậy vào Phật từ lực đới
nghiệp vãng sanh. Nếu hai vị chẳng muốn làm đại thông gia thì sẽ chẳng đến nỗi
vì Quang tầm thường, kém cỏi khiến cho những điều quý vị mong mỏi bị lỡ làng. Nếu
muốn làm đại thông gia thì đã hoàn toàn trông cậy không đúng người rồi! Tuy
nhiên, làm bậc đại thông gia há phải là chuyện dễ nói hay sao? Dẫu có đạt được
mà chẳng nương theo tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì thật sợ sẽ từ
trần sa kiếp này sang trần sa kiếp khác vẫn luân hồi trong lục đạo! Ấy là vì cậy
vào tự lực để liễu sanh tử đem so với cậy vào Phật lực để liễu sanh tử thì sẽ
giống như sự khác biệt giữa ngày và kiếp vậy! Kẻ biết tốt - xấu chớ nên phỏng
theo chí nguyện của bậc hành Bồ Tát đạo đã liễu sanh tử, mà cần phải chắc chắn được
vãng sanh Tây Phương ngay trong đời này! Đã vãng sanh Tây Phương rồi mới học
theo [chí nguyện những bậc hành Bồ Tát đạo đã liễu sanh tử] thì sẽ hữu ích. Nếu
chưa vãng sanh mà đã bắt chước ngay thì sẽ giống như chén bát chưa nung, vừa gặp
trận mưa sanh tử liền rã thành bùn đất! Trong cõi đời thường có những kẻ thích
ăn to nói lớn, tự coi mình có thân phận giống như Phật, Bồ Tát, chỉ trở thành hạng
tự lầm, lầm người mà thôi! Xin hai vị hãy suy nghĩ sâu xa!
Người học Phật ắt phải ai nấy
giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận. Nói đến “bổn phận”, chính là cha hiếu,
con từ, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành
v.v… Nếu ai nấy đều trọn hết phận mình thì thiên hạ sẽ tự thái bình, nhưng
trong ấy chỉ có chức phận cha mẹ là có quan hệ trọng yếu nhất. Nếu những kẻ làm
cha mẹ trong cõi đời ai nấy đều khéo dạy dỗ con cái thì những kẻ quấy rối mù
quáng và những kẻ ương bướng kém hèn, chẳng tuân theo pháp tắc sẽ đều trở thành
hiền nhân, thiện nhân, đâu đến nỗi có chuyện xâm lăng, cướp đoạt, tàn sát lẫn
nhau? [Câu nói] “thiên hạ chẳng yên, thất
phu có trách nhiệm” chính là nói về sự giáo dục trong gia đình sao cho con
cái đều thành lương thiện. Những điều vừa nói trên đây tuy là những lời lẽ tầm
thường, nhưng hễ phân tích rõ ràng thì cố nhiên đã bao quát sạch hết không còn.
Hai vị đang là sĩ quan, càng
phải nên giữ nghiêm kỷ luật, nêu gương tốt đẹp cho quân lính. Ấy chính là như
thường nói: “Dùng lời nói để dạy sẽ bị
tranh cãi, dùng thân để dạy người ta sẽ thuận theo”. Không một chuyện nào
trong thế gian chẳng lấy thân làm gốc. Đối với binh sĩ, hãy nên đối đãi bằng
lòng chân thành, ra rả răn nhắc, khiến cho bọn họ ai nấy đều giữ chí “trừ bạo,
an lương, bảo vệ trăm họ”, coi người khác như chính mình, coi mình giống như
người khác, đừng khinh lấn, xâm đoạt lẫn nhau, coi phụ nữ của người khác như chị
em gái của chính mình, chẳng dám khởi vọng niệm trái phận! Ắt mong sao chẳng cô
phụ chức phận “bảo vệ đất nước, dân chúng” thì đội quân ấy chẳng đáng gọi “đạo
đức quân, nhân nghĩa quân” ư? Dùng quân đạo đức nhân nghĩa để chế ngự địch quân
thì không ai đối địch được, ắt sẽ luôn đắc thắng. Vì thế Khổng Tử nói: “Ngã chiến tắc khắc” (ta cầm quân chắc
chắn thắng trận), chính là nhằm diễn tả ý này. Trong cõi đời gần đây, năm nào
cũng có chiến sự, đa phần những ai hơi mang lòng nhân từ trung tín và niệm
kinh, niệm Phật thì tuy ở trong rừng súng mưa đạn vẫn trọn chẳng bị thương
vong. Đấy chính là hiệu quả vậy.
Hai vị đã muốn quy y thì nay
tôi sẽ thuận theo ý muốn mà đặt pháp danh. Nếu sau này biết tôi vô tri vô thức,
chẳng đáng làm thầy, lại bái bậc cao nhân khác thì quả thật tôi cũng rất vui
lòng. Tiết Anh Huệ pháp danh là Tông Huệ. Tông là chủ. Nghĩa là nhất cử, nhất động
đều lấy trí huệ làm chủ thì không gì chẳng tốt lành, không gì chẳng khế hợp với
tâm tích của thánh nhân thế gian và Phật, Bồ Tát xuất thế gian. Lưu Nhất Hạc
pháp danh là Tông Nhất. Nhất là thuần nhất, không vọng. Trong tâm thường thuần
đạo đức nhân nghĩa, không có vọng niệm nào khác trái nghịch với đạo đức nhân
nghĩa thì sẽ đáng gọi là đệ tử thật sự của Nho, của Phật. Dùng những điều ấy để
dắt dìu người khác, cố nhiên sẽ chẳng khó gì khiến cho đây - kia đều có cùng một
đức vậy.
Hiện nay thiên tai nhân họa
thường liên tiếp xảy ra, ắt phải thường lấy tín nguyện niệm Phật và niệm Quán
Âm để tự hành, dạy người, để mong khi sống sẽ tiêu trừ nghiệp chướng, cao dự
vào bậc thánh hiền, khi mất sẽ cậy vào Phật từ lực lên thẳng cõi Cực Lạc, ngõ hầu
chẳng phí cuộc đời này và chẳng uổng dịp gặp gỡ này! Những điều khác đã nói tường
tận trong các sách như Văn Sao v.v… ở đây không viết cặn kẽ. Nếu muốn xem các
sách thì có thể thỉnh từ chỗ ông Điền Thân Phủ ở số tám mươi sáu phường Thái
An, thành phố Hán Khẩu.
Ba phương thuốc cai nghiện á phiện, trị bệnh sốt rét, [chó dại cắn] v.v… đã in trong tháng Chạp năm ngoái rất linh nghiệm, mà bệnh sốt rét là bệnh thường phát ra nhiều nhất trong khoảng Hạ - Thu. Toa thuốc này chẳng tốn một đồng mà chẳng ai không được trị lành. Do vậy, đính kèm hai trương để bảo rộng rãi với mọi người, đấy cũng là một cách làm lợi cho người khác. Quang đã bảy mươi hai tuổi rồi, sáng chẳng đảm bảo được tối. Hơn nữa, vẻ suy tàn đã hiện, tinh thần chẳng đủ, chỉ mong hai ông dựa theo Văn Sao để tu trì, đừng gởi thư tới nữa do sức khó thể thù tiếp được, chứ không phải là chẳng muốn nói với người khác. Dẫu có nói tường tận thì làm sao đầy đủ bằng một bộ sách cho được? (mồng Năm tháng Tư)
Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên,
Quyển 3
Phần 4 hết
[1] Đại Ngu tên thật là Lý Thúc Bồi (còn có tên là Lý
Tông Đường), quê ở Vũ Hán. Thoạt đầu xuất gia tại chùa Đông Lâm ở Lô Sơn, tu
pháp môn Tịnh Độ, sau nghiên cứu Giáo Học. Theo đồ tôn của Đại Ngu là Nguyên Âm
lão nhân, Đại Ngu từng tu Ban Châu tam-muội đến nỗi đầu gối sưng phù, không bước
đi được, nhưng vẫn tinh tấn, dùng tay bò đi để tiếp tục thực hành Ban Châu
tam-muội. Tương truyền, trong khi tu tam-muội này, ông ta cảm được Phổ Hiền Bồ
Tát hiện thân quán đảnh, truyền trao một loại Mật Pháp gọi là Tâm Trung Tâm Mật
Pháp, tức chú pháp Đại Tùy Cầu Đà La Ni và Phật Tâm Kinh trong Đại Tạng. Sau
sáu năm tu tập, ông hạ sơn và truyền dạy pháp môn này, trở thành tổ sư tông
phái Ấn Tâm Tông (còn gọi là Tâm Mật), để tóc và trở lại đời sống cư sĩ. Ông ta
thường hiển thị thần thông lôi kéo tín đồ. Đương thời, tín đồ đông đến năm sáu vạn
người. Phái này cho tới hiện nay vẫn còn tại Hoa Lục và Đài Loan, họ tôn Vương
Tương Lục làm đệ nhị tổ, Nguyên Âm lão nhân là đệ tam tổ.
[2] Nguyên văn “Hiến Tuế”. Hiến Tuế là tên gọi khác của
tháng Giêng nên chữ Hiến Tuế thường được dùng trong các lời chúc Tết. Có lẽ
trong mười hai tháng của Âm Lịch, tháng Giêng được gọi với nhiều tên khác nhau
nhất, ngoài tên thông dụng nhất là Chánh Nguyệt ra, còn có các tên sau đây:
Nguyên nguyệt, đoan nguyệt, mạnh nguyệt, chinh nguyệt, sơ nguyệt, gia nguyệt,
tam vi nguyệt, tưu nguyệt, mạnh xuân, khai tuế, phát tuế, hiến tuế, phương tuế,
hoa tuế, tảo xuân, xuân vương, mạnh dương, mạnh tưu, thủ dương, tân chánh, hạ
chánh, thanh dương, tam dương, sơ xuân, thỉ xuân, khai xuân, đại thốc, thủ
xuân, nguyên dương, chánh dương, dần nguyệt, thái nguyệt...
[3] Danh xưng tỏ vẻ kính trọng con gái của người khác.
[4] Bốn tướng: tướng ta, tướng người, tướng chúng sanh,
tướng thọ giả.
Ba tâm: tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai.
[5] Sách Nhị Khóa Hiệp Giải do ngài Quán Nguyệt Hưng Từ biên soạn vào đầu thời Dân Quốc, nhằm giải thích ý nghĩa của hai thời công khóa sáng tối trong Thiền môn, chủ yếu dùng giáo nghĩa tông Thiên Thai để biện định với những đồ biểu rất chi tiết nên rất hữu ích cho người sơ cơ dễ nhớ hiểu các thuật ngữ Phật học phức tạp. Ngài Hưng Từ quê ở huyện Thiên Thai, tỉnh Chiết Giang, tự là Quán Nguyệt, là một vị cao tăng trong tông Thiên Thai, tuy sùng phụng giáo nghĩa Thiên Thai nhưng đặc biệt hâm mộ Tịnh Độ, giáo hóa rộng khắp các nơi từ Thượng Hải đến Hàng Châu. Sư chuyên hoằng dương Giáo Quán, nhưng chuyên tu Tịnh nghiệp không lười nhác, nghiêm trì giới luật, sống hết sức đạm bạc, được tôn xưng là bậc tôn túc đệ nhất ở Thượng Hải. Sư soạn cuốn Nhị Khóa Hiệp Giải vào năm 1912. Sư còn soạn cuốn Kim Cang Kinh Dị Tri Sớ cũng được lưu hành rộng rãi.
[6] Nha đầu: đứa tớ gái. Vì thuở xưa những đứa tớ gái thường
để tóc có hai trái đào hai bên nên gọi là “nha đầu” hoặc “nha hoàn” (thường bị
đọc trại thành “a hoàn”). “Nha” là vật gì có ngạnh xòe ra. Đôi khi, người ta
cũng gọi những đứa con gái còn bé là “nha đầu”.
[7] Linh Hữu vốn là vườn nuôi thú của Châu Văn Vương. Tên gọi này được nhắc đến trong bài thơ Linh Đài, thiên Đại Nhã của Kinh Thi: “Vương tại Linh Hữu, ưu lộc du phục” (vua ở vườn Linh Hữu, hươu cái, hươu đực tung tăng vây quanh). Sách Mao Truyện giảng: “Hữu là nơi nuôi dưỡng các loài cầm thú, vườn của thiên tử rộng một trăm dặm, vườn của chư hầu rộng bốn mươi dặm”. Về sau, Linh Hữu thường được đồng nhất với Thượng Uyển của nhà vua. Thậm chí, Thượng Uyển trên cõi tiên cũng được gọi là Linh Hữu.
[8] Ý nói: Đạo tràng chỉ là nơi để tụ tập diễn thuyết về
lợi ích của pháp môn Tịnh Độ, sách tấn nhau tu tập, cùng nhau niệm Phật để biết
quy củ niệm Phật rồi sau đó mỗi người phải tự tu tập trong nhà của chính mình.
Giống như ra chợ mua đồ dùng về sử dụng trong nhà, hành nhân đến đạo tràng thâu
thập những lợi ích, những lời cảnh sách, pháp tắc tu tập để đem về thực hành
trong nhà.
[9] Lao sái: Lao và Sái là hai từ đồng nghĩa cùng để chỉ
bệnh lao (Tuberclosis), nhưng thường được ghép chung với nhau thành một từ ngữ.
[10] Địa
Ngao Trùng (Eupolyphaga Sinensis Walker) chính là một loại bọ hung.
[11] Đài Đầu là một cách viết trong công văn, thư từ, thể
hiện sự cung kính: Trước khi bắt đầu một danh xưng hay tên người thì bèn xuống
dòng. Tức là danh xưng ấy trở thành chữ đầu dòng trong câu văn.
[12] Đây là một đoạn thơ trích từ bài Tư Tề thuộc tiểu loại Văn Vương Chi Thập trong phần Đại Nhã của kinh Thi: “Hình vu quả thê, chí vu huynh đệ, dĩ ngự vu gia bang”. Câu nói này cũng được Mạnh Tử nhắc lại trong thiên Lương Huệ Vương, sách Mạnh Tử. Theo cách giải thích của Tứ Thư Bạch Thoại giải thì: “Quả thê là đích thê (vợ cả, vợ chánh), Hình là nêu gương, Ngự là cai trị. Theo Tập Sớ thì ‘hình quả thê, chí huynh đệ, dĩ ngự gia bang chính là đạo tu thân, tề gia, trị quốc. Ý nói Văn Vương ở trong chốn riêng tư thì hết sức hòa nhã, đối với tông miếu hết thảy kính cẩn’. Do vậy, câu này phải hiểu là: Văn Vương dùng lễ pháp để nêu gương cho vợ con, đối xử nhân ái với anh em, khiến anh em nêu gương, khiến cho cả nước phải tuân phụng theo”. Do vậy, chúng tôi chỉ dịch gọn là: “Làm gương cho vợ mình, lan đến anh em, rồi truyền khắp đất nước”.
[13] Hưng Cừ (Hingu): Còn phiên âm là Huân Cừ, Hưng Cù,
Hưng Cựu, Hưng Nghi, Hình Ngu, hoặc Hình Cụ, vốn chỉ mọc ở Tân Cương, Hòa Điền
(Khotan), Tây Tạng, Ấn Độ, Iran, A Phú Hãn v.v… là một loại thảo mộc, có tên
khoa học là Asafoetida, cao tối đa hai mét, thân củ mập, sắc trắng, mùi hôi như
tỏi, nhưng củ nhỏ hơn, thường dùng làm gia vị. Khi bẻ thân loại cây này, chỗ
gãy sẽ tiết ra dịch nhờn, dịch nhờn ấy có thể dùng làm thuốc với tên gọi được gọi
là A Ngụy (thường bị đọc trại thành A Ngùy). Do cây Củ Nén (hoặc củ néng?) của
Việt Nam cũng có hình dáng gần giống như vậy và có mùi tỏi nên chữ Hưng Cừ thường
được dịch tạm là Củ Nén.
[14] Nguyên Tuy (Coriander) là một loại rau thơm, thường
được biết dưới tên thông dụng là Cilantro, trông hơi giống như rau ngò (rau
mùi, ngò rí) của Việt Nam, nhưng lá to hơn và không thơm bằng (có lẽ vì thế một
số người gọi nó là ngò Tây). Do hạt của nó có hương vị khác biệt, thơm nồng hơn
lá, nên thường được người Ấn Độ dùng làm thành phần chủ yếu cho hương liệu
Garam Masala và cà ri. Người Ấn còn nướng hạt ngò Tây để nhai cho thơm miệng. Hạt
ngò Tây cũng được dùng để tạo hương vị đặc biệt cho các loại bánh mì cứng làm bằng
hắc mạch (Rye) của Nga.
[15] Theo Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh quyển tám thì năm thứ hôi nồng này, tuy là thảo mộc, nhưng ăn chín sẽ khiến lòng dâm nẩy sanh, ăn sống sẽ khiến cho người thích ăn hay nóng giận. Hơn nữa, thiên tiên mười phương không thích mùi hôi hám của năm loại này nên thường tránh xa, các loài ngạ quỷ lại đặc biệt ưa thích nên thường đến liếm môi mép của người ăn. Do quỷ thường lui tới nên phước đức của người ăn bị tiêu giảm. Đại lực quỷ vương thừa cơ hiện thân Phật dối gạt thuyết pháp, dạy người ăn Ngũ Tân phạm giới, khen ngợi dâm - nộ - si, khiến cho kẻ ấy mạng chung sẽ làm quyến thuộc của ma, vĩnh viễn đọa trong địa ngục Vô Gián. Vì thế, người cầu Bồ Đề phải đoạn dứt Ngũ Tân. Tuy Ngũ Tân bị cấm ăn, nhưng trong trường hợp bị bệnh phải ăn để trị bệnh thì đức Phật cũng đặc biệt hứa khả. Theo Kinh Yếu Tập quyển 20 dẫn các bộ luật Tăng Kỳ, Thập Tụng Luật, Ngũ Phần Luật v.v… nếu tỳ-kheo bị bệnh đành phải ăn Ngũ Tân thì trong bảy ngày phải ở riêng trong một phòng nhỏ, không được nằm trên giường đệm của Tăng, không được ở lẫn lộn với Tăng chúng, không được lên giảng đường, nhiễu tháp Phật, hoặc vào Tăng Đường, phải ngồi dưới chiều gió nếu có chuyện cần thiết phải họp mặt với Tăng chúng. Sau bảy ngày phải tắm gội súc rửa sạch sẽ, dùng hương xông áo khử mùi hôi hám rồi mới được nhập chúng.
[16] Nguyên văn “bổn chi quyến thuộc” (quyến thuộc gốc và
nhánh), tức những người thân thuộc trực hệ như vợ, con, cháu nội, cháu ngoại,
dâu, rể… (thì gọi là gốc), và những người có quan hệ gián tiếp như cháu gọi bằng
cô, cậu, chị dâu, anh rể, dì, dượng… thì gọi là nhánh. Do vậy, chúng tôi dùng
chữ chánh và phụ để diễn tả ý này.
[17] Câu Ấn, gọi đủ là Đới Câu Ấn, tức là một loại con dấu
cá nhân, thường dùng để mang theo mình, mỗi khi viết lách thư từ hoặc vẽ vời, đề
thơ, thường đóng dấu bên cạnh sau khi đề tên. Thoạt đầu, do ấn làm bằng đồng hoặc
bằng ngọc có đuôi cong như cái móc để dễ cầm khi đóng dấu nên gọi là Câu Ấn. Do
ông Phạm Cổ Nông cho in những tờ giấy có in sẵn hình câu ấn, chữ trên ấn viết A
Di Đà Phật, tức là lấy danh hiệu A Di Đà Phật thay cho tên hiệu của chính mình,
nên Tổ mới quở là “khinh nhờn”. Tương tự, Vưu Hóa Nhất vẽ hình A Di Đà Phật
theo đủ mọi kiểu lập dị chứ không chú trọng diễn tả phước tướng trang nghiêm của
Phật nên mới bị Tổ quở trách, ngăn cản đừng in, vì sợ kẻ khác nhìn thấy sẽ bắt
chước làm theo!
[18] Theo ý nghĩa nguyên thủy, Minh Đường là một dinh thự
để thiên tử nhà Châu hội kiến chư hầu và cử hành tế lễ, cũng như tuyên cáo
chánh sách. Minh Đường đã có từ thời Hoàng Đế, nhưng không có quy định kiến
trúc rõ rệt. Đến nhà Hạ gọi là Thế Thất, nhà Thương gọi là Trùng Ốc, đến nhà
Châu mới gọi là Minh Đường, và từ đây Minh Đường mới mang chức năng của một
trung tâm tôn giáo, nghị luận chánh sự và giáo hóa (nhưng đến cuối đời Châu,
Minh Đường chỉ còn dùng vào mục đích tế lễ). Thoạt đầu chỉ ở kinh đô mới có
Minh Đường, nhưng sau này, Minh Đường được xây dựng ở bất cứ một địa phương nào
khi cần thiết. Chẳng hạn khi Hán Vũ Đế dự định làm lễ Phong Thiền ở Thái Sơn đã
cho xây Minh Đường tại đấy. Và từ đó, mô hình kiến trúc của Minh Đường cũng
tuân thủ theo một quy cách chặt chẽ hơn: Một tòa đại điện trên tròn dưới vuông,
có nước vây quanh bốn phía. Riêng trong đoạn văn này, minh đường lẫn thanh miếu
chỉ là những từ ngữ phiếm chỉ các cơ sở thờ tự hay hội họp trong vùng.
[19] Văn Lộ Công chính là Văn Ngạn Bác (1006-1997), tự là Khoan Phu, hiệu Y Tẩu, người xứ Giới Hư, Phần Châu (nay thuộc thành phố Giới Hưu, tỉnh Sơn Tây), là một vị Tể Tướng trải suốt bốn đời vua nhà Tống (Nhân Tông, Anh Tông, Thần Tông, Triết Tông), tước phong là Lộ Quốc Công, nên thường được gọi là Văn Lộ Công. Ông được người đời coi là một vị Tể Tướng hiền năng, có công giữ yên đất nước, đánh thắng Tây Hạ, chuyên cần chánh sự, tiết kiệm, nhân từ, giảm tô thuế. Đến già ông mới quy hướng Phật pháp. Lời thề nguyền trên đây được phát ra khi ông xướng suất lập Liên Xã.
[20] Mã
Nhất Phù (1883-1967) vốn tên là Phù, tự Nhất Phù, hiệu Trạm Ông, về già lấy hiệu
là Quyên Tẩu và Quyên Hý lão nhân. Được coi là một bậc thầy lừng danh về Quốc Học,
đồng thời là một thư pháp gia, triện khắc gia, cũng như là người đứng đầu về học
phái Tân Nho. Ông ta quê ở huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, năm lên sáu tuổi
đã đỗ đầu kỳ Hương Thí tại Thiệu Hưng. Năm 1903 sang Mỹ du học, theo đuổi ngành
văn chương Âu Châu. Sau đó, ông từng du học Đức quốc và Nhật Bản để nghiên cứu
triết học Tây Phương, đặc biệt sùng bái cuốn Tư Bản Luận của Karl Marx. Năm
1911, trở về nước, tham gia Quốc Dân Đảng, trở thành một trong những đồng chí
thân cận của Tôn Văn, rồi chuyển sang gia nhập đảng Cộng Sản. Sau khi quân Nhật
bị đánh đuổi khỏi Trung Hoa, ông ta dạy học tại đại học Chiết Giang, làm đại biểu
Quốc Hội tại Hoa Lục. Kể từ năm 1964, ông đảm nhiệm chức Quán Trưởng Trung Anh
Văn Quán. Ông trước tác rất nhiều, viết về Phật học với những quan điểm quá
khích, sùng bái những lý luận triết học của Tây Phương cũng như đề cao Tống Nho
gần như mù quáng, đến nỗi tuy mang tiếng là xiển dương, nghiên cứu Phật học
nhưng gần như triệt hạ Đại Thừa, coi những kinh luận trọng yếu trong Phật giáo
Đại Thừa như Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Khởi Tín v.v… đều là do người Trung Hoa ngụy
tạo. Điều đáng nói là tuy đả phá, giải thích Phật học, Nho Học theo lối lập luận
khiên cưỡng, máy móc, một chiều, đầy thiên kiến, ông ta vẫn được đề cao là “Nho
- Thích - Triết nhất đại tông sư” tại Hoa Lục.
[21] Thoái Chi là tên tự của Hàn Dũ (768-824), là một văn
gia lỗi lạc cuối đời Đường. Họ Hàn mang tư tưởng chống đối đạo Phật, khi viết về
những nhân vật hữu danh tin tưởng Phật giáo đương thời thường xuyên tạc họ như
những kẻ mê tín, dị đoan.
[22] Hạt xá-lợi này được thờ trong một cái chuông bằng pha
lê hàn kín. Xin xem chi tiết trong bài “Ghi chép sự thật về tháp thờ xá-lợi đức
Phật tại chùa A Dục Vương” (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 3).
[23] Nói cho đủ là “kiết già phu tọa” (結跏趺坐: Nyasīdat-paryavkam Ābhujya). Trong “Thư trả lời cư sĩ Thôi Đức Chấn” (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển 1), Tổ Ấn Quang đã giảng rõ: “Thứ năm, “kết già phu tọa” (ngồi kiết già): Trước hết dùng chân phải đè lên đùi trái, dùng chân trái đè lên đùi phải, gọi là “già phu”. Chữ Già (跏) vốn viết là chữ Gia (加), có nghĩa là hai mu bàn chân đâu vào nhau. Phu (趺) là mu bàn chân. Nhưng ngồi lâu thì có thể thay đổi trái và phải cho nhau, đừng chấp chặt phải luôn luôn như vậy. Nếu chẳng thể xếp cả hai chân thì chỉ cần dùng chân trái đè lên chân phải là được rồi. Cách này còn gọi là “bán gia” (thường đọc trại thành “bán già”)”. Như vậy, gọi là “ngồi kiết già” thì không chánh xác lắm, nhưng do thói quen của người Việt từ trước đến nay vẫn gọi thế ngồi như vậy là “ngồi kiết già” (đúng ra phải đọc là “kết già”, chữ Kết (結) đã bị đọc trại thành Kiết), nên chúng tôi vẫn dùng chữ “kiết già”. Cách ngồi này được coi là viên mãn nhất, cát tường nhất. Tùy theo cách đặt chân nào lên trên mà chia thành hai loại:
1) Chân phải đè lên chân đùi trái, rồi dùng chân trái đè lên đùi phải (tức là chân trái ở bên trên), tay trái đè lên tay phải, cùng ngửa lên, thì gọi là Hàng Ma Tọa. Thiên Thai, Thiền Tông v.v… thường sử dụng cách ngồi này.
2) Nếu theo thứ tự ngược lại thì gọi là Cát Tường Tọa. Mật Tông đa phần sử dụng cách này, gọi là Liên Hoa Tọa. Còn cách thứ nhất gọi là Kim Cang Tọa.
[24] Tức hai chân đan vào nhau, lật ngửa bàn chân trên như
trong lời giảng của tổ Ấn Quang vừa được trích dẫn trên đây, gọi là “song già
phu” để phân biệt với “bán già”.
[25] Quán Âm Từ Lâm Tập (3 quyển) do ngài Hoằng Tán soạn
vào năm Khang Hy thứ bảy (1668) đời Thanh, thâu thập tất cả những đoạn kinh
sách có liên quan nói về đức Quán Âm cũng như sự linh cảm của Ngài. Quyển Thượng
trích lục những kinh điển chủ yếu về đức Quán Âm như Bi Hoa, Quán Thế Âm Đại Thế
Chí Bồ Tát Thọ Ký Kinh, Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh, Thỉnh Quán Thế Âm
Bồ Tát Tiêu Phục Độc Hại Đà La Ni Chú… Quyển Trung và quyển Hạ chép những sự
tích cảm ứng, gồm 154 câu chuyện.
[26] Khổng phương huynh: Do đồng tiền thời cổ thường có đục
lỗ vuông ở giữa cho tiện xỏ thành xâu xách đi, nên mới có tên gọi như thế!