Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên
Phần 5
625. Thư trả lời cư sĩ X…
Người niệm Phật trước hết phải hiểu duyên do của pháp môn Tịnh Độ rồi mới đọc khắp các kinh luận th́ [sẽ thấy rơ các kinh luận] đều nhằm nêu tỏ ư nghĩa Tịnh Độ, cũng như sẽ thiết tha tu hạnh Tịnh Độ. Nếu chẳng hiểu duyên do của pháp môn Tịnh Độ th́ hễ nghiên cứu kinh giáo đến tột cùng sẽ nghĩ nghĩa lư của kinh giáo ấy là cao sâu, coi nghĩa lư Tịnh Độ là thiển cận đến nỗi đảo ngược vị trí của Chánh Hạnh và Trợ Hạnh, hoặc vứt Tịnh Độ ra sau ót, chỉ gieo được ích lợi sẽ đắc độ trong đời vị lai, quyết khó thể liễu sanh thoát tử, góp mặt cùng các vị thượng thiện nhân ngay trong đời này.
Niệm Phật
nếu chẳng hôn trầm sẽ tán loạn, đấy
chính là hiện tượng chứng tỏ cái tâm [niệm
Phật] hời hợt, hờ hững cho xong việc!
Nếu niệm Phật với cái tâm như bị té vào
lửa nước, như đang gặp phải giặc
cướp mong gấp được cứu giúp th́ sẽ
tự chẳng có căn bệnh ấy. Hăy nên sắp
xếp thời gian, lúc nào sẽ nghiên cứu, lúc nào sẽ
tŕ tụng. Khi nghiên cứu th́ chẳng được
vượt quá thời gian hạn định, v́ nếu
không, sẽ cảm thấy nghiên cứu thú vị, sẽ
trở thành nghiên cứu suốt ngày, chẳng những gây trở
ngại cho niệm Phật, mà c̣n sợ rằng do dụng tâm quá
độ sẽ bị thương tổn. Đấy
gọi là: “Ngược
ngạo ghét dễ dàng, đơn giản, t́m cầu khó
khăn, khéo quá hóa vụng”, thật đáng xót
thương!
Trong hiện thời,
ḷng người bại hoại đến cùng cực,
đi lại bên ngoài dẫu không mắc họa cũng
rất nguy hiểm. Nếu ông biết được ư này
th́ tâm niệm Phật sẽ tự thiết tha, tâm nghiên
cứu giáo nghĩa sẽ tự nhạt bớt! V́ sao
vậy? V́ trong khi hoạn nạn, chẳng thể nào
gởi ḷng nơi phương diện tri kiến, hiểu
nghĩa được! Lại c̣n thường nên đem
những điều này để răn nhắc con cái, con
dâu, khiến cho bọn họ ai nấy đều niệm
Phật và niệm Quán Âm mỗi ngày. Nếu cả nhà đều
sanh ḷng kiêng sợ, chí thành niệm Phật và niệm danh
hiệu Quán Âm sẽ chẳng đến nỗi mắc
họa. Nếu không, muốn vĩnh viễn không gặp tai
họa quả thật rất khó thể đạt
được! Chuyện dạy dỗ con cái có quan hệ
rất lớn. Dạy con gái lại càng khẩn yếu
hơn dạy dỗ con trai. Bởi lẽ, nếu con gái
hiền th́ khi c̣n ở nhà sẽ khiến cho anh em trai,
chị em gái đều nh́n theo bắt chước làm lành;
khi xuất giá sẽ giúp chồng dạy con đúng phép
tắc, khiến cho chồng lẫn con đều thành
hiền thiện. Nếu con gái chẳng được
dạy dỗ sẽ gây họa chẳng thể nói trọn
hết đâu nhé!
626. Thư trả lời cư sĩ
Quách Hán Nho
Tam tôn
Phật: đức Thích Ca kết Thí Vô Úy Ấn, [tức
là] bàn tay phải ngửa lên đặt trong ḷng, tay trái úp
xuống đặt trên gối trái. Dược Sư
Phật và Di Đà Phật tay kết ấn tương
tự nhau, nhưng Dược Sư Phật kết
Đại Tam Muội Ấn, [tức là] bàn tay phải
đặt trên bàn tay trái; c̣n Di Đà Phật kết Di
Đà Ấn, bàn tay trái đặt trên bàn tay phải.
Tượng Phật [vẽ trên vải hay giấy] bị
nhăn rút (xếp nếp) th́ nên dùng bàn ủi [để
ủi cho thẳng lại], phía dưới [bàn ủi] lót
khăn trải bàn, c̣n tượng Phật th́ đặt
trên bàn [dưới tấm khăn trải bàn]. Một
người dùng hai tay căng cho tượng thẳng
thớm, người kia cầm bàn ủi để ủi.
Vàn muôn phần chớ nên dùng khăn trải giường
để lót! [Nếu không dùng khăn trải bàn th́] dùng
những tờ giấy dài, trải mấy lớp cũng
được. Hăy đốt bàn ủi bằng than
sạch bỏ thêm hương. Nên chùi mặt bàn ủi cho
sạch sẽ, đừng để bàn ủi quá nóng. Nóng
quá sẽ làm tượng Phật bị hư hại,
chỉ ủi cho thẳng mà thôi!
Hiện thời các
nước Tây Dương đang đánh nhau dữ
dội, nếu chẳng mau kết thúc, chắc sẽ lan
sang nước ta. Các nước trong ngoài mạnh - yếu
khác nhau, nhưng đều bị tổn hại giống hệt
như nhau; chứ chẳng phải là nước thua
trận bị thiệt hại, c̣n nước thắng
được lợi. Xét theo sự thực để
luận th́ người bị kẻ khác giết cố
nhiên đáng thương, nhưng kẻ chuyên giết
người càng đáng thương hơn! Đối
với kẻ chỉ biết chuyện trước mắt
th́ kẻ thắng dường như được
lợi, chứ nếu nh́n vào đời kế tiếp hay
đời sau nữa th́ kẻ giết người càng
khổ sâu xa hơn người bị hắn giết gấp
vạn lần! Tiếc rằng người đời
đều chẳng biết [như vậy]!
Thanh Lương Sơn
Chí có chép: Vào đời Tùy, ở Đại Châu, Triệu
Lương Tướng giàu nứt đố đổ
vách, sanh được hai đứa con, trưởng là
Doanh, thứ là Mạnh. Doanh mạnh mẽ, c̣n Mạnh
yếu đuối. Ông bố sắp chết, chia gia
sản làm hai phần, Mạnh được phần
hơn. Cha chết rồi, Doanh cướp sạch gia
nghiệp của Mạnh, chỉ để lại cho
Mạnh mảnh vườn và căn nhà. Mạnh phải
làm thuê để kiếm sống. Không lâu sau Doanh chết
đi, đầu thai làm con của Mạnh, có tên là Hoàn.
Lại chẳng bao lâu sau, Mạnh chết, đầu thai
vào nhà Doanh làm cháu nội của Doanh, tên là Tiên. Hoàn làm
đầy tớ trong nhà Doanh. Tiên muốn triều bái
Ngũ Đài, sai Hoàn theo hầu. Hoàn biết bác ḿnh
cướp sạch tài sản, tính muốn giết Tiên, nay
may mắn được dịp thuận tiện; đến
chỗ vắng vẻ ở Ngũ Đài, rút con dao đă
ngầm giấu, bảo Tiên: “Ông nội mày cướp gia
nghiệp của tao khiến cho đời tao khốn cùng.
Nay tao giết mày để vơi hận!” Tiên chạy
lẹ, Hoàn đuổi theo, chạy vào một am tranh.
Một vị lăo tăng ngăn lại bảo: “Không
được hành hung ở chỗ này!” Hoàn nói: “Tôi
giết kẻ oán mà thôi!” Vị lăo tăng mời ngồi,
đưa cho mỗi người một chén trà để
uống, [uống xong] liền biết chuyện đời
trước, đều cùng khóc ̣a lên, bèn xuất gia trong núi
ấy. Nếu các nước đều thấy chuyện
đời trước, đời sau, há vẫn cứ
chuyên coi giết người là chánh sách trọng yếu
để làm cho đất nước hùng mạnh nữa
ư?
Xét theo ư nghĩa th́ nên
xây dựng sơn môn (cửa chùa) theo lối Tam Quan, [hàm
nghĩa] Tam Giải Thoát Môn, một cửa mà đủ ba
nghĩa:
1) Không Giải Thoát môn.
2) Vô Tướng
Giải Thoát môn.
3) Vô Nguyện Giải
Thoát môn.
Do ba môn giải thoát mà
vào thẳng được điện báu Niết Bàn. Do
Không nên Vô Tướng. Do Vô Tướng nên Vô Nguyện.
Hiểu rơ bản thể của hết thảy các pháp chính
là Không th́ Không và Có đều chẳng thể gọi tên
được, cho nên là Vô Tướng. Hễ Vô
Tướng th́ chẳng có tâm nguyện chấp Không lẫn
chấp Có.
Đề xướng
Phật học hăy nên lấy “giữ vẹn luân
thường, trọn hết bổn phận, dứt ḷng
tà, giữ ḷng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ
các điều lành” làm gốc. Được như
thế th́ đối với pháp thế gian lẫn xuất
thế gian đều chẳng trái nghịch. Nếu không,
c̣n là tội nhân nơi Danh Giáo, làm sao kham học Phật
để mong liễu sanh thoát tử ư? “Đừng làm các điều ác, vâng làm các
điều lành” chính là giới đại lược
trong Giới Kinh nhà Phật; Văn Xương Âm Chất
Văn trích dẫn hai câu này. [Người đời]
chỉ biết Âm Chất Văn có lời ấy, chẳng
biết xuất xứ của nó sâu xa đến thế.
Học Phật trong
đời Mạt th́ phải nên chú trọng nơi biết
nhân quả và tu Tịnh Độ. Bởi lẽ, biết
nhân quả th́ chẳng dám dối ḿnh, lừa người,
làm chuyện thương thiên hại lư, tổn
người lợi ḿnh. Tu Tịnh Độ th́ dẫu là
phàm phu đầy dẫy triền phược vẫn có
thể cậy vào Phật từ lực văng sanh Tây
Phương. Trong các pháp môn khác đều phải
đoạn sạch phiền năo rồi mới có thể
liễu sanh thoát tử. Nếu không, dẫu cho đại
triệt đại ngộ, có đại trí huệ,
đại biện tài, biết được quá khứ,
vị lai, muốn đi liền đi, muốn tới
liền tới vẫn chẳng thể liễu
được; huống là kẻ đầy dẫy
phiền năo ư?
Hôm qua nhận
được thư của hội Phật giáo ở quư
địa gởi đến bằng đường hàng
không, biết đất Cam (Cam Túc) bị hạn hán
chẳng khác ǵ Thiểm Tây, khôn ngăn cảm thương!
Quư hội [cầu đảo] đă tṛn hai mươi
mốt ngày vẫn chưa đổ mưa. Ngụy Huệ
Tư do thấy tăng chúng núi Linh Nham đều là
hạng chân thật tu hành [liền gởi thư xin mở
Phật thất cầu mưa] nhưng t́nh trạng tai
nạn quá dữ dội chỉ đành tận tâm tận
lực mà làm thôi, chứ được mưa trọn
khắp hay không th́ chẳng thể nào lo toan trái nghịch
được! Thư của Huệ Tư gởi tới
bằng đường hàng không cũng nhận
được vào buổi chiều, tôi liền gởi
thư cho Linh Nham. Trong hôm Mười Sáu thỉnh hai
mươi vị Tăng niệm thánh hiệu Quán Âm
suốt bảy ngày, để cầu các nơi bị
hạn đều được mưa trút xuống. Theo
lệ, để mời hai mươi vị th́ phải
tốn hai trăm đồng, Quang đă thay mặt quư
hội bỏ tiền ra, chẳng cần phải gởi khoản
tiền ấy đến nữa!
Quư hội hăy nên thông
cáo khắp nhân dân trong vùng cùng niệm thánh hiệu “Nam-mô
Quán Thế Âm Bồ Tát”, chứ không cần phải làm
nhiều nghi thức [rườm rà], chỉ đem công đức
niệm Bồ Tát để hồi hướng cho các
vị linh hiển, thần thông trong chốn núi non
được tăng trưởng oai phước,
hồi hướng cho các cô hồn đều
được văng sanh Tây Phương, so ra sẽ hữu
ích hơn! Ngay như tế lễ thần thánh cũng
đừng dùng đồ huyết nhục. Chuyện ǵ
cũng lấy thành kính làm gốc, chứ không phải là do
nghi thức [trịnh trọng] cho đẹp mắt!
627. Thư trả lời cư sĩ
Dương Chấn Nhân
Cổ
nhân nói: “Xử thế nên
như tướng quân chống địch, làm
người nên như cô gái c̣n trinh giữ thân. Tướng
quân hễ thua trận ba quân đều tan vỡ. Cô gái trinh
trắng hễ thất thân th́ muôn sự đều như ngói
vỡ”. Hăy nên dè dặt kinh sợ sao cho giữ vẹn
được di thể của cha mẹ ta để
lại, bảo vệ được Phật tánh sẵn có
của ta.
Trong Ngũ Giới
chẳng nói đến chuyện hút thuốc là v́ trong
thời đức Phật chưa có nạn ấy. Thói
nghiện ngập ấy bắt đầu thịnh hành từ
cuối thời Minh. Tăng sĩ không tu hành chính là
chủng tử địa ngục, nên những hành vi
hạ lưu không ǵ chẳng trọn đủ! Huống
chi ai nấy đều hút th́ bọn họ c̣n có ǵ kiêng dè
nữa ư? Ông đă biết bọn chúng là lũ bại
hoại, sao c̣n hỏi [tại sao] không có giới ấy? Há
có phải là trong hết thảy hành vi bọn chúng
đều chẳng trái giới, chỉ phạm mỗi
một giới này ư? Cái hại của thuốc lá
thơm c̣n quá thuốc lá Tây. Nước ta cùng quẫn quá
nửa là v́ lẽ này! Quang đă nghĩ sâu xa về
những chất độc hại ấy, thường
khuyên người khác đừng hút. Trong ấy có những
chất độc như morphine, heroin v.v… nếu phụ
nữ trẻ tuổi hút vào chắc chắn sẽ không sanh
nở được! Điều này do một đệ
tử quy y tên là Triệu Nguyệt Tu, tự Hằng Quang,
đích thân nghe một nữ giáo viên ngoại quốc
răn nhắc các nữ sinh. Xin hăy nói rộng răi với
mọi người th́ công đức ấy sẽ
giống như bảo toàn ḍng dơi cho người ta vậy!
628. Thư trả lời cư sĩ
Trương Nhữ Chiêu
Ông Trúc
Thụy Liên là người cực trung hậu, có chí
hoằng pháp lợi người, sẽ nhận lời
mời. Cách học ở nơi đây chớ nên dựa
theo chương tŕnh trong nhà trường, hăy nên dựa theo
sự tu tŕ để truyền dạy. Thoạt
đầu hăy nên dạy học sinh đọc chánh văn
của Tứ Thập Nhị Chương Kinh, Phật Di
Giáo Kinh, Bát Đại Nhân Giác Kinh. Lại c̣n dùng những
bản chú giải của Ngẫu Ích đại sư
để giảng diễn. Tiếp đó, dạy họ
đọc Tịnh Độ Ngũ Kinh để hiểu
cặn kẽ nguyên do của môn Tịnh Độ th́
sẽ dám đối trước mọi người khuyên
tu Tịnh nghiệp, chẳng bị dao động mê
hoặc bởi những giáo lư cao sâu huyền diệu
của các tông khác. Tiếp đấy là học Phạm Vơng
Kinh, rồi nghiên cứu Tịnh Độ Thập Yếu
và đọc Tịnh Độ Thánh Hiền Lục. Kẻ
thông minh th́ chẳng ngại ǵ xem nhiều sách của
Tịnh tông, mà cũng chẳng cần đặc biệt
v́ cái tiếng tăm mở mang Quốc Học[1]
mà phải học văn chương.
Kinh Phật, chú
giải và các trước thuật của cổ nhân
đều là văn chương. Hăy nên dạy cho họ suy
gẫm tường tận ư nghĩa của từng
lời lẽ, từng lời hỏi - đáp giữa
chủ và khách cũng như ư nghĩa cùng tột th́
suốt ngày xem kinh sách chính là suốt ngày tập tành văn
chương! Trước kia, pháp sư Nguyệt Hà
giảng kinh Hoa Nghiêm, lại thỉnh một vị lăo nho
dạy Quốc Văn, lại thỉnh một vị chuyên
giảng nói văn chương để giảng nghĩa
chữ. Quang nghe chuyện, không nghĩ [pháp sư Nguyệt
Hà] làm như vậy là đúng lắm, bởi lẽ kinh
chẳng phải là văn chương hay sao? Chú giải
chẳng phải là văn chương hay sao? Suốt ngày
xem kinh đọc chú giải, chẳng đủ là
phương pháp để tập luyện cách viết
văn hay sao? Chưa đầy một năm sau, do chi phí
quá tốn kém phải giải tán, bèn dời sang chùa Hải
Triều ở Hàng Châu. Sư có gởi thư mời
những người từng theo học [nơi học
viện cũ] đến học [tại học viện
mới]; do vậy Quang đem ư ấy nói với Sư.
Ông cho rằng hàng
bạch y làm thầy của tỳ-kheo-ni và giảng
giải giới luật chắc sẽ trái nghịch
với cấm chế của đức Phật; chỉ
cần [vị cư sĩ ấy] chẳng coi ḿnh là
thầy mà giữ địa vị đồng học, cùng
nhau nghiên cứu th́ trọn chẳng bị trở ngại
ǵ! Nhưng cần phải chú trọng thực hành,
đừng chỉ chú trọng học tập văn
tự. Văn tự chỉ là thứ dùng kèm thêm cho cái thân,
c̣n đức hạnh mới là cái gốc của con
người. Huống chi bọn họ đều chẳng
phải đang trong lứa tuổi thơ ấu; nếu
lấy [đường lối học tập] Quốc
Học, Quốc Văn như Trúc cư sĩ đă lập
để làm tông chỉ chủ yếu th́ sẽ thành
chương tŕnh của một trường học
[dạy chữ] thông thường, chứ không phải là
căn bản của một học viện nhằm
huấn luyện tu tŕ. Ông ta không hiểu rơ chuyện này cho
lắm, hăy nên đem lời Quang thưa rơ cùng ông ta, ắt
ông ta sẽ chẳng đến nỗi không nghĩ như
vậy là đúng!
Sau này, phàm hễ có ai
cầu xin soạn truyện kư, sẽ lấy cớ có
lời thề không viết tiểu truyện cho ai
để từ chối. Nếu không, kẻ ham danh ghét
thật sẽ hằng ngày cầu xin viết tiểu
truyện để mong khi chết đi được coi
là cao tăng, tức là đă biến giả thành thật,
khiến cho người ta đối với chuyện
thật cũng chê là giả tạo, Phật pháp sẽ
bị suy bại sát đất cũng đều do hạng
người thông minh ấy gây nên!
II. Tự
1. Lời tựa cho sách Danh Sơn Du
Phỏng Kư
Trí
thức của con người không nhờ vào học
vấn, lịch duyệt sẽ không thể nào khai thông
được! Nhưng những cuộc đất thánh
đạo tràng nơi danh sơn trong thiên hạ sẽ
dễ gây xúc động, phát khởi chí hướng “mong
thành thánh thành hiền” nơi con người nhất, có quan
hệ đối với chuyện lập thân, tu nghiệp,
thành đức, đạt tài cũng lớn lắm. V́
thế, xưa nay những người nhiệt tâm sẵn
chí “tự lập, lập người, tự lợi,
lợi tha” thường chẳng ngại nhọc nhằn
bươn bả tới thăm để mong những
cảnh ḿnh được trông thấy, những ǵ ḿnh
ngộ nhập sẽ bồi bổ thân tâm, mở mang, phát
khởi trí thức của chính ḿnh.
Trong số những
vị đi khắp nơi thời cổ th́ có ḥa
thượng Thiên Tuế Bảo Chưởng[2] vốn là người Trung Thiên Trúc,
sống tại Thiên Trúc khoảng năm trăm năm, vào
cuối đời Hán mới đến phương này.
Trải qua các thời Tam Quốc, hai triều Tấn (Tây
Tấn và Đông Tấn), Tống, Tề, Lương,
Trần, Tùy cho đến năm Hiển Khánh thứ hai
(657) đời Đường Cao Tông, Ngài đă một
ngàn lẻ bảy mươi hai tuổi mới nhập
diệt. V́ thế, phàm là những danh sơn, thánh
đạo tràng khắp Nam - Bắc [Trung Hoa], không đâu
Ngài chẳng đích thân đến thăm viếng và ở
lại nơi ấy. Đến cuối đời Minh,
Tử Bách tôn giả cũng đi thăm khắp các danh
sơn. Do Sư một ngày đi được hơn ba
trăm dặm nên tuy không thọ bằng ngài Bảo
Chưởng nhưng những nơi Sư đến
thăm cũng gần bằng ngài
Bảo Chưởng.
Trong giới Tăng - tục gần đây chỉ có cư sĩ Cao Hạc Niên là đi du lịch rộng xa nhất. Phàm tứ đại danh sơn, Ngũ Nhạc, Chung Nam, Thiên Thai, Nhạn Đăng, La Phù, Kê Túc, Vơ Đang, Vân Cư, Lô Nhạc, Hoàng Sơn đều đă từng tới một lần hoặc tới đôi ba lần. Phàm địa thế, t́nh h́nh nhân sự cùng những di tích cổ xưa, thắng cảnh, và đạo tràng, chùa miếu, cũng như tất cả những sự tích của các bậc cao tăng, danh sĩ ở những nơi ông ta đă đi qua đều chép lại đầy đủ dựa trên những điều thưa hỏi được. Một là nhằm để an ủi những kẻ do chẳng thể hành cước nên không cách nào biết được những dấu tích thù thắng tại các thánh đạo tràng, hai là có thể dùng làm một tài liệu hướng dẫn lớn lao cho hàng sơ cơ học Phật biết lối t́m thầy hỏi bạn.
V́ thế, trong Dân Quốc nguyên niên (1912), Phật Học Tùng Báo từng sao lục [và đăng tải những ghi chép này] để dâng tặng những người có cùng chí hướng. Đến nay, các vị cư sĩ Vương Nhất Đ́nh, Hứa Chỉ Tịnh, Nhiếp Vân Đài, Địch Sở Thanh, Giản Ngọc Giai lại muốn tập hợp những bài viết ấy thành một cuốn sách để độc giả được đọc toàn bộ. Điều này cũng chưa bao giờ chẳng phải là sự hướng dẫn ban đầu để dẫn người khác vào được biển Phật vậy!
2. Lời tựa tái bản Dược
Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công
Đức Kinh
Tâm
thể của Phật và chúng sanh… (cho đến) chỉ mong họ biết
được nguyên do mà thôi (đoạn này hoàn toàn
giống với bài tựa tái bản Dược Sư
Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh trong Tăng
Quảng Văn Sao, quyển ba).
Đoạn văn trên đây chính là lời tựa do tôi
viết cho ông Trương Thụy Tăng ở
Dương Châu khi ông ta tái bản cuốn kinh này vào
giữa Hè năm Nhâm Tuất, tức năm Dân Quốc 11
(1922). Ư nghĩa tổng quát của kinh cũng như nguyên
ủy lưu thông đă được tŕnh bày đại
lược [qua đoạn văn ấy].
Nay có một đệ
tử ở Thiểm Tây là Mă Côn Sơn cùng với một
đệ tử ẩn danh ở Lan Châu phát tâm lưu thông
kinh này. Món tiền do Côn Sơn tự bỏ ra và bạn bè
giúp đỡ tổng cộng là bảy trăm
đồng; món tiền do cư sĩ ẩn danh tự
bỏ ra và bạn bè giúp đỡ gộp chung thành ba
trăm đồng. Họ đem một ngàn đồng này
gởi đến Tô Châu, cậy Quang thay họ lo liệu
ấn tống. Côn Sơn chuyên sản xuất thuốc lá
kiểu Tây Dương tại Lan Châu nhiều năm, là
người cực chân thành, chuyên dốc, nhưng chưa
biết Phật pháp. Bốn năm trước, do một
đồng nghiệp người Thiểm Tây là Lư Tiên
Đào khuyên chỉ, bèn quy y Tam Bảo, ăn chay, niệm
Phật. Mùa Thu năm trước, xưởng chế
tạo đạn dược ở Lan Châu phát nổ. Hôm
ấy, những người cùng làm nghề sản xuất
thuốc lá tổ chức diễn tuồng ở lầu
Minh Thủy để cúng thần, hơn một trăm
người thuộc xưởng của Lư Tiên Đào
đều đi xem, chỉ có ḿnh đứa con của viên
Phó Kinh Lư ở lại xưởng. Hơn một trăm
người thuộc xưởng Côn Sơn cũng
đều đi vắng hết. Chuyện này cũng không
biết rơ nguyên do ra sao. Họ đi khỏi không lâu,
xưởng chế tạo đạn dược ở
ngoài thành phát nổ, nhà cửa trên mấy con
đường ở ngoài thành đều bị chấn
động, đổ nát, vô số người bị
thương! Trong xưởng của Tiên Đào chỉ có
căn pḥng nơi người con của viên Phó Kinh Lư
đang ở là không bị sụp đổ. Trong
xưởng của Côn Sơn, chỉ có gian pḥng thờ
Phật là vẫn đứng vững sừng sững,
kiếng cũng không nứt vỡ. Những nơi khác
đều sụp đổ hết. Do nhân duyên này, nhân
sĩ Lan Châu dần dần sanh ḷng tin tưởng. Côn
Sơn càng thêm tăng trưởng tín tâm.
Trong năm ngoái,
những cuộc đảo chánh quân sự nhiễu
nhương liên tiếp xảy ra, nhân dân khốn khổ
không thể nào diễn tả được. Do vậy,
[Côn Sơn và vị cư sĩ ẩn danh] phát tâm lưu
thông kinh này, mong rằng những người đọc
kinh này ắt sẽ chú trọng ḷng kính, giữ ḷng thành, tay
sạch, bàn sạch, ngồi ngay ngắn chẳng
lười nhác, dễ ngươi chút nào, như
đối trước thánh dung, đích thân nghe viên âm.
Lại phải giữ vẹn luân thường, trọn
hết bổn phận, ngăn giận, chặn dục,
đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều
lành th́ lợi ích ấy chẳng thể nào diễn tả
được. Nếu chẳng chí thành và chẳng trọn
hết bổn phận th́ sẽ được cảm
ứng nhỏ nhoi, chứ không phải là ḷng Từ của
đức Phật chẳng trọn khắp, [nguyên nhân là]
v́ tâm chẳng tương ứng với Phật vậy!
Đạo cảm ứng giống như gơ chuông. Gơ
mạnh th́ chuông kêu to, gơ nhẹ th́ chuông kêu nhỏ. Trong
đời thường có những kẻ do tiểu
cảm mà được đại ứng chính là v́ công
đức tu tŕ trong đời trước cảm nên. Tán
rằng:
Dược Sư Như Lai
Lưu Ly Quang,
Thệ nguyện rộng sâu
chẳng thể lường,
Hiển là sanh thiện, nhóm
phước khánh,
Mật là diệt ác, tiêu họa
ương.
Dẹp khổ ắt mong
sạch nhị tử,
Ban vui muôn đức trọn phô
bày,
Pháp giới thánh phàm cùng quy
mạng,
Nhờ ân mau chứng
được chân thường.
(Cuối Xuân năm Đinh Sửu, tức năm Dân Quốc 26 - 1937)
3. Lời
tựa cho tác phẩm Quảng Trường Thiệt
Pháp không
có tướng nhất định, hễ hợp căn
cơ th́ là tốt đẹp. Cùng là một pháp nhất
vị, nhưng đức Như Lai giảng nói bằng
nhiều phương cách. Giống như cỗ ngon quư báu
của bậc Đại Sĩ, nếu gặp
được người trưởng thành liền
dọn hết cả ra để họ được
ăn no. Nếu gặp trẻ thơ, do chúng chẳng
thể tự cắn nuốt được, ắt
phải thay chúng cắn xé nhỏ ra, mớm cho chúng, ngơ
hầu làm lợi cho thân tâm của chúng để chúng mau
được trưởng thành.
Cư sĩ Khổ Hạnh đă dùng những lời rơ ràng gần gũi để diễn tả đại lược về pháp môn Tịnh Độ phổ độ chúng sanh của Như Lai với ước mong làm cho những kẻ chưa phát tâm sẽ nhanh chóng sanh ḷng tin, để sau đó họ nghiên cứu các kinh, luận, trước thuật của Tịnh Độ sẽ được hưởng lợi ích thật sự. Hơn nữa, những lời đơn giản, rơ ràng như thế thật ra đă được tuyên dương bởi tướng lưỡi rộng dài của Như Lai, là đại pháp môn vô thượng viên đốn thành thủy thành chung để mười phương chư Phật phổ độ chúng sanh và chúng sanh trong chín giới viên thành Phật đạo. V́ thế, lấy từ ngữ Quảng Trường Thiệt (lưỡi rộng dài) làm tựa đề nhằm mong những ai chưa phát tâm hễ đọc đến sẽ liền phát tâm. Cố nhiên người đă nhập môn sẽ chẳng cần đến; nhưng cách thức cắn ăn hay mớm cho trẻ thơ th́ người nuôi nấng trẻ thơ vẫn cần phải t́m hiểu, suy xét. Tuy chính ḿnh chẳng cần đến, nhưng cũng không thể chẳng chuẩn bị cho người sơ cơ! (tháng Mười năm Quư Hợi, tức năm Dân Quốc 12 - 1923)
4. Lời
tựa ấn hành tác phẩm Tư Quy Tập
Pháp môn
Tịnh Độ lớn lao không ǵ ra ngoài được,
như trời che khắp, dường đất chở
đều. Trên là bậc Đẳng Giác Bồ Tát chẳng
thể vượt ra khỏi pháp này, dưới là tội
nhân nghịch ác cũng có thể dự vào trong ấy.
Thật đáng gọi là “pháp
môn tổng tŕ của tam thế chư Phật, là
đạo đặc biệt mầu nhiệm trong cả
một đời giáo hóa của đức Như Lai”.
Pháp môn này lớn lao, thâu nhiếp căn cơ rộng răi,
dùng sức ít mà đạt hiệu quả nhanh chóng,
nhưng thường bị những kẻ hơi thông
hiểu Tông - Giáo xem nhẹ, coi là pháp môn dành cho lũ ngu phu
ngu phụ tu tŕ, chẳng biết sự lớn - nhỏ,
khó - dễ giữa Phật lực và tự lực
chẳng thể dùng ngôn ngữ, văn tự để h́nh
dung được! Bởi lẽ, hết thảy các pháp
môn đều phải nương vào sức Giới -
Định - Huệ để tu tới địa vị
“nghiệp tận, t́nh không” th́ mới có phần liễu
sanh tử. “Nghiệp tận, t́nh không” há nói dễ dàng
ư? Đoạn Kiến Hoặc giống như cắt
đứt ḍng nước chảy xiết rộng bốn
mươi dặm, huống là Tư Hoặc ư? Dẫu
cho kiến địa cao sâu, hễ Phiền Hoặc
chưa đoạn th́ vẫn luân hồi y như cũ.
Nếu thọ sanh lần nữa th́ người lui sụt
trong vạn kẻ có đến mười ngàn,
người tăng tấn trong ức kẻ hiếm khi có
tới ba bốn người! Tự lực chẳng
đủ để nương tựa, dám khoe khoang trí
ḿnh, chẳng tùy thuận đạo thệ nguyện
nhiếp thọ của Như Lai ư?
Người tu pháp môn
Tịnh Độ chỉ cần có đủ ḷng tin chân
thật, nguyện thiết tha, chí thành khẩn thiết,
như con nhớ mẹ mà niệm, những hành vi trong
thường nhật đều chẳng trái nghịch
Phật pháp lẫn t́nh nghĩa thế gian th́ lúc lâm chung
sẽ được Phật tiếp dẫn văng sanh Tây
Phương. Dẫu là kẻ chưa đoạn
được Hoặc nghiệp mảy may nào, hễ
được đới nghiệp văng sanh th́ sở
đắc của kẻ ấy c̣n cao trỗi hơn
bậc A La Hán nghiệp tận t́nh không, v́ chủng tánh
bất đồng vậy! Huống hồ bậc đă
đoạn [được Hoặc nghiệp] th́ cần ǵ
phải nói nữa! Bởi lẽ, Phật lực chẳng
thể nghĩ bàn, pháp lực chẳng thể nghĩ bàn,
chúng sanh tâm lực chẳng thể nghĩ bàn. Hai sức
chẳng thể nghĩ bàn là Phật lực và pháp lực
cùng hợp lại khiến cho tự tâm lực
được hiển hiện trọn vẹn (loại
tự lực này rất khác với loại tự lực
chẳng cậy vào Phật lực và pháp lực), cho nên so với kẻ chuyên cậy vào
tự lực sẽ giống như hằng hà sa số
lần sự khác biệt vời vợi giữa trời và
vực. Do vậy biết: Chẳng thể đem
đạo lư của hết thảy pháp môn thông thường
để bàn luận pháp môn này được, bởi nó là
pháp môn đặc biệt. Tôi thường có một
cặp câu đối như sau:
Pháp môn quảng đại,
phổ bị tam căn, nhân tư cửu giới
đồng quy, thập phương cộng tán.
Phật nguyện hồng thâm,
bất di nhất vật, cố đắc thiên kinh
tịnh xiển, vạn luận quân tuyên.
(Pháp môn
rộng lớn, độ khắp ba căn, do vậy chín
giới cùng hướng về, mười phương
chung khen ngợi,
Phật
nguyện to sâu, chẳng sót một ai, nên được
ngàn kinh đều xiển dương, muôn luận cùng tuyên
nói).
Theo
phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa
Nghiêm, trọn hết các bậc Pháp Thân đại sĩ
trong Hoa Nghiêm thế giới hải như Thập Trụ,
Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập
Địa, Đẳng Giác, bốn mươi mốt
địa vị đều nhất trí tiến hành, vâng
theo lời Phổ Hiền Bồ Tát dạy, dùng công
đức của mười đại nguyện
vương cầu sanh Tây Phương nhằm mong viên măn
Phật quả. Những kẻ khoe khoang trí ḿnh, miệt
thị Tịnh Độ, tưởng chính ḿnh vượt
trỗi những vị Bồ Tát ấy, chính là mất trí
điên cuồng, cầu thăng hóa đọa, biến khéo
thành vụng!
Những kinh sách
hoằng dương Tịnh Độ nhiều khôn kể
xiết. Đại sư Như Sầm tập hợp
những ngôn luận của chư Phật, Bồ Tát, tổ
sư và những Tịnh nghiệp học nhân trong thời
gần đây (những vị tri thức trong
đời gần đây xưng là “học nhân” v́
trước đấy đă có Phật, Bồ Tát, các
vị tổ sư, xin đừng nghi ngại, kinh ngạc), đặt tên là Tư Quy Tập,
cậy Quang viết lời tựa. Quang lúc bé chẳng
nỗ lực, về già chẳng làm được ǵ,
chỉ đành viết ra những nghĩa lư chính ḿnh đă
tin tưởng trong suốt năm mươi chín năm cho
xong trách nhiệm, nhằm giăi bày ḷng ngu thành, mong cho
những người cùng hàng đều được sanh
về Tây Phương, dẫu bị những vị
đại trí huệ chê bai, thóa mạ đều chẳng
bận ḷng! Do vậy bèn ca rằng:
Ưng đương phát nguyện, nguyện văng
sanh,
Khách lộ, khê sơn, nhậm bỉ luyến,
Tự thị bất quy, quy tiện đắc,
Cố hương phong nguyệt hữu thùy tranh?
(Nẻo khách, suối non mặc người
luyến,
Hăy nên phát nguyện, nguyện văng sanh,
Tự ḿnh chẳng về, về liền
được,
Gió trăng quê cũ há ai giành?)
Xin những vị mong
nghĩ trở về [quê cũ] đều chú ư!
(Ba ngày trước
tiết Đông Chí năm Kỷ Măo, tức năm Dân
Quốc 28 - 1939)
5. Lời
tựa cho sự việc kính cẩn chép đại kinh Hoa
Nghiêm nhằm trọn hết ḷng hiếu thảo
Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh chính là do
đức Như Lai khi mới thành Chánh Giác đă xứng
theo pháp giới tánh và hết thảy các vị Pháp Thân
Đại Sĩ phá vô minh chứng pháp tánh thuộc bốn
mươi mốt địa vị nói ra sở chứng
của đức Như Lai và Bồ Đề giác
đạo tự sẵn có trong bản tánh của hết
thảy chúng sanh. Do vậy, kinh Hoa Nghiêm là vua trong Tam
Tạng, hết thảy các kinh đều lưu xuất
từ kinh này. Hàng phàm phu và Nhị Thừa tuy cùng hiện
diện trong Bồ Đề đạo tràng, rốt
cuộc chẳng thấy, chẳng nghe, v́ đấy chẳng
phải là cảnh giới của họ! Tuy phàm phu và
Nhị Thừa chẳng thấy chẳng nghe, nhưng
đây quả thật là pháp luân căn bản để
độ khắp trời người lẫn chúng sanh trong
sáu nẻo. V́ sao vậy? Hết thảy pháp môn đều
cậy vào tự lực để đoạn Hoặc
chứng Chân th́ mới liễu sanh tử. C̣n pháp môn
Niệm Phật chỉ cần trọn đủ ḷng tín
nguyện, tŕ danh hiệu Phật liền được
cậy vào Phật từ lực đới nghiệp văng
sanh. Chúng sanh đời Mạt chẳng dễ ǵ
đạt tới mức đoạn Hoặc chứng Chân,
bỏ một pháp môn này th́ đông đảo chúng sanh
sẽ chẳng có dịp thoát khổ!
Trong phẩm Nhập
Pháp Giới của kinh này, Thiện Tài đă viên măn tâm
Thập Tín, nghe theo lời đức Văn Thù dạy, tham
học với khắp các tri thức. Thoạt đầu
ở dưới ṭa của ngài Đức Vân bèn nghe pháp môn
Niệm Phật. Đến cuối cùng, tới chỗ
Phổ Hiền Bồ Tát, đức Phổ Hiền
liền dùng oai thần gia bị khiến cho sở
chứng của Thiện Tài bằng với Phổ
Hiền, bằng với chư Phật. Đấy gọi
là Đẳng Giác Bồ Tát. Đức Phổ Hiền bèn
khen ngợi công đức thù thắng nhiệm mầu
của Như Lai khiến cho Thiện Tài sanh ḷng vui
mừng, liền đó, Ngài dạy Thiện Tài phát
mười đại nguyện vương hồi
hướng văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới để mong viên măn Phật quả và khuyên hết
thảy các vị Pháp Thân đại sĩ trong Hoa Nghiêm
hải chúng. Phàm những vị thuộc về Hoa Tạng
hải chúng đều là các đại Bồ Tát thuộc
những địa vị Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa,
Đẳng Giác v.v… mà vẫn phải hồi hướng
văng sanh Tây Phương th́ mới có thể đích thân
chứng được Bồ Đề giác đạo
sẵn có trong cái tâm này, huống là những kẻ thấp
kém hơn ư? Nhưng theo chương Hạ Phẩm
Hạ Sanh của Quán Kinh, kẻ Ngũ Nghịch Thập Ác
lúc lâm chung tướng địa ngục hiện,
được thiện tri thức dạy niệm Phật
bèn niệm mười tiếng hoặc chỉ mấy
tiếng cũng đều có thể văng sanh Tây
Phương, được dự vào phẩm cuối.
Chẳng phải là kinh Hoa Nghiêm giảng về pháp “thành
Phật trong một đời” mà chỗ quy tông cuối
cùng lại gom về văng sanh Tây Phương đó sao? Các tri
thức Thiền - Giáo trong cơi đời há nên coi pháp môn
Niệm Phật là pháp quyền biến, Tiểu Thừa,
phương tiện, chẳng phải là đạo cứu
cánh ư?
“Hết thảy chúng sanh đều sẵn đủ
trí huệ của đức Như Lai, nhưng do vọng
tưởng chấp trước nên chẳng thể
chứng đắc. Nếu ĺa vọng tưởng,
chấp trước th́ Nhất Thiết Trí, Vô Sư Trí
liền được hiện tiền”. Do nghe nghĩa này nên hết thảy phàm
phu sẽ chẳng đến nỗi đề cao thánh
cảnh, nhưng lại cam phận phàm ngu. Do vậy
biết kinh này chính là pháp môn rốt ráo thành thủy thành
chung để mười phương tam thế chư
Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa
độ chúng sanh. Bất luận căn tánh như thế
nào đều phải nương theo đây để tu
tập, nhưng chỗ thiết yếu nhất chỉ là
một môn Niệm Phật. Ấy là v́ “toàn thể tánh
trở thành tu” nên bậc thượng thượng căn
chẳng thể vượt khỏi khuôn khổ này. Do “toàn
thể Sự chính là Lư” nên phường hạ hạ
căn cũng có thể đạt tới được.
Kinh này chính là cội nguồn của giáo pháp trong toàn bộ
Đại Tạng, là chỗ quy túc của hết thảy
pháp môn.
Cư sĩ Vưu
Dưỡng Ḥa ở Tô Châu tuy xuất thân từ gia đ́nh
phú quư, nhưng trọn chẳng có tập khí của bọn
mặc quần lụa nơn[3],
dốc ḷng tin tưởng Phật pháp, nghiêm túc trọn
hết đạo hiếu. Mẹ ông ta sợ con bị
tập tục xoay chuyển, nên khi bị bệnh nặng
sắp mất đă dặn con phải cung kính chép kinh Hoa
Nghiêm để mong con được huân tập, tiêm
nhiễm thành chủng tử, vĩnh viễn trở thành
gốc đạo, đồng thời là để trên báo
đáp Tứ Ân, dưới giúp cho Tam Hữu (Dục
giới, Sắc giới và Vô Sắc giới). Mẹ ông ta
đáng gọi là “khéo dùng ḷng Từ!” Trong thời kỳ
cư tang, hằng ngày ông ta cẩn thận chép kinh
để mong từ mẫu được tăng cao
phẩm sen và tiêu trừ ác nghiệp của bản thân.
Nếu chẳng phải là đă có thiện căn từ
đời trước th́ làm sao như thế
được?
Nay kinh đă chép xong, bèn cậy bạn phương ngoại[4] là đại sư Văn Đào xin Quang viết lời nêu rơ ư nghĩa bộ kinh để mong sau này những ai xem đến đều cùng sanh ḷng chánh tín. Trộm nghĩ: Ư nghĩa của kinh Hoa Nghiêm dẫu dùng mực nhiều như biển cả, đến tận cùng đời vị lai tuyên dương ư nghĩa của từng câu, từng chữ vẫn chẳng thể trọn hết được! Huống chi Quang là kẻ hời hợt, nông cạn, vô tri, làm sao có thể tán dương một hai điều cho được? Nhưng vẫn chẳng nên cô phụ ư ông ta nghĩ đến, do vậy bèn viết sơ lược đại ư những điều cương yếu và lợi ích để trao lại. Nếu có thể nương theo đó để tu hành th́ rốt ráo thành Phật c̣n đạt được, huống là những văn nghĩa khác ư? (Mồng Một tháng Sáu năm Mậu Th́n, tức năm Dân Quốc 17 - 1928)
6. Lời
tựa lưu thông phẩm Phổ Hiền Hạnh
Nguyện của Đại Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Nêu lên
những tông lớn trong các pháp do đức Như Lai
đă giảng trong suốt một đời Ngài th́ có
năm tông là Luật, Giáo, Thiền, Mật và Tịnh.
Năm tông này đều cùng hiển thị tam nghiệp
thân - khẩu - ư, tam học Giới - Định
-Huệ của đức Phật cũng như hết
thảy tam-muội, vạn đức. V́ thế, chẳng
thể đề cao hay hạ thấp, so sánh hơn -
kém được, hoặc chọn lọc, lấy - bỏ
được! Nhưng đối với sự tu tập
của từng người học th́ phải xét kỹ
pháp nào khế hợp với căn tánh của chính ḿnh
để tu. Thâm nhập một môn so ra đỡ tốn
sức hơn! Nhưng trong năm tông ấy, không tông nào
chẳng lấy Luật làm căn bản, lấy Tịnh
làm chỗ quy túc. Trong thời đức Phật tại
thế đă như vậy, huống nay đang là thời
đại Mạt Pháp ư?
Do pháp môn Tịnh
Độ thông trên thấu dưới, thích hợp khắp
ba căn, phàm - thánh cùng nương về, trên là
Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thể vượt ra
ngoài được, dưới là tội nhân Ngũ
Nghịch cũng có thể dự vào trong. Ấy là v́
hết thảy pháp môn đều cậy vào tự lực,
nếu chưa đạt đến mức “nghiệp
tận, t́nh không” sẽ chẳng thể liễu sanh thoát
tử; c̣n pháp môn Tịnh Độ kiêm cậy vào Phật
lực. Nếu đầy đủ ḷng tin chân thật,
nguyện thiết tha th́ sẽ có thể đới
nghiệp văng sanh. So sánh giữa hai pháp th́ sự khó - dễ
khác biệt vời vợi một trời một vực!
Xét đến duyên khởi của pháp này, quả thật là
từ trong kinh Hoa Nghiêm. Do kinh chưa dạy rơ về nhân
hạnh quả đức của Phật Di Đà, sự
trang nghiêm thù thắng của Tịnh Độ, sự tu
nhân chứng quả của hành nhân nên nhiều người
xem thường [Tịnh Độ], chẳng chịu
đề xướng.
Xưa kia, lúc
đức Như Lai mới thành Chánh Giác, đă cùng các
vị đại Bồ Tát trong Hoa Tạng thế giới
hải hỏi - đáp, nói ra các pháp nhân quả của
Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác,
Diệu Giác. Những vị dự hội đều là các
vị Pháp Thân đại sĩ đă phá vô minh, chứng pháp
tánh thuộc bốn mươi mốt địa vị
Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng,
Thập Địa, Đẳng Giác. Tuy nói đến pháp
môn Thập Tín, nhưng địa vị Thập Tín chưa
phá vô minh, chưa chứng pháp tánh, nên chẳng thể
dự hội được, huống là phàm phu, Nhị
Thừa ư? Cho đến hội cuối cùng, tức
phẩm Nhập Pháp Giới, Thiện Tài sau khi viên măn tâm
Thập Tín, nghe lời ngài Văn Thù dạy, liền tham
học với khắp các tri thức.
Thoạt đầu,
ở nơi tỳ-kheo Đức Vân nghe giảng pháp môn
Niệm Phật liền chứng Sơ Trụ, trở thành
Pháp Thân Đại Sĩ. Từ đấy tham học
khắp các tri thức, ở chỗ vị nào cũng có
sở chứng. Cuối cùng đến chỗ Phổ
Hiền Bồ Tát, được ngài Phổ Hiền khai
thị và được sức oai thần [của ngài
Phổ Hiền] gia bị, sở chứng bằng với
Phổ Hiền và bằng với chư Phật, trở
thành Đẳng Giác Bồ Tát. Đức Phổ Hiền
bèn nói kệ xưng tán công đức thù thắng nhiệm
mầu của Như Lai, khuyến khích Thiện Tài và Hoa
Tạng hải chúng cùng dùng công đức của
mười đại nguyện vương để
nhất trí tiến hành hồi hướng văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới nhằm mong viên
măn Phật Quả. Nhưng kinh Hoa Nghiêm trọn chẳng nói
đến thệ nguyện của đức Di Đà và
sự trang nghiêm trong Tịnh Độ, cũng như nhân
quả văng sanh, bởi lẽ các vị Đại Sĩ
ấy đều đă biết rơ, không cần phải
nhắc lại nữa!
Hơn nữa, kinh Hoa Nghiêm được dịch lần đầu dưới đời Tấn chỉ có sáu mươi quyển; lần dịch kế tiếp là vào đời Đường nhằm thời Vơ Tắc Thiên, gồm tám mươi quyển. Hai lần dịch này đều chưa trọn hết kinh văn, sau khi ngài Phổ Hiền nói kệ tán Phật, [pháp hội] chưa kết thúc mà kinh văn đă hết (trước kia không có giấy, kinh ở Tây Vực đều chép trên lá cây Bối Đa[5]. Do vậy chẳng chép dễ dàng hoặc có khi bị lược bớt. Hơn nữa, lá Bối dùng dây xâu lại có thể bị lạc mất. Do v́ lẽ này mà kinh văn chưa truyền trọn hết sang Trung Hoa. Nếu được đóng thành một quyển giống như kinh sách ngày nay th́ không mắc khuyết điểm này).
Đến năm Trinh
Nguyên 11 (799) đời Đường Đức Tông,
quốc vương Ô Đồ[6]
tại Nam Thiên Trúc tiến cống toàn văn phẩm
Nhập Bất Tư Nghị Giải Thoát Cảnh Giới
Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, gồm bốn
mươi quyển. Ba mươi chín quyển đầu
chính là phẩm Nhập Pháp Giới trong bản Hoa Nghiêm tám
mươi quyển, nhưng văn nghĩa tường
tận hơn. Quyển thứ bốn mươi th́ trong
hai bản dịch đời Tấn và Đường
đều không có. Phần này chính là phần kinh văn nêu
rơ sau khi ngài Phổ Hiền khen ngợi công đức
của Phật xong bèn khuyến tấn văng sanh Tây
Phương. Khi ấy, Thanh Lương quốc sư
cũng tham dự trong dịch trường, trước
đấy Ngài đă sớm đích thân soạn sớ sao
cho bản tám mươi quyển
để lưu truyền, Ngài bèn đặc biệt
soạn riêng một bản sớ cho quyển kinh này
để lưu truyền riêng. Ngài Khuê Phong viết lời
sao để xiển dương
rộng răi thêm. Ngài lại soạn sớ cho toàn bộ kinh
văn trong bốn mươi quyển. Trải qua nhiều
cuộc tang thương bị thất truyền đă lâu.
Gần đây, [bản sớ giải ấy]
được đưa từ Đông Doanh (Nhật
Bản) về lại Trung Hoa.
Cho nên biết một
quyển kinh này chính là phần quy túc của toàn bộ kinh
Hoa Nghiêm. Trong Hoa Nghiêm thế giới hải[7] có vô
lượng vô biên cơi Tịnh Độ, nhưng ắt
phải lấy cầu sanh về Tây Phương làm
hạnh để viên măn Phật quả; đủ
biết một pháp niệm Phật cầu sanh Tây
Phương vốn bắt nguồn từ hội Hoa Nghiêm.
Nhưng do phàm phu, Nhị Thừa chẳng dự hội
này, không cách chi vâng nhận được, cho nên trong
hội Phương Đẳng, đức Phật mới
v́ khắp hết thảy phàm phu, Nhị Thừa và các
Bồ Tát, tuyên nói kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô
Lượng Thọ Phật, kinh A Di Đà, khiến cho
họ đều biết nhân hạnh quả đức
của Phật Di Đà, sự trang nghiêm thù thắng
của Tịnh Độ, sự tu nhân chứng quả
của hành nhân, ngơ hầu hết thảy phàm phu đầy
dẫy triền phược và hàng Nhị Thừa đă
đoạn Kiến Hoặc, Tư Hoặc cùng với
bậc Pháp Thân Đại Sĩ đă phá Vô Minh Hoặc
đều cùng thoát khỏi cơi Ngũ Trược này, sanh
lên chín phẩm sen trong cơi kia ngay trong đời này
để tấn tu dần dần măi cho đến khi viên
măn Bồ Đề mới thôi!
Pháp Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ lớn lao thay! Mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, thành thủy thành chung đều nhờ vào đây. Dẫu muốn tán dương trọn hết kiếp cũng chẳng thể cùng tận. Bạn tôi là Dật Nhân[8] thường tụng kinh này, muốn in ra rộng răi, Quang khuyên nên in toàn bộ Tịnh Độ Ngũ Kinh để cho người ta hiểu rơ nguyên do của việc hồi hướng văng sanh dạy trong kinh này th́ dù Sự hay Lư, dù nhân hay quả mỗi mỗi đều rơ ràng, trọn chẳng áy náy ǵ nữa! Do Sư đă trót phát nguyện, cho nên in trước một vạn cuốn; sau đấy sẽ chuyên in Tịnh Độ Ngũ Kinh. Bởi vậy, tôi thuật bày duyên khởi của kinh này và Tịnh Độ Ngũ Kinh như thế đó! (ngày Rằm giữa Xuân năm Bính Tư Âm Lịch, tức năm Dân Quốc 25 - 1936).
7.
Lời tựa cho tác phẩm Hám Sơn
Đại Sư Niên Phổ Sớ
Mạnh
Tử nói: “Cùng tắc
độc thiện kỳ thân, đạt tắc kiêm
thiện thiên hạ” (hễ c̣n nghèo cùng th́ giữ cho
riêng ḿnh thiện, hễ hiển đạt th́ sẽ làm cho
thiên hạ cùng thiện). Đây là lời luận
định dựa theo pháp thế gian. Nếu luận theo
Phật pháp, khi hiển đạt, cố nhiên nên làm cho
người khác cùng được thiện, nhưng trong
khi nghèo cùng vẫn có thể làm cho người khác
được thiện. Nghiêm tŕ giới luật, đôn
đốc luân thường, lấy thân làm gương
để đốc thúc người khác, khiến cho
hết thảy mọi loài đều nh́n theo bắt
chước làm lành. Đợi khi cái tâm vui sướng
hướng theo đă dấy lên rồi, bèn dạy cho
họ biết sự lư “nhân quả ba đời, luân
hồi lục đạo, tâm vốn là Phật nhưng
phải do nhân duyên niệm Phật văng sanh th́ mới
đích thân chứng được”. Phàm những kẻ
hữu tâm, không ai chẳng vui vẻ thuận theo. V́ thế
các bậc cao tăng đời trước đi
đến đâu cũng thường có nhiều
người quy y, so với sự giáo hóa cai trị của
nhà vua c̣n tạo lợi ích sâu đậm hơn.
Vào cuối đời
Minh, kỷ cương của vương triều suy
đồi, đại thần không có quyền hành,
những kẻ nắm quyền đều là bọn thái
giám vô tri vô thức. Kẻ gian ác ỷ quyền làm
chuyện tệ hại, kẻ mang ư nguyện chân thật
th́ thiếu tài trí để lập phương cách
[cứu văn] đến nỗi dân khốn đốn,
nước nguy ngập, hết cả thuốc chữa! Hám
Sơn, Tử Bách, Liên Tŕ, Diệu Phong cùng xuất hiện
trong thời ấy, ngầm giúp cho đạo b́nh trị,
thầm cải thiện cuộc sống nhân dân rất
lớn. V́ hoằng pháp, ngài Hám Sơn bị vu cáo, bị
đày đi làm lính thú[9]
ở Quảng Châu. Ngài đă cứu nhân dân đất
Việt (Quảng Đông), giữ cho xă tắc tồn
tại lâu dài vừa sâu vừa xa. Nếu ngài Hám Sơn
chẳng bị đày đi làm lính thú ở Quảng Châu,
dân Quảng châu đă sớm lâm vào cảnh hiểm, tạo
thành mối lo cho nước nhà. Những chuyện như
dẹp bỏ thuyền chặn xét thâu thuế, dẹp yên
sự nổi loạn của dân chúng, đem lại ḥa b́nh cho Khâm Châu v.v… đều do Sư khuyên
nhủ một buổi mà giải quyết xong. Nếu
chẳng phải là bậc thừa nguyện thị
hiện giáng sanh cứu dân trong cơn nước lửa
th́ làm sao đạt được như thế? Các
vị cư sĩ như Diệp Ngọc Phủ v.v…
lập chùa Trạm Sơn ở Thanh Đảo, đấy
chính là chỗ ngài Hám Sơn do hoằng pháp mà bị vu báng.
Nghĩ đến đức sâu của ngài Hám Sơn, bèn
đặc biệt in bộ Niên Phổ Sớ, ngơ hầu
sau này ai đọc đến sẽ đều nức ḷng
vậy!
8.
Lời tựa cho tập sách Khuyến Giới
Sát Phóng Sanh Văn
Sự
t́nh sát sanh ăn thịt thê thảm lắm thay, lại c̣n
di họa vừa sâu vừa xa! Con người và loài vật
đều cùng bẩm thụ sự sanh thành trưởng
dưỡng của trời đất mà sống, cùng
được hưởng cái thân huyết nhục, cùng có
tánh linh tri, cùng biết tham sống sợ chết,
hướng lành tránh dữ, quyến thuộc đoàn
tụ th́ vui sướng, ly tán bèn đau xót,
được ban ân th́ cảm ơn, bị làm khổ th́
ôm ḷng oán hận. Mỗi một điều đều
giống như nhau. Hiềm rằng loài vật do sức ác
nghiệp đời trước phải đọa làm súc
sanh, h́nh thể khác biệt, miệng chẳng thể nói
được! Lẽ ra con người phải
thương chúng nó bị đọa lạc, mong cho chúng nó đều
được sống yên vui. Sao lại nỡ ḷng v́ chúng
nó h́nh dạng khác biệt, trí lực thấp kém, bèn xem chúng
như thức ăn, cậy vào trí lực, tài lực
của chính ḿnh để vây bắt khiến chúng nó
chịu nỗi khổ cùng cực “dao chặt, nung nấu”
nhằm sướng miệng, thỏa bụng ta trong chốc
lát vậy thay?
Kinh dạy: “Hết thảy những loài có
mạng sống, không một loài nào chẳng yêu mến
thọ mạng”. Cứ từ ta suy ra, ắt sẽ
hiểu, đừng giết, đừng đánh
đập. Ông Hoàng Sơn Cốc nói:
Thịt ta, thịt chúng sanh,
Tên khác, thể vốn
đồng,
Vốn cùng một chủng tánh,
Chỉ thân xác khác nhau,
Khổ năo bọn chúng chịu,
Béo ngọt ta hưởng riêng,
Chớ đợi Diêm
Vương xử,
Tự suy ắt biết mà!
Chỉ
v́ con người chẳng biết đặt ḿnh vào hoàn
cảnh ấy để xét lại, đến nỗi
đem chuyện khổ sở cùng cực, thảm thiết
cùng cực giáng xuống thân loài vật mà ḷng vui
sướng, tự bảo ḿnh có phước, chẳng
biết phước thọ đă vun bồi từ
đời trước sẽ bởi đấy mà dần
dần bị tiêu diệt, trong vị lai sẽ đời
đời phải hứng chịu những nỗi khổ
độc chẳng có lúc nào xong! Nếu trong lúc sát sanh
ăn thịt mà nghĩ đến chuyện này, dẫu có
kẻ đem cái chết uy hiếp buộc phải sát sanh
ăn thịt, vẫn chẳng dám làm!
Trong niên hiệu
Đồng Trị - Quang Tự nhà Thanh, tiên sinh Lương
Kính Thúc ở Phước Châu đă soạn Khuyến
Giới Lục, ghi chép những quả báo nhăn tiền do sát
sanh. [Trong sách ấy có chép truyện] huyện lệnh
Bồ Thành là ông X… kiêng sát sanh đă lâu, nhưng bà vợ
tánh nết bạo ngược, hung hăng, lại tham
ăn tục uống, hằng ngày lấy chuyện giết
mổ chúng sanh làm điều khoái trá. Gặp ngày sinh
nhật, sai đầu bếp chuẩn bị đầy
đủ sẵn. Dưới bếp, lợn, dê lủ
khủ, gà, ngỗng cả bầy, vươn cổ kêu ai
oán, sẽ đều bị giết sạch. Ông ta trông
thấy, thương xót, bảo vợ: “Đúng hôm sinh
nhật bà, chúng nó sẽ lâm vào tử địa, lẽ ra
nên phóng sanh để cầu phước thọ”. Bà vợ
trả treo: “Nếu tuân theo lời dạy, cấm nam
nữ chung đụng, kiêng sát sanh th́ mấy chục
năm sau nhân loại tuyệt diệt, khắp thiên hạ
đều là cầm thú! Ông đừng thốt lời
lẩm cẩm ấy nữa! Tôi chẳng bị kẻ khác
gạt đâu!” Ông ta biết không thể khuyên răn
được, thở dài bỏ đi.
Đêm hôm ấy bà
vợ ngủ say, bất giác mộng thấy thân đi
xuống bếp, thấy đầu bếp mài dao xoèn
xoẹt, bọn tôi trai tớ gái đứng vây quanh xem.
Chợt thấy hồn ḿnh hợp làm một với thân
lợn. Gă đầu bếp trước hết trói
chặt bốn vó lợn, đặt lên một cái ghế
gỗ to, chẹn đầu lợn, cầm dao bén chọc
vào yết hầu lợn, đau thấu tâm can. Lại nhúng
vào nước sôi sùng sục, cạo lông khắp thân,
đau khắp ḿnh mẩy. Lại xẻ từ cổ
xuống đến bụng, đau đớn cùng cực
khó chịu đựng được. Hồn bèn cùng
với ruột gan tan nát, cảm thấy bồng bềnh
không nơi nương tựa. Một lúc lâu sau lại
thấy gá vào thân dê, sợ hăi tột cùng, gào lên cuồng
loạn, nhưng bọn tôi trai tớ gái vẫn ngây ngô
cười hềnh hệch như thể không một
đứa nào thấy nghe ǵ. Nỗi thảm do bị
cắt xẻ nơi thân dê ấy c̣n gấp bội lần
thân lợn. Rồi lại cắt cổ gà, mổ vịt,
không con nào [bị làm thịt, bà ta] chẳng đích thân
hứng chịu [nỗi khổ].
Mổ xẻ khắp
loạt rồi, vừa mới hơi hoàn hồn th́ một
người đầy tớ già cầm một con cá chép
vàng óng ánh đến. Hồn bà ta lại nhập vào thân cá,
nghe một đứa tớ gái vui vẻ hô: “Phu nhân khoái
ăn món này lắm, bà ta đang ngủ say. Hăy mau giao cho nhà
bếp làm món [canh] cá viên để làm món điểm tâm!”
Liền có người cạo vảy, lóc mật, chặt
đầu, vạt đuôi. Khi cạo vảy th́ giống
như bị tùng xẻo, khi cắt bỏ mật th́ như
bị mổ bụng. Rồi lại bị đặt lên
thớt, phầm phập băm vụn ra. Khi ấy, cứ
mỗi nhát dao là một lần đau đớn, giống
như đă hóa thành trăm ngàn vạn ức thân hứng
chịu h́nh phạt lăng tŕ vậy! Tận hết
sức hét lên như điên cuồng mới tỉnh
ngủ, con hầu bé bước vào thưa: “Món cá viên đă
nấu xong, mời phu nhân dùng điểm tâm”. Liền
lập tức bảo bỏ đi. Hồi tưởng
lại cảnh sợ hăi, mồ hôi đẫm như
mưa, do vậy dặn đầy tớ băi bỏ
tiệc tùng. Ông cật vấn cặn kẽ, bà bèn thuật
chuyện đầy đủ. Ông cười nói: “Bà
một mực không chịu tin Phật. Nếu chẳng
hứng chịu các nỗi khổ năo, làm sao có thể buông
dao đồ tể xuống được?” Bà vợ
chỉ lắc đầu không nói. Từ đấy thôi
ăn mặn mà ăn chay cùng giữ giới kiêng sát sanh.
Đấy là chuyện trong niên hiệu Gia Khánh.
H́nh thể giữa
người và vật do tội hay phước mà sai khác.
Đă may mắn được làm người th́ phải
nên thương xót loài vật cùng mang cái thân máu thịt này,
cùng có tánh linh tri này mà t́m cách cứu vớt, che chở
để bọn chúng thoát ĺa sự giết chóc th́
người ấy đời đời sẽ
được làm người. Nếu lại c̣n có thể
tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương th́
sẽ cậy vào sức từ tâm không giết ấy mà
sẽ từ tạ Sa Bà măi măi, mau thoát nỗi khổ luân hồi,
cao đăng An Dưỡng, vĩnh viễn hưởng
niềm vui chân thường. Nếu coi loài vật là
thức ăn rồi mặc t́nh tàn sát th́ khi một hơi
thở ra không hít vào được nữa, thần
thức sẽ đọa trong loài ấy, dẫu có hối
cũng chẳng ích ǵ!
Hơn nữa, vị
phu nhân [được nhắc đến trong câu chuyện
trên đây] tánh t́nh tàn nhẫn, hung ác, trọn chẳng
thể đem t́nh lư khuyên nhủ được, nhưng do
một đêm nằm mộng liền thôi ăn mặn mà ăn
chay, kiêng giết, phóng sanh. Do vậy biết rằng con
người và loài vật vốn không hai. Đời
sống giống như giấc mộng, sự - lư
tương đồng. Nếu chẳng mau chóng sửa
đổi tâm trước, khó khỏi hứng chịu
quả báo sau này. Hễ sanh làm dị loại th́ đời
đời kiếp kiếp thường bị giết
chóc, muốn lại được làm thân người,
trọn chẳng có lúc nào! V́ thế, sau khi nằm mộng
bèn liền giác ngộ. Do [đích thân cảm nhận]
nỗi khổ thảm khốc, chỉ sợ đời
sau phải chịu đựng lần nữa. Nhưng
vị phu nhân ấy trong đời trước vốn có
thiện căn lớn lao nên mới lấy được
người chồng từ thiện, nhưng v́ mê muội
sâu nặng nên trải qua mấy chục năm hun đúc
vẫn chẳng thể cảm hóa được bà ta.
Nếu chẳng nằm mộng thấy như thế th́
nỗi khổ trong tương lai sẽ chẳng thể
nào nói được nổi!
Kính khuyên người đời ai nấy đều nghĩ đến điều này th́ sẽ thấy hết thảy các thứ thịt giống như thịt của chính ḿnh. Dẫu bị uy hiếp, dùng cực h́nh khống chế vẫn chẳng dám ăn, huống hồ chẳng bị ai sai khiến ư? Quan Đạo Doăn xứ Cối Kê là Hoàng Hàm Chi bẩm tánh nhân từ, ăn chay thờ Phật, do thấy gần đây thiên tai nhân họa liên tiếp xảy ra, nguyên do phần lớn là do sát sanh ăn thịt mà khởi. Do vậy liền viết cuốn Khuyến Giới Sát Phóng Sanh Văn (văn khuyên kiêng giết, phóng sanh) bằng thể văn Bạch Thoại, cho đúc bản kẽm để lưu truyền nhằm mong độc giả đều cùng phát khởi tấm ḷng trung hậu, khoan dung, trắc ẩn, không nghĩa nào chẳng rơ, không điều nghi chẳng cởi gỡ. Lại c̣n được pháp sư Đế Nhàn thuộc chùa Quán Tông ước theo nghĩa “đồng thể duyên sanh” và ư chỉ của các kinh Phạm Vơng, Lăng Nghiêm, Lăng Già v.v… để viết lời tựa, c̣n Quang th́ dựa theo t́nh lư và những sự thực trong cơi đời gần đây để phụ họa thêm, ngơ hầu những ai biết yêu thương chính ḿnh sẽ đều cùng yêu thương loài vật (mùa Xuân năm Dân Quốc 13 - 1924)
9.
Lời tựa quyên mộ lập hội
Một Vạn Người Kết Duyên Cùng Sanh Tây
Phương của chùa Kim Đài tại Đan Dương
Đức
Đại Giác Thế Tôn thương xót chúng sanh mê trái
tự tâm, luân hồi lục đạo trải kiếp lâu
xa, không được cứu vớt, không chỗ quay
về, chịu các thứ khổ sở, cay đắng
không thể thoát khỏi. Do vậy, dấy ḷng Vô Duyên
Từ, vận ḷng Đồng Thể Bi, thị hiện
giáng sanh trong thế gian, thành Đẳng Chánh Giác, thuyết
pháp bốn mươi chín năm, giảng kinh hơn ba
trăm hội. Trong thời gian ấy, do tùy theo căn
cơ mà lập giáo sai khác, do duyên mà pháp khác biệt. Đại,
Tiểu, Thiên, Viên, Quyền, Thật, Đốn, Tiệm,
thảy đều thuận theo cơ duyên khiến cho
mỗi căn cơ đều được lợi ích.
Nhưng trong số ấy, t́m lấy một pháp thích
hợp cả ba căn, thâu tóm trọn vẹn lợi
căn lẫn độn căn, thực hiện dễ mà
thành công cao, dùng sức ít mà đạt hiệu quả nhanh
chóng, chẳng đoạn Hoặc nghiệp mà
được dự vào Hải Hội, nhất định
ra khỏi luân hồi ngay trong một đời này th́ không
ǵ thù thắng siêu tuyệt bằng “tín nguyện niệm
Phật cầu sanh Tây Phương!” V́ thế, các kinh
Đại Thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa v.v… các vị
đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền v.v…
các vị đại tổ sư như Mă Minh, Long Thọ
v.v… đều cùng cực lực tán thán, khuyên khắp
hết thảy mọi người tu tŕ.
Tới khi đại
giáo được truyền sang Đông, Viễn công
đại sư ẩn cư tại Lô Sơn, sáng lập
Liên Xă, hoằng dương, lưu truyền rộng răi pháp
này. Lúc kết xă lần đầu tiên, cao tăng,
đại nho dự hội gồm một trăm hai
mươi ba vị. Nếu tính suốt đời Ngài,
trong ba mươi mấy năm, những người tham
dự Liên Xă niệm danh hiệu Phật, được
tiếp dẫn văng sanh nhiều khôn kể xiết! Từ
đấy về sau, đời nào cũng có cao nhân
hoằng dương Liên tông, hướng dẫn làm lợi
hàm thức. Trong thời hai vua Tống Thái Tông và Tống
Chân Tông, pháp sư Tỉnh Thường trụ tŕ chùa Chiêu
Khánh ở Tây Hồ, tỉnh Chiết Giang, hâm mộ di phong
Lô Sơn, kết Tịnh Hạnh Liên Xă. Văn Chánh Công
Vương Đán là người quy y đầu tiên,
trở thành người xướng suất hướng
dẫn. Phàm là những vị quan to, hạng quyền
thế, học sĩ đại phu xưng là đệ
tử dự vào liên xă cũng được một
trăm hai mươi mấy vị. Hàng sa-môn lên đến
mấy ngàn, c̣n thường dân khó ḷng kể xiết. Sau này
có Lộ Công Văn Ngạn Bác làm quan trải bốn
đời vua Nhân Tông, Anh Tông, Thần Tông, Triết Tông [nhà
Tống] ra vào làm quan, làm tướng năm mươi
mấy năm, làm quan đến chức Thái Sư,
được phong là Lộ Quốc Công, b́nh sinh dốc
ḷng tin tưởng Phật pháp. Tuổi già càng dốc
sức hướng về đạo, chuyên tâm niệm
Phật chưa từng lười nhác chút nào, cùng pháp
sư Tịnh Nghiêm ở kinh đô lập hội
mười vạn người cầu sanh Tịnh
Độ. Trong thời ấy, đa số hàng sĩ
đại phu được ông giáo hóa; ông thọ
đến chín mươi hai tuổi, niệm Phật qua
đời. Ông có làm một bài tụng như sau:
Tri quân đảm khí đại
như thiên,
Nguyện kết Tây
Phương thập vạn duyên,
Bất vị tự thân cầu
kế hoạt,
Đại gia tề
thượng độ đầu thuyền.
(Biết
anh gan lớn bằng trời,
Tây
Phương xin hăy kết mười vạn duyên,
Chẳng
nhằm tính kế sống riêng,
Mọi
người đều đă bước lên đầu
thuyền)
Chùa Kim
Đài là chốn thù thắng ở Đan Dương, là
đạo tràng Tịnh Độ. Thoạt đầu là
đạo quán[10],
chính là chỗ Thầm Mẫu[11]
đời Tấn tu luyện bay lên vậy. Đến
đời Tống đổi tên thành Tiên Đài Quán. Từ
đời Tống đến đời Thanh có lúc hưng,
lúc suy khác nhau. Trong niên hiệu Hàm Phong, bị đốt
trụi trong chiến tranh trở thành khoảng đất
trống. Đến giữa niên hiệu Đồng
Trị, đại sư Bảo Lâm và bốn người
cùng chí hướng vân du đến nơi đây bèn kết
lều tranh để ở, dần dần lập Liên Xă,
tiếp đăi người lui tới tu tập. Đến
năm Quang Tự 23 (1897), xây dựng đại
điện. Do vậy, điện đường, liêu xá
mới hơi hoàn bị, kham làm nơi cho Tăng chúng an
trụ tu hành. Tông chỉ của họ là chuyên tu Tịnh
nghiệp cầu lên thượng phẩm, v́ thế
đặt tên chùa là Kim Đài (đài vàng).
Năm Dân Quốc
thứ năm (1926) đặc biệt lập ra quy
ước, vĩnh viễn biến chùa thành thập
phương thường trụ, sai pháp đồ là
Huệ Môn,Tâm An, Học Tài, Bồi Căn v.v… nối
tiếp làm Trụ Tŕ. Học tṛ Sư là Phổ
Đạo, sau khi xuất gia, tham yết khắp các danh
sơn, đến tận Ấn Độ. Phàm những nơi
thánh tích rành rành của đức Thích Ca đều
đến lễ bái, gặp gỡ cao nhân thật
nhiều. Lúc trở về thỉnh được một
bức tượng Phật bằng ngọc, mấy viên
chân thân xá-lợi của Như Lai, đáng gọi là “mộ
đạo, trọng pháp”, chẳng sợ gian nan, cay
đắng.
Trụ Tŕ hiện
thời là Bồi Căn, muốn lập mấy gian
Niệm Phật Đường để làm chỗ tinh
tấn tu tŕ Tịnh nghiệp quanh năm. Lại lo chùa
không có tài sản cố định, sau này sẽ khó ḷng duy
tŕ vĩnh viễn, cũng như muốn cho khắp
những ai hữu duyên đều được thấm
nhuần pháp lợi, thẹn chẳng có đạo phong
như Lô Sơn, Chiêu Khánh, lại chẳng có sức của
một vị thầy nghiêm túc như Lộ Công. Do vậy
bèn châm chước, lập ra hội Một Vạn Người
Kết Duyên. Phàm những ai gia nhập hội đều
bỏ ra một đồng, dùng công đức của
một vạn người để tậu hết
ruộng đất, lấy hoa lợi thu được
hằng năm để cung cấp chi phí cơm áo cho các
vị sư niệm Phật, ngơ hầu có cái vốn
để tu tŕ, hành đạo không bị trở ngại,
suốt đời quy mạng, dốc ḷng thành cho
đến hết báo thân, thoát Sa Bà, sanh về Cực
Lạc, vượt ḍng phàm, dự vào hội thánh,
đều do một vạn người thành tựu.
Chế ra một
tấm bảng h́nh hoa sen ghi tên hết những
người bỏ tiền ra, treo hai bên vách của Niệm
Phật Đường để mong họ vĩnh
viễn được hưởng Phật quang,
thường nghe Phật hiệu. Do Phật lực, pháp
lực, sức tu tŕ cầu nguyện khẩn thiết
của chúng tăng mà trong đời hiện tại
tội chướng sẽ ngầm tiêu, các duyên thuận
thảo, thích hợp, sẽ hưởng năm điều
phước như Cơ Tử đă luận, trọn
đủ tam đa như người được
sắc phong ở đất Hoa đă chúc tụng[12].
Lâm chung sẽ được Phật tiếp dẫn văng
sanh Tây Phương, giă biệt tám sự khổ trong nhân
gian, ĺa năm thứ suy trong đường trời[13].
Từ đấy thường hầu Phật Di Đà,
hằng dự vào hải chúng, nghe viên âm mau thấu hiểu
tự tánh, thấy diệu cảnh triệt chứng duy
tâm. Niềm vui ấy chẳng thể nào ví dụ
được! Những người giúp cho kẻ khác
được thành tựu bằng cách bỏ ra một
bữa ăn của chính ḿnh để giúp cho người
khác thành tựu sẽ hưởng quả báo đến
tận đời vị lai trọn chẳng có lúc nào
hết. Có ai muốn siêu độ tiên vong và tự cầu
văng sanh th́ xin hăy ghi phương danh, cùng đăng tên trên
bảng sen.
10.
Lời tựa cho Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xă
Lưu Thông Bộ (bộ
phận phát hành kinh sách của Phật Giáo Tịnh
Nghiệp Xă)
Phật
pháp là đèn đuốc cho đêm dài vô minh, là thuyền bè
trong biển khổ sanh tử. Giữ thân, xử thế,
mong thành thánh, thành hiền, cùng lư, tận tánh, liễu sanh
thoát tử, không ǵ chẳng được [Phật pháp]
giúp cho thành tựu từ đầu cho đến cuối.
Ấy là v́ đức Như Lai thuyết pháp tùy thuận
căn cơ của chúng sanh. Đối với kẻ
căn cơ nông cạn th́ Ngài dạy giữ vẹn luân
thường, trọn hết bổn phận, dứt ḷng
tà, giữ ḷng thành, đừng làm các điều ác, vâng
giữ các điều lành, thâm nhập sâu dần ắt
sẽ có thể đạt đến mức tam nghiệp
thanh tịnh, nhất tâm viên minh. Đối với kẻ
căn cơ sâu th́ Ngài liền giảng diệu lư tâm tánh
khiến cho họ lập tức ngộ nhập, nhưng
công phu tu tŕ vẫn chẳng rời những chuyện
giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn
phận v.v… Đấy gọi là: “Pháp không cạn - sâu. Cạn hay sâu do người.
Người căn tánh viên đốn nhận lănh pháp th́
không pháp nào chẳng viên”.
Những kẻ chỉ
chú trọng bàn nói điều huyền lẽ diệu,
miệt thị sự tướng nhân quả và pháp môn
Niệm Phật đều là v́ chưa thể thấu
hiểu cặn kẽ: Đức Như Lai chứng
đắc triệt để tâm tánh, thành Bồ Đề
đạo đều do trải bao kiếp tu các
điều lành, tích công lũy đức mà ra! Muốn
chứng tâm tánh để thành giác đạo, nếu
chẳng thực hiện từ “giữ vẹn luân
thường, trọn hết bổn phận, dứt ḷng
tà, giữ ḷng thành, đừng làm các điều ác, vâng
giữ các điều lành” th́ có khác nào chim không cánh lại
muốn bay, cây không rễ lại muốn xum xuê đó ư?
Quang lạm dự vào Tăng
chúng đă năm mươi năm, chẳng có ích ǵ thế
gian lẫn xuất thế gian, thường nghĩ thế
đạo, nhân tâm ngày càng đi xuống, tính lưu thông thiện
thư và những sách Phật đơn giản, gần
gũi để mong văn hồi. Năm Dân Quốc thứ
bảy (1918), bèn khắc in An Sĩ Toàn Thư. Sách này
dựa ngay trên nhân quả trong thế gian để làm sáng
tỏ chân lư của đạo Nho, đạo Thích.
Người trí đọc đến sẽ lên thẳng
bờ giác, kẻ ngu xem tới cũng thoát đường
mê. Đến năm Dân Quốc thứ mười (1921), có
người bạn khuyên nên in theo dạng rút nhỏ
để lưu truyền khắp cả nước;
nhưng do người hèn kém, đức mỏng manh,
chỉ quyên mộ in được năm sáu vạn
bộ. Sau đấy lại có người tiếp tục
in ra, cũng được năm sáu vạn bộ. Ấn
Quang Văn Sao cũng in mấy vạn.
Ngoài ra những
loại sách chỉ có một cuốn th́ cũng có tới
mười mấy thứ tùy duyên in ra để biếu
tặng. Cuốn Di Đà Kinh Bạch Thoại Chú của ông
Hoàng Hàm Chi đă in mấy vạn bản. Tâm Kinh và Triêu
Mộ Công Khóa Bạch Thoại Chú (chú giải khóa tụng
sáng tối bằng thể văn Bạch Thoại) cũng
là những sách được người học Phật
thích xem. Cuốn Quán Âm Bổn Tích Tụng của Hứa
Chỉ Tịnh đă in được tám vạn bản.
Lịch Sử Cảm Ứng Thống Kỷ đă in sáu
vạn bản. Về sau này, bộ sách này sẽ
được in ra đến mấy chục trăm
vạn bản, quả thật là một bộ sách sẽ
tạo căn cứ lớn lao cho sự văn hồi thế
đạo nhân tâm. Các loại sách ấy đều có
lưu lại Chỉ Bản, hoặc hai ba bốn bức
khác nhau, để mong sau này sẽ được tiếp
tục in. Quang già rồi, muốn diệt tung tích, ẩn
náu lâu dài để đợi lúc lâm chung, nhưng các vị
Vương Nhất Đ́nh, Thí Tỉnh Chi, Nhiếp Vân
Đài, Trầm Tinh Thúc, Quan Quưnh Chi, Hoàng Hàm Chi v.v… và
thầy Minh Đạo bàn định thiết lập
Lưu Thông Bộ trong Tịnh Nghiệp Xă, cử một
hai vị chân tâm thật hạnh, tự lợi, lợi tha
để lo liệu chuyện ấn hành, biếu tặng
v.v… th́ kinh sách sẽ được cuồn cuộn
nối tiếp lưu thông không ngớt.
Trừ những
loại sách này ra, nếu có những sách nào hợp căn
cơ ích lợi cho cơi đời cũng sẽ sắp
chữ, ấn loát, lưu thông, chỉ không chấp nhận
những thứ sách thâu thập tràn lan, tà - chánh xen tạp
v.v… đến nỗi hoại loạn Phật pháp,
khiến cho chúng sanh nghi ngờ, lầm lạc, ngơ hầu
hết thảy những người cùng hàng trong hiện
tại và vị lai đều cùng mở mang chánh kiến,
đều cùng gội ân Phật. Từ đấy biết
nhân quả, cẩn thận đối với tội -
phước, dứt cạnh tranh, đề cao lễ
nghĩa, nhân nhượng, thay đổi phong tục, cơi
đời sẽ lại được giống như
thuở Đường Ngu, vật sung túc, dân b́nh yên,
tự cùng hưởng thái b́nh nào có khó chi?
11.
Lời tựa cho tờ niên san số thứ hai
của Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xă ở Vô Tích
Hết
thảy pháp thế gian và xuất thế gian đều
chẳng ra ngoài nhân quả. Có kẻ chẳng tin chê là
mờ mịt, chẳng thể truy cứu, nên thành ra bỏ
thiện nhân, thiện quả để chọn lấy ác
nhân, ác quả. Bởi lẽ, tin nhân quả th́ sẽ dè
dặt, kinh sợ, răn dè, cẩn thận ngay trong
những nơi không ai thấy được, kiêng nể
ngay trong chỗ không ai nghe được, tu sửa
đức ḿnh. Không tin nhân quả th́ sẽ phóng túng, tà
vạy, xa xỉ, trọn chẳng kính sợ mạng
trời, khinh miệt ngôn giáo của thánh hiền, buông
tuồng không nể nang. V́ thế, kinh Thư nói: “Tác thiện giáng chi bách
tường, tác bất thiện giáng chi bách ương”
(làm lành th́ trăm điều lành giáng xuống, làm
điều chẳng lành th́ trăm nỗi tai ương
giáng xuống). Kinh Dịch chép: “Tích
thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất
thiện chi gia tất hữu dư ương” (nhà
chất chứa điều lành ắt sự vui có thừa,
nhà chất chứa chuyện chẳng lành ắt tai
ương có thừa). Gia đ́nh hưng thịnh hay suy
sụp, đất nước b́nh yên hay loạn lạc
không ǵ chẳng do v́ lẽ này gây nên.
V́
thế Khổng Tử muốn làm sáng tỏ Minh Đức
phải lấy “cách vật” (trừ khử vật dục)
làm gốc. “Vật” (物) là ǵ? Chính là những thứ tư
dục chẳng hợp lẽ trong tự tâm. “Cách” (格) là ǵ?
Như người mạnh mẽ chiến đấu
với giặc, ắt mong sao tư dục phải tháo
chạy ra xa. Tư dục trong tự tâm đă bị
trừ khử rồi th́ chánh tri sẵn có sẽ tự
hiển lộ; đúng đúng, sai sai đều rơ ràng, ư
thành, tâm chánh, thân tu. Như vậy th́ “cách vật” chính là
căn bản để “làm sáng tỏ Minh Đức”.
Đă có thể trừ khử món vật tư dục th́
trọn chẳng đến nỗi có những tri kiến
tà vạy, sai bậy không hợp lư. Do vậy sẽ tấn
tu không ngừng, muốn chẳng đạt đến
địa vị thánh hiền cũng không thể
được! Tiếc cho cơi đời phần nhiều
chẳng suy xét lẽ này, đều coi việc thúc
đẩy tri thức của chính ḿnh đến mức
cùng cực nhằm thấu hiểu cùng tận nguyên lư
của mọi sự vật trong thiên hạ là “trí tri cách
vật”. Đấy là coi cành nhánh như cội gốc, coi
cội gốc là cành nhánh! Mất mát lớn lắm!
Chỉ v́ thánh mất
niệm mà thành cuồng, do cuồng khắc chế
được ư niệm mà thành thánh. Bước
đầu tiên chỉ là có “cách vật” được hay
không mà thôi! Hễ “cách vật” được th́ sẽ cao
đăng địa vị thánh hiền; chẳng “cách
vật” được th́ sẽ rớt vào loài cầm thú.
Người học Phật tu Giới - Định -
Huệ, đoạn tham - sân - si, cũng chính là thể
hiện ư “cách vật trí tri” vậy! Ắt phải giữ
vẹn luân thường, trọn hết bổn phận,
dứt ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng làm các
điều ác, vâng giữ các điều lành để
dốc sức tu thiện pháp thế gian; lại hằng
ngày c̣n thường xưng niệm vạn đức
hồng danh của A Di Đà Phật th́ lâu ngày chầy tháng
sẽ hợp với khí phận của Phật, khi c̣n
sống sẽ tự giống như bậc hiền thánh,
lúc mất liền sanh về cơi nước Như Lai.
Ông Viên Lệ Đ́nh
ở Vô Tích xưa kia là một gă ngông cuồng, do nghe
Phật pháp biết nhân quả báo ứng đều do
tự tâm cảm vời, muốn bỏ ác quả
để tận lực tu thiện nhân. Do thấy chính ḿnh
may mắn đă được biết tới [những
điều trên đây], bèn thương xót những kẻ
khác chưa ngộ, liền tập hợp những
người cùng chí hướng, lập ra Tịnh
Nghiệp Xă. Phàm những ai gia nhập đều tùy theo
khả năng của chính ḿnh mà sốt sắng hành
điều lành thế gian để mong chẳng phụ
cái đạo làm người, kiêng giết, bảo vệ
sanh vật, ăn chay, niệm Phật, ngơ hầu cùng sanh
về cơi Cực Lạc. Nay đă hơn ba năm rồi,
đem những ư nghĩa trọng yếu đă
được đề xướng trong Liên Xă, những
hành trạng tu tŕ của đại chúng trong Liên Xă và
những lợi ích đạt được, cũng
như những sự nghiệp đă thực hiện,
những kinh phí đă dùng trong hai năm gần đây
nhất, mỗi mỗi đều ghi chép đầy
đủ kể từ ngày thành lập đến nay
để tạo thành tờ niên san kỳ thứ hai. [Ông
Viên] muốn đem in ra, yêu cầu tôi viết lời
tựa. Do vậy bèn lược thuật đại ư
của nhân quả, cách vật trí tri để tŕnh bày.
Đối với nguyên do của sự tu tŕ Tịnh
nghiệp th́ đă có những kinh luận và trước
thuật Tịnh Độ nên không cần phải nhắc
đến ở đây!
12.
Lời tựa cho Hoằng Hóa Nhật Kư
Chuyện
trong thiên hạ lúc thoạt đầu đều do một
hai người phát khởi; rốt cuộc một
người xướng, trăm người họa,
cỏ rạp theo gió đùa. Huống chi đại pháp
của đức Như Lai chính là đạo sẵn có
trong cái tâm của chúng sanh, nhưng do mê chưa ngộ nên ai
nấy đều tự trái nghịch. Một mai có bậc
tiên giác bảo ban, sẽ như đến trước
gương báu đích thân thấy được diện
mục sẵn có của chính ḿnh, mới biết từ
trước tới nay luôn là kẻ chẳng tự
biết! Do vậy buồn - vui chen lẫn, tâm t́nh bồi
hồi, đem những điều ḿnh đă biết
thưa khắp với những kẻ cùng hàng, nguyện cho
khắp mọi người cùng chứng được
Phật tánh sẵn có để thoát khỏi luân hồi
huyễn vọng, ngơ hầu chẳng phụ [danh xưng]
con người sánh cùng trời đất thành ba ngôi,
sẵn có cái tâm b́nh đẳng không hai với Như Lai.
Từ khi đại
pháp được truyền sang phương Đông,
những bậc vua thánh tôi hiền các đời đa
số đều hộ tŕ, lưu thông. Trong số ấy
có một hai tên vua bạo ngược, dăm kẻ sĩ
thiên chấp lầm lạc hủy diệt, hoặc chê bai
xằng bậy, như ngửa mặt nhổ lên trời,
giơ tay che mặt trời, trọn chẳng gây tổn
hại ǵ cho bầu trời hay mặt trời
được, chỉ khiến cho bọn vô tri bắt
chước tạo nghiệp và bậc có trí sanh ḷng
thương xót sâu xa! Những nhà Nho đời sau chưa
hề đọc kinh Phật, thường dựa theo
những lời lẽ của bọn Hàn - Âu - Tŕnh - Châu xúm
nhau gièm báng, chẳng biết họ Hàn, họ Âu trọn
chẳng hiểu ǵ về Phật pháp mà cứ xằng
bậy chê bai những h́nh tích khác với thế gian.
Bọn Tŕnh - Châu do tri kiến môn đ́nh quá nặng,
ngấm ngầm sùng phụng [Phật pháp] nhưng mặt
ngoài chống trái, muốn cho thiên hạ đời sau
đều tưởng bọn họ đă đích thân
chứng đắc tâm pháp của thánh nhân, nên thường
thốt ra những lời “bịt tai trộm linh”
để ngăn lấp kẻ hậu học khiến
họ không học theo Phật pháp được. Nếu
là kẻ tầm thường kém cỏi, ắt sẽ
suốt đời chẳng thể được
nhuần gội pháp trạch của Phật, hiểu
biết tự tâm. Nếu là bậc đặc biệt thông
đạt th́ thoạt đầu bị những thuyết
ấy mê hoặc, rốt cuộc ắt sẽ tin nhận
Phật giáo. Như các vị Trương Quư Trực, Sa
Kiện An v.v… trong đời gần đây đều
đọc kỹ càng kinh Phật, thấu hiểu sâu xa lư
ấy, dùng kinh để làm chứng, dùng tâm để
ấn, chẳng bị chướng ngại bởi những
lời ngăn chặn của bọn chúng, tiến
thẳng đến pháp b́nh đẳng, đại
đạo Bồ Đề không có cao - thấp ấy
của đức Như Lai.
Cư sĩ Giang
Dịch Viên ở Vụ Nguyên, tỉnh An Huy, phẩm
đức lẫn học vấn đều ưu tú, chí
hạnh cao thượng, đảm nhiệm vai tṛ giáo
chức đă lâu, tận tâm giảng dạy. Do quá sức
mệt nhọc nên trong năm Dân Quốc thứ 10 (1921) bèn
ngă bệnh nặng. Các thầy thuốc ở Thượng
Hải đều không chữa trị được. Ông
ta vốn chẳng tin tưởng chút nào vào Phật pháp,
một người bạn thương ông ta bệnh
khổ, khuyên ông ta hăy ăn chay niệm Phật và niệm
kinh Kim Cang, lược thuật lợi ích do niệm
Phật, niệm kinh. Dịch Viên tin nhận, vâng làm,
chẳng thuốc men ǵ mà bệnh tự lành. Cảm kích tột
bậc, lắng ḷng nghiên cứu mới biết Phật là
đại thánh nhân, giáo pháp của Ngài có những chuyện
chẳng thể nghĩ bàn. Từ đấy mới
biết tâm pháp của thánh nhân Nho giáo phần nhiều
đă bị vùi lấp bởi những thứ văn
tự mang nặng tánh chất tri kiến môn đ́nh của
tiên Nho, liền chọn lấy pháp môn Tịnh Độ là
pháp “thực hiện dễ, thành công cao” để cực
lực đề xướng trong làng. Do pháp này thích
hợp khắp ba căn, dạy cho ai nấy đều
giữ vẹn luân thường, đều trọn hết
bổn phận, đừng làm các điều ác, vâng giữ
các điều lành. V́ thế, được hết
thảy mọi người tin tưởng.
Ba bốn năm qua,
người sanh ḷng tin niệm Phật rất đông. Có người
mắt đă ḷa lại được sáng, có kẻ
bệnh ngặt liền lành, có người biết
trước lúc mất, ngồi niệm Phật qua
đời. Năm trước Vụ Nguyên bị hạn
hán, kỳ đảo không linh nghiệm, ông ta bèn suất
lănh mọi người niệm Phật, mưa ngọt
liền trút xuống. Do vậy, bèn lập Phật Quang Xă
nhằm tuyên truyền xa gần. Người cùng ấp là
Tŕnh Tiểu Bằng, sáng suốt, mẫn tiệp, chuyên
dốc, thành thật, là giáo viên, rất ngưỡng mộ
học thức, phẩm hạnh của Dịch Viên,
nhưng hơi nghi ngờ sự tu tŕ gần đây của
ông ta, chẳng biết có bị trở thành mê tín hay không,
hay là chân chánh thấy được đạo cả; do
vậy liền t́m đến thân cận để giải
quyết ḷng ngờ.
Ông ta được
Dịch Viên gần là lấy chính bản thân ḿnh, xa là
lấy muôn loài, chứng bằng kinh, ấn bằng tâm,
chẳng tiếc sức thừa, uyển chuyển dạy dỗ.
Ông ta liền giống như được nhuần
thấm bởi mưa đúng thời, như ngồi
hưởng gió Xuân, bèn dốc trọn ḷng nghiên cứu,
cực lực khuyến hóa. Từ Vụ Nguyên đến
Hưu Ninh, cho tới Hấp Huyện, Y Huyện, cho
đến Kỳ Môn, thăm viếng khắp những
vị cao minh, thông đạt, sẵn ḷng tin tưởng,
hướng về Phật pháp để lần
lượt khuyên dạy. Sau thời gian hơn nửa
năm đă giới thiệu hơn bốn trăm
người tham dự Phật Quang Xă. Phàm với những
nơi đi qua, những người gặp gỡ,
những cảnh ngộ từng trải, gặp phải
chiến tranh hay không, những chuyện phát khởi ḷng tin
chân thật tu tŕ và những lời vấn đáp giữa
đôi bên, sự xướng họa giữa chủ và
khách, đều chọn lấy những điều
trọng yếu để ghi chép đại lược,
đặt tên là Hoằng Hóa Nhật Kư.
Bản ghi chép này
bất quá tùy nơi chốn, tùy duyên mà ghi chép những
điều thấy, nghe, tuyên nói, để mong báo cáo
với Dịch Viên nhằm chứng tỏ tấm ḷng vui
sướng, thật sự tin phục, tận lực
hoằng hóa đạo này cũng như t́nh cảnh: Do “con
người có cùng tâm này, tâm cùng một lư này” nên vừa
đề xướng đều sanh ḷng chánh tín tu tŕ mà thôi.
Thoạt đầu, ông ta không có ư định truyền bá
để mong xa - gần đều biết tới.
Dịch Viên đọc xong, vui mừng v́ thấy ông ta
vừa mới nghe Phật pháp liền có được
nhiệt tâm, nghị lực ấy. Các nơi trong tỉnh
An Huy phong khí [Tịnh Độ] chưa được
mở mang, thế mà Tiểu Bằng xướng suất,
hướng dẫn trong ṿng nửa năm đă khiến
cho đa số người đời sanh ḷng chánh tín, tu
tŕ Tịnh nghiệp. Nếu chẳng phải ai nấy
sẵn có Phật tánh, từng được thọ ân
Phật từ đời trước, làm sao có thể
đạt được như vậy? Do đó bèn viết
lời tựa, giao phó cho thợ in khắc ván để
truyền bá bốn phương nhằm mong tạo thành
một căn cứ ḥng cứu văn thế đạo nhân
tâm. Bất Huệ cùng Dịch Viên giao du thuận thảo,
cũng như được mang tiếng ké là một thành
viên của Phật Quang Xă, nên cũng gắng soạn
một bài tựa để giăi bày nỗi ḷng ngu thành
của tôi, mong người thấy nghe đều cùng sanh
ḷng chánh tín, cùng tu Tịnh nghiệp, cùng sanh Tịnh
Độ, cùng thành Phật đạo đó thôi!
13.
Lời tựa cho sách Gia Đ́nh Bảo Giám
Xem
khắp cổ kim, dù nhà hay nước, hưng thịnh, suy
vong, b́nh yên, loạn lạc, chưa bao giờ chẳng
lấy cái thân của cá nhân đang cầm quyền
để làm cội gốc. V́ thế nói: “Cái gốc của thiên hạ là đất
nước, cái gốc đất nước là gia đ́nh,
cái gốc của gia đ́nh là thân”. Nhưng muốn
nước nhà quật khởi, hưng thịnh, lại cần
phải biết cái gốc để lập thân. “Cội gốc để lập
thân” như tôi vừa nhắc đến chính là “dứt ḷng tà, giữ ḷng thành,
đánh đổ ham muốn xằng bậy của chính
ḿnh để khôi phục lễ nghĩa, đôn đốc
luân thường, tin sâu nhân quả, dè dặt kiêng sợ,
chỉ sợ trái vượt”. Làm được như
thế th́ sẽ có thể tỏa rạng được
Minh Đức, ở yên nơi cảnh giới tốt
đẹp tột cùng.
Lư ấy, sự
ấy, phàm những ai có hiểu biết đều có
thể thực hiện được; nhưng chẳng
phải là lạ lùng, đặc biệt, huyền diệu đến
nỗi muốn cầu mà không được. Bởi
lẽ, đạo của Nghiêu - Thuấn chỉ là hiếu
- đễ mà thôi. Chỉ v́ thánh mất niệm thành
cuồng, cuồng khắc chế được ư niệm
bèn thành thánh. Thất phu, thất phụ nếu thực
hiện được như thế th́ gần là con cái và
anh em trai, chị em gái, chị em dâu đều cùng nh́n theo
bắt chước nhau làm lành. Lâu ngày, phong thái ấy
sẽ lan ra cả làng, cả ấp. Do vậy, kinh Thi khen
ngợi Văn Vương là “h́nh
ư quả thê, chí ư huynh đệ, dĩ ngự ư
gia bang” (làm gương cho vợ của chính ḿnh, rồi
đến anh em, cho đến khắp cả nước
nhà) chính là do ư nghĩa này.
Nhưng thiên hạ
chẳng yên, thất phu có trách nhiệm! Bởi lẽ, gia
đ́nh chính là nơi phát sanh hiền tài trong thiên hạ; cha
mẹ chính là những người để bậc hiền
tài trong trời đất noi gương. Giáo dục trong
gia đ́nh nghiêm ngặt, chánh đáng th́ những đứa
con có thiên tư sẽ có thể tỏa rạng Minh
Đức, ở yên nơi tốt lành tột cùng, hễ
cùng quẫn th́ riêng ḿnh thiện mà cũng nêu gương
trong làng, trong ấp, hễ hiển đạt bèn làm cho
cả thiên hạ cùng được thiện, lập
đại công, dựng đại nghiệp, ân trùm hoàn
vũ, thấm nhuần không ngằn mé. Con gái th́ giúp
chồng dạy con, giữ vững chức phận phụ
nữ, làm bậc mẫu nghi trong chốn khuê các, làm bậc
thầy gương mẫu cho nữ giới. Lệ
trạch[14]
tạo lợi ích cho lẫn nhau như thế, đức
đẹp càng tỏa rạng; há chẳng thể nào
thuần phong mỹ tục, thiên hạ thái b́nh ư?
Những điều
vừa nói trên đây chính là luận theo phía những kẻ
có thiên tư thượng đẳng. Dẫu những
kẻ thiên tư thuộc loại trung - hạ cũng biết
tôn kính lễ nghĩa, vâng giữ phép tắc, biết
giữ yên bổn phận, quyết chẳng đến
nỗi trở thành hạng ương bướng, hèn
hạ, chống đối. Trong cơi đời, muốn cho
gia đ́nh lẫn đất nước được
quật khởi, hưng thịnh, th́ cố nhiên phải nên
chú trọng nơi đường lối giáo dục trong
gia đ́nh. Một người bạn tôi sẵn ḷng lo toan
cho đời, đau đớn nghĩ thiên tai nhân họa
thường xuyên giáng xuống, nhân dân khốn khổ
chẳng thể kêu gào nơi đâu, bèn đem mười
thiên giáo huấn về vâng giữ luân thường, vốn
là của báu gia truyền của nhà ông Thạch Thành Kim và
tác phẩm Châu Tử Gia Huấn Giải của Châu
Phụng Minh ghép chung lại, đặt tên là Gia Đ́nh
Bảo Giám, tính ấn hành để lưu truyền
rộng răi, ngơ hầu những người muốn hưng
khởi nước nhà trong cơi đời đều có cái
để làm vốn.
Toan tính xong xuôi bèn sai Quang cất bút trần thuật những nét chánh yếu để tạo thành lời tựa. Tuy lời lẽ [trong lời tựa này] không phù hợp sát sao cho lắm, nhưng ư nghĩa quả thật đích xác, không dối trá. Nguyện những người yêu nước thương ṇi, thương yêu con cái trong cơi đời, mỗi người đều giữ lấy một cuốn để giáo hóa, chỉ dạy con cái th́ thành tích chắc sẽ vượt ngoài những điều mong mỏi vậy. Ví như đang khát mà có được nước cam lộ, chẳng những hết khát mà c̣n nhanh chóng trừ được nhiệt năo, thân tâm thanh lương.
Sách này văn
chương tuy nông cạn, thông tục, nhưng quả
thật là cửa ngơ để mong thành thánh, thành hiền.
Đến khi đă thâm nhập th́ sẽ lên thẳng
chỗ huyền diệu, sâu thẳm, ai có thể cự
lại được? Vua Thuấn là bậc đại
thánh nhân mà vẫn c̣n thích suy xét những lời nông cạn,
huống là những lời lẽ tinh thâm, thuần túy
tột bậc thiết thực đối với thân tâm
này ư? Nguyện ai nấy quư trọng, ǵn giữ
để làm tấm gương soi sáng tương lai th́
gia đ́nh may mắn lắm mà thiên hạ cũng may mắn
lắm thay!
14.
Lời đề từ và bài tựa cho sách Đại Thừa
Bách Pháp Minh Môn Luận Giảng Nghĩa
Thế pháp, xuất thế pháp,
Chỉ do một tâm tạo.
Tâm sanh th́ pháp sanh,
Tâm diệt, pháp bèn diệt.
Muốn hiểu cách diệt tâm,
Phải biết cội nguồn pháp.
Hễ hiểu cội nguồn pháp,
Pháp diệt, tâm chẳng c̣n.
Ngũ Uẩn đă không tịch,
Nhất Chân cũng chẳng lập.
Viên măn Bồ Đề đạo,
Độ hết thảy khổ ách.
Đại Thừa Bách
Pháp Minh Môn Luận[15] là
do Thiên Thân Bồ Tát muốn cho người đời
đều biết bản thể bất sanh, bất
diệt, thường trụ bất biến của cái tâm,
nên tạo ra luận này nhằm giảng rơ: “Tất cả các pháp thế gian hay xuất thế
gian nếu gom về số mục đại cương
th́ có một trăm pháp”. Trong một trăm pháp ấy,
chỉ có một pháp Chân Như là chủ thể, những
pháp khác đều nương theo Chân Như mà lập.
Nếu hiểu rơ hết thảy các pháp vốn tự
bất sanh th́ hết thảy các pháp đều là Chân
Như. Như vậy th́ pháp nào cũng viên thông, sự ǵ
cũng là đạo. Tịch - chiếu cùng dung thông, đâu
đâu cũng gặp nguồn. Nếu tùy theo căn cơ
để lợi sanh th́ vạn đức phô bày trọn
vẹn. Nếu tâm ngầm khế lư th́ một pháp chẳng
lập!
Quán Thế Âm Bồ Tát
dùng Bát Nhă sâu xa để soi thấy Ngũ Uẩn
đều không. Ngũ Uẩn là danh xưng đại
lược của trăm pháp. Đă thấy chúng
đều là không th́ Ngũ Uẩn đều trở thành
Bát Nhă sâu xa. Như Phật quang vừa chiếu đến
th́ mọi tối tăm đều tiêu, không một tí
tẹo đen tối nào c̣n lưu lại được!
Người học đạo hiểu được
chỗ quan yếu này th́ Tánh hay Tướng, Hiển hay
Mật đều hệt như nhau. Nếu không, sẽ
chấp vào lời lẽ, trọn chẳng có chỗ
chỉ quy; vào biển đếm cát, uổng công nhọc
nhằn! Cư sĩ Quư Thánh Nhất túc căn sâu dầy,
quyết chí siêng học, thân cận pháp sư Đế Nhàn
chùa Quán Tông đă lâu, đă hiểu được tâm
yếu của tông Thiên Thai, lại c̣n đọc rộng
răi các kinh luận thuộc Tánh - Tướng, hiểu
trọn vẹn các đế lư Chân và Tục. Khi
trước đă chú giải Tâm Kinh, nay lại chú giải
luận này để mong sao Tánh Tông lẫn Tướng Tông
đều như nước ḥa với sữa, tu tŕ
đơn hay kép tùy theo ư ḿnh ưa thích. Ông ta dùng những
từ rơ ràng dễ hiểu để xiển dương
khiến cho [người đọc có thể] hiểu
được lư sâu.
Ấy là v́ muốn cho người đọc đều cùng mở mang tri kiến chân chánh, cùng ngộ pháp môn duy tâm, cùng chứng được Chân Như sẵn có trong trăm pháp, cùng thấy được tướng Không của các pháp nơi Ngũ Uẩn. Nếu người học từ chỗ rộng răi thấy được chỗ ước lược, biết được cái chủ yếu trong mọi điều th́ chẳng những các pháp chẳng thể đạt được mà ngay cả Chân Như, tướng Không cũng chẳng thể đạt được! Có như vậy th́ mới vui sướng cuộc đời, không c̣n có chuyện ǵ phải vướng mắc nữa! Nếu như căn cơ kém hèn, chẳng thể đạt được như vậy; cố nhiên hăy nên sanh ḷng tin phát nguyện, niệm danh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương, như ngài Vĩnh Minh đă dạy: “Nhược đắc kiến Di Đà, hà sầu bất khai ngộ” (nếu được thấy Di Đà, lo chi chẳng khai ngộ) chính là v́ ư này. Do Quang mong trở về mà chưa được, thường nghĩ đến những ai đang c̣n rong ruổi nên mới nói lời này, đừng trách là “ăn nói dây cà ra dây muống” th́ may mắn lắm thay! (ngày mồng Tám tháng Chạp năm Quư Dậu, tức năm Dân Quốc 22 - 1933)
15.
Lời tựa cho tác phẩm Phật Thuyết
Tứ Thập Nhị Chương Kinh Tân Sớ
Chân
Như Phật Tánh, chúng sanh và Phật trọn không hai. Do tu
tŕ nghịch hay thuận mà thánh - phàm khác biệt vời vợi
một trời một vực! Ấy là v́ chúng sanh tuy
sẵn có Tánh Đức, nhưng trọn chẳng có Tu
Đức. Dẫu có tu tập vẫn đều trái
nghịch Tánh Đức, nên gọi là “nghịch tu”. Bởi
vậy, Tánh Đức không có cách nào hiển hiện
để thọ dụng được! Phật th́
từ nơi Lư Thể của Tánh Đức sẵn có bèn
dụng công Tu Đức về mặt Sự, do vậy Tam
Hoặc đều hết sạch, bởi đó Nhị
Nghiêm[16]
đều viên măn. Công Tu Đức đến cùng cực
th́ Tánh Đức phô bày trọn vẹn, thường
trụ Tịch Quang, hưởng thụ pháp lạc.
Nhưng do bi tâm vô tận, đức Phật lại
thị hiện giáng sanh trong thế gian, thị hiện
thành Chánh Giác, tùy thuận cơ nghi nói đủ mọi pháp
khiến cho ai nấy đều biết lấy “hạt
châu trong chéo áo”, theo đường trở về nhà.
Lại do chúng sanh
đời Mạt Pháp chướng sâu, huệ cạn,
nếu cậy vào tự lực quyết khó thể liễu
sanh thoát tử ngay trong đời này. Do vậy, đặc
biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật
cầu sanh Tây Phương, khiến cho hàng phàm phu sát
đất và các vị Bồ Tát tín giải tu chứng
đều cùng nương theo hoằng thệ nguyện
lực của A Di Đà Phật văng sanh Tây Phương
để mong triệt chứng Tánh Đức trọn
chẳng tiếc nuối ǵ! Đấy chính là khuôn phép
lớn lao xuất thế độ sanh của đức
Như Lai. Đức Phật thị hiện giáng thế
tại Ấn Độ vào năm thứ 26 (969
trước Công Nguyên) đời Châu Chiêu Vương.
Trải qua một ngàn năm đến năm Vĩnh B́nh
thứ mười (67) đời Hán Minh Đế, vua
mới thỉnh hai vị Phạm tăng là tôn giả Ca
Diếp Ma Đằng (Kāśyapa Mātanga)
và tôn giả Trúc Pháp Lan (Dharmaratna) mang kinh Phật,
tượng Phật tới Lạc Dương. Hai vị
tôn giả do thấy người Hoa mới nghe Phật
pháp, nếu đem kinh viên đốn sâu xa chỉ dạy
th́ giáo pháp chẳng phù hợp căn cơ, khó thể
được lợi ích! Do thấy Tứ Thập Nhị
Chương Kinh văn lẫn nghĩa rơ ràng, con người
dễ lănh hội, nên dịch ra tiếng Hán trước.
Thế nhưng,
Phật trí viên diệu, tuy cạn mà sâu, giáo lư viên
đốn vẫn trọn đủ [trong bản kinh
ấy]. Kẻ nhân thấy là nhân, người trí thấy là
trí, tùy theo trí thức của đương sự mà thôi!
Chú giải kinh này chỉ có bản của ngài Ngẫu Ích là
nêu bật được tông chỉ, những bản chú
giải khác cũng đều có lợi cho căn cơ
một thời. Cư sĩ Quư Thánh Nhất đă có huệ
căn từ đời trước, quy y với bậc
tri thức của tông Thiên Thai là pháp sư Đế Nhàn,
đích thân được nghe diễn giảng, khá có tâm
đắc. Do vậy, bèn tùy duyên diễn nói, nhưng
vẫn luôn chú trọng hướng dẫn về Cực
Lạc. Đấy chính là tuân theo chỗ kết
đảnh cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm, cũng
giống như điều được đề
xướng trong Thập Nghi Luận của Thiên Thai
đại sư (Trí Giả đại sư). Bởi
lẽ, pháp môn Tịnh Độ chính là chỗ quy túc
của hết thảy các pháp môn. Hoa Nghiêm c̣n như thế,
hậu học dám chẳng vâng theo ư?
Gần đây do có người thỉnh giảng kinh này, [cư sĩ bèn] thuận theo thời nghi, đặc biệt viết lời sớ giải mới, lập ra cách thức ḥng dễ dẫn dắt kẻ mới học sẽ được nhờ vào đây mà tiến đến chỗ cao hơn; do đây mà người ta sanh được ḷng tin, ắt sẽ xoay vần khuyến hóa rộng răi hơn. Bởi vậy, chẳng tiếc lời giảng giải tường tận để không một nghĩa nào bị ẩn kín. Một bữa, đưa cho Quang xem bản thảo, lại cậy viết lời tựa. Quang vừa sanh ra được sáu tháng liền bị bệnh mắt, trong suốt sáu tháng chưa từng mở mắt, nên mục lực kém xa người khác. Nay tuổi đă bảy mươi lăm, mục lực càng suy yếu, chẳng thể xem kỹ ư nghĩa, đành nêu lên những điểm chánh yếu cho xong trách nhiệm. Mong sao những ai đọc kinh này và bản sớ giải này đều chú trọng hiểu tâm, rơ gốc, hiểu rơ pháp vô vi và xa ĺa tài sắc, kiên quyết, dũng mănh tu tŕ để mong đích thân chứng được vô thượng giác đạo “vô niệm, vô tác, phi tu, phi chứng”.
16.
Lời tựa ấn hành sách Tịnh Độ Sanh Vô
Sanh Luận Giảng Nghĩa
Pháp môn
Tịnh Độ lớn lao không ǵ ra ngoài được,
hết thảy pháp môn không pháp nào chẳng lưu xuất
từ pháp giới này; hết thảy hạnh môn không môn nào
chẳng trở về pháp giới này, thật sự là
đạo thành thủy thành chung để chư Phật
viên măn Bồ Đề mà cũng là pháp để chúng sanh
cậy vào Phật từ lực ḥng liễu thoát ngay trong
đời này. Lư ấy rất sâu, sự ấy cực
dễ. V́ thế con người phần nhiều chẳng
thể thấu hiểu những chỗ ẩn kín, nên
hoặc cầu phước báo trời người,
chẳng dám gánh vác ngay, hoặc bỏ tín nguyện cầu
sanh để chuyên khán câu “người
niệm Phật là ai”, khiến cho pháp do đức
Như Lai đặc biệt lập ra để khắp
hết thảy thượng thánh hạ phàm sẽ cậy
vào Phật từ lực được cao dự Liên Tŕ
hải hội ngay trong đời này bị trở thành pháp
tự lực.
Do đă không có tín
nguyện, dẫu có đích thân thấy được
[người niệm Phật] là ai th́ cũng chỉ là
đại triệt đại ngộ mà thôi! Nếu
Phiền Hoặc chưa hết th́ vẫn luân hồi y
như cũ. Do cảnh duyên trược ác, kẻ mê
mất đông đảo, muốn liễu sanh thoát tử
ắt phải đợi đến năm con lừa!
Chẳng đáng buồn sao? U Khê đại sư[17]
nương theo bổn nguyện, thị hiện giáng sanh,
hiểu trọn vẹn Giáo, ngộ tự tâm nơi
Thiền, dốc ḷng tu Tịnh nghiệp, lợi khắp
trời người, thương những kẻ mê
muội trong cơi đời, chẳng biết “Tây Phương Cực Lạc
thế giới vốn là duy tâm Tịnh Độ;
đạo sư A Di Đà Phật vốn là tự tánh Di
Đà”, bèn bỏ sự thực để chấp
lấy lư Không rồi dạy người khác niệm
“tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”. Rốt
cuộc cho rằng “đạo lợi khắp thánh phàm
của đức Như Lai chỉ nhằm biểu thị
pháp hoặc là chuyện ngụ ngôn”, chỉ mong khai ngộ,
mặc kệ những điều khác, đến nỗi
kẻ cao minh đâm ra chẳng bằng phường ngu phu
ngu phụ cắm cúi niệm Phật mà có thể ngầm
thông Phật trí, thầm hợp diệu đạo, cảm
ứng đạo giao, được Phật tiếp
dẫn liền được văng sanh. Căn bệnh là do
ham cao chuộng xa, chứ chưa thật sự hiểu sâu
xa nguồn cội của sự cao xa. Rốt cuộc
biến khéo thành vụng, cầu thăng lên đâm ra bị
đọa xuống, thật đáng buồn thương!
Đại Sư buồn xót khôn cùng, riêng soạn bộ
[Tịnh Độ] Sanh Vô Sanh Luận nhằm chỉ
thẳng tâm tánh của ba thứ tâm - Phật - chúng sanh không
sai biệt.
Tâm tánh ấy có
đủ vô lượng đức, bất biến tùy
duyên, tùy duyên bất biến, nơi phàm chẳng giảm,
tại thánh không tăng. Do mê hay ngộ khác nhau đến
nỗi có mười giới sai biệt. Nhưng ngay trong
mười giới ấy, mỗi mỗi không ǵ chẳng
phải là “tâm sẵn
đủ, tâm tạo, tâm làm, tâm là”. Cầu sanh Tây
Phương chính là chân vô sanh, do sanh về cơi Tây
Phương “tâm sẵn
đủ, tâm tạo, tâm làm, tâm là”; không phải như
kẻ chấp Lư phế Sự chỉ có cái danh xuông,
chứ thật sự chẳng có cảnh Tây Phương!
Ấy chính là “quyết
định sanh nhưng không có tướng sanh, quyết
định vô sanh nhưng không có tướng vô sanh”, sanh
mà vô sanh vậy. Lấy tín nguyện niệm Phật
để cầu sanh vào cơi Tây Phương “tâm sẵn
đủ, tâm tạo, tâm làm, tâm là” của chính ḿnh, cho nên
tuy sanh mà không có tướng sanh, tuy không sanh nhưng
chẳng trụ vào tướng vô sanh. Đấy chính là ư
chỉ tổng quát của Sanh Vô Sanh Luận.
Hiểu rơ điều
này th́ ai chịu trái nghịch Tánh để tạo nhân
quả trong tam đồ lục đạo nữa ư?
Ngay cả nhân quả xuất thế trong tam thừa cũng
chẳng coi là cao tột, tiến thẳng vào nhân quả
Bồ Đề vô thượng vậy. Luận này gồm
có mười chương, mỗi mỗi đều
lấy ư chỉ “tâm sẵn đủ, tâm tạo, tâm làm, tâm
là”, Tam Đế, Tam Quán để giảng rơ ư nghĩa
khiến cho đứa con cùng quẫn lê la ăn xin đích
thân thấy được hạt minh châu nơi chéo áo, gă
lữ khách cô đơn lênh đênh trở về quê nhà
sẵn có, trên khế hợp Phật tâm, dưới
khế hợp thời cơ. V́ thế khi Ngài soạn
luận xong, đem giảng diễn, nhạc trời vang
rền khắp hư không để làm chứng cớ rơ
rệt.
Từ đời Minh
cho đến nay, đă hơn ba trăm năm, đời
nào cũng có người lưu thông truyền bá bộ
luận này. Gần đây, thế đạo nhân tâm ngày càng
đi xuống, người có ḷng lo toan muốn văn hồi
biết rằng nếu chẳng nhờ vào sự lư “nhân quả
ba đời, luân hồi lục đạo” như
đức Phật đă dạy th́ chẳng thể
biến đổi ḷng người được! Nếu
chẳng nhờ vào pháp môn tín nguyện niệm Phật
cầu sanh Tây Phương sẽ chẳng thể liễu
sanh tử. Do vậy, họ đều nghiên cứu
Phật học, nhưng vẫn riêng dốc sức nơi
pháp môn Tịnh Độ. Cư sĩ Quư Tân Ích ở
Hải Môn đă có huệ căn từ đời
trước, dốc ḷng tin tưởng Phật thừa,
từng được đích thân theo học giảng kinh
dưới ṭa của ngài Đế Nhàn. Đối với
ư chỉ Tam Đế, Tam Quán của tông Thiên Thai đă
hiểu chắc chắn không c̣n sót ǵ. Do vậy các cư
sĩ nơi thành Tô Châu thỉnh ông giảng giải
luận này, ghi lại những lời giảng thành sách,
đặt tựa đề là [Tịnh Độ Sanh Vô
Sanh Luận] Giảng Nghĩa, sai Quang viết lời
tựa. Do vậy, tôi bèn đọc văn ấy, đáng
gọi là “nêu tỏ được lư, phù hợp Thật
Tướng sâu xa, lời lẽ hay khéo như hoa trời”.
Nguyện những độc giả cùng vâng lănh ư nghĩa
“tâm sẵn đủ, tâm tạo, tâm làm, tâm là” để
rồi chân tín, nguyện thiết, chí thành niệm Phật,
cầu sanh Tây Phương th́ mới chẳng phụ ngài U
Khê một phen khổ tâm tạo luận cũng như ông
Quư giảng nghĩa vậy!
17.
Lời tựa mừng thọ vợ chồng tiên sinh
Lư Phụng Kỳ
Con người sống trong thế gian thọ hay yểu, cùng quẫn hay hanh thông, đều có nhất định hoặc không nhất định. Hễ nhất định th́ Nho gia gọi là Mạng, gọi là “trời ban cho”. Nhưng trời đại công vô tư, há lẽ nào lại ban phát cao - thấp khác xa nhau, muôn phần chẳng b́nh đẳng ư? Há lẽ nào trời cũng có tư dục đối xử nồng hậu hay lợt lạt, khinh - trọng ư? Nhà Nho chẳng nói đến ba đời, v́ thế coi cái nhân đời trước là “mạng trời’ (Thiên Mạng), chẳng biết nhà Phật gọi cái Thiên Mạng vừa được nhắc đến ấy là quả báo! Đức Phật gọi thân này là Báo Thân. “Báo” có nghĩa là do cái nhân gồm những điều thiện, sự ác đă tạo trong đời trước nên cảm lấy cái quả phải hứng chịu thọ - yểu, cùng quẫn - hanh thông trong đời này. Những điều ấy có nhất định.
C̣n bất định
là dốc chí tu tŕ, tích lũy điều lành và công
đức, mong thành thánh, thành hiền, hay mặc sức
phóng túng, buông lung không kiểm điểm, lười nhác
quá mức, tự ruồng rẫy, tự phụ bạc
chính ḿnh. Ấy là v́ sức của những điều
thiện sự ác đă làm trong đời này mạnh
mẽ nên chuyển biến những nghiệp báo trong
đời trước khiến cho chúng sanh trở thành
tốt đẹp hơn hay kém cỏi hẳn đi.
Điều này thường được gọi là: “Trời định thắng
người, nhưng người định cũng
thắng được trời”. Kinh Thi ghi: “Vĩnh ngôn phối mạng,
tự cầu đa phước” (thường suy
nghĩ xem hành vi của chính ḿnh có hợp với lẽ
trời hay không để mong cầu cuộc sống
được hưởng nhiều điều tốt
đẹp). Kinh Thư chép: “Tác thiện giáng chi bách
tường, tác bất thiện giáng chi bách ương”
(làm điều lành th́ trăm điều tốt
đẹp giáng xuống, làm điều bất thiện,
trăm tai ương sẽ giáng xuống). Kinh Dịch chép:
“Tích thiện chi gia tất
hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hữu
dư ương”. Lễ Kư chép: “Cố đại đức tất đắc
kỳ lộc, tất đắc kỳ vị, tất
đắc kỳ danh, tất đắc kỳ thọ”
(v́ thế những người có đức lớn lao
ắt sẽ được hưởng lộc, ắt
sẽ có địa vị, ắt sẽ có danh tiếng,
ắt sẽ sống lâu). Những lời ấy
đều là ước theo những ǵ cảm
được bởi sự tu tŕ trong đời này để
nói. Do vậy, biết: “Mạng
do chính ta làm chủ, phước do chính ta cầu!”
Quyền [hưởng nhận] “thọ, giàu, mạnh
khỏe, b́nh yên” do ta thao túng; chẳng qua trời do thấy
ta tu tŕ bèn soi xét ban tặng mà thôi, chứ chẳng hề có
chuyện hậu đăi hay lợt lạt, khinh hay trọng
trong ấy!
Tiên sinh Phụng Kỳ
có chí nơi ấy, v́ thế khi c̣n đang dốc chí
học hành, do gia đạo bần hàn, con cái đông
đúc, sợ cao đường (mẹ) chắc phải
ưu tư, bèn lo buôn bán ở Thượng Hải, mong
sẽ thỏa chí phụng dưỡng. Nào ngờ chọn
lầm kẻ quản lư, chưa đầy ba năm mà
đă hụt vốn quá nửa. Ông bèn dốc chí xét đoán
thời cơ, chuyên tâm tự quản lư. Mới
được một năm đă được lời
to, do vậy buôn bán phát đạt, ngày càng hưng thịnh,
bèn vừa phụng dưỡng cha mẹ, anh em êm ấm,
giúp đỡ kẻ nghèo khó, mở trường học
để làm cái gốc tạo lập lớn lao ḥng
“kế thừa người trước, mở mang cho
người sau”, thực hiện rộng răi hoài băo “dân là
ruột thịt, loài vật giống như ta”.
Bà vợ đức
hạnh của ông ta là Hoàng phu nhân, bẩm tánh hiền
thục, ôn ḥa, cung kính, đoan trang, thận trọng, nên
được bố mẹ chồng, chị em dâu, vợ
lẽ v.v… yêu mến. Gia đ́nh thuận thảo, không ai kèn
cựa. Đối với chuyện nuôi dạy con cái th́ áp
dụng cách giáo hóa vừa từ vừa nghiêm, khoan dung
lẫn nghiêm khắc. Dẫu không phải là con do chính ḿnh
đẻ ra vẫn chăm chút c̣n hơn con đẻ.
Đức đẹp ấy thật đáng làm bậc
mẫu nghi trong chốn khuê các, làm bậc thầy nêu
gương cho nữ giới. V́ thế, con cái đều
thành tài. Liêu Tường thành thật, đáng tin, không
dối trá, kế nghiệp buôn bán rất thành công. Vinh
Tường th́ an cư lạc đạo, hoằng
dương Phật pháp. Cháu trai, cháu gái đều sẵn
tánh thuần hậu, tương lai sẽ thành tài lập
đức là điều có thể đoán trước
được. Phàm những điều này đều do
tiên sinh và phu nhân đức dầy, ḷng nhân sâu đậm
vun bồi mà ra.
Ôi! Ngũ Phước
được nói trong sách Hồng Phạm, không một
điều nào [hai vợ chồng tiên sinh] chẳng có
đủ. Đang trong lúc hai vị cùng thọ đến
tuổi cổ hy (bảy mươi tuổi) này, nếu chẳng
dâng lời chúc tụng, ắt sẽ tự khuất,
khuất người. Than ôi! Quang là đệ tử
Phật, Phật sẵn ḷng mong cho hết thảy chúng sanh
đều được thành Phật v́ hết thảy
chúng sanh đều có Phật Tánh, đều kham làm
Phật. Phật thọ vô lượng giống như
mười phương, chúng sanh đă sẵn đủ
Phật tánh th́ cớ sao tuổi thọ lại khác
biệt? Chỉ v́ chúng sanh mê chưa ngộ, trái nghịch
giác, xuôi theo trần lao, do t́nh sanh nên trí bị cách ngăn,
do tâm tưởng biến đổi nên h́nh thể khác
biệt. Do vậy mới có tam giới lục đạo,
đủ mọi hiện tượng khổ - vui. Thọ
mạng trong nhân gian cao lắm cũng không ngoài trăm
năm, dẫu cơi trời Phi Phi Tưởng thọ
đến tám vạn bốn ngàn đại kiếp,
nhưng đến khi hết tuổi thọ vẫn
phải đọa xuống dưới. Rốt cuộc so
với con phù du (con vờ) sáng sanh tối chết nào có khác
ǵ!
A Di Đà Phật
phổ độ chúng sanh, chỉ cần có ḷng tín
nguyện tŕ danh hiệu Phật, chắc chắn lâm chung
được Phật tiếp dẫn văng sanh Tây
Phương. Đă văng sanh Tây Phương th́ sẽ siêu phàm
nhập thánh, liễu sanh thoát tử, thân cận Di Đà,
kề cận hải chúng, chứng Vô Sanh Nhẫn, lên
địa vị Bất Thoái, ngay trong một đời
này liền viên thành Phật đạo. Lợi ích ấy dù
hết cả kiếp vẫn khó nói trọn! So với những
gă câu nệ hẹp ḥi, tự xưng là thông gia, nhưng
lại mua rương trả châu, bỏ vàng gánh gai th́ nào
phải chỉ khác biệt vời vợi một trời
một vực ư? Đấy là pháp dễ tu tŕ nhất,
dễ thành tựu nhất trong Phật pháp, lợi ích
ấy lại vượt trỗi hết thảy các pháp
khác, bởi đă lấy Quả Địa Giác làm Nhân
Địa Tâm, cho nên nhân trùm biển quả, quả tột
nguồn nhân. Tiên sinh và phu nhân nếu chẳng v́ thấy con
người [Quang kém hèn] mà vứt bỏ lời này th́ trong
ao bảy báu nơi cơi Tây Phương sẽ lại lập
tức thấy trổ hai đóa sen tử kim. Xin hăy suy
nghĩ sâu xa, xin hăy suy nghĩ sâu đậm vậy!
18.
Lời tựa cho cuốn Văn Sao Trích Yếu
Thuốc không sang - hèn, thuốc chữa được bệnh là thuốc hay. Pháp không tinh - thô, pháp hợp căn cơ là pháp diệu. Pháp môn tu tŕ vô lượng vô biên, bọn độn căn đời Mạt thật khó thể thông hiểu trọn khắp. Huống hồ đă không chứng nhập th́ làm sao có thể đạt lợi ích cho được? Quang túc nghiệp sâu nặng, hạnh trong hiện đời nhỏ yếu, lạm dự vào Tăng chúng đă năm mươi năm. Một câu Phật hiệu vẫn chưa tŕ đến mức “tâm và Phật tương ứng”, nói ǵ các thứ pháp môn khác! Mười mấy năm qua thường có những người lầm nghe lời kẻ khác ngỡ Quang là tri thức đến nỗi gởi thư từ qua lại để cầu khai thị. Cố nhiên Quang nghiêm túc giữ bổn phận, đem những ǵ chính ḿnh biết được và chính ḿnh tu tập thưa tŕnh. Nếu người hỏi kiến thức cao minh, trí huệ rộng lớn liền xin người ấy hăy chuyển sang hỏi bậc cao nhân, quyết chẳng dám đem sự hèn tệ của chính ḿnh để ngăn giữ người, đến nỗi họ chẳng thể đạt đến chỗ cao minh, khuất lấp thiên tư tài đức của họ.
Có kẻ bảo Quang
nghiêm cấm người khác đọc tụng, nghiên
cứu kinh luận Đại Thừa, chẳng biết
phàm ai đến chỗ Quang xin dạy bảo, nếu
như [người thưa hỏi ấy] thân vướng
vít trong lưới tục, hoặc tuổi tác đă cao;
đối với những kẻ bận bịu công
việc, tháng ngày chẳng c̣n mấy, mà vẫn dạy
họ xem đọc, nghiên cứu tràn lan, chứ
trước hết chẳng dạy họ hiểu rơ
rệt thấu triệt nguyên do của pháp môn Tịnh
Độ, chắc họ sẽ có phần gieo thiện
căn, hiểu giáo lư, chứ đối với chuyện
liễu sanh thoát tử, sợ sẽ chẳng có hy vọng
ǵ, bởi chỉ chú trọng đọc tụng, nghiên
cứu để mong khai ngộ tự chứng, chẳng
c̣n chú trọng tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây
Phương. Họ chẳng biết phàm phu đầy
dẫy Hoặc nghiệp, muốn cậy vào tự lực
để liễu sanh thoát tử ngay trong đời này c̣n
khó hơn lên trời. V́ vậy, Quang chẳng nề hà
bị chê bai, giăi tấm ḷng thành bảo ban.
Có những kẻ chẳng hiềm lời lẽ hủ bại của Quang là ô uế bèn lưu truyền, đặt tên là Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao. Lại có người chọn lấy những ư cốt yếu, phân loại, biên tập đặt tên là Gia Ngôn Lục. Cư sĩ Lư Huệ Thực ở huyện Thái lại muốn trích lấy những lời phù hợp kẻ sơ cơ để dẫn dắt những ai từng đọc sách Nho nhưng không hiểu rơ nguyên do v́ sao Nho và Thích “đồng nhưng bất đồng, bất đồng nhưng đồng” sẽ học Phật, tổng cộng là bấy nhiêu bài đó, tính in ra để lưu truyền rộng khắp, cậy tôi viết lời tựa. Tôi nói: “Đă có Gia Ngôn Lục, cần ǵ lại phải in trích yếu?” Ông ta đem những ư trên đây để cố thỉnh, đành thuật những điều chánh yếu vậy!
19.
Lời tựa tái bản cuốn Bát Nhă Dung Tâm
Luận
Kim Cang
Kinh chính là khuôn mẫu do đức Phật dạy con
người phát Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát
đạo, xa ĺa trọn vẹn phàm t́nh - thánh kiến
để hành lục độ vạn hạnh. V́ thế
nói: “Ngă ưng diệt
độ nhất thiết chúng sanh, diệt độ
nhất thiết chúng sanh dĩ, thực vô chúng sanh
đắc diệt độ giả” (Ta hăy nên
độ hết thảy chúng sanh, diệt độ
hết thảy chúng sanh rồi mà thật ra chẳng có chúng
sanh nào được diệt độ cả). Ấy là
v́: Trong chẳng thấy tướng Ta là người hóa
độ; ngoài th́ chẳng thấy tướng
người được độ và tướng chúng
sanh; giữa là chẳng thấy có tướng thọ
giả[18]
chứng đắc Vô Dư Niết Bàn. Xa ĺa trọn
vẹn bốn tướng, chẳng vướng vào sáu
trần, nên được xứng tánh tu trọn khắp
lục độ vạn hạnh để trên cầu
Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh.
Đấy gọi là “không
trụ vào đâu để sanh tâm, sanh tâm nhưng không
trụ vào đâu”. Nếu có trụ th́ cái tâm
được sanh ấy sẽ đọa trong phàm t́nh
thánh kiến, sẽ trái nghịch với nghĩa “tam luân thể không[19],
nhất đạo thanh tịnh”. Do vậy, một câu “hăy nên không trụ vào đâu
để sanh tâm” quả thật là cương yếu
của bài kinh này, mà cũng là kim chỉ nam cho hết
thảy những người hành Bồ Tát đạo.
Dung Tâm Luận của U Khê đại sư đă ước theo tứ giáo (Tạng, Thông, Biệt, Viên) để giải thích, nhưng hội quy về Viên Giáo ngơ hầu người tu tŕ rốt ráo đạt được lợi ích thật sự, quả thật đă khế hợp sâu xa Phật tâm, hữu ích cho pháp đạo. Tiếc là chưa được lưu thông, khá đáng tiếc nuối! Đại sư Thiện Pháp sao được một bản, cư sĩ Vương Mưu Phụng trông thấy nguyện khắc ván, cậy Quang giảo chánh những chỗ sao chép sai lầm. Do vậy tôi bèn đại lược chọn lấy những nghĩa trọng yếu của kinh Kim Cang để ghép vào đầu sách nhằm mong người đọc luận này sẽ có cái để hướng dẫn. (Cuối Thu năm Đinh Măo, tức năm Dân Quốc 16 - 1927)
20.
Lời tựa cho sách Phổ Khuyến Học Phật
Đàm
Phật
pháp lớn lao không ǵ chẳng bao trùm, không ǵ nhỏ nhặt
chẳng được nêu lên. Phàm ai muốn học th́
phải nên chú trọng thực hành. Nếu không, sẽ
như đọc toa thuốc nhưng chẳng uống
thuốc, muốn cầu lành bệnh há có được
chăng? Do vậy, người niệm Phật cần
phải giữ vẹn luân thường, trọn hết
chức phận của chính ḿnh, dứt ḷng tà, giữ ḷng
Thành, đánh đổ những ham muốn xằng bậy để
khôi phục lễ nghĩa, biết nhân hiểu quả, mong
thành thánh thành hiền, đừng làm các điều ác, vâng
giữ các điều lành. Lại c̣n phải thật
sự v́ sanh tử, phát Bồ Đề tâm, dùng tín
nguyện sâu tŕ danh hiệu Phật, quyết định
cầu sanh thế giới Cực Lạc. Dùng những
điều này để tự hành, lại c̣n dùng
để dạy người, khiến cho trong là gia
đ́nh, ngoài là người đời đều cùng
được thấm nhuần sự giáo hóa của
Phật, cùng sanh Tịnh Độ, ngơ hầu chẳng cô
phụ sự giáo hóa của đức Phật, chẳng
phụ tánh linh của chính ḿnh.
Nếu hờ hững
nghiên cứu tràn lan các thứ pháp môn và cũng nương
theo đó tu tŕ th́ sẽ có phần làm một vị
đại thông gia và hưởng phước báo trời
người trong đời sau, chứ muốn liễu sanh
thoát tử, siêu phàm nhập thánh sợ khó thể mộng
được! V́ sao vậy? Do hết thảy các pháp môn
đều phải đoạn Hoặc chứng Chân th́
mới ḥng liễu sanh thoát tử, chứ không như pháp
môn Tịnh Độ: Cậy vào Phật từ lực
sẽ có thể đới nghiệp văng sanh. Phật
lực, tự lực khác biệt hệt như một
trời một vực! Hiểu rơ điều này sẽ
chẳng dám cậy vào tự lực, vứt bỏ Phật
lực để kéo dài kỳ hạn liễu sanh tử
tới bao nhiêu số kiếp trong vị lai.
Cư sĩ Lưu Đạt Huyền do thấy đại kiếp tràn ngập, chẳng có lúc nào thái b́nh, bèn lắng ḷng nghiên cứu kinh Phật, mới biết “Phật pháp là cái gốc của hết thảy pháp”. Nếu có thể y theo lời Phật dạy để hành th́ trên là đoạn Hoặc chứng Chân ḥng khôi phục bản tánh, dưới là đổi ác hướng lành để làm hiền nhân. Hiền nhân có thể dùng thân để hướng dẫn người khác, trong là gia đ́nh, ngoài là người đời đều sẽ nh́n theo bắt chước làm lành, thay đổi phong tục nhưng chẳng hay chẳng biết. Mạnh Tử nói: “Cùng tắc độc thiện kỳ thân” (Hễ cùng quẫn th́ riêng ḿnh thiện). Nếu làm được những điều như vừa nói trên đây th́ dẫu cùng quẫn vẫn có thể làm cho làng ấp đều cùng được thiện đâu có khó chi? Do vậy, bèn dùng lời văn thông tục để soạn thành mấy chục thiên Phổ Khuyến Học Phật Đàm (những lời bàn luận nhằm khuyên khắp mọi người đều học Phật) để mong người trí lẫn kẻ ngu đều cùng hiểu, ai nấy đều tu tŕ th́ thiên hạ thái b́nh, nhân dân yên vui chắc sẽ đích thân thấy được. [Trong lời tựa cho sách này], cư sĩ Phạm Cổ Nông đă nêu bày những điều ẩn kín, Bất Huệ chỉ nói đến sự thực hành trong khi học Phật và đường nhanh tắt để liễu sanh tử nhằm làm cho ai nấy đều cùng liễu sanh thoát tử ngay trong đời này. So với cậy vào tự lực để tu tŕ hết thảy các pháp khác th́ sự khó - dễ c̣n gấp mấy lần sự khác biệt giữa ngày và kiếp vậy! (Đầu Thu năm Canh Ngọ (1930) thời Dân Quốc)
21.
Lời tựa sách Nhân Quả Thực Chứng
Nhân
quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân
thế gian lẫn xuất thế gian b́nh trị thiên
hạ, độ thoát chúng sanh. Khổng Tử khen ngợi
Châu Dịch, vừa mở đầu liền nói: “Tích thiện chi gia tất
hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hữu
dư ương” (Nhà nào tích thiện điều vui có
thừa, nhà nào tích điều bất thiện tai
ương có thừa). Nh́n từ bề mặt, câu nói này
luận về sự vui mừng, tai ương ảnh
hưởng tới con cháu; chứ nếu luận trên
thực tế, sự vui mừng hay tai ương quy
về bản thân người ấy càng lớn hơn gây
ảnh hưởng đến con cháu nhiều lắm.
Cơ Tử trần thuật sách Hồng Phạm, cuối
cùng mới nói: “Hưởng
dụng ngũ phước, oai dụng lục cực”
(thuận theo lẽ phải th́ sẽ được
hưởng năm điều phước, hễ trái
nghịch th́ sẽ hứng chịu sáu điều khổ
cực). “Dụng” nghĩa là “sẽ”. “Cực” là khốn
cùng, khổ sở, đau đớn. Trên thực tế,
Ngũ Phước Lục Cực đă thể hiện cái
nhân thiện hay ác trong đời trước và quả báo
thiện hay ác trong đời này. Trong kinh điển Nho gia
khi nói về tiền nhân hiện quả (nhân đời
trước, quả đời này) và hiện nhân hậu
quả (nhân đời này, quả đời sau) th́ hai câu
nói ấy của Khổng Tử và Cơ Tử rơ ràng
nhất.
Kinh Phật nói nhân
quả ba đời tường tận, chu đáo
nhất. Nói toát yếu là: “Dục
tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả thị.
Dục tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị”
(Muốn biết cái nhân đời trước th́ những
ǵ phải hứng chịu trong đời này chính là nó
đấy; muốn biết quả đời sau th́ [hăy
nh́n vào] những ǵ đă làm trong đời này). Con
người thường gọi khổ - sướng, hên
- xui phải hưởng chịu trong đời này là
Mạng, cho đó là mệnh lệnh từ cơi trời, nào
biết đấy chính là quả báo của những
điều thiện - ác do chính ḿnh đă làm trong đời
trước. Trời đâu có hạ lệnh hậu đăi
người kia, bạc đăi kẻ này? V́ thế, sách
Cảm Ứng Thiên chép: “Họa
phước vô môn, duy nhân tự chiêu” (Họa -
phước không có cửa, chỉ do con người tự
chuốc lấy).
Quả báo thiện - ác
như bóng theo h́nh. Nếu biết được lư này th́
trên chẳng oán trời, dưới chẳng hờn
người, dè dặt, kiêng nể, kinh sợ tu tỉnh,
trừ khử những món vật tư dục trong tâm chính
ḿnh th́ chánh tri sẵn có trong tự tâm sẽ phát hiện. Do
vậy, kẻ mất niệm thành cuồng sẽ
đều khắc chế được ư niệm mà
trở thành thánh. Đấy chính là loại nhân quả
được nói bởi Nho giáo mà c̣n có lợi ích lớn
lao như thế, huống hồ đức Phật
dạy con người tu Giới - Định - Huệ,
đoạn tham - sân - si, đừng làm các điều ác,
vâng làm các điều lành! Thoạt đầu là
đoạn sạch Phiền Hoặc thế gian, liễu
sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh. Tiếp đến là
dần dần tấn tu cho đến khi Chân cùng Hoặc
tận, huệ măn, phước trọn, triệt chứng
tự tâm, thành Bồ Đề đạo đều
chẳng ra ngoài nhân quả. Do vậy nói: “Nhân quả là phương tiện lớn lao
để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian
b́nh trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh”.
Tống Nho cho Phật
nói nhân quả ba đời, luân hồi trong lục
đạo chính là căn cứ để gạt gẫm
hạng ngu phu ngu phụ tuân phụng giáo pháp của Ngài, chứ
thật ra không có chuyện ấy. Hơn nữa, con
người chết rồi th́ h́nh hài sẽ hư mất,
thần thức cũng phiêu tán, dẫu bị chặt - chém
- xay - giă sẽ thi thố vào đâu? Hơn nữa, thần
hồn đă tản mát rồi, lấy ai để thọ
sanh? Đả phá, bài xích nhân quả khiến cho con
người không có cái để e sợ, không có ǵ
để mong mỏi th́ thiện không có ǵ để khuyên,
ác không có ǵ để trừng phạt. Do thiện hay ác
đều không có nhân quả, Nghiêu hay Kiệt th́ cũng
đều chết sạch, kẻ không có chí hướng
cao xa ai lại chịu khăng khăng làm lành, dè dặt kiêng
ác để cầu cái hư danh sau khi đă chết ư?
Đả phá, bài xích nhân quả luân hồi, hiểu sai be
bét “cách vật trí tri”, chỉ lấy “thành ư chánh tâm,
trọn hết t́nh nghĩa, bổn phận” để làm
pháp giác ngộ cơi đời, giáo hóa dân chúng, sáng tỏ
đạo, đạt đến b́nh trị, chẳng
biết đôn đốc nơi “trừ khử món vật
tư dục trong tự tâm để thấy
được chánh tri sẵn có trong tự tâm, chỉ bày
nhân quả báo ứng trong đời trước
đời này, đời này đời sau” th́ có khác ǵ xoi
thủng đê để mong nước đừng
chảy tràn lan, bỏ thức ăn mà mong dân chẳng
bị chết đói, há có được chăng?
May mắn là ai nấy sẵn có cái tâm có thể làm Nghiêu - Thuấn, có thể thành Phật. Bất hạnh là chẳng được dạy đúng pháp đến nỗi không tránh khỏi làm hạng dân quê, làm hạng chúng sanh chẳng biết quay về cội, trở lại nguồn. Ông Châu Quần Tranh ở Vĩnh Gia từ thời thơ ấu đến lúc nhược quan (hai mươi tuổi) chẳng biết nhân quả, đă lâm vào t́nh thế “thánh mất niệm thành cuồng”. Đến đầu thời Dân Quốc, do được nghe Phật pháp từ các bậc tiên triết và thiện tri thức trong làng, mới biết nhân quả, mong mỏi được là hạng người khắc chế ư niệm trở thành thánh, khôn ngăn xót ḿnh xót người, thương ḿnh thương người, liền đem những sự tích nhân quả xác đáng, thiết thực do chính ḿnh đă thấy nghe chép lại thành một cuốn sách, đặt tên là Nhân Quả Thực Chứng. Tính đem in ra để mong ai nấy đều biết nhân rơ quả, siêu phàm nhập thánh, xin tôi viết lời tựa dẫn khởi, tôi bèn viết lời tựa này để nêu rơ những điều chánh yếu (Đầu Hè năm Kỷ Măo, tức năm Dân Quốc 28 - 1939)
22.
Lời tựa sách Triêu Mộ Khóa Tụng Bạch Thoại
Giải Thích
Đại
giáo truyền sang phương Đông gần hai ngàn năm.
Dù Tăng hay tục ai nấy đều tùy theo pháp nào
gần gũi với tánh ḿnh mà tu tŕ. Tuy pháp môn tu tŕ có
đủ mọi thứ sai khác, nhưng tụng kinh, tŕ
chú, lễ bái, sám hối, siêu độ cô hồn, cầu
sanh Tịnh Độ thật sự là những
điều chánh yếu. V́ thế, từ các kinh chú, các pháp
môn, cổ đức đă chọn lọc lấy những
phần chánh yếu, soạn thành hai thời công khóa sáng -
tối để các hành nhân y theo đó tu tŕ nhằm tiêu
trừ nghiệp chướng, tăng trưởng
phước huệ, báo đáp Tứ Ân, siêu độ cô
hồn. Do ḷng Từ rộng lớn của đức
Phật, do tận hết ḷng Thành của chính ḿnh, cố
nhiên đạo ấy thông trên thấu dưới, ích
lợi ấy dù cơi âm hay dương gian đều
chẳng hề thiếu sót. Do vậy, đạo tràng trong
thiên hạ dù Tông hay Giáo, dù Luật hay Tịnh, không đâu
chẳng kính vâng lấy đó làm chương tŕnh [tụng
niệm] nhất định.
Đầu đời
Thanh đă có người soạn cuốn Nhật Khóa
Tiện Mông[20]
nhưng chỉ giải thích đại lược câu
chữ mà thôi! Gần đây có pháp sư Hưng Từ
soạn cuốn Nhị Khóa Hiệp Giải khá tường
tận, rơ ràng, nhưng do văn tự hơi sâu nên kẻ
sơ cơ chưa được lợi lạc cho
lắm. Cư sĩ Hoàng Hàm Chi trong mấy năm trước
đă từng soạn cuốn Sơ Cơ Tịnh
Nghiệp Chỉ Nam và Di Đà Bạch Thoại Giải
Thích in tới hơn mấy chục vạn bản.
Những người đề xướng học
Phật ở những nơi khác đều tiếp
tục thỉnh sách. Cố nhiên, Hoàng Hàm Chi biết văn
Bạch Thoại chẳng thể nào súc tích, trang trọng
như Văn Ngôn được, nhưng do nó có thể giúp
cho người kém học vấn sẽ nhờ vào
đấy để lănh hội được, nên ông hoàn
toàn dùng thể văn Bạch Thoại để giải
thích khóa tụng sáng tối. Ông rất sợ kiến
giải của chính ḿnh chắc sẽ có những chỗ
chưa thấu đáo nên mỗi mỗi đều cậy
người bạn là cư sĩ Cố Hiển Vi sửa
chữa. Lại do thấy những ư nghĩa tột cùng
của những danh tướng được nói
đến trong sách ấy có lẽ [độc giả]
chưa hoàn toàn hiểu trọn, nên trước đấy
đă viết các tập sách Phật Pháp Đại Ư, Tâm
Kinh Bạch Thoại Giải Thích và Di Đà Kinh Bạch
Thoại Giải Thích, khá nhiều tác phẩm đều
được đề xuất lưu hành riêng.
Hai thời khóa tụng
có được bản giải thích này th́ kẻ sơ
cơ sẽ nối tiếp nhau hưởng các thứ
lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. Tuy nhiên, tŕ tụng
kinh chú quư tại chí thành. Dẫu trọn chẳng biết
nghĩa, mà nếu có thể hết ḷng thành, cạn ḷng
kính, kiền thành, khẩn thiết thọ tŕ th́ lâu ngày
chầy tháng tự nhiên sẽ nghiệp tiêu trí rạng,
chướng tận, tâm minh, c̣n có thể thấu hiểu
trực tiếp ư Phật, huống là những giải thích
về mặt văn tự và ư nghĩa của chúng ư?
Nếu không, dẫu có thấu hiểu thông suốt nhưng
do chẳng chí thành th́ chỉ trở thành t́nh kiến phàm
phu, ḍ đoán suy lường mà thôi; chứ không có cách nào
đạt được lợi ích chân thật và sự
cảm ứng chân thật của kinh! Do hoàn toàn là thức
tâm[21]
phân biệt suy lường th́ làm sao có thể ngầm thông
Phật trí, thầm hợp diệu đạo, hễ
vừa vượt thoát liền chứng nhập trực
tiếp, mau chóng đạt lợi ích thù thắng?
Thường thấy ngu phu ngu phụ cắm cúi tu tŕ đạt được lợi ích hơn hẳn kẻ thông minh nhiều lắm. Ấy là v́ một đằng hết ḷng Thành, cạn ḷng kính, chuyên tâm nhất chí, c̣n một đằng th́ hờ hững, lợt lạt, tán loạn, hư vọng suy lường mà ra! Xin các độc giả đều biết ư này, đấy chính là đă hiểu trọn ư nghĩa của kinh, khi tŕ tụng sẽ chẳng c̣n sanh phân biệt nữa, sẽ như đối trước thánh dung đích thân lắng nghe viên âm, trọn không thấy có một niệm nào để được th́ lợi ích ấy chẳng thể dùng ng̣i bút để h́nh dung được đâu! Đấy chính là bí quyết tŕ tụng. Nguyện khắp các đồng nhân đừng coi thường lời này th́ may mắn lắm thay! (Giữa Xuân năm Canh Ngọ, tức năm Dân Quốc 19 - 1930)
23.
Lời tựa cho lễ truyền giới tại Viên Giác thiền
viện ở Ngư Sơn, huyện Sào
Đức
Như Lai dùng ba sự để giữ cho chánh pháp tồn
tại lâu dài trong thế gian khiến cho chúng sanh
đều được độ thoát. Ba sự ấy
là ǵ? Chính là Giới - Định - Huệ. Do chúng sanh
một mực trái nghịch đạo giác, xuôi theo trần
lao, luân hồi trong lục đạo, nên nay đức
Phật muốn làm cho họ bỏ trần lao thuận theo
đạo giác, hướng tới chứng
được Niết Bàn. Nếu không có Giới th́
chẳng có ǵ trói buộc, ắt sẽ đến nỗi
đuổi theo trần cảnh, khởi Hoặc, tạo
nghiệp. Không có Định, sóng thức cuồn cuộn,
làm sao tâm không trụ vào đâu cho được! Không có
Huệ sẽ do đâu triệt chứng được
chân tâm sẵn có? Vọng Hoặc huyễn khởi sẽ do
đâu mà nhanh chóng diệt mất? V́ thế, kinh Lăng
Nghiêm dạy: “Nhiếp tâm là
Giới, nhân Giới sanh Định, nhân Định phát
Huệ. Đấy gọi là Tam Vô Lậu Học”.
Hăy nên biết: Cả
ba điều này chính là một, tuy một nhưng là ba.
Đừng cho rằng Giới chỉ là nền tảng ban
đầu của Định và Huệ mà thôi! Phàm Luật
Nghi Giới giữ cho thân chẳng làm [những điều
ác] th́ có thể gọi là nền tảng ban đầu,
nhưng Định Cộng Giới giữ cho tâm chẳng
khởi [những vọng niệm] và Đạo Cộng
Giới[22]
nghiệp tận t́nh không, Chân cùng, trí rạng, há chẳng
phải là toàn thể đại dụng của
Định và Huệ ư? Há nên chỉ coi là nền
tảng ban đầu ư? Nhưng Định Cộng
Giới và Đạo Cộng Giới lấy Luật Nghi
Giới làm bản thể, chỉ do công dụng tŕ giới
sâu hay cạn mà lập ra hai cái tên ấy, chứ chẳng
phải là nói đến thứ giới bổn nào khác
cả! Người đời thường lấy
Luật Nghi để bàn luận, đến nỗi
chẳng biết hoặc coi thường ư nghĩa chế
giới lớn lao của đức Như Lai! Chẳng
khởi sự từ Văn Huân[23] mà
mong đạt được Chân
Giới, Chân Định, Chân Huệ, đáng than lắm
thay!
Pháp đạo của
đức Như Lai có phạm vi rộng khắp
mười cơi, tuy các bậc đại sĩ hoằng pháp
ai nấy đều Tam Học viên minh, nhưng do kiến lập
môn đ́nh, mỗi vị chẳng thể không chuyên chú
trọng [nơi một môn]. Hoặc chuyên chú nơi “Chỉ
Tác Tŕ Phạm”[24] th́
thành Luật. Hoặc chuyên chú nơi tu quán giảng diễn
th́ thành Giáo. Hoặc chuyên chú nơi tham cứu bổn lai
để mong triệt ngộ th́ thành Tông (Thiền). Tông
mang tên là “giáo ngoại biệt
truyền” (truyền riêng ngoài giáo) c̣n Luật là “giáo nội chân truyền” (chân
truyền bên trong giáo). Nói “biệt
truyền” là muốn cho con người thấy
được bản thể ở ngoài ngôn ngữ;
chứ không có nghĩa là Tông vượt xa hẳn ra ngoài
giáo lư!
Hăy thử nghĩ xem:
Lúc đức Thế Tôn cầm cành hoa giơ lên, ngài Ca
Diếp mỉm cười, bổn địa phóng quang,
triệt để hiển lộ. Hiểu rơ điều
ấy th́ tất cả h́nh sắc trọn khắp thế
gian, không ǵ chẳng phải là đóa hoa đang
được đức Thế Tôn cầm, không ǵ
chẳng làm cho con người thấy được
triệt để diện mục sẵn có của chính
ḿnh trước khi được cha mẹ sanh ra.
Huống chi vô thượng diệu pháp được nói
bởi chính kim khẩu của đức Như Lai lại
chẳng phải là đóa hoa ấy hay sao, chẳng thể
làm cho con người đích thân thấy được
bản lai diện mục ư?
Nhưng trăm vạn
trời người dẫu thấy đức Thế Tôn
cầm cành hoa giơ lên thảy đều ngơ ngác,
cũng như đang cưỡi lừa lại đi t́m
lừa, trọn chẳng thể lănh hội
được. Nếu biết [bản lai diện mục]
chính là ở ngay nơi đấy th́ bao nhiêu người
sẽ thành tựu ngay trong đời hiện tại,
đỡ tốn sức biết bao nhiêu. Do mê nên chẳng
biết quay trở lại, giống như chàng Diễn Nhă
[trong kinh Lăng Nghiêm nh́n vào gương trông thấy]
đầu ḿnh, vô cớ phát cuồng chạy quàng lên;
hạt châu trong chéo áo mà oan uổng chịu bần cùng,
thật đáng buồn thay! Cần biết rằng
Luật, hay Giáo, hay Tông, phải trọn vẹn cả ba
thứ này th́ mới có thể tiếp nối huệ
mạng, truyền pháp đạo của đức
Phật được! Nếu bị thiếu khuyết
sẽ chẳng đủ để trên là chứng A
Nậu Bồ Đề, dưới là độ hết
thảy hàm thức.
Lô Xá Na Phật lấy
Giới làm Thể, do không điều ác nào chẳng hết
sạch nên gọi là Tịnh, không điều thiện nào
chẳng trọn vẹn nên gọi là Măn[25].
Đoạn ác tu thiện chính là cùng vâng giữ Chỉ và
Tác. Do vậy, Luật là Phật thân, Giáo là Phật ngữ,
Tông là Phật tâm. Ba thứ tâm - ngữ - thân quyết
chẳng thể tách rời, quyết khó thể thiếu
sót. Nếu không, th́ một cánh khó bay, một bánh xe chẳng
thể di chuyển được! Muốn tự lợi, lợi
tha sẽ khó thể như nguyện!
Viên Giác Am ở Ngư
Sơn sáng lập từ đời Minh tồn tại cho
đến ngày nay, dẫu có lúc ch́m, lúc nổi, hoặc suy,
hoặc thịnh khác nhau. Đến năm Dân Quốc thứ tám (1919), Trụ Tŕ là ḥa
thượng Cảnh Công phát Tứ Hoằng Thệ quyên
mộ tu bổ, đến năm Dân Quốc 15 (1926),
điện vũ pḥng ốc đều mới mẻ rạng
ngời. Do điện vũ đă thành, lại muốn
truyền giới bởi kiến tạo tùng lâm chính là v́
để thực hiện việc [truyền giới] này.
Do vậy, từ ngàn dặm gởi thư yêu cầu tôi
viết lời tựa nhằm nêu bật ư nghĩa này. V́
thấy hoằng truyền giới pháp chính là một chánh
điển (nghi lễ chánh yếu) trong pháp môn nên tôi
chẳng thể từ tạ được. Hiềm
rằng Quang đối với Tông, với Luật, với
Giáo đều chẳng có tâm đắc ǵ, làm sao có thể
chẳng phụ ḷng Sư giao phó cho được? Chỉ
đành thuật tóm tắt những điều mà tri
kiến hèn tệ của chính ḿnh có thể lănh hội
được từ những ǵ Phật, Tổ, cổ
đức đă nói cho xong trách nhiệm.
Kinh Di Giáo dạy: “Này các thầy tỳ-kheo! Sau khi ta
diệt độ, hăy nên tôn trọng, quư trọng, cung kính
Ba La Đề Mộc Xoa[26]
như trong tối tăm gặp được ánh sáng,
như kẻ nghèo được báu vật. Hăy nên biết
đấy chính là đại sư của các thầy
giống như ta trụ thế, trọn chẳng khác ǵ!”
Kinh Phạm Vơng dạy: “Ta là
Phật đă thành, các ông là Phật chưa thành. Nếu tin
được như thế th́ giới phẩm đă
trọn đủ”. Lại nói: “Chúng sanh nhận lănh giới nhà Phật liền
dự vào địa vị Phật, địa vị
giống với bậc Đại Giác, đúng là con của
chư Phật”. Nguyện các Phật tử thọ
giới ai nấy đều tự biết chính ḿnh vốn
sẵn là Phật, nhưng do mê trái nên ngược ngạo
nhờ vào sức công đức Phật tánh ấy mà luân hồi trong lục đạo,
chịu các sự khổ cùng cực.
Như Chuyển Luân Thánh Vương mộng thấy ḿnh là con kiến, lần theo mùi tanh ḅ ở dưới thềm, tự thấy ḿnh hèn nhỏ, nhưng thân vua nằm ở trên giường vẫn y nguyên như cũ chẳng mất. Đến khi tỉnh giấc mới biết huyễn hoặc biến thành kiến, chứ trọn chẳng có thực thể! Hết thảy chúng sanh cũng giống như thế. Phật vốn là chưa thành, nghiệp vốn là không nhưng lầm lạc tạo dựng, đề cao thánh cảnh, cam phận phàm ngu, nhường cho ḿnh đức Thích Ca Thế Tôn làm một vị trượng phu hùng mănh, há chẳng đáng buồn quá đỗi ư? Nếu các Phật tử thọ giới ai nấy đều gắng sức th́ chẳng những không phụ một phen nhọc ḷng truyền giới của ḥa thượng Cảnh Công mà c̣n an ủi được một phen thánh ư xuất thế chế giới của đức Như Lai vậy!
24.
Lời nói đầu dành cho bản báo cáo kết toán thâu
nhập lần thứ sáu của Hoằng Hóa Xă ở Tô Châu
Nhân
quả báo ứng là phương tiện lớn lao
để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian
b́nh trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh. Pháp môn
Tịnh Độ là đạo để hết thảy
lục đạo tam thừa đạt đến mục
đích liễu sanh thoát tử, viên chứng Bồ
Đề. Kể từ sau khi Tống Nho bài xích nhân
quả, pháp “trị quốc, trị gia, trị thân, trị
tâm” chỉ c̣n là cành lá, trọn chẳng có cội gốc,
dẫn đến những thói cuồng loạn không
cứu văn được, hết cả thuốc chữa!
Dẫu học Phật chẳng tu Tịnh Độ
vẫn có thể triệt ngộ tự tâm, thâm nhập kinh
tạng, nhưng nếu chưa đạt đến
địa vị “nghiệp tận, t́nh không” th́ vẫn luân
hồi trong lục đạo y như cũ! Biển sanh
tử sâu thăm thẳm, đường Bồ Đề
xa vời vợi, muốn cậy vào tự lực
để liễu sanh thoát tử sẽ khó như lên
trời!
Bất Huệ
nghiệp nặng, phước nhẹ, nghiệp sâu,
huệ cạn, tuy có ḷng cứu nước, cứu dân,
tự lợi, lợi tha nhưng không có đạo
để hoằng pháp cứu vớt mọi người,
tự lập, lập người, chỉ đành
lượng theo sức ḿnh ấn hành lưu truyền
đôi chút những kinh sách thiết yếu, khế cơ
tuyên nói về nhân quả và Tịnh Độ để
mong kẻ thấy người nghe đều cùng sanh chánh
tín, cùng tu Tịnh nghiệp, đều cùng giữ vẹn
luân thường, trọn hết bổn phận, dứt
ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng làm các điều ác, vâng
giữ các điều lành nhằm trọn hết tấm
ḷng tôi mà thôi!
Mùa Xuân năm Canh Ngọ, tức năm Dân Quốc 19 (1930), thầy Minh Đạo tính lập ra Hoằng Hóa Xă tại Thượng Hải Tịnh Nghiệp Xă để lưu thông các kinh sách đă ấn tống trong mấy năm trước, được các vị cư sĩ tán trợ, đă bắt đầu hoạt động. Vào đầu Hạ, Bất Huệ bế quan tại chùa Báo Quốc ở Tô Châu nhất loạt không hỏi đến. Năm sau, Hoằng Hóa Xă dời về chùa Báo Quốc, khá phát đạt. Đến tháng Mười năm nay, sư Minh Đạo mất, chuyện Hoằng Hóa Xă không giao được cho ai, chỉ đành tự đảm nhiệm. Nhưng tôi là một Tăng tầm thường chỉ biết cơm cháo đă bảy mươi sáu tuổi lại thù tiếp vụng về, nếu các đại cư sĩ có ḷng Bồ Đề v́ pháp, v́ người vẫn duy tŕ như cũ th́ kinh sách của Hoằng Hóa Xă sẽ có thể lưu truyền xa gần, chẳng đến nỗi do v́ Bất Huệ lo liệu mà bị bỏ phế, hoạt động rời rạc vậy! Viết những điều này để mong các đại cư sĩ sáng soi (Giữa Xuân năm Bính Tư, tức năm Dân Quốc 25 - 1936)
Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên
Quyển
3
Phần 5
hết
[1] Quốc Học là thuật ngữ của người Trung Hoa dùng để chỉ một môn học nghiên cứu về văn hóa, học thuật, tư tưởng, triết học của Trung Hoa như một tổng thể và chia ra nhiều chuyên ngành như nghiên cứu kinh học, huấn hỗ, lục nghệ (lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số), kể cả những môn như bói toán, phong thủy, tướng số v.v…
[2] Ngài Bảo Chưởng (?-657) là
người Trung Ấn Độ, được cơi
đời xưng tụng là Bảo Chưởng Thiên
Tuế Ḥa Thượng (vị Ḥa Thượng tay báu ngàn
tuổi). Theo truyền thuyết, lúc ngài sanh ra tay trái nắm
chặt măi đến bảy tuổi mới mở ra, nên
có tên là Bảo Chưởng. Ngài đến Trung Hoa vào đầu thời Tam Quốc (khi Tào
Tháo c̣n chưa phế vua Hán), vào đất Thục (Tứ
Xuyên) tham lễ Phổ Hiền Bồ Tát. Sư
thường nhịn ăn, hằng ngày tụng kinh Bát Nhă
đến hơn một ngàn quyển. Một bữa, đột nhiên bảo
đại chúng: “Ta nguyện
trụ thế một ngàn năm, nay đă sáu trăm hai
mươi sáu năm rồi!” V́ thế, có danh xưng là
Thiên Tuế. Sư từng tham phỏng Ngũ Đài, Lô
Sơn v.v… Không lâu sau, Tổ Đạt Ma sang Trung Hoa, Sư
bèn đến hỏi đạo, được khai ngộ.
Từ năm Trinh Quán 15 (641), Sư ở lại chùa Bảo
Nghiêm tại Bồ Giang, chơi thân với Lăng Thiền
Sư, thường sai một con chó trắng đưa
thư, Lăng sư sai con vượn xanh đưa thư
đáp lời.
[3] Nguyên văn “hoàn khố” (quần may bằng lụa nơn). Đây là một thành ngữ ngụ ư chê bai con em những gia đ́nh phú quư chỉ biết hưởng thụ, xa xỉ, phù phiếm, rỗng tuếch, vô tích sự! Thành ngữ này vốn phát xuất từ một câu nói trong thiên Tự Truyện của Hán Thư: “Xuất dữ vương, hứa tử đệ ư quần, tại vu ỷ nhu hoàn khố chi gian, phi kỳ hảo dă” (Đi ra ngoài cùng với vua bao nhiêu là con em xúm xít, ở trong đám áo thêu rực rỡ, quần lụa nơn ấy, có hay ho chi đâu?) “Hoàn” vốn là một thứ lụa mỏng mịn mặt, rất đắt tiền, những kẻ trẻ tuổi chuộng xa hoa, bóng bẩy thường ưa mặc loại lụa này.
[4] Phương ngoại: Người
xuất gia làm bạn với người thế tục
thường tự xưng là “phương ngoại”,
ngụ ư ḿnh đă xa lánh cơi trần, không c̣n dính dấp vào
thế tục nữa.
[5] Bối Đa, gọi đủ là Bối Đa La (Pattra) là một loại thực vật có lá to, thường được dùng để chép kinh (thường gọi là Bối diệp kinh). Cây Pattra có tên khoa học là Laurus Oassia, gồm nhiều loại nhỏ, loại cây có lá được dùng phổ biến nhất là cây Đa La (Tāla). Cây Đa La thân cứng, lá dài, chất lá dày. Để chép kinh, người ta đem lá phơi khô, cắt thành từng miếng vuông vức, hai bên khoét lỗ để buộc dây xâu lại cho khỏi thất lạc, dùng kim trổ chữ trên lá rồi dùng mực bôi lên để hiện chữ.
[6] Ô Đồ (Odra), đôi khi c̣n phiên là Ô Trà, là một vương quốc cổ ở Đông Ấn Độ, nay thuộc vùng Orīssa. Sử Trung Hoa thường chép sai thành nước Ô Trành. Theo Đại Đường Tây Vực Kư, xứ ấy khí hậu ôn ḥa, con người dáng vẻ khôi ngô, ham học, dốc ḷng tin tưởng Phật pháp, sùng phụng Phật giáo Đại Thừa.
[7] Kinh Hoa Nghiêm chia các cơi Phật thành hai thứ: Quốc độ hải và thế giới hải.
1) Quốc độ hải là cơi Phật chẳng thể nghĩ bàn, là y báo để tự thể của chính đức Phật hưởng dụng trên Phật quả, tức là cảnh giới viên dung tự tại không cách nào h́nh dung được. Chỉ có ḿnh đức Phật thấu hiểu, cảm nhận được, ai chưa thành Phật sẽ không cách nào nhận biết được.
2) Đối lập với quốc độ hải là thế giới hải, tức là các cảnh giới, cơi nước dành cho những đối tượng đức Phật giáo hóa. Do nh́n về phương diện chưa giác ngộ viên măn sẽ có mười pháp giới nên Thế Giới Hải c̣n gọi là Thập Phật Nhiếp Hóa Chư Thế Giới Chủng, tức là cùng một cơi Phật, nhưng do tŕnh độ chứng ngộ sai khác sẽ thấy khác nhau, cảm nhận khác nhau. Mức độ nhận thức về Phật trong mười pháp giới ấy khác nhau nên nh́n về mặt h́nh tướng dường như có đến quả vị Phật nơi mười pháp giới khác nhau. V́ thế, gọi là Thập Phật. Thế Giới Hải lại được chia thành ba loại lớn:
a) Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm Thế Giới Hải (c̣n gọi gọn là Liên Hoa Tạng Thế Giới, Hoa Tạng Giới), là cảnh giới sở chứng của bậc Chứng Nhập Sanh, tuy có thể diễn nói được, nhưng cũng chỉ là h́nh dung đại lược đôi phần. Các h́nh tướng trong thế giới ấy trùng trùng duyên khởi vô cùng vô hạn giống như những hạt châu trong lưới Thiên Đế phản chiếu lẫn nhau.
b) Thập Chủng Thế Giới Hải, gồm mười thứ ở ngoài tam thiên đại thiên thế giới, tức thế giới tánh, thế giới hải, thế giới luân, thế giới viên măn, thế giới phân biệt, thế giới toàn, thế giới chuyển, thế giới liên hoa, thế giới tu di, thế giới tướng. Tức là những cảnh giới được thấy bởi bậc Thập Địa Bồ Tát.
c) Vô Lượng Tạp Loại Thế Giới Hải, nói về h́nh trạng của các thế giới giống như núi Tu Di, như bánh xe, như sông ng̣i, như lầu, đài v.v…
Nói chung, tùy theo mức độ chứng ngộ mà thấy đủ mọi loại thế giới, nhưng các thế giới ấy đều viên dung vô ngại. Do vậy, gọi chung là Hoa Nghiêm thế giới, tức là khu vực được giáo hóa bởi đức Tỳ Lô Giá Na.
[8] Dật Nhân chính là biệt hiệu
của ḥa thượng Chân Đạt.
[9] Lính canh giữ biên pḥng gọi là Thú. Phạm tội bị đày ra biên cương làm lính canh th́ gọi là “trích thú”. Do ngài Hám Sơn được Thái Hậu nhà Minh đặc biệt tôn sùng, kính ngưỡng, cúng dường Sư rất trọng hậu, Minh Thần Tông vốn hâm mộ Đạo giáo, lại bực bội v́ Thái Hậu đă dùng khá nhiều tiền để cúng dường Phật giáo cũng như hỗ trợ Sư trong công cuộc hoằng pháp nên khi bọn đạo sĩ ở Lao Sơn vu cáo Sư tu bổ chùa Hải Ấn đă chiếm đoạt đạo quán, vua liền thừa cơ khép tội Sư lén lút tu bổ chùa, tự tiện xây dựng chùa Trạm Sơn, chiếm đoạt điền sản của đạo sĩ, đầy Sư đi làm lính thú ở Lôi Châu (Quảng Châu) vào năm Vạn Lịch 23 (1595). Trong suốt thời gian bị đi đày ở Quảng Đông, Sư dùng thân phận tù nhân hoằng dương giáo pháp, đạo phong ảnh hưởng rất lớn. Măi tới năm Vạn Lịch 42 (1614), Thái Hậu mất, vua mới xuống chiếu cho Sư được mặc lại Tăng phục.
[10] Đạo quán: Miếu thờ và
đạo tràng tu tập của đạo sĩ, c̣n
gọi là đạo viện.
[11] Thầm Mẫu tức Thầm Anh, là người nước Ngô thời Tam Quốc. Theo Thái Thượng Linh Bảo Tịnh Minh Tông Giáo Lục, Thầm Mẫu vốn là người xứ Hoàng Đường, quận Đan Dương, tu tiên, tóc bạc phơ, mặt như trẻ thơ, răng tóc không rụng, nên người đời gọi là Anh Mỗ (bà cụ già có vẻ mặt như trẻ con), dân gian liền đồn đại bà ta đă đắc đạo. Sách Thanh Vi Tiên Phổ ghi: “Thượng Thanh Nguyên Quân Tây Hóa Thánh Mẫu, c̣n có hiệu là Linh Bảo Tịnh Minh Hoàng Tố Thiên Tôn, chính là nữ chân nhân Thầm Mẫu vậy, được bậc cao tiên cơi trời Thượng Thanh truyền cho ba chương Thượng Minh Ngọc Thư, ngầm tu đạo mầu, cảm được ngọc phù (ấn bùa bằng ngọc) sanh lên cung Tây Hóa Tịnh Quang trên cơi trời”.
[12] Tam Đa là đa phước, đa thọ, đa tử (nhiều phước, lắm thọ, đông con cháu). Đây là một điển tích thường được biết đến bằng từ ngữ “Hoa phong tam chúc”. Điển tích này xuất phát từ đoạn văn sau đây trong thiên Thiên Địa sách Trang Tử: “Nghiêu quán vu Hoa, Hoa phong nhân đối: ‘Thỉnh chúc thánh nhân, sử thánh nhân phú, sử thánh nhân thủ thọ, sử thánh nhân đa nam tử” (Vua Nghiêu đến thăm đất Hoa, người được sắc phong ở đất Hoa thưa: ‘Xin chúc thánh nhân, mong cho thánh nhân giàu có, mong cho thánh nhân sống thọ, mong cho thánh nhân nhiều con trai).
[13] Ngũ suy: Năm tướng trạng hoặc dấu hiệu chứng tỏ một vị trời sắp hết tuổi thọ. Nếu nói chi tiết th́ theo như Tăng Nhất A Hàm Kinh, quyển 24, có hai loại:
1) Đại Ngũ Suy Tướng gồm y phục dơ bẩn (y phục chư thiên luôn thơm sạch, sáng láng, lúc tuổi thọ sắp hết tự nhiên sanh dơ bẩn), hoa trên măo tự nhiên bị héo, dưới nách toát mồ hôi, thân thể bốc mùi hôi hám, chẳng c̣n ưa thích ṭa ngồi của chính ḿnh.
2) Tiểu Ngũ Suy Tướng: Tiếng nhạc không c̣n trỗi lên (do phước báo, cơi trời thường tấu âm nhạc, nhưng đến lúc một vị trời sắp hết thọ mạng, tự nhiên không c̣n nghe thấy tiếng nhạc), ánh sáng nơi thân bị tắt mất, nước tắm dính vào thân, sanh ḷng tham đắm vào cảnh bên ngoài không buông bỏ được, mắt chớp lia lịa.
[14]
Lệ trạch: Giúp đỡ lẫn nhau, giồi mài
lẫn nhau. Từ ngữ này vốn phát xuất từ
một câu trích từ phần giải thích ư nghĩa quẻ
Đoài trong chương Tượng Truyện của sách
Châu Dịch: “Lệ trạch,
Đoài, quân tử dĩ bằng hữu giảng tập”.
Theo đó, “lệ trạch” có nghĩa là hai cái đầm
thông với nhau, nước được thông
thương từ đầm này qua đầm kia,
giống như bạn bè trao đổi bồi đắp
kiến thức, học thuyết cho nhau. Do vậy, câu trên
thường được giảng là: “Quẻ Đoài giống như hai cái
đầm thông với nhau [đắp đổi
nước cho nhau], quân tử do kết giao với bạn
bè tốt mà giảng giải, nghiên cứu, luyện tập
đạo lư với nhau”.
[15] Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận (Mahāyāna-śatadharma-prakāśamukha-śāstra) c̣n gọi là Bách Pháp Minh Môn Luận, Bách Pháp Luận v.v… được soạn bởi Thiên Thân Bồ Tát, ngài Huyền Trang dịch sang tiếng Hán. Nội dung trích lục phần Bách Pháp Danh Số trong Du Già Sư Địa Luận, được coi là một bộ luận trọng yếu của Pháp Tướng Tông. Luận này phân loại hết thảy các pháp trong thế gian thành năm vị, một trăm loại lớn (ngũ vị bách pháp). Bộ luận này được chú giải rất nhiều bởi những vị đại đức nổi danh thuộc nhiều tông phái khác nhau như Khuy Cơ, Đại Thừa Quang, Đàm Khoáng, Hám Sơn Đức Thanh, Ngẫu Ích Trí Húc v.v…
[16] Nhị nghiêm: Gọi đủ là “nhị chủng trang nghiêm”, có hai cách hiểu:
1) Trí Huệ Trang Nghiêm và Phước Đức Trang Nghiêm. Kinh Đại Bát Niết Bàn, quyển 27, giảng: “Nhị Chủng Trang Nghiêm, một là trí huệ, hai là phước đức. Nếu có Bồ Tát đầy đủ hai thứ trang nghiêm ấy th́ sẽ hiểu biết Phật Tánh”. Cách hiểu này thông dụng nhất.
2) Nhị Nghiêm là h́nh tướng trang nghiêm và đệ nhất nghĩa trang nghiêm. Kim Cang Kinh Toản Yếu Sớ giảng:
a. H́nh tướng trang nghiêm: Con người nhận biết cơi Phật có đủ mọi thứ h́nh tướng trang nghiêm, nhưng biết đấy chưa phải là trang nghiêm chân thật.
b. Đệ nhất nghĩa trang nghiêm: Tâm thanh tịnh không chấp trước, nương theo trí huệ chân thật, thông đạt cơi Phật nơi tự tánh, duy tâm hiển hiện.
[17] U Khê đại sư chính là ngài Truyền Đăng (không rơ năm sanh và năm mất), ngài họ Diệp, hiệu là Vô Tận. Xuất gia từ nhỏ với ngài Tiến Hiền Ảnh Am, sau theo học giáo nghĩa Thiên Thai với ngài Bách Tùng. Năm Vạn Lịch thứ mười (1582) đời Minh, do hỏi ngài Bách Tùng về ư chỉ của Lăng Nghiêm Đại Định, bị ngài Bách Tùng trừng mắt nh́n trân trối, Sư đột nhiên khế nhập. Năm Vạn Lịch 15 (1587), Sư sang chùa Cao Minh ở U Khê dạy dỗ đồ chúng, nghiên cứu Thiền lẫn Tịnh. Cuốn Tịnh Độ Sanh Vô Sanh Luận được hoàn thành trong thời gian này, điểm đặc sắc là vận dụng ư chỉ Tam Quán của tông Thiên Thai để xiển dương pháp môn Tịnh Độ. Năm Vạn Lịch 25 (1597), Sư lại soạn những tác phẩm A Di Đà Kinh Lược Viên Trung Sao, Lăng Nghiêm Kinh Huyền Nghĩa, Tục Xuất Thiên Thai Sơn Phương Ngoại Chí, Lăng Nghiêm Kinh Viên Thông Sớ, Tánh Thiện Ác Luận, Duy Ma Kinh Vô Ngă Sớ, Thiên Thai Truyền Phật Tâm Ấn Kư Chú. Sư thường tu các sám pháp Pháp Hoa, Đại Từ, Quang Minh, Di Đà, Lăng Nghiêm v.v… mỗi năm hành bốn thứ tam-muội. Khi lâm chung, Sư viết năm chữ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, cao giọng xướng đề kinh hai lượt, rồi thanh thản qua đời.
[18] Thọ Giả tướng (Jīvasamjñā): Theo quan điểm thông tục, mỗi cá thể sẽ có một linh hồn hoặc nhân cách, linh hồn ấy sẽ luân chuyển thọ sanh tồn tại thật sự. Đó gọi là Thọ Giả Tướng. Trong Kim Cang Bát Nhă Sớ, quyển 3, ngài Cát Tạng đă viết: “Ngoại đạo chấp có Thần Ngă, chết đây sanh kia, trải khắp sáu đường nên gọi là Thọ Giả”. Ngoài ra, theo quyển 2 của kinh Đại Phẩm Bát Nhă th́ Thọ Giả chính là một trong mười sáu tên gọi khác của Ngă.
[19] “Tam luân thể không” là lúc bố thí th́ người bố thí, kẻ tiếp nhận và vật bố thí đều vốn là không, phá sạch tướng chấp trước. Nói chi tiết hơn th́:
1) Thí Không: Đối với người bố thí th́ thân ta vốn là không, đă biết là vô ngă, sẽ không c̣n có cái tâm mong cầu phước báo, nên gọi là Thí Không.
2) Thọ Không: Đă thấu hiểu không có người bố thí th́ cũng không có người nhận, nên chẳng khởi lên ư tưởng ngạo mạn, nên gọi là Thọ Không.
3) Thí Vật Không: Chữ Vật chỉ cho những của cải, vật chất. Đă thấu hiểu hết thảy là không th́ dù có được thí cũng thấy như không thí, chẳng khởi ư tưởng tham cầu nên gọi là Thí Vật Không.
[20] Cuốn sách này do ngài Thích Hải Khoan
biên soạn dưới đời vua Ung Chánh.
[21] Thức tâm (c̣n gọi là Tâm Sở Pháp),
tức cái tâm bị chi phối bởi tác dụng của
sáu thức hay tám thức; gọi như vậy để
phân biệt với chân tâm.
[22] Luật Nghi Giới: Những giới
luật do đức Phật chế định nhằm
giữ cho ba nghiệp thân miệng ư của hành giả
được thanh tịnh, ngăn ngừa những
vọng niệm nẩy sanh, có tác dụng “pḥng phi, chỉ ác” (ngăn ngừa những
điều sai trái, dứt các điều ác). Định
Cộng Giới: Giới đạt được do
đạt đến mức tinh thuần nơi
Định, tức là do Định tâm bất tán nên luôn
giữ được giới thể, giới
tướng thanh tịnh. Tâm thường an trụ trong
Định nên tất cả hành vi, tạo tác, tâm niệm
tương ứng với Định, không c̣n rong ruổi
theo trần cảnh nên tuy không chú tâm giữ ǵn giới
tướng mà không trái phạm giới. Đạo Cộng
Giới cũng tương tự, nhưng là sự giữ
giới tinh thuần do tác dụng của Huệ Học.
[23] Văn Huân: Do nghe pháp mà tâm thức
được huân tập.
[24] Chỉ Tác Tŕ Phạm: Gọi đúng ra
là “Chỉ Tŕ, Tác Phạm”, tức là những giới
hễ ngăn dứt không làm th́ là Tŕ Giới (nên gọi là
Chỉ Tŕ), c̣n hễ làm th́ bị coi là phạm giới (nên
gọi là Tác Phạm). Hiểu rộng hơn th́ Chỉ Tác
Tŕ Phạm chỉ chung cho mọi giới tướng.
[25] Lô Xá Na Phật chính là Báo Thân Phật.
Danh hiệu Lô Xá Na gồm hai nghĩa Tịnh và Măn.
[26] Ba La Đề Mộc Xoa (Prātimoksa) chính là giới luật để bảy chúng đệ tử Phật ngăn ngừa tội lỗi nơi thân - khẩu - ư, xa ĺa các phiền năo Hoặc nghiệp ḥng được giải thoát. Ba La Đề Mộc Xoa thường được dịch nghĩa là Tùy Thuận Giải Thoát, Xứ Xứ Giải Thoát, Biệt Biệt Giải Thoát, Biệt Giải Thoát, Tối Thắng, Vô Đẳng Học v.v… Nếu hiểu theo nghĩa hẹp th́ Ba La Đề Mộc Xoa thường chỉ cho giới luật của hàng xuất gia, được chia thành tám tiểu loại: Ba La Di, Tăng Tàn, Bất Định, Xả Đọa, Đơn Đọa, Ba-La-Đề Đề-Xá-Ni, Chúng Học, Diệt Tránh Pháp.