Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tam Biên,
Quyển 4
Phần 2
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Minh Tiến & Huệ
Trang
7. Pháp ngữ
khai thị tại Thế Giới Phật Giáo Cư Sĩ
Lâm ngày lễ kỷ niệm đức Thích Ca thành đạo
(Cổ
Nông tốc kư)
Hôm nay là
ngày đức Phật Thích Ca thành đạo mà cũng là
ngày chúng ta thành đạo. V́ sao vậy? Vào ngày hôm nay, sau khi
đức Phật Thích Ca thành Phật liền v́ chúng sanh
nói mọi pháp thành Phật. Chúng ta chỉ y theo pháp để
tu nhân liền có thể thành tựu Phật quả, chẳng
khác ǵ đức Phật Thích Ca. Trong kinh Phạm Vơng, đức
Phật đă thọ kư cho chúng ta: “Ta là Phật đă thành, các ông là Phật sẽ thành”.
Đại chúng biết ḿnh là “Phật sẽ thành” liền
có thể mạnh mẽ gắng sức, chẳng c̣n tự
coi rẻ, phụ bạc chính ḿnh nữa, quét sạch hết
thảy nghiệp chướng, tích tập hết thảy
công đức, trong tương lai thành đạo. Nay
đă quyết định, nên nói: “Cũng là chúng ta thành đạo!”
Kinh Pháp Hoa dạy: “Như Lai vốn v́ một đại
sự nhân duyên mà xuất hiện trong cơi đời, muốn
làm cho chúng sanh khai Phật tri kiến, thị Phật tri kiến,
ngộ Phật tri kiến, nhập Phật tri kiến”.
Có nghĩa là “đức Phật đă nói ra mọi pháp môn
không ǵ chẳng nhắm tới mục đích muốn làm
cho chúng sanh được thành Phật”. Nhưng v́ chúng sanh
căn khí bất nhất; kẻ căn khí lớn lao bèn tu tập
đại pháp, thành Phật ngay trong đời hiện tại.
Kẻ căn khí nhỏ nhoi chẳng thể tu đại
pháp, đức Phật bèn lập phương tiện, dạy
họ Tiệm Tu (tu dần dần theo từng bước).
Tuy vẫn có người có thể liễu sanh tử ngay trong đời hiện tại, nhưng hết
sức ít ỏi. Do ḷng đại từ đại bi, ngoài
hết thảy các pháp môn cậy vào tự lực,
đức Phật lập nên một pháp môn cậy vào Phật
lực, tức là pháp môn dạy chúng sanh “niệm Phật
văng sanh Tịnh Độ”. Do vậy, bất luận
căn khí lớn hay nhỏ đều được cậy
vào Phật lực để liễu sanh thoát tử; đại
sự nhân duyên của đức Phật ta cũng nhờ
vào đây mà được viên măn.
Hiện thời, chúng
ta thọ mạng ngắn ngủi, trí huệ lại ít ỏi,
hăy đều nên nương theo pháp môn Niệm Phật
để tu tŕ ḥng văng sanh Tây Phương. Chớ nên tự
đại, coi Tây Phương chẳng đáng để
sanh về, khinh rẻ pháp môn Niệm Phật! Cần biết
rằng: Niệm Phật tức là tâm quư vị là Phật.
Nếu không niệm Phật, tâm quư vị chẳng phải
là Phật! Quán kinh dạy: “Tâm
này làm Phật, tâm này là Phật”. Nếu ai không niệm
Phật th́ vẫn chẳng thể vô niệm được!
Đă không thể vô niệm mà lại chẳng niệm Phật,
ắt sẽ niệm lục phàm[1],
vọng tưởng điên đảo đều thành cội
rễ sanh tử. Do vậy, phải nên niệm Phật.
Đi, đứng, nằm, ngồi, chẳng ĺa niệm ấy.
Niệm tới, niệm lui, niệm đến khi cái gốc
sanh tử bị cắt đứt; lúc tới Tây
Phương sẽ là Thượng Phẩm Thượng
Sanh.
Các tông thuộc bên Giáo,
tánh - tướng, giáo - lư tinh vi, sâu xa, mênh mông, rộng lớn,
chẳng dễ ǵ nghiên cứu. Dẫu có ai có thể nghiên cứu
đi nữa th́ cũng chỉ là [thấu hiểu] đạo
lư nơi mặt ngôn ngữ, văn tự, chứ không phải
là [thấu triệt] đạo lư nơi tâm tánh! Muốn thấu
triệt rốt đạo lư nơi tâm tánh th́ hết sức
ít người làm được như thế! Đấy
chính là pháp môn cậy vào tự lực. Trong nhà Thiền hoặc
bên Mật Tông, lư phần nhiều mầu nhiệm, nhưng
kẻ nào căn cơ cạn mỏng sẽ chẳng thể
lănh ngộ được! Dụng công bên Tông th́ tuy “đại
triệt, đại ngộ, minh tâm kiến tánh, kiến
tánh thành Phật” vẫn mới chỉ là bước đầu
trong cửa Thiền! Đă ngộ rồi lại c̣n phải
tu đạo, rộng hành lục độ vạn hạnh,
đoạn trừ tập khí phiền năo trong hết thảy
cảnh. Dụng công bên Giáo th́ trước hết phải
đại khai viên giải, giống như triệt ngộ
bên Tông. Đă khai ngộ rồi, cũng phải rộng
hành phương tiện, đoạn trừ tập khí phiền
năo, hết sức khó khăn!
Pháp môn Niệm Phật
là đới nghiệp văng sanh. Sau khi văng sanh liền chẳng
thoái chuyển, thọ mạng vô lượng, thành tựu
ngay trong một đời. Những kẻ tu Thiền Tông
đă triệt ngộ mà niệm Phật văng sanh th́ cố
nhiên sẽ là Thượng Phẩm Thượng Sanh, chứng
địa vị Bồ Tát, liền có thể hóa thân trong
[những thế giới ở các] phương khác để
làm Phật sự trọn khắp. Nếu chẳng niệm
Phật văng sanh, hễ chưa đoạn trừ được
tập khí phiền năo th́ vẫn chẳng thể liễu
sanh thoát tử. [Do vậy] chẳng bằng pháp môn Niệm
Phật, bất luận ngộ hay không, dẫu c̣n chưa
đoạn được tập khí phiền năo, chỉ cần
được văng sanh là đă liễu sanh thoát tử, siêu
phàm nhập thánh! Kẻ tu Mật Tông “tam mật tương ứng, thành Phật ngay trong
thân này” nếu chẳng khéo dụng tâm sẽ dễ bị
ma dựa. Dẫu khéo dụng tâm, tu pháp môn [Mật tông] này sẽ
liền cách biệt với các pháp môn khác, chẳng bằng
tu pháp môn Tịnh Độ phần nhiều chẳng gây trở
ngại ǵ cho các pháp môn khác. V́ thế, kẻ tu Mật Tông nếu
đạt được lợi ích th́ cố nhiên là tốt
đẹp, nhưng nếu bị ma dựa sẽ trở
thành hạng bỏ đi!
Đạo Phật ta
có vô lượng pháp môn, nhưng nói chung phải lượng
theo thân phận của chính ḿnh, chọn lựa pháp [thích hợp
với căn cơ của chính ḿnh] để tu, đừng
để đến nỗi “cầu được lợi
ích, đâm ra bị hao tổn!” Pháp môn Tịnh Độ là
pháp môn thường được mười
phương chư Phật dùng để hạ hóa chúng
sanh, chư đại Bồ Tát dùng để thượng
cầu Phật đạo. Căn cơ không phân biệt
đại hay tiểu đều tu tŕ được. Có tiện
nghi lớn lao, tu tập nhanh chóng! Đừng nghe ai nói pháp
nào bèn tu theo pháp đấy. Hôm nay Trương Tam, bữa
mai Lư Tứ. Ngoài cửa miệng nói đến nỗi hoa
trời rơi tán loạn, nhưng chẳng có mảy may nào
hữu ích cho tâm địa! Do vậy, từ xưa tới
nay các vị đại pháp sư, đại tông sư,
không vị nào chẳng đề xướng pháp môn Tịnh
Độ. Có vị nào không đề xướng là v́ không
hiểu biết pháp môn rộng lớn này vậy!
Nay hăy thử nói, chỉ
có pháp môn này là “trước khi chưa thành Phật th́ cậy
vào pháp này để tự tu; sau khi đă thành Phật rồi
th́ nhờ vào đó để độ đời”. Thích hợp
khắp ba căn, giúp ích cho cả phàm lẫn thánh, trên đến
bậc Đẳng Giác Bồ Tát, dưới đến chủng
tử A Tỳ, cao th́ chẳng thể vượt khỏi
pháp này, hèn th́ cũng được dự vào trong ấy, rộng
lớn viên măn, không c̣n ǵ hơn được nữa!
Để chứng minh, hăy nh́n vào kinh Hoa Nghiêm: Thiện Tài Bồ
Tát đi qua một trăm thành, tham học với khắp
các tri thức. Trong lần tham học thứ năm
mươi ba, tới chỗ Phổ Hiền Bồ Tát. Khi ấy
Thiện Tài đă chứng được địa vị
Đẳng Giác bằng với chư Phật, nhưng Phổ
Hiền sau khi khen ngợi công đức thù thắng của
Như Lai xong, đối trước Thiện Tài và các vị
Pháp Thân đại sĩ thuộc bốn mươi mốt
địa vị trong hội Hoa Nghiêm dạy họ hăy rộng
phát mười đại nguyện vương, dùng công
đức ấy để hồi hướng văng sanh Cực
Lạc thế giới. Ấy là v́ bỏ pháp này đi th́ sẽ
không có cách nào để thành tựu Phật quả viên măn
được! [Trong hội Hoa Nghiêm], những vị nghe
pháp ấy, [địa vị của họ] thấp nhất
cũng là Sơ Phát Tâm Bồ Tát. Công đức do tu mười
đại nguyện vương ấy đều phải
đem hồi hướng văng sanh Tây Phương th́ mới
có thể tấn tu tốt đẹp được.
Hơn nữa, lấy
chương Hạ Phẩm Hạ Sanh trong Thập Lục
Quán Kinh để làm chứng th́ kẻ căn tánh kém hèn
Ngũ Nghịch lúc lâm chung, tướng địa ngục
hiện, gặp thiện tri thức dạy niệm Phật,
bèn cậy vào nguyện lực của Phật để diệt
tội văng sanh, liền được liễu sanh thoát tử,
siêu phàm nhập thánh. Pháp môn Tịnh Độ thần diệu
khó thể nghĩ tưởng! Nếu là người tin
tưởng pháp này đến cùng cực rồi tu tập pháp
môn này, dẫu vạn con trâu cũng không thể kéo lại
được! Nhưng tu pháp môn Niệm Phật này muốn
sanh về Tây Phương, phải vâng giữ “tu thiện,
đoạn ác” nơi ba nghiệp thân - miệng - ư th́ đức
hạnh mới hợp với Phật, lâm chung tự nhiên cảm
Phật đến nghênh tiếp; v́ thế gọi là “tịnh
nghiệp”. Hễ tịnh được nghiệp th́ tâm sẽ
tịnh, tâm đă tịnh sẽ tự cảm thông dễ
dàng. Thập Lục Quán Kinh coi “hiếu
dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng,
từ tâm không giết, tu Thập Thiện Nghiệp” là Tịnh
nghiệp chánh nhân. V́ sao vậy? Đấy là cách cất nhà
phải xây móng cho chắc chắn đấy! Nếu nền
móng không chắc chắn, tuy xây nhà cho cao, chẳng khỏi bị
sụp đổ!
Muốn sanh về Tây
Phương th́ cần phải làm người tốt.
Đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành.
Hai câu ấy nếu nh́n từ mặt chữ sẽ thấy
sao mà dễ dàng đến thế! Nhưng xét trên thực tế,
Cừ Bá Ngọc tṛn năm mươi tuổi mới biết
bốn mươi chín năm trước sai trái, bảo: “Phu tử dục quả kỳ
quá, nhi vị năng dă” (Phu tử muốn giảm bớt
lỗi, nhưng chưa thể làm được). Khổng
Tử đọc kinh Dịch, ba lần đứt dây buộc
lề sách, nói: “Giả ngă sổ
niên, tốt dĩ học Dịch, khả dĩ vô đại
quá hỹ” (Cho ta sống thêm mấy năm để học
Dịch cho xong, ḥng không phạm lỗi lớn vậy). Dù
hiền hay thánh đều không thể gánh vác nổi hai câu ấy.
Xưa kia, ông Bạch
Cư Dị làm Thái Thú[2]
Hàng Châu, tới yết kiến Ô Khoa thiền sư[3], hỏi: “Thế nào đại ư của
Phật pháp?” Sư đáp: “Đừng
làm các điều ác, vâng làm các điều lành”. Chữ
“ác” ấy bao trùm thân - miệng - ư, bốn mươi mốt
phẩm vô minh. Bậc Đẳng Giác đại sĩ hễ
c̣n có một phần vô minh chưa phá được th́ tam
đức[4]
chẳng trọn vẹn, tức vẫn là ác! Hơn nữa,
chín pháp giới đều là ác, [chỉ có] Phật pháp giới
mới là thiện. Do vậy hai câu này chính là đại ư của
Phật pháp. Ông Bạch Cư Dị nói: “Hai câu ấy đứa trẻ lên ba cũng nói
được!” Sư đáp: “Ông lăo tám mươi tuổi làm không xong!” Đấy
chính là tổng giới luật, hễ tu được th́
hết thảy giới luật đều tu được!
Những người đă làm được như thế
lại c̣n niệm Phật th́ chưa có ai chẳng văng sanh
Tây Phương. Hôm nay các vị ăn cháo Lạp Bát[5]
là v́ những nhân duyên nào? Cần biết rằng: Đấy
chính là ư nghĩa kính mừng ngày Phật thành đạo vậy.
Nhưng v́ sao phải ăn vào buổi chiều? V́ sao vậy?
Do v́ trước khi thành đạo, đức Phật
đă dùng Nhũ Mi[6].
Vốn là v́ trước khi thành đạo, đức Phật
Thích Ca là Thái Tử Tất Đạt (Siddhārtha), mười chín tuổi xuất gia, tu tập
các pháp Thiền thế gian suốt năm năm, biết
đấy chẳng phải là rốt ráo, bèn vào núi Tuyết
(Hy Mă Lạp Sơn), tư duy Phật đạo. Sáu năm
khổ hạnh, mỗi ngày ăn một hạt mè, hoặc
một hạt lúa mạch, đến nỗi h́nh dung khô
kháo, gầy ṃn chẳng kham. Ra khỏi núi, tới tắm
trong sông Ni Liên Thiền[7],
vịn cành cây bước lên, thân không có sức gượng
được nữa. Khi ấy, chư thiên biết Thái Tử
Tất Đạt sắp tới Bồ Đề Đạo
Tràng thành đạo, Phật cần phải có tướng
hảo trang nghiêm, bèn hóa thành cô gái chăn ḅ dâng lên Phật
loại Nhũ Mi nấu với sữa đă được
luyện chín lần.
Thế nào là Nhũ Mi nấu
với sữa đă được luyện chín lần?
Đấy là trước hết vắt sữa của một
ngàn con ḅ cho năm trăm con ḅ khác uống. Tiếp đó vắt
sữa của năm trăm con ḅ ấy cho hai trăm
năm mươi con ḅ khác uống. Rồi lại vắt sữa
của hai trăm năm mươi con ḅ ấy cho một
trăm hai mươi con ḅ khác uống. Rồi lại vắt
sữa của một trăm hai mươi con ḅ ấy cho
sáu mươi con ḅ khác uống. Rồi lại vắt sữa
của sáu mươi con ḅ ấy cho ba mươi con ḅ khác
uống. Rồi lại vắt sữa của ba mươi
con ḅ ấy cho mười lăm con ḅ khác uống. Rồi
lại vắt sữa của mười lăm con ḅ ấy
cho tám con ḅ khác uống. Cuối cùng đem sữa của
tám con ḅ ấy ḥa với gạo thơm, nấu thành Nhũ
Mi. Thái Tử ăn món Nhũ Mi ấy, h́nh thể khôi phục
như cũ, tướng hảo viên măn, bèn đến
dưới cội Bồ Đề, ngồi đoan nghiêm
tư duy, đoạn sạch phiền năo. Vào lúc sao Mai[8]
vừa mọc nhằm ngày Tám tháng Chạp, đức Phật
trông thấy sao Mai bèn hoát nhiên đại ngộ, tâm kính mở
toang, rạng ngời, đắc Chánh Đẳng Giác. Đấy
chính là chuyện đức Phật thành đạo vào
đúng ngày hôm nay.
Cháo Lạp Bát chính là phỏng
theo Nhũ Mi; đức Phật dùng Nhũ Mi rồi thành Phật
đạo. Bọn chúng ta liền ăn cháo Lạp Bát để
mừng Phật thành đạo, nhân duyên là như vậy
đó. Do vậy, Tây Vực coi Nhũ Mi là phẩm vật
dâng cúng quư trọng nhất. Khi đức Phật c̣n tại
thế, phần nhiều [tín đồ] đem sữa cúng
Phật. Tới khi đức Phật đă diệt độ
rồi, có một vị cư sĩ dùng thuần sữa
để nấu thành cháo cúng dường một vị
đại đức, đại đức ăn xong liền
than thở. Vị cư sĩ hỏi nguyên do, đại
đức nói: “Cháo của
cư sĩ tuy thật ngon lành, nhưng vị chẳng thể
bằng uống nước lă khi đức Phật c̣n tại
thế. Do ta phước bạc, chúng sanh báo kém, cho nên than
thở!” Đức Phật phước đức sâu
dày, [thời đức Phật c̣n tại thế] nước
c̣n có vị ngon hơn sữa; [c̣n ngày nay] chúng sanh bạc
phước, sữa chẳng bằng nước! Chúng sanh
đời Mạt càng bạc phước hơn nữa!
Đừng nghĩ tưởng làm chuyện vượt phận!
Pháp môn Niệm Phật
mọi người đều nên tu tŕ, hăy nên cha từ, con
hiếu, anh nhường, em kính, chồng kính trọng vợ,
vợ phục tùng chồng. Là hiền nhân trong cơi đời,
là đệ tử Phật trong đạo xuất thế.
Dùng những điều ấy để dạy người,
phải rất chú trọng lấy thân làm gương th́ mới
có thể làm cho người khác sanh ḷng tin. Ấy gọi là
“dùng lời lẽ để dạy
sẽ bị tranh căi; dùng thân để dạy mọi
người sẽ thuận theo”. Bất luận tại
gia hay xuất gia đều phải nên như thế, đừng
nên bàn huyền nói diệu. Dẫu có thể bàn nói th́
cũng phải giẫm chân trên Thật Tế. Chỉ có thể
bàn nói, chứ không hưởng dùng được th́
cũng giống như bánh vẽ, chẳng thể đỡ
đói được đâu! Tu Phật pháp giống như
ăn, phải không đói mới hay! Trong Tịnh Độ
Thi của thiền sư Sở Thạch[9]
đời Minh có đoạn:
Tây Phương hữu lộ thiểu nhân đăng
Nhất cú Di Đà tối thượng thặng
Bả thủ lao tha, hành bất đắc,
Đản đương tự khẳng năi
tương ưng
(Tây Phương có nẻo
nào ai bước,
Di Đà thánh hiệu tối
thượng thừa,
Nắm tay lôi đi chẳng
chịu theo,
Riêng ai tự chịu mới
đi được)
8. Pháp ngữ
khai thị nhân thánh đản đức Phật Thích Ca tại
Thế Giới Phật Giáo Cư Sĩ Lâm
(Hy
Giác tốc kư)
Thưa chư vị!
Ngày hôm nay đức Phật Thích Ca đản sanh. V́ sao
đức Phật giáng sanh trong nhân gian? Không điều ǵ
chẳng nhằm nêu gương cho chúng sanh trong đời
Mạt. Kinh Pháp Hoa dạy: “Đức
Phật v́ một đại sự nhân duyên mà xuất hiện
trong thế gian”. Đại sự chính là khai - thị -
ngộ - nhập tri kiến Phật. Chúng sanh vốn có Phật
tánh, nhưng đă bị mê mất bởi nghiệp, cho nên
dùng Giới - Định - Huệ tu tŕ để quay trở
lại cái sẵn có. Nhưng chúng sanh căn cơ bất nhất,
pháp môn liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh chẳng
dễ tu tŕ, chúng sanh chưa dễ ǵ đảm
đương được! Do vậy, lại đặc
biệt mở ra pháp môn Tịnh Độ. Pháp môn Tịnh
Độ đơn giản nhất, dễ dàng nhất,
thích hợp khắp ba căn, thâu tóm trọn vẹn lợi
căn lẫn độn căn. Ấy là v́ dùng một pháp
Niệm Phật cũng có thể liễu sanh thoát tử,
siêu phàm nhập thánh. Cần biết rằng: Pháp môn Tịnh
Độ lớn lao không ǵ ra ngoài phạm vi của nó
được, là chỗ quy túc của hết thảy pháp
môn. Hành giả chớ tưởng ḿnh đă triệt ngộ
th́ không cần phải nương vào pháp môn này để
tu tập; nếu vậy, sợ rằng nói đến chuyện
liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh sẽ chẳng
dễ dàng đâu!
Người niệm Phật
phải sanh ḷng tin, phát nguyện, tŕ danh hiệu Phật,
nguyện sanh Tây Phương, không có lư nào ĺa bỏ ba món Tín
- Nguyện - Hạnh được! Chỉ cần ḷng tin
sâu đậm, nguyện thiết tha, chẳng cần phải
đạt đến nhất tâm bất loạn, đều
có thể nương theo oai lực tiếp dẫn của
đức Phật văng sanh Tây Phương. Nếu là bậc
đại triệt đại ngộ mà lại c̣n niệm
Phật th́ chắc chắn sẽ được Phật
tiếp dẫn, phẩm vị càng cao hơn. Tham Thiền
chỉ quan tâm dạy người tham phải chú trọng
vào khai ngộ; nhưng khai ngộ rồi, nếu đoạn
sạch được phiền năo th́ tốt. Nếu không,
sợ rằng chưa dễ ǵ nói đến chuyện liễu
sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh đâu nhé! Lại có kẻ
tŕ chú nói “thành Phật ngay trong thân hiện tại!” Nhưng
“thành Phật ngay trong thân hiện tại” bất quá chỉ
là có thể thấy được vị Phật nơi tự
tánh, chứ hoàn toàn chưa chứng được quả
vị Phật! Kẻ tŕ chú chẳng hiểu giáo lư, chẳng
trọng giới hạnh, chỉ mong đắc thần
thông. Do cái tâm dũng mănh ấy sẽ khiến cho oán thân trong
bao kiếp nhiều đời hiện tiền, dễ dàng
bị ma dựa! Nếu dùng cái tâm như thế để
tiêu trừ tội chướng, giúp sức cho việc tu
tŕ, vẫn cần phải niệm Phật th́ may ra mới
có cảnh giới tốt đẹp được!
Hơn nữa, người
tu hành chớ nên chưa đắc đă nói là đắc,
chưa chứng bảo là chứng. Đấy là phạm
vào giới đại vọng ngữ, tuyệt đối
chớ nên phạm! Xưa kia có cư sĩ X… nói đă đắc
quả A La Hán, có người hỏi: “Đă đắc quả
sao không hiện một chút thần thông biến hóa?”
Nhưng rốt cuộc hắn ta chẳng thể làm
được, mà phiền năo cũng trọn chẳng thể
trừ được! Há có bậc La Hán nào chẳng trừ
được phiền năo ư? Chư vị đừng
coi rẻ pháp môn Niệm Phật! Quán Âm, Thế Chí đều
là cổ Phật thị hiện, Văn Thù, Phổ Hiền
là đại Bồ Tát vẫn cầu sanh Tịnh Độ.
Lũ phàm phu bọn ta há nên coi rẻ? Pháp môn Niệm Phật
là biển cả của hết thảy pháp môn, chứ những
pháp môn khác giống như ng̣i, lạch nhỏ nhoi, chẳng
thể nào sánh bằng được đâu!
9. Khai thị
về Niệm Phật tại chùa Pháp Tạng, Thượng
Hải
(Mă
Khế Tây ghi)
Pháp môn Niệm
Phật lớn lao không ǵ ra ngoài phạm vi của nó
được, chí viên, chí đốn, đơn giản nhất,
dễ dàng nhất, nhưng cần phải hiểu rơ ràng
nguyên do. Hễ hiểu rơ lư th́ sanh ḷng tin phát nguyện không
ai chẳng được lợi ích. Nếu không, sẽ bị
các thứ cảnh giới khác xoay chuyển, chẳng thể
sanh ḷng tin chân thật, phát nguyện thiết tha. Dù có công
phu niệm Phật cũng chẳng thể đạt
được lợi ích nơi Phật. Các pháp môn do đức
Phật nói đều phải cậy vào tự lực
để văng sanh, cần phải nghiệp tận t́nh
không. Nếu không, sợ rằng sẽ vất vả gian
nan lắm đấy! Nếu đă có thể nghiệp tận
t́nh không, lại c̣n có thêm công phu niệm Phật, ắt sẽ
Thượng Phẩm Thượng Sanh, sẽ có cùng một
khả năng như Quán Âm Đại Sĩ “nên dùng thân nào để độ
bèn hiện thân ấy để thuyết pháp”.
Nếu chưa đạt
đến mức nghiệp tận t́nh không, chẳng thà cứ
chất phác niệm Phật, chẳng ôm ḷng khinh mạn, chẳng
suy đoán bằng ư thức th́ khi lâm chung mới mong
được cảm ứng đạo giao. Ấy là v́
pháp môn Niệm Phật hoàn toàn cậy vào Phật lực, chẳng
như những môn khác đều là tự lực. So sánh giữa
Phật lực và tự lực th́ có khác ǵ sự cách biệt
giữa bầu trời và mặt đất! Do vậy, từ
xa xưa ngu phu ngu phụ thật thà niệm Phật đa
số văng sanh, nhưng bậc thông Tông thông Giáo phần nhiều
chẳng thể khoác tay họ [ngao du trong cơi Cực Lạc]
được! Thật đáng tiếc thay! Người tu
hành cần phải biết Sa Bà khổ, Cực Lạc vui,
phải nguyện ĺa Sa Bà khổ, nguyện được
Cực Lạc vui, chớ nên cầu phước báo trời
người. Ví như đang ở trong tù ngục mong
được về quê hương. Nhưng thế giới
Sa Bà chính là một nhà tù lớn, thế giới Cực Lạc
mới là quê nhà tốt lành. Cổ nhân có thơ như sau:
Tự thị bất quy, quy tiện
đắc,
Cố hương phong nguyệt
hữu thùy tranh?
(Tự
chẳng muốn về, về liền được!
Gió
trăng quê cũ, há ai giành?)
Các vị
nếu nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây
Phương th́ có ai tranh giành Tây Phương với ḿnh
đâu nhỉ? Muốn trở về quê nhà, chớ nên do dự
bảo “hăy đợi mấy năm nữa” th́ sẽ chẳng
thể tương ứng với Phật được
đâu! Chí thành khẩn thiết tới mức “ḷng tin chân
thành, nguyện thiết tha” th́ chính là chủng tử Tây Phương,
bởi lẽ một môn Tịnh Độ lấy ba pháp Tín
- Nguyện - Hạnh làm tông, như ba chân của cái đỉnh,
thiếu một chẳng thể được! Nếu
chuyên đề cao hành tŕ chẳng coi trọng tín - nguyện
th́ sẽ chấp Sự, phế Lư, vẫn thuộc vào pháp
môn tự lực, mắc cùng một khuyết điểm
giống như kẻ chấp Lư phế Sự, chuyên cậy
vào tự tánh duy tâm, chẳng cậy vào Phật lực! Do vậy,
đại sư Ngẫu Ích nói: “Được
văng sanh hay không hoàn toàn do có tín nguyện hay không? Phẩm vị
cao hay thấp hoàn toàn là do tŕ danh sâu hay cạn”. Lời
luận định ấy sát sao thay! Chẳng thể không
biết vậy!
Trong những lời
thuyết pháp của cổ nhân, giảng giải tới mức
cùng tận không bờ mé th́ chỉ có bài Tứ Liệu Giản
của ngài Vĩnh Minh quả thật đă chỉ ra một
con đường thênh thang cho chúng sanh đời Mạt
trở về quê nhà. Xin tŕnh bày đại lược:
Có Thiền có Tịnh Độ,
Ví như cọp đội sừng,
Đời này làm thầy người,
Đời sau làm Phật, Tổ.
Hai
chữ Thiền - Tịnh ở đây cần phải phân
biệt cho minh bạch! Cần nhất là phải biết
thế nào là có Thiền, thế nào là có Tịnh Độ!
Người đời thường tưởng khán thoại
đầu, tham cứu câu “người
niệm Phật là ai” là “có Thiền”, c̣n chấp tŕ danh
hiệu là “có Tịnh”. Sai rồi! Thiền tức là Chân
Như Phật Tánh sẵn có, tức tâm thể thuần chân
của chúng ta, tùy duyên bất biến, bất biến tùy
duyên, vừa Tịch, vừa Chiếu, không Năng, không Sở,
đấy chính là cái được Tông môn gọi là “bản
lai diện mục trước khi được cha mẹ
sanh ra”! Tịnh là tín nguyện tŕ danh, cầu sanh Tây
Phương, chứ không phải chỉ là “duy tâm Tịnh
Độ, tự tánh Di Đà”. “Có Thiền” là phải đổ
công tận lực tham cứu sâu xa tới mức sơn
cùng, thủy tận, niệm cực, t́nh vong! Một mai thấy
thấu suốt bản lai diện mục trước khi
cha mẹ sanh ra, hăm ḿnh vào nơi đất chết t́m ra lẽ
sống th́ mới đáng gọi là “có Thiền”. “Có Tịnh”
là phải thật sự v́ sanh tử, phát Bồ Đề
tâm, thượng hoằng, hạ hóa, tự lợi, lợi
tha không hề phải hổ thẹn. Nếu người ấy
triệt ngộ Thiền tông, minh tâm kiến tánh, biết trọn
đủ các pháp môn Quyền, Thật của Như Lai,
nhưng chỉ lấy “tín nguyện niệm Phật” làm
đường lối chung cho Chánh Hạnh th́ tà đạo
sẽ bặt dấu, ma vương, ngoại đạo vỡ
mật, như hổ mọc sừng, oai mănh không ǵ địch
lại được, thượng - trung - hạ căn
đều được lợi ích, chẳng phải là bậc
đạo sư của trời - người hay sao? Trong
tương lai Thượng Phẩm Thượng Sanh, chứng
tới bậc Đẳng Giác trong Viên Giáo, há chẳng phải
là đời sau sẽ làm Phật, làm Tổ ư?
Không Thiền, có Tịnh Độ,
Vạn tu, vạn người về,
Nếu được thấy
Di Đà,
Lo chi không khai ngộ.
Người
ấy tuy chưa minh tâm kiến tánh, nhưng do quyết chí
cầu sanh Tây Phương nên dũng mănh tinh tấn,
cũng được Phật tiếp dẫn, chứng các
quả vị. Trong số những người đạt
đến quả vị, không ai chẳng đại triệt
đại ngộ. Do vậy nói: “Nếu được thấy Di Đà, lo chi không khai
ngộ”. A Di Đà Phật đại từ đại
bi có bốn mươi tám nguyện, nguyện nào cũng
độ sanh. Không chỉ bậc thượng thiện
xưng danh liền có thể văng sanh, ngay cả Ngũ Nghịch,
Thập Ác nếu khởi ḷng hổ thẹn lớn lao,
phơi bày sám hối, bất luận một niệm hay
mười niệm, ắt Phật cũng nhiếp thọ.
Mưa đúng thời thấm đẫm các vật; muôn vật
không vật nào chẳng được thấm ướt,
lợi ích. Biển cả dung nạp các sông, dẫu trăm
sông [đổ vào biển, biển] cũng đều dung nạp
trọn. Vạn người tu, vạn người về,
quả là sự thật không sai!
Có Thiền, không Tịnh Độ,
Mười kẻ, chín chần
chừ,
Ấm cảnh nếu hiện
tiền,
Chớp mắt đi theo nó.
Đây
là nói về kẻ tham Thiền nhưng chẳng niệm Phật.
“Thiền” [ở đây] là tuy đă minh tâm kiến tánh,
nhưng nếu Kiến Tư phiền năo c̣n có chút nào
chưa trừ th́ vẫn luân hồi trong lục đạo
y như cũ, không thoát ra được! Biển sanh tử
sâu thẳm, đường Bồ Đề xa vời,
chùng ch́nh giữa đường, chần chừ, dây
dưa. V́ thế nói: “Thập
nhân, cửu tha lộ” (Mười kẻ, chín chần chừ).
“Tha” (蹉) là “tha đà” (蹉 跎), nói theo cách thông thường là chần
chừ. “Ấm cảnh” chính là cảnh Trung Ấm Thân khi mạng
chung mới hiện ra, đều tùy theo nghiệp lực
thiện hay ác chi phối mà thọ sanh trong đường
lành hay nẻo ác. Ngũ Tổ Giới, Thảo Đường
Thanh, Chân Như Triết đều là những vết xe
đổ trước đây. Sở ngộ và kiến
địa của ba vị ấy cao siêu như thế mà vẫn
chẳng khỏi mê mờ, cần chi phải bàn tới
lũ phàm phu chúng ta nữa đây! Chữ “miết nhĩ” (瞥 爾) [trong câu “miết
nhĩ tùy tha khứ” (chớp mắt đi theo nó)] là một
cái chớp mắt, ví cho sự nhanh chóng. Có người hiểu
chữ “Ấm cảnh” chỉ
cho cảnh Ngũ Ấm Ma; có kẻ giải thích chữ “tha lộ” là lầm đường,
đều sai hết! Há có ai triệt ngộ Thiền Tông,
hiểu sâu giáo lư lại chẳng hiểu cảnh giới
Ngũ Ấm để rồi lạc đường hay
chăng? Điều này quan hệ rất lớn, chẳng
thể không biết!
Không Thiền, không Tịnh Độ,
Giường sắt với cột
đồng,
Vạn kiếp lẫn ngàn đời,
Không có người nương
tựa.
Người
đời hờ hững, hời hợt, chẳng thật
sự nỗ lực tham cứu, chẳng có ḷng tin chân thật,
nguyện thiết tha, hoặc lại c̣n kiêm tu các môn khác
đều đáng gọi là “Không
Thiền, không Tịnh Độ”. Tuy cảm được
phước báo trong đời sau, nhưng do phước tạo
nghiệp, do nghiệp đọa địa ngục.
Giường sắt, cột đồng, không người
nương tựa, tuy có Phật lực cũng chẳng
làm sao được! Triệt Lưu đại sư nói: “Người tu hành chẳng liễu
sanh tử là sự oán trong đời thứ ba”, đáng
sợ thay!
Vĩnh Minh thiền
sư chính là hóa thân của A Di Đà Phật. Tất cả
những câu kệ đề xướng niệm Phật
[của Ngài] đều là khế cơ lẫn khế lư. Bốn
bài Liệu Giản này đúng là bài cảnh sách vô thượng
cho người tham Thiền lẫn tu Tịnh. Tuy hạn cuộc
trong âm vận của lời kệ, lời lẽ ngắn
gọn, ư châu đáo, lại càng chẳng thể thêm vào hay bớt
đi một chữ nào được! Người học
hăy nên nghiên cứu cặn kẽ! Tịnh Độ chính là
pháp môn đặc biệt, những pháp môn khác đều là
pháp môn thông thường. Tách rời hai pháp này th́ đôi
đằng đều có ích, hợp lại th́ đôi bên
đều bị hại. Đối với pháp tắc tu
tŕ th́ hăy nên nói lời tốt lành, làm chuyện tốt lành,
đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện,
cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, chồng
xướng, vợ theo, ai nấy giữ vẹn luân thường,
chẳng trái nghịch pháp thế gian th́ mới đáng gọi
là “đệ tử chân thật của đức Phật”.
Nếu không, Danh Giáo c̣n chẳng dung, sẽ là tội nhân
đối với Như Lai.
Niệm Phật quư tại
nhiếp tâm. Ngài Đại Thế Chí nói: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp
nối, nhập tam-ma-địa, ấy là bậc nhất”.
Đủ biết khi niệm hăy nên buông xuống vạn
duyên, nhiếp trọn sáu căn, miên miên mật mật, thẳng
thừng mà niệm, sẽ có lúc đắc tam-ma. Tam-ma cơi
này dịch là Chánh Tu, Chánh Kiến, hoặc dịch là Chánh
Định. Trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện
của kinh Hoa Nghiêm, đức Phổ Hiền dùng mười
đại nguyện vương khuyên dạy Hoa Tạng hải
chúng quay về Cực Lạc. Hoa Nghiêm Hải Chúng đều
thuộc địa vị đại Bồ Tát mà vẫn
c̣n phải quy hướng văng sanh. Đủ biết [pháp
môn Tịnh Độ] như trời che khắp, như
đất chở đều, đại địa, núi,
sông, vũ trụ, vạn hữu, có ǵ vượt ra ngoài trời
đất được chăng? Pháp môn Tịnh Độ
nhiếp trọn các pháp môn khác, cũng chẳng khác ǵ! Cơi
đời thay đổi, vận số suy vi, người
đời Mạt Pháp căn tánh kém hèn, muốn cầu hoát
nhiên phá vô minh, đoạn Hoặc, chứng Chân, rất
ư là khó! Tự ḿnh chưa độ được mà muốn
độ người ta th́ có khác ǵ kẻ chết đuối
trong biển lại toan cứu người! Kính khuyên các vị
hiền nhân chớ nên ngă mạn, ngạo nghễ, hăy cứ
nên tin chân thành, nguyện thiết tha, nương theo từ
lực niệm Phật cầu sanh Tây Phương th́ mới
nên!
VI. Sớ
1. Sớ
quyên mộ để chuộc cá, chuyển dời ao phóng
sanh từ Tây Hồ [sang nơi khác]
Phàm [kẻ
nào] ở trong sanh tử luân hồi sẽ đều phải
theo nghiệp thọ sanh. Thoạt là người, lại
thoạt biến thành vật. Lúc đang làm người, cậy
mạnh hiếp yếu, cậy đông hiếp ít, chẳng
biết vun bồi phước cho mai sau, mặc t́nh tạo
các ác nghiệp; đến khi phước đời
trước đă hết, sát nghiệp đă sâu, khó khỏi
đọa trong dị loại: Miệng chẳng nói
được, tâm không trí huệ, mưu mẹo, thân không
có sức mạnh chống chọi, chỉ đành mặc
cho con người mổ, nấu, cắn, nhai. Nhưng xét tới
tận cùng cái tâm loài vật th́ ḷng ham sống sợ chết,
ư niệm khi gặp nguy hiểm mong được cứu
vớt, thảm thê không thể nào diễn tả được!
Do vậy, các bậc hiền triết thời cổ phần
nhiều yêu tiếc sanh mạng loài vật, chẳng nỡ
sát thương. Như Tử Sản[10]
nuôi cá, Tương Tử thả chim bồ câu, Tùy Hầu
giúp rắn[11],
Dương Bảo cứu chim sẻ[12].
Đấy đều vốn do cái tâm bất nhẫn mà làm
chuyện cứu vớt, chứ vẫn chưa biết
đến những nghĩa “hết
thảy chúng sanh đều có Phật tánh, trong vị lai sẽ
đều thành Phật và từ vô lượng kiếp
đến nay, lần lượt làm cha mẹ, anh em, vợ
con, quyến thuộc” v.v…
Đến khi Phật
giáo truyền sang phương Đông, những nghĩa này
được tỏa sáng rực rỡ trong cơi đời.
Do vậy, những bậc quân tử sẵn ḷng nhân từ
nhằm để báo ân, nhằm tránh tai kiếp, đă hết
sức chú ư kiêng giết, phóng sanh, tŕ trai, ăn chay.
Nhưng đại đa số chưa nghe Phật pháp vẫn
quen thói coi đó là thường, mặc t́nh giết chóc nhằm
thỏa thích cái miệng. Do bởi lẽ ấy, ươm
thành tai kiếp đao binh. Hăy thử nghĩ trong tai kiếp
đao binh, con người bị giết chóc có khác ǵ loài vật
bị mổ xẻ để cung ứng cho bụng miệng
cho mấy? Nếu nghĩ như vậy th́ ư niệm giết
thân chúng nó để thỏa thích miệng ta chẳng bị
tiêu diệt hay sao? Hơn nữa, ta đă tham sống, há
chúng thích chết? Như ta vừa bị cỏ sắc
đâm vào ngón tay liền cảm thấy khó thể chịu
đựng được; thân chúng nó bị mổ chặt,
há lẽ cam ḷng? Tuy sức chẳng thể chống chọi
được, không làm cách nào được, nhưng cái
tâm oán hận cố kết chẳng thể cởi gỡ
được! Đời đời kiếp kiếp ắt
sẽ báo thù. Do vậy, bậc hiền triết muốn khiến
cho người đời cùng dứt sát nghiệp, ḥng hợp
với đạo “dân là đồng
bào, loài vật giống như ta” của cha trời mẹ
đất, lập đủ mọi cách mua loài vật phóng
sanh khiến cho chúng được sống trọn hết
tuổi trời.
Cần phải biết
hành động này chú trọng nơi cứu người,
chứ không phải đơn thuần nhằm cứu vật!
V́ [phóng sanh là] nhằm mong người ta trông thấy
[người khác] mua [loài vật] phóng sanh sẽ đều
chẳng nỡ giết chóc; đă chẳng nỡ giết
chóc th́ chẳng kết oán đối, có thể tiêu diệt
được sát kiếp trong vị lai, phước thọ
trong đời sau sẽ vĩnh viễn tồn tại.
Đấy chính là tông chỉ rốt ráo, lợi ích chân thật
của phóng sanh vậy. Kẻ chẳng biết thường
chê bai phóng sanh lăng phí tiền tài, trọn chẳng có ích lợi
ǵ! Hăy thử đặt ḿnh vào trong hoàn cảnh đó th́ kẻ
ấy có muốn được người khác thả
đi hay là mong bị người khác giết ḿnh để
ăn hay chăng?
Từ thời Tống
Chân Tông, Tây Hồ ở Hàng Châu đă là ao phóng sanh. Sau đấy,
dù có lúc lơ là, nhưng chẳng lâu sau lại được
khôi phục. Nay chánh phủ do thấy Tây Hồ quá nhiều
cá đến nỗi nước hồ dơ đục,
gây trở ngại cho vệ sinh, tính ra lệnh đem bán hết,
cho ngư nhân quăng lưới bắt sạch nhằm tạo
lợi ích cho dân sinh. Các đại cư sĩ từ thiện
ở Hàng Châu, Thượng Hải chẳng nỡ ḷng để
cho những con cá được phóng sanh qua các đời lại
trở thành thức ăn, đặc biệt phái cư
sĩ Tôn Hậu Tại tới Hàng Châu, khẩn cầu chánh
phủ cho phép mua lại số cá ấy để chuyển
sang chỗ khác th́ đối với hai lẽ vệ sinh và
phóng sanh đều được thích nghi. Chính phủ
đă chấp thuận cho mua lại số cá ấy với
giá tám ngàn đồng, trả tiền thành ba đợt,
ngay hôm ấy liền giao ra ba ngàn đồng. Ngày Hai
Mươi Chín tháng Hai dương lịch và ngày mồng
Mười tháng Tư năm sau, mỗi lần giao hai ngàn
năm trăm đồng nữa. Lấy ngày Ba Mươi
tháng Sáu làm hạn chót để hoàn tất việc chuyển
dời số cá ấy.
Số khoản tiền
chánh thức để chuộc cá là tám ngàn đồng,
nhưng dời chuyển cho hết số cá từ cái hồ
rộng mấy chục khoảnh thật chẳng phải
dễ dàng. Phải chuẩn bị rất nhiều thuyền
đánh cá, hằng ngày giăng lưới. Lại phải
cử người vận chuyển, và mỗi thuyền lại
phải có mấy người trông nom, đốc thúc. Chi
phí thuê thuyền, vận chuyển ấy và những khoản
chi phí ăn uống hằng ngày cũng cần đến mấy
ngàn. Khẩn cầu mười phương thiện tín tùy
lực, tùy tâm, ai nấy bỏ ra tịnh tài để những
con cá đang chờ bị nấu sẽ được sống
yên vui, các vị đại cư sĩ được viên
thành sở nguyện. Những người có sẵn đủ
thiện căn từ đời trước trông thấy
hành động tốt lành ấy sẽ đều yêu tiếc
sanh mạng loài vật, chẳng nỡ giết hại. Do
nhân duyên ấy sẽ tiêu diệt được cơ duyên
giết hại, tăng trưởng phong thái nhân từ,
công đức ấy làm sao diễn tả được?
Ông tăng già Thích Ấn Quang sắp vùi thân nơi ng̣i rănh,
kính v́ vô số vô lượng cha mẹ trong quá khứ,
chư Phật trong vị lai, chí thành khẩn cầu xin cứu
mạng. Nếu được quư vị sáng suốt xét soi
th́ chẳng khác ǵ chính Quang được quư vị cứu
vớt vậy. Kính cẩn giăi bày.
2. Sớ
thuật duyên khởi trùng hưng chùa Thọ Lượng ở
Cám Châu
Thật Tế lư địa trải
trần kiếp chẳng đổi, chẳng dời. Chuyện
trong Phật môn tùy theo nhân duyên mà có hưng, có suy. Tuy bỉ
cực thái lai thuộc vào vận trời, nhưng sửa
cũ xây mới quả thật phải cậy vào sức
người. Xưa kia khi đức Thế Tôn sắp nhập
Niết Bàn đă đem pháp đạo phó chúc cho quốc
vương, đại thần, dạy họ hộ tŕ,
lưu thông. Ấy v́ Ngài đă thấy trước đời
sau pháp yếu ma mạnh, nếu không cậy vào hạng
vĩ nhân có quyền lực bảo vệ cho b́nh yên,
ngăn chặn kẻ khinh lấn th́ tṛng mắt của trời
người, huệ mạng của Như Lai chắc sẽ
gần như bị diệt mất.
Chùa Thọ Lượng
là một đạo tràng cổ đă lâu một ngàn năm
trăm năm của Cám Châu. Nhằm thời Tiêu
Lương[13],
Pḥng Ngự Sứ[14]
là Lô Quang Trù[15]
v́ sư Đạo Thành mà dựng chùa này. Thoạt đầu
đặt tên là Lô Hưng Diên Thọ, rồi đổi
thành Thánh Thọ, đến niên hiệu Tường Phù
(1008-1016) đời Tống, vua Chân Tông đặc biệt
sắc tứ cho chùa cái tên hiện thời. Trong những
đời Nguyên, Minh, Thanh, đời nào cũng có người
khiến cho nhà chùa được hưng vượng,
đến thời Quang Tự nhà Thanh, đột nhiên bị
hỏa hoạn. Năm Dân Quốc thứ 4 (1915), lại bị
lụt lớn, đến nỗi ngôi chùa Phật trang nghiêm
trọn thành g̣ hoang, chỉ có ḿnh tượng Quán Âm cao một
trượng sáu đúc bằng sắt là c̣n nguyên vẹn
không bị hư hại. Những vị thân sĩ trong vùng
thỉnh ḥa thượng Đại Xuân chùa Quang Hiếu
kiêm nhiệm Trụ Tŕ. Ḥa Thượng bèn cùng với đại
sư Đức Sâm – là vị Tăng trụ ở đấy
– cạn sức lo liệu, dựng Quán Âm Điện.
Sau này, cụ Đại
Xuân qua đời, thầy Đức Sâm rời đất
Cám, t́m vị Tăng kế nhiệm Trụ Tŕ không ra, đến
nỗi ṭa thị chánh coi là đất bỏ hoang, tính sửa
thành chợ bán rau, mở đường sá. Những hàng
Tăng - tục trong vùng báo cho thầy Đức Sâm biết,
do vậy thầy bèn gởi thư đến những bậc
tai to mặt lớn các giới lần lượt thỉnh
cầu bảo vệ. Trung Quốc Phật Giáo Hội
cũng lại gởi điện xin duy tŕ, mặt khác tuyển
chọn người thỏa đáng sang đấy trước
để trù tính, hoạch định chuyện trùng
hưng ngôi chùa nhằm băi bỏ đề nghị trước
đây [của chánh phủ], lại c̣n dốc sức đảm
nhiệm hộ tŕ cho chùa mau được khôi phục. Những
vị quan viên, thân sĩ trong vùng như ông Lưu Cấp Phủ
v.v… tận lực đảm nhiệm vai tṛ trung gian và nguyện
làm hậu thuẫn giúp cho ngôi chùa được khôi phục.
Ấy là v́ pháp đạo được hưng thịnh
đều do có nhân duyên, chẳng do trải qua cơn sóng
gió này th́ ngôi chùa này sẽ gần như biến mất.
Chỉ v́ hiện thời
đang nhằm thuở Mạt Pháp, căn tánh con người
kém hèn, nếu không cậy vào sức đại thệ nguyện
của Phật Di Đà để văng sanh Tây Phương
th́ ai có thể đoạn sạch Phiền Hoặc, liễu
sanh thoát tử ngay trong đời này? Do vậy, khôi phục
lần này, [nhà chùa] sẽ chuyên tu pháp môn Tịnh Độ
và lập thêm Cư Sĩ Lâm, lưu thông xứ (pḥng phát hành
kinh sách) để các nhân sĩ trong vùng đều biết
đạo trọng yếu ḥng
thoát Ngũ Trược lên chín phẩm và biết quy củ
tốt lành để giữ vẹn luân thường, trọn
hết bổn phận, biết nhân quả, tu tŕ cẩn thận.
Như thế th́ do Liên Xă được mở mang mà tông
phong chấn hưng, lễ giáo hưng khởi, vận
nước tốt đẹp, sáng sủa, ngơ hầu xứng
với ư nghĩa lập chùa đặt tên của cổ
nhân, cũng như để an ủi một phen nhiệt
tâm bảo vệ duy tŕ của các vị quân tử.
Nhưng do nhà chùa không
có hằng sản, Tăng không tích trữ, bèn cậy Bất
Huệ thay mặt viết lời sớ dẫn giải
ḥng khẩn cầu các vị đại hộ pháp và các vị
thiện tín phát tâm Bồ Đề, hành phương tiện
sự, chở vàng, tải gạo, xoay vần khuyên bảo
quyên mộ, khiến cho điện báu thênh thang sớm có
ngày xây dựng thành công, măn nguyệt kim dung thường trụ
suốt kiếp, Tịnh tông được thịnh hành,
con người đều biết đạo thoát khổ.
Nhân quả phô tỏ rơ ràng, mọi người cùng nhau
đi theo con đường mong trở thành thánh, sẽ thấy
Phật, trời bảo vệ như mây nhóm, tốt lành, mừng
vui đua nhau đưa đến, cửa nhà yên vui, quyến
thuộc b́nh an, giàu, thọ, khỏe mạnh, b́nh yên, thân hiện
tại được hưởng Ngũ Phước
như Cơ Tử đă luận, lan quế[16]
ngào ngạt, hậu duệ nhận lănh trăm điều
tốt lành như đă nói trong bài giáo huấn của Y Doăn,
chỉ mong [ai nấy] đều phát ḷng tùy hỷ, đều
cùng được tiếng thơm (Đầu
Đông năm Quư Dậu (1933) thời Dân Quốc)
3. Sớ
quyên mộ tu bổ đại điện Hưng Giáo Thiền
Tự (tức Tiểu Vân Lâu) thuộc thôn Lâu Giang ngoài cửa
phụ của huyện thành Thiệu Hưng
(viết
thay cho thầy Nguyên Trạm)
Đức
Như Lai điều ngự chúng sanh, tùy cơ thuyết
pháp. Do chúng sanh căn cơ bất nhất nên [đức
Phật] nói vô lượng pháp môn, nhưng gom góp thống nhất
lại th́ chỉ có bốn pháp Luật, Giáo, Thiền, Tịnh.
Luật là Phật thân, Giáo là Phật ngữ, Thiền là Phật
tâm, Tịnh là Phật cảnh. Luật, Giáo, Thiền, Tịnh
là chỗ quy túc của hành nhân, là pháp để rốt ráo
viên thành Phật đạo, phổ độ hết thảy
phàm - thánh vậy. Bốn pháp trọn chẳng khác biệt, ắt
cần phải pháp nào cũng viên thông, pháp nào cũng đều
trọn đủ th́ mới có thể trên nối tiếp
Phật huệ, dưới hóa độ chúng sanh. Chẳng
qua là luận theo chú trọng về phương diện nào
mà kiến lập danh xưng của bốn tông Luật,
Giáo, Thiền, Tịnh đấy thôi!
Hưng Giáo Thiền Tự
được sáng lập từ đời Tấn, là
đạo tràng của Luật và Giáo. Đến đời
Đường, Ô Khoa thiền sư trùng hưng, trở
thành [đạo tràng chuyên tu] Thiền. Cuối đời
Minh, đồ tôn của Liên Tŕ đại sư là Nội
Hằng Thuyên Công phục hưng nhà chùa, trở thành [đạo
tràng chuyên tu] Tịnh. Thiện tri thức xét thời cơ
mà chọn giáo pháp thích hợp, nhân thời thế mà chế
định cách tu thích nghi, chỉ cốt sao có lợi cho
muôn loài, chẳng chấp nhặt nơi dấu tích phô bày.
V́ thế, khiến cho hết thảy chúng sanh đều
được thấm nhuần pháp ích.
Từ đời Minh
đến nay đă hơn hai trăm năm, trong khoảng
thời gian ấy những bậc cao nhân trụ tŕ pháp
đạo cũng lại chẳng thiếu. Từ cuối
triều Thanh đến nay, pháp đạo suy vi, điện
đường, liêu xá đều nghiêng sụp, đại
điện là nơi an trụ Như Lai Pháp Thân, cũng là
chốn để tứ chúng cầu phước [thế
mà] cột kèo mục nát, rường xà xiêu vẹo, lỏng
lẻo. Nếu chẳng lập cách tu bổ, ắt sẽ
đến nỗi sụp đổ hết cả. Trạm
tôi trụ tŕ nơi đây, tâm thường kinh sợ, v́ thế
đặc biệt giăi tỏ ḷng ngu thành, quyên mộ khắp
đàn tín hộ pháp, khẩn cầu các vị đều bỏ
ra tịnh tài để thành tựu việc làm tốt đẹp
này, ngơ hầu điện báu thênh thang sớm có ngày
được thành công, măn nguyệt kim dung thường trụ
suốt kiếp. Sẽ thấy Phật, trời che chở
như mây nhóm, tốt lành, mừng vui đua nhau đưa
đến, giàu, thọ, khỏe mạnh, b́nh yên, thân hiện
tại được hưởng Ngũ Phước
như Cơ Tử đă luận, tước vị cao cả,
tôn kính, hậu duệ nhận lănh trăm điều tốt
lành như đă nói trong bài giáo huấn của Y Doăn. Chỉ
mong ai nấy đều chẳng tiếc nuối, cùng ghi
danh thơm (Năm Bính Dần, tức năm Dân Quốc
15 - 1926)
4. Sớ
quyên mộ trai mễ (gạo cho Tăng chúng ăn) suốt
năm của chùa Vạn Thọ núi Đạo Tràng, Hồ
Châu (viết thay)
Pháp luân muốn chuyển, phải
no ḷng,
Không gạo, Thiền sâu khó thể mong.
Nếu chịu bố thí giúp đạo nghiệp,
Phước thọ tăng trưởng quyết triền
miên,
Chùa Vạn Thọ núi
Đạo Tràng là đại đạo tràng do vị cao
tăng thời Ngũ Đại là thiền sư Phục
Hổ Chí Phùng[17]
sáng lập. Thiền sư cất am tu hành trên đỉnh
núi, một bữa ngồi yên, hào quang sáng rực bầu trời.
Nhân sĩ bốn phương tưởng [trên núi] bị hỏa
hoạn; ngày hôm sau đến xem, thấy Sư thâm nhập
tam-muội, biết là Sư phóng đại từ quang. Do vậy,
thiện tín bị cảm hóa, ai nấy đều bỏ ra
tịnh tài, tạo dựng chùa miếu, trở thành đại
tùng lâm, đều nói Sư là Địa Tạng Bồ Tát
hóa thân. V́ thế, lại gọi núi ấy là Tiểu Cửu
Hoa. Từ đấy về sau, đời nào cũng có cao
nhân trụ tŕ nơi ấy. Cho đến đầu đời
Thanh, Hoằng Giác thiền sư từng làm chủ núi này, đức
hạnh được Thanh Thế Tổ (Thuận Trị)
khâm phục; do vậy bèn ban cho nhà chùa tấm biển đề
Vạn Thọ. Ấy là cầu chúc cho muôn nước đều
yên, cùng lên cơi thọ, một người (tức nhà vua)
được mừng vui, ai nấy cùng hưởng thái
b́nh vậy. Từ đấy, đạo phong hưng thịnh,
Vân Thủy[18]
đều tụ về, những chùa lớn các nơi chẳng
đâu hơn được nơi này.
Đến thời Hàm
Phong - Đồng Trị, gặp cơn binh hỏa liền
bị suy vi. May nhờ tiền nhân thảm đạm lo liệu
mới khỏi bị hoang tàn. Nạp tăng tôi tài sức
đơn bạc, lạm nhận chức Trụ Tŕ, tuy muốn
an cư đại chúng rộng khắp ḥng chuyên tu Tịnh
nghiệp, khóa tụng sáng tối hằng ngày, ba thời niệm
Phật, mỗi năm tới tháng Chạp liền mở một
Phật Thất, dùng công đức ấy để cầu
chúc vận nước tốt đẹp, hưng thịnh,
nhân dân yên vui, chuyển cạnh tranh thành nhân từ, nhường
nhịn, biến thói bạc ác thành thuần phong, nhưng do
nhà chùa không có hằng sản, không thể kiếm ra
lương thực. V́ thế, kính tuân theo cấm chế của
đức Phật, vào làng khất thực, khẩn cầu
các vị đại đàn-việt[19]
ai nấy ban cấp thóc gạo suốt năm để
chúng Tăng thanh tịnh cư trụ tại chùa yên tâm tu
đạo, mười phương Vân Thủy đều
được yên cư. Sẽ thấy Phật, trời
che chở như mây nhóm, tốt lành, mừng vui đua nhau
đưa đến, giàu, thọ, khỏe mạnh, b́nh yên,
thân hiện tại được hưởng Ngũ
Phước như Cơ Tử đă luận, tước
vị trâm anh, hậu duệ nhận lănh trăm điều
tốt lành như đă nói trong bài giáo huấn của Y Doăn.
Chỉ mong ai nấy đều chẳng tiếc nuối,
cùng kết duyên thù thắng.
5. Sớ
quyên mộ tu bổ đại điện và liêu pḥng tại
các viện trong Nam Thiên Trúc Diễn Phước Tự, Hàng Châu
Quán Thế Âm Bồ Tát
(cho đến) trùng hưng
đạo tràng Tịnh Độ hoành siêu (phần
trên đây đă đăng trong Văn Sao Tục Biên). Mùa Hạ năm nay lại được
các vị cư sĩ lân cận mở mang đường
hai bên và xây cửa chùa, tu bổ am tranh. Các cư sĩ thuộc
hội Phật học cũng bằng ḷng tán trợ chuyện
xây cất đại điện. Do vậy, cậy Quang viết
sớ, quyên mộ khắp các đàn tín để mong cho
đạo tràng hơn ngàn năm của Bồ Tát lại
được trùng hưng, ngơ hầu đạo thích hợp
khắp ba căn, pháp liễu thoát ngay trong đời này sẽ
được lưu truyền rộng răi. Khẩn cầu
mười phương quan viên cao quư, bậc đại
thân sĩ, thương gia giàu có, hết thảy thiện
tín đều cùng phát Bồ Đề tâm, hành phương
tiện sự, mở toang bảo tạng, vun bồi ruộng
phước, chở vàng, tải gạo, xoay vần khuyên bảo,
quyên mộ lẫn nhau, ngơ hầu điện báu thênh thang sớm
có ngày xây dựng thành công, măn nguyệt kim dung thường
trụ trải kiếp, liên xă mở mang, tông phong chấn
hưng, Phật pháp hưng thịnh, thiên hạ thái b́nh. Sẽ
thấy Phật, trời che chở như mây nhóm, tốt
lành, mừng vui đua nhau đưa đến, giàu, thọ,
khỏe mạnh, b́nh yên, thân hiện tại được
hưởng Ngũ Phước như Cơ Tử đă luận,
tước vị trâm anh, hậu duệ nhận lănh
trăm điều tốt lành như đă nói trong bài giáo huấn
của Y Doăn. Chỉ mong ai nấy đều chẳng tiếc
nuối, cùng ghi danh thơm.
6. Sớ
quyên mộ tu bổ đại điện của Tức
Lai Thiền Viện núi Phổ Đà
(viết
thay)
Phổ Đà danh
sơn chính là cuộc đất thù thắng nơi Đại
Sĩ thị hiện, Tức Lai thiền viện quả thật
là ngôi chùa thanh tịnh để đàn-na tín thí gieo phước.
Kể từ khi trước, tổ chúng tôi là thiền
sư Triều Âm triệt ngộ tự tâm, thông hiểu
kinh giáo sâu xa, trụ tŕ chùa Phổ Tế mười mấy
năm, rải mây Từ của Đại Sĩ, xiển
dương tâm ấn của Tổ Sư. V́ thế, đạo
truyền bốn biển, đức cảm chín bệ, nhiều
lần được [triều đ́nh] ban lộc, tặng
y tía, trùng tu đạo tràng viên thông, càng thêm v́ pháp v́ người,
mong vun bồi ḍng giống pháp cho tương lai. Nhưng do
trải qua năm tháng đă lâu, Sư chẳng kham nổi
nhọc nhằn, bèn cho dựng riêng Tức Lai để làm
nơi thoái ẩn. Do Sư được bậc tể
quan ngưỡng mộ, dân chúng khâm phục, tôn sùng nên quy
mô, chế độ của [viện Tức Lai] khá đồ
sộ. Từ xưa đến nay đă hơn hai trăm
năm, tất cả điện đường đều
nghiêng ngửa, hư nát. Nạp tăng tôi thẹn phận
hậu học, gắng sức tu bổ. Các pḥng đă sửa
sang đại lược như mới, chỉ c̣n đại
điện chưa khởi công. Nếu chẳng xoay sở
triệt để, ắt sẽ đến nỗi chẳng
mấy chốc sụp đổ. Tính muốn tạo dựng
lầu gác huyễn hóa, ắt phải cậy sức của
mọi người chống đỡ. Do vậy, viết
sớ giăi bày tấm ḷng ngu thành, quyên mộ khắp
đàn-na mười phương, khẩn cầu phát Bồ
Đề tâm, hành phương tiện sự, mở toang bảo
tạng, vun bồi ruộng phước, ngơ hầu điện
báu Đại Hùng sớm có ngày xây dựng thành công, măn nguyệt
kim dung thường trụ trải kiếp. Sẽ thấy
Phật, trời che chở như mây nhóm, tốt lành, mừng
vui đua nhau đưa đến, thân hiện tại
được hưởng Ngũ Phước như
Cơ Tử đă luận, tước vị trâm anh, hậu
duệ nhận lănh trăm điều tốt lành như
đă nói trong bài giáo huấn của Y Doăn. Nếu như chẳng
xót của, sẽ cùng ghi phương danh.
VII. Bạt
1. Lời
bạt cho tấm biển ngạch Hương Quang Trang
Nghiêm
Hương
thơm công đức phước huệ, ánh sáng từ bi
nhiếp thọ của Như Lai theo chiều dọc suốt
cả ba đời, theo chiều ngang trọn khắp
mười phương đều xông chiếu trọn khắp.
Phàm phu đầy dẫy triền phược trọn chẳng
nghe thấy, như kẻ mắt mù mũi điếc giữa
trưa đi ngang rừng Chiên Đàn, trọn chẳng ngửi
được mùi hương Chiên Đàn, chẳng thấy
được ánh sáng mặt trời. Nếu sanh ḷng chánh
tín, thường niệm Phật hiệu, do được
vạn đức hồng danh của Như Lai ngầm hun
đúc, gia bị, nên nghiệp tiêu, trí rạng, chướng
tận, phước cao, sẽ tự có thể tùy theo khả
năng của chính ḿnh mà đắc tam-muội nên thấy
nghe đôi chút [hương công đức, ánh sáng từ bi của
Phật], hoặc chứng Vô Sanh Nhẫn nên thấy nghe lớn
lao, cho tới dùng sự trang nghiêm của Phật để
tự trang nghiêm. Thầy Giám Viện là đại sư Diệu
Chân mong những ai đến đây đều cùng
được nhiễm mùi hương của Phật, cùng
được hưởng quang minh của Phật, cậy
tôi đề bốn chữ này và viết lời bạt
để thưa với bậc thông sáng mai sau (Mùa Thu
năm Kỷ Măo, tức năm Dân Quốc 28 - 1939)
2. Lời
bạt cho Tịnh Độ Ngũ Kinh
Tam Học
Giới - Định - Huệ là căn bản của
người học Phật và tu Tịnh nghiệp, nhưng
Giới lại càng thiết yếu. V́ thế, Quán Vô Lượng
Thọ Phật Kinh khai thị Tịnh nghiệp tam phước
như sau:
1) Một là hiếu
dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng,
từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện nghiệp.
2) Hai là thọ tŕ Tam
Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai
nghi.
3) Ba là phát Bồ Đề
tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa,
khuyến tấn hành giả.
Hai điều đầu
phần lớn thuộc về Giới Học, điều
thứ ba trọn đủ Tam Học. Đầy đủ
ba món phước này th́ Tịnh nghiệp thành tựu lớn
lao, văng sanh Thượng Phẩm. V́ thế, sau năm kinh Tịnh
Độ, lại in kèm thêm phẩm Tịnh Hạnh của
kinh Hoa Nghiêm và bốn thứ giáo huấn thanh tịnh rạng
ngời[20]
(Thanh Tịnh Minh Hối) của kinh Lăng Nghiêm để
mong hành giả Tịnh nghiệp, đối với Luật
Nghi Giới th́ ǵn giữ sao cho thân chẳng phạm, tiến
lên mức nữa là đắc Định Cộng Giới,
chế ngự tâm không khởi [những vọng niệm],
tiến vào Đạo Cộng Giới siêu t́nh ly niệm,
đoạn Hoặc chứng Chân. Nhưng dẫu đạt
được hai thứ lợi ích thật sự là Định
Cộng Giới và Đạo Cộng Giới th́ vẫn phải
dè dặt, kinh sợ, chấp tŕ Luật Nghi Giới để
tự lợi, lợi tha, duy tŕ khuôn mẫu pháp đạo,
ngơ hầu kẻ giải thoát rỗng tuếch[21]
sẽ không có lư do lấp liếm rằng họ đang tu
theo Đại Thừa để rồi hoại loạn Phật
pháp khiến cho chúng sanh bị lầm lạc, nghi ngờ! (Giữa
Xuân năm Bính Tư, tức năm Dân Quốc 25 - 1936)
3. Lời
bạt cho Ma Lợi Chi Thiên Đà La Ni
Ma Lợi Chi Thiên tuy hiện thân trời,
nhưng thật ra là Bồ Tát. V́ tâm độ sanh tha thiết,
ḷng cứu khổ ân cần, nên nói ra chú này để làm cái
gốc cứu độ. Nếu ai mỗi ngày kiền thành
tŕ tụng chú này càng nhiều càng tốt, dẫu gặp những
tai nạn nước, lửa, đao binh v.v… cũng sẽ
gặp dữ hóa lành. Năm nay, trong cuộc biến loạn
tại Trường Sa[22],
[dân chúng] mắc họa thật thảm. Ông Nhiếp Vân
Đài suất lănh toàn thể gia quyến thuộc các chi họ
cùng tŕ chú này tại Thượng Hải, thế mà nhà cửa
thuộc các chi họ của nhà ông Nhiếp ở Trường
Sa trọn chẳng bị tổn hại, hư hỏng ǵ.
Do vậy biết rằng chú này có đại thần lực,
có thể trông cậy được. Kính mong những
người cùng hàng đều cùng phát tâm sửa lỗi
hướng lành, cùng làm chuyện giữ vẹn luân thường,
trọn hết bổn phận, lợi người, lợi
vật để cảm ứng Bồ Tát rủ ḷng Từ
nơi bổn địa th́ sẽ được chở
che, gia hộ càng thêm thù thắng. Nếu ai không biết chữ,
chẳng thể ghi nhớ được, hăy chí thành niệm
Nam Mô Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát hoặc xưng niệm Nam
Mô Quán Thế Âm Bồ Tát th́ lợi ích cũng giống hệt
như tụng chú. Ai có được chú này ắt phải
đặt ở nơi sạch sẽ, chớ nên khinh nhờn.
Nếu không, sẽ mắc tội chẳng nhỏ đấy
(Đầu Thu năm Canh Ngọ, tức năm Dân Quốc
19 - 1930)
4. Lời
bạt cho Tịnh Độ Pháp Hội Khóa Nghi
Hết thảy pháp môn được
nói trong một đời đức Như Lai đều
phải đoạn sạch Phiền Hoặc th́ mới có
thể liễu sanh thoát tử. Chỉ có một pháp Niệm
Phật nếu đầy đủ ḷng tin chân thành, nguyện
thiết tha, sẽ liền có thể cậy vào Phật từ
lực văng sanh Tây Phương. Pháp môn Niệm Phật lấy
ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông, tín - nguyện để
dẫn đường, niệm Phật làm chánh tu. Có
người chỉ chuyên cầu nhất tâm chẳng nhắc
đến tín nguyện và kẻ chú trọng khai ngộ, chẳng
cầu văng sanh đều là những người chẳng
biết tông chỉ của pháp Niệm Phật, bỏ Phật
lực để cậy vào tự lực, coi thường
Phật trí, khoe khoang trí ḿnh, tự lầm, lầm người
lớn lắm! Tâm niệm Phật ắt cần phải khẩn
thiết chí thành như con nhớ mẹ; dẫu có cảnh
nào khác đưa đến trọn chẳng thể làm cho
cái tâm nhớ mẹ ấy bị quên mất được!
Trong khi niệm Phật hoặc niệm ra tiếng, hoặc
niệm thầm, đều phải lắng tai nghe kỹ,
chẳng để cho một câu một chữ nào miệng
chỉ liến láu niệm qua. Cách niệm “nhiếp trọn
sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” như Đại
Thế Chí Bồ Tát đă nói chính là pháp vừa niệm vừa
lắng nghe như thế đấy. Nếu có thể làm
đúng như vừa nói th́ chắc chắn sẽ
được văng sanh. Nếu t́m cầu sự khéo léo, chắc
chắn sẽ biến thành vụng về to lớn, tự
lầm, lầm người, gây hại há có thể nào cùng cực
được!
5. Lời
bạt cho sách Sức Chung Tân Lương
Cổ
nhân nói: “Sanh tử cũng lớn
lao thay!” Chẳng đáng buồn ư! Trộm nghĩ:
Buồn xuông th́ rốt cuộc có ích chi đâu? Cần biết
rằng sanh tử là đại sự, tín nguyện niệm
Phật là đại pháp. Đă biết chết là đáng
buồn, hăy nên tu đại pháp này trước khi chưa
chết th́ chẳng những chết không đáng buồn mà
c̣n là may mắn lớn nữa. V́ sao vậy? Do tịnh nghiệp
chín muồi, nương theo Phật từ lực lập tức
văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới,
được siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử,
vĩnh viễn ĺa khỏi các nỗi khổ, chỉ hưởng
các sự vui, tu tập dần dần măi cho đến khi
thành Phật mới thôi. Nhưng muốn đạt
được điều may mắn lớn lao ấy th́ cần
giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận,
dứt ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng làm các điều
ác, vâng giữ các điều lành để bồi đắp
nền tảng, lại c̣n thật sự v́ sanh tử, phát
Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu tŕ danh hiệu Phật sẽ liền
có thể quyết định đạt được.
Đến khi lâm chung, bất luận tu đă lâu hay mới
tu, đều cần có quyến thuộc và tịnh hữu
trợ niệm ngơ hầu chánh niệm rạng rỡ, cảm
ứng đạo giao, được Phật tiếp dẫn
văng sanh Tây Phương. Dẫu cho kẻ thường ngày
chẳng hề niệm Phật, khi lâm chung thỉnh thiện
hữu khai thị và trợ niệm th́ cũng có thể
văng sanh.
Do vậy biết rằng
chuyện trợ niệm là khẩn yếu nhất! Trong lúc
thường ngày, người tu Tịnh nghiệp hăy nên nói
với gia quyến về lẽ lợi - hại để
họ hiểu rơ không nghi, quyết chẳng đến nỗi
khi lâm chung gia quyến sẽ do t́nh kiến thế tục
mà phá hoại chánh niệm. [Như vậy th́] đối với
kẻ c̣n lẫn người mất đều có lợi
ích thật sự. Các sách Niệm Phật Sức Chung Tân
Lương và Sức Chung Tu Tri, dụng ư lẫn lời lẽ
đều châu đáo, quả thật đă bảo vệ
cho hành nhân thành tựu được đại sự nhân
duyên. Nếu chịu lần lượt lưu thông ngơ hầu
hết thảy những người cùng hàng đều biết
tới lợi ích đó th́ công đức ấy chỉ có
đức Phật biết được! Nguyện những
kẻ làm con cháu người khác trong cơi đời và những
ai là cha mẹ, anh em, bạn bè ai nấy đều làm theo
ngơ hầu người đă mất hồn siêu nơi cơi tịnh,
nghiệp trả lại trần lao, chín phẩm sen nở
hoa, được đức Phật thọ kư thành Phật
ngay trong một đời, quả thật là may mắn lớn
lao! (Cuối Xuân năm Dân Quốc 19 - 1930)
6. Lời
bạt cho bài giảng giải ư nghĩa Tam Dư Đức[23]
Đường
Ư
nghĩa lớn lao của tên gọi ṭa nhà này đă tuyên bày
rồi. Nhưng muốn lợi người th́ trước
hết phải đánh đổ những ham muốn xằng
bậy của chính ḿnh. Nếu lời lẽ chẳng phù hợp
với việc làm c̣n khó cảm hóa vợ con, huống là xóm
giềng ư? Nếu có thể chân thành không dối trá th́ dẫu
là dị loại vẫn c̣n có thể cảm ứng
được, huống hồ con người là kẻ
cùng loài ư? V́ vậy, hết thảy pháp đều lấy
thân làm gốc, nên nói: “Thân chẳng
hành đạo th́ vợ con sẽ chẳng hành đạo.
Nếu kẻ nào chẳng giữ đạo th́ sẽ chẳng
thể làm cho vợ con giữ đạo được”.
Muốn tán trợ sự sanh thành trưởng dưỡng
của trời đất, muốn tỏa rạng đức
ngấm ngầm của tổ tông, muốn lập khuôn mẫu
tốt đẹp cho con cháu, mà chính ḿnh chẳng chú trọng
tận tụy thực hiện th́ sẽ như kẻ nghèo
không có rẻo đất nào để cắm dùi lại xằng
bậy mong phú quư trùm lấp cơi đời, chỉ trở
thành si tâm vọng tưởng, trọn chẳng thể trở
thành sự thực được! Hăy răn dè nhé!
Ṭa nhà
được đặt tên dù ba chữ hay bốn chữ
đều có ư nghĩa, cho nên không nhất định, chớ
nên thay đổi. Ở phương Nam có một cụ già
thanh nhàn sửa chữa đ́nh đường, khi gác
đ̣n dông có mười tám con hạc trắng bay đến,
liền đặt tên cho ṭa nhà ấy là Thập Bát Hạc
Lai, bởi phỏng đoán rằng đấy chính là điềm
[trong số con cháu sau này] sẽ có mười tám vị Hàn
Lâm vậy!
VIII. Những
bài viết khác
1. Những
căn cứ để làm cho hết thảy mọi người
niệm Phật được văng sanh hay không văng sanh
Hết
thảy các pháp môn do đức Như Lai đă nói trong một
đời Ngài đều nhằm dạy chúng sanh tu Giới
- Định - Huệ, đoạn tham - sân - si, hiểu rơ
sanh tử huyễn vọng, chứng tâm tánh chân thường.
Nhưng chúng sanh căn tánh có lợi - độn, Hoặc
(phiền năo) có dày - mỏng. Kẻ căn tánh nhạy bén,
Phiền Hoặc mỏng nhẹ th́ sẽ có thể liễu
sanh tử ngay trong đời này hay trong hai, ba, bốn, năm đời sẽ liễu sanh tử.
Kẻ căn độn, Phiền Hoặc dầy th́ mười,
trăm, ngàn, vạn đời, hay mười, trăm, ngàn,
vạn kiếp vẫn chẳng thể liễu được!
Đấy là luận trên sự tu tŕ theo giáo lư thông thường,
cậy vào sức tu Giới - Định - Huệ của
chính ḿnh để đoạn sạch tham - sân - si phiền
hoặc, khó khăn cũng dường như lên trời! Mặc
cho anh kiến địa cao siêu, công phu sâu đậm, công
đức to tát, trí huệ lớn lao; nếu Kiến
Tư Hoặc trong tam giới chưa hết, quyết chẳng
thể vượt ra ngoài tam giới để liễu sanh
tử được!
Chỉ có pháp môn Niệm
Phật là hoàn toàn cậy vào nguyện lực đại từ
bi của A Di Đà Phật. Nếu đầy đủ
ḷng tin chân thành, nguyện thiết tha, chí thành khẩn thiết
niệm danh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương, bất
luận lợi căn hay độn căn, Phiền Hoặc
dầy hay mỏng đều có thể ngay trong đời
này vào lúc lâm chung được nương theo Phật từ
lực đích thân rủ ḷng tiếp dẫn mà văng sanh Tây
Phương. Đă được văng sanh rồi, Kiến
Tư phiền năo chẳng đoạn mà tự đoạn,
bởi cảnh duyên trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới thù thắng, mỗi mỗi đều có thể
tăng trưởng công đức, trí huệ của con
người, trọn chẳng khiến cho con người dấy
lên tham - sân - si. Đấy chính là pháp môn đặc biệt
trong cả một đời giáo hóa của đức
Như Lai, chẳng thể dùng những giáo lư theo đường
lối thông thường để luận định pháp
môn Tịnh Độ được!
Trong cơi đời có những
kẻ thông hiểu Tông - Giáo sâu xa, nhưng chẳng tin vào
pháp môn Tịnh Độ, ấy là v́ đă dùng giáo lư theo
đường lối thông thường để luận
định pháp môn đặc biệt. Nếu họ biết
đây là pháp môn đặc biệt th́ sẽ tự hành, dạy
người, nào dám chống trái! Bà Lưu Thị - thím của
ông Trương Phước Tuyền - bẩm tánh tinh thuần,
đă có túc căn, đến khi mắc bệnh bèn tin theo lời
của Phước Tuyền, Tông Tịnh v.v… mà niệm Phật,
lại c̣n được người nhà trợ niệm,
v́ thế qua đời thật tốt lành. Những tướng
tốt đẹp như: Vẻ mặt trở nên đẹp
đẽ hơn lúc sống, sau mười bốn tiếng
đồng hồ toàn thân đă lạnh, đảnh đầu
vẫn c̣n ấm, chân tay, ḿnh mẩy mềm mại, ruồi
nhặng chẳng bu tới v.v…. Căn cứ theo bài kệ
kiểm nghiệm t́nh trạng lúc lâm chung trong kinh Đại
Tập th́:
Đảnh thánh, nhăn thiên sanh,
Nhân tâm, ngạ quỷ phúc,
Súc sanh tất cái ly,
Địa ngục cước
bản xuất.
(Đảnh:
thánh, mắt: sanh thiên,
Tim:
người, ngạ quỷ: bụng,
Súc sanh:
đầu gối ĺa,
Địa
ngục: bàn chân thoát)[24]
Bởi lẽ con
người sắp chết, hơi nóng từ dưới dồn
lên trên th́ siêu sanh; từ trên dồn xuống dưới sẽ
đọa lạc. Nếu toàn thân đă lạnh, chỉ c̣n
đỉnh đầu ấm, ắt sanh về Tây
Phương, vào trong thánh đạo. Mắt và trán nóng là
sanh trong đường trời. Ngực nóng là sanh trong nhân
đạo. Bụng c̣n ấm là sanh trong ngạ quỷ
đạo, đầu gối ấm là sanh trong súc sanh đạo,
bàn chân ấm là sanh trong địa ngục đạo.
Người niệm Phật nếu nhất tâm niệm Phật,
chẳng nghĩ đến gia nghiệp, con cái trong thế
gian, quyết định sẽ được Phật từ
lực tiếp dẫn văng sanh. Bất luận tu tŕ đă
lâu hay mới tu, thậm chí kẻ tới lúc lâm chung mới
được bạn lành khai thị liền nhất tâm niệm
Phật dẫu chỉ niệm được mười
tiếng liền mạng chung th́ cũng được văng
sanh. Bởi lẽ, trong bốn mươi tám nguyện của
A Di Đà Phật, nguyện thứ mười tám là: “Nếu có chúng sanh nghe danh hiệu
ta chí tâm tin ưa, cầu sanh về nước ta, thậm
chí mười niệm, nếu chẳng được
sanh, ta không giữ ngôi Chánh Giác”. Do nhân duyên ấy, kẻ
thường ngày chẳng hề niệm Phật, lâm chung
được bạn lành khai thị, mọi người
trợ niệm, cũng có thể văng sanh. Người
thường niệm Phật nếu lúc lâm chung bị quyến
thuộc vô tri tắm rửa, thay quần áo sẵn và hỏi
han mọi chuyện, cũng như khóc lóc v.v… Do những
nhân duyên ấy phá hoại chánh niệm liền khó được
văng sanh. V́ thế, người niệm Phật lúc thường
ngày ắt phải bảo ban quyến thuộc trong nhà đều
niệm th́ khi chính ḿnh lâm chung bọn họ đều biết
trợ niệm. Lại do thường nói lợi ích của
trợ niệm khi lâm chung và những họa hại do khóc
lóc, bày vẽ mù quáng, họ sẽ chẳng đến nỗi
v́ ḷng hiếu mà khiến cho người thân vẫn phải
hứng chịu nỗi khổ sanh tử lớn lao, sẽ
ngay trong đời này hưởng lợi ích lớn lao văng
sanh Tây Phương.
2. Biện
định nhằm giải trừ mối nghi về chuyện
văng sanh Tây Phương của ông Trương Huệ Bính
Hết
thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều sẽ
thành Phật, nhưng do chưa ngộ, mê muội chẳng
biết, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm -
dâm, trầm luân trong biển khổ sanh tử từ kiếp
này sang kiếp khác chẳng thể thoát ra, đáng
thương xót quá đỗi! Trương Huệ Bính vốn
có thiện căn từ đời trước, tiếc rằng
sống ở nơi không có Phật pháp, đến khi
đi học, dần dần nhiễm phải học thuyết
của Châu - Tŕnh - Hàn - Âu (sức báng Phật của
Châu - Tŕnh c̣n lớn hơn Hàn - Âu nữa) khiến cho lư tự tánh trong tâm càng bị vùi lấp,
không cách nào hiển hiện được!
May mắn là ông
Trương trải đời đă lâu, thường gặp
cảnh tai họa, loạn lạc, chẳng tránh khỏi
thường ôm ḷng chán ngán. Khéo sao gặp được
Thường Huệ Dương đem pháp niệm Phật
cầu sanh Tây Phương khuyên nhủ, bèn như mạ gặp
hạn đă lâu chợt gặp trận mưa dầm ngọt
ngào, liền bừng bừng tăng trưởng, thế
khôn ngăn được! Tuy chưa hiểu Phật pháp
thật rơ ràng nhưng đă thấy rành mạch, sâu xa cái
tâm cong vẹo của bọn Tŕnh - Châu - Hàn - Âu; đâm ra tín
tâm do đấy càng tăng thêm. Từ khi được
nghe pháp môn Tịnh Độ trở đi, giữ chặt
thời khắc, chưa đầy hai năm liền
được chánh niệm văng sanh, cũng đáng gọi
là bậc trượng phu dũng mănh! Đến khi lâm
chung, ông ta bị trúng phong không nói được, ấy
chính là v́ ác nghiệp trong đời trước đáng lẽ
phải hứng chịu trong đời kế tiếp sau
khi đă chết đi, nhưng do công đức tu tŕ trong
đời này mà chuyển báo nặng trong đời sau
thành báo nhẹ trong đời này nhằm giải quyết
cho xong!
Chết rồi vẻ
mặt tươi tắn, xác thân mềm mại, mặt lộ
vẻ mỉm cười, đỉnh đầu nóng bừng
tay [của người sờ vào]. Những cảnh tượng
ấy đều là tướng lành văng sanh, nhưng vẻ
mặt tươi sáng, thân xác mềm mại, mặt lộ
vẻ mỉm cười th́ người sanh lên cơi trời
cũng có thể đạt được như vậy.
Chỉ có chuyện đỉnh đầu c̣n nóng th́ người
sanh lên cơi trời không hề có chuyện này! Trong kinh có bài kệ
nói về chứng cứ sanh vào các nẻo sau khi mất
như sau:
Đảnh thánh, nhăn thiên sanh,
Nhân tâm, ngạ quỷ phúc,
Súc sanh tất cái ly,
Địa ngục cước
bản xuất.
Bởi lẽ
con người chết đi, hơi nóng từ dưới
dồn lên trên th́ siêu thăng, từ trên dồn xuống
dưới th́ đọa lạc. Nếu toàn thân đều
lạnh, đỉnh đầu vẫn ấm th́ siêu phàm nhập
thánh. Sanh về Tây Phương là siêu phàm nhập thánh tối
thắng, cho nên nói là “đảnh thánh”. Nếu hơi nóng
đọng nơi trán và mắt là sanh trong đường
trời. Ngực vẫn nóng là sanh trong nhân đạo. Bụng
c̣n ấm là sanh trong ngạ quỷ đạo, đầu gối
ấm là sanh trong súc sanh đạo, bàn chân ấm là sanh trong
địa ngục đạo. Do toàn thân đă lạnh, chỉ
c̣n có chỗ ấy là ấm để làm chuẩn. Nhưng
người niệm Phật, nếu b́nh thường có
ḷng tin chân thật, nguyện thiết tha, lâm chung lại
được quyến thuộc tốt lành trợ niệm,
chẳng bị phá hoại bởi quyến thuộc xấu
hèn tắm rửa, thay quần áo sẵn, khóc lóc, hỏi chuyện,
mù quáng an ủi v.v… th́ chắc chắn sẽ có thể văng
sanh. Khi lâm chung, Huệ Bính bị cấm khẩu, chắc sẽ
có kẻ do vậy bèn hoài nghi. Chuyện đỉnh đầu
c̣n ấm là một chứng cứ; huống chi lại có những
chuyện như vẻ mặt tươi tắn v.v… ư?
Năm trước, ông
Trịnh Huệ Hồng ở huyện Bảo Sơn, tỉnh
Vân Nam chết, bà mẹ do ḷng quá thương con bèn uống
thuốc độc rồi ngồi ngay ngắn niệm Phật
qua đời, trọn chẳng có dáng vẻ đau khổ.
Địa phương ấy từ trước đến
nay chẳng biết Phật pháp, cha [Huệ Hồng] tên Bá
Thuần là một vị túc nho, chẳng thích ra làm quan, thoạt
đầu nghiên cứu kinh Dịch mấy năm, rồi
nghiên cứu kinh điển của bọn luyện đan,
cuối cùng tham Thiền tông. Huệ Hồng buôn bán ở
Chiêu Thông (thuộc Vân Nam), gởi thư xin quy y [với
Quang], chuyên tu Tịnh nghiệp, nhiều phen khuyên cha tu Tịnh
nghiệp, thỉnh nhiều kinh sách Tịnh Độ xin
cha hăy đọc. Do vậy Bá Thuần sanh ḷng tin, tự
hành, dạy người, soạn cuốn Niệm Phật
Khẩn Từ để cầu khẩn người khác niệm
Phật. Năm Dân Quốc 22 (1933), Huệ Hồng thôi buôn
bán, trở về nhà. Mùa Xuân năm sau qua đời,
cũng không có tướng lành chi cho lắm! Nhưng bà mẹ
uống thuốc độc văng sanh so với những
người chết tốt lành b́nh thường chẳng hề
kém cạnh ǵ! Do vậy, người trong một vùng đều
cảm động. Bá Thuần là một người
văn lẫn hạnh đều khá, đứng ra đề
xướng, lại nhờ chuyện lạ của vợ
con, dẫu kẻ tà kiến cố chấp trọn chẳng
có ḷng tin tưởng cũng chẳng thể không bị cảm
động!
Bọn Tống Nho
đọc kinh Phật, bèn dùng những nghĩa mầu nhiệm
ấy để xưng hùng, ngược ngạo bài xích Phật,
v́ sợ người đời sau biết “diệu
nghĩa” [do bọn Tống Nho khoác lác “chính ḿnh đă tự
t́m ra” ấy] do đâu mà có, đến nỗi những kẻ
học Nho đời sau chẳng dám nhắc đến nhân
quả, luân hồi. V́ thế, thiện không có ǵ để
khuyên, ác không có ǵ để trừng phạt. May mắn là gần
đây người tu Tịnh nghiệp đông đảo,
vẫn c̣n có thể đẩy lùi con sóng cuồng loạn
đôi chút. Nếu không, đạo làm người chắc
sẽ gần như bị diệt mất! Nay do Huệ
Bính khiến cho một vùng biết được tướng
trạng văng sanh Tây Phương, ắt sẽ khiến cho
những kẻ nối tiếp ông ta văng sanh về lâu về
dài càng đông đảo vậy. Do vậy, tôi viết những
điều này nhằm làm nêu sáng tỏ ư nghĩa thật sự;
xin ai nấy hăy tự gắng lên!
3. Thông cáo
tạ tuyệt trao đổi thư từ
Ấn
Quang là một ông Tăng tầm thường, chẳng có hiểu
biết ǵ; mười mấy năm qua thường có những
người tưởng lầm Quang là thiện tri thức,
thừa dịp bưu chánh thuận tiện, nườm
nượp gởi thư tới. Quang chẳng tự
lượng, hễ thư gởi đến liền trả
lời. Mùa Đông năm ngoái do ban đêm giảo chánh sách
dưới ánh đèn điện, mắt bị tổn
thương nặng. Từ đấy, hễ ai gởi
thư đến đều nhắc nhở sau này đừng
gởi thư tới nữa, nhưng vẫn không có hiệu
quả ǵ! Đến nay, số người gởi thư
tới so với trước kia chưa hề giảm! Cho
nên nay tôi bất đắc dĩ đăng thông cáo trên hai
báo Tân Thân và Phật Học Bán Nguyệt San để mong ai
nấy đều biết. Nếu từ nay vẫn gởi
thư tới, quyết chẳng bóc ra, cũng chẳng phúc
đáp. Nếu có chuyện ǵ quan trọng gởi tới bằng
thư bảo đảm, tôi sẽ để nguyên thư gởi
trả lại. Thư thông thường sẽ quăng vào
giỏ đựng giấy vụn để mong tịnh
tâm, dưỡng mắt, ḥng giữ được sức
nh́n để c̣n thấy được ánh sáng mặt trời.
Nếu vẫn lầm
lạc coi Quang là tri thức, xin hăy trực tiếp hướng
đến Phật Học Thư Cục ở Thượng
Hải hoặc Hoằng Hóa Xă thuộc chùa Báo Quốc ở
Tô Châu để thỉnh Ấn Quang Văn Sao, Ấn Quang
Gia Ngôn Lục về đọc, sẽ đạt
được lợi ích thật sự gấp trăm lần
so với gởi thư đến. Tiến hơn nữa
là đọc Tịnh Độ Ngũ Kinh và các trước
thuật về Tịnh Độ của cổ đức
th́ chắc chắn sẽ có thể đem nhân địa
tâm khế hợp với quả địa giác vậy (Ngày
mồng Một tháng Hai năm Dân Quốc 24 - 1935)
4. Thông cáo
khuyên khắp đồng bào toàn cầu cùng niệm thánh hiệu
Quán Âm
Quán Thế
Âm Bồ Tát từ vô lượng kiếp trước thành
Phật đă lâu, hiệu là Chánh Pháp Minh, nhưng bi tâm vô tận,
từ thệ khôn cùng. Do vậy, lại hiện thân Bồ
Tát và những thân trời, người, phàm, thánh v.v… trong
mười phương thế giới để thí vô úy
(ban phát sự không sợ hăi) nhằm rủ ḷng cứu vớt.
Phẩm Phổ Môn nói: “Nên dùng
thân nào để độ được, liền hiện
thân ấy để thuyết pháp”. Chẳng những hiện
thân hữu t́nh, mà ngay cả núi, sông, thuyền, bè, cầu bến,
đường sá, dược thảo, cây cối, lầu
đài, điện, gác cũng tùy cơ ứng hiện. Nói
chung là Bồ Tát chú trọng ĺa khổ ban vui, chuyển nguy
thành an. Phàm ai gặp đao binh, nước, lửa, bệnh
ngặt, thú dữ, oán gia đối đầu, ác quỷ,
rắn độc, đủ mọi nỗi nguy hiểm, nếu
chí thành xưng niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát liền
có thể được Bồ Tát gia bị, chuyển nguy
thành an.
Hiện tại sát kiếp
tràn ngập, toàn cầu đều không có chỗ nào là yên
vui cả, mà cũng chẳng ai được yên vui. Nguyện
đồng bào trong ngoài nước cùng niệm thánh hiệu
Quán Âm, cùng lấy tâm cứu khổ cứu nạn của
Quán Âm làm tâm ḿnh, cùng lấy sự nghiệp lợi người
lợi vật của Quán Âm làm sự nghiệp của ḿnh
th́ ư niệm ta - người đều không c̣n, chuyện
đấu tranh tự dứt, tự có thể cùng hưởng
thái b́nh, cùng vui lẽ thường. Dẫu cho định
nghiệp khó chuyển, bị táng thân mất mạng, vẫn
có thể nương cậy sức Bồ Tát để
văng sanh Tây Phương th́ kẻ do túc nghiệp bị mất
mạng cũng sẽ được nhờ Phật lực
thoát khỏi biển khổ. Các đồng bào trong ngoài
nước của tôi xin hăy cùng xét cho tấm ḷng ngu thành
này! (Năm Dân Quốc 26 - 1937)
IX. Vấn
đáp
1. Đáp
lời hỏi của sư Thiện Huân (lược bỏ câu hỏi)
1) Ngoại
đạo giữ phương cách bí mật là v́ sợ
người khác biết rơ pháp của chúng nên không cho người
khác niệm Phật ra tiếng. Trong Phật pháp, không có thuyết
bí mật nào! Niệm Phật hăy tùy theo khí phận, sức
lực của mỗi người lớn hay nhỏ mà niệm
lớn tiếng hay niệm nhỏ tiếng. Niệm ra tiếng
lâu dài sẽ bị tổn khí; v́ thế lại cần phải
tĩnh tọa niệm thầm. Bất luận niệm lớn
tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm, nói
chung là chính ḿnh phải nghe tiếng niệm Phật của
chính ḿnh. Niệm thầm cũng vẫn có tiếng, v́ thế
cũng cần phải nghe. Nếu thường nghe, tâm tự
quy nhất. Đấy chính là cách niệm Phật hay nhất.
2) Trừ
Phật pháp ra, tất cả các môn đều là tà giáo, chứ
nào phải chỉ có Thanh Tịnh Môn[25]?
Các loại tà giáo đều lấy luyện đan vận
khí làm chánh đạo, nhưng họ lấy niệm Phật,
niệm kinh, khuyến thiện để làm căn cứ dẫn
dụ người khác vào đạo của họ.
3) Đồng Thiện
Xă cũng là ngoại đạo. Ở đây nói “đừng
học theo Tế Công”[26]
chỉ là nói về kẻ ngoại đạo, chớ nên nhất
loạt bao gồm hết.
4) Cầu cơ cũng
không phải là chánh pháp, phần nhiều là do linh quỷ giả
mạo. Đối với chuyện Tăng, ni uống
rượu, ăn thịt th́ [bọn họ] chính là chủng
tử địa ngục c̣n chưa thể cứu
được chính ḿnh. Cớ sao lại viện vào hành vi
của bọn chúng để chỉ trích Phật giáo vậy?
5) Ngũ Huân (Ngũ Tân) th́ nước ta chỉ
có bốn thứ, tức hành, hẹ, kiệu, tỏi. Kiệu
chính là Tiểu Toán[27],
ở Tây Vực có Hưng Cừ, nước ta không có loại
ấy. Có kẻ cho Nguyên Tuy (Cilantro, ng̣ Tây) là một loại trong Ngũ Tân, đấy chính
là [tà thuyết] do ngoại đạo lập ra.
6) Tam Yếm[28]
là Thiên Yếm, Địa Yếm, Thủy Yếm. Thiên Yếm
chính là chim nhạn. Do chim nhạn có t́nh nghĩa vợ chồng
cho nên chẳng được ăn, đấy chính là thuyết
của Đạo gia. Trong Phật pháp, hết thảy các
thứ thịt đều chẳng được ăn;
sao lại chỉ có ba thứ ấy? Bọn họ bảo:
“Người già là Bạch Yếm, cớ sao lại thỉnh
Tăng để hệ niệm[29]
cho người chết?” Nói nhăng, nói càn, há nên nghe theo!
7) Niệm Phật nhớ
số là để ngừa giải đăi. Nếu không có
tâm giải đăi th́ không nhớ số cũng được.
Để nhớ số cũng có thể không dùng tới
tràng hạt. Lúc thoạt đầu nên dùng tràng hạt để
niệm [Phật] một tiếng đồng hồ, sau
đó niệm nhanh hay chậm đều giống như vậy.
Niệm một khắc, nửa tiếng, hay một tiếng
đều có thể biết được số câu niệm
Phật. Hơn nữa, cách niệm Phật nhớ số
trong Văn Sao là cách nhiếp tâm hiệu quả nhất, hăy
đọc sẽ tự biết.
8) Nếu có tượng
Phật, hăy nên hướng về Phật lễ bái. Không có
tượng Phật th́ lễ bái thầm trong tâm, hoặc
hướng về phương Tây lễ bái. Có
hương, đèn cố nhiên là tốt, nhưng không có
cũng chẳng sao! Tùy theo khả năng của từng
người mà làm, há nên chấp hẹp ḥi nơi pháp ư?
9) Kinh Kim Cang giảng về
pháp môn tâm địa, nên nói: “Phàm
hữu sở tướng, giai thị hư vọng” (Phàm
những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng).
Ông chẳng biết đọc những câu thuộc phần
trước hai câu ấy trong kinh văn, chỉ dựa vào
hai câu này để rồi nghi ngờ phép niệm Phật
văng sanh Tây Phương, chẳng biết có hữu tướng
tam-muội và vô tướng tam-muội. Phàm rất nhiều
kinh thuộc Bát Nhă Bộ[30]
cũng như những điều được nói trong
Thiền tông đều là dựa theo vô tướng tam-muội
để giảng rơ. Phàm các kinh Đại Thừa giảng
cặn kẽ về nhân tu nhân chứng quả và khai thị
niệm Phật cầu sanh Tây Phương th́ đều dựa
theo hữu tướng tam-muội để giảng rơ.
Ông hoàn toàn chẳng biết đạo lư thế gian, huống
hồ đạo lư xuất thế gian; nhưng vẫn tự
cho rằng ḿnh thông minh, bàn luận Phật pháp bừa băi!
Muốn chẳng chuốc lấy ác quả, há có được
chăng? Ông đă có Tịnh Độ Thập Yếu (sách
này rất sâu), Gia Ngôn Lục (sách
này rất nên đọc kỹ càng), sao
chẳng đọc kỹ mà cứ một mực coi những
lời lẽ vô tri vô thức của bọn ngoại đạo
là đúng vậy?
2. Đáp
lời hỏi của ḥa thượng Mộ Tây
1) Hỏi:
Thiên Phật Y có phải là tổ y [31]
thêu h́nh tượng Phật, c̣n Long Hoa Y là [ca-sa] thêu rồng
thêu hoa hay không, xin hăy rủ ḷng dạy bảo?
Đáp:
Thiên Phật Y tức là y do một ngàn vị Phật trong
Hiền Kiếp[32]
chế ra, tức là tổ y năm điều hay bảy
điều chúng ta thường đắp. Kẻ vô tri
không hiểu biết bèn thêu h́nh tượng Phật lên y, tội
đáng chết muôn vàn! Kẻ ngu chẳng biết tội lỗi,
ngược ngạo tưởng đó là sang trọng! Lại
c̣n thêu rồng, thêu hoa! Đường đường là một
vị tỳ-kheo lại học theo thói nữ nhân, tư
cách kẻ ấy chẳng đáng giá nửa đồng!
Điều thứ nhất trong tác phẩm Chánh Ngoa Tập
của Liên Tŕ đại sư đă luận về chuyện
này!
2) Hỏi:
Nuôi tóc dài, để móng tay dài, đeo khuyên bằng bạc,
bằng đồng, có phải là tướng Đầu
Đà hay chăng?
Đáp: Đầu
Đà là tên gọi của vị hành khổ hạnh. Hạnh
Đầu Đà gồm mười hai điều[33].
Người đời nay chẳng thể hành được,
lại lầm lạc đem tướng của ma
vương, ngoại đạo ghép vào, đáng than quá đỗi!
3) Hỏi: Người
bế quan niệm kinh, niệm Phật cho người khác
có phải là tà mạng hay không?
Đáp: Bế quan cần
phải có chánh niệm, chân thật niệm kinh, niệm Phật.
Nếu chuyên niệm cho thí chủ, chẳng biết chú trọng
nơi chuyện tu hành của chính ḿnh th́ có bị gọi là
tà mạng cũng đáng! Nếu chỉ dùng bế quan
để gạt gẫm kẻ khác cúng dường th́ sẽ
trở thành đại tà mạng vậy!
4) Hỏi: Có người
[suy nghĩ] quan pḥng (nơi để bế quan) này do vị
thí chủ nọ cúng dường, bèn niệm kinh để
báo đáp người ấy. Có thể dùng pháp bảo để
làm quà tặng được hay chăng? Hơn nữa,
tăng nhân v́ người khác xem kinh, đếm số quyển
[kinh ḿnh đă tụng] để tính giá trị, viết một
phiếu tụng kinh giao cho người ta, những tăng
nhân như vậy mắc những tội ǵ, người tục
gia có được phước ǵ?
Đáp: Người ta
tài thí, ḿnh dùng pháp thí [để đáp tạ] th́ cũng
không phải là không được. Nếu chẳng biết
Phật pháp, chuyên môn v́ người khác niệm kinh th́
cũng giống như cuốc đất tính công lănh tiền!
[Tụng kinh hay xem kinh] đă bị coi như là làm lụng
mà nếu lại c̣n thật sự chẳng xem, chỉ viết
một tờ phiếu ghi những kinh đă tụng để
làm bằng chứng th́ so ra chỉ có thể diện hơn
đánh cướp một chút, chứ thật ra là cùng một
loại dụ dỗ, lừa gạt! Niệm hay chẳng
niệm không nhất định, cung kính hay không cung kính
cũng không nhất định th́ làm sao có thể định
tội kẻ ấy cho được? Kẻ tại gia có
tâm chánh tín xuất tiền thỉnh niệm, dẫu cho
tăng nhân chẳng niệm, chỉ dùng một tờ phiếu
kê khai để lừa người ta th́ cũng chẳng
thể nói là [thí chủ] trọn không có công đức. Từ
nay chớ nên gởi thư đến nữa, tôi không có thời
gian và sức lực rảnh rỗi để bàn luận
những chuyện thừa thăi này!
3. Đáp
lời hỏi của cư sĩ Niệm Phật (tức cư sĩ Châu Mạnh Do)
[Cư
sĩ Niệm Phật hỏi]: Trong thư trả lời
cư sĩ Hương Nghiêm của Triệt Ngộ đại
sư có câu: “Hăy nên dùng ḷng tin
sâu xa để thấu hiểu sâu xa: Ngoài tâm không Phật,
ngoài Phật không tâm, toàn tâm chính là Phật, toàn Phật chính
là tâm. Nhất niệm hiện tiền th́ nhất niệm
tương ứng, niệm niệm hiện tiền th́ niệm
niệm tương ứng, chỉ nên giữ sao cho niệm
ấy thường hiện tiền th́ sẽ đạt
được hiệu nghiệm chân thật. Ĺa ngoài niệm
ấy ra th́ đừng cầu hiệu nghiệm, bởi
đă gián đoạn, chẳng thân thiết, liền đi
vào ngơ rẽ. Kinh dạy: ‘Tâm này làm Phật, tâm này là Phật’
chính là nói về ư này vậy!” Tuy con tin đoạn
văn dài này là mấu chốt cho sự tu Tịnh, nhưng
lời văn đảo đi, đảo lại, rườm
rà, chẳng dễ ǵ thấu suốt được lư. Nay
con kính cẩn tŕnh bày những điều nghi nan, ngưỡng
xin thầy rủ ḷng phân tích, giải thích cặn kẽ
để con nhờ vào đây vun bồi tịnh nhân th́ thật
là may mắn lớn lao!
1) “Ngoài tâm không Phật, ngoài Phật
không tâm, toàn tâm chính là Phật, toàn Phật chính là tâm”. Thế
nào gọi là tâm? Thế nào gọi là Phật? Nếu chỉ
giải thích sơ sài th́ “hiện tiền khởi niệm
là tâm”, chẳng biết có thích đáng hay chăng?
Đáp:
Cái tâm niệm Phật hiện tiền chính là tâm. Vị Phật
được niệm trong hiện tiền là Phật, tức
là vị Phật được tạo bởi tự tâm,
v́ thế nói: “Tâm này làm Phật,
tâm này là Phật”.
2) Bốn
câu này ư nghĩa có tương tự bốn câu “Sắc bất dị Không, Không bất
dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị
Sắc” của Tâm Kinh hay không?
Đáp: Sắc
- Không của Tâm Kinh so ra rộng răi hơn ư nghĩa “làm, là”
trong Quán kinh. “Làm, là” trong Quán Kinh càng thân thiết hơn “bất dị, tức thị”
(chẳng khác, chính là) của Tâm Kinh.
3) Đă
nói “ngoài tâm không Phật, ngoài Phật
không Tâm” sao lại nói “toàn
tâm tức Phật, toàn Phật tức tâm” là ư nghĩa
ǵ?
Đáp:
Hai câu sau giải thích lại ư nghĩa của hai câu trên.
4) Chữ
“niệm” trong “nhất niệm
hiện tiền” và “niệm
niệm hiện tiền” cùng với chữ Tâm trong “tâm Phật” ư nghĩa có giống
nhau hay không?
Đáp: Tâm và niệm chỉ
là một thứ. Chẳng qua ước theo sự thường
c̣n mà gọi là Tâm, ước theo sự hiện khởi mà
gọi là Niệm.
5) “Ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm...” bốn
câu này có phải là nói về Tánh Đức? C̣n “một niệm hiện tiền,
một niệm tương ứng…” bốn câu này có phải
là nói về Tu Đức hay chăng?
Đáp: Cả
hai đều là Tu Đức, bởi lẽ “ngoài tâm không Phật, ngoài Phật
không tâm” chính là điều sẽ đạt được
bởi công phu.
6) “Nhất niệm hiện tiền
th́ nhất niệm tương ứng…” bốn câu này th́
kẻ sơ cơ làm được hay phải là người
tu lâu mới làm được?
Đáp:
Sơ cơ có sự tương ứng của sơ
cơ, tu lâu có sự tương ứng của tu lâu, há nên
chấp chết cứng?
7) Tin sâu,
thấu hiểu chắc thật là nói kiểu viên dung.
Chưa đạt tới mức thấu hiểu chắc
thật, chẳng thể gọi là tin sâu! Nếu gọi là
tin sâu th́ sẽ thấu hiểu chắc thật. Nói theo thứ
tự th́ tin sâu dễ, thấu hiểu chắc thật là
khó. Chưa hiểu chắc thật, chẳng trở ngại
ǵ tin sâu; trong lá thư này, ngài Triệt Ngộ nói “tin sâu, thấu
hiểu chắc thật” là nói kiểu viên dung hay nói theo thứ
tự?
Đáp: Chẳng cần
phải phân biệt như thế, do chẳng biết ông ta
(tức cư sĩ Hương Nghiêm) thuộc hạng
căn tánh nào!
8) Phần trên nói “hăy nên tin sâu, thấu hiểu chắc
thật”. Phần dưới nói “chỉ nên giữ sao cho niệm ấy thường
hiện tiền th́ sẽ đạt được hiệu
nghiệm chân thật”, dường như có nghĩa là
sau khi đă tin sâu, thấu hiểu chắc thật th́ mới
có hiệu nghiệm chân thật?
Đáp: Đây là tin và
ngộ.
9) Như vậy là chỉ
nên giữ cho niệm ấy thường được hiện
tiền?
Đáp: Đấy là thực
hành.
10) Nhưng chưa
đủ ḷng tin sâu xa, hoặc chưa đạt đến
mức thấu hiểu chắc thật, dẫu cho niệm
ấy thường hiện tiền vẫn tự chẳng
thể có hiệu nghiệm chân thật ư? Nếu vậy
th́ người tin sâu, thấu hiểu chắc thật chẳng
có mấy ai, mà cũng chẳng thấy được nhiều
kẻ đạt được hiệu nghiệm chân thật
cho mấy!
Đáp: Chưa thể
tin hiểu mà thường hiện tiền như thế
cũng chẳng nhiều nhặn ǵ! Nhưng chất phác niệm
đến chỗ tột cùng th́ cũng có thể đạt
đến địa vị ấy!
11) Vợ chồng đệ tử
tập khí xấu xa sâu nặng, sửa đổi chẳng
dễ, do vậy sanh ra những đứa con hoang đàng,
biếng nhác, ngang ngạnh, phô trương, thật chẳng
có hy vọng ǵ chúng sẽ nên người. Con tính trong lúc
này, cứ nghĩ sẵn trước là chúng sẽ bị
đọa lạc trong tương lai, buông những hoài băo
xuống, tự điều chỉnh sao cho thích nghi. Nếu
quả thật sau này có ngày đọa lạc, ly tán th́ do
đă suy nghĩ kỹ càng, chín chắn, sẽ chẳng
đến nỗi hứng chịu phiền năo, tiếc hận
lớn lao. Lối nghĩ tưởng như thế có
đáng nên vâng giữ hay chăng?
Đáp:
Nên vâng giữ!
12)
Xưa kia Văn Chánh Công thường nói: “Phàm làm người kỵ nhất là lo nghĩ ngược
ngạo tới sự truân chuyên, trắc trở mai sau,
nhưng người đọc sách mắc bệnh này rất
nhiều, đấy đều là dấu hiệu chứng
tỏ bạc phước”. Lời nói ấy có đích
xác hay không?
Đáp:
Đích xác!
13) Lại
nữa, trong bài Gia Huấn của Lục Phóng Ông có câu: “Cư hương, dĩ khốn
úy, bất nhược nhân, vi triết[34]”
(Sống trong làng th́ phải khôn ngoan xử sự bằng
thái độ ta là kẻ kém cỏi, e dè, chẳng bằng
ai). Nên giải nói như thế nào, xin thầy khai thị?
Đáp:
Đă biết ta kém cỏi, biết e dè, đă biết ta chẳng
bằng người, sao dám cùng người khác tranh căi? Kẻ
nào tranh căi đều không có ba tâm ấy.
14) Đệ
tử thường mộng thấy niệm Phật bay lên,
thường bị một căn nhà trên đỉnh lợp
toàn bằng pha lê ngăn trở, hễ thân thể bay lên th́
căn nhà ấy và lớp pha lê phủ trên nóc đều
cùng bay theo. Con muốn vượt thoát ra khỏi lớp pha
lê ấy để vùng vẫy trong hư không liền chẳng
được như ư, chưa biết là nghiệp chướng
ǵ?
Đáp:
Giấc mộng ấy cũng chẳng dễ có. Nếu
vượt thoát ra được th́ tốt, Nhưng chỉ
nên nhất tâm niệm Phật, chớ nên chuyên mong tưởng
thực hiện được giấc mộng ấy
để khỏi do lợi ích mà đâm ra bị tổn hại.
15) Có
người cho rằng “khuyên
người niệm Phật cầu sanh là Chủ (chánh yếu),
c̣n tự ḿnh tu là Trợ”;
có người nghĩ “tự tu
là Chủ, khuyên người khác là Trợ”. Cả hai
đều phát xuất từ ḷng chí thành, nhưng công đức
nào vượt trỗi hơn?
Đáp:
Quan điểm sau tốt hơn quan điểm trước.
16) Một
vị Tăng nói đến nhân quả, chăm lo chùa miếu,
v́ nhằm lợi lạc tứ chúng mà tịnh tu, nhưng ư
niệm ta - người, lợi danh khá nặng. Một vị
Tăng khác nghiêm tŕ giới hạnh, chuyên niệm Phật,
hồi hướng cầu cho các chúng sanh sẽ được
văng sanh, ư niệm ta - người, lợi danh rất nhẹ,
[so ra hai người ấy] hơn - kém ra sao?
Đáp:
Người sau trỗi hơn.
17) Hành giả
lâm chung sanh Tây, cưỡi đài hoa sen
th́ ngồi, hay quỳ, hay đứng?
Đáp:
Ngồi.
18) Có lúc
muốn làm một chuyện, tự cảm thấy dường
như cũng mang ḷng từ mẫn, mà h́nh như cũng ôm
ḷng ghen ghét, hoặc là mang ḷng hâm mộ quyền thế,
tham lợi. Chẳng làm th́ sợ tổn hại đến
ḷng từ mẫn, làm th́ sợ đọa vào t́nh kiến,
ngay trong lúc ấy chẳng tự biết ư niệm là thiện
hay ác, là nặng hay nhẹ! Lại chẳng thể cân nhắc
sự duyên lợi - hại, hoăn - gấp. Lại không có thiện
tri thức để quyết đoán th́ nên xử trí
như thế nào là hay nhất?
Đáp: Gặp
chuyện, nên lấy nghĩa làm chuẩn. Nếu không, sẽ
trở thành người không có chủ ư ǵ hết!
19) Con trộm
thấy có tăng sĩ chưa từng phải lo liệu
[xây cất] chùa miếu, ư vẫn cho rằng nếu hoàn
thành được một ngôi chùa để tự lợi,
lợi tha, bèn có thể chuyên tâm niệm Phật, một dạ
sanh Tây. Đến khi nhân duyên hợp đủ, chùa miếu
đă hoàn thành, dần dần lại tham mến chùa miếu,
mưu tính tích cóp sản nghiệp, nắm níu quẩn quanh,
chần chừ, lầm lỡ chuyện văng sanh. Đấy
mới chỉ là nêu một trường hợp làm thí dụ.
Những kẻ khác th́ muốn thông giáo lư, trở thành nhà
trước tác, và kẻ thế tục th́ mong cầu nhà cửa
dư dả, con cháu hiển đạt v.v… Những điều
này đều là đệ tử tự lượng thân phận,
sợ sẽ giẫm theo vết xe đổ, nguyện tùy
duyên niệm Phật chẳng mong tạo tác. Tuy chưa
đạt đến mức ấy, nhưng thật ḷng muốn
gắng công, có được hay chăng?
Đáp:
Được.
20)
Xưa kia tại Thượng Hải, đứa con gái thứ
ba của con chết yểu, đau tiếc không sao nguôi
được, do vậy tạm làm công đức cho cháu.
Tiếp đó được thầy ban lời an ủi,
khuyên nhủ, bảo là “nương nhờ sức Tam Bảo,
con gái ông sẽ được sanh Tịnh Độ”.
Đệ tử liền quyết định tin tưởng
chẳng nghi, thôi than khóc v́ chuyện “lá vàng” [phải khóc cho
lá xanh] nữa, nỗi buồn nhanh chóng ngưng dứt.
Trong Lâu Các Chú Kinh[35]
có dạy: “Chép chú ngữ này
để lên thân người chết, người chết
liền được sanh về Tịnh Độ”.
[Do vậy], con thường in những tấm chú này tặng
cho thân hữu để họ dùng kèm thêm trong đồ liệm.
Cũng có kẻ sanh ḷng tin quyết định, nói: “Người
ấy ắt sanh Tịnh Độ, chẳng khởi tâm niệm
ngờ vực”, tâm thật mừng vui an ủi. Có kẻ chẳng
tin th́ nguyện dùng công đức tu tŕ, đủ mọi
phương tiện khiến cho họ sanh ḷng tin tưởng
kiên cố, cùng được thấm nhuần lợi ích
nơi mặt pháp. Dụng tâm như thế có phải
cũng là một phương pháp tự độ, độ
tha, chân thật thọ dụng hay chăng? Không rơ con làm
như vậy có bị lệch lạc, sai lầm hay
chăng?
Đáp:
Chú lực chẳng thể nghĩ bàn, tâm lực chẳng thể
nghĩ bàn. Nếu tặng cho kẻ hờ hững, hời
hợt th́ lợi ích cũng sẽ bị giảm nhẹ
theo!
21) Công
khóa hằng ngày của đệ tử là niệm Phật
hai tiếng, niệm Quán Âm một tiếng, hễ bận
th́ ngưng niệm Quán Âm. Bữa nào tâm cảnh thanh tịnh
th́ niệm Phật tương ứng nhất (đối
với chữ Ứng (應), đệ tử chuyên đọc
theo giọng Khứ Thanh, bản khắc kinh Hoa Nghiêm ở
Hàng Châu ghi đọc theo giọng B́nh Thanh (tức Ưng),
chưa biết đọc theo cách nào đúng hơn?)
Đáp:
Đọc B́nh Thanh (tức Ưng) th́ có nghĩa là tâm và Phật
tương ứng, đọc giọng Khứ Thanh (Ứng)
th́ có nghĩa là cảm ứng đạo giao. Hai âm ấy
đọc theo cách nào cũng được.
22) Gặp
phải hôm sợ hăi, tham - sân - si lừng lẫy, con đem
hai tiếng đồng hồ niệm Phật đổi hết
thành niệm Quán Âm, c̣n ngày nào sợ hăi v.v… đều tiêu
tan th́ vẫn niệm Phật hiệu, có được hay
chăng?
Đáp:
Được!
23)
Xưa kia con được thầy rủ ḷng Từ dạy
cho cách đọc kinh: Thân phải ngồi ngay ngắn
như đối trước thánh dung, đích thân nghe viên
âm, chẳng dám manh nha một ư niệm giải đăi, khởi
một ư niệm phân biệt nào! Từ đầu đến
cuối đọc thẳng một lượt, bất luận
dù văn hay nghĩa đều nhất loạt chẳng bận
tâm đến. Duyệt kinh như thế th́ người lợi
căn sẽ có thể ngộ được lư Nhị
Không[36],
chứng được pháp Thật Tướng. Dẫu là
kẻ căn khí ngu độn kém cỏi cũng tiêu trừ
nghiệp chướng, tăng trưởng phước huệ.
Nếu cứ một mực phân biệt câu này nghĩa
như thế nào, đoạn này nghĩa ra sao th́ sẽ hoàn
toàn là phàm t́nh vọng tưởng, ḍ đoán, suy lường,
làm sao có thể ngầm thông ư Phật, viên ngộ ư chỉ
của kinh để nhân đấy nghiệp chướng
tiêu diệt, phước huệ tăng trưởng? Đệ
tử cho rằng đoạn huấn thị này có lẽ là
vô thượng diệu pháp để duyệt kinh. Nhưng
nói: “Chẳng khởi phân biệt,
dù văn hay nghĩa đều nhất loạt chẳng bận
tâm đến” có phải là dốc cạn ḷng thành kính,
nhận biết văn tự cho rơ ràng, âm thanh niệm đọc
cho thuần thục trọn vẹn giống như các bà cụ
già niệm kinh hay chăng? Bởi lẽ trước
đây đệ tử hay lo ra, nếu chiếu theo cách
đọc không phân biệt chẳng quan tâm đến
văn nghĩa th́ chắc là sẽ khó thể tâm đắc,
chẳng sanh pháp hỷ. V́ thế, mỗi khi con đọc
A Di Đà Kinh, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, liền
miệng tụng, chú tâm nơi sự trang nghiêm của cơi Cực
Lạc, sự từ bi của đức Phổ Hiền
tràn ngập cơi ḷng, pháp hỷ tràn trề. Kế đó, con
nghĩ cách đọc như vậy chưa chắc đă
khỏi rớt vào lối ṃn phàm t́nh vọng tưởng,
ḍ đoán, suy lường. Dẫu cho có sở đắc nhỏ
nhoi, nhưng ví như đối với nước bốn
biển mênh mông bát ngát lại dùng tay vốc nước,
đâm ra chỉ được một chút tẹo, đúng
như thầy đă dạy “làm sao có thể ngầm hợp
ư Phật, viên ngộ ư chỉ của kinh” cho được!
Đáp: Nếu
văn lẫn nghĩa đều rơ ràng th́ hiểu rơ [từng
câu, từng đoạn] đâu có trở ngại ǵ! Chỉ
là chớ nên đặc biệt sanh tâm động niệm
muốn thấu hiểu, chứ không phải là chỉ
đọc, không được phép hiểu rơ!
24) Con lại
thấy một vị Tăng nhận biết mặt chữ
nhưng không hiểu ư, tŕ tụng kinh Pháp Hoa nhưng ḷng vui
sướng tràn ngập nơi mặt mũi, đủ biết:
Sanh được pháp hỷ hay không chẳng chuyên liên quan
tới chuyện có hiểu rơ văn nghĩa hay không! Nếu
có thể dùng tâm cung kính, tâm từ bi, chẳng khởi tâm
phân biệt, chẳng bận tâm thấu hiểu văn
nghĩa, cứ thẳng thừng mà đọc, tự nhiên
sẽ đạt được lợi ích chân thật,
tăng trưởng pháp hỷ. Ư con tính sau này cứ chiếu
theo cách đọc ấy, hồi hướng Bồ Đề;
chẳng biết là có trái nghịch, sai khác với ư chỉ
ban đầu của lời thầy dạy hay chăng?
Đáp:
Người thông minh trong thế gian phần nhiều là tâm
thường cố thấu hiểu. Đối với
nghĩa lư th́ được, chứ đối với pháp
hỷ sẽ khó đạt được lắm!
25) Thêm nữa,
giữa đọc và tụng[37]
th́ công đức nào lớn hơn?
Đáp:
Khổng Tử đọc kinh Dịch, ba lượt đứt
lề sách. Đọc sẽ có ích hơn [tụng] nhiều.
Nếu không, sao Khổng Tử lại nhọc nhằn mở
sách ra đọc như thế. Trong câu “đứt lề sách ba lượt” th́ [chữ “lề
sách”] chỉ cho sợi dây bằng da để buộc các
phiến gỗ hay các thẻ tre[38].
Dây đă bị đứt ba lần tức là số lần
mở sách ra đọc chẳng thể đếm
được số!
26) Phần trường
hàng của phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện thường
được ghép trong Phật Học Nguyện Văn (“như
thị Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na, như thị tận pháp
giới, hư không giới” (Như nay đức Thế
Tôn Tỳ Lô Giá Na, trọn hết pháp giới, hư không giới
như thế) v.v….) nếu chấm
câu th́ nên chấm sau chữ Tỳ Lô Giá Na hay là chấm sau
chữ “như thị”?
Đáp: Tám chữ đầu
là nêu thí dụ, hai chữ “như thị” là tiếp nối
ư trên.
27) Lại nữa, trong
sách [Phổ Hiền] Hạnh Nguyện Phẩm Tập Yếu
Sớ, cụ Đế Nhàn viết rằng: “Đối với câu kệ tụng
‘nguyện ngă lâm dục mạng chung thời’ (nguyện con
lúc mạng sắp chấm dứt) nếu đổi hai chữ
‘nguyện ngă’ thành ‘thị nhân’ (người ấy) th́ [ư
nghĩa] càng thêm rơ rệt”. Con trộm nghĩ nếu sửa
như thế có lẽ th́ đối với hai câu “ngă kim hồi hướng chư
thiện căn, vị đắc Phổ Hiền thù thắng
hạnh” (con nay hồi hướng các căn lành, để
được hạnh Phổ Hiền thù thắng) trong phần
trên và câu “ngă thời ư thắng
liên hoa sanh, hiện tiền thọ ngă Bồ Đề kư”
(khi ấy, con sanh trong hoa sen tươi đẹp, ngay trong
lúc ấy được Phật thọ kư cho con sẽ
thành Chánh Giác) trong đoạn này, hai chữ Ngă đều
chẳng thông suốt với nhau! Hơn nữa, theo phần
Trường Hàng, khi lâm chung do nhờ sức tụng kinh,
nương theo sức dẫn dắt của Nguyện
Vương mà văng sanh Cực Lạc, liền thấy Phật
Di Đà. Trong kệ tụng nói diện kiến Di Đà liền
sanh về Cực Lạc, [nếu đổi chữ “ngă nguyện” thành “thị nhân” th́] tựa hồ
như đă đẩy cái này lôi cái kia (chữ “đẩy”
ở đây h́nh dung ư “gượng ép”)
sao cho ư trong lẫn ngoài được khớp nhau. [Con cho
rằng]: Nhằm rốt ráo làm cho hành giả mong mỏi
được Phật Di Đà tiếp dẫn, cho nên nói
hai chữ “ngă nguyện”. Con
nghĩ giữ nguyên chữ [như trong chánh kinh] so ra thỏa
đáng hơn. Kiến giải của con hèn tệ như
thế, chẳng biết có thích đáng hay chăng?
Đáp: Ư này tuy do ngài
Thanh Lương đề ra, nhưng chẳng phù hợp với
kinh văn, đấy là ư phụ chứ không phải ư
chánh. Nếu coi đấy là ư nghĩa chánh yếu sẽ trở
thành trái nghịch kinh, chớ nên theo. Hễ theo sẽ phạm
lỗi!
28) Gần đây đệ
tử thường dựa theo phẩm Tịnh Hạnh
[trong kinh Hoa Nghiêm] để phát nguyện, chỉ là gặp
cảnh chạm sự liền niệm thầm “xin nguyện
chúng sanh sẽ như thế này, thế nọ”. Chỉ cần
niệm một lần hoặc là tùy ư tùy sức niệm
liên tục chẳng quan tâm đến số biến. Lại
nữa, nếu chẳng hiểu rơ ư nghĩa nguyện
văn lắm th́ có thể dựa theo bài văn để
đọc hay không?
Đáp: Pháp tu tŕ trọn
chẳng nhất định. Người chuyên niệm Phật
sao không do cơ duyên, do hoàn cảnh mà niệm. Lời
văn phát nguyện th́ tùy ḷng ưa thích, chớ nên chấp
bài này, chê bai bài kia, chấp bài kia, chê bai bài này là được
rồi!
29) Năm trước
con được thầy từ bi khai thị, bảo
đệ tử tuổi đă gần năm mươi rồi,
chớ nên nghiên cứu kinh, chỉ nên chết ḷng niệm
Phật để mong văng sanh. Từ đấy con chẳng
đổ công sức nghiên cứu nữa; chỉ có điều
gần đây mở xem Đại Trí Độ Luận, Tử
Bách Tập, các sách ấy giúp mở rộng tầm mắt,
cảnh tỉnh, răn nhắc thân tâm khá nhiều. Nhưng
ngoài lúc lễ tụng trong thời khóa chánh yếu ra, có nên
nhân lúc rảnh rỗi xem đọc thêm đôi chút những
loại kinh luận ấy hay không, hay là nhất loạt
ngưng xem th́ mới nên?
Đáp: Tu tŕ không phải
là chuyện đóng đinh, đẩy mái chèo, cần phải
sống động, hoạt bát, tuy chết ḷng niệm Phật,
nhưng xem thêm đôi chút kinh luận cũng chẳng phải
là không được. Nhưng nếu coi Chủ Hạnh (hạnh
chánh yếu) như chuyện kèm thêm th́ sẽ trở thành tu
tŕ không có chỗ nương tựa. Tử Bách Tập tuy
là cảnh sách, nhưng [những lời dạy của ngài
Tử Bách] chú trọng nơi tham cứu; sao không dụng
tâm nơi Tịnh Độ Thập Yếu? Ông cho rằng
Tịnh Độ Thập Yếu chẳng có ích lợi sâu
xa cho con người bằng Tử Bách Tập ư?
4. Đáp
lời hỏi của ông Trác Trí Lập
Hỏi:
Pháp môn Tịnh Độ đă có thể thích hợp khắp
ba căn, thâu tóm trọn vẹn lợi căn lẫn độn
căn. Trong thời đức Phật tại thế, sao
không chuyên nói về Tịnh Độ để vạn pháp
quy nhất, cùng về theo một đường, mà lại
giảng bàn các tông, đâm ra khơi gợi lắm mối
sai lầm đi vào ngơ rẽ khiến người đời
sau bị mất lợi ích thật sự nơi Tịnh
Độ vậy? (Trong lời hỏi, bên cạnh câu
“sao không chuyên nói về Tịnh Độ”, Sư đă phê:
“Nói nhăng, nói càn!”)
Đáp:
Nuôi người chẳng phải chỉ một thứ gạo,
trị bệnh chẳng phải chỉ có một thứ
thuốc. Do có các môn th́ mới tỏ rơ sự hay tuyệt của
pháp môn này. Nếu chỉ có một
pháp Tịnh Độ th́ làm sao có thể dẫn hết thảy
những cơ nghi cùng vào trong Phật pháp được?
Hỏi:
Thế tục chuyên coi niệm Phật là để tiễn
người chết, c̣n niệm Quán Âm nhằm giữ lại
mạng sống. V́ thế, kẻ tu Tịnh Độ
chưa tinh ṛng và người chưa già khi lâm chung phần
nhiều do luyến tiếc cơi đời liền niệm
Quán Âm. Người trợ niệm phần nhiều ngả
theo ư này hoặc thuận theo ư muốn của gia quyến
cũng niệm Quán Âm để trợ niệm, chứ
không niệm Phật. Nếu lành bệnh th́ cố nhiên không
áy náy ǵ. Chứ nếu không, đă gây trở ngại cho sự
linh cảm do xưng danh, mà c̣n làm lỡ làng cơ duyên sanh
Tây. Con chẳng biết nếu gặp phải hạng
căn tánh ấy phải nên dùng biện pháp ra sao th́ mới
viên thông? Có phải là trước hết niệm Quán Âm
để giữ tánh mạng cho họ rồi đến
khi họ đă chết bèn chuyển sang niệm Phật
để tiễn đi hay chăng? Hoặc là từ đầu
đến cuối chuyên niệm Quán Âm cũng có thể khiến
cho người chưa hết tuổi thọ sẽ
được lành, tuổi thọ đă hết sẽ sanh
về Tây Phương ư?
Đáp:
Con người bị bệnh nặng liền hăy nên có ư
tưởng văng sanh, nhất tâm niệm Phật. Nếu tuổi
thọ chưa hết sẽ do niệm Phật mà được
chóng lành (A Di Đà Phật chính là Vô Lượng Thọ,
nghĩa là tiêu tai, kéo dài tuổi thọ). C̣n như v́ người khác trợ niệm, há nên v́
họ niệm Quán Âm, lại c̣n cầu thọ cho người
ấy? Cứ niệm Phật, chưa hết tuổi thọ
cũng có thể kéo dài mạng sống. Niệm Quán Âm th́
không có tâm cầu được văng sanh. Nếu tuổi thọ
đă hết sẽ làm hỏng chuyện. Không phải là Niệm
Phật sẽ nhất định chết, niệm Quán Âm
nhất định chẳng thể văng sanh. Chỉ v́ kẻ
si không có tâm niệm cầu được văng sanh nên
cũng chỉ tạo thành một thứ nghiệp cảm
gây hỏng chuyện mà thôi! Vô Lượng Quang là tiêu tai, Vô
Lượng Thọ là diên thọ (kéo dài tuổi thọ). Niệm
A Di Đà Phật công sức đến cùng cực c̣n
được thành Phật, há lẽ nào niệm Phật chẳng
thể kéo dài tuổi thọ, khiến cho chóng chết
ư? (Trong lời đáp, bên cạnh hai chữ “si
nhân”, Sư gạch dưới ba vạch để nhắc
nhở, những người sẽ chết sau này chớ
đừng tự lầm)
Hỏi:
Gần đây có người khuyên kiêng giết, nhưng do
thấy người ta khó tránh giết, bèn dạy hăy dùng thuốc
gây mê để giết, ngơ hầu loài vật khỏi phải
chịu chết đau đớn, giống như cầu
giảm tội chém thành tội thắt cổ. Pháp ấy
cũng có thể được gọi là pháp phương
tiện hay chăng?
Đáp:
Chỉ có thể giảm khổ th́ cũng tốt.
Hỏi:
Theo sách Thái Ất Thần Châm, châm xong phải uống
rượu! Người giữ giới không uống rượu
th́ tự ḿnh chớ nên áp dụng, nhưng có thể bảo
người khác dùng rượu hay không? Cũng như có thể
dùng rượu để chế thuốc hay chăng?
Đáp:
Đây cũng không phải là cách chấp nhặt hẹp
ḥi. Hễ có bệnh th́ niệm Phật hay niệm Quán Âm
cũng đều được lành; huống hồ nếu
không dùng rượu th́ [bệnh nhân] chắc chắn chẳng
thể lành bệnh ư?
Hỏi:
Dùng gạo thóc làm rượu, biến thực phẩm cứu
đói thành thức uống xa xỉ, quả thật là kẻ
phung phí vật thực của trời quá mức. Nếu trên
thế giới đều cấm uống rượu hết
th́ sẽ dôi ra được bao nhiêu là lương thực
cứu đói. Như vậy th́ uống rượu không chỉ
làm loạn tánh mà thôi. Do vậy, nếu khi cả nhà đều
kiêng rượu th́ có nên hủy hết những đồ
để uống hay chứa rượu trong nhà hay
chăng?
Đáp:
Điều này cũng chớ nên chấp chết cứng. Nếu
là món đồ vô dụng cho cả cơi đời th́ làm
như vậy được. Nếu hữu dụng, tặng
cho người khác đâu có ngại ǵ!
Hỏi:
Người ăn chay trường kiêng cả rượu
và Ngũ Tân, tông chỉ của chuyện ấy chẳng nhằm
chỉ để tạo ra đầu mối kiêng giết
chóc. Kẻ chưa ăn chay trường có được
phép thay mặt người khác mua Ngũ Tân và rượu
cùng hèm được chăng? Cũng như có được
ăn các món thuốc chay chế từ rượu hay từ
hèm và những món chay nấu nướng, nêm nếm với
hèm hoặc rượu hay chăng?
Đáp:
Mua giùm người khác cũng nên tránh. Những loại thuốc
chế bằng rượu nếu chẳng gây loạn tánh
th́ không sao. Nếu món chay mà hơi rượu quá nồng
th́ đừng nên ăn, c̣n có mùi nhẹ th́ ăn không sao;
đấy là v́ để khỏi bị say sưa loạn
tánh vậy!
Hỏi:
Dùng con vật c̣n sống để làm thuốc, bèn niệm
Phật cho chúng được độ thoát. Làm như vậy
dường như vẫn tạo thành thói tệ, bởi những
kẻ giết những động vật thuộc loài thai
sanh hay noăn sanh làm dược phẩm cũng có thể
mượn cớ niệm Phật giải oan để lấp
liếm, con cảm thấy khó ḷng giải nói được.
Con lập nguyện hễ gặp những phương thuốc
như vậy đều không thèm dùng tới, chẳng cần
phải lưu truyền, chưa biết có được
hay chăng? (bên cạnh chữ “được”,
Sư khuyên một chấm, biểu thị đồng ư)
Đáp:
Chuyện này cũng chớ nên chấp chết cứng!
Chúng ta chỉ nên giữ ḷng Thành của chính ḿnh mà thôi!
Hỏi: Nếu
thầy thuốc gặp phải kẻ ác và đồ tể,
chài lưới, thợ săn v.v… mang bệnh đến
xin chẩn trị, ta dạy họ sửa ác, kiêng giết,
họ không chịu nghe, lành bệnh rồi vẫn [tiếp
tục] tạo tội nghiệt, có nên mặc kệ họ
không chữa hay chăng?
Đáp:
Đây cũng là bàn chuyện vô lư. Như lời ông nói th́
đối với con vật gây tổn hại đến
những con vật khác th́ cũng mặc kệ không cứu
mới là đúng! Nếu thầy thuốc dùng ḷng Thành để
cảm th́ bọn họ chắc cũng sẽ có thể
thay đổi nghề nghiệp. Đức Phật c̣n dạy
kẻ đồ tể nhận lănh các giới riêng, [nh́n vào
đó] th́ có thể biết được cách tùy cơ khuyến
hóa, dẫn dắt của đức Phật.
Hỏi:
Trong nhà c̣n giữ những sách của ngoại đạo
hoặc những sách tà - chánh hỗn loạn và sách của
đạo Gia Tô, Tam Quan Kinh[39],
Táo Quân Kinh, Huyết Bồn Kinh và những sách thuốc dạy
người giết chóc bằng phương cách đặc
biệt v.v… có nên đốt hết đi hay chăng? Lại
c̣n trong những sách chú giải Tứ Thư của Châu Hy
có những lời lẽ báng Phật có nên bôi đi hay là sửa
chữa? Đối với lời văn báng Phật của
Hàn - Âu có nên tùy theo sở kiến mà phê phán hay đốt
đi hết? (Bên cạnh tên hai kinh Táo Quân, Huyết Bồn,
Sư phê chữ “bôi đi”)
Đáp:
Đối với những chỗ sai bậy trong lời
chú giải của họ Châu nên phê theo lối Đảnh
Cách (lời phê viết bên phải câu văn ấy, cao
hơn một ḍng). Phàm những sách vở thế gian đa
phần mắc phải khuyết điểm ấy. Nếu
xét trên đại thể, [nội dung sách] phần lớn
là tốt đẹp, vấp phải những lỗi nhỏ
nhặt th́ hăy phê theo lối Đảnh Cách. C̣n sách phạm
khuyết điểm quá lớn hay nói bậy th́ chớ nên
giữ làm ǵ!
Hỏi: Những
y phục có in chữ, hoặc h́nh tượng Phật v.v…
có được dùng làm đồ liệm hay chăng? (Sư
phê bên cạnh “không được”).
Có nên đốt kinh điển cho người đă mất
hay không? (Sư phê bên cạnh “đừng đốt bừa
băi”)
Đáp: Nếu
đốt th́ nên sắp đặt dụng cụ để
đốt riêng, chớ nên đổ lẫn tro kinh vào tro giấy
tiền vàng bạc để bán[40].
Hăy nên đựng [tro kinh] vào túi riêng, dùng vải sạch may
thành đăy, bỏ thêm cát sạch vào trong ấy. Có ai ra biển
th́ [nhờ người ấy] gieo [đăy đựng tro kinh
ấy] xuống chỗ sâu. Nếu không, đừng đốt.
Nếu chẳng bỏ thêm cát [vào đăy chứa tro kinh], sợ
nó không ch́m, sẽ trôi tấp vào bờ!
Hỏi:
Thần có thể giết được kẻ đă làm
ác, sao không giết trước khi nó làm như thế.
Như sau khi Bạch Khởi[41]
chôn quân đầu hàng đến mấy vạn rồi mới
bị tru lục ở Âm Phủ. Khi hắn sắp chôn sống
[quân Triệu ra hàng] nhưng chưa kịp làm, sao không tru lục
ngay để hắn khỏi chôn vùi được ai? Hay
là những tên lính ra hàng ấy đời trước vốn
thiếu nợ hắn cái mạng nên mới bị chôn sống?
Chôn xong, oán cũ vừa xóa, oán mới lại kết, nên mới
bị cơi Âm tru lục để hả ḷng oán đấy
chăng? Hay là làm ác giống như uống thuốc độc,
ắt phải đợi uống vào bụng xong mới bị
trúng độc tự chết?
Đáp:
Chưa làm mà đă bị giết th́ trong ngàn trăm vạn
trường hợp mới có một trường hợp.
Đă làm rồi mới giết th́ đấy chính là thường
pháp theo thiên lư nhân t́nh vậy.
Hỏi:
Nếu bảo là thần thánh có thể hộ pháp th́ sao lại
đến nỗi có nhiều chùa bị vua này vua nọ hủy
diệt. Nếu bảo là thần không hộ pháp th́ sao lại
thường có những sự tích hiển hiện linh ứng,
dẹp ma? Có phải là hộ pháp hay không hộ pháp đều
là do nghiệp lực đồng phận của chúng sanh
chiêu cảm sâu hay cạn mà bèn hộ pháp hay không đó
chăng?
Đáp: Chuyện này chớ nên chấp
chết cứng. Ấy là do pháp vận thông hay tắc,
cũng như trong một năm nóng - lạnh thay phiên nhau
theo thứ tự vậy.
Hỏi:
Lịch đại tổ sư như chư tổ của
Liên Tông v.v…sau khi đă khuất, được người
ta b́nh luận, phán định ra sao th́ mới được
cả cơi đời tôn sùng là Tổ?
Đáp:
Có đức lớn th́ người ta tự chịu suy
tôn, há cứ nên chấp hẹp ḥi là cần phải có
người b́nh luận, đánh giá hay chăng?
Hỏi:
Học thuyết trong thuật Địa Lư[42]
quá phiền, tinh thông thuật ấy chẳng dễ. Địa
Lư chẳng tinh tường th́ dẫu chọn đất vẫn
chẳng chọn được. Chọn lựa đất
tinh tường, nhưng chẳng chọn tinh tường
cái tâm, rốt cuộc đến nỗi biến cát thành
hung th́ tuy chọn được vẫn giống như
chưa được! Đấy gọi là “nếu không có tâm điền th́
cũng chẳng có phước địa”. Thế tục
chỉ nói đến Địa Lư, chẳng nói tới Thiên
Lư. Chỉ lo Phong Thủy bị tổn thương, chẳng
lo báo ứng không sai. Hễ gặp chuyện ǵ trái ư bèn
đổ thừa Địa Lư chẳng tinh tường,
lo cái kia gây trở ngại cho cái này, vô sự sanh sự,
luôn luôn ươm thành những tấn tuồng xấu ác,
quên gốc chạy theo ngọn, đâu đâu cũng đều
như thế cả! So ra, [hoàn cảnh của] những kẻ
không nhắc đến Thiên Lư c̣n tệ hơn kẻ không
nói đến Địa Lư quá nhiều! Người thờ
Phật ngăn chặn thói tệ từ lúc nó mới chớm
nẩy, tận lực uốn nắn những thói toan tính tệ
hại của thế tục. Nếu gặp chuyện xây mồ,
cất nhà, có nên tùy duyên chọn vị trí thích hợp, hay chỉ
y theo Phật lư, giữ thiên lư, chẳng theo lư lẽ thế
tục để nói đến Địa Lư hay không?
Đáp:
Tuy chẳng ra sức nói tới, cũng chớ nên hoàn toàn
chẳng để cho thầy Địa Lư xem qua. Đấy
gọi là “trọn hết chuyện con người trước
đă!” Nếu quanh năm nuôi nấng cung phụng gă thầy
Địa Lư có mắt như mù th́ sẽ đều là hạng
người cuồng vọng, chẳng tuân theo thiên lư, chẳng
hiểu rơ Địa Lư.
Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tam Biên,
Quyển 4,
Phần 2 hết
[1] Lục phàm: Lục đạo, tức
trời, người, A Tu La, súc sanh, ngạ quỷ, địa
ngục.
[2]
Thái Thủ (太 守,
thường bị đọc trại thành Thái Thú) là một
chức quan đă có từ thời Chiến Quốc. Thoạt
đầu, mỗi nước được chia ra thành một
khu vực hành chánh gọi là Quận. Vị trưởng
quan đứng đầu một quận, nắm quyền
hành chánh lẫn quân sự được gọi là Quận
Thủ (郡 守).
Đời Hán đổi Quận Thủ thành Thái Thủ. Tới
thời Đông Hán, vua chia nước ra thành từng châu,
người đứng đầu một châu gọi là
Châu Mục (州 牧) hoặc
Thứ Sử (刺 使),
đặt chức Thái Thủ thấp hơn Châu Mục một
cấp; nhưng ở những châu thuộc vùng biên địa
như Giao Châu, Nhật Nam, Thái Thủ lại là chức quan
cao nhất. Từ thời Tùy trở đi, không c̣n Quận
nữa, chức Thái Thủ không c̣n, nhưng người
đứng đầu một thành phố lớn như
Hàng Châu vẫn được dân chúng quen gọi là Thái Thủ.
[3] Ô Khoa Đạo Lâm (741-824), người đời
Đường, thuộc ḍng Thiền Ngưu Đầu, họ
Phan (có thuyết nói là họ Ông), tên lúc nhỏ là
Hương Quang. Xuất gia năm chín tuổi, năm 21 tuổi
đến Kinh Châu (tỉnh Hồ Bắc) thọ Cụ Túc
Giới ở chùa Quả Nguyện. Về sau theo học
kinh Hoa Nghiêm, Đại Thừa Khởi Tín Luận với
pháp sư Phục Lễ ở chùa Tây Minh tại Trường
An. Sau Ngài khế ngộ tâm yếu nơi pháp sư Đạo
Khâm rồi quay về Nam, thấy núi Tần Vọng có cây
tùng mọc um tùm như cái tàn, bèn sống ở đó.
Người thời ấy bèn gọi Ngài là Ô Khoa thiền
sư (Khoa (窠) là
cái ổ, sách Thuyết Văn Giải Tự giảng: “Hang
ổ gọi là Khoa, tổ chim gọi là Sào”). Do có nhiều
loại quạ làm tổ nơi ấy, nên Ngài c̣n được
gọi là Ô Sào thiền sư. Ông Bạch Cư Dị hỏi
đạo nơi Ngài, tâm phục khẩu phục, bèn dựng
căn gác bằng trúc cho Ngài ở để tiện hỏi
đạo, nơi đây về sau thành chùa Quảng Hóa. C̣n
có truyền thuyết nói lúc Ngài sanh ra bị cha mẹ bỏ
rơi, được quạ nuôi nên gọi là Ô Sào thiền
sư. Đây có lẽ là lời đồn bịa đặt
v́ không thấy Cảnh Đức Truyền Đăng Lục
chép như vậy.
[4] Pháp Thân, Bát Nhă, Giải
Thoát.
[5] Cháo Lạp Bát (Lạp Bát Chúc)
là một loại cháo được ăn trong các tự viện
vào ngày mồng Tám tháng Chạp Âm lịch (Lạp Bát
nghĩa là mồng Tám tháng Chạp). C̣n gọi là Ngũ Vị
Chúc, Hồng Tao, Thất Bảo Chúc, hoặc Phật Chúc.
Trong ngày hôm ấy, do kỷ niệm ngày Phật thành đạo,
sau khi cử hành tắm Phật, trù pḥng bèn dùng các loại
trái cây, ngũ cốc nấu lẫn với nhau thành cháo gọi
là Lạp Bát Chúc trước là cúng Phật, sau là để
chư Tăng và tín đồ đến lễ Phật
dùng. Về sau, phong tục này lan rộng khắp dân gian. Tùy
theo vùng mà mỗi chùa nấu cháo Lạp Bát khác nhau đôi
chút, chẳng hạn như theo Yên Kinh Tuế Thời Kư, tại
phương Bắc, người ta dùng gạo vàng, gạo
trắng, gạo đỏ, kê, bắp, v.v… Thêm vào nhân hạt
đào, hạnh nhân, hạt dưa, đậu phộng, hạt
tùng, đường trắng, đường đỏ,
nho khô, nhưng tuyệt đối không bỏ hạt sen,
đậu ván, ư dĩ, quế… v́ người Hoa tin rằng
những thứ ấy sẽ làm hỏng mùi vị của
cháo.
[6]
Nhũ Mi có hai cách giải thích:
1) Nhũ Mi là cách dịch nghĩa chữ
Pāyasa,
có nghĩa là cháo ngũ cốc nấu với sữa. Để
nấu Nhũ Mi, người ta dùng các loại gạo, kê nấu
lẫn với sữa ḅ hay dê thành cháo. Đại Nhật
Kinh Sớ, quyển 7, chép: “Nhũ
Mi: Tây Phương có nhiều loại cháo, hoặc dùng chất
chiết từ Ô Ma, hoặc dùng các loại đậu và
dược vị giống như trong phần Thập Tụng
Dược Pháp v.v… đă rộng nói, nhưng đều coi
Nhũ Mi là ngon nhất”.
2)
Nhũ Mi là dịch nghĩa chữ Tarpana, tức là dùng ngũ cốc
xay nát chế thành món ăn. Du Già Sư Địa Luận,
quyển 36, Tự Tha Lợi Phẩm, giải thích Nhũ Mi
là bánh khô, lương khô.
Khi
nói về loại Nhũ Mi được cô gái chăn ḅ
[7] Ni Liên Thiền (Nairañjanā) đôi khi
c̣n được phiên là Hy Liên Thiên, hoặc Ni Liên Nhiên, dịch
nghĩa là Bất Nhạo Trước Hà, vốn là một
chi lưu của sông Hằng, nằm ở phía Đông thành
Già Da nước Ma Kiệt Đề.
[8] Sao Mai là tên gọi khác của Kim Tinh
(Venus), do vị trí của sao vào lúc đầu đêm và lúc rạng
sáng khác nhau nên dân gian tưởng là hai ngôi sao khác nhau nên sao
Mai c̣n có tên là sao Hôm. Người Hán cũng tưởng
như vậy nên gọi ngôi sao này vào lúc rạng đông (mọc
ở phương Đông) là Minh Tinh hoặc Khải Minh,
sau hoàng hôn, sao mọc chính giữa phía Tây th́ được
gọi là Trường Canh. Sao c̣n có tên là Kim Tinh do Đạo
giáo tin ngôi sao này là hiện thân của một vị thần
mang danh hiệu Thái Bạch Kim Tinh.
[9]
Sở Thạch (1296-1370) quê ở Tượng Sơn, Minh
Châu, pháp danh Phạm Kỳ, pháp tự Sở Thạch, là
đệ tử nối pháp của ngài Kính Sơn Hành
Đoan (đệ tử đời thứ hai mươi của
ngài Nam Nhạc). Năm 16 tuổi, Sư thọ Cụ Túc Giới
tại chùa Chiêu Khánh, đắc pháp nơi ngài Kính Sơn
Nguyên Tẩu Hành Đoan. Sư được Nguyên Thuận
Tông phong tặng danh hiệu Phật Nhật Phổ Chiếu
Huệ Biện thiền sư vào năm Chí Chánh thứ bảy
(1347) đời Nguyên. Do ngài mất vào năm Hồng Vũ
thứ ba đời Minh Thái Tổ nên người ta vẫn
coi Ngài là cao tăng đời Minh. Sư c̣n để lại
Sở Thạch Phạm Kỳ Ngữ Lục.
[10]
Tử Sản (không rơ năm sinh - 522
trước Công Nguyên), họ Công Tôn, tên Kiều, tự Tử
Sản. C̣n có tên tự là Tử Mỹ, vốn thuộc ḍng
dơi hoàng tộc nước Trịnh, cháu nội của Trịnh
Mục Công. Thông minh từ nhỏ, rất thông thạo chánh
trị, làm Khanh Đại Phu (Tể Tướng) nước
Trịnh thời Trịnh Giản Công, chấp chánh 23
năm, được coi là một chính trị gia lỗi lạc
thời ấy. Chuyện Tử Sản thả cá được
biết tới qua câu nói của Mạnh Tử trong thiên Vạn
Chương sách Mạnh Tử: “Tích
giả phất quỹ sanh ngư ư Trịnh Tử Sản,
Tử Sản sử giảo nhân súc tŕ chi. Giảo nhân phanh
chi, phản mạng viết: ‘Thỉ xả chi, ngữ ngữ
yên, thiểu tắc dương dương yên, du nhiên đắc
thệ’. Tử Sản viết: ‘Đắc kỳ sở
tai, đắc kỳ sở tai!’ Giảo nhân xuất, viết:
Thục vị Tử Sản trí? Dư kư phanh nhi thực
chi, viết: Đắc kỳ sở tai, đắc kỳ
sở tai. Cố quân tử khả khi dĩ kỳ
phương, nan vơng dĩ phi kỳ đạo” (Xưa
kia chợt có người đem cá sống biếu cho Tử
Sản nước Trịnh. Tử Sản bảo người
hầu đem thả trong ao nuôi cá. Người hầu bèn
đem nướng, trở về thưa: ‘Lúc mới thả,
cá nằm ngoi ngóp, một lúc sau bèn sống động, tung
tăng bơi đi mất rồi’. Tử Sản nói: ‘Nó
đă đến được chỗ sống yên vui rồi!
Nó đă đến được chỗ sống yên vui rồi!’
Người hầu đi ra, nói: “Ai bảo Tử Sản có
trí? Ta nướng ăn mất rồi mà c̣n nói: ‘Nó đă
đến được chỗ sống yên vui rồi! Nó
đă đến được chỗ sống yên vui rồi!’
Do vậy, có thể dùng lời lẽ hợp lư để lừa
quân tử, chứ khó thể dùng lời phi lư để dối
gạt được).
[11] Đời Xuân Thu, Tùy Hầu (vua nước
Tùy) đi ra ngoài chơi thấy một con rắn bị
người ta đánh gần chết, vứt trên vệ
đường, động ḷng thương xót, liền
sai tùy tùng đem thuốc cứu rắn, rồi đem thả
đi. Ít lâu sau, rắn từ sông ngoi lên, nhả tặng vua
một viên minh châu để báo ân cứu mạng. Do vậy,
viên ngọc ấy thường được gọi là
Tùy Hầu Châu, hoặc Linh Xà Châu. Sách Sưu Thần Kư mô tả
viên ngọc ấy như sau: “Kích
thước tṛn trặn chừng một tấc, trắng
muốt, ban đêm tỏa ánh sáng, có thể soi sáng cả
gian pḥng”.
[12] Theo Âm Chất
Văn Đồ Chứng, có lần Dương Bảo vào
Hoa Sơn thấy con chim sẻ bị thương rơi xuống
đất, máu me bê bết, cảm thương ông liền
đem về băng bó, chăm sóc, khi chim lành bèn thả
đi. Chim tha đến bốn cái chén ngọc, lại nói:
“Mong con cháu ông sẽ trắng trong, tinh thuần như bạch
ngọc”. Đêm ấy, ông mộng thấy một vị trời
mặc áo vàng đến bảo: “Tôi là con chim sẻ vàng
được ông cứu mạng. Tôi vốn là sứ giả
của Tây Vương Mẫu, bị thương giữa
đường. May được ông cứu giúp, nay
được trở về Nam Hải nên đến
đáp tạ”. Về sau, con cháu ông đều nổi tiếng
đức hạnh, hiển đạt. Có sách lại chép
hơi khác như sau: Dương Bảo là người huyện
Hoa Âm, sống vào thời Hậu Hán. Lúc bé, Dương Bảo
ra ngoài đồng chơi thấy một con sẻ bị
cú mèo đuổi đánh bị thương rớt xuống
đất. Dương Bảo liền cứu đem về,
nuôi đến khi chim lành vết thương bèn thả
đi. Đêm ấy, Dương Bảo nằm mộng thấy
có một đứa bé trai mặc áo vàng đến biếu
bốn chiếc ṿng ngọc, tạ ơn, cho biết: “Con
cháu ông ta sẽ được vinh hiển đến bốn
đời như bốn ṿng ngọc này”. Về sau, con
Dương Bảo là Dương Chấn, cháu là
Dương Bỉnh, chắt là Dương Tứ, chút là
Dương Bưu, lần lượt kế tiếp nhau
làm đến chức Tam Công, được cơi đời
xưng tụng là “tứ thế
tam công, đức nghiệp tương kế” (bốn
đời làm Tam Công, kế thừa đức nghiệp).
[13] Tiêu Lương tức là Nam
Lương (502-557), tức một triều đại vào
thời Nam Bắc Triều ở Trung Hoa, được
sáng lập bởi Tiêu Diễn (Lương Cao Tổ Vũ
Đế) sau khi diệt nhà Nam Tề, xưng đế,
đóng đô tại Kiến Khang (nay là Nam Kinh). Do vậy,
sử thường gọi triều đại này là nhà Tiêu
Lương để phân biệt với những triều
Lương khác.
[14] Pḥng Ngự Sứ là một chức quan
vơ được lập ra từ thời Đường
nhằm trông coi việc binh tại những huyện trấn
trọng yếu. Qua những đời quyền hạn của
chức quan này bị giảm dần, chỉ trông coi việc
huấn luyện và pḥng thủ địa phương, chứ
không có toàn quyền về binh bị như những đời
trước.
[15]
Lô Quang Trù (840-911), tự Mậu Hy, c̣n có tên là Thập Thất
Lang, người Thanh Âm, Khê, huyện Kiền Hóa, Kiền
Châu (sau này Kiền Châu đổi thành Cám Châu). Ông lớn lên
nhằm thời Đường Hy Tông, chính trị hủ bại,
các tướng lănh quân phiệt đua nhau cát cứ, xâu xé
quốc gia. Trong t́nh thế, với tham vọng chính trị,
Lô Quang Trù đă cùng Đàm Toàn Bá tụ hợp binh lính khởi
nghĩa, suy cử Đàm Toàn Bá làm thủ lănh, c̣n Lô Quang Trù
chỉ huy quân đội. Họ Lô chiếm đuợc Kiền
Châu vào năm Quang Khải nguyên niên (885), xưng là Thứ Sử.
Năm Thiên Phục nguyên niên (901) chiếm Thiều Châu, rồi
chiếm luôn Triều Châu. Đến khi nhà Lương do
Châu Ôn thành lập, Lô Quang Trù quy phục nhà Hậu
Lương, được Lương Thái Tổ (Châu Ôn)
phong làm Bách Thắng Quân Pḥng Ngự Sứ, kiêm nhiệm chức
Khai Thông Sứ vùng Ngũ Lĩnh, tước Châu Nhữ
Vương, ăn lộc 1.500 hộ. Về sau được
phong là Trung Huệ Thắng Lợi Vương. Tuy xuất
thân nông dân ít học, nhưng Lô Quang Trù rất giỏi về
quân sự lẫn kinh tế. Chính ông đă chỉ huy khẩn
hoang, điều động nhiều công tŕnh thủy lợi,
lập thêm 6 huyện mới (An Viễn, Đại Dữu,
Thượng Do, Thụy Kim, Thạch Thành, và Long Nam) trong
vùng quản hạt của ḿnh từ những đất
hoang đă khai khẩn. Theo Tự Chí chùa Thọ Lượng,
Lô Quang Trù bị bệnh ngặt nghèo, được vị
Tăng tên Đạo Thành chữa khỏi bệnh nên xây
chùa để đền ơn.
[16] Lan quế: Ư nói con cháu hiển đạt.
Đây là hai điển tích được ghép chung lại.
Một người tiểu thiếp của Trịnh
Văn Công thời Đông Châu nằm mộng thấy có
người xưng là tổ tiên họ Trịnh trao cho nhánh
lan, tỉnh dậy liền biết đă thọ thai; do
đó, đứa con sinh ra được đặt tên là
Lan. Về sau Trịnh Lan trở thành Trịnh Mục Công,
là một ông vua hiền sáng suốt khiến nước Trịnh
tuy nhỏ lại làm bá chủ chư hầu một thời.
Do vậy, người ta hay dùng điển tích “mộng
lan” để chỉ người phụ nữ có thai sanh
con quư hiển.
Chữ Quế phát xuất từ điển
tích Đậu Yên Sơn (tên thật là Đậu Vũ
Quân) sống vào đời Hậu Tấn thời Ngũ
Đại. Ông này có năm người con trai đều
đỗ đạt, đức cao trọng
vọng, được người đời khen ngợi
là Yên Sơn Đậu Thị Ngũ Long (năm con rồng
họ Đậu đất Yên Sơn). Phùng Đạo làm
thơ mừng Vũ Quân có câu: “Linh
xuân nhất châu lăo, đan quế ngũ chi phương”
(Linh Xuân một gốc thọ, đan quế năm cành
thơm). Do vậy, người đời sau thường
khen ngợi nhà có con cháu hiển đạt, hiền đức
là “lan quế chi gia”.
[17]
Chí Phùng (909-985), c̣n có hiệu là Đại Phiến Ḥa Thượng, người
xứ Dư Hàng. Sư quán thông Tam Học, tham thấu kinh tạng,
kết thảo am tu tŕ tại núi Đạo Tràng (tên cũ
của núi là Vân Phong, thuộc Hồ Châu). Thảo am này về
sau trở thành chùa Vạn Thọ. Thoạt đầu do
trong núi ấy có lắm cọp, ngài Chí Phùng thường cầm
chiếc quạt lớn (do vậy dân chúng gọi Ngài là
Đại Phiến Ḥa Thượng) xuống chợ xin tiền
mua thịt nuôi hổ, hổ đâm ra thuần tính không làm hại
nên người đời gọi Ngài là Phục Hổ Thiền
Sư. Lúc đầu, Ngô Việt Vương đặt tên
chùa là Chánh Chân Thiền Viện. Tới niên hiệu Gia Thái
(1201-1204) đời Tống, đổi thành Diệu Giác Tự,
đến năm Nguyên Phong thứ ba đời Tống
(1080), vua ban chiếu đổi tên chùa thành Hộ Thánh Vạn
Thọ Thiền Tự. Thanh Thế Tổ lại đổi
thành Vạn Thọ Tự.
[18] Vân Thủy, gọi đủ là Vân Thủy
Tăng, là những vị Tăng không có trụ xứ nhất
định, do những vị ấy du phương hành
cước hay không muốn ràng buộc bởi đàn-na, tín
thí, nên lấy bốn phương làm nhà, thấy đạo
tràng nào thích hợp liền xin nhập chúng một thời
gian rồi lại ra đi giống như mây trôi nước
chảy không nhất định nên gọi là Vân Thủy
Tăng.
[19]
Đàn-việt (Dānapati): Thí chủ.
[20]
Thanh Tịnh Minh Hối là bốn điều giáo huấn
thanh tịnh trong kinh Lăng Nghiêm gồm “đoạn dâm,
đoạn sát, đoạn thâu, đoạn vọng” (dứt
dâm, dứt giết, dứt trộm, dứt nói dối).
Trong chương ấy, ngài A Nan thưa hỏi: “Con thường nghe đức
Như Lai nói như thế này: ‘Tự ḿnh chưa đắc
độ mà độ cho người khác trước, ấy
là chỗ phát tâm của Bồ Tát; tự giác đă trọn,
hay giác ngộ người khác, ấy là sự độ thế
của Như Lai. Con dù chưa
đắc độ, nhưng nguyện độ hết
thảy chúng sanh trong đời Mạt. Bạch Thế Tôn!
Những chúng sanh ấy cách Phật ngày càng xa, tà sư thuyết
pháp như cát sông Hằng, muốn nhiếp cái tâm, nhập
Tam Ma Địa, nên làm như thế nào để họ an
lập đạo tràng, xa ĺa các ma sự, chẳng lui sụt
tâm Bồ Đề?” Sau khi khen ngợi câu hỏi ấy
rất thiết thực, đức Phật nhấn mạnh
đến vai tṛ căn bản, thiết yếu của Giới
trong Tam Học rồi giảng chi tiết về bốn
điều giáo huấn thanh tịnh. Chúng tôi xin trích dẫn
chánh kinh về điều thứ nhất như sau: “Chúng sanh trong lục đạo
thuộc các thế giới ấy nếu tâm chẳng dâm th́
sẽ chẳng phải tiếp tục sanh tử. Ông tu
tam-muội, vốn là v́ muốn thoát khỏi trần lao, nếu
dâm tâm chẳng trừ, sẽ chẳng thể xuất trần
được. Dẫu có lắm trí, Thiền Định
hiện tiền, mà nếu như chẳng đoạn dâm, ắt
sẽ đọa ma đạo, thượng phẩm là ma
vương, trung phẩm là ma dân, hạ phẩm là ma nữ.
Những loài ma ấy cũng có đồ chúng, mỗi tên tự
nói ‘đă thành vô thượng đạo’. Sau khi ta diệt
độ, trong đời Mạt Pháp có lắm ma dân như
thế ấy lừng lẫy trong cơi đời, rộng
làm chuyện tham dục, giả làm thiện tri thức khiến
cho chúng sanh đọa trong hầm ái kiến, lạc nẻo
Bồ Đề. Ông hăy dạy người đời hễ
tu Tam Ma Địa th́ trước hết phải đoạn
dâm tâm. Đấy gọi là điều giáo huấn thanh tịnh
rạng ngời quyết định thứ nhất của
đức Như Lai Phật Thế Tôn. V́ vậy A Nan! Nếu
kẻ tu Thiền Định chẳng đoạn dâm sẽ
giống như nấu cát mà mong thành cơm, dẫu trải trăm ngàn kiếp
chỉ gọi là nấu cát. V́ sao vậy? Do vốn chẳng
phải là cơm, nên trở thành
cát, đá vậy! Ông dùng cái thân dâm dục cầu diệu quả
của Phật, dẫu được diệu ngộ
cũng đều là dâm căn. Căn bản đă thành dâm
th́ luân chuyển trong tam đồ ắt chẳng ra khỏi
được, có nẻo nào ḥng chứng Niết Bàn của
Như Lai? [Do vậy], ắt phải làm cho cơ duyên của
dâm cũng như thân tâm đều đoạn được
dâm th́ mới có thể mong cầu Bồ Đề của
đức Phật!”
[21] Tức kẻ chỉ giải thoát xuông
ngoài miệng.
[22]
Đây là cuộc tấn công lần thứ nhất của
quân đội Quốc Dân Đảng vào căn cứ địa
Tương Ngạc Cám (tức khu căn cứ nằm giữa
ba tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tây) của phe Hồng
Quân với mục đích phá hủy khu căn cứ này và
tiêu diệt lực lượng Hồng Quân đang ẩn nấp
tại đó. Chiến dịch này bắt đầu từ
29 tháng Giêng năm 1930 đến ngày 25 tháng Ba năm ấy,
nhưng không thu được thắng lợi ǵ. Để
trả đũa, phe Hồng Quân phát động chiến dịch
đánh trả, lấy tên là Tương Ngạc Cám Tô Khu Phản
Vi Tiễu (cuộc tiễu trừ phản kích Quốc Dân
Đảng vây hăm đặc khu Sô Viết Hồ Nam, Hồ
Bắc, Giang Tây) vào tháng Chạp năm 1930 khiến cho dân
t́nh các tỉnh ấy càng thêm khốn đốn. Căn cứ
địa Tương Ngạc Cám bao gồm vùng rừng núi
Đông Bắc tỉnh Hồ Nam, Đông Nam tỉnh Hồ
Bắc và một phần phía Bắc tỉnh Giang Tây. Thành phố
Trường Sa nằm rất gần căn cứ địa
của Hồng Quân nên dân chúng bị thiệt hại,
thương vong rất lớn trong hai cuộc chiến.
[23]
Tam Dư vốn là một điển cố xuất phát từ
câu nói của Đổng Ngộ thời Tam Quốc diễn
tả chuyện khéo dùng thời gian dư thừa để
học hành, tức: “Đông giả,
tuế chi dư; dạ giả, nhật chi dư; âm vũ
giả, t́nh chi dư dă” (Mùa Đông là thời gian thừa
của một năm; ban đêm là thời gian thừa của
một ngày. Lúc mưa dầm tối tăm là thời gian thừa
của lúc quang tạnh). Ông Ninh Đức Tấn dùng chữ
Tam Dư đặt tên cho nhà học để khích lệ
con cháu quư tiếc thời gian, chăm chỉ học hành,
nhưng Tổ Ấn Quang đă thêm vào chữ Đức với
ư nghĩa khuyên răn con cháu ông Ninh không chỉ lo học
hành mà c̣n vun bồi điều lành để ḥng đạt
được ba đức của Phật tánh là Pháp Thân,
Giải Thoát và Bát Nhă.
[24]
Tuy kinh dạy
như vậy, tổ Ấn Quang nói riêng và chư vị tổ
sư đại đức truyền thừa Tịnh tông
đều răn nhắc không nên đụng chạm
thăm ḍ hơi nóng nơi người vừa chết trong
ṿng 8-12 tiếng đồng hồ kể từ khi người
ấy sắp chết. Đă tắt hơi rồi, vẫn
chớ nên thăm ḍ hơi nóng.
[25]
Thanh Tịnh Môn c̣n gọi là Văn Hương Giáo, Hữu
Đại Thừa Giáo, Đông Đại Thừa Giáo,
Đại Thừa Hoằng Thông Giáo, Hoằng Phong Giáo, Thiện
Hữu hội, Thanh Trà Môn, Thâu Duyên Môn, Nhất Chú
Hương, Viên Đốn Môn Hưng Long Phái, Thái Thượng
Cổ Phật Môn v.v… vốn là một chi phái của Bạch
Liên Giáo, do một gă thợ làm nghề thuộc da tên
Vương Sâm (1542-1619), đạo hiệu Thạch Tự
Nhiên, sáng lập vào thời Vạn Lịch đời Minh.
Họ Vương tuyên bố do cứu hồ tiên (chồn
tinh), hắn liền học được dị
hương thuật, tự xưng là Thiên Chân Cổ Phật
Chuyển Thế, đặt pháp hiệu là Pháp Vương
Thạch Phật, gọi giáo pháp của ḿnh là Văn
Hương Giáo (hoặc Bát Quái Giáo), c̣n gọi là Đông
Đại Thừa Giáo để phân biệt với Tây
Đại Thừa Giáo của chùa Bảo Minh thuộc pháp hệ
“chánh thống” của Bạch Liên Giáo. Họ Vương
biên soạn (hoặc nhờ người khác biên soạn rồi
đội tên ḿnh là tác giả) các bộ tà kinh như Lăo Cửu
Liên, Tục Cửu Liên, Cổ Phật Thiên Chân Khảo Chứng
Long Hoa Bảo Kinh, Phật Xá, Tam Giáo Chỉ Nam. Giáo phái này
pha trộn phương pháp tu tiên của Đạo Gia với
bùa chú, đồng cốt, cầu cơ v.v… vay mượn
những danh từ nhà Phật, xuyên tạc giáo nghĩa nhà
Phật để biện minh cho giáo thuyết của chúng.
Đạo này có rất đông tín đồ tại các vùng
Sơn Đông, Tứ Xuyên, Hà Bắc, Sơn Tây, Hà Nam v.v..
Năm Vạn Lịch 41 (1614), Vương Sâm bị bắt,
rồi chết trong tù vào năm 1619. Về sau, con trai hắn
là Vương Hảo Hiền phát động khởi
nghĩa lật đổ nhà Minh thất bại, bị truy
nă ráo riết nên giáo phái này mới đổi thành đủ
mọi tên như đă kể trên để dễ hoạt
động.
[26] Do Tế Công thị hiện những nghịch
hạch (ăn thịt chó, uống rượu, say sưa,
ngủ li b́ v.v…) nhằm thị hiện thần thông hóa
độ những kẻ hữu duyên, bọn ngoại
đạo ăn thịt, uống rượu, say sưa,
trác táng cũng viện cớ là “học theo hạnh của
Tế Công” nên Tổ Ấn Quang mới quở như thế.
[27] Tiểu Toán là tên gọi khác của Giới
(Kiệu).
[28]
Tam Yếm có nghĩa là ba thứ thịt phải kiêng ăn
do Đạo Giáo đặt ra, gọi là Thiên Yếm, Địa
Yếm và Thủy Yếm, tức thịt của ba thứ:
Chim Nhạn (Thiên Yếm), Chó (Địa Yếm) và Rùa
Đen (Thủy Yếm).
[29] Hệ niệm (xin chú ư ở đây Tổ
dùng chữ “hệ niệm”) có nghĩa là chuyên niệm, chú
tâm niệm một đức Phật, chuyên ṛng niệm Phật,
không xen tạp, không gián đoạn, khiến cho người
sắp mất luôn hướng ḷng về A Di Đà Phật.
Gọi là “hệ niệm” để phân biệt với lối
trợ niệm thông thường vẫn được áp
dụng tại nhiều nơi, kể cả ở Việt
Nam: Chư tăng ni hay Phật tử nhóm họp, khai kinh
sám hối ngày đầu, ngày kế tụng Phổ Môn
để cầu cho người sắp mất được
khỏe lại, ngày sau cùng tụng Di Đà để
người sắp mất ra đi. Nếu vẫn chưa
mất th́ sẽ chuyển sang tụng kinh Kim Cang, kinh Dược
Sư, hoặc kinh Địa Tạng v.v… Nói chung là chú trọng
tụng kinh nhằm giúp cho người chết giảm bớt
nghiệp chướng, ra đi nhẹ nhàng, chứ không chú
trọng hướng dẫn cho người ấy biết
tới pháp môn Tịnh Độ, phát tâm cầu được
văng sanh!
[30]
Bát Nhă bộ là một trong năm bộ (phân loại) lớn
của Đại Thừa (Bát Nhă, Hoa Nghiêm, Phương
Đẳng, Pháp Hoa và Niết Bàn). Bát Nhă Bộ bao gồm
kinh Đại Bát Nhă (bản dịch của ngài Huyền
Trang) và tất cả những kinh biệt xuất (tức
những phẩm hoặc một phần của kinh Đại
Bát Nhă được dịch trước thời ngài Huyền
Trang). Hiện thời, nếu lấy Đại Chánh Tân Tu
Đại Tạng Kinh làm chuẩn th́ Bát Nhă Bộ có 42 bộ
kinh, tổng cộng 776 quyển. Phần Śer-phyin trong tạng
Cam Thù Nhĩ (Kanjur) của Đại Tạng Kinh Tây Tạng
gần như tương ứng với Bát Nhă Bộ của
Đại Tạng Kinh Hán truyền.
[31] Tổ y: Y ca-sa.
[32]
Hiền Kiếp (Bhadrakalpa) là Trụ Kiếp trong hiện tại.
Trong hai mươi trụ kiếp tăng giảm, có một
ngàn vị Phật ra đời, cho nên gọi là Hiền Kiếp.
Kinh Bi Hoa, quyển 5 chép: “Do nhân
duyên nào tên gọi là Hiền Kiếp? Do trong đại kiếp
này có nhiều chúng sanh tham dục, sân khuể, ngu si, có một
ngàn đức Thế Tôn thành tựu đại bi xuất
hiện trong cơi đời”. Vị Phật đầu
tiên là Câu Lưu Tôn (Krakucchanda), vị Phật cuối cùng là
Lâu Chí (Rucika). Thích Ca Mâu Ni Phật là vị Phật thứ
ba, Di Lặc Phật là vị Phật thứ tư xuất
thế trong Hiền Kiếp.
[33]
Đầu Đà (Dhūta) có nghĩa là trừ khử
trần cấu, là một pháp tu khổ hạnh của hàng
Tăng sĩ nhà Phật nhằm đoạn trừ tham
trước, tu luyện thân tâm. Ngài Ma Ha Ca Diếp
được tôn xưng là Đầu Đà đệ nhất.
Người tu hạnh Đầu Đà tuân thủ mười
hai điều sau đây:
1. Ở
tại A Lan Nhă, tức ĺa nơi ồn náo. Ở nơi yên
tịnh, xa cách chỗ ở của cư dân 2. Khất thực
3. Khất thực theo thứ tự (không phân biệt nhà
giàu, nhà nghèo, cứ thuận đường mà đi, khất
thực đủ bảy nhà th́ thôi) 4. Ăn một bữa
5. Ăn vừa mức (tức chỉ xin vừa đủ
ăn, hễ xin đủ phần ḿnh ăn th́ dẫu
chưa đủ bảy nhà liền đậy bát, trở
về tinh xá) 6. Sau giờ Ngọ, không uống các thứ
nước trái cây ép, sữa, súp v.v.. cho khỏi đói 7. Mặc
y kết bằng các mảnh vải vứt đi 8. Chỉ
có ba y 9. Ở nơi mồ mả 10. Nghỉ dưới gốc
cây 11. Ở nơi đất trống 12. Chỉ ngồi chứ
không nằm.
Không
rơ từ bao giờ ở Trung Hoa xuất hiện những
Tăng nhân giả danh, tự xưng tu hạnh Đầu
Đà, thường xơa tóc dài, không cạo râu, cổ đeo
chuỗi hạt rất to, đầu bịt một chiếc
ṿng bằng đồng hay sắt (để giữ cho tóc
khỏi xơa xuống trán. Đôi khi chiếc ṿng ấy c̣n
được chế kiểu cọ có h́nh trăng lưỡi
liềm trước trán), đeo khuyên tai to nặng, mặc
áo rộng tay, nhưng vạt ngắn, đôi khi c̣n phạch
ngực, cầm tích trượng bằng sắt đúc to kềnh,
tập luyện vơ nghệ, đi lang thang khắp nơi,
tuy xin ăn nhưng hay cậy vơ nghệ hiếp đáp
người khác, ăn ở lôi thôi, nhớp nháp, ăn chay
nhưng không kiêng rượu! Loại đầu-đà kiểu
này rất thịnh hành dưới đời Tống.
[34]
Câu giáo huấn ấy của Lục Phóng Ông đă dựa
theo ư tưởng của đoạn văn sau đây trong
thiên Liệt Ngự Khấu của sách Nam Hoa Kinh: “Cùng hữu bát cực, đạt
hữu tam tất. H́nh hữu lục phủ, mỹ, nhiêm,
trưởng, đại, tráng, lệ, dũng, cảm, bát giả
câu quá nhân dă, nhân dĩ thị cùng. Duyên tuần yển
ương, khốn úy, bất nhược nhân, tam giả
câu thông đạt” (Có tám điều khiến cho con
người khốn quẫn tới tột bậc, có ba
điều ắt dẫn đến sự thông đạt.
Đẹp đẽ, râu đẹp, cao lớn, khôi ngô,
tráng kiện, duyên dáng, mạnh mẽ, quả cảm, tám
điều ấy đều vượt xa người
khác th́ sẽ do v́ những điều ấy mà gặp cảnh
khốn cùng. Thuận theo lẽ tự nhiên kính trọng
người khác, náu ḿnh e dè, làm ra vẻ như ta chẳng bằng
ai, ba điều ấy đều dẫn đến sự
thông đạt). Chúng tôi dịch đoạn này theo cách diễn
giải của Lư Đạt trong cuốn Trang Tử Dịch
Thích.
[35]
Kinh này có tên gọi đầy đủ là Đại Bảo
Quảng Bác Lâu Các Thiện Trụ Bí Mật Đà La Ni Kinh
(Mahāmani Vipula-vimānavśva Supratisthita Gūhyā-parama
Rahasya Kalpa-rāja Dhāranī), ba quyển, do ngài Bất
Không dịch vào đời Đường. Kinh văn thuyết
minh công đức, oai lực của chú Đại Bảo
Quảng Bác Lâu Các Thiện Trụ Bí Mật Đà La Ni và dạy
các pháp tu quán, tŕ tụng, vẽ mạn-đà-la cũng
như các nghi quỹ. Kinh này c̣n có một hai bản dịch
nữa là Quảng Đại Bảo Lâu Các Thiện Trụ
Bí Mật Đà La Ni Kinh do ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch
vào đời Đường và Mâu Lê Mạn Đà La Chú
Kinh (mất tên người dịch) đời
Lương. Theo bản của ngài Bất Không, chú văn
như sau: “Nẵng mạc tát
phạ đát tha nghiệt đa nẫm. Án, vĩ bổ la
nghiệt bệ, ma nê, bát la bệ, đát tha đa, nễ nại
xả ninh, ma nê ma nê, tô bát la bệ, vĩ ma lê. Sa nghiệt
la, nghiễm tỳ lệ. Hồng hồng, nhập phạ
la, nhập phạ la, một đà vĩ lô chỉ đế,
ngu hế dạ, địa sắt xỉ đa nghiệt bệ,
sa phạ ha” (Namah sarvatathāgatanām. Om, vipulagarbha,
maniprabhe, tathātā nidar’sane, mani, mani, suprabhe, vimale.
Sāgara gambhīre,
hūm, hūm,
jvala, jvala, buddhāvilokite gūhyādhistita
garbhe, svāhā)
[36]
Nhị Không (hai thứ không) có nhiều cách hiểu:
1)
Theo tư tưởng Bát Nhă, Nhị Không là Nhân Không (Ngă Không,
Sanh Không) và Pháp Không. Ngă Không là không thấy có cái Ngă, Ngă chỉ
là giả danh do Ngũ Uẩn kết hợp, không có một
chủ tể thường trụ nào. Do không có Ngă sẽ
không thấy có ta - người, do đó, Ngă Không c̣n gọi
là Nhân Không; do không c̣n tạo tác khởi lên phân biệt nữa
nên gọi là Sanh Không. Pháp Không là các pháp vốn không, chỉ
là giả danh, không có thực thể. Khái niệm Nhị
Không thường được hiểu theo khái niệm
này nhất.
2)
Theo tông Thiên Thai (căn cứ theo sách Ma Ha Chỉ Quán) th́ Nhị
Không là Đản Không và Bất Đản Không:
a)
Đản Không: Trong bốn giáo, Tạng Giáo và Thông Giáo chẳng
hiểu rơ Tam Đế Không, Giả, Trung, thấy các pháp
đều là huyễn vọng, coi lư Không được hiểu
theo cái thấy ấy là tột cùng nên chỉ thấy Không,
chứ chưa thấy được Bất Không nên gọi
là Đản Không (chỉ có cái không).
b) Bất
Đản Không: Đối với cái Đản Không vừa
nói đó, Viên Giáo và Biệt Giáo thấy được cái bản
thể của cái Không là “chẳng phải chỉ là không”
nên thầm hợp với lư Trung Đạo. Do vậy gọi
là Bất Đản Không.
3)
Cũng theo Ma Ha Chỉ Quán, Nhị Không c̣n có thể hiểu
là Tánh Không và Tướng Không: Các pháp không có Thật Tánh nên
gọi là Tánh Không. Do các pháp đă không có Thật Tánh, chỉ
có tướng giả danh nên cũng không có thật có; v́ thế
gọi là Tướng Không.
4)
Theo Đại Thừa Khởi Tín Luận, Nhị Không là
Chân Như Không và Chân Như Bất Không: Trong bản thể
của Chân Như không có hết thảy vọng nhiễm,
có thể hiển hiện sự thật rốt ráo nên gọi
là Chân Như Không; trong bản thể của Chân Như
đầy đủ hết thảy công đức vô lậu
nên gọi là Chân Như Bất Không.
5)
Theo Bảo Tánh Luận, Biện Trung Biên Luận và Đại
Thừa Huyền Luận, Nhị Không là Quyền Không và Thật
Không. Sự ngộ nhập Sanh Không của hàng Nhị Thừa
là Quyền Không, sự ngộ nhập của hàng Bồ Tát
đối với Sanh Không lẫn Pháp Không th́ gọi là Thật
Không.
6)
Ngoài ra, trong Mật Tông, do lấy năm đại Địa,
Thủy, Hỏa, Phong, Không ứng với ngón út, ngón đeo
nhẫn, ngón giữa, ngón trỏ và ngón cái; nên khi kinh văn
Mật Tông nói đến “Nhị Không” th́ có nghĩa là “áp
hai ngón tay cái vào nhau!” Nghĩa này không thể nào áp dụng
vào chữ Nhị Không trong đoạn văn này được!
[37] Xin đừng hiểu lầm chữ Tụng
ở đây. Cổ nhân gọi mở kinh văn ra đọc
ra tiếng là “phúng” (諷) hoặc
“độc” (讀: đọc), c̣n
chỉ đọc kinh văn theo kư ức, đọc thuộc
ḷng là Tụng (誦). Về sau, hai chữ
này thường bị dùng đồng nhất. Xuyên suốt
trong Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên, Văn Sao Tục
Biên lẫn một số lá thư trong Tam Biên, Tổ Ấn
Quang luôn khuyên hành nhân khi tụng đọc nên mở kinh
văn ra đọc theo, dẫu có thuộc ḷng cũng đừng
ỷ vào trí nhớ.
[38] Do thời Khổng Tử chưa có giấy,
sách phải viết trên các mảnh gỗ hay thẻ tre, rồi
dùng dây da xâu lại thành sách cho khỏi thất lạc.
[39] Tam Quan Kinh là một bản kinh của
Đạo Giáo, chép lời tuyên cáo của ba vị Thượng
Nguyên Thiên Quan, Trung Nguyên Địa Quan và Hạ Nguyên Thủy
Quan về công năng diệt tội, ban phước của
họ cũng như ghi chép những danh xưng của ba vị
này theo kiểu rườm rà rất đặc trưng của
các thần thánh trong Đạo Giáo. Chẳng hạn như
danh xưng của Thiên Quan là Huyền Đô Nguyên
Dương Tử Vi Cung Thượng Nguyên Cửu Khí Tứ
Phước Thiên Quan Diệu Linh Nguyên Dương Đại
Đế Tử Vi Đế Quân v.v…
[40] Thời ấy, giấy tiền vàng bạc,
vàng thoi, đĩnh bạc trong đồ mă làm bằng những
miếng nhôm dát mỏng đính trên giấy nên sau khi đốt,
những vụn nhôm này không cháy. Người ta thường
mua tro vàng mă để gạn lọc và tái sử dụng những
mảnh kim loại này.
[41]
Bạch Khởi (?-257 trước Công nguyên), c̣n gọi là
Công Tôn Khởi, người My Huyện, là danh tướng
nước Tần thời Chiến Quốc, rất hiếu
sát. Làm tướng suốt ba mươi mấy năm,
đánh hạ bảy mươi mấy thành, tàn sát cả
trăm vạn địch quân, được phong tước
Vũ An Quân. Năm thứ 34 đời Tần Chiêu
Vương (263 trước Công Nguyên), Bạch Khởi dẫn
quân Tần đánh tan liên quân Triệu - Ngụy tại Hoa
Dương (nay là Trịnh Châu, tỉnh Hà Nam), chém đầu
năm mươi vạn quân. Năm 37 đời Tần Chiêu
Vương (260 trước Công Nguyên), Bạch Khởi vây
đánh Trường B́nh, bắn chết tướng nước
Triệu là Triệu Quát. Quân Triệu bị vây đánh lâu
ngày, thiếu lương ăn phải ra hàng, số tù binh
lên đến hơn bốn mươi lăm vạn. Bạch
Khởi cho bọn hàng binh ăn uống no say rồi ngầm
sai quân Tần dùng khăn trắng bịt đầu, dặn:
“Thấy đứa nào không bịt khăn trắng cứ
chém giết thẳng tay!” Trong một đêm, bốn
mươi lăm vạn hàng binh nước Triệu bị
giết sạch, chỉ c̣n khoảng hai trăm bốn
mươi tên lính giữ ngựa thoát được, trốn
về nước Triệu báo tin. Sử chép: “Khi ấy máu chảy vang tiếng
long tong, nước khe Dương Cốc đỏ au,
đến nay con suối ấy vẫn c̣n mang tên Đan Thủy.
Bạch Khởi cho thu thập đầu lâu của lính Triệu,
dựng thành đài trên núi, đặt tên là Bạch Khởi
Đài”. Năm 44 đời Tần Chiêu Vương (257
trước Công Nguyên), vua Tần vây Hàm Đan của nước
Triệu nhưng không chiếm được thành, vua Tần
sai Bạch Khởi ra đánh. Thấy trận đánh dằng
dai lâu ngày, quân Tần đă nhiều phen thất bại,
không thể nào đánh thắng được, Bạch Khởi
cáo bệnh không ra. Vua Tần đành sai Vương Lăng
lănh quân đánh suốt năm tháng không thắng, lại sai
Bạch Khởi cầm quân. Bạch Khởi vẫn giả
bệnh từ chối, vua Tần giận dữ, cách tuột
quan chức của Bạch Khởi, giáng xuống làm lính
trơn, đuổi khỏi kinh đô Hàm Dương. Khi Bạch
Khởi đi đến Đỗ Bưu (nay thuộc huyện
Hàm Dương, tỉnh Thiểm Tây), vua Tần sai sứ
mang gươm đến buộc Bạch Khởi tự
sát. Đường cùng, Bạch Khởi đành tự sát.
Ông Trác Trí Lập viết là “chôn sống”, nhưng thật
ra bốn mươi lăm vạn quân Triệu ra hàng ấy
đă bị Bạch Khởi tàn sát chỉ trong một
đêm.
[42] Địa Lư (c̣n gọi là Kham Dư) ở
đây là một môn huyền học ứng dụng Dịch
học và Phong Thủy để chọn cuộc đất
tốt nhằm an táng tổ tiên với hy vọng con cháu sẽ
hiển đạt, phú quư.