Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên
Quyển 1
Phần 2
Chuyển ngữ: Bửu Quang tự đệ tử
Như Hòa
Giảo chánh: Minh Tiến & Huệ
Trang
34. Thư gởi cư sĩ Cao Hạc
Niên[1] (thư thứ nhất)
Quang thuở nhỏ thiếu học vấn, lớn lên
chẳng biết gì, chỉ do ở Phổ Đà lâu ngày thường được người khác sai bảo [viết
lách] thay cho họ nên ghi đại lược một hai chuyện để tự mình xem. Mùa Thu năm
ngoái được các hạ mang [những bài viết ấy] đến Thượng Hải, sao ra bốn bài luận cho
đăng trên [Phật Học] Tùng Báo. Trộm nghĩ: [Phật Học] Tùng Báo chính là do các vị
đại cư sĩ thổi ốc pháp lớn, đánh trống pháp lớn, nghĩa lý mênh mông, sâu xa như
trời cao đất dày, văn từ tuyệt diệu, đẹp đẽ như ngọc chạm vàng rung. Xếp văn của
Quang vào ấy khác gì ném ngói sạn vào rừng châu, rải gai góc nơi vườn quỳnh, chỉ
gai mắt nhã, chẳng ích gì cho tấm lòng [độc giả] tán thưởng, [cảm thấy] xấu hổ,
thẹn thùng. Thầy Căn Kỳ trở về, lại bảo viết luận, nhưng do sức khỏe yếu ớt,
nhãn mục quáng lòa, dẫu muốn, chẳng thể vâng mạng được, nhưng sợ phụ tấm thịnh
tình; do vậy đem những bản thảo cũ đã được viết theo lời sai khiến [của người
khác] chép lại cho rõ ràng thành năm bài. Thể tài, câu văn vụng về, kém tệ, các
hạ đọc đến sẽ bật cười! Nhưng đôi bên quen biết nhau, chắc chẳng đến nỗi quở
trách, chứ còn đem đăng báo chỉ sợ chuốc lấy tiếng cười chê của bậc đại thông
gia vậy! (ngày mồng Tám
tháng Tư)
Xét ra Ấn Quang đại sư ẩn cư tại Phổ Đà
Sơn, thoạt đầu không ai biết đến. Cư sĩ Cao Hạc Niên lên chơi núi, xin được bốn
bài luận văn: Một là Tịnh Độ Pháp Môn Phổ Bị Tam Căn Luận (luận về pháp môn Tịnh
Độ thích hợp trọn khắp ba căn), hai là Tông Giáo Bất Nghi Hỗn Lạm Luận (luận về
chuyện không nên lẫn lộn giữa Tông và Giáo), ba là Phật Giáo Dĩ Hiếu Vi Bổn Luận
(bàn về chuyện Phật giáo lấy đạo hiếu làm gốc), bốn là Như Lai Tùy Cơ Lợi Sanh
Thiển Cận Luận (lời bàn thiển cận về chuyện đức Như Lai tùy theo căn cơ mà lợi
lạc chúng sanh) đều được đăng trên tờ Phật Học Tùng Báo do cư sĩ Địch Bình Tử
sáng lập tại Thượng Hải. Bài luận thứ nhất ký tên là Thường Tàm, đăng trên Phật
Học Tùng Báo số chín, là số ra ngày Rằm tháng Hai Dương lịch năm Dân Quốc thứ ba
(1914), tức là ngày mồng Hai tháng Chín Âm Lịch năm Dân Quốc thứ hai (1913) (chữ
Âm Lịch và Dương Lịch ở đây không hiểu rõ, sợ bị chép lầm). Bài luận thứ hai cũng ký tên là Thường Tàm, bài luận thứ ba và thứ tư
thì ký tên là Phổ Đà Tăng. Ba bài này cùng đăng trong Phật Học Tùng Báo số thứ
mười.
Bốn bài luận văn này có thể gọi là “Ấn
Quang đại sư chuyển pháp luân lần đầu tiên”. Từ đấy, long thiên thúc đẩy, tỏa quang minh lớn lao! Được cư sĩ Hạc Niên cho xem lá thư trên đây, không
ghi rõ thời gian. Xét ra trong thư có nói: “Mùa Thu năm ngoái được các hạ mang
[những bài viết ấy] đến Thượng Hải, sao ra bốn bài luận đăng tải trên [Phật Học]
Tùng Báo”, quả thật lá thư trên đây được viết vào ngày mồng Tám tháng Tư Âm Lịch
năm Dân Quốc thứ ba (1914). Lá thư này rất có giá trị trong lịch sử Phật giáo,
chưa thấy đăng trong Văn Sao Chánh Biên lẫn Tục Biên, bèn xếp vào đây để công bố
cùng cõi đời.
Biên tập viên bán nguyệt san Giác Hữu Tình Trần Pháp Hương ghi.
35. Thư gởi cư sĩ Cao Hạc
Niên
(thư thứ hai)
Hai lần trước đến Thượng Hải đều được
ông chiếu cố, khôn ngăn cảm kích, hổ thẹn. Nay nhận được thư như được gặp mặt,
vui mừng, an ủi khôn sánh, biết cư sĩ chí mong lợi người, chẳng nề hà nhọc nhằn.
Vì thế được Tam Tôn[2]
gia bị, thân tâm thường được yên ổn, an vui. Từ bữa các hạ rời đi, Quang bàn với
hòa thượng Liễu Dư và ông Trần Tích Châu, nói không biết Chương Gia[3]
đến núi ngày nào, chỉ sợ có ông Tăng vô tri nào trong núi cứ chiếu theo lệ thường,
bảo [Chương Gia đại sư] quyên góp đôi chút thì rất mất thể thống, bảo Quang mau
trở về núi để đứng ra làm chủ tiếp đón; do vậy, Ninh Ba, Quán Tông đều chưa đến
được! Mồng Tám tháng Chín về đến núi, ngày hôm ấy biển sóng gió khá mạnh, Quang
say sẩm ói mửa trúng gió mười mấy ngày, không được khỏe lắm! Sau đấy lại bình
phục như thường. Nghe nói [các hạ] muốn đến Kê Túc[4],
trộm nghĩ không cần phải đi xa, chỉ cần chọn chỗ có thể an thân, tùy duyên niệm
Phật là được rồi! Đi đến núi Kê Túc, nếu theo đường biển rất tốn tiền; nếu theo
đường bộ thì khổ sở chẳng thể nói nổi! Sao bằng lật ngã cột phan ngay trước cửa[5],
tùy thời tùy xứ gặp gỡ tôn giả Ca Diếp thì hay hơn ư? Tiếc cho tinh thần có hạn,
lo liệu sự nghiệp cuối cùng [của một đời người] là chuyện khẩn yếu bậc nhất của
người cao tuổi vậy! (Ngày Rằm
tháng Mười năm Dân Quốc thứ bảy - 1918)
36. Thư trả lời cư sĩ
Cao Hạc Niên (thư thứ ba)
Cách biệt từ mùa Đông năm ngoái, nào
hay đã tròn một chu kỳ nóng lạnh! Quang âm vùn vụt thật đáng kinh sợ! Từ khi nhận
được thư vào tháng Giêng mùa Xuân năm nay, hoàn toàn chẳng biết tin tức đích
xác. Đến tháng Bảy, do sang Dương Châu khắc kinh, tìm đến thư cục ở Thượng Hải
để hỏi thăm, họ nói ông đã sang tu trong lều tranh trên Thái Sơn[6]
rồi. Quang đoán rằng đất Tần (Thiểm Tây) loạn lạc, chẳng thể sống yên được, đến
nỗi các hạ phải bỏ đi. Người Tần Xuyên từ đây trở đi không có ai dẫn dắt để được
tắm gội, thấm nhuần Phật pháp nữa, lòng hết sức xót xa! Nay nhận được thư, biết
ông đang ở Hoa Sơn, vẫn mong sau khi yên ổn, trở về Chung Nam[7],
khôn ngăn vì người đất Tần vui mừng sung sướng trước!
Quang
không ra gì, đạo chẳng tăng trưởng, mắt ngày càng thêm lòa. Năm trước khuyên
ông Ưng Quý Trung bỏ tiền khắc in sách [Ngự Chế Giản Ma] Biện Dị Lục. Do cõi đời
chẳng thái bình nên chậm trễ đến mùa Thu năm nay mới tới Tàng Kinh Viện, nhờ cậy
chủ nhân viện ấy lo liệu. Trước hết khắc Giản Ma Biện Dị Lục (tổng cộng hơn hai trăm sáu mươi trang
giấy), rồi
khắc in Tam Thập Nhị Tổ Truyện (khoảng chừng sáu mươi trang). Hai cuốn sách này đều là di trước của [Thanh]
Thế Tông (Ung Chánh), đều do ông Ưng Quý Trung bỏ tiền thuê khắc [ván]. Tiếp đấy,
khắc in An Sĩ Toàn Thư (khoảng
sáu trăm sáu mươi, bảy mươi trang, trong ấy có tăng thêm mấy chục trang mới nữa). Sách ấy do ông Lưu Cần Phố thuộc thôn Lưu Môn,
Triều Ấp tỵ nạn đến đất Thân (Thượng Hải) phát tâm bỏ tiền ra in. Vị này khá
thuần hậu, thành thật, tiếc là còn kém duyên với Phật pháp, vào ngày Mười Chín
tháng Chín bèn tạ thế. Nếu sống thêm được mấy năm nữa thì thiện căn Tịnh Độ sẽ
được phát sanh, nẩy nở vậy. Nhưng nhờ vào công đức khắc in sách ấy, dẫu chẳng
thể vãng sanh thì quả báo trong đời sau cũng sẽ chẳng đến nỗi kém hơn đời này.
Đợi đến tháng Tư năm sau, tôi sẽ lại qua Dương Châu để trông nom, nếu sách đã
khắc xong bèn cho ấn tống, nếu chưa khắc xong sẽ giảo chánh, đối chiếu. Năm sau
nhất quyết phải hoàn tất chuyện ấn tống hai cuốn sách về Thiền ấy.
Quang
thấy biết hẹp hòi, học vấn quẩn quanh, do các hạ đa sự lôi kéo các ông Từ Úy
Như, Châu Mạnh Do, Trương Vân Lôi v.v… phô truyền vẻ xấu [của Quang], hết sức hổ
thẹn sâu xa. Mùa Thu năm ngoái, người cùng quê là ông Vương Ấu Nông đến núi,
trông thấy những bài viết hủ bại [của Quang] liền muốn bỏ tiền khắc ván. Quang
cho rằng những bài viết hủ bại ấy chẳng đáng lưu truyền trong cõi đời nên cố từ
chối. Mùa Xuân năm nay, Úy Như in ra năm trăm cuốn, hạ tuần tháng Ba lên núi, lại
cầm đi những bài viết hủ bại còn lại, biên tập, trình bày, đem khắc ván tại Bắc
Kinh, ước chừng cuối Hạ năm sau chắc sẽ in xong. Ấu Nông tuy biết Úy Như đã khắc,
vẫn muốn khắc in, sẽ chờ hai cuốn sách [nói trên] in xong sẽ cho khắc [Văn
Sao]. Tháng Năm năm nay, có người cầm bộ Văn Sao hủ bại do Úy Như đứng in đến
chùa Nghênh Giang ở An Huy, Giám Viện là thầy Trúc Am gởi thư nói muốn khắc ván
và muốn có những bản gốc còn lại. Quang bảo thầy ấy hãy để thong thả, chờ cho
sách được khắc ván hoàn tất tại Bắc Kinh vào năm sau, in xong sẽ gởi tới ngay.
Mấy
chục năm qua, Quang chẳng dám để lộ ra hai chữ Ấn Quang, vì các hạ đa sự đến nỗi
cái tên hèn hạ, tác phẩm kém cỏi nhức tai gai mắt khắp mọi người nhã, thẹn
thùng chi xiết! Năm ngoái, tôi vọng tưởng mong đích thân chứng được Niệm Phật
tam-muội, nhưng rồi toàn thể Niệm Phật tam-muội vẫn là nghiệp lực! Năm nay tự
biết hổ thẹn, giữa tháng Chín sẽ khởi thất tới cuối tháng Hai mùa Xuân năm sau
mới thôi. Niệm Phật tam-muội chẳng dám vói cao, chỉ mong sám hối cho sạch hết
túc nghiệp. Ai biết túc nghiệp rốt cuộc cùng với Chân Như Pháp Tánh đồng nhất bất
sanh bất diệt! Phật quang chiếu khắp pháp giới, nhưng tôi vì nghiệp chướng chẳng
thể thân cận được, khổ sở lắm thay! Biết làm sao đây? Viết ra những điều chính
mình ngu muội ôm ấp để mong người tri kỷ sẽ thay tôi chia sẻ nỗi buồn mà thôi! (Mồng Bốn tháng Chạp năm Dân Quốc thứ
tám - 1919)
Kính
cẩn xét rằng trong Vân Thê Di Cảo có bài kệ như sau:
Nhị
thập niên tiền sự khả nghi,
Tam
thiên lý ngoại ngộ hà kỳ?
Phần
hương trịch kích hồn như mộng,
Ma
Phật không tranh thị dữ phi,
(Hai
mươi năm trước sự hồ nghi,
Ngoài
ba ngàn dặm chuyện sao kỳ?
Thắp
hương, quăng kích dường như mộng,
Ma -
Phật tranh xuông thị lẫn phi)
Ngài
Hám Sơn nói: “Đây chính là bài kệ ngộ đạo của
Vân Thê lão nhân”. Nay đại sư đích thân thấy được túc nghiệp và Chân Như Pháp
Tánh đồng nhất bất sanh bất diệt, trộm cho rằng đây chính là ý nghĩa của bài kệ
ấy chăng?
37. Thư gởi cư sĩ Cao Hạc
Niên
(thư thứ tư)
Hôm qua nhận được thư vui mừng, an ủi
khôn sánh! Quang cho rằng giữa đường gặp chuyện trở ngại, nhưng cư sĩ một mực
mong mỏi, dũng mãnh tiến thẳng lên trước, trọn chẳng vướng mắc gì. Một đằng là
tâm lực chẳng thể nghĩ bàn, một đằng là người lành được trời giúp sẽ tự được
không chuyện gì chẳng thuận lợi, hâm mộ lắm! Cư sĩ Nhậm Tâm Bạch cũng gởi thư đến,
nói sau một tháng rưỡi nữa chắc chắn sách sẽ xin xong. Ở chỗ Quang là một trăm
hai mươi bộ, cũng đủ dùng rồi, không cần phải tiếp tục thỉnh nữa. Tôi sẽ sang
Dương Châu vào trung tuần tháng Bảy vì tập sách nêu duyên khởi khắc in Đại Tạng
Kinh vẫn chưa được khắc xong; hễ cuốn sách này khắc xong liền có thể qua đấy lo
liệu ấn loát. Cuốn sách này chỉ gồm năm mươi mấy trang, thuộc loại sách [biên
soạn vào] đời Minh [tập hợp] những bài tựa nêu duyên khởi quyên mộ khắc in Đại
Tạng Kinh. Nguyên văn chỉ gồm mười tám bài, Quang lại cho khắc thêm bài tựa phát
khởi đầu tiên của Tử Bách đại sư vào ấy, gồm hai thiên nữa. Vì sao trong nguyên
văn không có bài tựa phát khởi đầu tiên? Đấy là do trong bài văn ấy có những
câu nói đến chuyện thế đạo biến loạn, sợ chánh quyền căm ghét, nên [người biên
tập] chẳng sao lục vào đấy! Nay đã cách biệt thời ấy, trọn chẳng trở ngại gì!
Thiên Thai là đạo tràng hoằng pháp của ngài Trí Giả, núi ấy thường có La Hán cư
ngụ, Quang do sức khỏe mòn mỏi chẳng thể đến lễ bái được, hổ thẹn khôn cùng! Biên
nhận Văn Sao đã nhận được rồi, đừng lo!
38. Thư trả lời cư sĩ
Cao Hạc Niên (thư thứ năm)
Nhận được thư hôm Hai Mươi Ba như gặp
được bạn cũ, khôn ngăn vui mừng, an ủi. La Phù, Bôi Độ, Nhạn Đãng[8],
Thiên Thai là những cuộc đất danh thắng trong thiên hạ đều lọt vào tầm mắt của
cư sĩ, đúng là do đời trước vun bồi mà ra! Quang sức khỏe mòn mỏi chẳng thể đi
xa được, ngồi chết già trên hòn núi ngoài biển, chẳng thấy biết gì! Mỗi phen
nghĩ đến thẹn thùng, cảm khái không chi sánh ví được! Cư sĩ đã đến núi Bôi Độ ắt
phong cách, đức độ sẽ được phát khởi mạnh mẽ, an ủi lắm! Ngày Hai Mươi Bốn
tháng Chín, Quang về đến Pháp Vũ, đến hôm Hai Mươi Chín liền đem bài khai thị
cho vị phu nhân ở Hà Đông gởi qua Thượng Hải giao cho cư sĩ Cam Bích Sanh. Ngày
mồng Sáu tháng Mười, ông ta gởi thư đến nói: “Kính sao thành một bản để tự giữ,
đem nguyên bản của Quang gởi trả lại kèm theo thư”. Ngày mồng Hai tháng Mười Một,
lại gởi thư cho biết: “Đã đem pháp ngữ của Quang chép lại theo lối chữ Khải
thành hai bản, một bản gởi cho cư sĩ Chiếu Nam, một bản gởi cho vị phu nhân ở
Hà Đông, nhưng pháp ngữ đã gởi đi trước đó vẫn chưa thấy hồi âm. Nếu nhận được
hồi âm sẽ liền trình cho thầy biết”. Pháp ngữ gần hai ngàn chữ, khi khắc Văn
Sao sẽ đưa thêm bài ấy vào.
An
Sĩ Toàn Thư giao cho ba vị Vưu Tích Âm, Trương Vân Lôi, Đinh Phước Bảo lo liệu,
nhưng Tích Âm muốn cho sách ấy được lưu truyền khắp hai ngàn bốn mươi mốt huyện
trong cả nước. Bạn ông Tích Âm là Lưu Mộc Sĩ có cùng ý nguyện với ông Tích Âm,
tính kêu gọi những nhà buôn giàu có quen biết ở Nam Dương bỏ tiền giúp in. Một
nửa [số sách in được] sẽ gởi về Nam Dương, Tân Gia Ba, đảo Tân Lang (Penang), để
biếu tặng các thuộc địa của Hà Lan. Các trường học tại các đảo ở Nam Dương lấy
cuốn Dục Hải Hồi Cuồng làm tài liệu giảng dạy về sự tu thân. Một nửa [số sách ấy]
sẽ dùng để biếu tặng tại tổ quốc để cho ai nấy đều vun bồi đất nước quê hương.
Tâm chân thành, rộng lớn ấy có được thỏa nguyện hay chăng vẫn chưa thể biết chắc!
Gần
đây, [khoản tiền] do những người quyên tặng để ấn hành tại nước nhà đã đến con
số vạn, đợi đến mùa Xuân năm sau khi đem in, chắc là sẽ gom được hai ba vạn bộ!
Nếu Hoa Kiều ở Nam Dương chịu phát tâm giúp đỡ thì in được một hai chục vạn bộ
không chừng, tùy duyên mà làm vậy! Nếu người trong nước ta và người ở Nam Dương
xưa đã có thiện căn, được nghe đạo “tu chân trong cõi tục, tùy theo căn cơ có
thể nhập đạo” của Phật pháp thì trời - rồng sẽ cảm động, người có tâm lo cho thế
đạo sẽ ùa nhau dấy lên cùng khen ngợi thì phân phát cho các huyện trong cả nước,
mỗi huyện một trăm mười bộ cũng chẳng khó. Nếu quốc dân chẳng có pháp duyên này
tức là người ta cho Ấn Quang là kẻ không đạo, không đức, chẳng chịu tin tưởng để
cùng nhau cảm kích, phát khởi, chỉ đành dùng một hai vạn bộ đã quyên mộ được để
thỏa tâm sự này mà thôi!
Chuyện
này tuy là chuyện riêng, nhưng thật ra có quan hệ lớn với quốc kế dân sanh! Được
thành công lớn lao hay không đều có vận số nhất định. Quang cùng bốn vị cư sĩ
Vưu, Lưu, Trương, Đinh làm sao có thể chuyển kẻ vô duyên thành hữu duyên để [An
Sĩ Toàn Thư] được lưu truyền rộng khắp cho được? Nay tôi gởi cho ông một tờ
trình bày chương trình biện pháp để an ủi tấm lòng mong mỏi xa vời. Bài văn bia
cho Trinh Tiết Đường[9]
tôi chưa viết. Từ lúc về đến núi tới nay trọn chẳng được rảnh rỗi. Quang đính
chánh An Sĩ Toàn Thư (do bản
in rút nhỏ có các hạng mục đồ hình và mục lục, phải sắp xếp theo dạng riêng). Kế đó là giảo chánh, đối
chiếu An Sĩ Toàn Thư. Lại còn có các sách Dục Hải Hồi Cuồng, Vạn Thiện Tiên Tư
và Ấn Quang Văn Sao, Cách Ngôn Liên Bích v.v… từ Dương Châu không hẹn cùng gởi
tới, phải giảo chánh đối chiếu, cũng như phải trả lời thư tín gởi tới, gởi đi.
Buổi tối mắt không nhìn được, ban ngày quả thật không lúc nào được rảnh! May được
Tam Bảo gia bị, mắt vẫn còn nhìn được lúc ban ngày, thật là chuyện may mắn vạn
phần!
Chúng
sanh đời Mạt Pháp phần nhiều đều chẳng biết nhân quả, Phật kinh sâu thẳm, huyền
áo, dẫu đọc cũng chẳng thể lãnh hội được, nên mới thành ra hiện tượng như ngày
nay. Quang thường nói: “Nhân quả là
phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian bình trị thiên hạ,
chuyển phàm thành thánh”. Cõi đời hiện nay chẳng khiến cho nhân quả được
sáng tỏ, phổ biến, mà muốn cho thế đạo thái bình, Phật pháp hưng thịnh thì chẳng
thể nào đạt được đâu! (năm
Dân Quốc thứ chín - 1920).
39. Thư trả lời cư sĩ
Cao Hạc Niên (thư thứ sáu)
Đã lâu rồi chưa được gặp gỡ các hạ,
cũng như chẳng biết hành tung của các hạ, do vậy chưa từng gởi thư. Trước đây,
cư sĩ Trương Thụy Tăng gởi thư đến nói “do có chuyện nọ, ông ta được cư sĩ yêu
mến nồng hậu xoay sở [cho vẹn toàn], chẳng đến nỗi bị kẻ xấu gây rắc rối; vì thế,
muốn đến đất Hỗ (Thượng Hải) để tỏ lòng cảm tạ”. Do vậy, Quang bèn gởi thư kèm
theo để thăm hỏi. Rồi nhận được thư của ông Mai Tôn nói cư sĩ và cư sĩ Bá Nông
sẽ đến Ninh Ba vào ngày Mười Tám, vừa trông thấy hình thế của chùa Pháp Vân đã
xác định [chỗ đặt] nền đại điện; rồi lại hứa khi nào xây dựng đại điện sẽ trở lại,
khôn ngăn mừng rỡ, an ủi. Nay nhận được thư mới biết ông vẫn còn đang nghe kinh
tại Nam Viên.
Nói
đến chuyện đem tràng hạt hổ phách[10]
cúng dường Bồ Tát, quả thật đã xả được thứ khó xả, công đức không gì lớn hơn!
Nhưng chùa ấy là nơi cúng bái nhộn nhịp, người lui tới rất tạp, chớ nên đeo
[chuỗi ngọc ấy] vào cổ Bồ Tát, chỉ nên cất trong phòng chứa y bát hay giữ trong
kho. Những món bảo vật ấy đã chẳng thể dùng được, mà sau này ắt sẽ khiến cho kẻ
thiếu hiểu biết lấy trộm, nên chưa có lợi ích thật sự, lại còn khiến cho kẻ ăn
trộm ấy bị tổn hại oan uổng, chẳng thà xin lại từ chỗ hòa thượng Chân Đạt, hoặc
tặng cho người khác, hoặc bán đi để làm công đức thì mới có ích thật sự vậy. [Quang
có] ý kiến tệ lậu như vậy đó, chẳng biết cư sĩ có cho là đúng hay chăng?
40. Thư trả lời cư sĩ
Cao Hạc Niên (thư thứ bảy)
Miễn cưỡng soạn bài văn bia hơn chín
trăm chữ[11],
lời lẽ chất phác, vụng về, ý nghĩa hời hợt, nông cạn, sợ chẳng đáng khắc vào
đá, xin hãy thỉnh vị cao minh nào đấy soạn [bài khác]. Nếu chỉ mong đỡ tốn sức,
vẫn xin [cư sĩ] hãy bỏ công sức sửa chữa, gọt giũa, để khỏi đến nỗi bị người
khác chê cười. Hơn nữa, quy củ [của Trinh Tiết Viện đã nêu] trong [bài văn bia]
ấy chẳng qua là phỏng đoán, đại khái, cần phải châm chước cho ổn thỏa, thích
đáng rồi hãy sửa đổi những gì đã định.
41. Thư trả lời cư sĩ
Cao Hạc Niên (thư thứ tám)
Xưa kia Tử Bách đại sư sau khi đại ngộ
đã dạo khắp các danh sơn để mở rộng kiến thức. Phàm tất cả những danh sơn,
thánh đạo tràng trong Trung Quốc, không chỗ nào Ngài chẳng đích thân đến tận
nơi là do thể lực Ngài mạnh mẽ, mỗi ngày đi được hơn ba trăm dặm. Sau này chưa
nghe nói ai có thể đi được như vậy. Trong đời gần đây, đa số là hạng lười nhác
sống ăn bám vào Phật, Thiền, Giáo, Luật, Tịnh chẳng hề phụng sự một tông nào,
chỉ bôn ba Nam - Bắc mua bán những món đồ vặt vãnh để cầu chút lợi hòng thỏa
lòng ham muốn. Tuy đến danh sơn, thánh đạo tràng, trọn chẳng có một tâm niệm hổ
thẹn, ngưỡng mộ!
Cư
sĩ tu chân ngay trong cõi tục, tùy duyên tấn đạo, giữ gìn một câu Di Đà làm bổn
mạng nguyên thần, ôm ấp hai chữ “hổ thẹn” dùng làm bậc thang nhập đạo. Chẳng
chán nhiều phen trèo lên thánh địa, sao chép những tông tích để mở rộng tai mắt
cho người khác. Vị Tăng [Tri Khách] thuở ấy (tức thuở ngài Tử Bách đi thăm khắp
các danh sơn) nếu tiếp kiến, sẽ thay mặt [vị Trụ Trì] nói lời chống giữ môn
đình nhà Phật. Tìm một vị Tăng chân thật thiết tha, chí thành như thế trong đời
Mạt quả thật chẳng được mấy người; huống là một vị đại phương gia (người thông
suốt giáo lý) đã ăn thịt đẫy bụng đến tìm Tăng nhân nói chuyện Thiền ư? Mùa Thu
năm ngoái, sau khi tôn giá đã rời đi, thường nghĩ cư sĩ vì môn đình nhà Phật mà
nhọc nhằn thành bệnh, không lâu nữa sẽ đến Thiểm Tây, ở yên nơi cuộc đất đức
Quán Âm đã hàng phục rồng (tức
đại thảo am ở Nam Ngũ Đài), nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, “xoay cái niệm lại để niệm tự tánh, tánh thành vô thượng đạo”. Sự
vui sướng ấy chẳng thể nào ví dụ được! Đến mồng Bảy tháng Giêng nhận được thư,
mới biết năm ngoái ông vẫn du hành khắp các tỉnh Hàng, Hoán (An Huy) v.v… muốn
đến Bắc Kinh, do trời lạnh bị bệnh nên đành phải trở lui. Thật có thể nói là cư
sĩ đã “vì pháp quên mình”, nhưng
trong sự thấy biết ngu muội của Quang thì có lẽ nên dừng bước nghỉ ngơi, nếu vẫn
muốn du hành rộng khắp thì hãy nên dùng thần thức để du hành, chẳng cần phải
dùng thân.
Ba
kinh Di Đà, một bộ Hoa Nghiêm dùng làm lộ trình để du hành, tham phỏng, ngồi
yên trong ao bảy báu mà dạo khắp thế giới Hoa Tạng thì thần thức càng dạo đi,
thân càng mạnh mẽ, niệm càng trọn khắp mà tâm càng chuyên nhất. Tịch thì một niệm
cũng chẳng thể được, mà Chiếu thì vạn đức cũng vốn sẵn đủ, Tịch - Chiếu viên
dung, Chân - Tục chẳng hai. Mười đời xưa nay hiện trong đương niệm, vô biên sát
hải[12]
nhiếp về tự tâm. So với chuyện khoác sao đội trăng, xông mưa đột gió, kinh sợ
khi vào chốn vực sâu, hãi hùng trong cảnh nguy hiểm thì còn gấp mấy lần [sự sai
khác] giữa một ngày và cả kiếp! Tôi thấy biết hèn tệ như thế đó, chẳng biết cư
sĩ nghĩ sao?
Hơn
nữa, trong thư ông gởi đến đã dạy: “Quang
âm vùn vụt, còn hơn nước xoáy qua tảng đá Diễm Dự ở Cù Đường[13]”,
đúng là như vậy đó! Cổ nhân đã dạy rằng: “Người
chứng Vô Sanh mới thấy được sát-na[14]”.
Cư sĩ nói lời ấy sẽ thấy được sát-na chẳng lâu nữa đâu, an ủi tấm lòng lắm, xin
chúc mừng! Cư sĩ lại nói những lời lẽ hủ bại của Bất Huệ là pháp thích hợp cho
căn cơ hiện tại, vừa mở sách ra đã khiến cho người ta như ngư phủ lạc bước chốn
Đào Nguyên[15]
v.v… sao mà nói quá lố thế? Ông muốn dẫn Bất Huệ tiến lên, nhưng Bất Huệ tuy thân
chưa già mà tâm lực đã sớm suy, mắt nhìn ngày càng kém, khó tiến được trong
gang tấc! Ông lại còn đem trình với Lê công (cư sĩ Lê Đoan Phủ), được Ngài
thương cho lòng ngu thành, cho sao chép giữ lại để đem in, càng làm cho Quang cảm
thấy hổ thẹn không chốn [ẩn mình]! Nếu làm như vậy chính là đem cỏ mục chất vào
núi báu, đem canh thừa để lẫn trong cỗ vua, trái tai gai mắt người khác, khiến
tôi sượng mặt, bị người đọc chán ghét, làm nhơ pháp đạo!
Huống
chi ba bài luận đầu vốn là do hòa thượng Khai Như sai Quang viết vào mùa Đông
năm ngoái để làm bản nháp cho buổi diễn thuyết tại Thượng Hiền Đường. Bài luận
về pháp môn Niệm Phật thích hợp khắp ba căn đã được chép vào trong Kỷ Yếu của
tòa điện đường [do Ngài quản thủ], còn hai bài luận kia có dùng hay không thì
không biết. Nếu bảo là văn tuy hèn tệ, vụng về, nhưng ý thật đáng thương thì
nên đề tên tác giả ba bài luận ấy là Thích Khai Như. Bài “luận về Tông và Giáo
chẳng nên xen tạp” thì đề tên Thích Thường Tàm, ngàn lần xin chớ đề hai chữ Ấn
Quang.
Thêm
nữa, cái hại của giấy Tây còn quá nước lũ, mãnh thú: Khiến cho đất nước khốn
cùng, làm dân kém cỏi, đoạn diệt thánh giáo đạo Nho, đạo Thích, mối họa ấy chẳng
có cùng tận! Hôm mồng Bốn tôi đã thưa đại khái điều này với Lê công, mong cư sĩ
chẳng tiếc sức từ bi, nói với khắp các cư sĩ. Nay lập một chương trình: Phàm là
kinh luận của Phật, của Tổ, nhất loạt chẳng in bằng thứ giấy ấy! Lại cần phải
báo cho các chỗ khắc kinh để họ đều cùng biết rõ, ngõ hầu chẳng đến nỗi do lưu
thông mà trở thành mau chóng diệt mất! Đây là điều Bất Huệ đau lòng nhức óc
không lối kêu van vậy. Nay muốn nhờ cư sĩ giới thiệu để khẩn cầu các đại cư sĩ
ai nấy phát Bồ Đề tâm, hiện tướng lưỡi rộng dài ngăn cấm thói quen này để pháp
đạo được [tồn tại] vĩnh viễn, đều thương xót cho lòng ngu thành của tôi mà bảo
ban rộng khắp.
Cuốn
báo đăng tải lời lẽ hủ bại đáng hổ thẹn của Quang đã đưa cho hòa thượng Khai
Như. Bức họa Ngũ Thập Tam Tham (năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử)
do trước kia đã được thầy Dẫn Duyên tặng cho bức họa thầy ấy nhận được, nên đem
bức họa nhận được lần này tặng cho hòa thượng Liễu Nhất vì cư sĩ đã từng nói với
Ngài về chuyện ấy, nhưng về sau quên khuấy đi! Đãy chú Lăng Nghiêm của Quang
đem tặng cho thầy Liễu Thanh để thầy ấy đem tới Quảng Đông hòng kết pháp duyên.
Những thứ khác đều chiếu theo danh sách mà trao ra. Thầy Ngộ Khai đã mất vào giờ
Mùi ngày Hai Mươi Hai tháng Mười Một năm ngoái. Quang cảnh lúc thầy ấy mất đã
thuật rõ trong thư gởi cho Lê cư sĩ, nay không viết chi tiết nữa. Trường An tuy
tốt, nhưng mọi chuyện gian nan, nếu không gặp trở ngại lớn lao hãy nên chuyên
tu Tịnh nghiệp, hộ trì pháp đạo ở phương Nam. So với phương Bắc thì giảm bớt một
nửa công sức mà công lại gấp bội. Cớ gì cố gượng đặt tấm thân suy lão vào nơi
khốn khổ rồi mới tu đạo được vậy?
42. Thư trả lời cư sĩ
Diệp Ngọc Phủ
Nhận được thư khôn ngăn cảm động, hổ thẹn.
Quang là hạng người nào mà dám nói những lời ấy? Nhưng các hạ đã bảo Quang nói,
nếu chẳng nói sẽ có lỗi! Trộm nghĩ: Các hạ muốn khuông phò, cứu giúp thời thế,
nhưng chẳng thể thỏa lòng được thì hãy buông ý niệm ấy xuống, gắng sức cầu tự độ.
Hãy nên dùng học thức của chính mình để xướng suất, hướng dẫn những người cùng
hàng, khiến cho hết thảy mọi người tin tưởng Phật pháp biết rõ nhân quả ba đời,
thậm chí khiến cho hết thảy những kẻ chẳng tin Phật pháp cũng đều biết tới nhân
quả ba đời. Hễ biết nhân quả báo ứng thì cái tâm tự tư tự lợi sẽ dần dần tiêu
diệt. Hơn nữa, cõi đời ít có người lành là do trong gia đình không khéo dạy dỗ,
nhưng trong một gia đình khéo dạy dỗ thì sự dạy dỗ của mẹ quan trọng nhất. Bởi
lẽ, con người lúc bé hằng ngày ở bên mẹ, được hun đúc tánh tình nhiều nhất từ
nơi mẹ! Do vậy, thiên chức của phụ nữ là giúp chồng dạy con. Nếu không có hiền
nữ, làm sao có hiền thê, hiền mẫu cho được? Vì thế, nói rằng: Khéo dạy cho con
cái biết nhân quả ba đời chính là cái đạo “gốc chánh nguồn trong” để bình trị
thiên hạ vậy! Hiện thời nam nữ tin Phật ở Thượng Hải rất nhiều, dùng danh vọng
học thức của các hạ để bước lên cao hô hào thì mọi người sẽ hùa nhau bắt chước
theo. Nếu phong thái ấy được thực hiện rộng rãi thì thế đạo tự nhiên thái bình.
Cái đạo “gốc chánh nguồn trong” như vừa mới nói đó cố nhiên ở nơi ấy chứ không ở
đâu khác!
Các hạ đã chẳng thể vãn hồi thế đạo
ngay lập tức, sao chẳng trông mong nơi bọn hiền tài sẽ dấy lên đông đảo vào mười
năm, hai mươi năm sau? Quang thường nói: “Nhân
quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian bình trị
thiên hạ, độ thoát chúng sanh”. Lại nói: “Dạy dỗ con cái là căn bản để bình trị thiên hạ, nhưng dạy con gái lại
càng thiết yếu”. Bởi lẽ, những kẻ làm quan hoặc giặc cướp hiện thời chuyên
trọng vũ lực, chẳng đoái hoài đạo nghĩa đều là vì thuở ban đầu chẳng được cha mẹ
hiền dùng nhân quả báo ứng để khéo dạy dỗ mà ra! Nếu thuở bé đã được nghe những
lời dạy tốt lành thì thà chết cũng chẳng dám làm những chuyện thảm khốc trọn
chưa hề có ấy! Tội lỗi ấy quả thật do cha mẹ bọn chúng khởi đầu, chứ không phải
chỉ riêng mình bọn chúng! Trong cõi đời lúc này, nếu chẳng đề xướng những sự lý
nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi v.v… mà muốn thế đạo thái bình, dẫu Phật, Bồ
Tát, thánh hiền đều cùng xuất hiện trong cõi đời cũng không làm sao được!
Vì
vậy, vào năm Dân Quốc thứ mười (1921) Quang in bộ An Sĩ Toàn Thư, tính quyên mộ
để in ra mấy chục vạn bản, nhưng chỉ được bốn vạn; hiện nay đã in được năm vạn
bốn năm ngàn bộ theo lối khắc ván. Nay đang in bộ Đại Sĩ Tụng, sang năm sau nữa
sẽ in Nhị Thập Tứ Sử Cảm Ứng Lục đều là vì muốn cho người ta biết tới nhân quả.
Biết nhân quả sẽ chẳng dám tổn người lợi mình, thương thiên hại lý! Những kẻ cường
bạo trong cõi đời nếu nói đến chuyện đạo đức nhân nghĩa với bọn họ, chắc họ trọn
chẳng động tâm; nhưng đem nhân quả báo ứng nói với họ, đừng nói đến [trường hợp]
người nghe tin tưởng ngay lập tức, dẫu cho chẳng tin cũng sẽ kinh hãi sợ sệt.
Các hạ có địa vị, chẳng thể vãn hồi con sóng cuồng loạn ngay được, sao chẳng hiện
thân cư sĩ dùng chuyện này để làm kế vãn hồi cho tương lai ư? Dùng điều này để
độ người tức là tự độ, há chẳng thích hợp hơn đi tới nước lạ để tìm tòi những bản
kinh chưa hề thấy, lễ di tích của đức Phật để tự độ hay sao?
Con
người hiện thời đa số tánh tình có phần mang thói ưa khoe khoang, lớn lối; [chẳng
hạn như] chưa hoằng pháp nhưng trước hết đã cầu tìm kinh điển chưa được dịch [sang
tiếng Hán] ở ngoại quốc; vậy thì đối với những kinh đã được dịch trong nước, có
từng nghiên cứu mỗi một kinh cho đến tột cùng hay chưa? Huống chi nếu đã nhận
hiểu được một hai nghĩa lý trong kinh Phật sẽ liền có thể thượng hoằng hạ hóa!
Huống nữa, [kinh Phật đã được dịch sang tiếng Hán] dẫu nhiều đến mấy ngàn quyển
vẫn [cho rằng] chẳng đủ dùng, cứ muốn tìm tòi tại các nước thuộc Ấn Độ ư? Phàm
với những kiểu đề xướng như vậy, Quang đều chẳng cho là đúng! Những ý kiến như
vậy đều xuất phát từ thói ham cao, chuộng xa, thấy khác lạ, nghĩ đi tận đâu đâu,
hòng khiến cho mình được nổi bật lên giữa mọi người; nếu người ta nói sao mình
cũng nói hệt như vậy thì chẳng đáng gọi là kỳ lạ, đâu thể hiện được bản lãnh của
ta!
Luận
về tài năng của các hạ, hãy nên theo như những gì Quang đã nói thì lợi ích sẽ lớn
lắm. Nếu không, hãy chọn lấy một chỗ vắng lặng kín đáo để tận lực tu Tịnh nghiệp,
đem học vấn, văn chương đã đạt được trước kia vứt ra ngoài Đông Dương đại hải, nghĩ
mình vốn là một kẻ vô tri vô thức, trong tâm chẳng sanh phân biệt, ngày đêm sáu
thời chuyên trì một câu hồng danh thánh hiệu. Nếu có thể chết sạch được cái tâm
mong ngóng, ắt sẽ đích thân thấy được bản lai diện mục! Từ đấy, dựng cao pháp tràng,
khiến cho hết thảy mọi người đều cùng trở về biển pháp Tịnh Độ, sống làm bậc
thánh bậc hiền, chết dự vào hội Liên Trì thì mới chẳng phụ sở học ấy, mới là bậc
đại trượng phu chân Phật tử vậy! Còn chuyện viễn du Ấn Độ, chẳng qua nhằm mở rộng
tầm mắt, mở rộng tri kiến mà thôi; chứ đối với phương diện sanh tử, muốn được tự
độ thì [tự độ] ở chính nơi đây, nào phải ở nơi kia! Huống chi đường sá xa xôi,
tốn kém không ít, thể lực của các hạ cũng chẳng mạnh mẽ cho lắm, gặp phải cảnh
bôn ba nhọc nhằn ấy thì tổn hại rất nhiều, lợi ích thật ít, Quang trọn chẳng
tán thành. Nay dẫn một chứng cứ; Khổng Tử nói: “Mạnh Công Xước vi Triệu Ngụy lão tắc ưu, bất khả dĩ vi Đằng Tiết đại
phu[16]”
(Mạnh Công Xước làm gia thần cho họ Triệu, họ Ngụy là hai khanh đại phu của nước
Tấn thì tài năng có thừa, nhưng làm đại phu cho nước Đằng, nước Tiết thì không
thể được). Hai câu nói [trên đây] của Quang chính là “Triệu Ngụy lão” vậy, chuyện viễn du Ấn Độ chính là “Đằng Tiết đại phu” vậy. Các hạ thử xét
kỹ xem, chắc sẽ chẳng cho lời Quang là sai lầm!
Đại Sĩ Tụng ước chừng sẽ in trước hai
ngàn bộ trong năm nay để gởi cho những người đã đặt mua trước, nhưng cho đến
nay vẫn chưa sắp chữ được một nửa, sợ khó thể bắt đầu in trong năm nay được! Nay
tôi gởi kèm theo một trang thuyết minh biện pháp, ông đọc sẽ tự biết. Bốn trăm
đồng của các hạ sẽ in được một ngàn hai trăm bộ sách, xin hãy cho biết phải gởi
sách ấy về đâu hoặc [muốn chúng tôi] thay mặt [các hạ] gởi đến cho ai để chúng
tôi thực hiện đúng như thế. Bộ Nhị Thập Tứ Sử Cảm Ứng Lục được phát khởi là do
ông Ngụy Mai Tôn ở Nam Kinh muốn vãn hồi sát kiếp, Quang bảo ông ta hãy sưu tập
rộng khắp những chuyện nhân quả trong hai mươi bốn bộ sử[17]
để chúng được lưu truyền rộng rãi trong cõi đời thì sẽ có hy vọng [thế đạo thái
bình]. Do vậy, Quang đem bộ sách [Nhị Thập Nhị Sử Cảm Ứng Lục] của Bành Hy Tốc
biên soạn gởi đi, bảo ông ta hãy mở rộng bộ sách ấy. Ông ta nghĩ Quang nói
đúng, gắng hết sức sưu tập, chia thành từng môn, từng loại. Dưới mỗi đoạn lại
còn ghi rõ xuất phát từ sách nào, tập nào, quyển nào, trang nào. Có lẽ trong
năm sau sách sẽ hoàn thành, tôi sẽ ra sức đề xướng mạnh mẽ cho sách được lưu
truyền rộng khắp để giúp cho thế đạo nhân tâm trong tương lai. Tôi nghĩ các hạ
cũng tỏ lòng đồng tình đề xướng vậy (chuyện này ông Ngụy chưa thực hiện được, nhưng tạo thành duyên khởi
cho ông Hứa Chỉ Tịnh biên tập bộ Lịch
Sử Cảm Ứng Thống Kỷ. Xin hãy đọc bài tựa của tổ Ấn Quang viết cho bộ Thống Kỷ sẽ
tự biết nguyên do).
43. Thư gởi cư sĩ Quan
Quýnh Chi
(thư thứ nhất)
Quang vô tri vô thức, được ông lầm để
lọt mắt xanh, khôn ngăn cảm kích, xấu hổ. Hôm trước đã tặng một trăm đồng để in
bộ Văn Sao, quả thật là nhiệm vụ cấp bách. Một người bạn Quang tên là Hoàng Ấu
Hy cả nhà đều thuần thiện, nhưng bị chướng duyên đời trước trói buộc, khốn khổ
vì vừa nghèo vừa bệnh. Trước đây, Quang từng đến đó, thương ông ta gặp cảnh khổ
sở, biếu ông ta hai khúc vải Tây do ông Tôn Tam Nguyệt đã biếu cho Quang. Đêm
Mười Chín khi nghỉ tại Tịnh Nghiệp Xã, nghe cư sĩ Giang Vị Nông nói ông ta đã bị
bệnh thật ngặt nghèo, nay đã có chuyển biến; nếu từ rày lành bệnh thì cũng cần
phải dưỡng sức hai ba tháng mới có thể lành lặn để làm việc tại xưởng in. Ông
ta đi làm việc ăn lương mà còn khó thể trang trải, huống chi mấy tháng ngồi không,
biết phải làm sao đây, mong mọi người giúp đỡ. Quang nghe xong xót xa, cũng muốn
đề xướng, bèn giao mười đồng cho ông Vị Nông. Nay tính đem món tiền một trăm đồng
của các hạ dùng làm khoản tiền cứu giúp kẻ ngặt; ông ta có được món tiền một
trăm đồng này sẽ chống chọi được một tháng. Lợi ích ấy tuy chẳng lớn lao bằng
in Văn Sao, nhưng ân đức sâu đậm hơn in Văn Sao nhiều lắm; vì chuyện ấy còn có
thể để thong thả được, chứ cảnh này hết sức nguy cấp. Quang vốn biết các hạ đại
từ ban vui, đại bi cứu khổ, nên chẳng thưa trình trước [mà đã đem khoản tiền ấy
biếu tặng rồi!]
44. Thư gởi cư sĩ Quan
Quýnh Chi
(thư thứ hai)
Nửa năm chưa gặp gỡ mà giang sơn mấy độ
gấm vóc, nhân dân giàu mạnh đều trở thành điêu tàn khốn khổ, [lâm vào] tình huống
chẳng nỡ nhìn được! Do vậy càng thêm tin tưởng “tướng cõi đời vô thường, tam giới như nhà lửa”. Các hạ nương sức
túc nguyện tận lực hoằng dương Tịnh nghiệp, đúng là nên mượn dịp này để làm một
mũi kim đâm xuống đảnh đầu đại chúng tu trì Tịnh nghiệp, ngõ hầu ai nấy đều chết
sạch cái tâm mong ngóng “lại được sanh trong cõi trời, cõi người để hưởng thụ
si phước” thì lợi ích càng lớn vậy!
Thiên
Vương Điện của chùa Pháp Vũ kèo cột đã mục, lâm vào thế khó thể duy trì được
lâu. Hòa Thượng [Trụ Trì] ngay từ lúc mới nhận chức đã bàn đến chuyện xây lại
toàn bộ. Hiềm rằng hai năm qua có khi mùa màng thất bát, hoặc do chiến tranh
liên miên, đến nỗi chỉ quyên được ba bốn ngàn đồng, còn thiếu rất nhiều, tính
sai người sang các xứ Tân Gia Ba, Tân Lang v.v… để mộ duyên. Do những nơi ấy có
đại sư Quảng Thông thuộc Hạc Minh Am trụ trì đạo tràng cả hai nơi, người nơi ấy
trọn chẳng đến nỗi nghi là giả mạo! Tháng Sáu năm ngoái, Sư đã tận mặt cầu khẩn
các hạ, đã được chấp thuận. Nay phái hai thầy Minh Đức, Hàm Nghiệp sang đó trước,
sai Quang viết thư cho các hạ, mong các hạ sẽ xin thông hành, giấy nhập cảnh, hộ
chiếu sang các nước ngoại quốc từ văn phòng giao thiệp thuộc Bộ Ngoại Giao và
Lãnh Sự Quán để khỏi bị trở ngại. Nếu việc quyên góp được trọn vẹn để khởi công
trùng tu điện ấy thì quả thật là do các hạ đã ban cho vậy.
Lẽ
ra Hòa Thượng phải viết thư này, lại sai Quang viết vì ngài chưa rõ lòng thành
hộ pháp của các hạ, nhưng để thành toàn cho đạo tràng của Bồ Tát thì chẳng nên
sanh lòng so đo nơi tình người thân hay sơ. Quang được dính dáng vào chuyện
công đức này thì cũng được lợi ích nên chẳng chối từ, kính cẩn trình lên, mong
các hạ chẳng tiếc công sức khiến cho sở nguyện ấy được thỏa mãn thì may mắn lắm
thay!
45. Thư gởi cư sĩ Quan
Quýnh Chi
(thư thứ ba)
Chắc hai lá thư trước đây ông đã nhận
được rồi. Hiện thời vận đời đổi mới, những kẻ vô tri lầm lạc đề xướng thuyết hủy
diệt Phật pháp trong lúc này, thật nguy hiểm quá! Đạo pháp chẳng bị diệt vong
ngay lập tức là nhờ vào các hạ và các đại cư sĩ nhiều cách ra sức duy trì. Nếu
không, huệ mạng của Như Lai vĩnh viễn đoạn diệt từ đây, đông đảo chúng sanh trọn
chẳng mong chi thoát khổ, nguy hiểm đến cùng cực! Ngày hôm qua, hòa thượng Diệu
Liên ở Nam Kinh gởi đến một bức thư vốn là thư của Tôn Đại Tổng Thống (Tôn Văn)
trả lời các cư sĩ thuộc hội Phật giáo vào năm Dân Quốc thứ nhất (1911). Lá thư ấy
được đăng tải trong cuốn Phật Học Tùng Báo số thứ nhất, chẳng biết các hạ và
các đại cư sĩ đã từng đọc qua hay chưa? Hòa thượng nói là bài viết ấy được đăng
tải trong tháng Ba, có lẽ không đích xác, tôi sẽ kiếm trong những số Phật Học
Tùng Báo còn giữ được để kiểm chứng.
Có
lẽ nên cho đăng [lá thư ấy] trong những tờ báo lớn để những kẻ xướng xuất bừa
bãi, tiến hành bừa bãi biết Tôn Đại Tổng Thống đã làm chuyện hoằng dương, bảo vệ
Phật giáo như vậy. Nếu đăng báo nên ghi là “công
hàm bảo vệ Phật giáo của Tôn Đại Tổng Thống”, phía dưới ghi chú bằng hàng
chữ nhỏ rằng “trích từ Phật Học Tùng Báo
số thứ nhất”, hoặc ghi “do phân hội
Phật Giáo Giang Tô sao chép gởi tới”, mong ông hãy cân nhắc.
46. Thư gởi cư sĩ Quan
Quýnh Chi
(thư thứ tư)
Đã lâu chưa được gặp mặt, khôn ngăn
mong tưởng. Cư sĩ phát tâm Bồ Tát, lấy chốn đô thị làm đạo tràng, lấy những người
cùng hàng làm pháp lữ. Thân tuy tại gia, hạnh giống như vị Đầu Đà, sẽ thấy sự
giáo hóa từ bi được thấu khắp hết thảy những người cùng hàng dù thiện hay ác, sẽ
do vậy mà thoát khỏi cõi Sa Bà này sanh về cõi Cực Lạc kia, để trên là an ủi ý
niệm từ bi của Thích Ca, Di Đà, Quán Thế Âm, khôn ngăn vui mừng, an ủi tột bậc!
Ngày hôm qua, tôi nhận được thư của một người bạn là cư sĩ Trương Thụy Tăng cho
biết: Trong tháng trước, do bị mất chi phiếu đã phải cùng người ta thưa kiện
nơi tòa án, kẻ bị cáo cậy thế lực lớn gần như tố ngược lại, [may mà ông Trương]
được cư sĩ có lòng yêu mến ngấm ngầm xoay chuyển giúp nên chưa đến nỗi bị kẻ ác
gây khốn đốn lớn lao! Quang nghe xong mừng rỡ khôn cầm, khác nào chính mình được
giúp đỡ, cảm tạ khôn xiết. Vốn tính gởi thư này thẳng đến chỗ ông ở, nhưng do địa
chỉ, tên đường, số nhà đều không biết, chẳng thể giao cho bưu điện được. Vì thế,
nhờ cư sĩ Thụy Tăng đem qua Thượng Hải thay mặt Quang trình lên, mong hãy rủ
lòng từ bi thứ lỗi!
47. Thư trả lời cư sĩ
Quan Quýnh Chi (thư thứ năm)
Nhận được thư khôn ngăn cảm kích. Đang
trong lúc cuối thời pháp yếu ma mạnh, tổ đạo điêu linh này, may được các hạ và
các vị cư sĩ cực lực cứu vãn, [Phật pháp] chẳng đến nỗi bị diệt vong ngay lập tức,
nếu chẳng phải là nương theo nguyện để sanh trở lại, há có được như thế hay
chăng? May nhờ vào đại lực mà thành lập được các hội Phật hóa, nên [Phật giáo] chẳng
đến nỗi bị xô liền đổ nhào ngay, không cách nào vực dậy được! Điều đáng lo là
trong giới Tăng sĩ, hàng tri thức kém cỏi chẳng dễ khiến cho người khác sanh
lòng tin. May là vẫn còn có các cư sĩ tuyên dương khiến cho người hiểu lý biết
Phật là bậc đại thánh nhân, giáo pháp của Ngài là chuyện chẳng thể nghĩ bàn, quả
thật là may mắn lớn lao! Lá thư hôm mồng Hai là thư gởi chung cho ông và cư sĩ
Nhất Đình được gởi bằng thư bảo đảm, dẫu ông chưa nhận được cũng không sao. Những
điều được nói trong ấy cũng chỉ là những ý cầu xin che chở mà thôi!
48. Thư gởi hai vị cư
sĩ Quan Quýnh Chi và Vương Nhất Đình
Hôm qua nhận được thư của ông Hứa Chỉ
Tịnh mới biết do Cư Sĩ Lâm bị lính đóng, hai vị đã thỉnh cầu chánh phủ, được
[chánh phủ] chấp thuận duy trì, lại còn chấp thuận bảo vệ danh sơn vùng Chiết
Giang, khôn ngăn cảm kích. Hiện thời Phật pháp suy tàn, nếu không có bậc đại lực
ngoại hộ thừa nguyện tái lai thì sẽ bị diệt vong. Hai vị đáng gọi là bậc Bồ Tát
hộ pháp hộ đời, đã ra tay đẩy lùi con sóng cuồng, kéo trở lại mặt trời sắp lặn.
Chẳng những người trong pháp môn được che chở mà còn khiến cho chúng sanh đời
tương lai được nghe Phật thừa. Công đức ấy chỉ đức Phật mới biết được. Khi hồi
hướng sau mỗi khóa tụng, Quang đều hồi hướng cho hai vị và tất cả những vị có
công huân với Phật pháp. Quang đã thiếu tài trí, lại chẳng có tinh thần, chẳng
thể vì pháp môn ra sức. Chỉ mong hai vị dốc sức duy trì thì may mắn lắm thay!
49. Thư trả lời cư sĩ
Đinh Phước Bảo (thư thứ nhất)
Vừa nhận được thư gởi đến khôn ngăn thẹn
thùng, sợ hãi. Ấn Quang là ông Tăng ở đậu, chỉ biết cơm cháo, do bất đắc dĩ nên
mới bày ra khá nhiều thứ canh thừa, cơm sót cho xong trách nhiệm, mùi vị chua
hôi, hình chất vữa nát, nhờm gớm mắt pháp của người khác, nhưng Úy Như vui
thích cho là có ích cho kẻ đói nên đem truyền bá. Nếu các hạ muốn dẫn dắt cho những
kẻ đói được ăn no cỗ vua mà trước đó đã dùng những món này để giữ hơi thở cho họ,
chính là đã rủ lòng biệt đãi Quang quá mức rồi; há nên suy tôn Quang là người bậc
nhất sau ngài Tỉnh Am? Dẫu Quang đáng xách dép cho ngài Tỉnh Am[18]
cũng chẳng nên thốt ra lời nói quá phận ấy, huống là nói văn chương của Quang
trội hơn ngài Tỉnh Am ư? Làm người thì phải theo đúng luân thường, tuy các hạ
yêu mến Quang rất sâu đậm, nhưng [nói như vậy] thì cũng giống như chính mình đã
lỡ lời đó thôi! Ông nên biết rằng: Sau ngài Tỉnh Am có những vị đại cao nhân, họ
có hơn ngài Tỉnh Am hay chăng, chẳng dám dùng phàm tình để đoán bừa! Vị đáng xếp
vào hàng có thể sát cánh kề vai [ngài Tỉnh Am] vì học vấn, kiến địa, tu dưỡng,
đạo đức, hạnh nghiệp chẳng kém cạnh chút nào, chính là thiền sư Triệt Ngộ. [Suy
tôn] Ngài làm vị tổ thứ mười[19]
của Liên Tông, chẳng có phẩm đức nào đáng thẹn cả. Quang còn chưa dám xưng là hậu
duệ [của các ngài Tỉnh Am, Triệt Ngộ], huống là được xếp vào cùng hàng ư?
Quán
Thế Âm Bồ Tát tầm thanh cứu khổ, tùy loại hiện thân, sự nhiều, nghĩa rộng. Trước
kia, Quang muốn tu chỉnh Phổ Đà Sơn Chí, đọc khắp các sách vở, chọn lọc hết để
biên tập sao lục lại, hễ có ai nghi ngờ, bàn bạc chẳng thể thấu triệt đều thêm
vào lời bình luận để mong sao phàm những ai là đồng bào đều được thấm gội ân trạch;
nhưng vì túc nghiệp chưa tiêu, có mắt như lòa, không sao thực hiện được. Nay
các hạ phát đại tâm ấy, sẽ giải được niềm tiếc hận lớn lao cho Quang, cảm tạ tột
cùng, an ủi tột bậc! Bạch Y Chú[20]
chưa tìm được xuất xứ, chắc là do Bồ Tát thuận lòng kẻ căn cơ kém cỏi trao truyền
trong mộng mà thôi! Dùng tâm chí thành để niệm thì không điều mong cầu nào chẳng
được ứng nghiệm, không nguyện nào chẳng được thỏa; nhưng hàng tri thức trong
nhà Phật chẳng đem chú ấy dạy cho người khác vì không rõ xuất xứ, sợ khơi ra đầu
mối để người khác bịa đặt và nói xằng là “kinh Phật đều chẳng phải đích xác từ
Phật quốc truyền đến mà phần nhiều do người đời sau ngụy tạo!” Thế tục niệm
thêm mấy câu vốn là lời chú nguyện, hễ có thì cũng chẳng trở ngại, nếu không
thì cũng chẳng trở ngại chi! Những điều Vương Uông Dương ghi chép chưa gởi kèm
theo thư cũng không cần phải gởi đến nữa. Bồ Tát tùy cơ ban bố sự giáo hóa, chẳng
thể dùng những cách thông thường để dò lường được! Há nên dùng tri kiến phàm
phu để phán đoán ư? Chỉ nên tin tưởng, kính ngưỡng, phụng hành thì lợi ích sẽ rộng
lớn.
Chiêu
Khánh Kinh Phòng (phòng phát hành kinh sách chùa Chiêu Khánh) ở Hàng Châu có
bài Quán Âm Linh Cảm Phú, nhưng những chuyện được trình bày trong ấy có nhiều
chuyện bị giản lược quá mức, ngôn từ chẳng đạt ý nghĩa. Lại có cuốn Quán Âm Trì
Nghiệm Ký[21]
không biết các hạ đã có hay chưa? Năm ngoái, Mạnh Do cậy Úy Như gởi tới [Phổ
Đà] bản được sao lục từ Tạng kinh Nhật Bản; bản ấy do Châu Khắc Phục sưu tập,
chỉ độ ba bốn chục trang. Nếu không có, xin hãy báo cho biết, tôi sẽ dâng lên
ngay! Trong cuốn Hải Nam Nhất Chước[22]
sự tích thật nhiều, đều đáng để thâu thập, Quang thẹn mục lực không đủ, chẳng dám
theo giúp một bên. Nếu mục lực tốt ắt sẽ vì các hạ ra sức cho được thành tựu tốt
đẹp, dẫu chết cũng chẳng nuối tiếc!
Ngày
hôm qua, tôi đã gởi thư cho Vân Lôi nhờ ông ta in cho Quang năm trăm bộ Văn
Sao, chuyện giữ bản in, dùng loại giấy nào v.v… đều cậy ông ta dọ hỏi. Hôm nay,
chùa Pháp Vũ có đại sư Khai Tường đến đất Thân (Thượng Hải), nhờ thầy ấy giao
cho ông Vân Lôi một trăm đồng, năm mươi đồng của các hạ cũng giao cho Vân Lôi.
Đến khi in xong, sẽ bảo ông ta tính giá gốc mỗi cuốn, năm mươi đồng thì thỉnh
được bao nhiêu bộ, chia thành hai phần, một phần sẽ báo cho các hạ cử người đến
xưởng in nhận sách, một phần gởi thẳng về Phổ Đà cho Quang. Lần thỉnh này Quang
không có sức gởi đi được! Một trăm đồng tiền sách ấy chính để chuẩn bị sẵn
[hòng có sách] gởi cho đôi ba người bạn mà thôi (mồng Bốn tháng Ba năm Dân Quốc thứ sáu - 1917)
Thư gởi cho Vân Lôi xin cầm theo khi
giao tiền, ông ta chẳng thường ở xưởng in, đi vào năm giờ chiều thì sẽ chẳng lỡ
dịp.
50. Thư trả lời cư sĩ
Đinh Phước Bảo (thư thứ hai)
Hôm qua nhận được một cuốn Phật Học Sơ
Giai (bước đầu học Phật), khôn ngăn cảm kích, hổ thẹn đến cùng cực. Quang là kẻ
vô tri vô thức, gượng ứng theo duyên đời, tùy theo sự thấy nghĩ ngu muội của
mình mà nói ra những lời lẽ hủ bại, tuy về ý còn có thể chấp nhận được, nhưng lời
văn chẳng tươi đẹp, thông suốt. Các hạ chép mấy thiên văn từ [của Quang] vào cuối
sách ấy, sợ bậc thanh nhã, thông suốt lớn lao đọc đến chắc sẽ chê các hạ không
xét kỹ. Các hạ chỉ một lòng khơi gợi tâm chánh tín của người khác; năm ngoái
Quang từng tính dùng Phật Học Khởi Tín Biên để kết duyên, nhưng các hạ vẫn tự mình
phát tâm, cự tuyệt chẳng nhận tiền.
Nay
có ông Cao Thiệu Lân ở Bắc Quan, huyện Phước Đỉnh - Phước Ninh tỉnh Phước Kiến đã
có tín tâm từ đời trước, mấy năm gần đây chuyên tu Tịnh nghiệp. Ba năm trước,
Quang từng gởi cho ông ta mấy chục loại kinh sách, trị giá khoảng hai mươi mấy
đồng. Do cuộc đất ấy ở khuất trong núi, lại do khổ sở, đói nghèo nên không có sức
thỉnh [kinh sách] được! Một hai năm gần đây lại có ông Trần Diên Linh cũng là
người ở Bắc Quan cùng huyện, Thái Mậu Đường là người ở Nam Quan, thường gởi thư
đến. Năm ngoái, Quang đem bộ An Sĩ Toàn Thư đã khắc in gởi cho ba người ấy mỗi
người một bộ. Bọn họ cũng muốn lợi người, bèn trong mùa Thu lập hội giảng diễn,
thỉnh một vị Tăng đến làm lễ Mông Sơn một buổi, mọi người cùng niệm Phật hồi hướng,
rồi sau đó tùy sức giảng diễn quả báo thiện ác và pháp môn Tịnh Độ. Năm ngoái
có đến sáu bảy chục người nhập hội, năm nay chỉ còn năm sáu chục người mà thôi.
Do
tại huyện ấy từ thời Nguyên - Minh đến nay, chưa hề nghe đến chuyện mở hội diễn
giảng, trong mùa Hạ năm nay, bọn họ đặc biệt mời một vị pháp sư thuộc tông
Thiên Thai giảng kinh. Chuyện ấy bất quá để phát khởi lòng tin của người nơi ấy
mà thôi! Nếu nói là hiểu rõ ý nghĩa thì thật chẳng phải là chuyện dễ dàng! Huống
chi do địa phương cùng khổ, cũng chẳng thể thường xuyên cử hành được. Trộm nghĩ
cuốn Phật Học Sơ Giai do các hạ biên soạn khá thích hợp với căn cơ bọn họ, do
sách ấy trước hết nói đến nhân quả, sau đó nói về Tịnh Độ. Phàm những người
thông hiểu văn nghĩa đều lãnh hội được, người đọc sẽ vui vẻ hướng về điều cao cả,
muốn chấm dứt [những điều xấu ác vốn do] tình thế vẫn chưa thể [chấm dứt được],
người diễn thuyết cũng có thể dựa theo văn từ ấy để tuyên nói, chẳng cần phải
hái Đông nhặt Tây, quả đúng là bước đầu tiên để khuyến thiện dẫn vào Phật pháp.
Tôi vốn muốn bảo họ thỉnh sách ấy từ quý thư cục, nhưng sợ bọn họ pháp tài chẳng
đủ chắc đành bỏ lỡ lợi ích. Nếu các hạ chịu phát lòng đại từ bi hành đại pháp
thí, gởi đến khoảng ba bộ để họ mỗi tháng căn cứ theo lời văn mà diễn giảng khiến
cho nhân dân trong huyện ấy đều biết nhân quả, đều tu Tịnh nghiệp thì công đức ấy
cố nhiên vượt trội hơn thí cho người phú quý gấp ngàn vạn lần! Phật Học Chỉ
Nam, Khởi Tín Biên, Lục Đạo Luân Hồi Lục cũng gởi đi mỗi thứ một hai bộ để tiện
cho họ có tài liệu trích dẫn hòng diễn thuyết. Nếu gởi thì phía ngoài [bưu kiện]
nên ghi tên người nhận là ông Cao Thiệu Lân ở Bắc Quan, huyện Phước Đỉnh, tỉnh
Phước Kiến.
Phần
Tịnh Tọa Pháp Tinh Nghĩa (những ý nghĩa tinh xác về cách tịnh tọa) cuối sách Phật
Học Sơ Giai danh chẳng phù hợp với Thật cho lắm, có lẽ nên đề là Chư Tông Yếu
Điển Lược Kỷ (ghi chép đại lược về các tác phẩm quan trọng trong các tông),
phía dưới có lẽ nên ghi rằng: “Gần đây
trước thuật của Phật giáo các tông được khắc in cực nhiều, nếu chẳng biết được
chỗ trọng yếu sợ rằng sẽ dõi nhìn biển cả mà lùi bước; vì thế, chọn lấy những sách
trọng yếu trong các tông để nêu bày một hai điều. Muốn nghiên cứu tông nào thì
trước hết phải chọn đọc những sách trọng yếu của tông ấy thì sẽ tự có thể do ước
lược mà biết được rộng rãi. Hễ đã rõ một thứ thì trăm thứ đều rõ”. Năm
ngoái, khi bộ Văn Sao hủ bại của Ấn Quang được gởi đến, đã tính gởi cho nhóm
ông Cao Thiệu Lân dăm ba bộ. Do mỗi năm vào tháng Hai có cư sĩ Lý Tuấn Cảnh (cũng ở Bắc Quan, người này chất phác,
thật thà, chẳng thông văn lý) theo các thiện tín đến núi dâng hương, muốn đợi ông ta đến đây sẽ bảo
ông ta đem về. Ai ngờ năm nay ông ta chưa tới, về sau do nhiều người cần sách
nên phải gởi đi hết. Đợi cho nhà in giao sách sẽ đem gởi cùng với những sách do
các hạ vui vẻ biếu tặng khiến cho người trong huyện ấy được gội ân lớn khôn
cùng của các hạ (ngày Mười
Tám tháng Tư năm Dân Quốc thứ sáu - 1917)
51. Thư trả lời cư sĩ
Đinh Phước Bảo (thư thứ ba)
Ấn Quang thuở nhỏ thiếu học vấn, lớn
lên vô tri, ăn bám Phổ Đà hơn hai mươi năm, nhất loạt không giao du với hết thảy
Tăng - tục, nào ngờ các hạ là bậc học rộng, văn chương lớn lao, hoằng dương, giảng
nói đại giáo, đã rủ lòng ban cho tác phẩm lớn lao, lại còn gọi Quang là người
có cùng chí hướng nhất trong những người cùng chí hướng, cảm kích, hổ thẹn khôn
ngằn! Quang vừa sanh ra liền bị bệnh mắt, nay đã đến tuổi tai nghe đã thuận
(sáu mươi tuổi)[23],
suy yếu quá mức, không chỉ chữ trong tác phẩm lớn lao [của các hạ] không thể đọc
được nhiều, mà ngay cả Tạng kinh chữ in to cả tấc cũng chẳng thể xem nhiều được!
Do sức ác nghiệp trước kia, biết làm thế nào đây? Trong vòng một hai ngày, do
ít có chuyện phải bận bịu, [mở tác phẩm của các hạ ra đọc] thấy những lời chú
giải khá hợp sơ cơ, lời nào cũng có căn cứ, câu nào cũng hợp đạo, chẳng ngờ là
trong đời này mà còn thấy người [có văn tài] như thế. Nhưng trong ấy cũng có những
chỗ Quang nhìn không ra, muốn được thỉnh giáo để trừ nghi chướng. Tiếp đó, nghĩ
mình chưa minh tâm, người ta có cách nhìn khác. Khi xưa Quang đã từng đối với
Phật Học Tùng Báo, vội vàng khởi lên ý niệm “người nước Kỷ lo trời sập[24],
đứa bé con khen chiếu. Do vậy, dâng lên chương trình gồm chín điều, mong họ sẽ
sửa đổi quy củ đã định nhằm làm sáng tỏ pháp đạo, cư sĩ Nhất Thừa bỏ qua không
thèm đọc tới; nay dám lập lại sự bại nhục ấy nữa ư?
Nay
gởi cho ông một bộ Ấn Quang Văn Sao, mong hãy rủ lòng sửa chữa cho đúng. Bộ Văn
Sao này do ông Từ Úy Như ở Hải Diêm (tỉnh Chiết Giang) ấn hành, biếu tặng. Năm
Dân Quốc thứ hai, ông Cao Hạc Niên tới núi, đem văn cảo hủ bại của Quang đến đất
Hỗ, cư sĩ Lê Đoan Phủ cho chép lại bốn bài luận ấy để đăng báo. Cố nhiên ông ta
biết Quang chẳng muốn được người khác biết tới bèn dùng biệt danh [Thường Tàm]
để ký dưới những bài đã đăng trong Phật Học Tùng Báo. Từ cư sĩ thấy vậy, lầm lẫn
bội phục, hỏi thăm khắp mọi người nhưng không tìm được. Đến khi đã biết [những
bài luận ấy] do chính Ấn Quang viết, liền cậy ông Địch Sở Thanh giới thiệu, muốn
trao đổi thư từ trước khi gặp gỡ. Quang viện cớ người hèn đức bạc, học vấn hời
hợt, thiển cận để cố từ chối. Ông ta liền dò hỏi khắp bạn bè, sưu tập được bao
nhiêu đó lá thư hủ bại và sao lại những bài đã đăng trên Phật Học Tùng Báo cho
sắp chữ đem in. Cuối tháng Ba mùa Xuân năm nay, cầm theo ba mươi bản đến núi
thăm Quang. Lại còn muốn đem hết những văn cảo hủ bại khác, tính biên tập những
phần đã được in và chưa được in rồi đem khắc ván. Mấy chục năm qua, nếu không
có chuyện gì Quang chẳng động đến bút mực, nếu bị ai sai bảo hay bày tỏ nỗi
lòng với bạn bè thì bút cùn lời thô, trọn chẳng đáng xem! Ông ta đã lầm lạc tán
thưởng, chỉ đành đem lầm lạc đáp tạ lầm lạc, tùy duyên mà thôi! Trong bộ Văn
Sao ấy vẫn có hơn mười chữ sai lầm, nhưng do mục lục không kham nổi nên chưa thể
nêu ra. Bài luận Chẳng Nên Lẫn Lộn Giữa Tông Và Giáo bị tòa soạn Phật Học Tùng
Báo thêm vào hơn một trăm chữ, thoạt mới đọc qua, dường như thông suốt, hợp lẽ,
nhưng nếu chú tâm đọc kỹ, chẳng ổn thỏa, thích đáng lắm. Do vậy bèn bảo ông ta
sao lục theo đúng nguyên bản.
Phổ
Đà là chốn môn đình cúng bái, người chuyên tâm nghiên cứu kinh luận ít ỏi; hơn
nữa, do Quang trọn chẳng dự đoán được chuyện này, chẳng kết giao cùng sĩ đại
phu, rất ít người biết đến, không cách nào thúc đẩy, lo toan chuyện thù thắng
(tức chuyện nghiên cứu kinh luận) được, nhưng một niềm ngu thành trộm dâng lên
các hạ. Lưu thông kinh Phật chẳng giống như lưu thông báo chí, tiểu thuyết… mà
cần phải nghĩ tính đến chuyện về lâu về dài thì mới hữu ích. Đúc bản kẽm tuy
thuận tiện, nhưng rốt cuộc khó thể là kế sách lâu dài, vì trong mực in dùng cho
bản kẽm đã bỏ thêm nhiều chất nước thuốc, lâu ngày [chữ in] sẽ bị phai nhạt, mất
nét. Hãy nên in bằng bản gỗ thì mới lưu truyền lâu dài được. Ấn Quang gởi thư
cho báo Phật Học Tùng Thư chính là vì chuyện này. Những phần được trích lục
trong Văn Sao đã vì bạn bè mà lược bớt mấy đoạn. [Ông với Quang tuy ở] khác nơi
mà cùng một tấm lòng, khác nhà mà như tận mặt trò chuyện. Đã coi nhau là người
cùng chí hướng, chớ nên trách tôi chẳng thuận theo những thứ tán dương, khen ngợi
này nọ [để gây phiền cho nhau] (ngày Mười Tám tháng Sáu năm Dân Quốc thứ sáu - 1917)
52. Thư trả lời cư sĩ
Đinh Phước Bảo (thư thứ tư)
Hôm Mười Tám Quang đã kính gởi cho các
hạ một lá thư hủ bại và bộ Văn Sao vụng về, không biết đã nhận được hay chưa?
Không ngờ các hạ cũng lại gởi thư phúc đáp ngay trong ngày hôm ấy, đồng tâm
tương cảm đấy chăng, hay là ngẫu nhiên phù hợp mà thôi?
Nghi
thức niệm Phật như đã nói phải chia thành hai loại: Niệm Phật cùng đại chúng và
niệm một mình. Nếu niệm cùng đại chúng, hãy nên dựa theo Niệm Phật Khởi Chỉ
Nghi (nghi thức niệm Phật) trong kinh nhật tụng để khỏi gây trở ngại [cho những
người đã quen hành trì] theo lối thông thường, đây - kia đều hợp lẽ. Còn tu niệm
Phật một mình tuy có thể [hành] theo [chương trình do] mỗi người tự lập, nhưng
thứ tự niệm tụng chớ nên tán loạn. Tức là nói buông xuống thân tâm, nhắm mắt, lặng
thần, niệm Tịnh Pháp Giới Hộ Thân Chú[25]
và thầm tưởng bài kệ Tán Phật, lễ Phật và ba vị Bồ Tát xong. Nếu tụng kinh thì
tụng kinh Di Đà một biến, Vãng Sanh Chú ba biến xong rồi mới niệm rõ ràng bài kệ
Tán Phật xong, liền niệm tiếp “Nam-mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi
tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật” rồi chỉ niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Hãy nên vừa đi
nhiễu vừa niệm, hoặc niệm mấy trăm tiếng, hoặc niệm một ngàn tiếng. Cuối cùng
niệm ba danh hiệu Bồ Tát “Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng”, rồi mới
niệm bài Phát Nguyện Văn, niệm xong sẽ đọc Tam Tự Quy. Đấy là nghi thức của một
kỳ niệm Phật vậy. Nếu muốn tụng kinh nhiều hơn, hoặc tụng nhiều chú, hãy nên lập
một thời tụng kinh khác. Nếu cùng làm trong một lúc thì phải tụng kinh trước, kế
đó tụng chú, rồi đến tán Phật, niệm Phật, tiếp theo là phát nguyện, tam quy. Đấy
chính là thứ tự quyết định chẳng thay đổi vậy.
Pháp Thập Niệm do ngài Từ Vân Sám Chủ
vì hàng quốc vương, đại thần việc nước đa đoan, không rảnh rỗi để chuyên tu mà
lập ra. Lại muốn khiến cho họ được tịnh tâm, nhất tâm, nên lập ra cách lấy hết
một hơi thở làm một niệm để tâm họ nương theo hơi thở mà thâu nhiếp, không bị
tán loạn. Sự mầu nhiệm của pháp ấy nếu không phải là người trí sẽ không thể biết
được! Nhưng chỉ có thể dùng một lần vào buổi sáng, hoặc dùng ba lần: buổi sáng,
buổi tối và giữa trưa, chớ nên dùng nhiều, dùng nhiều sẽ bị tổn khí thành bệnh.
Chớ nên nói pháp này dễ nhiếp tâm nhất bèn sử dụng thường xuyên thì bị hại chẳng
nhỏ đâu!
Niệm
Phật niệm ra tiếng hay niệm thầm thì phải xét nơi chốn, quang cảnh như thế nào.
Nếu niệm ra tiếng rõ ràng không gây trở ngại gì thì nên niệm rõ tiếng như khi
thực hiện nghi thức niệm Phật, nhưng chỉ nên nghe sao cho tự nhiên, đừng niệm
quá lớn tiếng. Quá lớn tiếng có thể bị tổn khí mắc bệnh. Nếu tình hình nơi chỗ
ta đang ở chẳng tiện niệm ra tiếng thì chỉ niệm nhỏ tiếng và niệm Kim Cang Trì,
công đức chỉ ở chỗ chuyên tâm dốc chí, còn âm thanh vẫn là chuyện nhỏ. Trừ lúc
riêng thực hành [công khóa] niệm Phật ra, nếu suốt ngày thường niệm thì cố
nhiên nên niệm nhỏ tiếng, niệm Kim Cang, hoặc niệm thầm, vì nếu cứ thường niệm
ra tiếng rõ ràng, ắt sẽ đến nỗi bị tổn khí. Chưa chứng Pháp Thân, cần phải điều
hòa sao cho thích đáng thì mới chỉ có ích, chẳng bị tổn hại. Niệm rõ tiếng tốn
sức, niệm thầm dễ hôn trầm. Tuy tán trì có công đức khó nghĩ tưởng, nhưng so với
nhiếp tâm tịnh niệm khác nào một trời một vực!
Đối
với mấy điều này, Quang từng khá tốn công nghiên cứu, năm ngoái đã tìm ra một
cách hay khéo thuận tiện, viết thư trình bày với những người tri kỷ, ai nấy đều
khen ngợi. Nếu đã [niệm Phật] thành phiến, cố nhiên không cần dùng tới cách
này. Nếu chưa thành phiến và hết thảy những kẻ sơ cơ sử dụng cách này thì không
ai chẳng thích hợp, chỉ có ích chứ không bị tổn hại. Tuy các hạ không cần đến
cách này, nhưng cũng nên vì những kẻ tu Tịnh Tông chưa nhận được cửa mà thực
hành thử để bảo khắp với những người thông sáng mai sau. Cách ấy được ghi nơi
hàng thứ tám trong trang bốn mươi lăm bộ Ấn Quang Văn Sao[26],
xin hãy kiểm xem.
Trước
đây, đọc tác phẩm lớn lao của ông, thấy chữ “tướng
hảo quang minh” trong bài Kệ Tán Phật đã bị đổi thành “tướng sắc quang minh”, tôi đoán là do thợ sắp chữ ngẫu nhiên sắp lộn.
Trong thư này, lại thấy các hạ viết là “tướng
sắc”, mới biết các hạ cố ý sửa đổi. Tám câu kệ này do Anh pháp sư ở Đồng
Giang đời Tống[27]
tóm lược những ý nghĩa chánh từ ba kinh Tịnh Độ mà soạn ra, không một chữ nào
không có lai lịch, há nên sửa đổi bừa bãi? Quán Kinh dạy: “A Di Đà Phật có tám vạn bốn ngàn tướng, trong mỗi một tướng có tám vạn
bốn ngàn tùy hình hảo[28],
trong mỗi một hảo có tám vạn bốn ngàn quang minh”. Các hạ thông hiểu Phật
pháp sâu xa, sao không thấy được chỗ này? Trong hai cuốn Tiên Chú[29]
những chữ giống như thế này rất nhiều, Quang tính muốn nói cặn kẽ, nhưng sợ người
ta chẳng vừa lòng, nên nói: “Tôi chưa
minh tâm, người ta có cái nhìn khác”. Ở đây, do ông đã trống lòng hỏi đến,
chẳng ngại gì thừa thế phô bày [sự hiểu biết] tầm thường. Nếu các hạ thật sự lo
tính cho Phật pháp, cho chúng sanh, chắc sẽ chẳng vì xung đột ý kiến mà quở
trách. Nếu chỉ muốn khen ngợi thì hãy nên hướng về bọn xu phụ thời thế mà bàn
luận; Ấn Quang tuy kém cỏi vẫn chẳng muốn đi theo ngõ rẽ ấy!
Trong
sách Di Đà Trung Luận của Vương Canh Tâm, do chẳng biết pháp môn Quyền - Thật của
Như Lai, chẳng biết căn cơ chúng sanh sai biệt nên phàm có điều gì chẳng hợp với
ý kiến của chính mình đều bảo là sai lầm, mạt sát các vị thiện tri thức trong cả
một ngàn năm trăm năm, chỉ đề cao một mình đại sư Nhất Tỉnh nhằm phô rõ chính
mình được thánh sư truyền cho chân tông nhà Phật! Tuy nói là hoằng pháp, nhưng
quả thật đã chèn ép, hoại loạn Phật pháp, tạo ra mối tệ sâu xa khiến chúng sanh
lầm lạc, nghi ngờ, quyết chớ nên lưu thông sách ấy! Ông Châu Mạnh Do từng thống
thiết khen ngợi họ Vương trước mặt Quang, Quang nói đại lược những điểm tệ hại,
nhưng ông ta vẫn chưa cam lòng, vẫn gởi sách ấy đến. Xưa kia Quang đã tạo nên
cái nghiệp mù mắt, nay chẳng dám đi vào vết xe ấy, bèn hết sức trình bày những
điều tệ, nhưng ông ta vẫn chưa tin trọn vẹn, đem thư của Quang gởi cho Từ Úy
Như. Úy Như nói Quang phê phán như vậy vốn có hiểu biết riêng; do vậy, bèn đem
lời tiên sinh Dương Nhân Sơn chê trách [sách ấy] gởi cho [ông Châu]. Châu Mạnh
Do đem lời nói của đôi bên so sánh, mới biết rằng: Ấn Quang thật chẳng phải là
nói mò, nhưng lời chê trách của tiên sinh Nhân Sơn đa phần chú trọng tại lời
văn, còn lời chê trách của Quang chủ yếu dựa trên đại thể và tâm bệnh. Lưu
thông Phật pháp quả thật chẳng phải là chuyện dễ! Phải mong sao khế lý, khế cơ,
trọn chớ nên vâng theo cái tâm [thiên kiến riêng tư] rồi tự lập [những ý kiến ức
đoán] để khoe lạ phô kỳ, hòng thỏa thích tri kiến một thời của bọn tân học mà
thôi! Đã là tri kỷ, chẳng ngại gì dâng lời nói thẳng (ngày Hai Mươi Ba tháng Sáu năm Dân Quốc
thứ sáu - 1917)
53. Thư trả lời cư sĩ
Đinh Phước Bảo (thư thứ năm)
Ngày Hai Mươi Tám tháng trước đã kính
nhận được thư và các sách về Nho - Phật do ngài biên soạn, kính cẩn mở ra đọc,
cảm kích, hổ thẹn khôn ngằn! Ấn Quang là một ông Tăng tầm thường chỉ biết cơm
cháo mà thôi, nếu không có việc gì sẽ chẳng đụng đến bút mực, gặp chuyện ép buộc
bất đắc dĩ thì bút cùn, lời quê, quấy quá cho xong trách nhiệm! Há nên khen ngợi,
tán dương quá đáng, đến nỗi đánh mất lợi ích thật sự do được rèn giũa, gọt mài,
lệ trạch[30],
giúp cho điều nhân vậy? Các hạ học rộng nghe nhiều, là bậc quân tử tận tụy tu
dưỡng trong đạo Nho, biên soạn những cuốn Độc Thư Lục và Thiếu Niên Tấn Đức Lục
v.v… thảy đều tinh vi, thuần túy, tôi không chen vào đâu được, đúng là kim
thang[31]
cho thánh giáo, là khuôn mẫu cho bọn hậu sanh. Tuy vậy, những bộ Tiên Chú cho
kinh Phật dù đại thể sâu xa, hay đẹp, bóng bẩy, trong ấy vẫn có khá nhiều chỗ
không thích hợp cho lắm. Câu “chẳng che giấu tỳ vết” chính là nói về điều này vậy,
vì với học vấn, kiến địa của các hạ mà sao cũng chẳng thấy được chỗ này? Ấy là
vì Phật pháp là pháp siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Trong ấy, dù văn
hay nghĩa, dù sự hay lý, có những điều giống với thế gian, có thể dùng thường
tình để suy lường. Có những điều chẳng giống với thế gian, chẳng thể dùng thường
tình để suy lường được! Cố nhiên Ấn Quang ngu si khôn ví, xuất gia hơn ba mươi
năm mà chẳng dám sớ giải kinh điển một chữ, một câu nào, vì chính mình chưa
minh tâm, đâu thể nào khế hợp Phật ý! Cổ nhân chú giải kinh, có vị mười năm hay
tám năm chú giải một bộ, có vị suốt đời chỉ chú giải một bộ. Còn như các vị
Thiên Thai, Hiền Thủ, Vĩnh Minh, Ngẫu Ích v.v… thật sự là những vị đã chứng
Pháp Thân từ lâu, nương theo thệ nguyện hoằng pháp [mà thị hiện giáng sanh], chớ
nên đem bọn phàm tục thường nhân sánh với các ngài!
Các
hạ nghiên cứu kinh Phật, chưa đầy vài ba năm liền có thể thấu đạt tận cùng chỗ
sâu xa, huyền áo như thế. Nếu dùng công phu mười mấy năm thì đối với mỗi một chữ
trong bản chú giải ấy Ấn Quang sẽ lạy một lạy để báo ân hoằng kinh, mong cho [bản
chú giải ấy] được vĩnh viễn lưu truyền. Nay ông đã lầm lẫn coi Quang là người
cùng chí hướng và là bạn tri kỷ, lại bảo Quang chỉ ra mỗi chỗ chưa thấy đến,
nhưng Quang mắt gần như đã mù khi vừa sanh ra, chẳng thể đọc tường tận mỗi một
điều được, chỉ đành nêu đại lược một hai chỗ đã thấy. Nhưng lòng ngu trung chẳng
giúp được gì, lời cuồng nhàm tai, chỉ có thể giúp đỡ vặt vãnh cho việc nghiên cứu,
bàn bạc, chưa thể coi là lời bàn luận đích xác quyết định bắt buộc phải noi
theo. Xin hãy rủ lòng rộng lượng chỉ bảo cho những chỗ sai thì may mắn lắm
thay!
Đức
Như Lai giáng sanh vào thời nào có nhiều thuyết khác nhau. Tuy mỗi thuyết đều hợp
lý, nhưng xét đến cùng, chẳng [thuyết nào] thích đáng bằng thuyết nói đức Phật
giáng sanh vào năm hai mươi bốn đời Châu Chiêu Vương (971 trước Công Nguyên). Bởi
lẽ, khi [hoàng đế] triều Hán nằm mộng [thấy người vàng, đem chuyện ấy hỏi ý quần
thần], Thông Nhân Phó Nghị, Bác Sĩ[32]
Vương Tôn đã dùng thuyết này để tâu trình, lại còn dẫn sách Châu Thư Dị Ký để
làm chứng[33].
Nay Châu Thư Dị Ký không còn thấy nữa, nhưng cuộc vấn đáp nơi sân chầu nhà Hán
quyết chẳng phải là bịa đặt! Huống chi trước thuật Thiền - Giáo các đời phần
nhiều đều lấy thuyết này làm chuẩn, quyết chẳng nên bỏ qua ý kiến đã được mọi
người tuân theo để tự lập nghĩa mới, gây thêm nghi ngờ cho người thiếu học thức
đời sau. Dẫu có một hai bộ sách nói theo kiểu này, nhưng đấy là vì tác giả sẵn
chí bảo vệ đạo pháp nhưng chưa đọc rộng rãi các sách vở, cho rằng năm Trang
Công thứ bảy[34],
hằng tinh[35]
chẳng hiện, ban đêm mà trời sáng như ban ngày, nếu không phải đức Phật xuất thế
thì ứng với chuyện nào nữa đây? Chẳng biết bậc phi thường đản sanh và pháp phi
thường được lưu truyền, đều có những tướng lành phi thường, há phải chỉ mình đức
Như Lai mới có, còn các vị Pháp Thân đại sĩ thị hiện thì hoàn toàn không có [những
tướng lành ấy] ư?
Sách
Thiền chép khi ngài Nam Nhạc [Hoài] Nhượng[36]
sanh ra, khí trắng ngút trời, quan Thái Sử tâu lên vua rằng đấy chính là điềm
lành, còn những chuyện chẳng được lưu truyền trong sách vở chẳng biết là bao
nhiêu? Nếu cứ định là năm thứ chín đời Trang Vương thì những người đời sau các
hạ đọc kỹ những sách vở trong nhà Phật sẽ thấy niên đại trước sau đều chẳng thể
luận cho xuông được. Vì sao vậy? Do Phật sanh sau mà đệ tử Phật và các di tích,
sự thật về Phật đã có trước. Đã chẳng chịu nói là Phật sanh vào thời trước đó
mà lại chẳng thể đẩy các sự ấy ra sau; nếu lặng thinh không bàn đến thì thôi, hễ
bàn đến sẽ trở thành tự mâu thuẫn! Huống chi trong lời tựa dùng năm thứ hai
mươi sáu đời Châu Chiêu Vương để chú thích! (Có người nói năm Giáp Dần là năm thứ hai mươi sáu đời Châu Chiêu
Vương, nhưng đa số cho là năm thứ hai mươi bốn), trong kinh lại dùng năm thứ chín đời
Trang Vương[37]
để chú thích! Cùng là trước tác của một người, sao lại lập luận ngoắt ngoéo như
thế, thật tạo trở ngại lớn cho kẻ sơ cơ! Cố nhiên, các hạ vô ngã, sẵn chí lợi
người nên không thể không tận hết một chút ngu thành! Tiếc rằng Quang không có
tánh đa văn nên chẳng thể viện dẫn sách vở để chứng minh, thật quá thiếu sót!
Đối
với câu “[Để ra vẻ ta đây] là một vị cư
sĩ thông hiểu kinh điển, người chú giải ưa dùng mánh khóe viết cho câu văn phức
tạp, bóng bẩy” và hai câu kế tiếp đó trong lời tựa của pháp sư Đế Nhàn dành
cho bản Di Đà Kinh Tiên Chú, những điều được nói [trong phần chú thích của các
hạ] không được ổn thỏa, sát sao cho lắm! Trong lời chú thích, [các hạ] đã dẫn lời
Kỷ Đại Khuê:
“Kinh Hoa Nghiêm danh nghĩa hết sức phức
tạp, nhưng quả thật đầu mối rành mạch, chỉ nên căn cứ theo danh sắc của nguyên
bản mà lãnh hội. Ngài Thanh Lương thêm vào những danh sắc “hàng bố, viên dung[38],
tứ pháp giới[39],
thập huyền[40]”
v.v… để bày vẽ, chồng đệm, dựng nhà v.v… thật khiến cho người ta kinh hãi khôn ngằn!”
Chẳng ngờ kiến địa như Hoàng cư sĩ[41]
và các hạ mà lại dẫn những câu ấy để chú thích lời tựa của pháp sư Đế Nhàn, khiến
cho người thông hiểu đều kinh hãi, lạ lùng, [lại còn] khơi gợi cho người đời
sau đua nhau chê trách cổ nhân[42].
Mối tệ ấy thật chẳng nông cạn đâu! Vì thế, chẳng thể không nói, chẳng nỡ không
nói!
Trộm
nghĩ: Đối với các pháp do đức Phật đã nói, nhằm thích hợp cho chín pháp giới, những
nhà chú giải đời sau ai nấy tùy theo căn cơ của từng loại mà lập ngôn nhằm làm
lợi cho kẻ sơ cơ. Nếu không chú thích cặn kẽ, giải thích ý nghĩa từ ngữ, ý
nghĩa lời văn thì sẽ không thể được! Muốn làm lợi cho hạng căn cơ lớn lao mà chẳng
giảng giải ý nghĩa lớn lao để họ thấu hiểu ý Phật thì không thể được! Hai vị đại
sư (Thiên Thai Trí Giả và Thanh Lương Trừng Quán) mỗi vị đều có chủ ý, chứ
không phải là hai vị đều có chỗ đúng, chỗ sai! Vì thế, ngài Thiên Thai giải
thích kinh, dùng nhân, duyên để phán giáo, [phân biệt] Bổn, Tích, quán tâm sai
khác; đấy là vì ý nghĩa kinh sâu thăm thẳm, chẳng thể dùng một văn một nghĩa để
nói trọn hết được! Nếu chỉ chấp nhận dựa theo ý nghĩa của từ ngữ, ý nghĩa của
kinh văn để giải thích kinh thì những văn nhân biết chữ đọc sách trong cả thế
gian đều đạo cao như ngài Thanh Lương, tâm khế hợp Phật tâm; mà ngược lại, ngài
Thanh Lương là tội nhân phá hoại Hoa Nghiêm bậc nhất! Có lẽ ấy hay chăng? Quân
tử do một lời mà được coi là trí, do một lời mà bị coi là bất trí, há chẳng nên
cẩn thận ư?
Nếu
chỉ y theo ý nghĩa kinh văn [để giải thích kinh điển] thì câu nói “đức Như Lai vì ta diễn nói pháp môn Phổ
Nhãn. Giả sử dùng mực có số lượng bằng biển cả, dùng bút chất đống [cao to] như
núi Tu Di để viết một môn trong một phẩm, một pháp trong một môn, một nghĩa
trong một pháp, một câu trong một nghĩa của pháp môn này vẫn chẳng viết được
chút phần, huống là có thể tận hết!”của tỳ-kheo Hải Vân trong phẩm Nhập
Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm sẽ trở thành lời nói dối, tự phá hoại kinh Hoa
Nghiêm; các vị tôn túc thuộc tông Thiên Thai và Hiền Thủ đều là tội nhân trong
Phật môn hết! Làm sao có thể dẫn lời ông Kỷ Đại Khuê để làm chứng cho được? Xét
tới bổn tâm thì [ông Kỷ Đại Khuê] cũng không phải là cố ý bài xích, nhưng [ông
ta phạm lỗi] dùng tri kiến văn tự thế gian để luận đại pháp xuất thế gian chẳng
thể nghĩ bàn! Nguyên do là vì chưa thân cận bậc tri thức sáng mắt đến nỗi hoằng
pháp lại trở thành báng pháp vậy!
Tiếp đến, bàn về A Di Đà Kinh Tiên
Chú, mới đọc [đoạn đầu], “Tinh chính là
tam thiên đại thiên thế giới”, khôn ngăn kinh dị! Lại đọc tiếp phần chú giải
câu “quá thập vạn ức Phật độ” và lời
chú giải câu “tam thiên đại thiên thế giới”
lại khôn ngăn kinh dị! Sao các hạ đã biết thật sự, thật lý, mà lại nêu ra những
thuyết không tra cứu từ đâu được ấy? Mong rằng trong lần xuất bản kế tiếp của cuốn
[A Di Đà Kinh] Tiên Chú, hãy gạt bỏ hoàn toàn [câu ấy] ra khỏi đoạn thứ nhất của
phần Tạp Ký. Nếu không, hãy sửa đổi đoạn văn “Tinh (các ngôi sao) chính là tam thiên đại thiên thế giới” sao cho
phù hợp với phần chú giải ở phần sau thì sẽ có ích, không bị tổn hại. Tướng lưỡi
của đức Như Lai che mặt đến tận mí tóc chính là tướng lưỡi thông thường của đức
Phật vốn được nói đến trong Tam Tạng. Nếu nhằm đoạn nghi cho chúng sanh căn cơ
nhỏ nhoi trong tam giới, [đức Như Lai] bèn hiện tướng lưỡi này để biểu thị đức
Phật chẳng hề nói dối. “Che khắp tam
thiên đại thiên thế giới” cũng có thể [hiểu] là nói ví dụ; nhưng nếu bảo
hoàn toàn chẳng có chuyện ấy thì những nhà chú giải từ trước đến nay đều là hiểu
biết ngốc nghếch hết cả hay sao?
Do
kiến giải phàm tục, ông Diệp Tích Phụng đọc sách này khen ngợi khôn cùng, nhưng
những vị thông đạt xem đến ắt sẽ đau tiếc than thở, nói các hạ do tấm lòng cực
lực hoằng dương kinh điển, rốt cuộc trở thành những lời báng Phật, báng Pháp,
báng Tăng. Diệp Tích Phụng là một gã Nho sinh đối với huyết mạch ngữ ý của kinh
văn vẫn chưa hiểu rõ, nên buông tuồng không kiêng sợ, cho là “những nhà chú giải kinh này thời cổ đều bịa
đặt chẳng tuân theo lẽ thường, vô lý đến cùng cực, thật đáng khiến cho người ta
phải cười ồ!” Ông ta nói lời ấy cũng là lấy tri kiến phàm phu để suy lường
cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, do hoàn toàn chưa hiểu rõ kinh văn mà
ra!
Nay
tôi chẳng nề hà phiền toái để giải thích đại lược: Tam thiên đại thiên thế giới
là cõi nước ngự trị của một đức Phật. Đang trong khi đức Thích Ca Như Lai giảng
về những chuyện “y báo, chánh báo trang nghiêm của Tây Phương Cực Lạc thế giới,
quang minh thọ lượng của Phật Di Đà, chúng sanh trì danh liền được tiếp dẫn”
v.v… ở phương Đông có hằng hà sa tam thiên đại thiên thế giới. Trong một thế giới
có vị Phật tên là A Súc Bệ, một vị Phật trong thế giới khác tên là Tu Di Tướng,
cho đến một thế giới [khác nữa] có Phật hiệu là Diệu Âm. Trong số những vị Phật
ở hằng hà sa số tam thiên đại thế giới nơi phương Đông, chỉ nêu đại lược năm vị.
Tiếp đó [dùng từ ngữ] “như thị đẳng”
(giống như vậy) để nêu toàn thể [hồng danh những vị Phật ấy] một cách giản lược.
Hằng hà sa số các đức Phật, mỗi vị đều tự ở trong tam thiên đại thiên thế giới
do chính mình làm chủ, nghe đức Thích Ca nói bài kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị
Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm (khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn
được hết thảy chư Phật hộ niệm) này, muốn cho đại chúng trong pháp hội sanh
lòng tin, phát nguyện tu trì, nên mỗi vị đều ở tại cõi mình hiện đại thần
thông, hiện tướng lưỡi rộng dài che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời
thành thật: “Chúng sanh các ngươi hãy nên
tin tưởng bản kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ
Niệm do đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói này”. Năm phương kế tiếp đó đều giống
như thế, còn bản dịch đời Đường thì ghi là mười phương, bất quá nói rộng điều
[được thuật] đại lược trong bản kinh này; chứ thật ra bản dịch đời Tần chẳng giảm,
bản dịch đời Đường không tăng.
Họ
Diệp chẳng biết mỗi vị Phật có cõi nước riêng nên cho rằng “những phương Đông,
Tây… của thế giới này ở mỗi phương đều có hằng hà sa số Phật”, rồi lo các Ngài
va chạm nhau, nhiễu loạn sông núi khiến nhân dân không có chỗ để dung thân, và
lo lưỡi của chư Phật va đụng nhau không có chỗ để đặt lưỡi, thật đáng khiến cho
người khác cười rụng răng! Nhưng ông ta vẫn dương dương tự đắc nói: “Ta bù đắp
chỗ thiếu sót của kinh, sửa đổi cho đúng chỗ sai ngoa của tăng chúng. Ba kinh Tịnh
Độ từ nay mới có thể không còn chỗ nào đáng tiếc nuối!”
Ba
ngàn đức Phật ba đời[43]
trong thế giới Sa Bà mỗi vị đều có thời gian xuất hiện riêng biệt, trước sau chẳng
loạn. Một đức Phật ra đời, hết thảy chư Phật nếu muốn giúp vị ấy hoằng tuyên
pháp hóa, đều chẳng được hiện thân Phật. Vì thế, Quán Âm, Văn Thù v.v… đều ẩn đức
Thập Lực[44],
hiện thân Bồ Tát, giống hệt như một bầu trời không có hai mặt trời, dân không
có hai vua, đầu mối pháp đạo được quy về một mối. Họ Diệp chẳng biết nghĩa này,
mà các hạ vẫn bị ông ta mê hoặc thì những người bị ông ta mê hoặc sẽ nhiều lắm,
nhiều đến hằng hà sa số. Tiếc thay!
Phần Tạp Ký, nơi hàng thứ nhất trong
trang thứ hai, hai chữ “tinh cầu” nên
bỏ đi. Trang mười lăm, câu “phi thị toán
số chi sở năng tri” (chẳng thể tính toán mà biết được số) (lời chú giải ghi: nhiều đến nỗi không kể
xiết), ý nghĩa
tuy rõ ràng nhưng chưa giảng rõ ý nghĩa của chữ [“toán số”]. Toán số là “toán kế chi số” (con số do tính toán mà có), tức là những con số một,
mười, trăm, ngàn, vạn, ức, triệu, kinh, tỷ, cai, nhưỡng, cấu, giản, chánh, tải[45]
ở phương này. Trong kinh Phật thì như trong phẩm A Tăng Kỳ kinh Hoa Nghiêm đã
nói tới một trăm bốn mươi con số, “vô lượng, vô biên” cũng nằm trong số ấy. Vì
thế, ngài Ngẫu Ích nói: “A Tăng Kỳ, Vô Lượng,
Vô Biên đều là danh xưng của các con số, quả thật là vô lượng của hữu lượng. Do
đã là tên gọi của các con số nên là hữu lượng (có hạn lượng), nhưng trong kinh
quả thật nêu chung chung số lượng nhiều không thể kể xiết nên đấy chính là vô
lượng của vô lượng[46]”.
Trong cuốn Quán Thế Âm Kinh Tiên Chú,
dưới câu “nhĩ thời Vô Tận Ý Bồ Tát” (lúc
ấy, Vô Tận Ý Bồ Tát) nên thêm lời chú
giải rằng: “Nhĩ là lúc này, lúc ấy. ‘Nhĩ
thời’ là lúc đã nói xong phẩm Diệu Âm Bồ Tát”. Hàng thứ mười tám nơi trang
mười sáu (hàng thứ hai chữ
nhỏ), chữ
Xúc (觸) bị viết
sai thành Thương (觴).
Phần Tạp Ký trong
Tâm Kinh Tiên Chú, nơi trang thứ hai, các hàng mười một, mười hai, mười ba, mười
bốn, “bản Tâm Kinh được khắc trên đá thời
[Thanh] Cao Tông (Càn Long), câu chú không giống”. Câu chú khác nhau là do
năm đầu đời Cao Tông, lạt-ma Chương Gia[47]
đem các bài chú trong Đại Tạng Kinh dịch ra theo cách tụng niệm thông dụng của
các lạt-ma Mông Cổ, đặt tên là Mãn Mông Phiên Hán Hợp Bích Đại Tạng Toàn Chú.
Chữ Mãn, chữ Mông Cổ, chữ Phiên[48]
[chúng ta] đều chẳng biết đọc, ngay cả chữ Hán tuy biết, nhưng có khi phải dùng
hai chữ, ba chữ, bốn chữ để viết vào một chỗ[49].
Nếu chẳng hướng đến người Mông Cổ và người Tây Tạng để học [cách đọc] sẽ chẳng
thể đọc được, dẫu đọc cũng không đúng cách. Nhưng từ đời Hán đến đời Tống hơn một
ngàn năm, người dịch kinh nếu chẳng phải là bậc Pháp Thân thị hiện thì cũng là
bậc trượng phu anh liệt siêu quần bạt tụy, há đều chẳng thông hiểu chú ngữ ư? Bất
tất phải sanh tâm tôn sùng, coi trọng bản dịch của ngài Chương Gia, nghĩ là kỳ
lạ, đặc biệt; đấy chính là bỏ điều được mọi vị thánh cùng cho là đúng để giữ lấy
điều chỉ được một vị hiền nhân cho là đúng, há có nên chăng?
Kim Cang Kinh Tiên Chú, nơi trang thứ mười
ba, trong hai dòng chín và mười: “Bốn câu
kệ xưa nay nói không giống nhau”. Di Lặc là đấng Bổ Xứ, dùng những câu như “không có ngã tướng” v.v… để đáp chính
là đối bệnh cho thuốc, như trong nhà Thiền bất luận hỏi đến nghĩa nào đều chỉ về
lẽ hướng thượng! Nếu nói ngài Di Lặc đã đáp trọn hết nghĩa lý của bốn câu kệ, đấy
chính là tri kiến của kẻ đứng ngoài cửa! Trung Phong quốc sư nói: “Đối với câu “thọ trì nãi chí tứ cú kệ đẳng”
trong kinh này, trước từ ngữ “tứ cú kệ” phải có hai chữ “nãi chí” (cho đến),
phía sau phải có một chữ “đẳng” (vân vân). [Câu này] ý nói chưa thể thọ trì trọn
vẹn bài kinh, hoặc [chỉ thọ trì được] hơn nửa quyển, hoặc gần được nửa quyển,
cho đến tối thiểu là bốn câu hoặc một câu”. Câu nói này của ngài Trung
Phong là cách giải thích kinh văn hết sức thông suốt, nhưng các vị chú giải từ
trước đến nay thường hiểu hạn hẹp chữ “Kệ” không phải là văn xuôi. Họ chẳng biết
ở Tây Vực, kinh tiếng Phạn được viết theo hàng ngang, thường sắp xếp bằng cách
lấy ba mươi hai chữ làm chuẩn. Vì thế, [cổ thư] ghi nhận số chữ trong kinh Hoa
Nghiêm là “có mười vạn bài kệ”, chứ
không phải cả bộ kinh đều là kệ! Lại còn bất luận văn tự nhiều hay ít, hễ cứ giảng
trọn hết một nghĩa thì được coi là một Kệ, chứ không phải là ngoài kinh văn ra,
chỉ nói đến bốn câu [kệ] mà thôi! Nếu hiểu chữ “kệ” là kệ tụng thì [thọ trì] trọn
bài kinh chẳng có công đức, chỉ có bài kệ này mới có công đức! Há chẳng phải là
báng Phật, báng Pháp, báng Tăng ư? Chỉ nội sáu chữ đơn giản “nãi chí tứ cú kệ đẳng” này đã chứa trọn
bao nhiêu [ý nghĩa của] muôn quyển kinh luận rồi! Những kẻ văn chương lừng lẫy
một thuở mà vẫn chẳng biết làm như thế nào! Kinh Phật há thể nói dễ dàng ư?
Tứ
Thập Nhị Chương Kinh Tiên Chú trang thứ chín, hai dòng mười và mười một, đối với
câu“tam thế chư Phật cập vô niệm vô trụ”
(chữ Trụ 住 bị
viết sai thành chữ Nhậm 任), vô tu, vô chứng chi giả” hãy nên y theo
cách giải thích của ngài Ngẫu Ích: “Tam
thế chư Phật” là y theo quả vị trong Tạng Giáo. “Vô niệm trụ tu chứng” là nói về những bậc từ Sơ Trụ trở lên trong
Viên Giáo. Nếu không, sẽ đẩy bậc đứng đầu xuống hàng chót, đưa bậc chót lên
hàng đầu! Dẫu có thể cưỡng nói cho hợp lý, rốt cuộc vẫn oan uổng tạo khẩu nghiệp!
Kinh Phật há có thể chỉ chấp vào cách giải thích từ ngữ mà giải thích được hay
chăng? Trang thứ mười sáu, dòng thứ mười (hai hàng chú thích
chữ nhỏ), “trưởng giả như mẫu”
(người lớn tuổi hơn thì coi như mẹ) (chữ Mẫu 母 bị viết sai thành Nữ 女). Lại trong
hàng mười tám, chữ “công tào” nên giảng là “nguyên soái” (người suất lãnh) thì
ý nghĩa của kinh sẽ tự rõ ràng vì phần kinh văn tiếp đó ghi là “công tào nhược chỉ, tùng giả đô tức” ([nếu] ngăn được người thống
lãnh, thì những kẻ đi theo đều ngưng nghỉ). Do vậy,
Công là công năng, Tào chính là “tào bối” (lũ, bọn); công năng của cả bọn đều
quy về một mình người thống lãnh, nên mới nói “nguyên soái” là “công tào”.[50]
Phật
Di Giáo Kinh Chú, trang mười bảy, dòng thứ năm, nên giảng chữ “đạo” (導) trong từ ngữ “thiện đạo” (善導: khéo dẫn dắt) là dẫn dắt đi đường
vì câu kinh văn tiếp đó là “đạo nhân thiện
đạo” (導人善道), đạo (道) là con đường vậy, [“đạo nhân thiện
đạo”] tức là “dẫn đi trên con đường lành”. Nếu người dẫn đường chỉ cho con đường
chánh mà kẻ nghe không đi thì chẳng phải là lỗi của người dẫn đường. Kinh gọi đức
Phật là “đại đạo sư” (大導師) đều là vì
dẫn người khác đi trên con đường chánh mà đặt tên như vậy.
Vu
Lan Bồn Kinh Chú, trang bốn, dòng thứ mười sáu (hai dòng chữ nhỏ), “thoạt đầu tôi trộm cho là tên của đạo sĩ”, chữ Thiết (竊: trộm) bị viết sai thành chữ Cùng
(窮: cùng tận).
Cao Vương Quán Thế Âm Kinh Chú, phần Tạp
Ký trang một, dòng thứ mười ba: “Vân Thê
đại sư gánh vác pháp đạo, rất sợ đời sau vô tri nên ra sức biện định kinh này
là ngụy tạo, cho nên nói như vậy. Chứ không phải ngài Vân Thê chưa hề đọc những
sách như Pháp Uyển Châu Lâm v.v… mà mạo muội nói như thế”. Kinh này không
có văn lý gì cả, [lời biện định của ngài Vân Thê] quả là lời luận đích xác. [Kẻ
nào tụng trì kinh này] được công đức [thì công đức ấy] đều thuộc về công đức của
danh hiệu Phật, Bồ Tát. Niệm những danh hiệu ấy có thể tiêu nghiệp chướng, tăng
phước huệ. Bồ Tát thuận theo cái tâm tầm thường của chúng sanh nên truyền dạy
kinh này trong mộng. Nếu là bậc chuyên môn nghiên cứu Phật học thì đã có Đại Tạng
Kinh, cần gì phải dốc sức nơi kinh này? Xưa nay có rất nhiều kinh do trong mộng
cảm được thần truyền dạy, nhưng đều chẳng dám lưu thông vì rất sợ những kẻ xằng
bậy bịa đặt, khơi nên đầu mối ngụy tạo, cắt đứt thiện căn của những người chỉ
biết đạo nghĩa Nho giáo, chưa hiểu Phật pháp sâu xa (tức là họ sẽ nói “kinh Phật
đều là do người đời sau ngụy tạo”). Vì thế Nhân Hiếu Hoàng Hậu nhà Đại
Minh[51]
(hoàng hậu của [hoàng
đế] Vĩnh Lạc) mộng cảm được Phật nói kinh, tức Đệ Nhất Hy Hữu Đại Công Đức Kinh.
Trong thời Vĩnh Lạc, [kinh này] được nhập tạng, đến năm ba mươi (1765) đời
Thanh Cao Tông, vâng theo chiếu chỉ, lấy kinh ấy ra khỏi tạng để ngăn ngừa chuyện
bịa đặt. Vì thế, phiên dịch kinh Phật ắt phải tuân phụng chiếu chỉ.
Trong dịch
trường (đạo tràng dịch kinh), có vị dịch Phạn văn, có vị Dịch Ngữ, có vị Hồi Xuyết
(tiếng của Tây
Phương đa phần nói ngược, nên cần phải đảo lại, như Ba La Mật là Bỉ Ngạn Đáo,
phải viết lại cho đúng thứ tự là Đáo Bỉ Ngạn - đến bờ bên kia), có vị Chứng
Nghĩa, có vị Nhuận Văn[52].
Tăng - tục tham gia phiên dịch, ít là mấy người, nhiều thì mấy chục người; vị Nhuận
Văn đều do vị quan quyền cao chức trọng đương thời đảm nhiệm. Nghiêm túc như thế,
chẳng để cẩu thả, qua quýt chút nào, vậy mà Nho sinh vô tri đời sau còn nói
kinh Phật đều là do Tăng chúng ăn trộm, chế biến từ học thuyết Lão - Trang mà
có, huống là lưu thông những kinh thật sự mờ mịt chẳng rõ lai lịch ư? Muốn do
[lưu thông] kinh này mà những kinh được phiên dịch [từ Phạn bản] do phương Tây
truyền đến chẳng bị nghi ngờ, há chẳng khó lắm ư?
Các hạ chú
giải kinh này hãy nên trình bày rõ tấm lòng “bảo vệ chúng sanh, bảo vệ pháp đạo
đức Phật” của ngài Vân Thê, đừng nên nói ngài Vân Thê phạm sai lầm khi sửa đổi
cho đúng những điều sai lầm thì đôi đàng đều được tốt đẹp. Vân Thê, Ngẫu Ích là
những vị đại đạo sư thời Mạt Pháp, là bậc gương mẫu thật sự. Mong hãy nhìn vào
thời kỳ các ngài trước tác mà thấu hiểu chỗ dụng ý trong lòng các ngài thì pháp
gì, chuyện gì cũng đều tự có thể khế cơ lẫn khế lý vậy!
Trong
Phật Kinh Tinh Hoa Lục, trang ba mươi sáu, dòng thứ chín, “Vị Tằng Hữu Kinh”. Mười hai bộ kinh là những đặc điểm chung của hết
thảy các kinh. Có kinh trọn đủ cả mười hai bộ[53],
có kinh ít hơn, chỉ gồm một hai, ba, bốn, năm bộ. Mười hai bộ vừa nói đó, gọi theo
tiếng Hán là Trường Hàng, Trùng Tụng, Thọ Ký, Cô Khởi Tụng, Vô Vấn Tự Thuyết,
Nhân Quả, Thí Dụ, Bổn Sự, Bổn Sanh, Phương Quảng, Vị Tằng Hữu, Luận Nghị. Trong
ấy, ba bộ loại Trường Hàng, Trùng Tụng, Cô Khởi Tụng được lập ra dựa theo kinh
văn, chín thứ kia đều ước theo nghĩa mà lập danh. Bộ loại Vị Tằng Hữu ghi chép
những chuyện đại thần biến chẳng thể nghĩ bàn của Phật, Bồ Tát. Kinh này[54]
cũng do nghĩa ấy mà đặt tên như vậy, chứ không phải là một trong mười hai bộ
kinh.
Trang bốn
mươi, dòng thứ sáu, nhân - duyên - pháp - nghiệp của mười giới trong kinh Phạm
Võng đều bị [sao chép] điên đảo, sai lầm, lộn xộn, tra lời chú giải của các hạ
thì có hay không đều bất nhất! Những phần [được ghi] “sao lục từ sách Phạm Võng Kinh Hợp Chú[55]”
thì [trong phần] Sát giới (dòng thứ mười ba), Phương Tiện Sát (thiếu mất chữ Sát), dòng mười bốn, mười lăm, [theo thứ
tự đúng thì phải là] Sát nhân, Sát duyên, Sát pháp, Sát nghiệp, sao lại viết là
Sát nghiệp, Sát pháp, Sát Nhân, Sát duyên? Nhân là phát ra cái tâm giết ấy.
Duyên là những phương tiện giúp cho chuyện giết chóc được thành tựu; chẳng hạn
như bày mưu định kế, mài dao, pha thuốc v.v… Pháp là cầm dao, kiếm, thuốc độc
đi giết. Nghiệp là đoạn mạng kẻ ấy (tức kẻ bị giết), chuyện giết chóc đã thành.
Phàm sự gì đã thành đều nhất loạt gọi là Nghiệp. Thứ tự trước - sau, sâu - cạn,
thân - sơ, theo đúng thứ tự chẳng loạn. Sao các hạ tự lập quy cách để dời chuyển
như vậy? Hai giới Sát và Dâm thì các hạ đặt theo thứ tự là Nghiệp, Pháp, Nhân,
Duyên, còn tám giới kia lại đều đặt theo thứ tự là Nhân, Nghiệp, Pháp Duyên!
Trong
giới Vọng Ngữ, dưới phần Duyên của Vọng Ngữ có chú thích rằng “sao chép trọn vẹn từ sách [Phạm Võng Kinh]
Hợp Chú”. Sao lại lược bỏ bốn chữ “để
hiển thánh đức” [của sách Hợp Chú]? Cần phải biết rằng [kẻ phạm giới vọng
ngữ bằng cách đối với] “các thứ oai nghi
tới, lui, cử động, đứng yên, nói năng, im lặng, đủ mọi phương tiện đều là vì muốn
làm cho người khác sẽ nói là “ta đã chứng thánh quả”, nên nói là “để hiển thánh đức”. Bỏ đi bốn chữ ấy sẽ
chẳng phô rõ bổn tâm [của kẻ] vọng ngữ muốn phô trương màu mè, làm dáng vậy. Đoạn
kinh văn này vốn không sai lầm, nhưng lời [giảng của sách] Hợp Chú lại hết sức
rõ ràng. Há nên trái nghịch kinh, trái phản lời chú giải, tự lập chương trình
hay chăng? Nếu một điều thì có thể coi là viết lầm, chứ cả mười điều đều như thế,
há có phải là viết lầm ư?
Phàm
sao lục kinh luận của Phật, của Tổ, thì đầu tiên là sao lục kinh, rồi đến luận,
cuối cùng mới sao lục trước thuật của phương này. Với kinh luận lại cần phải
sao lục kinh Đại Thừa trước tiên, kế đó là Tiểu Thừa, chớ nên đảo lộn thứ tự
trước sau, như thánh chỉ và cáo thị chẳng thể đảo lộn thứ tự được. Trong một bộ
chẳng thể liệt kê như thế, thì trong một môn nhất quyết chẳng thể không y theo
cách này để trình bày. Nếu không, sẽ khiến cho kẻ vô tri đều coi thường kinh Phật
mà bậc đại thông gia sẽ chê là chẳng biết pháp.
Hơn
nữa, trong phần chú giải kinh Phạm Võng [của tổ Ngẫu Ích] về giới Vọng Ngữ, đối
với câu “tiền nhân lãnh giải” thì chữ “tiền nhân” chỉ cho đối tượng [nhận
lãnh lời nói dối], tức là vì kẻ ấy [mà người phạm giới Vọng Ngữ] thốt ra lời
nói dối, “lãnh giải” là người ấy nghe
lời nói dối đã lãnh hội, hiểu rõ. Nếu chẳng lãnh ngộ, hiểu rõ thì nghiệp vẫn
chưa thành; lãnh ngộ, hiểu rõ thì nghiệp đã thành! Nay ông sửa thành “sử nhân lãnh giải” (khiến cho người ấy
lãnh giải) thì chưa biết người ấy có hiểu hay không? Trong giới thứ mười cũng
giống như thế.
Thêm nữa,
theo nguyên văn của giới thứ mười: “Nhược
Phật tử tự báng Tam Bảo, giáo nhân báng Tam Bảo, báng nhân, báng duyên, báng
pháp, báng nghiệp, nhi Bồ Tát kiến ngoại đạo cập dĩ ác nhân nhất ngôn báng Phật
âm thanh, như tam bách mâu thích tâm” (Nếu Phật tử tự báng Tam Bảo, dạy người
khác báng Tam Bảo, nhân phỉ báng, duyên phỉ báng, pháp phỉ báng, nghiệp phỉ
báng, nhưng Bồ Tát nghe âm thanh của một câu báng Phật do ngoại đạo và kẻ ác
[thốt ra], [sẽ cảm thấy] giống như ba trăm mũi mâu đâm vào tim), ông bèn rút gọn
là “Bồ Tát kiến nhân báng Phật như dữ
thích tâm” (Bồ Tát thấy người báng Phật như bị đâm vào tim) (Lời chú giải ghi: “Chữ 予[56] đọc âm giống như chữ Dữ 與”), hãy sửa
cho đúng phần đã lược bỏ đi.
Ngẫu
Ích đại sư chứng Pháp Thân đã lâu, thừa nguyện tái lai, học vấn, kiến địa, hành
trì, đạo đức như Ngài chẳng những ít thấy trong đời Mạt Pháp mà ngay trong thời
Phật pháp hưng thịnh dưới đời Tùy - Đường, cao nhân như rừng, nếu [ngài sống]
ngay trong thời ấy vẫn thuộc loại Đại Sĩ xuất quần bạt tụy chẳng thể nghĩ bàn!
Phàm những trước thuật của Ngài đều khế lý lẫn khế cơ; các hạ hãy nên buông xuống
cái tâm chỉ chấp vào sự giải thích văn tự, hãy lắng lòng nghiên cứu đến cùng tận
để thấu hiểu thì niềm vui pháp hỷ sẽ riêng khế hợp nơi tâm mà chẳng thể nào mở
miệng kể cho người khác biết được! Vì sao vậy? Do những gì đạt được đều mất cả
rồi, đều quy về chỗ vô sở đắc rồi!
Chùa
Pháp Vũ có Minh Nam Tạng (Vĩnh Lạc Nam Tạng) và Thanh Tạng (Càn Long Đại
Tạng Kinh), lại có rất nhiều những kinh sách mới in [đã thỉnh] từ những chỗ khắc
kinh ở Dương Châu, Ninh Ba, nhưng người phát tâm đọc khá ít, một là vì ít người
thật sự phát Bồ Đề tâm, hai là vì người thật sự có học vấn, có thiên tư ít ỏi,
đáng tiếc thay!
Cuối phần
Đàm Quỷ (nói về chuyện quỷ thần), đối với chuyện Mục Chương A[57],
lời phán định của các hạ tuy hay, nhưng xét ra chưa phải là thật nghĩa. Nay tôi
chẳng tiếc khẩu nghiệp để giải thích đại lược. Mục Chương A suy nghĩ, xử sự
không gì chẳng phải là ác, đến lúc lâm chung biết trước lúc mất, từ biệt mọi
người rồi ngồi mà mất. Người ấy trong đời trước đã tu trì lớn lao, sức định huệ
sâu xa, cho nên đời này tuy mê muội tạo nghiệp, luận theo đời này ắt phải đọa
thẳng vào địa ngục A Tỳ, chịu khổ đến hết kiếp, nhưng do ác nghiệp đời này chưa
chín muồi, thiện căn đời trước tỏ lộ. [Do vậy], vẫn có thể nương vào sức lành đời
trước, tận lực tu trì Tịnh nghiệp, nương theo Phật từ lực vãng sanh Tây Phương,
chẳng phải thọ ác báo của những ác nghiệp đã tạo trong đời này. Nếu không biết
nghĩa này, vẫn noi theo nghiệp y như cũ thì khi thiện nghiệp đời trước đã hết,
ác nghiệp đời này sẽ lại phát hiện, nỗi khổ ấy chẳng thể nào diễn tả được!
Trong đời này, người lành mắc họa, kẻ ác hưởng phước, phàm phu chẳng biết túc
nghiệp trong đời trước bèn nói nhân quả sai lầm, báo ứng hay bị lẫn lộn! Người
có Tha Tâm Túc Mạng Thông thấy [nhân quả báo ứng] tơ hào chẳng sai, tình lẫn lý
đều ổn thỏa. Cái chết tốt lành của Mục Chương A chẳng phải là do may mắn! Dương
Kế Thịnh chết oan khuất chẳng phải là bất hạnh! Ai nấy đều có nhân trước và quả
sau, ấy là do được đền đáp hay phải trả nợ mà thành khác biệt. Đạo báo ứng có
nhiều loại chẳng phải chỉ có một, chẳng thể dùng đời này để phán đoán được!
Vì thế,
kinh dạy rõ ba thứ quả báo. Ba thứ quả báo là Hiện Báo, Sanh Báo và Hậu Báo. Hiện
Báo là đời này làm thiện, tạo ác, đời này sẽ hưởng phước hay mắc họa. Đây chính
là điều phàm phu trong thế gian đều thấy cùng biết được. Sanh Báo là đời này
làm thiện, tạo ác, đời sau hưởng phước, mắc họa. Phàm phu trong thế gian tuy chẳng
thấy biết được, nhưng đại lực quỷ thần, thiên tiên vẫn có thể thấy biết được! Hậu
Báo là đời này làm thiện, tạo ác, đến đời thứ ba, hoặc bốn năm sáu bảy đời sau,
hoặc mười, trăm, ngàn, vạn đời, hoặc đến vô lượng vô biên Hằng hà sa số kiếp mới
hưởng phước hay mắc họa. Nếu ba bốn năm đời và mười trăm ngàn đời, có lẽ thiên
tiên còn thấy được, chứ đến năm sáu bảy tám vạn kiếp, đạo nhãn của bậc Thanh
Văn vẫn còn thấy được. Nếu đến vô lượng vô biên Hằng hà sa kiếp thì nếu chẳng
phải là ngũ nhãn viên minh của đức Như Lai sẽ chẳng thể thấy được!
Nương theo
các pháp môn khác, cậy vào tự lực để đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử,
phần nhiều đều chỉ gieo thiện căn phước huệ, chẳng thể cao dự dòng thánh. Vương
Thập Bằng, Tô Đông Pha, Hoàng Đình Kiên, Tăng Lỗ Công v.v… đều là những vị cao
tăng xuất chúng chót vót trong đời trước, nhưng đời này đã kém hơn đời trước, đời
sau lại chẳng biết kết cục sẽ như thế nào? Nghĩ đến đây, đúng là đau lòng, ứa lệ,
thở dài sườn sượt! Nếu chẳng phát phẫn chuyên tu một pháp “cậy vào Phật từ lực
vãng sanh Tịnh Độ”, thì là xong rồi!
Ấn Quang cuồng
vọng vô tri, phụ lòng ông yêu mến nồng hậu, hôm Ba Mươi tháng Sáu nhận được lá
thư thứ tư, liền muốn phúc đáp, nhưng do vướng bận bởi chuyện của người khác,
cũng như do ban đêm chẳng thể viết lách được nên lần khân mãi đến ngày mồng Hai
nhận được lá thư thứ năm, bèn quên mình kém hèn, vung bút viết thư bừa bãi,
cũng biết là gai mắt nhã, [toan] cậy vào lá thư này để biểu lộ lòng ngu thành,
thích đáng hay không, mong hãy rủ lòng sáng suốt xét soi (Mồng Năm tháng Bảy năm Dân
Quốc thứ sáu - 1917)
Ấn
Quang mục lực quá suy, Đại Tạng Kinh chữ to còn chẳng thể đọc được, trước thuật
của các hạ chữ quá nhỏ, chẳng dám xem nhiều, chỉ tùy tiện mở đọc mà thôi. Vì thế,
thuận theo những gì mình thấy được mà nêu lên, tính chung lại thì trong hai
mươi phần vẫn chưa xem được một phần. Về việc soạn lời tự để tỏ rõ ý nghĩa [của
từng tác phẩm] hãy nên cầu bậc danh nhân. Ấn Quang chôn sống ngoài hải đảo, lại
còn thiếu học vấn, vô đạo đức, bút cùn, lời quê, làm sao nêu tỏ những điểm sâu
mầu cho được? Do vậy chẳng dám vâng mạng, xin rủ lòng tha thứ. Tướng lưỡi Như
Lai ý nghĩa vô tận, do mục lực không đủ và do gấp rút nên chỉ luận [đại lược]
như thế.
54. Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ sáu)
Hôm
qua nhận được thư và Bát Triều Toàn Thi, cảm tạ khôn cùng! Trộm nghĩ Ấn Quang
là một ông Tăng phàm tục thô lậu ở đất Bắc, đối với đạo pháp nhà Phật trọn chẳng
đạt được gì, dẫu có bàn nói thì đa phần là cuồng vọng, chẳng bị trách tội là đã
may mắn quá rồi! Nào kham khen ngợi quá lố như thế, cảm thấy hổ thẹn cùng cực!
Quang đời trước lắm tội lỗi, sanh ra liền mắc bệnh mắt, trong suốt sáu tháng
gào thét khóc lóc, trừ lúc ăn ngủ ra, trọn không lúc nào không khóc gào. May nhờ
thiện căn đời trước, còn được thấy mặt trời và kinh Phật thật may mắn quá! Bản
chú giải của các hạ kích thước chữ quá nhỏ, nhất loạt chẳng dám xem! Một phần
hai mươi [như đã nói trong lá thư trước] là một phần này đem chia thành mười phần,
trong phần Tạp Ký chiếm đến tám chín phần, lời chú giải chỉ chiếm một hai phần
mà thôi. Chỉ lấy phần này xem đại lược, chứ hoàn toàn chưa đọc trọn một trương.
Các hạ giữ tấm lòng khiêm hư như thế, nào phải đợi người quáng trình bày mỗi điều,
ắt sẽ đúng đúng sai sai, không điều gì chính mình chẳng biết rõ!
Hoàng
cư sĩ biết lỗi mạnh mẽ sửa đổi, có thể là bậc tận tụy tu tập thực tiễn, là bậc
anh hùng trong Nho môn, làm kim thang cho Phật pháp. Kính vì pháp môn và chúng
sanh mà chúc mừng, pháp vận sẽ thông suốt, đã có người chế ngự những kẻ lấn hiếp
[Phật giáo]! Trong lá thư trước đã nói đến Tấn Đức Lục rồi, tôi không nhàn rỗi,
sao [tìm thấy] có [điểm] lầm lạc [trong cuốn sách ấy] cho được? Bát Triều Toàn
Thi tuy tôi không đọc được, nhưng sẽ trân trọng cất giữ vì một là để làm kỷ niệm,
hai là dùng để tra cứu.
Ma
Ha Bát Nhã chỉ cho kinh Bát Nhã được nói đến trong thời thứ tư [của năm thời đức
Phật thuyết pháp]. Nói chia chẻ ra thì có tám bộ, nhưng tám bộ ấy đều là các hội[58]
trong bộ Bát Nhã sáu trăm quyển. [Do vậy], nói chung chỉ có kinh Đại Bát Nhã mà
thôi! “Hoa Nghiêm hải không” (kinh
Hoa Nghiêm như biển cả, như hư không) [nghĩa là] một bộ kinh Hoa Nghiêm vượt trỗi
các kinh, lý bao trùm các kinh, gồm vô lượng pháp môn, chỉ rõ Nhất Chân pháp giới,
ví như biển cả chứa đựng khắp các dòng nước, dường như hư không mênh mông chứa
đựng muôn hình tượng. Vì thế gọi là “hải
không”.
Hơn nữa, những
pháp được nói trong kinh Hoa Nghiêm chính là pháp để thành Phật ngay trong một
đời này. Dù đã thành Phật, bất quá là đích thân chứng được tâm tánh vốn sẵn có
mà thôi, chứ trọn chẳng đạt được pháp nào. Vì thế, kinh Lăng Nghiêm nói: “Viên mãn Bồ Đề quy vô sở đắc” (Bồ Đề
viên mãn quy về chỗ không có gì để đạt được); Tâm Kinh nói: “Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề Tát Đỏa nãi đắc cứu
cánh Niết Bàn” (Do không có gì để đắc nên Bồ Tát bèn đắc Niết Bàn rốt ráo);
kinh Kim Cang nói: “Diệt độ nhất thiết
chúng sanh dĩ, thật vô chúng sanh đắc diệt độ giả” (Diệt độ hết thảy chúng
sanh rồi nhưng thật sự chẳng có chúng sanh nào được diệt độ). Đó gọi là “Không - Hữu chẳng lập, một đạo thanh tịnh”.
Do vậy, gọi là “hải không”. Tôi thấy
biết thô lậu như thế, chẳng biết các hạ nghĩ sao?
Mồng
Chín tháng này, Trung Hoa Thư Cục gởi đến ba cuốn Linh Học Tùng Chí, tức là báo
ra vào ba kỳ 3, 4, 5, do vậy bèn đọc đại khái. Thấy tạp chí ấy dạy người sửa lỗi
hướng lành, bàn cặn kẽ về sanh tử luân hồi, có lợi ích lớn lao cho kẻ không tin
nhân quả và chấp trước tà vạy rằng không có ba đời. Còn phần nói về Phật pháp
và Quán Âm, Văn Thù, Phổ Hiền giáng đàn chỉ dạy, đều là do những linh quỷ hoàn
toàn chẳng biết gì về Phật pháp giả danh. Trong số báo thứ tư, cõi trời gồm hai
mươi bốn thừa như trong “Phật giáo” do [linh quỷ mạo danh] Văn Thù dạy, và thứ
tự của hai mươi bốn địa vị trong Phật giáo do [linh quỷ mạo danh] Phổ Hiền giảng
dạy đều là nói nhăng nói cuội!
Còn kinh Phật
Đảnh Hỗn Nguyên là do [bọn linh quỷ] ăn trộm ý nghĩa từ Kim Cang Kinh, Tâm Kinh
ngụy tạo ra. Dẫu trong kinh ấy những lời lẽ phần nhiều trích từ kinh Phật thật
sự, nhưng cũng chớ nên lưu truyền thọ trì vì tà - chánh xen tạp, giống như bỏ
chất độc vào món ăn ngon, chẳng dùng để đỡ đói được! Vô Lượng Độ Sanh Kinh càng
là thứ nói năng mù quáng. Trộm sợ các hạ tín tâm chân thật, thiết tha, cũng xem
kinh này giống như Cao Vương Kinh rồi vì đó sẽ tán dương, lưu thông thì hoại loạn
Phật pháp, khiến chúng sanh bị lầm lạc, nghi ngờ, tội lỗi chẳng nông cạn đâu!
Đã mạo nhận là tri kỷ của ông, nào dám chẳng trình bày đại lược lời lẽ của kẻ cắt
cỏ, đẵn củi để ngăn ngừa hậu hoạn vì thiện tâm mà chuốc lấy ác quả hay sao?
Các hạ đã
ghi tên gia nhập làm hội viên hạng ba của họ, chỉ nên bảo họ chú trọng nêu tỏ những
chuyện “sửa ác, hướng thiện và hiếu - đễ - trung - tín - lễ - nghĩa - liêm - sỉ,
kiêng giết, kiêng dâm, giữ phận khiêm cung, ghìm mình khiêm nhượng, đừng làm
các điều ác, vâng làm các điều thiện” v.v… Vô thượng diệu đạo của đức Như Lai
há những đàn cơ thỉnh linh tiên có thể tuyên dương diễn thuyết được chăng? Giác
Minh Diệu Hạnh Bồ Tát, Tướng Quốc Vương Định Cửu đều do [có kẻ] cầu cơ [mà
giáng xuống dạy đạo], nhưng đều nghiêm ngặt răn cấm cầu cơ. Hãy nên lấy đó làm
khuôn thước!
Lời luận định
của ông Kỷ Văn Đạt về cầu cơ rất có đạo lý, ông ta cho rằng đàn cơ giả nhiều thật
ít[59],
người thông đạt, bậc sáng suốt hãy nên kính nhi viễn chi, chớ nên chuyên dốc sức
vào nơi ấy để rồi bị bọn tiểu quỷ, tiểu thần mê hoặc. Như trong bài Tạp Toản thứ
chín của Linh Học Tùng Chí số thứ ba, ông Thạnh Thành thuật chuyện “hồn người sống
giáng cơ” như sau: Cha ông ta một bữa nọ đốt bùa thỉnh tiên, cơ lay chuyển mạnh
mẽ, vẽ hai vòng tròn và một vạch đứng trên mâm cát suốt hai tiếng đồng hồ chứ
không viết gì khác. Cha ông ta bảo những người hiện diện nơi đàn cầu cơ là do họ
chẳng nghiêm túc khiến thần bị chọc giận. [Mọi người] sụp lạy liên tiếp, [cơ
bút] vẫn vẽ như cũ, mọi người đều sợ hãi. Chợt [trong đám] người nhà, có người
từ Đơn Gia Kiều trở về nói: “Phía dưới gầm cầu có một gã gánh phân nằm mê mệt
bên đường, miệng lẩm bẩm rì rầm, tình trạng giống như bị bệnh ngặt nghèo, hãy
mau đi cứu, sợ để lâu không kịp nữa!” Cha ông ta liền đốt bùa tống tiễn [thần
tiên] rồi đi ra xem thì thấy gã gánh phân đã tỉnh, cho biết: “Tôi nằm mộng thấy
đến một chỗ nọ, hương đèn sáng choang, mọi người hướng về phía tôi sụp lạy. Tôi
không biết đáp ứng ra sao bèn vẽ trên mâm hai cái thùng với một cây đòn gánh của
tôi để chỉ cho họ biết, bọn họ càng sụp lạy nhiều hơn, kính cẩn nhiều hơn. Tôi
chẳng biết làm thế nào, cứ vẽ đi lại cái hình tả nghề nghiệp của tôi mà thôi!”
Ông Thành tự nói: “Do vậy lòng thành tin tưởng vào chuyện cầu cơ ngày càng tăng
hơn!”
Tôi nói: “Lòng thành tin tưởng [vào chuyện cầu cơ] của
ông Thạnh Thành là chỉ biết tiến mà không biết lùi!” Ôi! Thỉnh tiên mà người
gánh phân giáng đàn, vẽ đòn gánh thùng phân chẳng biết bao nhiêu lượt! Nếu
không có người từ cầu trở về, chắc [đại chúng trong đàn cầu cơ ấy] sẽ nói cái
hình vẽ đó có biết bao điều huyền diệu, sợ rằng đấy là do tiên thánh chỉ dạy ý
chỉ huyền áo: “Chấp vào giữa sẽ quán
thông tất cả, chấp vào đôi bên nhưng dùng cái ở giữa!” chắc chắn chẳng dám ức
đoán rằng: “Đây là thùng phân, đòn gánh!” Đến khi gặp “tiên nhân gánh phân” nói
toạc ra thì hình vẽ ấy chẳng đáng một đồng! Suốt nửa ngày miệt mài cầu khẩn gã
gánh phân, khôn ngăn hổ thẹn, bàng hoàng! Vì thế, cần biết rằng: Thật sự có
chân tiên, nhưng kẻ giả danh lại chẳng phải chỉ là gã gánh phân mà thôi! Người
trí do chuyện này mà ngộ.
Quang tính
nửa tháng sau sẽ đi qua chỗ khác, độ hơn một tháng sẽ trở về. Lúc về chắc sẽ đi
vòng sang Thượng Hải, sẽ đến quý cục gặp gỡ một phen để thưa hỏi, học lấy những
điều ích lợi. Mong từ nay đừng gởi thư đến nữa để khỏi bị lạc mất! (ngày Mười Hai tháng Bảy năm
Dân Quốc thứ bảy - 1918)
55. Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ bảy)
Cách
biệt mấy tháng, mong ngóng thật sâu. Vừa nhận được thư gởi đến cùng với hai bản
chú giải kinh như gặp được pháp nhan, cảm kích, hổ thẹn tột cùng. Quang do nghiệp
chướng sâu nặng, mắt gần như mù từ lúc mới sanh, tuy thường luôn sám hối, nghiệp
vẫn như cũ. Kính cẩn đem hai bài tựa cuốn Phổ Hiền Hành Pháp Kinh đọc một lượt,
[thấy] lời tựa của Đại Tâm có thể nói là dùng cái tâm tự lập, lập người, làm
chuyện tự lợi, lợi tha, giải trừ mười điều nghi, nêu rõ mười điều lợi ích, đây
đâu phải chỉ là bài tựa cho các [bản chú giải] kinh của các hạ mà chính là lời
tựa chung cho [những tác phẩm] các bậc hoằng kinh xưa nay. Nào ngờ trung châu
có vị vĩ nhân như thế! Một chữ “phẩm”
cuối cùng dường như không ổn thỏa lắm, tuy không cố ý ngấm ngầm dùng trộm,
nhưng đừng dùng theo cách này, sẽ mạo phạm hình thức của kinh, hãy nên đổi
thành lời tựa chung. Lời Bạt của ông Độn Căn xét về ý nghĩa thì hết sức đề cao,
nhưng dựa theo Tông, theo Giáo, hai đằng đều chẳng hợp, nhưng cũng không có
quan hệ lớn lao chi lắm, hãy để mặc kệ.
Trong lời tựa
của các hạ, phần đầu dẫn lời của Diễn Tông có thể nói là lời bàn luận chẳng thể
gạt bỏ được, cuối cùng dẫn câu nói của họ Hồ đủ thấy cái tâm hướng theo lẽ
chánh. Sau này nhìn lại bây giờ, cũng giống như bây giờ nhìn lại thuở trước. Giữ
được cái tâm “sợ thuở mai sau” thì trọn chẳng đến nỗi nghịch kinh, phản cổ, chuốc
lấy tiếng chê cười trong tương lai. Phàm chú giải kinh Phật, phải có con mắt
riêng; chớ nên dùng cảnh giới phàm phu để suy lường cảnh giới vi diệu chẳng thể
nghĩ bàn của đức Như Lai. Như các ông Kỷ Đại Khuê, Diệp Tích Phụng v.v… do vì lẽ
này mà hoằng pháp rốt cuộc biến thành báng pháp, khôn ngăn tiếc nuối vậy! Những
điều khác do mục lực chẳng thể kham nổi nên đều chẳng dám đọc. Thêm nữa, những
danh tướng Đại Thừa và Tiểu Thừa trong kinh giống nhau rất nhiều; giải thích
kinh Đại Thừa chớ nên dẫn những nghĩa trong kinh Tiểu Thừa để giảng giải. Như
trong phần Niệm Thiên ở cuối pháp Lục Niệm thì Tiểu Thừa niệm những vị trời ở Dục
Giới, Sắc Giới v.v… còn Đại Thừa thì niệm Đệ Nhất Nghĩa Thiên, Đại Niết Bàn
Thiên. Nếu với kinh Đại Thừa mà dẫn nghĩa Tiểu Thừa để giải thích sẽ trở thành
hoại loạn kinh tông, chớ nên không cẩn thận! Chỉ do một nghĩa này, những điều
khác có thể suy ra được! (ngày Hai Mươi Sáu tháng Mười năm Dân Quốc thứ bảy - 1918)
Quang
hiện đang đả thất, xin đừng gởi thư đến. Dẫu có chuyện cần phải bàn bạc cũng
nên đợi tới tháng Ba năm sau. Nếu gởi thư đến trước tháng Ba, nhất quyết chẳng
vâng mệnh phúc đáp, xin hãy từ bi lượng thứ.
Một pháp Niệm
Phật hãy nên lấy kinh luận Tịnh Độ làm chuẩn. Chúng sanh đời Mạt nghiệp nặng
chướng sâu, tu Quán theo Quán Kinh vẫn khó thể thành tựu! Do vậy, chư Tổ của
Liên Tông phần nhiều đều chuyên lấy trì danh làm pháp tu chủ yếu vì trì danh dễ
dàng, hễ niệm liên tục bèn vãng sanh. Phương pháp nhiếp tâm có nhiều thứ, chứ
chẳng phải một, tùy theo căn khí của mỗi người mà áp dụng sẽ tự được lợi ích. Nếu
xét tới pháp thiết yếu nhất, nói chung chẳng pháp nào hơn được tám chữ “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”
của đức Đại Thế Chí.
Pháp môn Niệm
Phật tam-muội của Đại Tâm tuy mỗi mặt đều có chỗ thấy biết thông suốt, nhưng chẳng
thể dùng để dạy khắp mọi người vì hạ căn chẳng thể tu được, còn thượng căn tuy
có thể tu nhưng không bắt buộc phải dùng phương pháp này! Trong nhan đề của
sách, chữ Phật viết nguệch ngoạc, cổ quái, đủ thấy người ấy trong xử sự hằng
ngày chưa thể chí thành khẩn thiết đối với Phật! Phàm những thói quen xấu như vậy
hãy nên tận lực ngăn ngừa!
Lưu Diễn
Tông viết về sáu mươi lăm sức chẳng thể nghĩ bàn của kinh Pháp Hoa, có thể nói
đã thâm nhập chỗ u viễn sâu xa của Pháp Hoa, nhưng đem mỗi một điều so sánh với
Tịnh Độ để luận định hơn - kém, quả thật chẳng thấu hiểu pháp môn Quyền Thật của
đức Như Lai, chỉ có thể lợi lạc những căn tánh như các vị Nam Nhạc, Thiên Thai
trở lên, còn những ai thấp hơn đều bị thuyết ấy cắt đứt thiện căn vãng sanh Tây
Phương! Sách ấy tuyệt đối chớ nên lưu thông. Nếu lưu thông tuy có thể làm cho
con người tôn kính, tin tưởng Pháp Hoa, nhưng lại khiến cho hết thảy những ai
không hiểu rõ giáo lý Quyền - Thật sẽ bởi đó mà miệt thị Tịnh Độ chẳng tu! Tịch
Quang Tịnh Độ “đương xứ tức thị” (chính là ở ngay nơi đây), chỉ có một mình đức
Phật là có thể chứng trọn vẹn. Bậc Đẳng Giác Bồ Tát vẫn là Phần Chứng, huống gì
những người khác? Nay đem sự thấy biết, pháp chứng ngộ của bậc Đăng Địa, Đăng
Trụ[60]
giao cho phàm phu đảm nhiệm, há có nên chăng?
Trong hội
Hoa Nghiêm, bậc đã chứng bằng với chư Phật rồi mà vẫn được [Phổ Hiền Bồ Tát] dạy
cầu vãng sanh. Nay đối với kẻ trọn đủ Hoặc nghiệp lại dạy họ bỏ Di Đà Tịnh Độ để
tu Sa Bà Tịnh Độ của đức Bổn Sư! Tấm lòng quả thật là rộng lớn, to tát, nhưng
cái hại ấy chẳng thể nói cho hết được! Phàm cõi An Dưỡng nơi Sa Bà vốn là cõi
Thật Báo Tịch Quang (Thật Báo và Tịch Quang vốn là một cõi. Ước theo quả báo cảm được
thì gọi là Thật Báo. Ước theo lý được chứng thì gọi là Tịch Quang. Tịch Quang
không có tướng, Thật Báo đầy đủ những tướng trang nghiêm mầu nhiệm chẳng thể
nghĩ bàn nhiều như số lượng vi trần trong Phật sát hải. Tuy vốn đủ trang nghiêm
của các cõi nhiều như số vi trần, vốn là một pháp chẳng lập. Tuy một pháp chẳng
lập, nhưng lại đầy đủ trang nghiêm, như gương sáng trọn chẳng có một vật, nhưng
hễ Hồ đến Hồ hiện, giống như thể của Hư Không tuy chẳng có các tướng, nhưng chẳng
trở ngại mặt trời chiếu rọi, mây đùn). Cõi Thật Báo Tịch Quang Tịnh Độ ấy
chỉ có những vị đã đạt đến địa vị Sơ Trụ trong Viên Giáo mới có thể thấy được.
Trong cõi
Phàm Thánh Đồng Cư độ nơi Tây Phương không có các nỗi khổ, chỉ hưởng những sự
vui; còn Phàm Thánh Đồng Cư độ trong cõi này, ba thứ Hoặc - Nghiệp - Khổ nhóm lại
như cái chĩa ba xấu ác, luân hồi sáu nẻo, trọn chẳng có thuở nào xong! Do vậy,
đem đối chiếu Thật Báo Tịch Quang cõi này và Phàm Thánh Đồng Cư độ để bàn luận
chính là trái nghịch ý chỉ của kinh, trao lầm pháp dược, than thở khôn ngằn!
Sao chẳng đem đối chiếu Phàm Thánh Đồng Cư độ cõi này và Phàm Thánh Đồng Cư độ
của cõi kia để luận định thì mới là lời nói khế lý, khế cơ, được tam thế chư Phật
đều ấn khả vậy? Ấy là vì hiểu biết chưa tinh mà đã muốn chê trách đường lối, nhằm
tỏ vẻ đang trong thời cải cách cũng có bậc nương theo đại nguyện luân, sửa đổi
pháp môn thích hợp khắp ba căn của Như Lai, là chỗ quy tông kết huyệt cuối cùng
của kinh Hoa Nghiêm sao cho nó được tốt lành hơn đấy chăng?
Ấn Quang
không đạo, không đức, tham phỏng ít ỏi, học vấn nhỏ nhoi, chẳng thể vì pháp môn
ra sức một câu, một chữ nào, nhưng muốn cho hết thảy hữu tình đều cùng sanh về
Tây Phương, chẳng thể không mạo muội phạm đến bậc đại gia, dâng lên sự hiểu biết
giống như hòn đá nơi núi khác[61]
vậy. Nếu coi trọng pháp, ắt sẽ tha thứ. Nếu không, dẫu bảo Quang là tà kiến
báng pháp cũng hoan hỷ nhận lãnh, không dám oán trách gì!
Quang mục lực
suy kém, gần đây lại bị nhức đầu dữ dội, càng thêm suy kém hơn, do chuyện có
quan hệ đến pháp đạo nên chẳng thể không trình bày đại lược lòng ngu thành.
56. Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ
tám)
Kinh
Dịch chép: “Quân tử cư kỳ thất, xuất kỳ
ngôn thiện, tắc thiên lý chi ngoại ứng chi, huống kỳ nhĩ giả hồ? Xuất kỳ ngôn bất
thiện, thiên lý chi ngoại tắc vi chi, huống kỳ nhĩ giả hồ?” (Quân tử ở
trong nhà, thốt ra lời lành thì ngoài ngàn dặm còn đáp ứng, huống gì những kẻ ở
gần ư? Thốt ra lời chẳng lành, ngoài ngàn dặm còn chống đối, huống là những kẻ ở
gần ư?) Cư sĩ Diễn Tông một lòng đau đáu cực lực đề cao sức chẳng thể nghĩ bàn
của kinh Pháp Hoa, hiềm rằng chưa biết tường tận về nguyên do, nên viện dẫn
kinh văn, phân tích phán định sự hơn - kém, chẳng những trái nghịch pháp môn phổ
độ chúng sanh rốt ráo của tam thế chư Phật, mà còn trái nghịch quá đáng những ý
nghĩa Bổn, Tích, Khai, Hiển trong kinh ấy! Uổng phí cái tâm tốt đẹp để gây lầm lạc
cho mình lẫn người.
Trong thư
trước, tôi đã vâng mạng đáp lời, trình bày đại lược những nét đại khái, thưa là
quyết chẳng thể lưu thông [sách ấy]. Hai ba bữa nay lại có mấy người bạn tại
gia từng đọc sách ấy khôn ngăn đau đớn, biết Ấn Quang lòng dạ thẳng tuột, ăn
nói thẳng băng, sẽ dám trình bày, khuyên can, từ ngoài xa mấy ngàn dặm đều gởi
thư và sách ấy bảo Ấn Quang hãy làm hòn đá mài để trần thuật lẽ lợi hại, chớ để
cho sách ấy được lưu thông hòng bảo toàn danh dự cho ông Lưu trong đời này,
tránh khỏi quả báo trong vị lai, khuyên thiện, răn lỗi cho trọn hết tình nghĩa
bè bạn trong pháp môn.
Trộm nghĩ: Ấn
Quang người hèn đức mỏng, nói ra ai chịu nghe, một lần quấy nhiễu là đã quá
đáng rồi, nào dám quấy nhiễu lần nữa? Tiếp đó nghĩ Ấn Quang đời trước bất hạnh,
đến nỗi đời này sanh ra liền bị bệnh mắt, xuất gia hơn ba mươi năm, tuy thường
siêng năng sám hối, do nghiệp chướng sâu đậm nên tâm chẳng nhập được đạo, mắt ngày
càng quáng lòa, đoán rằng chắc là do báo đời trước nói sai Phật pháp làm hại
chánh nhãn của người khác nên chiêu cảm quả báo này; suy nghĩ đến đây, lòng
càng thêm nhức nhối, từ ta suy ra người, thế khôn ngăn được! Muốn cho ông Lưu
và hết thảy mọi người đời đời kiếp kiếp được nhục nhãn sáng ngời, đời đời kiếp
kiếp được pháp nhãn thanh tịnh, thấu hiểu sâu xa ý Phật, chứng triệt để tự tâm,
dẫn dắt khắp các hàm thức cùng lên bờ giác, vĩnh viễn thoát khỏi nỗi khổ do quả
báo chiêu cảm như Ấn Quang; cũng nhờ vào công đức ấy mà Ấn Quang tiêu bớt nghiệp
chướng này. Dẫu bị nói là chỉ trích, bài xích trước tác của bậc thông suốt sẽ
vĩnh viễn đọa A Tỳ địa ngục, chịu khổ cả kiếp dài lâu, nhưng khiến cho hết thảy
chúng sanh đều hưởng lợi ích, chỉ mình ta chịu khổ thì cũng là hạnh phúc lớn
lao, được ban thưởng vô cùng không gì bằng!
Xin hãy bảo
ông Lưu đừng in thêm sách ấy nữa, những sách đã in từ trước, trừ những sách đã
bán ra ngoài, phàm những sách còn lưu giữ đều phó cho Bính Đinh[62]
hết! Đừng nói là làm như vậy sẽ uổng phí bao nhiêu đó tiền tài, khó thể làm
theo được! Nên biết rằng: Người đời thường dùng tiền tài để làm các công đức,
trọn chẳng chịu dùng tiền tài để chuộc tội lỗi. Lại có kẻ chẳng chịu làm công đức,
rốt cuộc gặp phải trộm giặc, nước, lửa, vẫn bị hư hao! Huống chi sách này có những
điểm gây lầm lạc cho người khác, thiêu đi chính là công đức đấy! Nếu chẳng lượng
thứ cho lòng ngu thành, vẫn lưu thông y như cũ, rất sợ rằng những người nhiệt
tâm bảo vệ pháp đạo nhà Phật sẽ mạnh mẽ dấy lên, viết luận chê trách, in ra
sách, đăng báo, lưu truyền khắp Thần Châu[63]
thì danh dự lẫn lợi ích hai đằng đều bị hao tổn!
Nếu xót
thương lòng tôi ngu thành, thủ tiêu ngay sách ấy đi, ắt người ta sẽ nói ông Lưu
rốt cuộc kiến địa cao minh, nên có thể thông suốt thuận theo lời can gián, chỉ
tôn trọng lý. Tuy là mất mặt một lúc, nhưng quả thật chẳng phải là cố ý làm
càn. Con người không phải là thánh hiền, ai không phạm lỗi? Hễ có lỗi mà có thể
sửa thì không gì tốt lành bằng! Từ đấy, danh dự ngày càng cao, đức hạnh, danh vọng
ngày càng thêm rạng rỡ. Tương lai ắt ở địa vị cao cả nắm quyền cai trị nước
nhà, hoằng dương pháp hóa lợi lạc quần manh. Lập công, lập đức, lập ngôn, tự
giác, giác tha viên mãn, rạng rỡ Tổ tông, nở mày nở mặt tổ tiên, phước lan đến
hậu duệ khiến cho ức vạn năm sau vĩnh viễn noi theo dấu thơm thì may mắn nào bằng?
Nếu không,
bước thứ nhất xảy chân, khó thể gượng dậy! Sự đã qua rồi, hối chẳng kịp nữa! Nếu
chẳng coi Quang là kẻ ăn chực ngoài hải đảo để gởi kiếp sống tàn, ngoài chuyện
nghĩ đến cái ăn ra, trăm việc chẳng làm được một việc nào, chỉ vì không làm được
gì nên cũng không mong cầu gì, dẫu cho được tôn lên chín tầng trời cũng chẳng
tăng thêm được chút nào! Dẫu vùi xuống chín tầng đất cũng chẳng bị hao tổn chút
nào! Vì sao vậy? Do không làm được gì nên không mong cầu, cho nên chẳng có chỗ
nào để tăng thêm hay bị hao tổn. Dẫu có muốn tăng hay tổn chỉ thành uổng công!
Chỉ vì như vậy nên mới dám lòng dạ thẳng băng, ăn nói thẳng thừng, bảo ban cùng
bạn thiết trong pháp môn. Còn nghe hay không mặc cho người ta tự liệu, chỉ tận
hết lòng trung của tôi để thưa bày tấm lòng mà thôi! (ngày mồng Một tháng Mười Một
năm Dân Quốc thứ sáu - 1917)
Ấn Quang
pháp sư Văn Sao Tam Biên
Quyển 1
Phần 2 hết
[1] Cao Hạc Niên (1872- không rõ năm mất) là người huyện Hưng Hóa, tỉnh Giang Tô, tên thật là Hằng Tùng. Mộ đạo từ nhỏ, thấu hiểu sanh tử là chuyện lớn, nên đã phát nguyện hành cước, tham phỏng thiện tri thức khắp các danh sơn. Trong số các cư sĩ cận đại, ông là người đi tham học rộng khắp nhất. Năm 1921, để đáp tạ ơn vợ thay mình phụng dưỡng bố mẹ trong khi ông rong ruổi tham học, ông đã biến nhà mình thành Trinh Tiết Tịnh Độ An Lão Viện để làm chỗ cho vợ và những phụ nữ đức hạnh tu tập Tịnh nghiệp. Ông tích cực tham gia công tác từ thiện, nhất là trong vụ lụt lớn tại các huyện phía Bắc tỉnh Giang Tô, đã tận tụy đi cứu tế hơn mười mấy chỗ. Năm Dân Quốc 37 (1948), ông về ẩn tu tại Chung Nam Sơn, không rõ mất năm nào. Tác phẩm nổi danh nhất của ông là Danh Sơn Du Phỏng Ký.
[2] Tức Tây Phương Tam Thánh, đôi khi còn gọi là Di Đà
Tam Tôn.
[3] Chương Gia (Lcan-skya) là một trong bốn vị Đại Hô Đồ Khắc Đồ (Khutuktu: hóa thân) của Nội Mông Cổ. Vị này thuộc tông Gelupa (Hoàng giáo, Hoàng Mạo phái) theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, thường được gọi là Chương Gia Cách Căn (Lcan-skya Gegen: Chương Gia Quang Minh). Người Mông Cổ tin Chương Gia là hóa thân của Văn Thù Bồ Tát. Vị Chương Gia nói ở đây thuộc đời chuyển thế thứ mười chín (thật ra, chỉ từ đời thứ mười ba trở đi, vị hóa thân này mới có tên là Chương Gia, nên đa số các sách vở thường gọi vị này là Chương Gia Hoạt Phật đời thứ bảy. Chương Gia vốn là một địa danh tại Tây Tạng). Sư có tên là Lịch Nghinh Diệp Tích Đạo Nhĩ Tế (Ye-śes rdo-rje), còn gọi là Tang Kết Trát bố (Sans-rgyas-skyabs), sanh vào năm Quang Tự mười bảy (1891) tại Thanh Hải, lên ngôi Pháp Vương năm Quang Tự 22 (1896). Năm Quang Tự 25 (1899), theo lệnh vua Quang Tự đến Bắc Kinh hoằng pháp, phụng chỉ quản trị các chùa thuộc hệ thống Phật giáo Tây Tạng tại Bắc Kinh, Ngũ Đài như Côn Chúc, Pháp Uyên… được sắc phong danh hiệu Quán Đảnh Phổ Thiện Quảng Từ Đại Quốc Sư. Khi Dân Quốc thành lập, Sư được mời làm ủy viên của Mông Tạng Ủy Viên Hội, kiêm nhiệm Lý Sự Trưởng hội Phật Giáo Trung Hoa. Sư từng được cử làm trưởng đoàn nghênh đón xương đỉnh đầu ngài Huyền Trang từ Nhật Bản về Trung Hoa. Sau khi Trung Hoa Dân Quốc thành lập, Sư sang Đài Loan và mất ở Đài Bắc năm 1978. Sau khi Sư mất, dòng chuyển thế này bị chấm dứt. Hòa thượng Tịnh Không từng theo học pháp với vị này khi còn là tại gia cư sĩ.
[4] Núi Kê Túc (Kukkutapāda-giri) còn dịch là Kê Cước, Tôn Túc, Lang Túc, Lang Tích, là một ngọn núi thuộc nước Ma Kiệt Đà, cách Già Da (Gayā) hơn 25 km về phía Đông Bắc là nơi ngài Ma Ha Ca Diếp nhập diệt. Đại Đường Tây Vực Ký quyển chín đã mô tả: “Núi cao chót vót, hang sâu thăm thẳm không đáy, cây to phủ kín hang núi… Sau này, tôn giả Ca Diếp Ba nhập diệt nơi ấy nên [người ta] không dám gọi thẳng tên núi mà gọi là Tôn Túc”. Do tại huyện Bảo Xuyên tỉnh Vân Nam cũng có một hòn núi mang tên Kê Túc nên Phật giáo Trung Hoa đã đồng nhất núi này với núi Kê Túc tại Ấn Độ, và nơi ấy cũng được coi là đạo tràng ứng hóa của ngài Ma Ha Ca Diếp.
[5] Đây là một công án Thiền (được đánh số 22) trong bộ
Vô Môn Quan với nhan đề Ca Diếp Sát Can (cột phan của Ca Diếp). Theo đó, ngài A
Nan hỏi tôn giả Ca Diếp: “Ngoài y ca-sa vàng truyền lại cho ngài, đức Thế Tôn
còn để lại vật gì nữa hay không?” Ngài Ca Diếp liền gọi: “A Nan!” A Nan thưa:
“Dạ!”, ngài Ca Diếp bảo: “Lật đổ cái cột
phan trước cửa đi” (Đảo khước môn tiền sát can). Theo ngu ý, ở đây Tổ Ấn
Quang khuyên ông Cao Hạc Niên hãy lắng lòng tu tập, lãnh hội lời dạy của tổ Ca
Diếp thì chẳng khác gì ngày ngày gặp gỡ Ca Diếp tôn giả, hơn là bôn ba đến núi
Kê Túc.
[6] Thái Sơn, còn gọi là Đại Sơn, Đại Tông, Đại Nhạc, Đông Nhạc, Thái Nhạc… cùng với Hành Sơn, Hằng Sơn, Hoa Sơn, Tung Sơn hợp thành Ngũ Nhạc, tức năm ngọn núi thiêng phân định ranh giới của Trung Nguyên. Thái Sơn nằm trong tỉnh Sơn Đông, chạy dọc từ huyện Tế Nam đến tận huyện Khúc Phụ, cao đến 1.545m. Hoa Sơn (Tây Nhạc) thuộc huyện Hoa Dương, tỉnh Thiểm Tây, cao đến 2.154m.
[7] Chung Nam (còn gọi là Trung Nam Sơn, Thái Ất Sơn, Địa Phế Sơn, hay Nam Sơn) là một quả núi hữu danh thuộc rặng Tần Lĩnh ở huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây, có quan hệ mật thiết với Phật giáo. Năm Kiến Đức thứ hai (573) nhà Bắc Châu, sư Pháp Tạng lên ngọn Tử Cái của núi này kết thảo am tu hành. Khi Châu Vũ Đế phế Phật, hơn ba trăm vị danh tăng đã phải ẩn cư trong núi này. Sơ tổ tông Hoa Nghiêm là pháp sư Đỗ Thuận cũng ẩn tu tại núi này vào thời Đường. Tổ Trí Nghiễm của tông Hoa Nghiêm cũng hoằng dương giáo nghĩa Hiền Thủ tại nơi này. Ngài Đạo Tuyên luật sư cũng hoằng dương Tứ Phần Luật Tông tại đây (sử sách thường gọi là Chung Nam Luật Tông, hoặc Nam Sơn Luật Tông).
[8] La Phù là một ngọn núi nổi tiếng vùng Lĩnh Nam, núi nằm trong rặng La Phù, thuộc huyện Bác La, tỉnh Quảng Đông, có rất nhiều đạo tràng nổi tiếng. Ngài Đạo Khai là người đầu tiên đến dựng thảo am thờ Phật tại núi này. Các vị danh tăng như Chi Pháp Phòng, Tăng Cảnh, Đạo Tiệm, Huệ Trì, Huệ Lãm, Trí Dược, Hy Thiên, Duy Nghiễm, Đại Điên (vị sư hóa độ Hàn Dũ), Hành Minh đều từng tu tại đây. Sách Thái Bình Ngự Lãm còn cho biết theo truyền thuyết Cát Hồng từng tu tiên nơi đây nên núi này được coi là thánh địa của cả Phật Giáo lẫn Đạo Giáo.
Núi Bôi Độ thuộc huyện Bảo An, tỉnh Quảng Đông, còn có tên là Độn Môn, tức ngọn Thanh Sơn ở Hương Cảng hiện thời. Sau chùa Thanh Sơn trên núi còn có Bôi Độ Nham thờ tượng đá của Bôi Độ thiền sư, tương truyền đây là nơi ngài từng ngồi Thiền. Theo truyền thuyết, chính vị này đã quăng một cái chén xuống biển, đạp lên đó, vượt biển đến núi này nên có tên là Bôi Độ. Trong bài tán Tăng Bảo đã nhắc đến chuyện này: “Phù bôi quá hải sát na thời” (Chén nổi vượt biển trong khoảng sát-na).
Núi Nhạn Đãng thuộc thành phố Ôn Châu tỉnh Chiết
Giang, chia ra thành ba rặng Bắc, Trung, Nam. Bắc Nhạn Đãng nổi danh nhất, có
nhiều đạo tràng cổ nhất.
[9] Tức Trinh Tiết Tịnh Độ An Lão Viện. Do Cao Hạc Niên
chí muốn xuất gia nhưng vì cha mẹ ép buộc, phải lấy vợ. Vợ chồng ông coi nhau
như bạn, ông đi tham học khắp nơi, vợ ở nhà thủ tiết phụng dưỡng bố mẹ chồng.
Hai người không có con cái. Khi về già, ông biến nhà riêng thành Tịnh nghiệp đường
để làm nơi tu trì Tịnh nghiệp và dưỡng lão cho những bà góa hoặc những phụ nữ
không chồng.
[10] Nguyên văn “Hổ phách triều châu”. Triều Châu (xâu chuỗi đeo khi chầu vua) là một thứ trang sức bắt buộc của các quan lại dưới triều Thanh khi mặc triều phục. Do các đế vương khai sáng nhà Thanh sùng phụng Phật giáo, họ cho rằng chữ Mãn Châu (Manchu) vốn là biến âm của chữ Văn Thù, và dân tộc Mãn Châu là hậu duệ của Bồ Tát Văn Thù (Mạn Thù Sư Lợi: Manjushri) nên hoàng đế nhà Thanh được coi như hóa thân của Bồ Tát Văn Thù. Quan viên vào chầu vua như triều kiến Bồ Tát, đương nhiên phải đeo tràng hạt. Theo điển chế nhà Thanh, vương công, đại thần, mệnh phụ khi mặc triều phục bắt buộc phải đeo Triều Châu. Triều Châu phải gồm đủ 108 hạt, thường làm bằng Hổ Phách, cứ cách hai mươi bảy viên lại xâu thêm một hạt ngọc, hạt ngọc ấy gọi là Phật Đầu. Viên Phật Đầu nằm ngay chính giữa ngực phải được xỏ lớn hơn các viên khác, thường bằng Lục Ngọc, và được gọi là Phật Đầu Tháp. Cuối viên Phật Đầu Tháp phải có đuôi hình quả hồ lô để gắn tua trang trí. Hai bên Phật Đầu Tháp phải gắn thêm ba sợi dây xâu ngọc mỗi bên, mỗi dây gồm mười viên.
[11] Tức bài văn cho Trinh Tiết Tịnh Độ An Lão Viện đã nói
trong lá thư thứ năm.
[12] Sát Hải: nói đủ là “sát độ đại hải”, từ ngữ dùng để
chỉ mười phương thế giới hay vũ trụ. Sát tức là chữ Ksetra (sát-độ) nói gọn. Một
Ksetra nhỏ nhất là một tam thiên đại thiên thế giới, tức khu vực giáo hóa của một
đức Phật. Do sát-độ của chư Phật vô lượng vô biên nên dùng chữ Hải (biển) để
hình dung số lượng rộng lớn không thể tính xuể được.
[13] Diễm Dự là một hòn đá to ở ngay cửa vào kẽm núi Cù Đường
(còn gọi là Quỳ Hiệp) đầu nguồn Trường Giang, thuộc huyện Phụng Tiết, tỉnh Tứ
Xuyên. Nước sông chảy rất xiết, xoáy rất mạnh khi vỗ qua hòn đá này, tạo thành
một cảnh quan hùng vĩ nên thường được thi nhân ngâm vịnh, và dùng như một hình ảnh
để mô tả thời gian trôi qua quá nhanh.
[14] Sát-na (Ksana), còn được phiên âm là Xoa Noa, có nghĩa là khoảnh khắc, trong vòng một niệm, thường được hiểu là khoảng thời gian đủ cho một tâm niệm dấy khởi lên hay trong một cái chớp mắt. Tuy thế, một chớp mắt vẫn lâu hơn một Sát-na rất nhiều. Có nhiều cách giải thích chữ Sát-na:
1) Theo Câu Xá Luận quyển 12 thì một trăm hai mươi Sát-na là một Đát-sát-na (Tat-ksana), sáu mươi Đát-sát-na là một Lạp-phược (Lava), ba mươi Lạp-phược là một Mâu-hô-lật-đa (Muhūrta), ba mươi Mâu-hô-lật-đa là một ngày đêm. Như vậy, một Sát-na là 0.013 giây.
2) Theo Ma Ha Tăng Kỳ Luật quyển 17, một Sát-na là một Niệm, hai mươi Niệm là một Thuấn, hai mươi Thuấn (chớp mắt) là một Đàn Chỉ (khảy ngón tay), hai mươi Đàn Chỉ là một Lạp Phược, hai mươi Lạp Phược là một Tu Du, ba mươi Tu Du là một ngày đêm. Như vậy, một sát-na bằng 0.018 giây.
3) Theo phẩm Quán Không kinh Nhân Vương quyển thượng thì chín mươi Sát-na là một Niệm. Theo Vãng Sanh Luận Chú quyển thượng thì sáu mươi Sát-na là một Niệm (tức là một niệm theo như Ma Ha Tăng Kỳ Luật lại được chia thành 60 phần hay 90 phần, nên càng nhỏ hơn nữa).
4) Cũng theo phẩm Quán Không kinh Nhân Vương, trong một Sát-na có chín trăm lần sanh diệt. Còn theo Vãng Sanh Luận Chú thì trong một Sát-na có một trăm lẻ một lần sanh diệt.
[15] Điển tích Đào Nguyên (gọi đủ là Đào Hoa Nguyên) xuất phát từ bài ký Đào Hoa Nguyên Ký của Đào Tiềm thời Tấn. Theo đó, vào niên hiệu Thái Nguyên đời Tấn, có một người đánh cá ở Vũ Lăng ven theo dòng suối lạc bước vào rừng hoa đào, đến một hang núi ở đầu nguồn dòng suối. Anh chàng đánh cá đi vào trong hang núi đến một khu đất trù phú bình yên, người dân sống trong ấy thong dong, đẹp đẽ vượt ngoài cõi tục. Hỏi ra mới biết họ là những người lánh nạn đời Tần, không hề giao thiệp với thế giới bên ngoài nữa. Anh ta được đãi đằng trọng hậu, ở chơi mấy ngày ra về, ghi dấu kỹ càng, báo lên quan Thái Thú. Quan Thái Thú sai người dõi theo dấu đã ghi nhưng không tìm được chốn Đào Nguyên nữa.
[16] Đây là câu nhận định về tài năng của Mạnh Công Xước trích từ chương Hiến Vấn, sách Luận Ngữ. Chúng tôi dịch câu này theo cách giải thích của cụ Lý Bỉnh Nam trong Luận Ngữ Giảng Yếu. Cụ giải thích thêm: “Theo Khổng An Quốc, do tánh tình của Mạnh Công Xước liêm khiết, thanh cao, ít ham muốn, mà hai nước Đằng, Tiết nhỏ nhoi, chánh sự phiền toái, nhiều mưu mô phải đối phó, nên họ Mạnh sẽ không thể đảm đương được”. Năm 1046 trước Công Nguyên, sau khi Châu Công Đán đánh dẹp chư hầu trở về đã phong cho em là Cơ Tú làm vua đất Đằng, đóng đô ở Đằng Thành (cách huyện Đằng tỉnh Sơn Đông 7 km), đầu thời Xuân Thu nước này có quan hệ mật thiết với nước Lỗ. Về sau nước Đằng bị Tống Khang Vương diệt (không rõ năm nào). Tiết cũng là một nước chư hầu rất nhỏ thời Xuân Thu Chiến Quốc. Điều kỳ lạ là sử không ghi chép về vị trí, lịch sử nước này. Chỉ biết nước Tiết ba lần dời đô, kinh đô đầu tiên là Tiết Thành (nằm về phía Đông Nam huyện Đằng), rồi dời sang Hạ Bi (nay thuộc Bi Huyện tỉnh Giang Tô) cuối cùng dời đến Thượng Bi (phía tây Tiết Thành). Như vậy, nước Tiết nằm ở phần ranh giới giữa tỉnh Sơn Đông và Giang Tô hiện thời.
[17] Nhị Thập Tứ Sử là hai mươi bốn bộ sử chánh yếu của
Trung Hoa, gồm Sử Ký (Tư Mã Thiên soạn), Hán Thư (Ban Cố soạn), Hậu Hán Thư (Phạm
Việp soạn), Tam Quốc Chí (Trần Thọ soạn), Tấn Thư (Phòng Huyền Linh soạn), Tống
Thư (Trầm Ước soạn), Nam Tề Thư (Tiêu Tử Hiển soạn), Lương Thư ( Diêu Tư Liêm
soạn), Trần Thư (Diêu Tư Liêm soạn), Ngụy Thư (Ngụy Thâu soạn), Bắc Tề Thư (Lý
Bách Dược soạn), Châu Thư (Lệnh Hồ Đức Phân soạn), Tùy Thư (Ngụy Trưng soạn),
Nam Sử (Lý Diên Thọ soạn), Bắc Sử (Lý Diên Thọ soạn), Cựu Đường Thư (Lưu Hú soạn),
Tân Đường Thư (Âu Dương Tu, Tống Kỳ soạn), Cựu Ngũ Đại Sử (Tiết Cư Chánh soạn),
Tân Ngũ Đại Sử (Âu Dương Tu soạn), Tống Sử (Thoát Thoát soạn), Liêu Sử (Thoát
Thoát soạn), Kim Sử (Thoát Thoát soạn), Nguyên Sử (Tống Liêm soạn), và Minh Sử
(Trương Đình Ngọc soạn). Tuy vậy, một số sử gia như Tư Mã Quang không coi Tân
Đường Thư và Tân Ngũ Đại Sử là sử liệu đích thật, chỉ coi đó là hai tác phẩm
văn chương mang tính chất tham khảo mà thôi!
[18] Tỉnh Am là pháp hiệu của đại sư Tư Tề Thật Hiền, tổ
thứ mười một của Tịnh Độ Tông.
[19] Hiện thời Ngài Triệt Ngộ được tôn là tổ sư thứ mười
hai của Liên Tông. Chúng tôi thấy từ điển Phật Quang Sơn vẫn ghi ngài Tỉnh Am
là tổ thứ chín của Liên Tông, nhưng các tài liệu về chư Tổ Tịnh Tông khác đều
tôn Ngài là tổ thứ mười một. Chúng tôi đoán có lẽ khi Tổ Ấn Quang viết lá thư
này thì khi ấy ngài Tỉnh Am vẫn đang được coi là tổ thứ chín của Liên Tông nên
mới suy cử ngài Triệt Ngộ làm vị tổ thứ mười.
[20] Bạch Y Quán Âm (Pāndaravāsinī), còn được phiên âm là Bạn Đà La Phược Tự Ni, hoặc Bán Noa Ra Phạ Tất Ninh, dịch nghĩa là Bạch Xứ, Bạch Trụ Xứ, chính là một trong ba mươi ba tôn tượng của Quán Âm trong Quán Âm Viện thuộc Thai Tạng Mạn Đồ La, mật hiệu là Ly Cấu Kim Cang. Tôn tượng Ngài thường mặc áo trắng, ngồi trên hoa sen trắng, tay trái cầm hoa sen trắng, tay phải kết ấn Dữ Nguyện. Theo Đại Nhật Kinh Sớ, màu trắng ở đây tượng trưng cho tâm Bồ Đề thanh tịnh. Trong Mật Tạng không hề thấy có bài chú Bạch Y như bản chú Bạch Y đang lưu hành, chỉ thấy bài chú Bạch Y Đại Bi như sau: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha nghiệt đa vĩ sái dã, tam bà phệ, bát đàm ma, ma lý nễ, xoa ha” (Namah samanta buddhānām tathāgata visaya sambhave padma mālini, svāhā).
[21] Quán Âm Trì Nghiệm Ký (2 quyển) được Châu Khắc Phục biên soạn vào năm Thuận Trị 16 (1659), còn có tên là Quán Thế Âm Kinh Chú Trì Nghiệm Ký, sưu tập những chuyện linh cảm của Quán Thế Âm Bồ Tát từ đời Tấn đến thời Thuận Trị, gồm 118 câu chuyện. Phần Phụ Lục của quyển cuối bao gồm Quán Thế Âm Đại Bi Tâm Đà La Ni, Bạch Y Đại Ngũ Ấn Tâm Đà La Ni Kinh, Lễ Quán Âm Văn và biện định những điều ngoa truyền về Quán Thế Âm Bồ Tát.
[22] Hải Nam Nhất Chước là tác phẩm của Từ Khiêm (hiệu Bạch
Phảng) viết vào cuối đời Thanh, sưu tập những chuyện truyền kỳ tại vùng duyên hải
Nam Trung Hoa.
[23] Đây là một thành ngữ dựa theo câu nói của Khổng Tử được chép trong thiên Vi Chánh sách Luận Ngữ: “Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri mạng, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du củ”. Sách Luận Ngữ Giảng Yếu giải thích câu này phải được hiểu như sau: “Lập có nghĩa là học vấn đã thành tựu, có được cơ sở vững chắc, không còn bị dao động bởi những tà thuyết bên ngoài. Bất Hoặc là không còn ngờ vực nữa, gặp chuyện biết xử sự đúng với đường lối theo lẽ chánh, không xử sự tùy tiện theo cảm tính. Thiên Mạng (mạng trời) không có nghĩa là ý muốn độc đoán của một đấng Tạo Hóa, Thiên Chúa nào mà chính là chân lý, chánh lý, thường được gọi là Dịch, tức sự vận hành của trời đất, theo đúng chân lý, đúng với lẽ nhân quả. Nhĩ Thuận là tai nghe lời nói, nắm bắt được ý nghĩa chánh đáng, tâm không còn cảm thấy trái nghịch với những gì đã nghe vì đã hiểu được bản chất của sự việc, thấy được lẽ chánh. Tùng Tâm là theo đúng thứ tự chánh đáng mà tiến hành. Củ vốn là cái thước để vẽ hình vuông, được hiểu theo nghĩa rộng là chừng mực, quy củ, phương pháp, luật lệ. Do vậy, cả câu này phải hiểu là: “Ta từ năm mười lăm tuổi dốc chí học tập, đến năm ba mươi tuổi đã tự lập được căn bản, đến năm bốn mươi tuổi không lầm lẫn khi phải ứng phó với mọi sự, đến khi năm mươi tuổi liền hiểu thấu mạng trời, năm sáu mươi tuổi dẫu nghe ý kiến trái nghịch vẫn biết lắng nghe, hiểu được ý nghĩa, đến năm bảy mươi tuổi đạt đến mức thuận theo lòng mong muốn, làm điều gì cũng theo đúng thứ tự chánh đáng, không vượt ra ngoài khuôn khổ, mực thước”.
[24] “Kỷ nhân ưu
thiên” là một câu chuyện ngụ ngôn trích từ sách Liệt Tử: Ở nước Kỷ có người
chỉ sợ trời sập xuống, thiên hạ sẽ chết hết. Sách cổ thường dùng điển tích này
để châm biếm những người hay lo chuyện không đâu, vô căn cứ. Chưa rõ chữ “đồng tử tán trách” (đứa bé con khen cái
chiếu làm bằng trúc) xuất phát từ điển tích nào.
[25] Tịnh pháp giới hộ thân chú: Nói chi tiết, phần này gồm có sáu bài chú nhỏ thường được dùng trong khóa tụng trong Thiền Môn xưa kia, gồm: Tịnh Pháp Giới Chân Ngôn, Tịnh Khẩu Nghiệp Chân Ngôn, Tịnh Thân Nghiệp Chân Ngôn, Tịnh Tam Nghiệp Chân Ngôn, An Thổ Địa Chân Ngôn, và Phổ Cúng Dường Chân Ngôn. Đôi khi các khóa tụng chỉ dùng giản lược hai bài là Tịnh Pháp Giới Chân Ngôn và Tịnh Tam Nghiệp Chân Ngôn. Tịnh Pháp Giới Chân Ngôn gọi đủ là Thanh Tịnh Pháp Giới Chân Ngôn. Theo Đại Nhật Kinh Sớ, chú này thể hiện chân thể Phật đã chứng. Thanh Tịnh là bản thể của Chân Như vì Chân Như lìa hết thảy phiền não cấu nhiễm, Pháp Giới là chỗ nương tựa của hết thảy công đức thế gian lẫn xuất thế gian. Như vậy, Tịnh Pháp Giới là công đức vô vi của Chân Như. Chân ngôn này gồm hai bài khác nhau, một là “Nam mô tam mạn đa Phật đà nẫm, đạt ma đà da, tát phạ bà phạ, cú hám” (dành cho Thai Tạng Giới) và bài chú thứ hai là Án Lam (phổ biến hơn, dành cho Kim Cang Giới). Chú Án Lam thường được xử dụng nhất với mục đích thanh tịnh thân tâm và hoàn cảnh, vì theo Du Già Liên Hoa Bộ Niệm Tụng Nghi Quỹ, chữ Án (Aum) tức là bản thể của pháp giới, là lời quy mạng trong Kim Cang Giới, khi tụng chữ Lam, từ trên đảnh đầu sẽ có chữ Lam (Ram) phát sanh từ pháp giới tỏa ánh sáng đỏ chói lọi như ngọn lửa rực rỡ thiêu đốt tất cả những vật ô uế lẫn những tư tưởng ô uế, tịnh hóa thân tâm. Hành nhân trước khi tụng niệm dùng chú này để thanh tịnh bản thân, đồng thời thanh tịnh vật phẩm cúng dường.
Chú Thanh Tịnh Tam Nghiệp (“Án, tát phạ bà phạ thuật đà ta phạ đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám”) như tên gọi nhằm thanh tịnh ba nghiệp, khiến thân tâm hành nhân tương ứng với ba nghiệp của Phật, Bồ Tát. Khi tụng hành nhân phải kết Liên Hoa Hiệp Chưởng Ấn (chắp mười ngón tay khít vào nhau, lưng bàn tay hơi khum như đóa sen búp). Theo Bí Tạng Ký, hai tay chắp lại như thế tượng trưng cho Lý và Trí hợp nhất. Nhiếp Vô Ngại Kinh giải thích tỉ mỉ hơn: Năm ngón bên tay trái tượng trưng cho năm trí của Thai Tạng Giới, năm ngón bên tay phải tượng trưng cho năm trí của Kim Cang Giới. Mười ngón hợp lại tượng trưng cho Thập Độ hoặc mười pháp giới, mười chân như dung hợp. Do vậy, mỗi ngón tay tượng trưng cho một Độ (Ba La Mật). Như vậy Liên Hoa Hiệp Chưởng tượng trưng cho sự viên dung mọi trí, mọi giới, mọi độ.
Trong Tịnh tông, thường thì những bài chú này không dùng đến vì A Di Đà Phật vạn đức hồng danh đã là vô thượng thần chú, là kết tinh của mọi giáo pháp nên hành giả nhiếp tâm chuyên trì thì công đức chẳng kém gì trì tụng các chú khác mà có phần còn vượt trỗi hơn. Điều này có thể minh chứng qua hành trạng của tổ Liên Trì: Ngài thông hiểu Mật Pháp vì từng san nhuận nghi thức Du Già Diệm Khẩu, nhưng khi được đại chúng cầu thỉnh ra làm lễ cầu mưa trong lúc hạn hán, Ngài nói không biết thực hiện đàn pháp đảo vũ. Đại chúng cố van nài, Ngài bèn đi quanh bờ ruộng gõ mõ niệm Phật, trời liền đổ mưa lai láng. Hơn nữa, những bài chú chỉ phát huy được diệu dụng khi hành nhân tụng niệm với tâm đại Bồ Đề, nhiếp tâm thanh tịnh, tương ứng với Phật, Bồ Tát, tha thiết như con nhớ mẹ, đồng thời phải kết ấn khế tương ứng. Có những ấn khế phải được A Xà Lê truyền thụ mới được sử dụng, không được kết ấn bừa bãi. Ngoài ra, sử dụng quá nhiều chú ngữ trong khóa tụng sẽ khiến hành giả phân tâm, khởi phân biệt, nên hiện thời các vị hoằng truyền Tịnh Tông đa số lược bỏ các ấn chú khỏi khóa tụng, chỉ giữ lại chú Vãng Sanh cho hành nhân dễ chuyên tâm.
[26] Tức là pháp Thập Niệm Ký Số được viết trong “Thư trả
lời cư sĩ Cao Thiệu Lân” (thư thứ tư) trong Ấn Quang Văn Sao Tăng Quảng Chánh
Biên, quyển một: “Trong lúc niệm Phật, từ
một câu đến mười câu phải niệm cho phân minh, lại phải nhớ phân minh, đến mười
câu là thôi. Lại phải niệm từ một câu đến mười câu, chẳng được niệm hai mươi,
ba mươi. Niệm đâu nhớ đấy, không được lần chuỗi, chỉ dựa vào tâm để nhớ. Nếu nhớ
thẳng vào mười câu thấy khó thì chia thành hai hơi, tức là từ câu thứ nhất đến
câu thứ năm và từ câu thứ sáu đến câu thứ mười. Nếu vẫn thấy mệt, nên từ câu một
đến câu ba, từ câu bốn đến câu sáu, từ câu bảy đến câu mười, chia làm ba hơi để
niệm. Niệm cho rõ ràng, nhớ cho rõ ràng, nghe cho rõ ràng, vọng niệm không chỗ
chen chân, nhất tâm bất loạn, niệm lâu ngày sẽ tự được”.
[27] Anh pháp sư chính là ngài Đức Tạng Trạch Anh (1045-1099) sống vào thời Bắc Tống, người huyện Đồng Giang (tỉnh Chiết Giang), họ Du, tự Uẩn Chi. Sư mất mẹ từ bé, có lần theo cha đến Hàng Châu, gặp được ngài Nam Sơn Đoan Phong bèn xin theo xuất gia. Năm Thiên Ninh thứ nhất (1068), Sư thọ Cụ Túc Giới, chuyên tâm trì luật cũng như theo học giáo nghĩa Chỉ Quán với ngài Xử Khiêm chùa Bảo Các, rất được ngài Xử Khiêm coi trọng, đặc biệt truyền dạy Thập Bất Nhị Môn Luận, Kim Cang Bễ Luận, do vậy Sư ngộ hiểu sâu xa giáo nghĩa Thiên Thai lẫn chỗ huyền áo của Tịnh Tông. Đồ chúng các tỉnh Giang, Hàng, Hồ… theo học rất đông, Sư chú tâm dạy họ bằng giáo nghĩa Tịnh Độ và thường răn nhắc đại chúng siêng tu Tịnh nghiệp. Do kính trọng, mọi người đều gọi ngài là Đồng Giang pháp sư hay Đồng Giang Anh pháp sư chứ không gọi thẳng tên. Ngài để lại cho đời các bộ chú giải Tâm Kinh, Tam Châu Luận, Tịnh Độ Tu Chứng Nghi, Vãng Sanh Tịnh Độ Thập Nguyện Văn, Biện Hoành Thụ Nhị Xuất, Khuyến Tu Tịnh Độ Tụng…
[28]
Tùy Hình Hảo (Anuvyañjana), còn dịch là Tùy Hảo, Tiểu Tướng, Tiểu Hảo, hoặc chỉ
gọi gọn là Hảo. Những tướng đẹp dễ thấy của chư Phật, Bồ Tát gọi là Tướng, những
vẻ đẹp kín đáo, ẩn mật, khó thể thấy ngay được thì gọi là Hảo. Những vẻ đẹp ấy
trang nghiêm, tăng thêm vẻ đẹp cho mỗi tướng chánh nên gọi là Tùy Hình Hảo.
Sách Pháp Giới Thứ Ðệ, quyển hạ chép: “Tướng
và [tùy hình] hảo đều là sắc pháp, đều để trang nghiêm rạng rỡ thân Phật; nhưng
tướng là tổng quát, tùy hình hảo là chuyên biệt. Nếu một tướng mà không có tùy
hình hảo thì chẳng viên mãn. Chuyển Luân, Ðế Thích, Phạm Vương cũng có ba mươi
hai tướng nhưng không có tùy hình hảo nên thân họ chẳng vi diệu”. Trí Ðộ Luận
cũng bảo: “Tướng thô nhưng tùy hình hảo lại
tế. Chúng sanh thấy Phật liền thấy ngay được tướng, nhưng khó thấy được tùy
hình hảo. Tướng thì người khác cũng có, nhưng tùy hình hảo thì không phải ai
cũng có. Do vậy, phải nói riêng tướng và tùy hình hảo’’.
[29] Tiên Chú: Tiên là ngắn gọn, sơ lược. Do những lời chú
thích cho những bộ kinh này chỉ gồm một hai câu, nêu lên những nét chánh yếu của
mỗi đoạn, hoặc chú thích những chữ quan trọng nên gọi là Tiên Chú.
[30] Lệ Trạch là chữ trích từ phần Tượng Truyện giải thích quẻ Đoài trong kinh Dịch: “Lệ trạch, Đoài, quân tử dĩ bằng hữu giảng tập”. Sách Châu Dịch Chánh Nghĩa giảng: “Lệ Trạch Đoài: Lệ có nghĩa là tiếp nối với nhau, giống như hai cái đầm thông với nhau, hết sức tràn trề đầy ắp cho nên mới nói ‘Lệ trạch, Đoài’ (hai cái đầm thông với nhau, đó là ý nghĩa được biểu trưng bởi quẻ Đoài). ‘Quân tử dĩ bằng hữu giảng tập’: Đồng môn là Bằng, đồng chí là Hữu. Bằng hữu cùng tụ lại một chỗ, giảng giải, nghiên cứu đạo nghĩa, vui vẻ tột bậc, không gì hơn được nữa”. Do vậy, chữ Lệ Trạch thường được dùng với ý nghĩa bạn bè cùng chí hướng tha thiết bảo ban răn nhắc lẫn nhau.
[31] Nói gọn của chữ Kim Thành Thang Trì (tức hào sâu như
ao nước sôi, thành vững chắc như sắt), ở đây được dùng với ý ca ngợi người bảo
vệ đạo pháp.
[32] Bác Sĩ là một chức quan đã xuất hiện từ thời Chiến Quốc, thường được phong cho những người thông thạo một môn học vấn nào đó, nhất là Kinh Học (ngành nghiên cứu về kinh điển). Quan Bác Sĩ thường là người thông thạo cổ kim có nhiệm vụ quản thủ văn kiện, hồ sơ, biên soạn trước thuật, có khả năng dạy dỗ đào tạo nhân tài. Đời Tần, quan Bác Sĩ chưởng quản mọi sử liệu của đất nước. Đến đời Hán Vũ Đế, do tôn sùng Nho Học còn đặt ra chức Ngũ Kinh Bác Sĩ nhằm nghiên cứu và giảng dạy năm kinh của Nho gia, vai trò quản thủ biên chép sử liệu được giao cho Thái Sử. Đến đời Đường, người tinh thông một môn học nào đều được xưng tụng là Bác Sĩ như Y Học Bác Sĩ, Toán Học Bác Sĩ (Toán ở đây là bói toán, chứ không có nghĩa là toán học) v.v… Đến đời Tống, danh hiệu này mất hẳn tính chất cao quý và chức quan này không còn tồn tại nữa; không hiểu sao dân gian bắt đầu gọi những người phục vụ là Bác Sĩ, chẳng hạn những anh bồi rót trà trong quán cơm, quán trà được gọi là Trà Bác Sĩ. Thời hiện đại, chữ Bác Sĩ dùng để dịch nghĩa học vị Tiến Sĩ (Doctor), còn bác sĩ chữa bệnh được gọi là Y Sư.
[33] Theo bộ Tục Tập Cổ Kim Phật Đạo Luận của ngài Trí Thăng soạn vào đời Đường, câu chuyện này được chép như sau: “Theo Hán Pháp Bản Nội Truyện, vào niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế, đêm vua nằm mộng thấy người vàng cao một trượng sáu, quang minh sáng lạ lùng, sắc tướng khôn sánh. Minh Đế ngủ không yên giấc, đến sáng hội họp đông đảo quần thần để đoán điềm mộng. Thông Nhân Phó Nghị tâu rằng: ‘Thần nghe nói ở Tây Vực có vị thần hiệu là Phật, ắt bệ hạ nằm mộng thấy vị ấy’. Quốc Tử Bác Sĩ Vương Tuân cung kính thưa: ‘Thần xét thấy Châu Thư Dị Ký chép: Thời Châu Chiêu Vương có thánh nhân xuất hiện nơi phương Tây’. Thái Sử Tô Do tâu: ‘Sách ấy chép rằng một ngàn năm sau, thanh giáo sẽ lan truyền đến đất này, ắt là bệ hạ mộng thấy vị thần ấy’. Minh Đế tin những lời tâu ấy là đúng, bèn sai Trung Lang Thái Âm, Trung Lang Tướng Tần Cảnh, Bác Sĩ Vương Tuân v.v… mười tám người đi tìm hỏi Phật pháp. Bọn họ đến Thiên Trúc gặp được hai vị sa môn Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, bọn Tần Cảnh bèn cầu thỉnh. Hai vị Ma Đằng là bậc trí huệ thông suốt, chẳng nề hà nhọc nhằn, liền cùng với nhóm Tần Cảnh vượt qua Lưu Sa, đến Lạc Dương”.
[34] Trang Công: Ở đây, chúng tôi ngờ rằng nguyên bản ghi
sai chữ này, vì trong phần sau đều ghi là Trang Vương. Thời ấy, có rất nhiều vị
vua chư hầu có hiệu là Trang Công, nên Trang Công ở đây không rõ là vị nào. Hơn
nữa, để đối ứng với Châu Chiêu Vương ở câu trên thì phải nói đến niên đại của một
vị hoàng đế khác của nhà Châu. Do vậy, chúng tôi tin rằng đời vua được nói ở
đây phải là Châu Trang Vương. Châu Trang Vương làm vua từ năm 697 đến năm 682
trước Công Nguyên. Như vậy, năm Châu Trang Vương thứ bảy là năm 690 trước Công
Nguyên.
[35] Hằng tinh (star) gồm những thiên thể có hình cầu hoặc gần như hình cầu có mật độ vật chất rất cao, chứa toàn những nhiên liệu đang bốc cháy tạo thành, hành tinh gần quả đất nhất chính là mặt trời. Hằng tinh khác với hành tinh (planet). Hành tinh là những thiên thể xoay quanh một hằng tinh và hành tinh không có khả năng tự phát ra ánh sáng, chẳng hạn như Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh v.v… là hành tinh.
[36] Nam Nhạc Hoài Nhượng (677-744), cao tăng đời Đường, người xứ An Khang, Kim Châu (nay là huyện Hán Âm, tỉnh Thiểm Tây), thường được gọi là Đại Huệ thiền sư. Sư xuất gia năm 15 tuổi, chuyên nghiên cứu Luật tông, sau tham học với Lục Tổ Huệ Năng, trở thành cao túc của Lục Tổ, ở lại hầu thầy suốt mười lăm năm. Sau khi Lục Tổ thị tịch mới sang chùa Bát Nhã thuộc Nam Nhạc (Hồ Nam) để hoằng dương thiền học của Huệ Năng vào năm Tiên Thiên thứ hai (713) đời Đường Huyền Tông. Đệ tử Sư là Mã Tổ Đạo Nhất cũng là một vị cao tăng nổi tiếng thời ấy. Từ dòng Thiền này, về sau đã phát sanh các dòng thiền Lâm Tế, Quy Ngưỡng… và các vị cao tăng nổi tiếng như Phổ Hóa, Hoàng Bá…
[37] Không rõ ở đây là do bản in Ấn Quang Văm Sao Tam Biên
của Báo Ân Niệm Phật Đường ở Cổ Tấn in sai hay sách Tiên Chú ghi sai. Theo đoạn
trên, có thuyết cho rằng đức Phật phải giáng sanh vào năm Châu Trang Vương thứ
bảy là vì dựa trên sự kiện “hằng tinh chẳng hiện, đêm sáng như ban ngày”. Không
hiểu sao trong câu này lại ghi là “năm Trang Vương thứ chín”. Do không có bản
Di Đà Tiên Chú trong tay để đối chiếu, chúng tôi xin ghi lại điều này như một
điểm tồn nghi.
[38] Hàng Bố nói đầy đủ là Thứ Đệ Hàng Bố Môn. Hàng là Hàng Liệt (để theo từng dãy), Bố là Bố Trí (xếp đặt). Đây là một thuật ngữ nhằm diễn tả từng giai đoạn địa vị tu tập của Bồ Tát từ lúc sơ phát tâm cho đến khi chứng được Phật Quả. Hàng Bố đối lập với Viên Dung. Theo ngài Thanh Lương, từ địa vị Bồ Tát tiến đến Phật quả gồm hai môn:
1) Sơ Hậu Tương Tức (đầu tiên và sau rốt không sai, không khác): Nghĩa là lúc mới phát tâm thì đã thành Chánh Giác (đây là nói trên mặt Lý, giống như Lý Tức Phật trong tông Thiên Thai). Đó gọi là Viên Dung Môn.
2) Sơ Hậu Thứ Đệ (Đầu tiên và sau rốt theo thứ tự): Tức là năm mươi hai địa vị tu chứng từ Thập Tín, Thập Trụ… cho đến địa vị Đẳng Giác (Thập Tín chưa được kể là Pháp Thân đại sĩ, nên thường nói là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, tức là những địa vị từ Thập Trụ cho đến Đẳng Giác Bồ Tát). Phải theo thứ tự mà lần lượt tấn tu nên gọi là Hàng Bố Môn.
[39] Tứ pháp giới chính là vũ trụ quan của tông Hoa Nghiêm: Toàn thể vũ trụ quy về nhất tâm. Nếu quan sát từ trên hiện tượng và bản thể thì có thể chia thành bốn tầng lớp:
1) Sự Pháp Giới: Tức hiện tượng giới sai biệt. Sự có nghĩa là sự tướng, Giới có nghĩa là phân biệt, hạn định. Toàn thể các sự vật trong vũ trụ đều do nhân duyên sanh, đều có giới hạn riêng biệt cho từng loại, thế tục thường tưởng lầm đó là bản tánh đặc trưng của từng loại, rồi khởi lên ý niệm phân biệt đối với từng đối tượng, nên dựa vào tánh chất đặc trưng của từng đối tượng để nhận biết sự vật. Đây gọi là “tình kế cảnh” (cảnh do phân biệt, tình cảm, so đo mà có).
2) Lý Pháp Giới: Tức bản thể giới bình đẳng. Lý là lý tánh. Bản thể của hết thảy vạn vật trong vũ trụ là Chân Như, bình đẳng không sai biệt.
3) Sự Lý Vô Ngại Pháp Giới: Hiện tượng giới và bản thể giới cùng mang quan hệ “cùng là một thể, chẳng hai, chẳng khác”. Nói cách khác, bản thể không có tự tánh, nhờ vào Sự mà hiển lộ (thường nói là “Chân Như lý thể tùy duyên biến hiện”, hoặc “Lý do Sự hiển”), dựa vào Sự mà nhận biết được Lý (thường nói “Sự do Lý thành”), do đây mà tỏ lộ trọn pháp giới Sự Lý viên dung vô ngại.
4) Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới: Bản thân hiện tượng giới là tuyệt đối chẳng thể nghĩ bàn, nghĩa là hết thảy các pháp đều có Thể, có Dụng; tuy mỗi pháp do nhân duyên mà sanh khởi, nhưng mỗi pháp vẫn giữ tự tánh của nó. Thoạt nhìn, mỗi Sự tách biệt nhau, nhưng không một duyên nào chẳng phải do nhiều duyên hợp thành, mà một duyên cũng giúp cho khắp các duyên khác được thành tựu. Vì thế, lực dụng của chúng chồng chéo lẫn nhau, kinh thường diễn tả bằng thuật ngữ “trùng trùng duyên khởi”.
[40] Thập Huyền: Còn gọi là Thập Huyền Duyên Khởi, Nhất Thừa Thập Huyền Môn, gọi đủ là Thập Huyền Duyên Khởi Vô Ngại Pháp Môn. Mười môn này được lập ra nhằm biểu thị tướng trạng của Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới. Tông Hoa Nghiêm cho rằng “thông hiểu những nghĩa này sẽ thâm nhập được biển huyền diệu của đại kinh Hoa Nghiêm”. Thập Huyền Môn gồm:
1) Đồng Thời Cụ Túc Tương Ứng Môn (đồng thời đầy đủ tương ứng): Hết thảy hiện tượng cùng một lúc tương ứng, cùng lúc viên mãn trọn vẹn. Một với nhiều đều cùng một thể, không phân biệt trước sau. Để dễ hiểu ý này, các nhà chú giải thường dùng ví dụ sau: Nước chỉ là một, ý muốn của chúng sanh là nhiều pháp, cùng một dòng nước mà có thể đáp ứng đầy đủ các ý muốn khác nhau của người dùng như uống, giặt, tắm, rửa, bơi lội v.v… Tất cả những hành động ấy đều có thể xảy ra cùng một lúc nhưng nước vẫn đáp ứng trọn vẹn mà các hành động ấy cũng không trở ngại nhau.
2) Quảng Hiệp Tự Tại Vô Ngại Môn (rộng hẹp tự tại vô ngại): Đem đối lập không gian rộng và hẹp với nhau thì dường như mâu thuẫn, nhưng từ chỗ đối lập mâu thuẫn ấy lại có thể nhận biết chỗ chúng dung nhập nhau. Chẳng hạn như tấm gương có thể thâu nhận hình ảnh của muôn trùng sông núi. Muôn trùng sông núi bao la hiện trong tấm gương nhưng chẳng ngăn trở nhau, chẳng chồng chất lên nhau, vẫn giữ nguyên hình dáng.
3) Nhất Đa Tương Tức Tự Tại Môn (một chính là nhiều, nhiều chính là một): Như ngàn ngọn đèn cùng thắp, ánh sáng hòa lẫn vào nhau, soi rọi lẫn nhau.
4) Chư Pháp Tương Tức Tự Tại Môn (các pháp chính là lẫn nhau vô ngại): Một và hết thảy đều do cùng một thể mà ra, dung nhiếp lẫn nhau vô ngại. Một ví dụ rất dễ thấy là nước và sóng; sóng do nhiều hạt nước hợp thành, sóng lặng lại trở thành nước, nước động lại biến thành sóng. Hoặc mây do các hạt nước bốc hơi hợp thành, mây chính là nước, nước biến thành mây.
5) Ẩn Mật Hiển Liễu Câu Thành Môn (ẩn mật và hiển hiện đều cùng thành tựu): Trong ẩn có hiển, trong hiển có ẩn, giống như mặt trăng về bản thể không thay đổi, nhưng có lúc trăng sáng hay trăng mờ là do bị mây che hay không. Mây che thì trăng mờ nhưng tánh sáng vẫn không mất, tức là trăng sáng và trăng mờ vẫn cùng một thể.
6) Vi Tế Tương Dung An Lập Môn (các thứ nhỏ nhiệm chứa đựng lẫn nhau, cùng tồn tại): Đối với mỗi một hiện tượng, dùng cái nhỏ đem cái nhỏ bỏ vào cái lớn hay ngược lại mà mọi vật vẫn không hư hoại tướng trạng của nó. Kinh Hoa Nghiêm đã diễn tả điều này bằng hình ảnh: Thiện Tài đồng tử đi vào khắp các lỗ chân lông trên thân Phổ Hiền Bồ Tát, thấy trong mỗi lỗ chân lông có vô lượng vô biên vi trần Phật quốc độ, trong quốc độ có vi trần số đức Phổ Hiền, Thiện Tài lại đi vào lỗ chân lông của mỗi vị Phổ Hiền ấy, lại thấy trong ấy có vô lượng vô biên vi trần số Phật quốc độ, cứ thế cho đến trùng trùng vô tận. Hoặc nói trong mỗi đầu sợi lông có đủ vi trần số quốc độ, có đủ cả chư Phật ba đời v.v…
7) Nhân Đà La Võng Pháp Giới Môn: Dùng hình ảnh cái lưới kết bằng ngàn viên châu của Đế Thích để diễn tả khái niệm này: Mỗi viên châu chiếu rọi bóng của 999 viên châu kia, mà 999 viên châu kia mỗi viên đều dung chứa hình ảnh của viên châu này! Lớn vào trong nhỏ, nhỏ vào trong lớn chẳng loạn, chẳng hoại một tướng nào. Kinh Hoa Nghiêm thường diễn tả bằng ví dụ: Bồ Tát bứt lấy một cõi quăng đi vi trần số cõi Phật nhưng chúng sanh trong cõi ấy vẫn không biết không hay; hoặc đem tam thiên thế giới bỏ vào một vi trần, thế giới ấy không chật hẹp không biến dạng, hoặc dùng một cây lọng che khắp mười phương vi trần số cõi Phật…
8) Thác Sự Hiển Pháp Sanh Giải Môn (nhờ vào sự để hiển lộ pháp khiến cho người học lãnh hội): Lý thâm diệu có thể nhờ vào sự gần gũi tầm thường để hiển lộ; nhưng sự vật được mượn để hiển lý và lý được hiển ấy không hai, không khác. Chẳng hạn nhìn lá rơi, hoa tàn mà ngộ lẽ sanh diệt hoặc Thập Nhị Nhân Duyên; hoặc chúng sanh cõi Cực Lạc nhìn vào cây Bồ Đề sẽ liền chứng ba thứ Vô Sanh Nhẫn.
9) Thập Thế Cách Pháp Dị Thành Môn (mười đời khác biệt nhưng đều cùng thành tựu): quá khứ, vị lai, hiện tại, trong ba đời ấy mỗi đời đều chia thành ba đời nữa, ba lần ba thành chín, chín đời ấy cũng chỉ trong một niệm nên gọi là Thập Thế (mười đời). Mười đời ấy tuy gián cách về thời gian, nhưng đều dung nhập lẫn nhau không xen hở.
10) Chủ Bạn Viên Minh Cụ Đức môn (chủ lẫn bạn đều cùng đầy đủ phẩm đức tròn sáng): Các hiện tượng duyên khởi tương quan, lấy một pháp làm chủ thì hết thảy các pháp còn lại là bạn, lần lượt làm chủ, làm bạn không xen hở.
[41] Tức ông Hoàng Hàm Chi, pháp danh là Trí Hải.
[42] Pháp sư Đế Nhàn chê những kẻ chú giải kinh điển trong
thời ấy do thiếu thực học thường tỏ vẻ thông thái bằng cách viết cầu kỳ bí hiểm
khiến người đọc sa vào mê lộ, với dụng ý khen ngợi bản tiên chú của ông Đinh
Phước Bảo gãy gọn, đơn giản, dễ hiểu, thiết thực. Nhưng ông Đinh Phước Bảo lại
dẫn lời ông Kỷ Đại Khuê chê bai tổ Thanh Lương khiến cho lời khen của pháp sư Đế
Nhàn bị phản tác dụng.
[43] Theo Tam Kiếp Tam Thiên Phật Danh Kinh, trong thế giới
Sa Bà, trong kiếp Đại Trang Nghiêm (quá khứ), kiếp Hiền (hiện tại) và kiếp Tinh
Tú, mỗi kiếp có một ngàn đức Phật ra đời. Hiện nay là kiếp Hiền.
[44] Thập Lực (Daśa Balāni), gọi đủ là Thập Chủng Trí Lực, còn gọi là Thập Thần Lực, tức là mười món trong mười tám pháp bất cộng của Phật (gọi là Bất Cộng vì chỉ chư Phật mới có, ngay cả hàng Đẳng Giác Bồ Tát cũng không có những lực này) gồm:
1) Xứ phi xứ trí lực: Xứ có nghĩa là đạo lý, tức là Như Lai đối với nhân duyên, quả báo đều biết rõ tường tận, chẳng hạn như thiện sẽ được hưởng thiện báo ra sao. Đấy là “tri thị xứ” (biết chỗ đúng). Nếu làm ác mà lại hưởng lạc báo thì không thể nào như vậy được, đấy gọi là “tri phi xứ” (biết chỗ đúng). Mọi điều như vậy đều cùng biết rõ.
2) Dị nghiệp thục trí lực (tri nghiệp báo trí lực): Như Lai biết tường tận nghiệp duyên, quả báo, chỗ sẽ sanh về của hết thảy các chúng sanh trong quá khứ, hiện tại, vị lai.
3) Tịnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực: Như Lai tự tại vô ngại nơi các Thiền Định, thứ tự sâu cạn của các món Thiền Định không gì chẳng biết rõ.
4) Căn thượng hạ trí lực (hay Tri chúng sanh thượng hạ căn trí lực): Đức Như Lai biết rõ rành rẽ căn tánh chúng sanh là lợi căn hay hạ căn, đắc quả lớn hay nhỏ.
5) Chủng chủng thắng giải trí lực: Đức Như Lai biết chúng sanh đủ mọi ưa muốn, thiện ác khác nhau, thấy biết trọn khắp đúng như thực.
6) Chủng chủng giới trí lực: Đức Như Lai đúng như thực biết trọn khắp đủ mọi phạm vi giới hạn của các chúng sanh giới.
7) Biến thú hành trí lực: Trong lục đạo hữu lậu, đức Như Lai biết tường tận những kẻ đi trong hữu lậu lục đạo sẽ về đâu, biết người đi trong Niết Bàn vô lậu sẽ về đâu.
8) Túc trụ tùy niệm trí lực: Đức Như Lai biết túc mạng của hết thảy chúng sanh trong vô lượng vô biên kiếp.
9) Sanh tử trí lực: Do thiên nhãn đức Như Lai biết rõ đúng sự thực lúc chết, lúc sống của chúng sanh cũng như các nghiệp chướng, quả báo trong những kiếp số ấy.
10) Lậu tận trí lực: Đức Như Lai vĩnh viễn trừ sạch các lậu, tập khí, đúng như thực biến trọn khắp các lậu, các tập khí của chúng sanh.
[45] Đây là tên những con số theo lối đếm thời cổ, do
không có chữ tương đương nên chúng tôi chỉ phiên âm tên gọi, chúng được liệt kê
theo nguyên tắc số sau lớn gấp mười lần số trước.
[46] Vô lượng của hữu lượng: Nghĩa là con số vô lượng ấy vẫn
có thể tính đếm được, vì Vô Lượng là một trong 140 con số được kể trong phẩm A
Tăng Kỳ, tuy rất lớn vẫn có thể tính được. Vô lượng của vô lượng nghĩa là một
con số cực lớn, không hạn lượng, không cách nào tính đếm hình dung được.
[47] Vị Chương Gia Lạt Ma được nói ở đây là vị Chương Gia
đời thứ ba, có tên là Nhã Tất Cát Đa (1716-1786).
[48] Phiên là từ ngữ chỉ chung các sắc dân sống ở phía Tây
Trung Hoa, nhưng ở đây được dùng để chỉ cho chữ Tây Tạng.
[49] Do chữ Phạn đa âm trong khi tiếng Hán đơn âm nên đôi
khi phải dùng nhiều chữ Hán để mô phỏng âm đọc một chữ Phạn. Chẳng hạn trong
bài chú Nhất Thiết Như Lai Toàn Thân Xá Lợi Bảo Khiếp Ấn, để diễn tả cách đọc
chữ Sdriya (âm Phạn chỉ có hai âm), bản tiếng Hán đã phải dùng đến bốn chữ “tất
đát rị dã” và ghi chú nhỏ bên cạnh, “hợp tam”, tức là khi đọc phải dồn cả ba chữ
đầu thành một chữ, đừng đọc tách rời ra). Do không có âm tương ứng, ngay cả
cách đọc thần chú của người Tây Tạng cũng không diễn tả trung thành Phạn âm; ví
dụ như họ đọc Vajra thành Ben-za. Người Mông Cổ hầu như không phát âm được âm H
nên họ đọc Aum Mani Padme Hum thành Um Ma Ni Pe Me Khun. Tuy thế, tín tâm là
quan trọng nhất, dẫu chú đọc không đúng âm, nhưng hành nhân thọ trì với niềm
tin mãnh liệt, giữ giới thanh tịnh sẽ được cảm ứng. Chúng tôi đã từng nghe một
đạo hữu kể là vị ấy rất siêng trì chú Đại Bi, cũng được một số cảm ứng. Sau
này, khi đọc sách Mật Tông bằng tiếng Anh, liền chuyển sang trì tụng theo đúng
âm tiếng Phạn theo kiểu Latin hóa thì do tâm phân biệt sợ âm đọc sai sót, đã
không còn nhiếp tâm được nữa. Khi trở lại trì chú Đại Bi theo cách phiên âm
thông dụng theo tiếng Hán thì do tâm khởi lên phân biệt, cũng không hề được cảm
ứng gì!
[50] Để dễ theo dõi lời phê bình của tổ Ấn Quang, chúng tôi xin trích dẫn nguyên văn đoạn kinh ấy như sau: “Hữu nhân hoạn dâm bất chỉ, dục tự đoạn âm. Phật vị chi viết: ‘Nhược đoạn kỳ âm, bất như đoạn tâm. Tâm như công tào, công tào nhược chỉ, tùng giả đô tức. Tà tâm bất chỉ, đoạn âm hà ích?” (Có người mắc thói dâm dục không ngăn dứt được, muốn tự cắt bộ phận sinh dục. Đức Phật bảo với người ấy: “Nếu cắt bộ phận sinh dục thì chẳng bằng đoạn dứt cái tâm. Tâm như người thống lãnh, nếu ngăn được người thống lãnh thì những kẻ đi theo đều ngưng nghỉ. Tà tâm chẳng ngưng dứt, cắt bộ phận sinh dục có ích gì?”)
[51] Nhân Hiếu Văn Hoàng Hậu chính là vợ chánh của Minh
Thành Tổ (Châu Lệ), họ Từ, quê ở Hào Châu, là con gái của khai quốc công thần Từ
Đạt. Bà được vua Minh Thái Tổ hỏi cưới cho hoàng tử Yên Vương Châu Lệ năm 15 tuổi.
Bà nổi tiếng là người nhân đức, ôn hòa, hiếu hạnh, rất được lòng Mã Thái Hậu.
Khi Yên Vương làm phản đoạt ngôi của anh là Kiến Văn Đế (Châu Doãn Văn), xưng đế,
lấy niên hiệu là Vĩnh Lạc, bà được phong làm Hoàng Hậu. Bà mất năm Vĩnh Lạc thứ
năm (1407), thọ được 46 tuổi. Vua hết sức thương tâm, không bao giờ lập Hoàng Hậu
nữa, phong tặng bà thụy hiệu Nhân Hiếu Từ Ý Thành Minh Trang Hiến Phối Thiên Tề
Thánh Văn Hoàng Hậu.
[52] Vị dịch Phạn văn sẽ cầm nguyên bản tiếng Phạn đọc lên
cho những người cùng dịch dò theo những bản Phạn vốn có để đảm bảo không bị sai
sót thiếu tiếng Phạn nào trong nguyên bản, vị Dịch Ngữ sẽ dịch những câu ấy
sang tiếng Hán cho vị Bút Thọ chép lại. Vị Hồi Xuyết sẽ kiểm bản dịch nháp ấy để
sửa đổi thứ tự cho đúng với cú pháp tiếng Hán. Vị Chứng Nghĩa sẽ kiểm nhận bản
dịch trung thành với nguyên bản, không diễn tả sai lạc ý kinh luật luận, đồng
thời thêm vào những chỗ người dịch ngữ đã bỏ sót hay sửa đổi những câu văn dịch
tối nghĩa. Vị Nhuận Văn gọt giũa lời văn sao cho bóng bẩy, trang nhã, nhưng
không mất ý nghĩa hoặc thay đổi ý nghĩa của lời dịch ban đầu. Do đó, vị Nhuận
Văn vừa phải có tài văn chương vừa thông hiểu kinh điển.
[53] Bộ ở đây có nghĩa là thể loại, thể tài. “Thập Nhị Bộ
Kinh” tức mười hai thể loại thường được dùng trong kinh Phật.
[54] Bản kinh được nhắc đến ở đây vốn có tên là Vị Tằng Hữu
Nhân Duyên Kinh.
[55] Bộ Hợp Chú được nói ở đây chính bộ Phạm Võng Kinh Hợp
Chú (bảy quyển) do tổ Ngẫu Ích viết. Tác phẩm này có tên đầy đủ là Phạm Võng
Kinh Tâm Địa Phẩm Hợp Chú. Sách được ngài Đạo Phưởng giảo chánh và cho in vào
năm Sùng Trinh thứ 10 (1637). Bản chú giải này rất đặc sắc, được coi như bản
chú giải kinh Phạm Võng độc đáo nhất do Tổ chú trọng đến Vô Tác Giới Thể. Ngài
đưa ra bảy ý nghĩa của giới thể (Tánh, Nhân, Duyên, Thể, Tướng, Kỳ, Quả), lập
ra mười môn để giải thích giới tướng: Tùy văn thích nghĩa (dựa theo kinh văn giải
thích ý nghĩa), tánh giá trọng khinh (phân định giới tướng ấy là tánh giới hay
giá giới, nặng hay nhẹ), thất chúng giản liệu (phân định giới ấy tùy theo bảy
chúng, tức là người phạm giới sẽ bị kết tội nặng hơn nếu là chúng xuất gia), đại
tiểu đồng dị (sự khác biệt giữa giới tướng Đại Thừa và Tiểu Thừa), thiện thức
khai giá (khéo biết mở, đóng, tức biết luận theo lý, theo sự để biện định có phạm
giới hay là không), dị thục quả báo (quả báo sẽ kết thành sớm hay muộn), quán
tâm lý giải, sám hối hành pháp, tu chứng sai biệt và tánh ác pháp môn. Khi giảng
kinh Phạm Võng tại Bồ Đề Lan Nhã (Sài Gòn) vào năm 1968, pháp sư Diễn Bồi đã dựa
chủ yếu vào lối diễn giải của Tổ Ngẫu Ích để giảng giải. Bài giảng kinh Phạm
Võng của hòa thượng Diễn Bồi đã được hòa thượng Trí Minh dịch sang tiếng Việt với
nhan đề Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn Giảng Ký.
[56] Ở đây, khi rút gọn lời trích từ bản Phạm Võng Kinh Hợp
Chú, ông Đinh Phước Bảo đã viết sai chữ Mâu (矛: cái mâu, cái giáo) thành chữ Dữ (予: cho).
[57] Mục Chương A (1782-1856), tự là Tử Phác, hiệu Hạc Phưởng, thuộc cánh quân Cờ Viền Lam của quân đội Mãn Châu. Đỗ Tiến Sĩ năm Gia Khánh thứ 10 (1805), giữ nhiều chức vụ quan trọng, được cử vào Quân Cơ Xứ dưới thời Đạo Quang. Do khéo nịnh nọt nhà vua, nên được phong chức Tào Vận Tổng Đốc, coi về thủy binh và giao thông đường thủy nhiều tỉnh Bắc Trung Hoa. Khi cuộc chiến tranh Nha Phiến nổ ra, để lấy lòng vua, họ Mục đã quy tội và cách chức các vị trung thần như Lâm Tắc Từ, Đặng Đình Trinh. Khi Hàm Phong lên ngôi, vua xét án cũ, tái sử dụng Lâm Tắc Từ, đồng thời kết tội Mục Chương A “bảo vệ địa vị, tham đắm vinh hoa, hại người hiền, phá đất nước” đuổi về làm dân, vĩnh viễn không được tham gia triều chánh. Về sau, họ Mục bị bệnh chết.
[58] Những bản kinh mang tên Bát Nhã trước thời ngài Huyền Trang chỉ là các hội hoặc một phần của các hội trong kinh Đại Bát Nhã, chẳng hạn hội thứ 10 Bát Nhã Lý Thú Phần, đã được ngài Bồ Đề Lưu Chí dịch với tên gọi là Thật Tướng Bát Nhã Ba La Mật Kinh, ngài Kim Cang Trí dịch là Kim Cang Đảnh Du Già Lý Thú Bát Nhã Kinh, ngài Bất Không dịch là Đại Nhạo Kim Cang Bất Không Tam Ma Da Kinh….
[59] Trong lá thư gởi cho cư sĩ X… của Ấn Quang Văn Sao
Tăng Quảng Chánh Biên, quyển một, Tổ Ấn Quang đã dẫn lời nhận định của ông Kỷ
Văn Đạt (Kỷ Quân): “Cầu cơ đa phần là linh quỷ giả vờ.
Tôi cùng anh là Thản Nhiên hầu cơ bút, tôi làm được thơ nhưng viết chữ xấu. Khi
tôi hầu cơ bút thì thi từ mẫn tiệp, chữ viết nguệch ngoạc. Thản Nhiên hầu cơ
bút thì thi từ tầm thường, chữ viết ngay ngắn, cứng cỏi. Quỷ giả mạo cổ nhân, hỏi
đến những điều bí hiểm, sâu kín trong những tác phẩm của cổ nhân, bèn bảo niên
đại quá lâu, không còn nhớ được. Do vậy, biết không phải là thật!“
[60] Đăng Địa: bậc Bồ Tát đã
chứng từ Sơ Địa trở lên, Đăng Trụ: Bậc Bồ Tát đã chứng từ Sơ Trụ trở lên.
[61] Đây là thành ngữ “thác
tha sơn chi ngọc’ (mượn hòn đá nơi núi khác để làm ngọc) nhằm tỏ ý khiêm tốn,
những ý kiến đóng góp của mình vừa thô kệch vừa thiếu giá trị.
[62] Ý nói đem hỏa thiêu hết,
vì theo Dịch Học, hai thiên can Bính Đinh thuộc hành Hỏa, nên thần lửa cũng thường
gọi là Bính Đinh Đồng Tử.
[63] Thần Châu là danh xưng để gọi Trung Hoa
đã có từ thời cổ. Tương truyền, vào thời cổ đại, có hai vị vua là Hoàng Đế và
Viêm Đế, lãnh thổ của Hoàng Đế được gọi là Thần Châu, lãnh thổ của Viêm Đế gọi
là Xích Huyện. Về sau, Hoàng Đế đánh bại Viêm Đế, sát nhập lãnh thổ của Viêm Đế
vào Thần Châu. Do vậy, người Hoa vẫn tự gọi mình là Viêm Hoàng Tử Tôn (con cháu
Viêm Hoàng) và gọi đất nước Trung Hoa là Thần Châu.