Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tam Biên,
Quyển 4
Phần 4
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Minh Tiến & Huệ
Trang
21. Thư
trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ tư)
Vừa
nhận được thư, biết các hạ tuy học
rộng lại chẳng thẹn hỏi xuống[1].
Quang thật sự là kẻ vô tri vô thức, chẳng ngại
dâng lên những điều ḿnh hay biết. Dựa theo cuốn
Đại Minh Trùng Khắc Phương Sách Đại Tạng
Duyên Khởi (Duyên Khởi Khắc Lại Đại Tạng
Kinh của nhà Đại Minh theo lối in Phương Sách),
trong lời tựa của Lục Quang Tổ[2]
nơi thiên thứ nhất có đoạn: “Xưa kia có người nữ tên là Thôi Pháp Trân chặt
tay để quyên mộ khắc Đại Tạng Kinh, ba
mươi năm mới hoàn thành. Đương thời
có đàn-việt hy sinh hết tài sản, đem con đi
gán nợ [để lấy tiền] cung ứng. Thánh triều
hoằng dương đạo pháp rộng lớn, hơn
hẳn những triều đại trước rất xa,
há chẳng có bậc hào kiệt có ḷng cao trỗi hơn
[Pháp Trân] ư? Đă không đề xướng cho [việc
khắc kinh] được thành tựu mà khi được
khuyên dụ lại viện cớ khó khăn, như vậy
th́ chí của kẻ trượng phu chẳng bằng
được một người nữ!” Nơi thiên
thứ hai, trong lời tựa của Phùng Mộng Trinh[3]
có đoạn: “Trong thời Tống
- Nguyên, trừ bản được khắc ở kinh
đô ra, như bản [Đại Tạng Kinh được
khắc bởi chùa] Tích Sa ở B́nh Giang, một ngôi chùa nọ
ở Ngô Hưng hoặc ngôi chùa kia ở đất Việt
đều có tàng bản, không ít hơn bảy tám bản [Đại
Tạng Kinh khác nhau]. Đấy là một đầu mối
khiến cho pháp đạo thịnh hành. Đến quốc
triều chỉ có hai bản Đại Tạng được
khắc ở kinh đô”. Lại c̣n viết: “Do vậy, ghi chép duyên khởi của
bản Tích Sa Tạng[4]:
Ni sư Hoằng Đạo chặt tay để quyên hóa.
Hoằng Đạo khuyến hóa xong, đồ đệ của
ni sư lại nối chí chặt tay, phải qua ba đời
mới măn nguyện ấy. Bọn ta là trượng phu, chẳng
thể dùng thâm tâm gánh vác đại pháp, khắc bản
lưu thông, đâm ra chẳng bằng một nữ nhân! Nay
sanh đúng cơi đời Phật pháp được thanh lặng,
vào núi báu lại về tay không, há chẳng thẹn đến
chết ư?”.
“Người nữ tên Thôi Pháp Trân” như ông Lục đă viết chính là “vị ni sư tên Hoằng Đạo
ở chùa Tích Sa” trong bài viết của ông Phùng. Hai cái tên
Pháp Trân và Hoằng Đạo th́ một là nêu pháp tự, hai
là nêu pháp hiệu, chứ không phải là hai người. Nói
“nữ nhân” để tăng
khí thế cho câu văn ở phía sau: “Chí của kẻ trượng phu chẳng bằng
được một người nữ!”. Ghi “Thôi Pháp
Trân” là theo cách viết tên trên độ điệp[5]
thời cổ, đều ghi họ ngoài đời trước
pháp danh. V́ thế mới có kiểu gọi [pháp danh] kèm theo
họ ngoài đời, như Mă đại sư,
Vương lăo sư, Trầm Liên Tŕ v.v… chứ chẳng phải
[Thôi Pháp Trân] là một nữ nhân tại gia, không phải là
ni sư!
Câu tiếp theo là: “Thánh triều hoằng
dương đạo pháp rộng lớn, hơn hẳn những
triều đại trước rất
xa”. Lại dựa theo lời tựa
của ông Phùng th́ biết ni sư không phải là người
đời Minh. V́ sao biết ni sư không phải là người
đời Tống mà là người đời Nguyên? Do [căn
cứ trên] phương pháp khắc ván. Bắt đầu từ
thời Ngũ Đại, Phùng Đạo[6]
cho khắc ván chín bộ kinh Nho giáo phải mất mấy
chục năm mới khắc xong. Đến đời Tống
tuy đă tinh xảo, nhanh chóng hơn, nhưng dựa trên sự
kiện sách Long Thư Tịnh Độ Văn chỉ gồm
hơn một trăm trang, lúc ấy đang nhằm thời
Nam Tống mà vẫn phải khắc mất mấy tháng. “Do một người nữ
đứng ra đề xướng, ba mươi năm mới
khắc xong toàn bộ Đại Tạng” th́ rơ ràng là dưới
triều Nguyên chứ không c̣n nghi ngờ ǵ nữa!
V́ sao biết kinh
được khắc thuộc dạng Phạn bản?[7]
Trong lời tựa thứ năm của Mật Tạng
đại sư có ghi: “Thái Tổ
đă khắc toàn bộ Đại Tạng tại Kim
Lăng (
Sách Duyên
Khởi Khắc Đại Tạng Kinh gồm mười
tám thiên tất cả. Mỗi tác giả tŕnh bày theo một quy
củ riêng; v́ thế có người viết liên tiếp, có
người chừa một ô trống, có người chừa
trống hai ô để thay cho cách viết Đài Đầu[12].
Ngoài mười tám thiên ra c̣n có quy ước khắc tạng,
giảo đối v.v… tổng cộng tám mươi mấy
trang. Quang chiếu theo cách khắc kinh hiện thời, cứ
mỗi trang là mười hàng, mỗi hàng hai mươi chữ,
chép liên tiếp, nên [bản mới] có tổng cộng
năm mươi trang. Lời văn giữ theo đúng
nguyên văn, nhưng phương thức tŕnh bày tuân theo
cách thức hiện thời. Do vậy, bớt được
ba mươi mấy trang giấy cho dễ lưu thông.
Phật Học Đại
Từ Điển là cửa ngơ đầu tiên để vào
Phật pháp, chỉ nên [biên soạn] thong thả trong hai ba
năm, chớ nên muốn mau ra sách kẻo bị sai ngoa. Tuy
các hạ huệ quang chiếu khắp như mặt trời
mọc lên soi trọn hoàn vũ, nhưng kẻ thấy cạn
nghe ít chẳng ngại ǵ đem kiến thức thấy cạn
nghe ít để dâng lên nhằm tỏ ḷng ngu muội
khăng khắng chí thành ngưỡng mộ mà thôi! Hơn nữa,
Pháp Trân và Hoằng Đạo quyết không phải là hai
người. Nếu là hai người th́ v́ sao ông Lục lại
chỉ nhắc đến Pháp Trân, ông Phùng chỉ nói đến
Hoằng Đạo? Chuyện đặc biệt ấy sao
lại bỏ sót không nêu lên? Huống hồ [hai ông] đều
muốn nhờ vào đấy để phát khởi cái tâm
thù thắng gánh vác pháp của bậc trượng phu ư?
22. Thư
trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ năm)
Hôm qua nhận được
thư và cuốn Phật Giáo Tông Phái Chú (ghi chú về các tông
phái Phật giáo), khôn ngăn vui mừng, an ủi. Quang gần
đây bận việc túi bụi, không rảnh rỗi để
đọc kỹ được, chỉ đọc lời
tựa tổng quát mà thôi; những phần khác đều
là tùy tiện xem qua. Nơi ḍng thứ bốn trong trang hai
mươi sáu, phần chữ nhỏ, chữ Sách (册) trong từ ngữ Thiên Sách (天册: sách trời) bị viết sai thành Đan (丹), chữ Vũ (武) trong Vũ Thị (武氏: họ Vũ) bị viết sai thành Từ (慈). Đấy là do kẻ sắp chữ
không cẩn thận mà ra. Ông Vạn làm thầy dạy học
đă lâu[13],
những kẻ được ông ấy chỉ dạy chắc
sẽ chẳng đến nỗi phạm những sai lầm
nhức mắt ấy.
An Sĩ Toàn Thư
được các hạ nhận lănh làm sách tài liệu và
lưu thông, Quang sẽ thay cho quốc dân đối trước
Tam Bảo lễ tạ hằng ngày. Thoạt đầu, An
Sĩ tiên sinh quyết định cách [tŕnh bày bản in] cũng
chưa tốt lành tột bậc, bởi lẽ những lời
văn giáo huấn [của cổ nhân], cũng như những
sự việc dùng để dẫn chứng, những lời
bàn luận về cái tâm do ông ta viết ra v.v... đều in
Đảnh Cách[14]
hết, cho nên không phân biệt được chủ và khách.
Các hạ bảo đổi thành cỡ chữ Nhị Hiệu
Tự quả là chí lư danh ngôn, nhưng sợ làm theo cách ấy
sẽ khó thể điều chỉnh được, lỡ
ra chẳng được như pháp! Quang tính trừ những
đoạn văn ghi sự tích ra, những phần khác
đều in thấp xuống một chữ ngơ hầu chẳng
bị lẫn lộn. Đối với bốn câu “Vu Công…” [tiên sinh An Sĩ không
giải thích], trong năm ngoái khi vị Đô Đốc
đất Điền (Vân Nam) phát tâm khắc ván [bộ An
Sĩ Toàn Thư], Quang đă sao lại [hành trạng trong đời
cuối cùng của] Đế Quân [tại nhân gian (tức
Trương Á đời Tấn)] và những sự tích [được
nhắc tới trong] bốn câu ấy đem gởi đi[15]
. Ông Đường tuy đă rút lui, nhưng sách đă khắc
xong, chỉ là chưa gởi đến. Sẽ sao ra một
bản khác, cho đính kèm vào sau phần mục lục trong
đầu quyển sách và soạn một lời tựa ngắn
để nêu rơ nguyên do, ngơ hầu chẳng phạm đến
nguyên văn mà lại khiến cho dù văn hay nghĩa đều
không bị thiếu sót ǵ! Chẳng biết các hạ
nghĩ như thế nào? An Sĩ Toàn Thư chính là bộ sách
trọng yếu để văn hồi thế đạo nhân
tâm. Tuy nói là tính in một vạn bộ, nhưng in càng nhiều
càng hay, há nên tự vạch [giới hạn]? Hơn nữa,
bảo người ta xuất tiền th́ tợ hồ cắt
thịt kẻ ấy vậy! Ngay trong hiện thời với
số tiền đă gởi tới sẽ in được
sáu ngàn bộ; nếu trọn chẳng có một ai chịu
bỏ tiền ra nữa th́ cũng tạm để an ủi
tấm ḷng đau đáu của các vị. Vạn sự tùy
duyên, bất tất phải chấp chặt th́ mới là
cách thức yên vui.
Bản kinh Lăng
Nghiêm do bà Ngô Nghệ Anh chép được chồng bà ta
lưu thông. Bản kinh Pháp Hoa do bà Trang Nhàn chép (bà này là
em gái của Trang Tư), chồng bà ta
là Lục Giá Hiên cũng muốn lưu thông, cậy cư
sĩ [Cao] Hạc Niên cầm kinh đến xin Quang xem xét, sửa
chữa và xin viết lời Bạt. Do vậy, tôi đọc
đại lược, thấy nét chữ mạnh mẽ,
thanh tú, từ đầu đến cuối giống hệt
như nhau, nhưng kiểu chữ đa phần vướng
phải tập khí văn nhân: Hoặc là viết theo lối
Tục Thể, Phá Thể, Thiếp Thể, Biến Thể
v.v… hoặc là ngược ngạo coi lối chữ Chánh Thể
đang được lưu hành hiện thời là sai nên
đổi sang dùng lối Cổ Thể. Quang cho rằng viết
như vậy là theo thói tục, trái thời, chẳng
đáng theo khuôn phép ấy, liền viết thư chê trách[16],
bảo bà ta viết lại, cũng như phải sửa
cho nét chữ hơi lớn hơn ngơ hầu người thọ
tŕ lẫn kẻ ứng phó[17]
đều vui thích thỉnh mua. Bà ta đọc thư Quang
khá bội phục, ngày hôm sau liền cùng chồng đến
bái kiến. Quang bảo bà ta hăy chép kinh giống như tiến
sĩ viết đối sách[18]
th́ công đức sẽ lớn lao. Nghe nói bà ấy tuân thủ
Nữ Huấn[19]
khá tốt, phàm những nơi vui chơi đều nhất
loạt không tới, rất được phu nhân Thịnh
Hạnh Tôn khâm phục, kính trọng. Không biết cuốn
sách của Trang Ngô là viết cho chị em gái? Hay là dành cho cô
và cháu? Ai là chị, là cô? Ai là em, là cháu? Nếu sách được
sửa chữa lần thứ hai xong, Quang chẳng thể
không viết lời đề từ, sợ vẫn phải
phiền các hạ lưu thông. Gần đây, phong khí Phật
học rộng mở, những bậc anh hiền chốn
khuê các cũng dấy lên nhiều lắm, cũng giải
được nỗi lo đau đáu của những
người bận tâm tới đất nước, nhân
dân vậy!
23. Thư
trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ sáu)
Chuyện
nhân quả báo ứng trong cuốn Phật Học Khởi
Tín Biên do ông rộng ḷng ban cho trước đây đủ
để chấn động kẻ điếc, mở mắt
cho người mù. Do vậy, tôi bèn tùy tiện nói với một
hai người bạn, bọn họ cũng vui thích muốn
xem, nhưng phiền một nỗi là không có ai tiện dịp
sang đất Thân (Thượng Hải) [để nhờ
thỉnh sách]. Do vậy, Quang tính thuận theo ư họ, xin
ông đọc thư rồi sẽ gởi cho một gói Phật
Học Khởi Tín Biên. Gói sách ấy chỉ lấy kích
thước của [bưu kiện] do bưu cục [đă
quy định] làm chuẩn, không cần biết là bao nhiêu
cuốn! Hăy ghi một tờ hóa đơn, thỉnh một
bản phải tốn bao nhiêu tiền, đợi khi Quang tới
Thượng Hải vào cuối tháng Sáu sẽ trả lại
theo đúng số, ắt chẳng đến nỗi sai chạy
vậy!
24. Thư
trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ bảy)
Lá thư
tôi dâng tŕnh lần trước chắc ông đă nhận
được rồi. Ngày hôm qua, ông Bao Ngọc Đường
đến thăm, cầm theo thư của các hạ và một
gói Phật Học Toát Yếu. Sách này từ chỗ cạn
tiến vào sâu, [giảng giải] nhân quả sự tích, luân
hồi báo ứng cũng như sự văng sanh Tây
Phương, liễu sanh thoát tử, đúng là đă trao cho
người ở trong nhà tối một ngọn đèn khiến
cho tu nhân kết quả nơi thân trước, thân sau đều
có thể quyết đoán sẵn được. V́ thế,
kẻ có tín tâm đều cùng yêu thích, chẳng tiếc tiền
tài để lưu thông.
Các hạ gạt bỏ
lời ông Ngũ nói th́ cũng là chuyện hay lắm. Phàm muốn
đoạn nghi, khơi gợi ḷng tin, chớ nên dùng những
lời lẽ nửa tin, nửa ngờ, cũng như trích
dẫn những lời lẽ giảng giải nghĩa lư
nhưng chẳng nương theo Thật Lư. Bởi lẽ,
những lời nói ấy có thể khơi gợi tín tâm cho
người khác mà cũng có thể khơi gọi ḷng nghi
ngờ của kẻ khác vậy! Có lẽ nên đưa
chương thứ tám ra phía sau th́ thể tài [của cuốn
sách] sẽ hợp lư hơn, mà cũng có thể khiến cho
người khác biết có những loại sách ấy để
thỉnh về đọc. Những điều nào nên cắt
bỏ hoặc nên thêm vào, xin ông hăy tự cân nhắc. Quang gần
đây bận bịu đa đoan, hằng ngày không rảnh
rỗi, xin ông hăy rủ ḷng thông cảm. Khi ông Bao đến,
Quang đă khuyên ông ta hăy tu tại gia, tu chân ngay trong cơi tục,
không cần phải xuất gia. Sợ rằng sau khi xuất
gia do hằng ngày ở chung với bọn Tăng lười
nhác, biếng trễ, lâu ngày chầy tháng sẽ chỉ trở
thành một gă ăn bám cửa Phật! Chẳng biết ông
ta có chịu nghe theo hay không?
25. Thư
trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ tám)
Vừa
nhận được thư và mười tám cuốn Phật
Học Khởi Tín Biên, c̣n Lục Đạo Luân Hồi Lục
vẫn chưa nhận được. Mỗi lần gởi
sách và thư th́ thường được chia thành hai lần
gởi đến. Quang cũng chẳng thể đọc Lục
Đạo Luân Hồi Lục nhiều được, trong
những phần tôi đă xem th́ thấy không có ǵ sai sót lớn
lao. Nhưng loại sách này nên lấy chuyện nêu rơ nhân quả
báo ứng làm chủ yếu, những bài dịch từ các
báo ngoại quốc như tờ Linh Học Chí v.v… đăng
ở cuối sách cũng có thể dùng để chứng
minh [nhân quả báo ứng]. Gần đây, ngoại quốc
cũng tin có quỷ thần. Đă có quỷ thần th́
đời trước lẫn đời sau đương
nhiên chẳng phải là không có, mà liễu sanh thoát tử lại
càng là nhiệm vụ cấp bách; nhưng người đọc
chẳng suy tới chỗ ấy, bèn học theo thói phù phiếm,
chẳng thân thiết!
Từ nay trở
đi, hễ sao lục những chuyện xưa, chuyện
nay, hăy đều nên chú trọng sao cho nhân quả báo ứng
được nêu tỏ rạng rỡ th́ sẽ có thể
làm cho người thấy kẻ nghe không ai chẳng kinh sợ
rét buốt tận xương, lông tóc dựng đứng,
sanh ḷng kiêng nể, sợ hăi. Đối với những lời
bàn luận chung chung về chuyện có ma quỷ, hăy nên dành
cho những tiểu thuyết gia thâu thập ḥng tô vẽ,
lưu truyền. Có người bảo các hạ tính [viết
sách về Phật pháp để] kiếm lợi cũng chẳng
phải là không có nguyên nhân. Các hạ đă lấy hoằng
pháp lợi sanh làm trách nhiệm của chính ḿnh, đừng
nên bắt chước những kẻ buôn sách: Hễ in ra một
cuốn sách mới liền áp dụng cách định giá của
các loại sách mới, chẳng bận tâm tới số
trang, công thợ! Các loại sách do các hạ in ra hăy nên
căn cứ vào giá vốn rồi tính giá tiền dôi ra đôi
chút ngơ hầu đại pháp được lưu thông mà
cũng chẳng bị hụt vốn. Nếu giá sách cao gấp
mấy lần giá vốn lẫn công thợ, sẽ bị
người khác công kích, chê gièm (ngay như Phật Học
Tiểu Từ Điển cũng bị định giá quá
cao). Do tôi lạm nhận là người
cùng chí hướng với các hạ nên mới dám nói thẳng
như vậy, xin hăy rủ ḷng tha thứ!
26. Thư trả lời cư
sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ chín)
Quang trọn
chẳng có học vấn lại thêm mắt ḷa; v́ thế
đối với trước thuật của các bậc
danh nhân xưa nay đều chưa từng ghé mắt vào. Tôi
chưa đọc bài văn bia của Ma Cật[20]
nên ư nghĩa, ngữ mạch trong phần văn trên và
dưới tôi đều không biết. Nếu chẳng vâng
lời thưa tŕnh, sợ các hạ trách móc. Nay tôi dựa
theo bổn phận của kẻ ḷa thốt lời sờ
voi cho xong trách nhiệm, chứ chưa chắc đă hoàn
toàn đúng, mà cũng chưa chắc đă hoàn toàn sai bét.
Xin bậc sáng mắt hăy cân nhắc để chọn hay bỏ
th́ may mắn lắm thay!
“Cổ duệ hải sư” (鼓
枻 海 師: bậc thầy
đẩy mái chèo trong biển cả) là từ ngữ
thường được dùng trong kinh để chỉ
người vào biển cả t́m vật báu. Từ ngữ “Hành giả chẳng biết Bồ
Đề” là nói về Thiền Tông, ngụ ư: Chỉ ra
trí thể của chư Phật ở ngay trong Phiền Hoặc
của chúng sanh. Ư nói: Kẻ vào trong biển cả t́m của
báu, chẳng biết nhà ḿnh sẵn có đồ quư, cao sang
nhất, quư báu nhất, có thể sanh ra vô lượng các
món báu, cứ rong ruổi t́m cầu bên ngoài, nào khác kẻ ôm
của báu lạc nẻo, đang cưỡi trâu lại
đi t́m trâu! Cần biết rằng: Thật Tánh của
tham - sân - si chính là Phật tánh! Nếu có thể triệt ngộ
Phật tánh ấy th́ trọn chẳng thể t́m được
tham - sân - si. Chân Giới, Chân Định, Chân Huệ ở
ngay trong bản thể, nhưng cũng chẳng thể t́m được
tướng của Chân Giới, Chân Định, Chân Huệ
! Đại ư của lời Lục Tổ nói là như thế
đấy. Lấy hai câu này làm câu văn để soi
ngược lại, nhằm tỏ rơ sự thắng diệu.
Đấy là sự sờ sẫm mù ḷa của Quang vậy!
Chẳng biết các hạ nghĩ như thế nào?
Hơn nữa, Thiền
Tông chuyên trọng tham cứu, chứ không chú trọng giảng
giải. [Pháp Bảo] Đàn Kinh tuy có những chỗ giảng
nói ư nghĩa, nhưng nếu chưa mở được
con mắt nhà Thiền th́ nếu chẳng biến Tông thành
Giáo cũng sẽ tưởng mê là ngộ. V́ thế, ông Bùi
Công Mỹ[21]
nói: “Hễ hiểu được
ư chỉ th́ mau thành Phật đạo! Hễ lạc mất
ư chỉ, sẽ mau vào Nê Lê[22]”.
Quang th́ Giáo cũng chẳng thông, huống hồ là Tông
ư? Nhưng cũng hơi biết lối vào môn đ́nh
hai tông ấy. Tiếc đă không chân, lại chẳng có mắt,
nên chẳng thể bén mảng nơi phên giậu được!
Kinh ấy (tức Pháp Bảo Đàn Kinh) cũng có thể lợi
người mà cũng có thể khiến cho người
khác bị lầm lẫn! Nếu có thể đối với
pháp nào, chuyện nào cũng đều nêu rơ tông chỉ “trực chỉ nhân tâm kiến
tánh thành Phật”, lại chẳng trái nghịch giáo
nghĩa th́ dẫu có nói “Lục
Tổ xuất thế” cũng không phải khen ngợi
quá lố! Nếu không, đă chẳng làm cho người
khác thấy được Tánh, lại c̣n đến nỗi
do Tông mà trái Giáo th́ lợi ích nơi Tông lẫn Giáo hai đằng
đều bị mất, sẽ ứng với ư nghĩa
trong câu nói thứ hai của Công Mỹ (tức câu “hễ lạc mất ư chỉ sẽ
mau vào Nê Lê”), cố nhiên vẫn chẳng bằng để
nguyên diện mục sẵn có của nó[23]
th́ hay hơn! Các hạ có tâm lợi người tha thiết,
Quang cũng ôm ḷng tha thiết ngừa cho người khác khỏi
bị sai lầm; v́ thế chẳng thể không thưa
trước để tận tấm ḷng ngu thành khăng
khăng trọn hết t́nh tri kỷ vậy!
Câu chữ
trong nhà Thiền cần phải có con mắt khác để
lănh hội! Nếu chẳng khéo hiểu ư sẽ chưa khỏi
“y văn giải nghĩa, tác tam
thế Phật oan” (dựa theo văn tự để
hiểu ư nghĩa khiến cho ba đời chư Phật phải
bị oan uổng). Lỡ như trái nghịch giáo nghĩa, chỉ
thành “ly kinh nhất tự, tức
đồng ma thuyết” (rời kinh một chữ, sẽ
giống như lời ma nói). Dễ th́ dễ như trở
bàn tay, khó th́ khó như lên trời. Nếu không phải là bậc
Tông lẫn Giáo đều thông, hai mắt viên minh, cố
nhiên chẳng nên khinh thường, dễ duôi theo đuổi
việc chú giải kinh ấy!
27. Thư
trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ mười)
Quang bẩm tánh ngu bướng, đă
không hiểu biết, lại chẳng hiểu đời
nên chẳng thể mềm mỏng thuận theo t́nh người.
V́ thế, phát nguyện suốt đời làm một Tăng
nhân ăn nhờ ở đậu măi măi, may được
cư sĩ chẳng chê bỏ Quang là hạng không ra ǵ. Phàm
nói ra điều nào dẫu cuồng ngạo, trái nghịch,
cũng đều được cư sĩ khen ngợi,
cảm thấy hổ thẹn đến cùng cực! Tục
ngữ có câu: “Nhặng xanh bám
vào đuôi ngựa Kư bèn đi được ngàn dặm”.
Ḷng Quang ngu thành, nhờ sức của các hạ mà khiến
cho hết thảy những ai có tín tâm đều cùng sanh
ḷng kính nể kinh tượng, ngơ hầu diệt được
tội khiên của tôi, tăng thêm phước huệ cho họ.
Xét tới nguồn cội, đều là được
thành tựu bởi các hạ vốn là một bậc thiện
tâm vui đạo vậy. Hết sức cảm ơn!
Quư môn nhân[24]
là Vạn cư sĩ hỏi về Bảo Hoa Tam Muội
Truyện, chùa Pháp Vũ không có sách ấy. Ở quư cục (tức
Y Học Thư Cục) đă không có th́ cũng khó thể
t́m được ở nơi nào khác! Hăy nên hỏi ở Bảo
Hoa chắc sẽ t́m được! Vị này[25]
chính là Bồ Tát thị hiện chứ không phải là
người thường, Sư là học tṛ của Huệ
Vân Hinh Công, là thầy của Kiến Nguyệt Thể Công.
Vào năm Sùng Trinh thứ mười (1637), Kiến Nguyệt
thọ giới dưới ṭa của vị ấy xong liền
nối pháp. Đến năm Thuận Trị thứ mười
(1653), Ngài đă làm Trụ Tŕ tại Hoa Sơn, vẫn chẳng
biết Ngài đă vào chùa bao nhiêu năm? Do điều này có
thể biết Ngài là người sống vào cuối đời
Minh. Người được Linh Ẩn Hối Công nhắc
đến chính là vị này vậy!
Kẻ mờ
mịt Phật tánh, mù mờ Chân Như bèn bài xích người
kiến đạo là chuyện thường thấy, cần
ǵ phải hỏi tới xuất xứ? Dẫu có chỉ
ra xuất xứ th́ cũng chưa chắc người ấy
đă là kẻ đầu tiên thốt ra lời ấy. Do vậy,
chẳng thà không chỉ ra xuất xứ th́ hơn! Bồ
Đề Đạt Ma truyền y bát tại Trung Quốc
nhằm thời Ngũ Đại, đến đời Lục
Tổ chỉ truyền pháp ấn, chứ không truyền y
bát. Hăy nên tra trong Lục Tổ Đàn Kinh sẽ biết
được nhân duyên. Nguồn tâm sẵn có của chúng
ta đều bị t́nh thức ngăn lấp nên chẳng
thể hiển hiện được. Nếu có thể phản
chiếu hồi quang, thấy ngay được t́nh thức
huyễn vọng ấy th́ nó sẽ c̣n khởi từ
đâu được nữa? Như vậy th́ trong chẳng
do tâm, ngoài chẳng do cảnh, hai đằng đều bị
cắt đứt, chính giữa cũng chẳng lập. Cái
gọi là “t́nh thức” hóa thành trọn chẳng c̣n ǵ! T́nh thức
chướng lấp đă trừ th́ nguồn tâm triệt
để hiển lộ. Đấy chính là cảnh tượng
đại triệt đại ngộ trong Tông môn vậy!
Tiễu (勦) là diệt. Theo đao chẳng theo sức,
hễ theo sức th́ chẳng phải là đúng nghĩa[26].
Càng về sau càng thua kém đời trước cũng là chuyện
thường được Giáo nói đến! Nếu chẳng
thể chỉ ra lời nói ban đầu do ai nói, chẳng
thà không nêu ra [th́ hơn]! Nói chung, hết thảy mọi sự
được tiền nhân sáng lập, người đời
sau kế thừa. Tuy càng về sau, càng tinh vi, càng mầu
nhiệm, nhưng công hiệu vẫn chẳng thể vượt
trỗi lúc ban đầu, bởi điều ấy do tiền
nhân sáng lập. Huống chi các vị tiền nhân sáng lập,
trước thuật trong Phật pháp phần nhiều là hạng
Pháp Thân đại sĩ thừa nguyện tái lai. Người
đời sau kế thừa, dẫu có đổ công sức
làm cho pháp ấy tinh vi, nghiêm mật trỗi vượt tiền
nhân, nhưng đại cương, yếu chỉ, những
lời bàn luận sâu xa thâm nhập được lư, không có
ǵ chẳng phải do tiền nhân đă t́m ra. Dẫu
chưa nêu rơ ra th́ [những ǵ người đời sau nêu
ra] vẫn là suy luận dựa theo ngữ mạch của
những lời tiền nhân đă nói. V́ thế, tuy những
ǵ về sau này trỗi hơn những ǵ thuộc thuở
ban đầu, quả thật vẫn kém hơn thuở ban
đầu vậy!
Từ ngữ “quang ảnh môn đầu” (光 影 門
頭) chỉ cho t́nh trạng “kiến
đạo chẳng chân thật”. Ấy là v́ lấy mặt
trăng trên bầu trời và thân h́nh con người để
ví cho đạo. Những kẻ chỉ thấy được
ánh trăng và bóng người bèn cho là đă đắc, há
có được chăng? Hơn nữa, nếu dùng mặt
trăng để ví cho đạo, lấy ánh trăng, bóng
trăng để ví với chỗ đạo lưu lộ
th́ cũng được. Ánh trăng, bóng trăng chính là chỗ
lưu lộ của mặt trăng, nhưng hăy nên từ
ánh trăng, bóng trăng mà ngẩng lên nh́n vầng trăng
trên trời, đừng ngỡ ánh trăng và bóng trăng
trong nước là vầng trăng thật sự!
Chuyện Huệ Quả
chưa được chép trong Tống [Cao] Tăng Truyện.
Từ sau Tống [Cao Tăng] Truyện, tiểu truyện của
những vị Tăng [trong các triều đại kế
tiếp] chưa được biên soạn. Bộ Minh Cao
Tăng Truyện, hai cuốn, chỉ sao chép [hành trạng của]
một hai vị đă biết, chẳng đáng gọi là
sách tiếp nối bộ Tống Cao Tăng Truyện. Hiện
thời, pháp sư Đạo Giai ở Bắc Kinh đang thỉnh
người sưu tập rộng khắp, tính chép nối
tiếp [hành trạng] của các vị cao tăng sau thời
những vị được nêu tên trong Tống Cao
Tăng Truyện cho đến hiện tại. Như vậy
th́ số quyển sẽ không thể dưới một
trăm mười quyển được!
Mật Tông lấy Tam Mật
Gia Tŕ khiến cho phàm phu được chứng thánh ngay
trong hiện đời, công đức lực dụng ấy
chẳng thể suy nghĩ được, chẳng thể
bàn bạc được, nên gọi là “lực dụng chẳng
thể nghĩ bàn”. Tuy Mật Tông đề xướng tông
chỉ ấy, nhưng cần phải là đúng người
th́ mới có thể làm được! Hạng người
ấy là hạng người nào? Chính là các vị như Kim
Cang Trí[27],
Thiện Vô Úy[28]
v.v… Nếu không phải là hạng như vậy th́ đạo
chẳng thể không hành xuông. Những kẻ học Mật
Tông hiện thời đều chỉ học được
ngoài da, hoàn toàn không có Kim Cang giới lực lẫn Bồ
Đề đạo tâm. Họ chẳng chú trọng tŕ chú
để đoạn Hoặc chứng Chân mà phần lớn
bắt chước hiện chữ, hiện h́nh tướng,
để hỏi cát - hung, họa - phước, nhân trước,
quả sau, giống như tác dụng của linh quỷ.
Đấy gọi là làm cho Mật Tông bị bại hoại;
tôi sợ quở tội họ c̣n chẳng xuể, nói chi là
thành thánh ngay trong cơi phàm! Chúng ta chỉ nên lấy pháp môn Tịnh
Độ làm một ṭa núi Tu Di lớn lao để dốc
hết toàn thân nương tựa, ngơ hầu chẳng bị
hết thảy tri thức lay động ḥng có thể liễu
thoát ngay trong đời này! Nếu không, sóng sẽ theo gió dấy
lên, trọn chẳng có lúc nào ngưng th́ buồn thay!
Tôi chưa từng thấy
sách Đại Tạng Bí Yếu, chắc là sách được
lưu truyền bởi người Nhật. Bốn câu “đoạt nhân cảnh”… chính
là lời lẽ trong bài Tứ Liệu Giản của ngài
Lâm Tế. “Đoạt” có
nghĩa là dứt bặt dấu tích, h́nh tượng vậy.
“Bất đoạt” có
nghĩa là “hiển thị Lư Thể”. “Nhân cảnh” chính là cảnh trí của nhân và pháp. “Sanh th́ quyết định sanh,
đi th́ thật sự chẳng đi”, tức là “đoạt
cảnh bất đoạt nhân”, nêu rơ người đi văng
sanh, dứt bặt cảnh được sanh về. “Đi th́ quyết định
đi, nhưng sanh th́ thật sự chẳng sanh” chính là
“đoạt nhân bất đoạt cảnh”, nêu rơ cảnh
được sanh về, diệt người đi văng
sanh. “Đi th́ thật sự chẳng
đi, sanh cũng thật sự chẳng sanh” chính là “nhân
lẫn cảnh đều đoạt”, tức nhân lẫn
cảnh đều vắng lặng vậy. “Đi th́ quyết định đi, sanh cũng quyết
định sanh” chính là “nhân lẫn cảnh đều chẳng
đoạt”, bởi nhân lẫn cảnh cùng được
hiển thị vậy. Tuy có bốn câu, nhưng chỉ nhằm
nói lên ư “tuy về mặt Sự th́ quả thật có sanh,
nhưng xét trên mặt Lư th́ thật sự vô sanh”, cũng là
diệu chỉ “nêu Chiếu, diệt Tịch; nêu Tịch,
diệt Chiếu; Tịch lẫn Chiếu cùng diệt; Tịch
Lẫn Chiếu cùng nêu”. Hễ sanh th́ ắt phải có
người [thực hiện hành động đó], v́ thế
gọi là Nhân. Hễ đi th́ ắt phải có cảnh
[để đến] nên gọi là Cảnh. Lư này rất
sâu, hăy nên sốt sắng niệm Phật ḥng đích thân thấu
hiểu được. Nếu không, sẽ trở thành Khẩu
Đầu Thiền, bàn xằng Bát Nhă đấy!
28. Thư
trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ mười một)
Hôm qua nhận
được thư và [bản chú giải] Quán Thế Âm
Kinh, cũng như tác phẩm lớn lao [của các hạ] là
[Phật Học Đại] Từ Điển, khôn ngăn
cảm kích, cảm ơn lắm! Nhưng do nét chữ quá nhỏ,
chẳng thể đọc kỹ được, chỉ
xem đại lược lời Tựa và mấy điều
thuộc phần Phàm Lệ[29]
mà thôi, giống như Hà Bá dơi nh́n biển cả, khôn
ngăn than dài sườn sượt! Tự thẹn cô lậu
quả văn (học kém, nghe ít), sống luống uổng
nơi cửa Phật chẳng có ích ǵ, cảm thấy hổ
thẹn không thể cùng cực được! Nay có người
khẩn cầu: Cư sĩ Tôn Ngọc Tiên ở Phụng
Hóa gần đây khá sanh ḷng tin tưởng nơi Phật học,
do thấy Di Lặc Bồ Tát từng thị hiện giáng
trần ở huyện Phụng Hóa[30],
chí càng tha thiết muốn lưu truyền sự tích của
Ngài để mong khơi gợi ḷng tin cho hết thảy mọi
người. Năm trước, ông ta đă khắc cuốn
sách Tích Lục Hoàn do ông nội của ông ta soạn. Mùa Xuân
năm ngoái đến núi tặng cho Quang một bộ.
Quang đọc, thấy những điều được
nói trong ấy đều là dùng tri kiến phàm phu để
suy lường, chứ trọn chẳng phải là những
lư đương nhiên trong Phật pháp cũng như [chẳng
nêu được] nguyên do v́ sao Di Lặc Bồ Tát ứng
thế. Lại c̣n sử dụng từ ngữ giống hệt
như lời lẽ thông tục chốn quê mùa, lầm lạc
khinh nhờn xằng bậy khiến cho người khác
đau đớn, bi thương. Quang vạch rơ cặn kẽ
khuyết điểm ấy, bảo ông ta: “Ông lưu thông
sách này nhằm tôn vinh ông nội, nhưng đối với
Phật pháp, đối với chúng sanh đều chẳng
có ích ǵ mà chỉ có hại, xin đừng lưu thông!” Ông
ta nghe lời Quang nói liền hủy bản in ấy.
Về sau, [ông Ngọc
Tiên] lại khắc Di Lặc Truyện, sách ấy rất
hay. Đầu Xuân ông ta liền gởi thư cho Quang, cho biết
là t́m được ngữ lục tại đạo tràng
của Phó Đại Sĩ, cũng muốn khắc ván. Quang
từng được thấy một bản do pháp sư
Hưng Từ bảo đệ tử quy y của thầy ấy
khắc in, [bản ấy] sai ngoa nhiều khôn kể xiết!
Sợ bản do ông Tôn t́m được chính là bản ấy,
cho nên bèn hỏi có phải là bản ấy hay không? Ông ta bèn
gởi sách ấy tới. Đây là bản in theo lối Thạch
Ấn, so với bản do pháp sư Hưng Từ đă khắc
sai ngoa càng nhiều hơn nữa. V́ thế, bảo ông ta hăy
khoan khắc. Năm trước Quang đă khuyên pháp sư
Hưng Từ nên in bản khác, Sư cũng chấp thuận.
Nếu Sư khắc in th́ [ông Tôn] không khắc bản này
cũng được, c̣n nếu khắc th́ hăy chiếu
theo bản của Sư đem khắc trong lần này cho
đỡ bị sai ngoa. Ngọc Tiên lại nói bi kư của
Phó Đại Sĩ vốn do Từ Lăng[31]
đă soạn dưới đời Trần, văn sâu, nghĩa
uyên áo, người đọc phần nhiều chẳng hiểu
được ư nghĩa, bảo Quang hăy khẩn cầu các
hạ chú giải tường tận th́ hết thảy
người đọc sẽ liền phát tâm Bồ Đề
mong được văng sanh Tây Phương ngay trong đời
này, dự hội Long Hoa trong tương lai. Quang nói khi chú giải
ắt phải xem kỹ ngữ lục hầu biết cội
nguồn, sự việc, cũng như biết đại
lược những điều Ngài đă đề xướng.
Bản khắc hiện
thời sai ngoa quá nhiều, nếu chẳng xét kỹ chắc
sẽ khó khỏi phạm sai lầm! Đợi cho bản
khắc lần thứ hai của thầy Hưng Từ
được in ra rồi mới chú giải th́ một là
sẽ đỡ tốn tâm lực, hai là không sai ngoa, ngơ hầu
có thể dẫn chứng đích xác, mở mang chánh nhăn cho
người khác. Tấm ḷng ấy thật ân cần! Đến
hôm qua [ông Tôn] lại gởi thư tới, ư muốn thực
hiện ngay chuyện này để mong sao Phó Đại
Sĩ Ngữ Lục sẽ được lưu hành cùng với
Di Lặc Truyện, bảo Quang gởi thư xin các hạ hăy
v́ chúng sanh mà phát Bồ Đề tâm, ngơ hầu mọi
người đều được biết tới
đạo uyên áo của đức Di Lặc, cầu khẩn
khôn ngằn! Do vậy, bèn đem bản Phó Đại
Sĩ Tập do Quang đă châm chước sửa đổi
gởi đi bằng thư bảo đảm và bỏ luôn
thư của Ngọc Tiên vào phong b́, mong ông hăy thỏa măn ư
nguyện nhỏ nhoi của Ngọc Tiên và Quang mà vung ngọn
bút lớn lao khiến cho quang minh của ngài Di Lặc được
chiếu trời soi đất đến tận đời
vị lai.
Đạo
tràng của Phó Đại Sĩ ẩn sâu trong xó núi. Gần
đây thật ít cao nhân tới trụ, nên bản ngữ lục
ấy qua nhiều lần sao chép, khắc ván thường
tăng thêm phần sai ngoa, hoặc thêm phần thừa thăi,
hoặc bị sai sót. Quang thấy vậy khôn ngăn đau
tiếc, bèn dùng tri kiến kém hèn để châm chước,
sửa chữa. Bản khắc lại của pháp sư
Hưng Từ sẽ dựa theo bản [sửa chữa]
này. Nhưng trong cơi đời không có bản nào hoàn chỉnh,
Quang lại không có sự hiểu biết chân chánh, chưa
chắc mỗi một điều đều đúng pháp.
Những chỗ được sửa cho đúng chiếm
hơn một nửa, dẫu có những chỗ bị sửa
đúng thành sai th́ cũng chỉ chiếm chưa tới một
nửa. Do trong cơi đời không có một bản hoàn chỉnh
nên không thể [dựa vào đâu để] châm chước,
cân nhắc sửa đổi được. Do vậy, nếu
giữ chết cứng thái độ thận trọng, theo
lệ chẳng dám sửa đổi một chữ th́ tấm
ḷng đau đáu của Đại Sĩ sẽ bị phong
kín bởi văn tự sai ngoa, thiếu sót, thừa thăi, sẽ
không có cách nào phô bày rơ rệt được! (Đây
chính là nỗi khổ tâm “chẳng lượng sức, cứ
làm chuyện châm chước, giảo định” của
Quang).
Dựa theo mặt sau
trang ba trong quyển bảy sách Phật Tổ Thống Kỷ
th́ tôn giả Pháp Hoa[32],
tổ thứ sáu của tông Thiên Thai, chính là hậu thân của
Từ Lăng. Ngài Trí Giả hoằng pháp ở kinh đô
vào đời Trần, Từ Lăng quy y dưới ṭa,
phát nguyện hoằng pháp trong đời sau. Trong một cuốn
sách Phó Đại Sĩ Ngữ Lục có tới ba bốn
tên, trong phần Thư Thiêm và b́a sách đều ghi là Tập.
Quyển một và hai lại ghi là Truyện Lục. Quyển
ba ghi là Thi Kệ. Quyển bốn hoàn toàn chẳng đề
danh xưng chánh thức của sách. Phần văn bia th́ ghi
là Phụ Lục Bi Văn, những chỗ khác chỉ có hai
chữ Phụ Lục. Quang châm chước đặt ra một
tên gọi, gọi chung toàn bộ cuốn sách là Phó Đại
Sĩ Tập. Hai quyển đầu ghi kèm thêm hai chữ
Truyện Lục, quyển ba ghi là Thi Kệ, quyển bốn
th́ trước phần văn bia ghi thêm ḍng chữ “phụ
lục bi văn”. Các truyện th́ ghi là “phụ lục truyện
này nọ”. Trong bản của pháp sư Hưng Từ tôi
đă viết rơ cách thức tŕnh bày cho thầy ấy; c̣n bản
này vốn để Quang giữ cho nên chưa ghi rơ.
29. Thư
trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ mười hai)
Mấy
hôm trước, em trai ông Mạnh Do là Quần Tranh tính thí tặng
các sách nói về nhân quả do các hạ đă soạn và Long
Thư Tịnh Độ Văn cũng như bộ Văn
Sao của Quang, nhưng v́ người đọc sách trong
hiện thời trọn chẳng chú trọng cung kính kinh
sách của thánh hiền, sợ người được
tặng sách sẽ đọc với thái độ như đọc
sách Nho th́ tội lỗi vô lượng. Do vậy, Quần
Tranh gởi thư cho Quang, xin soạn một bài văn khuyến
cáo, tính cho khắc ván, in vào đằng sau b́a sách, ngơ hầu
những kẻ hiểu biết sẽ chẳng đến
nỗi giữ măi thói quen [khinh nhờn] ấy! Quang liền
viết một bài gởi cho ông ta, nhưng do học thức
kém cỏi, thật khó thể cảnh tỉnh kẻ khác
được! Tuy thế, ắt sẽ có người do vậy
mà sửa đổi đôi chút thói quen cũ ấy.
Lại nghĩ: Sách
đă đóng b́a xong, nếu in thêm vào sẽ thật khó, nếu
hơi chẳng lưu tâm sẽ trở thành bôi lem nhem. Nhân
đấy nghĩ: Trên b́a của những cuốn sách do các
hạ biên soạn, nếu các hạ chịu in những lời
này, cố nhiên sẽ có ích lớn lao cho người đọc.
Đấy cũng là một đầu mối để
dùng pháp giáo hóa người khác. Nay tôi đem bài văn ấy
gởi kèm theo thư để tŕnh lên. Nhưng đấy
bất quá chỉ là nói đại lược mà thôi; nếu
các hạ chịu vận dụng tài viết lách lớn lao
để soạn một bài văn khiến cho người
đọc vừa nh́n vào sẽ kinh hồn th́ càng tốt
đẹp hơn nữa! Do vậy, không nhất định
phải dùng bài văn của Quang! Chỉ mong cho người
khác biết kiêng sợ ḥng ai nấy đều được
lợi ích vậy! Muốn được lợi ích thật
sự nơi Phật pháp, phải hướng về cung
kính mà cầu, đấy chính là thường pháp chẳng
thể thay đổi trong suốt mười phương
ba đời vậy! Tiếc cho người đời nay
phần nhiều coi thường chuyện này; do vậy, chỉ
mang cái danh nghiên cứu xuông, chẳng đích thân đạt
được thực chứng!
30. Thư
trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ mười ba)
Quang vô tri vô thức, bị ép vào thế
bất đắc dĩ, bắt chước cách thức
gom lá nhóm cỏ cho xong trách nhiệm, Úy Như lầm lạc
lưu truyền, cũng chẳng qua là tạm thời mà
thôi, lâu ngày ắt sẽ diệt mất! Nay được
các hạ sao lục đưa vào trong những trước
tác lớn lao, quyết sẽ được lưu truyền
rộng khắp thiên hạ hậu thế. Đúng như
câu nói: “Nhặng xanh bám đuôi
ngựa Kư nên đi được ngàn dặm”, cảm kích,
hổ thẹn khôn sánh! Trong lá thư lần trước,
ông đă nói đại lược về Huệ Mạng
Kinh, Quang chưa hiểu được ư. Nay nhận
được thư, biết các hạ muốn nhổ trọn
các cội rễ tà kiến, nêu đích danh sách ấy [là kinh
điển tà vạy của ngoại đạo giả
danh Phật pháp] và dẫn lời Quang đả phá, bài xích,
có thể nói ḷng từ sâu xa, ḷng bi lớn lao đến
cùng cực không ǵ hơn được nữa! Cảm tạ!
Bộ Văn Sao hủ bại của Quang nhờ được
các hạ tán dương quá mức sẽ được
lưu thông tận phương xa, sẽ có ích lớn lao cho
kẻ sơ cơ học Phật. Đợi đến
khi người ấy đă biết được
đường lối sẽ chẳng ngại ǵ coi [Văn
Sao] như chó rơm[33].
Nếu vẫn coi như khuôn thước th́ cũng không phải
là chẳng được! Bởi lẽ, pháp không có hơn
- kém, được lợi ích tùy nơi mỗi người
mà thôi!
31. Thư
trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ mười bốn)
Nhận được thư, các
hạ ra rả răn nhắc Quang phải đọc trọn
[Phật Học] Đại Từ Điển, càng chứng
tỏ ḷng các hạ vô ngă rỗng rang dường như biển
cả, dung nạp khắp mọi ḍng chảy, trọn chẳng
khi nào đủ! Quang mục lực suy đồi gần
như ḷa, thẹn chẳng thể ra sức ḍ theo từng
hàng mực, hổ thẹn khôn sánh! Ngày Hai Mươi Ba mới
nhận được bài chú giải Đại Sĩ Bi
(văn bia thuật hành trạng của Phó Đại
Sĩ) do ông Hoàng [Hàm Chi] biên soạn. Trộm nghĩ văn
tự, điển cố trong bài văn bia ấy cực
khó thấu hiểu tường tận được. V́
thế, ông Tôn Ngọc Tiên tính cậy các hạ chú giải
nhằm phát khởi thiện căn của hết thảy
người đọc, ngơ hầu được sanh về
Tịnh Độ ngay trong đời này, tương lai sẽ
phụ trợ đức Di Lặc trong hội Long Hoa. Lợi
ích ấy quả thật chẳng nông cạn! Nay thấy trong
bản chú giải của ông Hoàng, phàm những điển
tích người khác chẳng dễ biết mỗi mỗi
đều được nêu ra, chẳng những Quang và Ngọc
Tiên vui mừng, an ủi khôn cùng, mà Di Lặc Bồ Tát
nơi cơi Thường Tịch Quang và trời Đâu Suất
cũng mỉm cười bảo [ông Hoàng] đă nêu bày thông
suốt được bản hoài xuất thế của Ngài!
Nếu bài văn ấy được khắc, ắt sẽ
được lưu truyền khắp cơi, vĩnh viễn
không ngừng.
Quang do vô tri lại muốn
giúp lưu thông nên bèn dùng lối đánh số để chỉ
ra những chỗ sai ngoa do lưu truyền sao chép trong ấy
và những chỗ chưa được giảng giải
hết sức thông suốt, viết riêng vào một tờ
giấy khác để mong ông ta sẽ lại sửa chữa.
Cổ nhân soạn sách chẳng hiềm ba bốn lượt
sửa đổi bản thảo. Biết ông Hoàng và các hạ
là bạn tâm giao, sẽ trọn chẳng trách móc Quang phiền
phức, vụn vặt, mà sẽ vui vẻ sửa chữa
để mong sao trong hội Long Hoa thường được
Di Lặc Thế Tôn đề cao là bậc đa văn trí
huệ đệ nhất. Điều đáng tiếc là núi
sông xa xôi cách trở chẳng thể gặp mặt trong khi
các vị biên soạn nhằm trọn hết t́nh bằng hữu
thiết tha dùi mài! Những điều tôi đă nêu ra
chưa chắc đă đều đúng cả, nhưng ngu
kiến của Quang chỉ được như thế mà
thôi! Ví như kẻ thôn dă dâng rau cần, đứa bé dâng
cát, chỉ trọn hết phận ḿnh, há cứ ắt muốn
người khác phải sử dụng ư? Tưởng
nghĩ các hạ vô ngă, ông Hoàng cũng sẽ vô ngă, chỉ
muốn thành tựu thiện căn cho người lẫn
ḿnh, sẽ chẳng đến nỗi chê Quang lắm chuyện!
Nếu ông Hoàng chịu sửa đổi thành bản khác
th́ may mắn chi hơn! Nếu như không chịu, tôi sẽ
đem nguyên cảo gởi lại, bảo Ngọc Tiên khắc
in th́ cũng được!
Trong quyển
bảy của bộ [Phật Học] Đại Từ
Điển, trang 1029, phía dưới từ ngữ “ấn hoại thành văn” (ấn
nát nhưng dấu khắc trên ấn đă hiện) chú rằng:
“Đúc sáp thành ấn, in trên bùn
đất”, chưa đích xác! Ở đây là nói về
kim nê[34],
dùng ấn [đúc hay khắc bằng] sáp áp vào kim nê đang nóng
chảy. Do kim nê chưa nguội nên c̣n mềm mại có thể
đóng ấn vào được. Tuy đă bị ấn sáp
đóng xuống thành vết, nhưng v́ sức nóng của kim
nê nên ấn sáp bị chảy tan. Tuy ấn sáp bị chảy
tan, nhưng mỗi một nét khắc trên mặt ấn sáp
đă đều hiện rơ trên kim nê. Như vậy th́ ấn
bị hoại, nhưng nét khắc trên mặt ấn đă
h́nh thành, [hai chuyện này xảy ra] cùng một lúc. Nếu
hiểu là [đem ấn sáp] in trên bùn đất th́ làm sao ấn
có thể bị hư hoại cho được? Điều
này tuy không quan trọng khẩn yếu, chẳng qua là giăi
bày tấm ḷng ngu thành của Quang mà thôi!
32. Thư
trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ mười lăm)
Vừa
nhận được thư, khôn ngăn hổ thẹn, sợ
hăi! Ấn Quang là hạng người nào mà dám nhận lấy
lời khen ngợi ấy! Các hạ muốn cho kẻ
sơ cơ dễ được nhập đạo bèn
dùng phương tiện khéo léo, Quang thật sự khâm phục
ngưỡng mộ khôn cùng. Đối với chuyện ông
đă rộng thí pháp tài, cảm phục đến cùng cực!
Tuy thân Ấn Quang chẳng dư tiền, nhưng gần
đây do khắc ván, ấn loát v.v… cũng chẳng ngại
v́ các hạ làm công đức. Hôm nay nhận được
thư của Úy Như cho biết sẽ in Ấn Quang
Văn Sao, lại bảo Thương Vụ Ấn Thư
Quán sắp chữ để tái bản. Khoản tiền này
[do các hạ biếu tặng] ắt phải cầm sang [cho
ông ta]. Đợi khi sắp chữ thỏa đáng, sẽ
dùng khoản tiền ấy để thỉnh sách Văn
Sao hủ bại của Quang nhằm kết pháp duyên. Lại
xin ông ta gởi mấy chục bộ theo đường
bưu điện tới Phổ Đà để làm pháp thí
rộng răi cho các hạ. Lại nhờ các hạ dặn
Thương Vụ Ấn Quán hăy giữ lại bản in
để khi cần in lần thứ hai sẽ đỡ
phải tốn công sắp chữ lại. Thêm nữa, xin
ông dặn họ đừng dùng loại giấy có độ
bóng, hăy dùng đúng loại giấy mà ông Từ Úy Như
đă dùng để in [trong những lần trước].
Ngày Hai Mươi Bốn, Úy Như đă lên Bắc Kinh, xin
các hạ hăy để tâm dặn ḍ.
Hơn nữa, trong sách
Quán Âm Linh Cảm Lục, nơi mặt trước của
trang hai mươi hai trong chương thứ năm, đoạn
chép về Lương Cung Thần[35],
Quán Âm nói với Phạm Vương về mười thứ
tướng mạo danh nghĩa của chú tâm, thứ nhất
là “đại từ bi tâm thị”
(tâm đại từ bi là tướng mạo danh
nghĩa của chú Đại Bi), cho đến thứ
mười là “vô thượng
Bồ Đề tâm thị”. Năm trước, trong sách
Phật Học Chỉ Nam, ông đă từng sử dụng
cú pháp như thế này: Đem chữ Thị đặt
trên đầu mỗi câu, Quang đă từng nói cặn kẽ.
Nay lại sử dụng cú pháp như thế, biết các hạ
bận bịu nhiều việc trọn chưa thể kiểm
nghiệm từng điều. Chuyện này tuy nhỏ nhặt,
nhưng để cho bậc thông gia trông thấy ắt sẽ
chê cười, c̣n kẻ chẳng phải là bậc thông gia
trông thấy sẽ bắt chước! Cố nhiên Quang ḷng
dạ thẳng băng, ăn nói thẳng tuột, thường
muốn làm ḥn đá mài nơi ngọn núi khác nhằm giồi
mài cho viên ngọc xứ Kinh[36],
cho nên lại thưa rằng: Với từ ngữ A Già La
trong hàng thứ mười hai, chữ La (羅) chính là chữ Đà (陀) bị viết sai, [A Già La] tức là thuốc
A Già Đà vậy. Có người bạn tặng cho Quang bức
tranh vẽ chùa Vạn Niên núi Thiên Thai, nay xin tặng lại
để ông có cái ngao du tinh thần.
33. Thư
trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ mười sáu)
Vừa
nhận được thư, biết các hạ có chí mong lợi
người nhưng lại thận trọng nơi sự,
sợ rằng có chỗ không thích đáng sẽ gây trở
ngại cho pháp đạo, đáng gọi là “chân tâm hộ
pháp, chân tâm lợi người”. Lại do thấy Quang nghèo
nàn tiền bạc, liền đặc biệt gởi cho mười
tấm bưu phiếu, cảm ơn lắm. Đời Mạt
ít có tri thức thật sự, thường có những gă tục
Tăng vô tri dạy người khác niệm Phật, bảo:
“Cứ niệm Phật một tiếng th́ sẽ có một
đồng trong cơi Âm!” Nhưng kẻ ngu thấy biết nhỏ
nhoi, nói: “Mỗi ngày niệm Phật mấy vạn tiếng
liền có mấy vạn đồng! Buôn bán trong thế gian
nhọc nhằn, gian nan, trọn chẳng có được
chuyện lợi ích lớn lao như thế ấy”, liền
phát tâm niệm Phật coi như phương kế tích tụ
tiền tài, trọn chẳng biết tới nguyên do niệm
Phật! Do kẻ ấy tâm tâm niệm niệm dùng ḷng chí
thành để mưu tính tích tụ tiền bạc nên sẽ
tùy tâm tùy nghiệp mà hiện thành tiền.
Chuyện của
Trương Bân đích xác chẳng phải là ngụy tạo!
Điều đáng tiếc là ông ta chưa gặp được
bậc tri thức sáng mắt dạy cho biết nguyên do niệm
Phật. Nếu biết được nguyên do, dùng cái tâm
khẩn thiết ấy để phát nguyện tự lợi
lợi người, chắc ông Bân sẽ cao đăng chín
phẩm, chứng quả Vô Sanh! Há c̣n lo tích trữ mấy
kho kim tiền để đợi sau này sử dụng trong
cơi Âm nữa ư? C̣n như vua cơi Âm bảo: “Phàm ai thọ Bát Quan Trai Giới
chí tâm niệm Phật một tiếng th́ cũng đúc
được một đồng tiền bằng bạc”
cho thấy người đời dùng niệm Phật
để tích trữ tiền [nhằm sử dụng sau khi
chết] nhiều lắm, họ chẳng biết tới
công đức Niệm Phật, chỉ mong có tiền để
dùng sau khi chết, giống như đem Như Ư bảo châu
đổi lấy một tấm áo, một bữa ăn!
Há chẳng đáng tiếc ư?
Tuy nhiên, do vị
Thượng Thư khẩn cầu người thợ bện
dép cỏ Bồ nên liền được sống lại
để chuộc tội[37].
Tri kiến phàm phu trong thế gian chẳng thể suy lường
được công đức của sự phát khởi tâm
đại Bồ Đề niệm Phật! V́ thế, ngài
Tỉnh Am nói: “Tạm tŕ thánh
hiệu c̣n hơn bố thí suốt một trăm năm, vừa
phát đại tâm sẽ vượt trỗi tu hành suốt
kiếp”. Hai câu này đều dựa theo những điều
kinh luận đă nói mà nêu rơ, chứ không phải là bịa
đặt. Phàm sao lục những sự thật ấy,
hăy nên nói rơ chánh lư Phật pháp ở đằng sau mỗi
chuyện và chỉ rơ: Phàm phu thấy biết nhỏ hoi, chỉ
biết niệm Phật để tích cóp tiền th́ tiền
ấy sẽ theo cái tâm mà cảm vời, theo cái nghiệp mà
hiện ra cho nên thật sự có mấy kho tiền vàng trữ
trong chốn âm phủ! Phàm là người niệm Phật, ắt
phải phát đại Bồ Đề tâm phổ độ
chúng sanh th́ trong hiện tại các duyên sẽ thuận thảo,
thích đáng, lúc lâm chung chánh niệm văng sanh. Từ đấy,
thoát khỏi hàng phàm phu, dự vào hội thánh hiền,
nương theo Phật từ lực và nguyện luân của
chính ḿnh trở vào Sa Bà hiện khắp các sắc thân độ
thoát chúng sanh. Há nào phải khư khư như viên Thượng
Thư chỉ mong được nhờ ân ḥng diệt tội
ư? [Dẫn giải] như thế sẽ khiến cho
người đọc đoạn trừ được
những tri kiến kém hèn, mở mang, khơi gợi tín tâm
chân thật.
Nếu chỉ sao lục
nguyên văn, trọn chẳng b́nh luận th́ kẻ ngu sẽ
tưởng niệm Phật chính là một pháp để
tích trữ tiền bạc trong cơi Âm! Từ đấy một
người xướng, trăm kẻ họa, chỉ mong
làm quỷ có tiền, đánh mất chỗ nương dựa
để tạo lập công phu văng sanh Tây Phương! Người
trí thấy vậy sẽ chê kẻ biên soạn trọn chẳng
có chánh nhăn. Nếu b́nh luận nguyên do th́ đôi điều
đều đạt được! Nếu không, cả
hai điều đều mất. Những sách vở trong
thế gian đều có những chỗ giúp nêu tỏ Phật
pháp, nhưng do người soạn chưa mở được
chánh nhăn nên thường đến nỗi [dẫn đến
hiệu quả] trái nghịch. Như Kỷ Văn Đạt,
Viên Tử Tài cực lực muốn làm cho người khác
tin sâu nhân quả, nhưng chưa hiểu rơ tự tâm, nên
thường viết những câu tự mâu thuẫn, hoặc
hiểu lầm tin tức, ngỡ ma cảnh là Phật cảnh,
huống là những kẻ khác ư?
34. Thư
trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ mười bảy)
Vừa
nhận được thư và Đại Sĩ Tập,
khôn ngăn mừng rỡ. Bài văn Đại Sĩ Bi
đă được ông Hoàng [Hàm Chi] chú giải th́ ân trạch
của [Phó] Đại Sĩ sẽ thấm nhuần khắp
mọi quần manh. Tôi gởi thư ngay cho Ngọc Tiên, nói
rơ nguyên do và gởi kèm theo thư của các hạ. Chú giải
đă xong, nếu cho khắc ván chẳng cần phải nói
đến nữa! Nếu không khắc th́ sao ông ta lại
miệt mài muốn xin các hạ chú giải. Nhưng sau khi
chú giải đă soạn xong, sẽ đem nguyên cảo từ
chỗ Quang gởi đi, đợi cho ông ta đọc
xong th́ mới quyết định khắc ván hoặc
đúc bản kẽm! Lời hỏi của ông Vạn nên
ghi vào phía sau.
Tác phẩm
lớn lao của ông là [Phật Học] Đại Từ
Điển chữ quá nhỏ, mắt Quang chẳng thể
đọc được! Ngẫu nhiên đọc một
hai đoạn, tựa hồ có chỗ cần phải
thương lượng, châm chước, nên cũng viết
vào sau thư này. Những điều ông giảng giải về
từ ngữ “được Phật
tiếp dẫn” không sai, nhưng Thiên Thân Luận chính là
Vô Lượng Thọ Kinh Luận, cũng c̣n gọi là Văng
Sanh Luận. Trong Đại Tạng Mục Lục gọi
là Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Ba Đề Xá. Ưu Ba
Đề Xá[38]
chính là từ ngữ tiếng Phạn để chỉ Luận
vậy.
Trong từ ngữ “cách ấm chi mê” th́ Ấm có
nghĩa là sắc thân, tức Ngũ Ấm. Do điều
này, bậc Bồ Tát chưa đoạn sạch Kiến
Tư Hoặc trong tam giới hễ thọ sanh th́ vẫn
c̣n có cái làm cho họ bị mê hoặc, v́ thế gọi là “cách ấm chi mê”. Rất nhiều
vị đại căn khí lúc thoạt đầu cũng
mê muội trái nghịch giống như phàm phu, nếu gặp
được duyên hoặc vừa nghe khai thị liền
ngộ ngay lập tức, thật giống như người
thuộc hai cuộc đời khác nhau, đấy đều
là do đời trước đă gieo thiện căn sâu xa
nhưng chưa đoạn được Phiền Hoặc,
hễ vừa chuyển sang đời sống khác liền
trở thành mê trái. [Kinh luận thường] gọi lúc
chưa chết là Hiện Ấm, gọi lúc chết rồi
nhưng chưa thọ sanh là Trung Ấm, thọ sanh rồi
th́ gọi là Hậu Ấm. Hậu Ấm là ước theo
lúc chưa chết mà nói, chứ nếu ước theo lúc
đă thọ sanh để nói th́ phải gọi là Hiện
Ấm. Thuyết “cách ấm”
chỉ cho điều này!
Gạt bỏ Tây
Phương Di Đà, coi đó là chấp lấy pháp ở
ngoài tâm; đấy chính là căn bệnh chung của những
kẻ tham Thiền nhưng không hiểu được ư,
chỉ chấp có tâm, chẳng biết có Tịnh Độ,
cũng như [chẳng biết có] vị giáo chủ cơi Tịnh
Độ. Ư họ cho rằng: “Hết thảy duy tâm mà Di
Đà ở Tây Phương tức là chấp
lấy pháp ở ngoài tâm”, chẳng biết: Do hết thảy
duy tâm nên Sa Bà chỉ là do sự nhơ uế trong tâm cảm
thành, Cực Lạc cũng chỉ do sự khiết tịnh
trong tâm cảm thành! A Di Đà Phật ở Tây Phương
chính là đức Phật thiên chân nơi tự tánh của
chúng ta, đức Phật thiên chân trong tự tánh của
chúng ta chính là A Di Đà Phật trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới. Chẳng thấu hiểu nghĩa lư
“duy tâm”, lầm lạc sanh ư niệm lấy - bỏ, lỗi
ấy kể sao cho xiết? Ngoài tâm không cảnh, ngoài cảnh
không tâm, do tâm tịnh th́ cơi Phật tịnh, do tâm uế th́
cơi Phật uế. Cảnh thiện hay ác là do tâm thiện
hay ác cảm thành. Trọn chẳng có chuyện thiện tâm,
tịnh tâm lại cảm ác cảnh, uế cảnh, hoặc
ác tâm uế tâm lại cảm được thiện cảnh,
tịnh cảnh! Do bởi lẽ ấy cho nên nói: “Ngoài tâm không cảnh, ngoài cảnh
không tâm”.
35. Thư
trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ mười tám)
Nhận
được thư, biết sách Phật Học Toát Yếu
đă được sửa chữa, ấn hành, rộng kết
pháp duyên, khôn ngăn mừng rỡ, vui thích. Ông gởi tới
hai mươi cuốn, tôi chưa hề nhận được.
Thoạt đầu sợ là được gởi riêng
trong một bưu kiện khác, nên chắc sẽ chậm trễ
một hai ngày. V́ thế, tính khi nào nhận được sách
mới dâng thư phúc đáp. Đến nay vẫn chưa
nhận được, sợ bưu cục đă để
lạc mất rồi! Nhưng thiện thư ấy hễ
có ai xem th́ cũng được rồi, cũng chẳng cần
phải áy náy v́ Quang không được xem! Nhưng gởi
nhiều đồ vật qua bưu cục mà vẫn bị
như thế, chẳng biết họ đă bao lần làm hư
chuyện lớn của người khác? Xin hăy nói rơ với
bưu cục để họ lưu tâm.
Đối với những
bộ Nhị Thập Sử Cảm Ứng Lục đă được
khắc bản, các hạ có được sáu bảy loại
th́ những chuyện lạ lùng hiếm nghe được
ghi chép trong các bộ sử sẽ chẳng bị thiếu
sót. Nếu các hạ chịu chọn
lọc hết ra để lưu truyền trong vũ trụ
sẽ khiến cho những kẻ thiên chấp đoạn
kiến và những kẻ chỉ tin vào sử sách chẳng
tin vào nhân quả báo ứng được nói tới trong
các sách vở khác đều được lợi ích. Ấy
là công đức chẳng thể nghĩ bàn, chẳng những
có ích cho Phật pháp mà quả thật c̣n là khuôn mẫu lớn
lao cho việc tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ
vậy! Nguyện sau khi đă soạn thành sách rồi sẽ
đặc biệt ban cho Quang một bộ nhằm thỏa
tấm ḷng ngu muội th́ tôi cũng chẳng ngại phiền
phức, sẽ hướng đến khắp mọi
người hữu duyên để tuyên nói!
36. Thư
trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ mười chín)
Vừa
nhận được Quán Âm Linh Cảm Lục và Phật
Học Sơ Giai do ông gởi tới, khôn ngăn cảm phục.
Năm Mậu Ngọ (1918), Quang nhận lời thỉnh của
ông Trần Tích Châu tu chỉnh [Phổ Đà] Sơn Chí, Quang
tính sưu tầm khắp mọi sự tích linh cảm của
ngài Quán Âm trong Đại Tạng để đưa vào
trong Sơn Chí, nhằm nêu rơ thật nghĩa nơi Bổn
và Tích của vị chủ nhân núi này. Hiềm rằng mắt
vẫn ḷa như cũ, không cách nào viết lách được,
nay thấy bản biên tập của các hạ, khôn ngăn mừng
cho chúng sanh không nơi nương tựa trong cơi Sa Bà đă
có được nơi che chở. Tôi sẽ cất giữ
[cuốn sách này] trong pḥng chứa kinh. Nếu vạn nhất
được toại nguyện, mắt được
sáng lại, sẽ thực hiện ư nguyện sửa chữa,
tu chỉnh Sơn Chí lần nữa, ắt sẽ chọn lọc
sử dụng tài liệu trong cuốn sách này nhằm
đáp tạ ân lớn lao của Đại
Sĩ, ḥng an ủi nỗi khổ tâm của các hạ,
mà phẩm sen của lệnh nghiêm, lệnh từ cũng sẽ
được chuyển cao lên hơn nữa.
Cuốn Phật Học
Sơ Giai tôi sẽ đem tặng cho người có tín tâm
để rộng kết pháp thí cho các hạ. Bát Đại
Nhân Giác Kinh do ông gởi khi trước tôi đă nhận
được rồi. Ông sai tôi viết lời đề
từ cho cuốn Phật Học Sơ Giai th́ tôi văn từ
thô lậu, quê mùa, chẳng thể nêu tỏ ư nghĩa của
cuốn sách ấy được! Do vậy, chẳng qua là
làm chuyện tắc trách mà thôi!
37. Thư
trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ hai mươi)
Quang vốn
là chủng tử địa ngục hủy báng Phật pháp,
may mắn nhờ vào thiện căn đời trước,
giữa chừng giác ngộ xuất gia tu tŕ Tịnh nghiệp
để mong thoát khỏi cơi khổ năo này mà thôi! Nào ngờ
[Mă] Khế Tây cứ muốn ép tôi vào địa ngục A Tỳ,
biến tôi vốn là chủng tử địa ngục rốt
cuộc thành một vị Bồ Tát sống! Hay th́ hay thật
đấy! Nhưng Diêm La đại vương quyết
chẳng chấp nhận đem phàm lạm thánh, ắt sẽ
phải mời tôi là một vị Bồ Tát giả tới
hiển hiện thần thông trong vạc sôi, ḷ than, rừng
gươm, núi đao v.v… nơi ấy! Sợ rằng sẽ
phải đem đầu mặt giao nộp mà thôi! Chẳng
những không thể sanh về Tây Phương mà c̣n sợ rằng
sẽ phải thường ở măi trong địa ngục
A Tỳ không thể thoát ra! Nếu ông thương xót tôi,
quyết sẽ đem truyện[39]
ấy đốt sạch hết đi khiến cho ông ta chẳng
c̣n làm những chuyện bịa đặt sáo rỗng ấy
nữa th́ may mắn muôn phần, vạn phần vậy!
38. Thư
trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ hai mươi mốt)
Nhận
được thư và sách Tam Tạng Pháp Số[40],
khôn ngăn mừng vui, an ủi. Nhưng Quang cứ một
mực muốn in phần Thư Căn[41].
Sau này hễ in sách, đều cần phải in chữ
nơi phần Thư Căn để tiện kiểm tra
pḥng ngừa sách bị mất trang. Cách ấy chính là cách tốt
đẹp để bảo tồn sách vở vậy. Cao
Tăng Truyện c̣n phải đợi ba năm nữa mới
khắc ván được, năm năm nữa mới in
ra sách được! Trong sách ấy bị sai ngoa rất
nhiều v́ Dụ Muội Am nghề nghiệp bận bịu,
cậy người khác biên soạn giùm; khi biên chép, tŕnh bày
đều không giảo duyệt tường tận. Ông ta
lại đôi ba lần cậy Quang giảo chánh, nhưng
Quang quả thật suốt ngày không có lúc rảnh rỗi.
Hôm nay ông ta gởi thư đến nói: “Dù phải chậm
trễ ba năm cũng không đáng lo ngại!” Nhưng các
sách [ông ta] đă đọc phần nhiều đều là
các tỉnh phủ huyện chí, những sách được
liệt kê tuy không nhiều lắm, nhưng những sai sót
trong ấy cố nhiên chẳng ít. Ông đáng gọi là bậc
đọc rộng răi các sách, phàm những điều nào
không có trong các truyện về những bậc cổ đức
lỗi lạc xin hăy đều sao ra, phán đoán thời
đại của các vị ấy để lúc khắc ra
sẽ tùy theo từng loại mà ghép vào phần trước
hay phần sau [bộ sách này].
Hơn nữa, tập
sách này không có lời b́nh luận, Quang tính thỉnh ông Hứa
Chỉ Tịnh viết lời b́nh luận [dưới mỗi
truyện] cho giống với thể tài của ba tập
trước. Hơn nữa, ba tập [cao tăng truyện
các đời] Lương - Đường - Tống đều
có thiếu sót. Nếu ông đọc các sách cổ thấy có
vị cổ đức lỗi lạc nào mà trong Cao Tăng
Truyện chưa có th́ cũng nên sao ra để soạn
thành phần Bổ Di[42]
in kèm sau sách. Ông Hứa Chỉ Tịnh bút lực vượt
trỗi vạn người, văn chương lừng lẫy
một thuở, hiện đang biên soạn bộ Quán Âm Cảm
Ứng Tụng cho Quang. Phần chánh văn đă biên soạn
xong, Quang bảo ông ta viết thêm lời chú, sẽ hoàn tất
vào tháng Ba năm sau th́ ân trạch của Đại Sĩ sẽ
được thấm nhuần khắp hoàn vũ vậy!
39. Thư
trả lời cư sĩ Châu Quần Tranh
Ḥa
Thượng Liễu Thanh đưa thư của ông cho tôi
đọc, cảm kích sâu đậm tấm ḷng chân thật
v́ pháp của cư sĩ. Ông yêu mến tôi tới tột bậc,
nhưng chẳng biết cách yêu mến, nên chẳng thể
không tŕnh bày đại khái để dứt nghi t́nh. Bộ
Phật Môn Vựng Tải được biên soạn nhằm
chấn hưng pháp đạo, chỉ dạy kẻ ngu mê, nếu
[tác phẩm nào] lư không đạt tới mức uyên thâm, bút
mực không siêu diệu như biển rộng trời cao,
vàng rung, ngọc chạm, khiến cho người khác vừa
đọc sẽ sanh ḷng tỉnh ngộ mạnh mẽ
như trong đêm tối nghe tiếng chuông sẽ tỉnh
ngay giấc mộng hư huyễn th́ làm sao đáng
đưa vào trong ấy! Ấn Quang là một ông Tăng tầm
thường, trăm sự chẳng làm được một,
mắt lại c̣n bị tật đă lâu, chẳng thể
đọc khắp các kinh luận, lại trọn chẳng
có tánh nghe, nghe xong liền quên sạch, trọn chẳng nhớ
được tí ti nào! Làm sao có thể dự vào trong hội
tốt lành ấy cho được? Trong mấy chục
năm qua, không có chuyện ǵ [cần thiết] th́ tôi chẳng
gần gũi bút mực. Úy Như sưu tập những bản
văn hủ bại đem khắc ván là đă quá phận rồi,
huống chi nay lại giao cho Thời Sự Tân Báo Quán ư?
Tục ngữ có câu: “Không gạo không sao nấu
cơm được!” Không phải là Quang chẳng muốn
được thể diện, nhưng do không có gạo nên
chẳng thể đem đất, đá, trấu, tấm
giả làm món ăn ngon lành khiến cho người khác chê
cười! Đối với ḍng họ ngoài đời,
năm tháng xuất gia, những chỗ đă trụ, những
chuyện đă làm, đấy chính là những dữ liệu
về bậc đại thông gia có công đối với
pháp đạo nên được người đời
sau sao chép để nêu gương nhằm phát khởi cái tâm
kính ngưỡng, mong mỏi, hâm mộ của người
khác nên không thể nào chẳng làm như vậy. C̣n như
Quang là một ông Tăng tầm thường, ngoài chuyện
ăn ngủ ra, trọn chẳng biết ǵ cả, trọn
chẳng làm được ǵ! Sao đáng để noi theo
khuôn sáo ấy? Dùng khuôn sáo ấy sẽ trở thành khắc
phân người giả làm Chiên Đàn, đẹp th́ đẹp
mặt thật đấy, nhưng chỉ thối tha, không
thơm tho ǵ! Cũng giống như đem đất, gỗ
giả làm vàng ngọc, choáng lộn th́ choáng lộn thật
đấy, nhưng chỉ có sắc chứ chẳng thể
tỏa sáng được! Khi chưa xuất gia, Quang
đă coi chuyện hư trương thanh thế là điều
đáng thẹn, huống chi nay đang muốn theo gót các vị
thượng thiện nhân ưu du trong thế giới An
Dưỡng! Há chịu biến không thành có để lừa
đời, dối ḿnh ư?
Một
câu Nam Mô A Di Đà Phật chỉ cần niệm cho thuần
thục th́ thành Phật c̣n có thừa, không học Mật pháp
nào phải áy náy ǵ? Mỗi ngày niệm Phật ba chục vạn
câu th́ ư căn lẫn thiệt căn đều nhạy bén,
nhưng đừng chỉ hâm mộ niệm cho nhiều! Hăy
nên dốc sức nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm
tiếp nối mà thôi! Hơn nữa, những kẻ tu hành
phù phiếm, hời hợt hiện thời phần nhiều
đều chẳng tu hành chân thật, chỉ mong được
hư danh. Quang từng thấy rất nhiều kẻ công
khóa hằng ngày niệm Phật tới mười vạn
câu Di Đà, nhưng đều là phô phang thanh thế sáo rỗng
nhằm dối ḿnh lừa người mà thôi! Hễ nhiễm
phải thứ tập khí ấy th́ sẽ chỉ nhọc
nhằn chứ không có công hiệu ǵ đâu! Nhỏ th́ sẽ
biến không thành có, lớn th́ đem phàm lạm thánh, chẳng
những không có công lao ǵ mà tội lỗi cũng chẳng
thể nói trọn hết được!
Hiện
nay tăng nhân tuy nhiều, nhưng kẻ có thể hoằng
pháp thật ít. Do thỉnh pháp sư chẳng dễ, cho nên đến
nỗi như thế. Nhưng nghe kinh giống như tu tŕ
Tịnh nghiệp, hễ nêu rơ nguyên do của tự lực
và tha lực th́ sẽ có lợi lớn lao. Nếu chỉ cầu
thông đạt giáo nghĩa, chẳng chú trọng Tịnh
Độ th́ sợ rằng sẽ không có sức đoạn
Hoặc chứng Chân. Muốn đới nghiệp văng sanh
mà lại chẳng sanh tín nguyện th́ tuy có Phật lực
nhưng không có cách nào nương cậy, sẽ trở
thành kẻ có nhân không quả, nghiệp thức mờ mịt!
Cần biết rằng: Những giáo pháp được nói
trong suốt một đời đức Phật đều
thuộc về pháp môn tự lực, chính là giáo lư theo
đường lối thông thường; c̣n Tịnh Độ
chính là pháp môn đặc biệt, hoàn toàn cậy vào Phật
lực. Nếu có thể đoạn Hoặc chứng Chân
ngay trong đời này th́ chẳng cậy vào Phật lực
cũng chẳng mắc lỗi ǵ! Chứ nếu đă không
thể đoạn Hoặc chứng Chân ngay trong đời
này mà lại chẳng cậy vào Phật lực th́ nếu
không ngu ắt cũng là cuồng! Những bậc đại
thông gia hiện thời thường là như thế đấy,
buồn thay!
Người
học đạo chuyện ǵ cũng phải noi theo thật
t́nh, cuối thư há nên dùng chữ “trăm lạy” sáo rỗng?
Chắc là ông nghĩ khuôn phép sáo rỗng ấy là cung kính
đấy chăng? Từ nay về sau đừng nên
như thế nữa! Chỉ nói “đảnh lễ” là
được rồi!
Thư của
Lâm Tâm Liên hỏi về Lư Trác Ngô. Người này cũng thuộc
hạng “tưởng chừng là đúng mà thật ra là sai!”
Xét ra, ông ta xuất gia nhưng không thọ giới, liền
tự nói pháp, tới khi người trong vùng chê là tà thuyết,
ngông cuồng, trái nghịch, bèn đội mũ làm nhà Nho.
Xét theo học thức của Trác Ngô, làm sao có thể phô bày,
đề cao tâm pháp của Thích - Nho được? Ông ta
đột ngột hoàn tục tức là hành vi không có
đường lối nhất định, cứ làm bừa
theo ư ḿnh. Há c̣n đáng gọi là bậc quân tử hiểu
lư, thấu hiểu tận cùng tánh hay chăng? Cuốn
Cư Sĩ Truyện[43]
đặc biệt viết truyện về ông ta, quả thật
là đề cao quá đáng! Sợ ông Lâm vẫn chẳng chấp
nhận lời Quang là đúng, v́ thế tôi viết kèm thêm
vào thư gởi cho ông.
Ông muốn xuất gia đă lâu, chẳng
biết khẩn thiết như thế nào? Nay thấy [cách
xử sự khi] ông ở chùa Thái B́nh th́ cũng là phường
hời hợt, hờ hững. Tức là ông muốn xuất
gia chỉ nhằm cầu được thanh nhàn, tự tại
mà thôi! Nếu thật sự muốn tu tŕ sẽ chẳng đến
nỗi thong dong, lửng lơ như thế!
Kinh Lăng
Nghiêm có ǵ mà chẳng thể nghiên cứu được!
Nhưng cần phải lấy Tịnh Độ làm chủ
th́ hết thảy kinh sẽ xiển dương lợi ích
của Tịnh Độ. Phần mở đầu kinh
Lăng Nghiêm gạn hỏi cái tâm khó khăn như thế
th́ biết chúng sanh đời Mạt nếu cứ muốn
nghiên cứu [kinh điển xuông] để giải quyết
sự việc th́ sẽ tự lầm, lầm người
lớn lao! Huống chi trong phần Hai Mươi Lăm
Pháp Viên Thông, kinh xếp pháp Viên Thông của ngài Thế Chí trước
pháp Viên Thông của ngài Quán Âm, hàm ư lấy Tịnh Độ
làm [pháp môn] chủ yếu cũng lớn lao thay! Đến
phần giảng rơ về cảnh Ngũ Ấm Ma, [Phật
dạy] kẻ phá được hai ấm Sắc và Thọ
mà vẫn c̣n có chuyện bị ma dựa, đủ thấy
sự khó khăn khi dùng tự lực để liễu
sanh tử, sự dễ dàng khi dùng Phật lực để
liễu sanh tử. Nghiên cứu được như thế
th́ sẽ có lợi ích lớn lao.
Phàm khi nghiên cứu, ắt
phải lắng ḷng, dứt bặt suy nghĩ, ngưng thần
đọc kỹ th́ sẽ như vào trong đảo châu báu
lớn, ắt sẽ có thu hoạch. Nếu chỉ mong
đọc ào ào cho nhanh, hận chẳng vừa đọc
là xong ngay, th́ chẳng những không hiểu được
nghĩa lư của kinh mà lâu ngày chắc sẽ bị bệnh
đến nỗi tổn khí, thổ huyết v.v… Người
khéo được lợi ích, không ǵ chẳng tạo lợi
ích; kẻ cam chịu tổn hại, không ǵ chẳng phải
là tổn hại! Kinh Lăng Nghiêm quả là bản kinh mầu
nhiệm để hoằng dương Tịnh Độ,
nhưng kẻ chưa hiểu pháp môn Tịnh Độ
thường do kinh Lăng Nghiêm mà ngược ngạo coi
thường pháp môn Tịnh Độ. Đấy gọi
là “kẻ nhân thấy là nhân, kẻ
trí thấy là trí”, do chính ḿnh chưa có đủ chánh
nhăn, cứ cậy vào ư kiến của chính ḿnh để hiểu
ư kinh mà ra!
Lăng Nghiêm quán nhiếp[44]
khá rơ ràng, nhưng giải thích kinh văn dễ dàng, rơ ràng
nhất th́ không ǵ bằng sách [Lăng Nghiêm] Chỉ Chưởng;
nhưng đa số những chỗ trọng yếu trong
Chỉ Chưởng lại không theo sát kinh văn, đấy
là do mỗi người khéo hiểu mà thôi! Thoạt đầu
cần phải nghiên cứu Tịnh tông đến chỗ
không c̣n bị dao động, mê hoặc th́ mới có thể
đọc rộng răi các kinh luận. Nếu chưa hiểu
rơ Tịnh tông, hễ đọc rộng răi các kinh luận
sẽ khó khỏi bị kinh giáo hoặc lời lẽ của
tri thức xoay chuyển, ngược ngạo gác bỏ Tịnh
Độ ra ngoài. Người đời nay hễ hiểu
kinh giáo đôi chút bèn chú trọng nơi nghiên cứu, hễ
hơi hiểu Thiền ư bèn chú trọng nơi tham cứu. Nguyên
nhân nói chung là do họ không biết chính ḿnh là nghiệp lực
phàm phu chẳng thể tự chứng giải thoát
được! Cái cực thâm diệu nằm ở chỗ
cực b́nh thường! Ví như một câu Phật hiệu
vốn cực b́nh thường, nhưng niệm tới
cùng tột th́ trăm ngàn pháp môn, vô lượng diệu
nghĩa đều có thể hiểu được! Lại
như gốc cây, vốn cực b́nh thường, nhưng
sanh rễ, nẩy mộng, đâm cành, trổ nhánh, nẩy
lá, đơm hoa, kết quả, thật mầu nhiệm chẳng
thể nghĩ bàn! V́ thế, kẻ biết nh́n vào, biết
thực hiện cái b́nh thường th́ chính ḿnh mới thật
sự có sở đắc. Nếu chỉ biết thâm diệu
th́ phần nhiều khó thể tận tụy thực hiện
được, trở thành kẻ chỉ biết nói những
lời lẽ thâm diệu mà thôi!
Lệnh
hữu bị bệnh, chỉ nên khuyên ông ta trở về
nhà dưỡng bệnh. Vàn muôn phần chớ nên để
ông ta tới Phổ Đà; do ông ta quen thói kẻ cả, thức
ăn phải nấu nướng khéo léo, nhà cửa phải
lộng lẫy, người hầu hạ phải lanh lợi,
hễ gặp một chuyện ǵ không vừa ư liền sanh
phiền năo! Ở Pháp Vũ chẳng có một điều
nào hợp ư ông ta được đâu! Huống chi ông ta tự
cao tự đại, trọn chẳng có tín tâm, tuy anh ông
đă ghi tên xin quy y giùm ông ta, thế mà khi Quang đến
Thượng Hải, ông ta trọn chẳng có một lần
nào đến thăm hỏi (Quang không trách ông ta bất
kính, nhưng do vậy biết ông ta tự đại
cũng như thiếu hẳn tín tâm).
Làm sao tới núi dưỡng bệnh cho được? Nếu
chẳng nói rơ những chuyện này, chắc ông ta sẽ
nghe theo lời hai anh em ông khuyên, đường đột
chẳng nghĩ thân phận, tánh t́nh của ḿnh như thế
nào, Pháp Vũ là nơi chốn như thế nào để rồi
đến ngay, sẽ trở thành chướng ngại,
không bao lâu sẽ phải bỏ đi, đâm ra bị tổn
hại vô ích! Ngàn vạn phần đừng khuyên ông ta tới
núi kẻo đến nỗi đôi bên đều bất
an.
Sư Hoằng
Nhất chỉ muốn làm một gă tự giải thoát,
muôn phần chẳng thể đảm nhiệm sự việc
được! Do thầy ấy tâm hạnh tỉ mỉ,
tinh tế, hễ phải đảm nhiệm công việc sẽ
bị tổn thương, hễ bị tổn
thương sẽ phải bỏ cuộc giữa chừng.
Nếu tự ḿnh dụng công th́ sẽ được yên
vui.
Mua loài vật
phóng sanh, nếu dựa theo lư rốt ráo “tự
thương, thương người” để luận,
[khi con vật bị chết trước lúc được
phóng sanh] cố nhiên nên đem chôn, chớ nên đổ xuống
nước khiến xác con vật đă chết trôi lềnh
bềnh trong nước, rốt cuộc chẳng phải
là kế sách tốt đẹp! Nếu bảo là v́ nó đă
chết, liền đem cho người khác ăn và thí cho
người nghèo ăn th́ cũng không phải là không
được. Hăy nên bảo người ăn niệm Phật
cho con vật đă chết ấy thật nhiều bởi
nó là con vật được phóng sanh; nếu không, ăn
vào sẽ bị mắc tội. Nếu có thể niệm Phật
cho nó th́ đôi bên đều được lợi ích. Dùng
điều này để khuyên bảo th́ cũng có thể dẫn
dụ người ăn kia gieo được chút thiện
căn. Dẫu chưa thể thả được sanh vật
th́ đối với những thức ăn do chính ḿnh sắm
sửa, hăy nên niệm Phật cho nó th́ đôi bên cũng đều
được lợi ích. Ông chấp chặt hẹp ḥi
như thế, cho rằng đă nói quy y niệm Phật th́
không được ăn, tức là dạy kẻ ăn thịt
nhất loạt chẳng niệm Phật! Những kẻ
ăn thịt ấy chỉ biết thịt là thứ có vị
ngon, chẳng biết sau này khi chính ḿnh cũng sẽ là thức
ăn có vị ngon để cho người khác giết
ăn th́ trong tâm họ mới cảm thấy khó chịu. Kẻ
ấy đă chẳng hiểu sự việc như thế
th́ đành để mặc cho kẻ ấy sau này đợi
người khác giết ăn là được rồi; cần
ǵ phải phí sạch tâm tư khuyên nhủ hắn! Hắn
đă mong cầu được người khác ăn hắn,
ông khuyên hắn đừng muốn t́m cầu sự khổ
ấy, đâm ra trong tâm hắn lại chẳng yên vui! Cứ
để mặc hắn đi, để cho hắn đem
thân làm món ăn cho người khác; đến lúc ấy, dẫu
tâm can đau xé cũng vô ích. Khi ấy hắn sẽ tự
hiểu sự sai lầm trong lúc này và lời ta đă nói với
hắn chẳng phải là dọa dẫm th́ cũng đă
muộn rồi!
Thuốc
là vật dùng để trị bệnh, hễ bị bệnh
do nghiệp gây ra th́ thuốc men chẳng làm ǵ được
cả! Huống hồ sắp chết th́ thuốc có thể
hồi sanh được hay chăng? Dẫu không phải
là do nghiệp gây ra mà chí tâm niệm Phật th́ cũng sẽ
tự chẳng sanh bệnh. Mắc bệnh th́ uống thuốc
cũng được! Nếu chuyên trông cậy vào thuốc
th́ nhà phú quư, nhà thầy thuốc sẽ không có ai bệnh tật,
đều trường thọ cả rồi!
Những kẻ ăn
thịt kia do tâm tham sai khiến, muốn bảo họ
đừng ăn th́ phải từ nhân quả báo ứng và
nỗi đau khổ, oán kết phát sanh v́ bị giết hại
mà nói th́ mới dễ lay động ḷng người
được! Nếu chỉ biện minh là tịnh hay bất
tịnh th́ đấy chỉ là sự việc nơi cành
nhánh. Hơn nữa, người ta đă muốn ăn th́
đâu cần bận tâm thịt là thứ bất tịnh!
Trước kia, có một vị đại cư sĩ hoằng
pháp mấy chục năm, nhưng hằng ngày vẫn
ăn thịt (tên của vị này Quang chẳng nói,
ông cứ suy ra là biết liền),
huống chi những kẻ hời hợt, hờ hững
ư? Nếu ông thật sự muốn làm lợi người
khác, hăy nên lưu truyền những lời răn dạy cực
thống thiết của cổ nhân. C̣n như trong bài
văn ông đă soạn, ông nêu ư nghĩa “một người
phóng sanh th́ mười nhà được hưởng lợi
ích” và thuyết “những thứ ấy chẳng phải là tam
tịnh[45]
nhục” th́ đấy chính là những nghĩa lư chi ly, vụn
vặt, phiền phức của các vị giảng sư. [Nghe
nói về những nghĩa ấy], kẻ có tín tâm th́ c̣n sanh
được thiện tâm, chứ kẻ không có ḷng tin chắc
sẽ phỉ báng.
Tôi đă nhận
được bài văn Mười Thứ Lợi Ích,
đem tặng hết rồi. Suy nghĩ cặn kẽ th́
thấy những điều được nói trong bài
văn ấy sẽ có thể khiến cho những gă đứng
ngoài cửa dấy lên lời dị nghị, hễ tặng
hết bài văn ấy xong hăy đừng in nữa th́
hơn. Tôi chẳng bảo những lời ông nói không
đúng, chỉ là chưa nói được cương lănh
trọng yếu. Cương lănh trọng yếu là ở chỗ
nào? Chính là ở chỗ [sát sanh] sẽ kết oán thù triền
miên, đời đời kiếp kiếp tàn sát lẫn
nhau. Ông chỉ nên chí tâm niệm Phật để làm phương
kế siêu thoát cho những kẻ giết chóc và những con
vật bị giết chóc th́ sẽ có lợi ích lớn lao.
Nếu khăng khăng đem bài văn ấy đăng trong
các tờ báo Phật giáo th́ rốt cuộc có được
mấy ai xem? Vợ và em gái ông nhất định muốn dùng
thịt để đăi khách, hai người ấy chết
đi chắc chắn phải biến thành lợn, dê, gà, vịt,
tôm, cá. Nếu chẳng biến thành những thứ bị
người khác giết để ăn th́ trời đất
cũng sẽ đổi vị trí, mặt trời, mặt
trăng sẽ xoay sang phương Đông. V́ sao vậy? Do
nhân như vậy nên phải cảm quả như vậy.
Xin hăy đem lời này của Quang đưa cho họ xem, chắc
c̣n có thể cứu được! Nếu không, chắc họ
sẽ thường biến thành món ăn ngon nhất cho
người ta đăi khách, chẳng biết họ sẽ vừa
ḷng thỏa ư hay đau khổ mong mỏi được cứu
nhưng vạn phần chẳng có cơ duyên được
cứu? Trong cơi đời, những người ăn chay phần
nhiều khỏe mạnh, những ai ăn thịt thường
lắm bệnh tật. Do ăn thịt trược ác nên dễ
sanh dục tâm, ăn chay thanh tịnh nên dục tâm nhẹ
ít. Kẻ ngu chẳng hiểu lư, tưởng ăn thịt
để bổ dưỡng con người, đấy là
muốn cho cả ḿnh lẫn người sẽ đều
biến thành súc sanh trong đời kế tiếp và đời
sau, chẳng đáng buồn ư?
Ông nay muốn
cầu được văng sanh Tây Phương ngay lập tức,
ư niệm ấy cũng tốt, nhưng chỉ nên thuận
theo nhân duyên của chính ḿnh. Nếu đặc biệt khởi
lên cái tâm quyết liệt, cứ mong được văng
sanh ngay th́ sẽ trở thành cái gốc để bị ma
dựa đấy! Cái họa mai sau làm sao tưởng
tượng được! Sách Trung Dung có câu: “Quân tử tố kỳ vị
nhi hành. Tố hoạn nạn hành hồ hoạn nạn”
(Quân tử hành xử theo đúng địa vị; gặp
cảnh hoạn nạn bèn cư xử theo đúng cảnh
hoạn nạn). Cách cư xử theo đúng cảnh hoạn
nạn ấy nay ông hăy nên bắt chước làm theo. Gặp
cảnh tật bệnh, phiền năo bèn cư xử theo
đúng cảnh tật bệnh, phiền năo, coi chính ḿnh là kẻ
thường bị bệnh tật th́ không có cái tâm bộp
chộp mong gấp được lành, cứ nhất tâm niệm
Phật th́ mới chóng lành. Thấy quyến thuộc
đáng giận hay đáng yêu liền nghĩ những
người ấy chính là ḥn đá thử vàng để ta trui
luyện công phu nên đặc biệt đối với kẻ
đáng giận sẽ chẳng sanh ḷng giận, đối
với kẻ đáng yêu sẽ chẳng sanh ḷng yêu. Đấy
gọi là “chuyển phiền
năo thành Bồ Đề, chuyển bệnh khổ thành an lạc”.
Nhất tâm niệm Phật cầu mau được văng
sanh. Nếu như chẳng thể văng sanh được
ngay, chớ nên khởi lên tâm niệm bộp chộp, mong gấp
đạt được th́ bệnh khổ sẽ tự
tiêu diệt, quyến thuộc sẽ tự ḥa thuận tốt
lành. Xin ông hăy suy nghĩ sâu xa. Bệnh chưa hoàn toàn b́nh phục
hẳn, trọn chớ nên gần nữ sắc!
Hiện
thời trừ đề xướng nhân quả báo ứng
và giáo dục trong gia đ́nh ra, sẽ chẳng thể nào cứu
văn được đâu! Giáo dục trong gia đ́nh phải
rất chú trọng tới nhân quả báo ứng. Các vị
Lưu, Tŕ đáng gọi là biết bệnh, biết thuốc,
nhưng chưa đề cập đến giáo dục
trong gia đ́nh th́ vẫn chưa thể viên măn đầy
đủ. Xin hăy nói tường tận với các vị ấy.
Đức
Như Lai thuyết pháp đều thuận theo t́nh người,
chẳng ép người khác làm chuyện khó khăn. Như kẻ
thọ giới Ưu Bà Tắc, hoặc thọ một, hoặc
hai, hoặc ba, hoặc bốn điều, hoặc thọ
trọn đủ, đều tùy theo ư muốn của con
người. Ngay như giới dâm, kẻ xuất gia phải
đoạn hoàn toàn, chứ với người tại gia chỉ
ngăn cấm tà dâm. Bởi lẽ, nam nữ lập gia
đ́nh có quan hệ lớn với luân thường nên chẳng
ngăn cấm; nhưng đă thọ giới nhà Phật th́
ắt phải tiết dục. Nếu chẳng v́ [có người
nối ḍng để] thờ phụng tổ tiên, chỉ
mong vui sướng, tuy chẳng phạm giới vẫn phạm
lỗi lớn; chẳng qua so với tà dâm th́ giảm nhẹ
hơn mà thôi! Bồ Tát sống trong cơi tục tuy cũng có
vợ con nhưng không có dục niệm, cũng v́ thuận
theo t́nh cảm con người mà có lúc làm chuyện vợ chồng,
bởi phàm phu chẳng thể vô t́nh. Nếu muốn trọn
chẳng thân ái, chắc sẽ tạo thành oán hận đến
nỗi khởi lên họa hại hủy báng Phật pháp. Chẳng
những không thể tăng trưởng thiện căn mà
c̣n tạo thành nghiệp hủy báng, đọa lạc trong
ác đạo. V́ thế, trước hết phải dùng dục
để lôi kéo, sau mới làm cho con người tiến nhập
Phật trí. Đấy chính là ḷng đại từ bi uyển
chuyển thuận theo t́nh cảm của con người,
khéo bày phương tiện. Chỉ nên tiết dục, bất
tất phải tuyệt dục. Mỗi quư (ba tháng) gần
gũi một lần, ngơ hầu vợ chẳng đến
nỗi mang nỗi khổ oán vọng mà sự tu tŕ của
ông cũng chẳng bị trở ngại, lại c̣n có thể
dẫn dụ vợ tu tŕ Tịnh nghiệp.
Hăy nên nói: “Nếu chẳng
tu hành Tịnh nghiệp sẽ vĩnh viễn tuyệt giao!”
Cô ta sẽ gắng sức thực hành. Đối với
chuyện có sanh con hay không, chẳng cần phải bàn đến
nữa! Bởi lẽ anh em ông thật đông con, há cứ
cần chính ḿnh phải có con th́ mới chẳng tuyệt
ḍng nối dơi tổ tiên ư? Ấy là v́ vợ chồng
ăn ở với nhau bởi có túc duyên. Chẳng thể làm
cho vợ ḿnh gieo thiện căn, nỡ ḷng bỏ mặc
cô ta đọa trong ác đạo ư? Kinh Thi có câu: “Thê tử hảo hợp, như
cổ cầm sắt. Huynh
đệ kư hấp, ḥa lạc thả trạm. Nghi nhĩ
thất gia, lạc nhĩ thê noa” (Vợ con ḥa hợp,
như gảy đàn cầm, như đánh đàn sắt.
Anh em ḥa thuận, vui sướng, yên ổn. Gia đ́nh êm ấm,
vợ con vui vầy). Khổng Tử nói: “Phụ mẫu kỳ thuận hỹ hồ!” (Cha
mẹ đẹp ḷng vậy thay). Ông nhất ư tu hành, đoạn
tuyệt dục sự, chắc cô ta sẽ oán hận triền
miên, hoặc đến nỗi uất ức mà chết. Nếu
ông quả thật đạt được Thượng
Phẩm Thượng Sanh th́ không bị trở ngại lớn
lao ǵ. Nếu không, sẽ mắc lỗi trái ư cha mẹ, trở
thành kẻ oán đối của vợ th́ cũng là phiền
lụy lớn lao, so với nỗi phiền lụy do nới
lỏng dục sự đôi chút th́ sẽ sâu đậm
hơn nhiều lắm! Quang là Tăng nhân, trọn chẳng
khuyên người khác tạo nghiệp. Người ta
đă đem thân giao phó cho ông th́ hăy nên trọn hết đạo
vợ chồng. Chuyện này chính là nghĩa trọng yếu
trong đường tu hành, là điều chí t́nh nơi luân
thường. Xin ông hăy phát Bồ Đề tâm, dẫn dắt
cô ta là kẻ chẳng biết “dục chính là cội khổ”
cùng sanh về thế giới Cực Lạc vô dục, ngơ hầu
chẳng phụ đời trước có duyên với nhau,
đời này làm vợ chồng vậy!
Lại nữa,
nếu vợ sanh con th́ sẽ là phiền lụy lớn lao.
Không con th́ sẽ yên vui tột bậc! Nhưng cháu cả một
bầy, chứ đâu phải chẳng có đứa con nào!
Luận sát sao theo sự thật th́ ông có phước thù thắng
hơn anh em ông nhiều lắm, nhưng người đời
phần nhiều chẳng thấy được điều
này, nên suốt cả đời làm đầy tớ cho con
cái. Thử suy nghĩ sẽ thấy quả thật là một
điều may mắn lớn lao! Lời này tuy trái nghịch
t́nh cảm, nhưng thật ra là chí lư chí t́nh.
Bảy
anh em của ông nội lệnh hữu do cùng một cha sanh
ra, con cháu của ông nội thứ năm[46]
đều là hậu duệ của cùng một ông cố. V́
hai gian nhà cho thuê thâu nhập hơn ba trăm đồng liền
muốn kiện nhau nơi cửa quan, chắc sẽ tốn
bộn tiền. Chuyện kiện tụng chỉ là khoe tài
căi lư, muốn biến vô lư thành chuyện hữu lư! Nếu
họ khởi lên ác tâm, thốt ra lời ác [chửi bới,
tranh chấp nhau], sẽ khiến cho người chung quanh
cũng như người đời xầm x́: “Nhà ấy
tổ đức đă suy nên lũ con cháu trong cùng một
nhà tranh chấp lẫn nhau, anh em bêu riếu nhau!” Nhục
lây đến tổ tiên, tội không chi lớn hơn nữa!
Chuyện nhỏ tí tẹo trong gia đ́nh, hăy nên nghĩ
đến ân đức tổ tiên mà đặc biệt rộng
lượng, chớ nên [xử sự] giống như tranh
chấp cùng người đời! Dẫu là đối với
người trong cơi đời đi nữa, vẫn nên làm
chuyện nghĩa, chỉ mong cho ai nấy được sống
yên vui, dẫu ngàn vàng cũng chẳng nuối tiếc! Huống
chi [ai nấy] đều là hậu duệ của cùng một
cụ cố hay sao?
Bảy chi họ đều
có sản nghiệp, chi dụng trong nhà cố nhiên chẳng
cần phải nhờ vào mối thu nhập ấy để
sống c̣n, sao lại ăn thua đủ với nhau, chẳng
ai chịu nhường ai? V́ tranh chấp món tiền mấy
chục đồng ấy mà kiện nhau ra cửa quan,
chưa chắc bảy chi họ đă khỏi phải tốn
một đồng nào! Dẫu chẳng phải tốn một
đồng nào đi nữa, không ǵ bằng chôn vùi tổ
đức, nỗi nhục ấy c̣n quá bại gia phá sản!
Chỉ v́ một chi họ tuy vẫn đủ ăn,
nhưng toan độc chiếm tài sản chung do tổ tiên
để lại, đến nỗi sáu chi họ kia cùng dấy
lên cái tâm bất b́nh, tức là đă vứt bỏ tổ
tiên ra ngoài, chỉ muốn mưu tính cho con cháu [của chi họ
ḿnh] được giàu có, trái nghịch tổ đức,
phạm các điều ác! Đừng nói là hơn ba trăm
đồng, dẫu cho ba trăm vạn đồng đi nữa
cũng chẳng phải là điều phước cho con
cháu mà chính là chuốc họa cho con cháu để mong cho
chúng bị tuyệt diệt đấy! Đọc sách hiểu
lư, sao lại tăm tối đến như thế?
Hăy thử xét xem: Xưa
nay những ai giúp người lợi vật, tôn kính tổ
tiên, thương yêu cho ḍng họ, con cháu không ai chẳng nắm
địa vị cao, hưởng phước dầy,
đời đời kế thừa tổ đức triền
miên chẳng dứt? Kẻ chỉ biết lợi ḿnh, chẳng
đoái hoài tổ tông, đất nước, nhân dân, không
ai ba đời chẳng nối tiếp nhau tuyệt diệt
hay chăng? V́ sao vậy? Do căn bản tâm địa
đă hoại, giống như dùng nước có chất
độc để tưới tắm cây hoa, lúa, đậu,
chẳng những vô ích mà c̣n có hại! Nếu một chi họ
đă như vậy th́ sáu chi họ kia há nên bắt chước
ăn thua đủ, cứ muốn “cá đối bằng
đầu” với họ, trọn chẳng muốn chiếm
địa vị cao cả, cứ nhất quyết phải
cùng với họ chen chân vào chốn hèn hạ ô uế
ư?
Hăy nghĩ xem: Nếu tổ
tiên chẳng để lại căn nhà ấy th́ có c̣n làm
người được hay chăng? Lại may mắn
là tổ tiên để lại lắm của cải, chứ
nếu nghèo trắng tay th́ sẽ tranh giành với ai? Suy
nghĩ đến điều ấy th́ nhường cho bọn
anh em trong họ mấy chục đồng có ǵ mà không
được? Phạm Văn Chánh (Phạm Trọng Yêm) c̣n
tậu nghĩa điền cho cả họ, huống là anh
em cùng một nhà ư? Họ Phạm từ đầu đời
Tống cho đến cuối đời Thanh đỗ
đạt chẳng dứt, ấy là do đức dầy của
Văn Chánh Công và con cháu đời đời vâng giữ,
tu tập tổ đức mà ra. Bọn anh em cùng một chi
họ của lệnh hữu đều là con em nhà thư
hương, dẫu chẳng nghe tới đạo lư rất
sâu của Phật pháp, nhưng những chuyện ấy (tức
gương tốt đẹp của Phạm Trọng Yêm) chắc
đă từng nghe, sao chẳng “thấy người hiền
mong được bằng” để chú trọng vun bồi
tổ đức? Xin hăy đưa thư này của Quang cho
khắp các chi họ của lệnh hữu được
xem, chắc ai nấy sẽ nghĩ đến tổ đức,
noi theo dấu vết cũ. Nếu không, hăy khuyên lệnh hữu
đem món tiền của ḿnh dùng vào việc công để
mong chấm dứt được chuyện ấy. Ông ta
không có con cái, vẫn nên [coi như] dùng [món tiền ấy] cho
con cái ḿnh th́ sẽ rạng rỡ tổ đức, rạng
rỡ pháp đạo. Mai sau được tốt đẹp
như thế nào chẳng phải là điều Quang có thể
biết được nổi!
40. Thư
trả lời cư sĩ Lư Cận Đan (thư thứ nhất)
Nhận được
thư, khôn ngăn cảm kích, hổ thẹn. Quang là ông
Tăng chỉ biết cơm cháo, trừ mặc áo, ăn
cơm ra, chẳng làm được ǵ khác! May là vẫn chịu
học theo thói ngu phu ngu phụ nên chẳng đến nỗi
than thở xuông, chẳng biết làm sao! Các hạ muốn
thọ Tam Quy Ngũ Giới, sao chẳng chọn vị nào
đạo đức học vấn cao siêu, lại chọn
một ông Tăng chỉ biết cơm cháo th́ các hạ
cũng muốn dự vào đội ngũ ngu phu ngu phụ,
chẳng muốn gia nhập hàng ngũ của những vị
cao siêu, lạ lùng, đặc biệt ư? Tuy nhiên, đang
trong thời thế này, hành theo ngu phu ngu phụ vẫn thực
tế hơn! Nếu kẻ cao siêu kỳ đặc chịu
buông xuống những chuyện cao siêu, lạ lùng, đặc
biệt, ắt sẽ có kết cuộc cao siêu, lạ lùng,
đặc biệt lớn lao! Nếu không chịu buông xuống
th́ cũng chỉ đạt được kết cuộc
là hư danh cao siêu, lạ lùng, đặc biệt, quyết
chẳng đạt được sự cao siêu, lạ
lùng, đặc biệt thật sự. Pháp Niệm Phật
lư cực cao sâu, sự thật b́nh thường, muốn cầu
tâm tương ứng với Phật th́ điều thứ
nhất là phải chí thành khẩn thiết, điều thứ
hai là [lắng] nghe. Quay trở lại nghe nơi tiếng niệm
Phật, cùng giữ được ḷng thành và lắng nghe
th́ sẽ tự trừ được hôn mê tán loạn!
41. Thư
trả lời cư sĩ Lư Cận Đan (thư thứ hai)
Nhận
được thư, biết cư sĩ tự đảm
nhiệm và quyên mộ người khác đảm nhiệm
in Đại Sĩ Tụng, lấy hai ngàn bộ làm chuẩn,
khôn ngăn vui mừng, an ủi. Cư sĩ cảm khái v́
ḷng người chẳng bằng thuở trước, biếu
tặng thiện thư rất ít đạt hiệu quả,
nhưng người trong nước ta gần đến
năm vạn vạn người! Trước đây, Quang
đă cho khắc ván An Sĩ Toàn Thư, sau đấy lại
bảo Trung Hoa [Thư Cục] sắp chữ ấn hành,
quyên mộ chỉ được bốn vạn cuốn.
Trung Hoa Thư Cục in kèm và in riêng tổng cộng
được một vạn hai ngàn bộ. Nếu luận
về hiệu quả th́ cũng chỉ được một
hai phần! Ấy là v́ con người chưa suy xét kỹ,
đa số không biết. Quan Quưnh Chi tin tưởng Phật
pháp là do bản khắc ván của An Sĩ Toàn Thư phát khởi;
Chí Viên giảng thuyết cho ông ta nên từ đấy bèn sanh
ḷng chánh tín. Nếu đất Hỗ (Thượng Hải)
không có Quưnh Chi th́ sợ rằng cảnh tượng nơi
đất Hỗ sẽ kém xa hiện thời!
Chúng ta chỉ cần
phát khởi cái tâm làm lành cho người khác, c̣n người
ta có phụng hành hay không th́ tùy họ. Ấn Quang sanh ḷng tin
đối với pháp môn Tịnh Độ là nhờ quyển
Hạ của Long Thư Tịnh Độ Văn, đủ
biết sách ấy có ích cho con người vừa sâu vừa
xa vậy! Quán Thế Âm là chỗ nương tựa cho pháp
giới chúng sanh, nếu ai nấy đều biết, sẽ
có đông đảo người do vậy mà cầu mong
tiêu tai thoát họa cho đến liễu sanh thoát tử. Tiếc
cho cơi đời chưa có một bản sưu tập
đến nỗi những kẻ chẳng tu tập Phật
pháp đều chẳng được biết. Đấy
chính là nguyên do v́ sao Quang thỉnh ông Hứa Chỉ Tịnh
soạn sách Đại Sĩ Tụng này vậy!
42. Thư
trả lời cư sĩ Lư Cận Đan (thư thứ ba)
Hôm
trước, sư Minh Đạo đến đây, cho biết
đă đưa bộ Đại Tạng Kinh bản đời
Tống của ông qua chùa Hiển Ninh, công đức vô
lượng. Thầy ấy chẳng lượng sức,
tiếp nhận bốn ngôi chùa hoang tàn ở Hàng Châu, đều
do các vị cư sĩ đất Hỗ và thầy của
ông ta giúp đỡ duy tŕ. Về sau, Tam Thánh Đường
ở trên núi [Phổ Đà] bị hỏa hoạn, cháy rụi
một nửa, vị thầy ấy không thể lo liệu
thêm các nơi khác được. Hiện thời c̣n thiếu
tiền công thợ và các hóa đơn phải chi phí hơn
ba ngàn đồng, không làm cách nào được. Những khoản
tiền dư ra ở chỗ Quang phần lớn đều
để giúp cho hai chùa Linh Nham và Thọ Lượng,
cũng chẳng thể giúp đỡ thầy ấy! Thầy
ấy chỉ mong các vị đă bỏ tiền làm công
đức trước kia mỗi người sẽ cho
mượn ba trăm đồng, nhưng sợ chưa thể
lo liệu mỗi việc vẹn toàn được! Nếu
cư sĩ chịu giúp cho sự cấp bách cháy mày này th́ trong
năm sau vẫn c̣n tiến hành [sửa chữa cho xong] được.
Nếu không, chắc là phải bỏ cuộc giữa
đường, há có phải là thất bại khi sắp
thành công hay chăng?
43. Thư
trả lời cư sĩ Lư Cận Đan (thư thứ tư)
Những lời nói
trong nhà Thiền tốt nhất là chỉ nên bỏ mặc,
đừng bàn đến! Nếu muốn biết hiểu
rơ ư nghĩa nguyên do của những lời lẽ ấy th́
phải ngộ đôi chút. Nếu không, dẫu có đọc
sách Thiền th́ cũng như nói chuyện với người
ngoại quốc, hoàn toàn chẳng thấu hiểu
được cái hay trong ấy. Huống chi ông tuổi
đă cao rồi, thời thế lại như thế này,
há nên dùng thời gian đáng quư báu nhất để nghiên cứu
những câu nói không thể suy luận ấy ư? Thường
có những kẻ ở trong nhà Thiền mấy chục
năm vẫn chẳng hiểu được những câu
nói ấy có ư nghĩa ǵ! Dẫu có dùng ư tưởng để
suy đoán đi nữa th́ cũng là nói mớ trong mộng
mà thôi! Xin hăy bỏ ư niệm ấy đi! Hăy nhất tâm niệm
Phật, niệm đến mức Phật lẫn tâm đều
mất th́ vừa nh́n vào những câu nói ấy sẽ khôn
ngăn bật cười. Nếu chẳng được
như thế th́ chỉ cần văng sanh vẫn có thể
đích thân chứng được lư ấy, huống là hiểu
được những lời lẽ ấy ư? Nếu
chẳng coi lời Quang là đúng, cứ suốt ngày đọc
ngữ lục nhà Thiền th́ Tông cũng chẳng thể
thông mà Tịnh cũng chẳng chú trọng. Khi sanh tử xảy
đến, chỉ đành theo nghiệp thọ sanh!
44. Thư
trả lời cư sĩ Lư Cận Đan (thư thứ năm)
Hôm qua nhận
được thư, biết Thánh Định đă văng
sanh Tây Phương, lâm chung chánh niệm, chết rồi
đảnh đầu vẫn ấm, vẻ mặt càng
đẹp, đang lúc nắng gắt mà chẳng hôi thối.
Chỉ ngay từ mấy tướng lành ấy đă có thể
quyết đoán bà ta được văng sanh. C̣n về phẩm
vị văng sanh th́ nói chung là Trung Phẩm. Do Trung Phẩm
đều là phẩm vị văng sanh của người trọn
vẹn điều lành nơi giới và điều lành thế
gian; cũng chẳng cần phải nói cho dễ nghe, cứ
khăng khăng bà ta Thượng Phẩm văng sanh. Dẫu
cho Hạ Phẩm Hạ Sanh th́ nghiệp đă vượt
trỗi chư thiên trong tam giới rồi, huống hồ văng
sanh trong bậc Hạ thuộc Trung Phẩm ư? Bốn
mươi chín ngày không ngớt tiếng niệm Phật, chẳng
những hữu ích cho người đă khuất mà quyến
thuộc hiện tại cũng được lợi ích lớn
lao!
Linh Nham theo lệ không
niệm kinh, bái sám, phóng Diệm Khẩu, làm pháp sự hệ
niệm, làm đàn Thủy Lục, truyền pháp, thâu nhận
đồ đệ, giảng kinh, truyền giới, làm
pháp hội. Công khóa hằng ngày giống như Phổ Thông
Phật Thất. Chỉ những ai có tín tâm, chẳng chú trọng
màu mè, hoa dạng, xin mở Phật thất th́ liền chấp
nhận. Nếu chèo kéo thân hữu rộng răi và dẫn nữ
quyến trẻ tuổi đến trước hôm mở
thất và xong thất mới đi th́ cũng không chấp
nhận. Năm Dân Quốc 17 (1928), Trương Minh Kỳ (là
đệ tử quy y) mở Phật
thất bốn mươi chín ngày, không một ai bỏ
đi. Năm Dân Quốc 18 (1929) cũng mở Phật thất
hai mươi mốt lần, cũng không một ai bỏ
đi. Năm Dân Quốc 19 (1930), có hai mươi mấy lần
mở Phật thất cũng không quá năm sáu gia đ́nh đến
dự, nhưng cũng chỉ ở một hai ngày hoặc
đôi ba ngày mà thôi. Năm Dân Quốc 20 (1931) do người
đông pḥng hẹp, liền cho xây cất lớn, Phật
thất càng đông hơn. Nay gởi cho ông một tờ
sao bài bi kư, ông đọc sẽ biết.
Nếu ông muốn tạo
lợi ích giúp cho Thánh Định, do bà ta lúc sống thường
ăn chay, khi làm ma chay chắc ông cũng chẳng đến
nỗi dùng rượu thịt. Trong khi tang ma và cúng giỗ
sau này, xin ông hăy bảo lệnh lang đừng bắt
chước thói tục. Trong khóa tụng sáng tối, lúc hồi
hướng Quang sẽ đọc pháp danh của bà ta để
hồi hướng trong hai mươi mốt ngày cho trọn
hết t́nh thầy tṛ.
45. Thư
trả lời cư sĩ Lư Cận Đan (thư thứ sáu)
Ông nói
trong khi làm việc cũng không quên niệm Phật, ấy
là tướng cái tâm niệm Phật thuần thục, sao lại
bảo là hôn trầm, thuộc về vô kư (không thiện,
không ác)? Nhưng cũng chưa phải là “vô niệm mà niệm”,
mới chỉ có hơi hướng của “vô niệm mà niệm”
đó thôi! Nếu tưởng đấy chính là “vô niệm
mà niệm” th́ sẽ giống như dùi gỗ thấy khói bốc
lên liền bảo là đă được lửa, thôi không
dùi nữa, sẽ không có cách nào được lửa cả!
Ông công phu khá tốt, đạt đến cảnh giới
ấy cũng chẳng phải là dễ dàng, nhưng cần
phải chuyên tinh dụng công, đừng học theo thói ham
cao chuộng xa, thấy lạ nghĩ khác của con người
hiện thời th́ tương lai sẽ đạt được
lợi ích, sẽ tự có những điều chẳng thể
nghĩ bàn. Nhưng đấy là chuyện thuộc về Hạnh
môn, chứ trong Tín Nguyện môn càng phải nên dốc sức
ngơ hầu quyết định đạt được lợi
ích sâu xa do niệm Phật. Nếu bắt chước các
tông khác, chuyên chú trọng vào công phu, bỏ mặc tín nguyện
chẳng nhắc tới th́ sẽ trở thành pháp môn cậy
vào tự lực, mất mát lớn lắm!
“Tam luân thể không” chính là chẳng
cậy công, chẳng nghĩ đó là đức. Nếu
như lời ông nói th́ sẽ thành hỗn độn, vô tri.
Thế nào gọi là “Thể
không”? Nói “Thể không”
nghĩa là rành rẽ phân minh, phân biệt rơ [đối
tượng nhận lănh] đáng nên bố thí hay không nên bố
thí, nhưng chẳng thấy ḿnh có công đức đối
với người ta, cũng chẳng thấy người
ta nhận lănh ân đức của ḿnh. Kinh Kim Cang dạy: “Chẳng chấp vào Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp để bố thí”
chính là nhằm diễn tả ư này vậy! Nếu chẳng
phân biệt kẻ tốt lẫn người xấu, cứ
tận lực thí cho người xấu th́ sẽ khiến
cho kẻ ấy tạo nghiệp, sẽ trở thành tội
lỗi, chẳng gọi là công đức được!
46. Thư
trả lời cư sĩ Lư Cận Đan (thư thứ bảy)
Phật
pháp rộng lớn vô lượng vô biên. Chúng ta mang tư
cách kẻ phàm phu sát đất, muốn ngay trong đời
này giải quyết xong xuôi chuyện khó thể giải quyết
trong trăm ngàn vạn ức kiếp th́ phải trù tính sức
lực của chính ḿnh nhỏ hay lớn để tu tập,
đừng lầm lạc ngỡ ḿnh là
thông gia! Đối với pháp này c̣n chưa thật sự
hiểu chắc mà lại đi nghiên cứu dùi mài trong những
tông khác đến nỗi ngược ngạo coi chuyện
dễ được lợi ích nhất này như chuyện
thừa thăi, vặt vănh th́ trong trăm ngàn vạn kiếp vẫn
y như cũ, chẳng thể liễu thoát được!
Phật pháp giống
như hư không, trọn không có Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn
phương bàng, trên, dưới! Nói Đông, Tây, Nam, Bắc,
bốn phương bàng, trên, dưới là ước theo
địa vị chính ḿnh đang đứng để nói.
Chính ḿnh đă chẳng thể khế hợp với thái
hư th́ ắt phải luận theo địa vị
nơi ḿnh đang đứng; chẳng ngại ǵ ở
trong nơi không có Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn
phương bàng, trên, dưới mà ước theo Đông,
Tây, Nam, Bắc, bốn phương bàng, trên, dưới do
chính ḿnh đă định. Thiền Tông, Tướng Tông, Mật
Tông không một tông nào chẳng hay, nhưng là người
niên kỷ đă ngoài năm mươi, có được
pháp cậy vào Phật lực để phàm phu dầy dẫy
triền phược có thể liễu sanh tử mà lại
dốc sức nơi pháp môn cậy vào tự lực th́ tuy
có thể giúp cho sự thấy hiểu Tịnh nghiệp một
cách viên thông, nhưng tôi thật sợ ông tâm lực chẳng
đủ, sẽ lấy pháp đó làm chánh, coi pháp này là lệ
thuộc không quan trọng, chắc sẽ khó đắc lực!
Chẳng phải là
Quang cự tuyệt không cho người ta nghiên cứu những
tông khác, chỉ v́ có những kẻ chẳng thông cảm nên
mới giáng cho Quang những lời chê bai ngặt nghèo, bảo
Quang cấm ngặt người khác không được
nghiên cứu những tông khác! [Bị gieo tiếng ác như
vậy] th́ Quang sẽ ngấm ngầm được
phước, c̣n đại chúng cho Quang là kẻ oan gia
nơi cửa Phật. Xin ông hăy tự cân nhắc để
quyết định!
Thêm nữa, sau khi viện
Mồ Côi ở Nam Kinh được thành lập, ông bỏ
ra ba trăm đồng, nhưng trong năm ấy viện vẫn
chưa hoạt động, đến năm sau mới hoạt
động, cho nên vẫn chưa nhận tiền thêm. Nghe
nói năm trước ông vẫn bỏ ra ba trăm đồng,
năm ngoái lại gởi thư nói sẽ quyên tặng
riêng, cho nên năm nay cũng chẳng dám gởi thư tới
nữa. Trước kia, ông Dư Trĩ Liên có cho biết
tính xin ông quyên tặng suốt năm, hoặc mấy chục
đồng, hoặc một trăm đồng, tùy ư. Từ
năm ngoái tới nay, học sinh chùa Pháp Vân ngày càng chăm
chỉ tiến bộ. Có Vương Kiến B́nh là một
thương nhân tài sản chưa hơn ba vạn mấy
đồng, nhưng nghe nói tới viện Mồ Côi chùa
Pháp Vân liền tới thăm, hết sức vui thích, bèn may
quần áo, mền đắp cho các học sinh. Tất cả
những em học sinh nào đủ tŕnh độ có thể
ra đời mưu sinh được, ông ta liền đỡ
đầu giới thiệu tới làm việc trong các tiệm
buôn [bởi lẽ] những môn sinh của ông ra mở tiệm
có đến hai ba chục người cũng như ông ta
có các bạn bè khác [trong nghề kinh doanh]. V́ thế, ông ta nhận
lănh trách nhiệm nặng nề ấy. Từ năm ngoái
cho đến mùa Hạ năm nay đă giới thiệu bốn
mươi tám em. Thế mà vẫn có người cần
[xin thêm], do có những em tŕnh độ quá yếu, ông ta
không bằng ḷng cho đi. V́ thế, số học sinh
tăng lên đến một trăm sáu mươi em. Tất
cả những pḥng ốc cũ chẳng đủ dùng, lại
phải cất thêm mười mấy gian nữa để
làm xưởng thợ. Vương Kiến B́nh c̣n bảo
thợ làm khuy trong tiệm ông ta đến viện Mồ
Côi dạy nghề, không lấy tiền học. Học sinh
học được nghề sẽ liền dựa theo số
lượng hàng làm ra để trả tiền công. Đường
lối này chẳng cần tiền vốn, khá hữu ích. Hơn
nữa, những món đồ do Pháp Vân Tự làm ra ai nấy
đều tranh nhau mua, bởi chúng chắc chắn, sử
dụng được. Tuy vậy, trong mấy năm gần
đây, dẫu có thêm những người đảm nhận
quyên tặng, nhưng do những người đă quyên tặng
trước kia hoặc chuyển đi phương xa, hoặc
có người đă qua đời, kinh phí trong viện tốn
kém hơn trước, cảm thấy khá tốn sức.
47. Thư
trả lời cư sĩ Lư Cận Đan (thư thứ tám)
Pháp môn
vào buổi cuối Thu, sai ngoa quá nhiều, nhưng chỉ nên
sanh ḷng chánh tín, tŕ các tịnh giới th́ là đă đạt
được căn bản, c̣n những thứ cành nhánh
khác hăy để thong thả. Nếu một mực noi theo
lối cổ th́ người đời nay đă không thông
hiểu sâu xa những cấm chế của đức Phật,
mà mỗi một việc làm trong hiện thời đều
chẳng thể theo đúng như lời Phật dạy, sẽ
trở thành ngôn luận cự tuyệt người khác bước
vào Phật pháp. Nếu mỗi một việc đều phải
theo đúng như cấm chế của đức Phật
th́ tăng nhân hiện thời đều là kẻ bạch
y học đạo, chưa chắc mỗi một điều
đều có thể hợp pháp, hợp luật, huống
là hai chúng tại gia ư?
Hơn nữa, cấm
chế nhà Phật cũng có lệ tùy theo nơi chốn,
tùy theo thế tục để lập. Ngay như tăng y
ngày nay cũng đâu phải là tăng y đă được
chế định tại nước Phật; nhưng do
được lưu hành đă lâu bèn coi là đúng pháp. Vả
nữa, Phật quy định Tăng luôn để đầu
trần, chân đất. Để đầu trần th́
mùa Hạ tuân theo được, chứ mùa Đông mà tuân
theo sẽ chẳng được mấy ai! Đi chân đất
càng khó thấy mấy ai tuân theo! Do vậy, chớ nên cố
chấp những điều cành nhánh để luận, hăy
nên nương theo cội nguồn để tu th́ sẽ có
ích. Nếu mỗi một điều đều chuẩn
theo nguyên tắc như trong thời Phật thuở trước
th́ những kinh hiện thời đều chẳng nên thọ
tŕ, mà phải thọ tŕ những kinh văn tiếng Phạn
được viết trên lá bối th́ mới là chẳng
trái nghịch Phật pháp vậy!
48. Thư
trả lời cư sĩ Lư Cận Đan (thư thứ chín)
Đại
Tạng Kinh bản đời Tống ở Linh Nham là do
Quang thỉnh. C̣n Đại Tạng Kinh ở chùa Phật
Nhật là do một đệ tử ở Thiên Tân thỉnh
cho Linh Nham, nhưng v́ Linh Nham đă có, nên giao về chùa Phật
Nhật. Một đệ tử ở Phước Kiến
cậy Quang thỉnh cho ngôi chùa trong làng ông ta một bộ
Đại Tạng Kinh. Tới khi thỉnh xong, đă giao tiền
(đă ước định sẵn phải thanh toán
trọn vẹn trước) ông ta hỏi
một người bạn th́ biết [chùa ấy] đă thỉnh
rồi nên bộ Đại Tạng Kinh do Quang thỉnh giùm
cho ông ta được giao về chùa Long Cư. (Trước khi thỉnh kinh
cho chùa Phật Nhật), Quang đă tự
bỏ tiền thỉnh hai bộ, bộ ở Pháp Vân Tự
do ông Lư Kỳ Khanh thỉnh, c̣n [bộ để] ở Phật
Quang Xă thuộc Giang Loan, tỉnh An Huy cũng có người
thỉnh rồi. Nếu ông bằng ḷng gởi bộ Đại
Tạng Kinh của ông đi nơi xa th́ xin đợi
hơn một tháng nữa để Quang hỏi thăm một
hai chỗ. Nếu họ đă có th́ chẳng gởi sang. Nếu
không, sẽ gởi đi.
Hôm trước thầy
Đương Gia chùa Linh Nham nói chùa hiện có hơn
năm mươi vị đang trụ, người đến
niệm Phật có bốn mươi vị, những
người khác đều có công việc. Phật Thất
chỉ thỉnh bốn mươi người hoặc ba
mươi bốn người đều được cả.
Thêm nữa, thầy Minh Đạo lại tiếp nhận
chùa Hiển Ninh, phong cảnh rất đẹp (cách
chùa Phật Nhật bảy tám dặm), ḥa thượng Chân Đạt tính dưỡng lăo tại
đó, chắc sẽ gởi kinh sang nơi ấy sẽ
đỡ tốn công. Nếu gởi sang nơi đó th́ xin
đợi tới khi thầy Minh Đạo trở về;
sẽ bảo thầy ấy thỉnh bộ kinh đă được
gởi tới đây đưa sang chùa Thái B́nh. Sau này, nếu
tái bản sẽ bảo Ấn Kinh Hội đem bản
kinh của ông cúng dường tặng cho chùa Thái B́nh. Kinh ở
hai chỗ Phật Nhật và Long Cư đều
đưa sang chùa Thái B́nh. Long Cư là đạo tràng cổ,
Tăng chúng sống ở đó không kham được bèn
đem bán cho trường học. Hai ba vị tín sĩ ở
địa phương chẳng nỡ, ép một vị
Tăng ở Giang Tây tiếp nhận. Vị này đối
với Phật pháp chưa hiểu rơ ràng, do vậy, thỉnh
vị Tăng từng sống tại chùa Báo Quốc trước
đây là Liễu Nhiên về cùng ở đó. V́ vậy, Quang
đem bộ kinh do vị sư ở đất Mân đă
thỉnh đưa sang đó. Trước kia, thầy Liễu
Nhiên chú trọng tu Thiền, mười năm gần
đây lại chuyên đề xướng Tịnh Độ.
49. Thư
trả lời cư sĩ Lư Tông Bổn
Ông học
Phật pháp sao lại học thói khoa trương rỗng
tuếch, hời hợt của bọn thương nhân
trong thế gian? Ông nói gởi một hộp bánh là
được rồi, há nên nói thật bùi tai như thế?
Quư trọng như vậy mà lại bảo Quang nếu cần
nữa hăy viết thư xin gởi thêm, đúng là ông coi
Quang như đứa trẻ nít. Ông chẳng hiểu việc
đời quá mức! Từ nay phải ngăn dè thói xấu
hèn khoa trương rỗng tuếch hời hợt kiểu
đó th́ niệm Phật sẽ được lợi ích
thật sự. Nếu không, dẫu có tu tŕ cũng đều
bị thói khoa trương rỗng tuếch hời hợt
chôn vùi hết sạch. Rốt cuộc chẳng giúp
được ǵ mà vẫn chẳng biết là tự chuốc
lấy họa, ngược ngạo đổ thừa Phật
chẳng từ bi, Phật pháp không linh! Chẳng biết là
do chính ḿnh khoe khoang mà cảm thành, buồn thay! Quang già rồi,
mục lực chẳng đủ nên cự tuyệt hết
thảy thư từ. Nay xem thư ông, khôn ngăn đau
ḷng. Ông đọc thư tôi, nếu sửa được
lỗi trước th́ mai sau nhất định được
văng sanh. Nếu không, cứ theo thói hư giả th́ làm sao đạt
được lợi ích thật sự? Nghe theo hay không tùy
ông, tôi chỉ trọn hết tấm ḷng tôi mà thôi!
Ông nói đến chứng
Miêu Ôn[47],
không biết là bệnh ǵ, cũng chẳng biết thuốc
nào trị được! Hăy nên bảo gia đ́nh người
ấy chí thành niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, kiêng giết,
ăn chay th́ sẽ có hiệu quả. Từ nay về sau chớ
nên gởi thư đến nữa, cũng đừng giới
thiệu người khác quy y. Nếu gởi thư đến
quyết định chẳng trả lời, do mục lực
lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Những
điều đă nói trong Một Lá Thư Trả Lời Khắp
bất luận hạng người nào cũng đều
có thể nương theo đó để hành và truyền
cho con cháu. Nếu có thể hành theo đó th́ gia đạo sẽ
được hưng thịnh, con cháu sẽ hiền thiện.
Nếu coi đó là những lời bàn hủ bại viễn
vông của một ông Tăng già nua mà muốn chấn chỉnh
thanh danh gia đ́nh sẽ như phá băng để t́m lửa,
quyết chẳng có hy vọng ǵ cả!
50. Thư
gởi ḥa thượng Diệu Chân
Trưa
hôm qua, Vương Ấu Nông tới nói: Hôm trước ông
ta qua nhà ông Lư Bách Nông bảo: “Linh Nham muốn dựng Niệm
Phật Đường”. Bách Nông nói: “Đang gặp Tuế
Sát[48]
chớ nên kiến tạo!” Nhân thời cuộc, Quang nói: “May
mà chưa khởi công xây dựng đại điện chùa
Pháp Vân, hăy đợi đến khi thời cuộc b́nh yên”.
Ấu Nông nói: “Linh Nham chớ nên xây cất. Dẫu có nên xây
đi nữa th́ trong thời cuộc thế này cũng nên
để thong thả!” Nay gỗ dùng để xây dựng
đă đưa đến, hăy nên chất quanh nền nhà
phía sau Niệm Phật Đường. Cần phải dùng
đá xếp cao hai thước [để làm bệ lót] ngơ
hầu gỗ chẳng bị ẩm thấp mục nát. Hai
mặt gỗ đều phải để cho nắng dọi
vào, trên mặt mỗi phiến gỗ đừng phủ cỏ,
phủ cỏ sẽ vĩnh viễn ngăn che ánh mặt trời.
Hăy mua mấy tấm liếp tranh lớn che phía trên. Lời
của Bách Nông và Địch Dân nói tuy đều có lư,
nhưng do ảnh hưởng bởi thời cuộc, cố
nhiên nên nghe theo lời Ấu Nông. Đợi tới mùa Thu
năm sau mới khởi công so ra sẽ ổn thỏa, tốt
lành hơn. Xin hăy sáng suốt suy xét th́ may lắm thay!
51. Thư
trả lời cư sĩ Thôi Ích Vinh (thư thứ nhất)
Nhận
được thư, biết tâm ông mộ đạo khá
chân thật, thiết tha, ư muốn quy y, nhưng Quang là một
ông Tăng tầm thường chỉ biết cơm cháo, quả
thật chẳng đáng làm thầy một ai! Nhưng nếu
có thể chuyên chí tu tŕ, y theo những lời Quang đă nói
để hành th́ cố nhiên chẳng có chuyện ǵ ông không
được măn nguyện. Ví như kẻ không chân ngồi
ở ngă ba đường, có người hỏi nẻo về
nhà liền chỉ thẳng nên đi theo đường
nào. Quyết đừng v́ kẻ ấy không thể đi
được mà chẳng chịu nghe lời để rồi
tự ḿnh lạc mất lối về! Nay đặt pháp
danh cho ông là Tông Tịnh. Tông là chủ, Tịnh là hiện thời
tu tập pháp môn Tịnh Độ, trong tương lai sẽ
văng sanh Cực Lạc Tịnh Độ. Pháp môn Tịnh
Độ là pháp rộng lớn hết sức giản tiện,
hết sức sâu xa trong Phật pháp. Nếu nương
theo các pháp khác để tu tŕ th́ ai có thể liễu sanh
thoát tử, siêu phàm nhập thánh ngay trong đời này? Nếu
y theo pháp môn Tịnh Độ, chỉ cần có đủ
ḷng tin chân thật, nguyện thiết tha, không một ai chẳng
được văng sanh. Đấy chính là nghĩa lư lớn
lao phải nên chuyên chú nơi pháp môn Tịnh Độ vậy!
Hơn nữa,
phàm muốn học Phật th́ tâm địa phải thanh tịnh.
Phàm hết thảy những tâm bất thiện đều là
cấu nhiễm, ắt phải dọn trừ sạch sành
sanh. Phàm hết thảy thiện tâm ắt phải mở rộng
ra, tức là: Đừng làm các điều ác, vâng làm các
điều lành, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng,
ăn chay, niệm Phật, tự hành như thế mà dạy
người khác cũng như thế. Đối với
người trong cơi đời c̣n nên khuyên bảo rộng
khắp, huống là cha mẹ, vợ con v.v… há chẳng làm
cho họ được thấm gội Phật ân, vẫn
luân hồi y như cũ, lỗi đạo làm con, làm cha,
làm chồng lắm thay! Thế đạo hiện thời
đă loạn đến cùng cực, nguồn cội đều
do con cái từ thuở bé chẳng được cha mẹ
khéo dạy dỗ về nhân quả báo ứng, cũng
như “lợi người
chính là lợi ḿnh, hại người chính là hại ḿnh”. Hăy
nên nói tường tận lợi - hại với vợ
để cô ta sẽ tận tụy giáo huấn con cái,
đừng mặc cho chúng quen thói khiến tật xấu
trở thành tánh đến nỗi gây hại cho gia đ́nh,
cho đất nước, cho thiên hạ vậy!
52. Thư
trả lời cư sĩ Thôi Ích Vinh (thư thứ hai)
Trước
kia đă nhận được thư ông hỏi về
chuyện quyên mộ đúc chuông, do bận bịu nên không
thể trả lời ngay được. Tôi chuyển
thư ông cho Mai Tôn, ông ta cực lực tán thành. Lại gởi
thư bàn định về kích thước của cái
chuông đồng tính đúc. Do thầy Diệu Liên sang Xích
Sơn nên phải chậm mất hai mươi mấy ngày.
Mai Tôn gởi thư cho tôi biết: “Thoạt đầu do
thầy Diệu Liên đi vắng, nay phải bàn bạc cho
thỏa đáng sử dụng loại đồng nào và kích
thước của chuông th́ mới có thể gởi thư
xin thầy soạn sớ”. Hôm qua nhận được
thư ông, biết ông c̣n chưa biết rơ chuyện này, ắt
là phải nói rơ chuông nặng bao nhiêu cân và dùng loại đồng
nào. Loại đồng ấy mỗi cân phải tốn bao
nhiêu tiền th́ mới làm cho người khác tin tưởng
được. Phàm đúc chuông, nên dùng loại hưởng
đồng[49]
th́ âm thanh mới hay. Hưởng đồng rất đắt,
nếu chẳng thể sử dụng hoàn toàn th́ cũng nên
dùng một nửa. Uớc chừng tính gộp chung tiền
công và vật liệu th́ mỗi cân phải tốn một
đồng trở lên. Nếu ông thấy khó khăn quá th́
hăy băi bỏ ư định này. Nếu như dù tốn đến
hai ba ngàn đồng cũng vẫn phải đúc th́ đợi
khi Nam Kinh gởi thư đến sẽ viết sớ gởi
cho ông.
Cháu ông chẳng biết
nỗ lực làm người, ấy là do chẳng được
dạy dỗ từ bé mà ra. Lúc bé không được dạy
dỗ th́ lớn lên sẽ khó trở thành người
đàng hoàng được! Ông gặp cảnh ngộ
như thế chỉ nên thường nghĩ nhớ tới
cha mẹ ông và anh của ông, đừng sanh phiền năo, hăy
sốt sắng niệm Phật, cầu Phật gia bị
cho nó, ngơ hầu nó sẽ hiểu biết, tự có thể
làm người tốt. Nếu chính ḿnh sanh phiền năo th́
vô ích cho nó lẫn thân ông cũng như công lao nuôi dạy
đứa cháu đều bị tổn hại. Nếu ông chí
thành niệm Phật và niệm Quán Âm, nhất tâm khẩn cầu
[Phật, Bồ Tát] gia bị cho nó, ḷng Thành đến cùng
cực đá vàng cũng phải nứt, dần dần nó sẽ
chuyển biến thành người tốt, chẳng đến
nỗi cứ măi là gă lăng tử hoặc kẻ vứt
đi. Hăy nên đừng phân biệt, hăy nghĩ [đứa
cháu ấy] giống như đứa con bất tài của
chính ḿnh, chỉ cầu Phật, Bồ Tát xót thương,
gia bị. Đấy chính là diệu pháp độc nhất
vô nhị để chuyển biến.
Tôi sẽ gởi hai bài
văn do Sa cư sĩ soạn sang Thượng Hải Tịnh
Nghiệp Xă để họ đăng trên tờ nguyệt
san. Bài văn khuyên kiêng giết ăn chay của Quang có phạm
vi khá rộng. Ông Nhiếp Vân Đài từng chiếu theo
đó in thành truyền đơn để tặng cho
người khác, Quang cho đăng kèm sau cuốn Long
Thư Tịnh Độ Văn. Ông ta in ba ngàn cuốn Long
Thư Tịnh Độ Văn, có giữ lại bản
in, nhưng in lần ấy đắt quá, mỗi bộ tốn
hơn ba cắc; sau này in lại sẽ giảm được
chi phí một nửa. Quán Âm Tụng có hơn bảy vạn
bộ, Văn Sao cũng cho sắp chữ riêng. Bài văn ấy
tuy văn chương không hay nhưng đă nói rất rơ hết
thảy những lư do v́ sao không nên giết chóc.
Lạy kinh được
lành bệnh chính là điềm lành chứng tỏ nghiệp
tiêu, tai diệt. Chuyện đi qua Thân Giang (Thượng Hải)
th́ do thời cuộc không yên, tính đợi tới tháng
Chín, tháng Mười, hoặc sang năm sau. Đại
Sĩ Tụng vẫn chưa sắp chữ, tôi muốn qua
Thân Giang chính là v́ chuyện này. Nếu thời cuộc biến
động, sợ sẽ bị lỡ làng; v́ thế chẳng
dám cho sắp chữ. Nếu cho sắp chữ ngay th́ tối
thiểu cũng phải tới khoảng tháng Mười mới
in ra sách được! Nếu sách được in ra sẽ
gởi cho ông và ông Sa. Các ông Phạm và Lư chẳng cần phải
nói nữa!
Quan Đế quy y với
Trí Giả đại sư (dưới thời Tùy
Văn Đế) mở ra đạo
tràng núi Ngọc Tuyền, chuyện này được chép
trong sách Phật Tổ Thống Kỷ. Phật giáo coi Quan
Đế là thần hộ tŕ già-lam cũng vốn v́ lẽ
này. Đợi khi nào rảnh rỗi, tôi sẽ đem bài
văn ấy thuật rơ. Ăn chay chẳng khó, khó là v́ chẳng
chịu bỏ cái tâm tham sung sướng bụng miệng!
Nếu chẳng tham thỏa thích bụng miệng th́ ăn
chay có bất tiện chi đâu? Tuy thỉnh thoảng ăn
chay, nhưng trong những ngày không ăn chay cũng phải
ít ăn mặn đi, bởi hết thảy loài vật
đều tham sống sợ chết, đều biết
đau đớn, khổ sở, chỉ v́ miệng chẳng
thể nói được, nên phải làm thức ăn cho
con người. Nếu chúng nói được th́ nỗi niềm
bi ai, oán hận của chúng khi sắp bị giết há c̣n nỡ
nghe ư? Nghĩ đến điều này th́ sẽ chẳng
nuốt thịt xuống khỏi họng được! Lạy
kinh niệm Phật nên lấy cung kính chí thành làm gốc. Cung
kính lớn lao th́ công đức, lợi ích lớn lao, cung
kính nhỏ nhoi công đức, lợi ích sẽ bé tẹo. Nếu
chẳng cung kính, chỉ làm ra vẻ đạo mạo th́
chính là tự dối ḿnh, chứ muốn dối người
cũng không được, huống là dối Phật, Bồ
Tát ư? Xin hăy chân thật cung kính hành tŕ th́ lợi ích sẽ
không chi lớn bằng!
53. Thư
trả lời cư sĩ Thôi Ích Vinh (thư thứ ba)
Chuyện
đúc chuông đă nói với ông Mai Tôn, bảo ông ta châm
chước kích thước lớn - nhỏ, nhưng
chưa thấy gởi thư tới. Hôm qua, tôi sang lầu
chuông của Phật Đảnh Sơn, thấy chuông ở
chỗ ấy cũng không lớn lắm. Họ nói nặng
hơn bốn ngàn cân, như vậy th́ chuông chùa Pháp Vân
cũng nên nặng ba ngàn cân. Huống chi mỗi cân Hưởng
Đồng ước chừng hơn một đồng.
Ông phát tâm quyên mộ cũng không nhất định [phải
đủ số], nhiều cũng hay, ít cũng được.
Hễ được nhiều th́ đúc thêm khánh, báo chung, hỏa
bản[50],
ít th́ sẽ quyên góp thêm tại đất Nam Kinh. Do vậy,
không nhất định phải hoàn toàn là [quyên góp sao cho] không
thừa không thiếu! Họ đă không gởi thư tới,
chắc là ước chừng ba ngàn cân, đợi sau này khi
[thật sự] đúc mới lại định chuẩn
cân lượng. Tôi sẽ viết lời tựa. Mồng Một
tháng Tám, Quang sẽ xuống núi sang Thượng Hải,
đến ngụ tại chùa Thái B́nh nơi bến Trần
Gia. Ước chừng phải hai ba chục ngày mới trở
về được, [qua đấy] để t́m cách in
Đại Sĩ Tụng. Công nhân của Trung Hoa [Thư Cục]
băi công, nếu chẳng t́m cách chẳng biết sẽ phải
chờ đến khi nào!
Chuyện thả lợn
trước đây đă được ông Mai Tôn gởi
thư cho biết rồi. Sẽ gởi cho Tịnh Nghiệp
Xă để đăng tải trên tờ nguyệt san ngơ hầu
mọi người đều sanh ḷng kinh sợ. Lư Trọng
Ḥa đă muốn quy y th́ chẳng ngại đặt pháp
danh cho ông ta. Ông ta tên là Thọ B́nh; phàm cái thật sự thọ
(sống lâu) th́ chỉ có tự tánh. Tánh ấy nếu chẳng
có trí sẽ chẳng hiển được, có trí ấy
th́ sẽ biết nhất niệm tâm tánh của hết thảy
chúng sanh và tam thế chư Phật, lục đạo chúng
sanh thảy đều b́nh đẳng. Cái trí b́nh đẳng
ấy thật sự là tối thượng, tối diệu.
Nay đặt pháp danh cho ông ta là Trí Thượng, dùng cái trí
tối thượng ấy để tự hành, dạy
người tu tŕ Tịnh nghiệp, ngơ hầu hết thảy
chúng sanh cùng sanh về Tây Phương, cùng chứng
được cái vốn sống măi b́nh đẳng vô nhị
ấy. Đấy chính là chuyện quan trọng nhất, làm
được như thế sẽ chẳng thẹn là
đệ tử của Như Lai, xin hăy nói với ông ta.
54. Thư
trả lời cư sĩ Thôi Ích Vinh (thư thứ tư)
Nhận
được thư, biết cả nhà niệm Phật,
khôn ngăn vui mừng, an ủi. Lúc niệm Phật đột
nhiên khởi vọng tưởng, chỉ cần chẳng
xoay chuyển theo vọng niệm ấy, lâu dần nó sẽ
tự chẳng dấy lên nữa! Không nói dối cũng phải
luyện tập dần dần, lâu ngày sẽ tự chẳng
c̣n nữa! Nói đến ảnh chụp th́ Quang một mực
chẳng thích chụp h́nh v́ chỉ hao tốn tiền bạc,
trọn chẳng có ích ǵ! Nếu cứ muốn có th́ tôi sẽ
sang Thượng Hải chụp rồi gởi tới. Ở
đây đă qua kỳ dâng hương, không có thợ chụp
ảnh. Nay gởi cho ông một gói Văn Sao, xin hăy trao cho
Lư Miễn và con ông ta. Chỉ chịu nương theo sách này
để tu tập sẽ tự có thể siêu phàm nhập
thánh, liễu sanh thoát tử. Nếu chỉ nh́n vào mặt
văn chương th́ thật là gai mắt, chẳng thể
đạt được lợi ích thật sự!
55. Thư
trả lời cư sĩ Thôi Ích Vinh (thư thứ năm)
Lúc này
không rảnh rỗi để viết lời tiểu dẫn
cho Phật thất! Đợi tới tháng Sáu, sớm muộn
ǵ cũng sẽ gởi tới. Có lẽ nên cử hành [Phật
thất] vào đầu mùa Đông v́ khi ấy gặt hái
đă xong, ai nấy đều nhàn rỗi th́ người
niệm Phật sẽ nhiều, nhưng chỉ nên chú trọng
niệm Phật, chớ nên bày vẽ phô trương, thêm thắt
lung tung v.v… Nói tới chuyện đến núi [Phổ
Đà] dâng hương th́ hăy nên thôi đi, bởi lẽ nhà
ông không dư dả lắm, lại c̣n phải làm việc
dưới quyền người khác, đi về hơn cả
tuần, tốn kém mấy chục đồng mà vẫn chẳng
thể tùy ư làm công đức khiến cho những người
ḿnh giao thiệp đều sanh hoan hỷ. Quán Thế Âm Bồ
Tát chỗ nào cũng có, há chỉ ở tại Phổ
Đà ư? Nếu chưa từng đến th́ tới
chiêm ngưỡng đạo tràng một lần, chứ
đă tới rồi mà nhà nghèo, lắm việc, chẳng cần
phải tới nữa! Con trai ông đă sẵn có túc duyên với
ông, hăy nên khéo dạy dỗ. Đừng mặc cho nó quen
thói kiêu căng đến nỗi thành phường hư hỏng.
Những đứa con em không ra ǵ trong cơi đời đều
là do cha anh chẳng khéo nuôi dạy mà ra!
56. Thư
trả lời cư sĩ Thôi Ích Vinh (thư thứ sáu)
Nhận được
thư, biết cư sĩ [Sa] Kiện Am quy Tây, khôn ngăn
mừng cho cư sĩ, nhưng lại than cho dân vùng Như
Cao (đă mất bậc hướng dẫn). Tôi thấy cụ Sa Kiện Am b́nh sanh có
tín tâm, lâm chung chánh niệm. Tuy chưa nghe cụ nói thấy
Phật, nhưng có thể thầm niệm theo người
nhà th́ cụ cũng được sanh Tây. Do xưa kia,
đức Phật có lời thề: “Nếu có chúng sanh chí tâm tin ưa, muốn sanh về
nước ta, thậm chí mười niệm, nếu chẳng
được sanh, sẽ chẳng lấy ngôi Chánh Giác”.
Lại c̣n: “Mười
phương chúng sanh phát Bồ Đề tâm, tu các công đức,
chí tâm phát nguyện, muốn sanh về cơi ta. Nếu lúc lâm
chung, ta không cùng đại chúng vây quanh hiện diện
trước mặt người ấy th́ sẽ chẳng lấy
ngôi Chánh Giác”. Cư sĩ Kiện Am suốt đời
tu tŕ, lâm chung chánh niệm, đủ để văng sanh. Huống
chi lại có những chuyện như mùi hương lạ,
đỉnh đầu vẫn c̣n ấm để làm chứng
ư? Đây là do nương theo Phật lực văng sanh,
văng sanh tức là đă liễu sanh thoát tử rồi. Đấy
là chuyện quyết định, trọn chẳng hàm hồ!
Nếu tu các pháp môn khác, đừng nói có các cảnh tượng
như thế vẫn chẳng thể liễu sanh tử; dẫu
là bậc có đại trí huệ, có đại thần
thông, muốn đi liền đi, muốn tới liền tới
th́ người chẳng thể liễu sanh tử vẫn
chiếm hơn một nửa! Do vậy phải chuyên chí tu
tŕ pháp môn Tịnh Độ.
Tôi tính dựa trên t́nh
h́nh thực sự như trong bài viết đă gởi tới
để viết một bài khác đăng kèm vào sau bộ
Văn Sao trong ấn bản mới. Hăy nên nói với con ông
cụ sớm đem tờ cáo phó gởi tới. Có những
chuyện ǵ tôi chọn lọc được sẽ trích
lược để dùng. Hơn nữa, cụ vẫn áy
náy v́ chưa từng gặp được Quang, nay tôi ghép
sự tích của cụ vào trong Văn Sao cũng nhằm cởi
gỡ nỗi áy náy ấy! Trong khi hồi hướng vào
khóa tụng sáng tối, Quang c̣n đọc tên hồi hướng
cho cụ trong hai mươi mốt ngày nhằm trọn hết
t́nh giao du với nhau trên mặt tinh thần trong pháp môn.
Văn Sao ấn bản
mới có thể in thành sách trong tháng Ba hoặc tháng Tư.
Ông hăy bảo con cụ Sa chịu đảm nhiệm in chừng
đó bộ để thí tặng cho những người
có tín tâm, thông văn lư, một là cởi gỡ nỗi tiếc
nuối của cha, hai là có thể lưu truyền sự
tích của cha. So với những kẻ in ra những tờ
thiệp gởi cho người khác, [người ta] xem xong
liền quăng đi, sẽ vượt trội vạn lần!
Nếu chịu phát tâm th́ hăy mau báo cho biết để tiện
viết tên vào sau sách. Bản in lần này nhiều hơn những
lần trước một trăm ba mươi trang, tổng
cộng là bốn trăm ba mươi trang. Nay đang đợi
tới khi Thọ Khang Bảo Giám sắp chữ xong (sẽ
cho in đồng thời) sẽ
ngưng không đưa thêm bài vào [Văn Sao] nữa! V́ thế,
vẫn chưa thể ấn định chuẩn xác số
trang. Lần này sẽ in một vạn bộ. Sau này sẽ
để cho Thư Cục tự in, tự bán. Nếu thỉnh
từ Thư Cục sẽ mắc hơn lần này. Ước
chừng mỗi bộ trên dưới tám cắc, Quán Âm Tụng
hai trăm mười trang c̣n phải tốn ba cắc bốn
xu [mỗi bộ]. Đây là ước định theo giá hồi
tháng Tám năm trước. Gần đây, do chiến sự,
giấy đắt hơn nhiều lắm.
Hơn nữa, cư
sĩ Kiện Am thông hiểu Nho lễ sâu xa. Năm trước,
Trần Chánh Hữu đă gởi cho tôi bài cụ viết
bàn về tệ dùng rượu thịt trong tang lễ, đọc
thật thống khoái; biết cư sĩ hoàn toàn lấy việc
[bảo tồn] đạo Nho làm trách nhiệm của chính
ḿnh. Huống chi gần đây lại tin tưởng Phật
pháp sâu xa, chuyên chí tu tŕ. Con cụ Sa hăy nên vâng nối chí và
đạo của cha, nhất loạt chẳng noi theo thói tục
dùng rượu thịt nhằm măn chí nguyện của cha. Nếu
cứ làm theo thói tục, không những chẳng tương
ứng Phật pháp mà c̣n chống đối cha nữa! Xin
hăy nói với các con của cụ, nếu không, sợ rằng
họ sẽ bị những kẻ vô tri mê hoặc, lay
động th́ đâm ra chẳng tốt đẹp ǵ!
57. Thư
trả lời cư sĩ Thôi Ích Vinh (thư thứ bảy)
Bài
văn ông yêu cầu viết tôi đă soạn xong rồi,
đặt tên là Phổ Khuyến Giới Sát Khiết Tố
Văn Hồi Kiếp Vận Thuyết[51]
(khuyên khắp mọi người kiêng giết, ăn chay nhằm
văn hồi kiếp vận), nói trọn khắp những chuyện
cúng tế trời đất, Khổng Tử, Quan Đế,
tổ tông, phụng dưỡng cha mẹ, đăi khách, tự
cung phụng v.v… đều chẳng nên sát sanh, ăn thịt!
Lại c̣n nói kèm chuyện cưới vợ, sanh con, chúc thọ
cũng chớ nên sát sanh, ăn thịt. Chánh văn hơn
hai ngàn sáu trăm chữ, in kèm vào cuối quyển nhất
sách Quán Âm Tụng (do quyển này có đoạn liên quan
đến chuyện Đại Sĩ thị hiện trong
loài vật) vừa đúng ba trang,
đă gởi cho Trung Hoa Thư Cục cho họ sắp chữ.
Sắp chữ xong, in ra, sẽ gởi sang cho ông xem. Quán Âm Tụng
in hai vạn bộ, mỗi trang ba mươi đồng,
khoản tiền này ông không cần phải bù. Ông nguyện
in năm chục bộ tức là mười bảy đồng
(mỗi bộ ba cắc bốn xu, thêm vào mười mấy
trang đó th́ thêm một xu vẫn thiếu, phải tăng
thêm một xu nữa), ông muốn bù
đắp cho khoản tiền in những trang này th́ hăy chịu
trách nhiệm in hai trăm hoặc ba trăm bộ Quán Âm Tụng
nữa là được rồi. Nếu muốn lưu hành
rộng răi bài văn này mà ấn hành riêng th́ cũng vô ích; hăy
nên in kèm vào sau cuốn Đại Sĩ Tụng. Nếu
Đại Sĩ Tụng in được mười vạn
cuốn th́ bài văn này cũng được in mười
vạn lần. Nếu ông chịu bỏ tiền, cứ [tăng
thêm] một trang cho hai vạn bộ [sẽ tốn thêm] ba
mươi đồng, hai trang là sáu mươi đồng.
Nếu ông không có sức th́ cũng chẳng cần phải
bỏ tiền ra. Tôi sẽ tự lo liệu được,
lại đưa kèm vào trong Văn Sao th́ in bao nhiêu bộ Văn
Sao, bài văn này cũng có bấy nhiêu, sẽ thực hiện
trong đầu tháng Giêng, đừng lo!
58. Thư
trả lời cư sĩ Thôi Ích Vinh (thư thứ tám)
Mồng
Ba tháng này nhận được thư của Lư Trọng
Ḥa và thư của ông, do bận bịu không rảnh rỗi
nên chưa trả lời. Hôm qua mới soạn xong bài kư về
sự văng sanh của Sa cư sĩ, nay gởi cho ông một
bản, xin hăy đưa cho Sa Quân Nghị và Hạng Tử
Thanh xem. Trong bản cáo phó và tờ ai khải (báo tin buồn)
do ông, Trọng Ḥa, Tử Thanh cùng với con ông ta hợp soạn
đều chẳng ghi tên, lại c̣n trọn chẳng nhắc
tới hành trạng của cụ Sa lúc đương thời.
Nay tôi dựa theo những lời ông Hạng, lời ông cùng
lời Trọng Ḥa đă kể để suy theo t́nh, dựa
theo lư, lược thuật những nét đại lược.
Tuy các ông chưa nói, Quang trọn chưa được gặp
gỡ Sa cư sĩ lần nào, nhưng dùng tâm ư để
nh́n th́ cũng biết được. Những sự lư
được tŕnh bày [trong bài kư về sự sanh Tây của
cụ Sa do Quang soạn] trọn chẳng phải là bỗng
dưng hư cấu. Nếu có chỗ nào sai lầm, xin hăy
mau chỉ cho biết để tiện sửa đổi
cho đúng. Nếu không, tôi sẽ xếp bài viết này[52]
vào Văn Sao để mong lưu truyền rộng răi khuôn
mẫu tốt đẹp khiến cho những kẻ câu nệ
hẹp ḥi trong mai sau sẽ do đấy mà bỏ được
tri kiến lầm lạc, đạt được chánh
tri kiến. Triệu Tôn Nhân cũng soạn một bài kư. Ông
Phác muốn soạn truyện th́ được, nhưng
toan dựng tháp th́ chớ nên. Cư sĩ tại gia chỉ
nên xây mộ, huống chi đang lúc con người đa số
làm càn, chẳng tuân giữ bổn phận này, nếu xướng
suất như thế th́ sẽ phá hoại khuôn mẫu trong
pháp môn. Xin hăy nói với ông Phác.
[Về chuyện ấn
hành] Văn Sao th́ do Thượng Hải trong thời gần
đây xảy ra chiến sự nên không mua được
giấy Mao Thái, c̣n giấy Mao Biên th́ trước kia Trung Hoa
Thư Cục ước lượng giá phải hơn một
đồng (tạm thời tính in [mỗi bộ] bốn trăm
trang th́ sẽ tốn hơn chín cắc. Ước chừng
sắp chữ xong, nói chung sách sẽ gồm hơn bốn
trăm hai mươi trang, do vậy giá thành [của mỗi
bộ] phải hơn một đồng). Đấy vẫn là giá in dành cho năm
ngàn bộ. Nếu in ít hơn sẽ càng mắc hơn, do họ
đem các thứ tiền công chế bản sắp chữ,
Chỉ Bản và bản kẽm tính luôn vào trong ấy. Gần
đây, nghe nói quân đội phương Bắc đă rút,
nếu không đánh nhau th́ giấy Mao Thái sẽ tiếp tục
được chuyển đến. Hễ có giấy Mao
Thái sẽ nhất định dùng giấy Mao Thái, đỡ
tốn tiền hơn! Ông Sa Quân Nghị muốn chịu tiền
in một trăm bộ th́ hăy gởi một trăm đồng
sang xưởng chính của Trung Hoa Thư Cục nằm trên
con đường chùa Tịnh An, Thượng Hải, giao
cho tiên sinh Du Trọng Hoàn thâu nhận. Ông ta nhận
được sẽ gởi biên lai ngay. Đợi khi sách
được in ra, sẽ căn cứ theo số tiền
[đă giao] để gởi sách.
Nếu dùng giấy Mao Thái
sẽ gởi được [mỗi gói] ba bộ, c̣n dùng
giấy Mao Biên chỉ gởi được hai bộ [cho
mỗi gói]. Theo quy định gởi sách bằng thư bảo
đảm của thư cục (mỗi gói là một
cắc năm xu, gởi thư bảo đảm năm xu
nữa nên thành hai cắc. Thư cục quy định gởi
sách bằng thư bảo đảm để ngừa tệ
nạn kẻ giao sách lén đem sách bán đi. Gởi thư
bảo đảm sẽ có chứng từ, họ không giở
tṛ tồi tệ được! V́ thế bất luận
bưu kiện lớn hay nhỏ, thư cục đều
gởi thư bảo đảm) th́
bưu phí của năm mươi gói sẽ mất mười
đồng. Nếu có thể cậy ai ở Thượng
Hải lănh giùm đem đi th́ sẽ đỡ tốn tiền
nhiều lắm. Nếu chậm lại đôi chút chờ
giấy Mao Thái được chuyển tới th́ giá sách lẫn
bưu phí đều đỡ tốn tiền.
Ông Hạng muốn quy
y, sao chẳng chọn bậc đạo đức cao siêu
để làm thầy, cứ muốn tôn Quang là một ông
Tăng tầm thường chỉ biết cơm cháo làm thầy?
Chủ kiến đă sai lầm,
nhưng sợ nếu không chấp thuận, sẽ bảo
Quang là kẻ chẳng biết đếm xỉa tới
t́nh người! Nay bèn đem lầm đáp lạc, đặt
pháp danh cho ông ta là Trí Nguyên. Ông ta tên là Bổn Nguyên, nay đặt
pháp danh là Trí Nguyên. Cần biết rằng: Trí Nguyên (nguồn
trí) chính là Chân Như Phật tánh của chính ḿnh, hết thảy
phước đức trí huệ đều phát xuất từ
cái nguồn này. Người đời mê trái bổn tánh nên
chân trí chẳng thể hiển hiện được! Tất
cả tri kiến đều thuộc suy tính vọng tưởng;
nếu thật sự biết được cái nguồn
này, niệm niệm phản chiếu th́ sẽ dứt ḷng
tà, giữ ḷng thành, đánh đổ ham muốn xằng bậy
của chính ḿnh để khôi phục lễ nghĩa, đừng
làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, lại
c̣n tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương
th́ trong đời hiện tại sẽ dự vào bậc
hiền thánh, lúc lâm chung quyết định văng sanh cơi Cực
Lạc. Như thế th́ sẽ có thể gọi là bậc
đại trượng phu đệ tử thật sự
của đức Phật. Những điều khác đă
được nói tường tận trong Văn Sao, ở
đây không viết cặn kẽ. Xin hăy đưa thư
này cho ông ta đọc. Nếu chẳng nghĩ như vậy
là đúng th́ cũng chẳng quan trọng, khẩn yếu
chi hết!
Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tam Biên,
Quyển 4
Phần 4 hết
[1] Nguyên văn “hạ vấn”, đây là
cách nói khiêm hư, ngụ ư Tổ chẳng có học vấn
ǵ, không hiểu biết ǵ mà ông Đinh Phước Bảo
vẫn hạ ḿnh hỏi ư kiến.
[2] Lục Quang Tổ (1521-1597), tự Dữ
Thằng, hiệu Ngũ Đài Cư Sĩ, người
B́nh Hồ, tỉnh Chiết Giang, đỗ Tiến Sĩ
năm Gia Tĩnh 26 (1547), làm quan tới chức Lại Bộ
Thượng Thư. Ông tánh t́nh trung trực, cứng cỏi,
nên va chạm rất nhiều với những gă xu nịnh
trong triều, thường phải xin về nghỉ nhiều
lần. Trong thời gian xin về nghỉ, ông chuyên tâm nghiên
cứu Phật học, phát nguyện hoằng pháp, chẳng
màng tiếng khen chê. Ông từng phát tâm quyên mộ khắc in
bộ Ngũ Đăng Hội Nguyên, trùng tu tháp chùa Dục
Vương, cũng như xướng suất khắc
Đại Tạng Kinh theo kiểu rút nhỏ. Về già, ông
chơi rất thân với đại sư Tử Bách, tu tập
Niệm Phật tam-muội. Đến lúc mất, tay kết
ấn, chú tâm niệm Phật, an nhiên văng sanh.
[3]
Phùng Mộng Trinh (1548-1595), tự Khai Chi, quê ở Tú Thủy
(Gia Hưng, Chiết Giang), là một danh sĩ đời
Minh, hiếu học, thông thạo rộng răi kinh sử,
trước tác rất nhiều. Ông đỗ Tiến
Sĩ năm Vạn Lịch thứ năm (1577), giữ chức
Hàn Lâm Biên Tu. Về già, ông lập biệt thự tại Tây
Hồ, đặt tên là Tây Hồ Thảo Đường,
thường thích đọc kinh Phật, ngao du thăm viếng
những chùa miếu quanh vùng Tây Hồ. Những trước
tác nổi tiếng nhất của ông như Khoái Tuyết
Đường Tập, Khoái Tuyết Đường Mạn
Lục, Lịch Đại Cống Cử Chí đều
được đưa vào Tứ Khố Tổng Mục
thời Minh.
[4]
Tích Sa Tạng là bản Đại Tạng Kinh được
khắc từ năm Thiệu Định thứ hai (1229)
đời vua Tống Lư Tông nhà Nam Tống cho đến
năm Chí Trị thứ hai (1322) đời vua Nguyên Anh Tông,
tổng cộng gồm 592 ḥm, tức 6.362 quyển, gồm
tất cả 1.532 bộ kinh. Do kinh được khắc
in ở chùa Tích Sa Diên Thánh Viện thuộc Trần Châu, phủ
B́nh Giang (nay là Ngô Huyện tỉnh Giang Tô) nên bản in này
được gọi là Tích Sa Tạng.
[5] Độ Điệp (度 牒): Giấy chứng minh một vị
Tăng đă thật sự thọ Cụ Túc Giới (đắc
độ) trong một giới đàn được triều
đ́nh công nhận, tuân thủ đúng theo quy chế thọ
giới của nhà Phật. Độ Điệp thường
do triều đ́nh cấp. Quy chế này được lập
ra từ thời Bắc Ngụy. Đến đời
Đường, vào năm Khai Nguyên 17 (729) triều đ́nh
hạ lệnh tăng ni trong toàn quốc cứ mỗi ba
năm phải đăng kư vào sổ bộ. Đến
năm Thiên Bảo thứ sáu (747), nhà Đường lập
riêng chức quan Công Đức Sứ trực thuộc
Thượng Thư Tỉnh để trông coi việc cấp
chứng minh thư cho tăng nhân. Đến năm Đại
Trung thứ 10 (856), Độ Điệp được gọi
là Giới Điệp và theo những quy định rất
ngặt nghèo. Tăng nhân không có Giới Điệp sẽ
không được triều đ́nh thừa nhận, có thể
bị bỏ tù bất cứ lúc nào! Dưới đời
Minh để được cấp Độ Điệp,
tăng nhân phải thi đậu kỳ khảo hạch về
kinh điển mới được phép xin thọ Cụ
Túc Giới. Mỗi một lần truyền giới phải
được triều đ́nh chấp thuận. Ai tự
tiện mở giới đàn không xin phép triều đ́nh,
cho dù là quốc sư, cũng sẽ bị phạt vạ rất
nặng.
[6]
Phùng Đạo (882-954), tự Khả Đạo, hiệu
Trường Lạc Lăo, người huyện Cảnh Thành,
Doanh Châu (nay là huyện Giao Hà, tỉnh Hà Bắc), làm Tể
Tướng trải suốt năm triều đại, tám
ḍng họ, phục vụ mười ba vị vua, thường
bị các sử gia coi là một gă hoạt đầu chính
trị bậc nhất trong lịch sử Trung Hoa. Trong bộ
Tư Trị Thông Giám, Tư Mă Quang đă miệt thị
Phùng Đạo là “gian thần bậc nhất”; c̣n Âu
Dương Tu th́ phê phán nặng hơn: “Chẳng biết
liêm sỉ là vật ǵ!” Thoạt đầu, ông ta vốn là
thủ hạ của Lư Tồn Úc. Khi Lư Tồn Úc diệt Hậu
Lương, lập ra nhà Hậu Đường (năm
923), liền cho Phùng Đạo giữ chức Hộ Bộ
Thị Lang, rồi thăng lên làm Tể Tướng dưới
đời vua Hậu Đường Minh Tông (Lư Tự
Nguyên). Tuy là Tể Tướng, nhưng tới khi Lư Tùng Kha
(con nuôi của Mẫn Đế) dấy loạn đoạt
ngôi vua của Đường Mẫn Đế (Lư Tùng Hậu),
trở thành Đường Mạt Đế (Xuất
Đế), Mẫn Đế phải chạy sang
nương tựa Thạch Kính Đường, ông ta không thèm
theo vua hộ giá, mà lại thống lănh bá quan tiếp rước
tân hoàng đế. Tới khi Thạch Kính Đường
diệt nhà Hậu Đường, lập ra nhà Hậu Tấn
(năm 936), với tài luồn lọt, Phùng Đạo lại
trở thành Tể Tướng của nhà Hậu Tấn. Tới
năm 946, quân Khiết Đan dưới sự thống
lănh của Gia Luật Đức Quang của nhà Liêu kéo quân
xuống phía Nam, sát nhập lănh thổ Hậu Tấn vào
Đại Liêu, Đức Quang vẫn cho Phùng Đạo giữ
chức Thái Phó. Không lâu sau, bộ hạ cũ của Thạch
Kính Đường là Lưu Trí Viễn chiếm lại
lănh thổ nhà Hậu Tấn, đuổi quân Liêu về Bắc,
lập ra nhà Hậu Hán (năm 947). Nhờ khéo luồn lọt,
Phùng Đạo lại được Lưu Trí Viễn
phong làm Thái Sư. Bốn năm sau, bộ hạ của
Lưu Trí Viễn là Quách Oai soán ngôi, lập ra nhà Hậu
Châu, Phùng Đạo vẫn được Quách Oai cho giữ
chức Thái Sư Trung Thư Lệnh cho đến khi mất.
Trong suốt thời gian làm Tể Tướng, Phùng Đạo
chỉ đóng góp được mỗi một việc có
ư nghĩa cho cơi đời là ra lệnh khắc ván quy mô chín
bản kinh điển trọng yếu của Nho Gia dưới
sự bảo trợ của triều đ́nh.
[7]
Phạn bản theo nghĩa thông thường có nghĩa là
nguyên văn chép bằng tiếng Sankrit (tiếng Bắc Phạn),
nhưng từ ngữ này được dùng ở đây
để chỉ một lối in kinh. Trong cách in kinh này, mỗi
trang gồm mười hai ḍng, mỗi ḍng độ 17 chữ,
được chia thành hai nửa trang, có vạch phân cách
chính giữa, nhưng vẫn chỉ đánh số như một
trang (chỉ in một mặt giấy). Do vậy khi xếp
lại thành quyển để đóng gáy, hai mặt giấy
trắng đâu lưng vào nhau, mỗi một trang giấy của
quyển sách đă đóng chỉ là nửa trang giấy ban
đầu (tức mỗi trang chỉ gồm sáu ḍng;
đúng ra phải gọi là cột), cứ mỗi hai mặt
của một trang giấy đă xếp ấy mới gọi
là một trang (v́ thế lối in này c̣n gọi là Chiết
Tử). Đây là cách in mô phỏng lối chép kinh theo hàng
ngang trên lá bối của Ấn Độ nên gọi là Phạn
Bản. Đôi khi có những bản in như Thục Bản
lại được in theo lối Quyển Tử, tức
mỗi trang được in trên một tờ giấy dài,
mỗi một tờ như vậy gồm hai mươi ba
hàng, mỗi hàng mười sáu hay mười bảy chữ,
một bộ kinh in xong được cuốn thành cuộn
chứ không xếp giấy đóng thành sách. Về sau này,
tuy kỹ thuật ấn loát tiến bộ hơn, đă in
được cả hai mặt giấy, nhưng nếu mỗi
trang bị cắt ra như vậy th́ bản in ấy vẫn
gọi là Phạn bản. C̣n Phương Sách chính là lối
in sách theo truyền thống Trung Hoa, mỗi mặt giấy
được tính là một trang gồm năm hay sáu ḍng, mỗi
ḍng là mười sáu chữ, sách luôn được xếp
giấy đóng gáy như mọi sách vở trong cơi đời.
[8] Đức ư (德意): Ư nguyện cao đẹp hoằng pháp
lợi người.
[9] Tức tŕnh bày kinh Phật theo lối
Phương Sách như đă nói trong chú thích trên đây.
[10]
Lăng Nghiêm Hội Giải (gọi tên đầy đủ
là Lăng Nghiêm Kinh Viên Thông Hội Giải Sớ) do thiền
sư Duy Tắc soạn vào đời Nguyên, chọn lọc
tất cả những chú giải kinh Lăng Nghiêm của
các vị cổ đức từ thời Đường,
Tống, Nguyên, thêm phần b́nh chú của chính ḿnh mà soạn
thành. Thiền Sư Duy Tắc (?-1354) thuộc tông Lâm Tế,
quê ở Cát An (tỉnh Giang Tây), hiệu Thiên Như, lúc bé xuống
tóc ở Ḥa Sơn, sau sang núi Thiên Mục nhập chúng, đắc
pháp với thiền sư Trung Phong Minh Bổn, được
ngài Trung Phong chọn làm pháp tự. Sư chấn hưng
Tông phong, hoằng dương pháp Thiền mạnh mẽ,
nhưng lại chuyên tu Tịnh nghiệp, soạn sách Tịnh
Độ Hoặc Vấn để phá trừ các nghi hoặc
về Tịnh Độ. Sư được Nguyên Thuận
Đế ban mỹ hiệu “Phật Tâm Phổ Tế
Văn Huệ Đại Biện Thiền Sư”, tặng y
kim lan. Ngoài hai bộ sách nói trên, Sư c̣n có những tác phẩm
nổi tiếng khác như Ngữ Lục, Thập
Phương Giới Đồ Thuyết v.v…
[11]
Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao (tám mươi quyển): Thoạt
đầu, ngài Thanh Lương Trừng Quán soạn Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Sớ từ
năm Hưng Nguyên nguyên niên (784) đến năm Trinh
Nguyên thứ ba (787) gồm 60 quyển nhằm giảng giải
kinh Hoa Nghiêm. Sau đấy, các đệ tử của Ngài
như Tăng Duệ v.v… hơn một trăm người
soạn Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm
Kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao (gọi tắt là Diễn
Nghĩa Sao, gồm 90 quyển) nhằm giải thích bộ
sớ này. Đến đời Tống, Tịnh Nguyên mới
phối hợp chánh kinh với lời sớ, tạo thành bộ
Hoa Nghiêm Sớ Chú gồm 120 quyển. Sau đấy, người
ta mới ghép Sớ và Sao chung thành một bộ, lược
bớt những ư kiến trùng lặp trong phần Sao, tạo
thành bộ Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao gồm tám mươi quyển.
[12]
Đài Đầu là cách viết theo lối cổ nhằm
thể hiện ư tôn kính. Nếu nói chi tiết th́ có hai cách
dùng:
1)
Na Đài: Phía trước tên người được
xưng hô sẽ bỏ một ô trống. Cách này vẫn c̣n
sử dụng trong những văn kiện chánh thức của
Đài Loan.
2)
B́nh Đài: Nhằm thể hiện ư tôn trọng tột bậc.
Mỗi khi gặp danh xưng của một người liền
xuống hàng, bắt đầu một ḍng mới bằng
danh xưng ấy.
[13]
Nguyên văn “Vạn quân cửu
thân hàm trượng” (ông Vạn đích thân dạy học
đă lâu). Chữ Hàm Trượng (函 丈) vốn là một từ
ngữ để gọi thầy dạy học một cách
cung kính. Quan Huyền khi chú giải sách Lễ Kư đă giảng
câu: “Nhược phi ẩm thực
chi khách, tắc bố tịch, tịch gian hàm trượng”
(Nếu không phải là khách đến ăn uống th́
trải chiếu, chiếu được trải trong khoảng
một trượng) như sau : “Người
giảng và kẻ nghe giảng ngồi cách nhau trong ṿng một
trượng nên gọi là Hàm Trượng”.
[14] Đảnh Cách (頂 格) là in một cột chữ cao hơn những
cột khác một chữ. Cách này thường áp dụng
để nhấn mạnh phần chánh văn trong một
bài viết nhằm chú giải một đoạn kinh hay một
thiên sách nào đó.
[15]
Đây là bốn câu trong Văn Xương Đế Quân Âm
Chất Văn không được Châu An Sĩ giải thích
chi tiết: “Vu công trị ngục
đại hưng tứ mă chi môn, Đậu thị tế
nhân cao triết ngũ chi chi quế, cứu nghị trúng Trạng
Nguyên chi tuyển, mai xà hưởng Tể Tướng chi
vinh” (Vu công coi ngục cửa công đường to lớn,
rộn ràng xe tứ mă, họ Đậu cứu người
bẻ năm cành quế trên cao, cứu kiến đậu
Trạng Nguyên, chôn rắn được hiển vinh làm Tể
Tướng). Tổ Ấn Quang đă ghi phần bổ khuyết
như sau: “An Sĩ tiên sinh soạn
tập cuốn sách này, sự lư, văn nghĩa thảy
đều chu đáo. Chỉ có đời cuối cùng của
Đế Quân và bốn chuyện Vu Công coi ngục, họ
Đậu cứu người, Tống Giao cứu kiến,
Thúc Ngao chôn rắn đều chưa từng sao chép. Chắc
là do các sách khác đă chép đầy đủ, đời
sau đều biết nên lược đi, nhưng kẻ
chưa từng đọc rộng răi sẽ không biết
được. Quả thật là một điều
đáng tiếc nuối. Do vậy, tôi bèn dựa theo Âm Chất
Văn Chú Chứng chép bổ sung vào đây để sự
thật được sáng tỏ bởi chẳng tiện
sửa đổi nguyên văn….
Đời Hán, Vu Công là người
Đông Hải, làm Đề Lại coi ngục. Trong quận
có người đàn bà hiếu thảo, ở góa thủ tiết,
nuôi mẹ chồng rất chu đáo. Mẹ chồng
[thương con dâu c̣n trẻ], sợ con dâu lỡ dịp
đi lấy chồng khác bèn tự thắt cổ chết.
Người em chồng liền vu cho nàng dâu đă bức chết
mẹ, nàng dâu không biện bạch được. Vu Công
bào chữa cũng không được, nàng dâu bị xử
tội chết. Xứ Đông Hải liền bị hạn
hán ba năm. Về sau, quan Thái Thú đến, Vu Công thưa
bày nỗi oan, tế lễ trước mộ người
con dâu hiếu thảo, trời liền đổ mưa.
Phàm những vụ án do Vu Công xét xử, mọi người
đều phục. Cửa công đường hư, dân
chúng tính sửa chữa. Ông nói: “Cửa này cao lớn có thể
lọt lọng, xe tứ mă được! Ta coi ngục
nhiều âm đức mà cũng không oan uổng, con cháu ắt
sẽ hưng thịnh”. Sau này, con ông là Định Quốc
quả nhiên làm Thừa Tướng, tước phong B́nh Tây
Hầu. Cháu là Vĩnh Lữ làm Ngự Sử Đại
Phu.
Đậu Vũ Quân thời
Ngũ Đại, người ở Yên Sơn, ngoài ba
mươi tuổi vẫn không con. Mộng thấy ông nội
bảo: “Chẳng những ngươi không có con mà c̣n chẳng
thọ! Hăy nên sớm tu đức để xoay chuyển
ḷng trời”. Do vậy, Vũ Quân tận lực làm lành. Có kẻ
ăn trộm hai trăm ngàn đồng, tự viết tờ
bằng khoán buộc vào lưng đứa con gái bé, viết:
“Bán vĩnh viễn đứa con gái để đền
tiền nợ”, rồi bỏ trốn. Ông thương xót,
đốt bằng khoán, nuôi lớn đứa bé gái cũng
như chọn nơi đàng hoàng gả chồng cho nó. Trong
họ nội, họ ngoại, có ai bị tang ma không lo liệu
được, ông bèn bỏ tiền chôn cất. Có người
có con gái không lấy chồng được [v́ thiếu tiền
hồi môn], ông bèn bỏ tiền làm đám cưới.
Đối với thu nhập mỗi năm, ông tính toán trừ
khoản tiền chi dụng ra, [phần c̣n lại] đều
dùng để giúp người khác. Trong nhà chỉ một mực
tiết kiệm, thanh bần, chẳng trang sức vàng ngọc,
vợ chẳng có quần áo lượt là. Dựng thư
viện ở phía Nam nhà ḿnh, chứa mấy ngàn quyển
sách, mời thầy dạy dỗ trẻ nghèo hèn bốn
phương, chu cấp tiền cho học tṛ. Không lâu sau,
sanh được năm đứa con trai, đều
thông minh, tuấn tú, khôi ngô, lại mộng thấy ông nội
bảo: “Mấy năm qua, công đức ngươi rộng
lớn, tên đă được ghi trên thiên tào, được
tăng thọ ba kỷ (một kỷ là mười hai
năm). Năm đứa con trai đều vinh hiển.
Ngươi hăy càng thêm cố gắng, đừng biếng
nhác cái tâm ban đầu”. Về sau con trưởng là Tử
Nghi làm Thượng Thư bộ Lễ, con thứ là Tử
Nghiễm làm Thị Lang bộ Lễ, con thứ ba là Tử
Khản giữ chức Tả Bổ Khuyết, con thứ
tư là Tử Xưng làm Hữu Gián Nghị Đại Phu
Tham Đại Chánh, con thứ năm là Tử Hy làm Khởi
Cư Lang. Tám đứa cháu nội đều quư hiển.
Ông thọ tám mươi hai
tuổi, không bệnh, nói cười qua đời. Phùng
Đạo tặng bài thơ: “Yên sơn Đậu Thập
Lang, dạy con trọn nhân nghĩa, linh xuân một cội
lăo, quế đỏ năm cành thơm”.
Đời Tống, Tống Giao,
Tống Kỳ cùng học trong trường Thái Học, có một
vị Tăng coi tướng bảo: “Tiểu Tống
đỗ đầu thiên hạ, Đại Tống chỉ
vừa [đủ điểm] khỏi rớt mà thôi!” Mùa
Xuân năm sau, thi xong, vị Tăng trông thấy Đại
Tống bèn chúc mừng: “Chắc là anh đă từng cứu
sống mấy trăm vạn sanh mạng!” Giao cười
bảo: “Nhà Nho nghèo làm ǵ có sức được như vậy”.
Tăng nói: “Loài vật cựa quậy đều là sanh mạng”.
Giao nói: “Có tổ kiến bị mưa xoáy vỡ, tôi bèn ghép
tre bắc cầu cho chúng thoát thân. Chắc là chuyện ấy
đấy”. Tăng nói: “Đúng vậy! Năm nay Tiểu Tống
sẽ đỗ đầu, nhưng rốt cuộc ông vẫn
chẳng thua kém nó đâu!” Đến lúc xướng tên
người đậu, quả nhiên Tống Kỳ đỗ
Trạng Nguyên; Chương Hiến Thái Hậu bảo: “Em
không được vượt anh”, [quan Chánh Chủ Khảo]
bèn lấy Tống Giao đỗ đầu, đổi Tống
Kỳ thành đỗ hạng mười. Mới tin lời
vị Tăng nói chẳng sai.
Tôn Thúc Ngao người nước
Sở, thường ra ngoài chơi, thấy rắn hai đầu,
bèn giết đem chôn. Lúc trở về, buồn bă không
ăn. Mẹ hỏi duyên cớ, khóc thưa rằng: “Con
nghe nói thấy rắn hai đầu ắt phải chết.
Nay con trông thấy, sợ sẽ phải chết, bỏ mẹ
lại”. Mẹ nói: “Rắn nay ở đâu?” Thưa: “Con sợ
người khác lại trông thấy đă giết đem
chôn rồi”. Mẹ nói: “Không lo ǵ! Ta nghe nói kẻ có âm đức
ắt được thiện báo. Ắt con sẽ khiến
cho nước Sở được hưng thịnh”. Về
sau, ông Tôn làm Lệnh Doăn (Tể Tướng), chấp chánh
nước Sở”.
[16] Xin xem chi tiết những chỗ Tổ
phê phán lối chép kinh của bà Ngô Nghệ Anh trong “Thư trả lời cư
sĩ Lục Giá Hiên” trong bộ Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên, quyển 1, thư số
77.
[17] Chỉ những vị sư chuyên làm
kinh sám, Phật sự, cúng quải theo lời thỉnh cầu
của tín chủ (thường gọi là “ứng phó đạo
tràng”).
[18] “Đối sách” chỉ bài viết trong
trường thi. Do đề thi thường là một câu nói
hay một đoạn văn trích từ kinh điển Nho
gia, thí sinh phải viết thành một bài văn giảng giải
ư nghĩa câu nói ấy cũng như tŕnh bày quan điểm,
sách lược ḥng giải quyết vấn đề, nên
bài viết ấy thường gọi là Đối Sách. Khi
viết Đối Sách, phải viết chữ rơ ràng, đủ
nét, thận trọng để tránh phạm húy, lời văn
không được có giọng điệu vô lễ, khinh cuồng
v.v…
[19]
Nữ Huấn là một bài minh do Thái Ung soạn, có nội
dung giáo hóa phụ nữ về bổn phận, phẩm
đức của nữ giới. Nội dung như sau: “Tâm do thủ diện dă, thị
dĩ thậm trí sức yên. Diện nhất đán bất
tu sức, tắc trần cấu uế chi. Tâm nhất triêu
bất tư thiện, tắc tà ác nhập chi. Phù diện
chi bất sức, ngu giả vị chi xú, tâm chi bất tu,
hiền giả vị chi ố. Tương hà dung yên? Cố
lăm chiếu thức diện, tắc tư kỳ tâm chi khiết
dă. Phó chỉ tắc tư kỳ tâm chi ḥa dă. Gia phấn tắc
tư kỳ tâm chi tiển dă. Trạch phát tắc tư kỳ
tâm chi thuận dă. Dụng trất tắc tư kỳ tâm
chi lư dă. Lập kế tắc tư kỳ tâm chi chánh dă. Nhiếp
mấn tắc tư kỳ tâm chi chỉnh dă.” (Tâm ví
như đầu mặt. Do vậy, phải hết sức
trau sửa. Mặt một ngày không trau rửa, ắt bụi
bám dơ bẩn. Tâm một ngày chẳng nghĩ tới
điều lành, ắt tà ác chen vào. Phàm mặt không trang
điểm, kẻ ngu chê là xấu. Tâm không tu, người
hiền chán ghét. Làm sao chịu đựng được?
Do vậy, khi soi gương phải nghĩ xem cái tâm có trong
sạch hay chăng? Lúc bôi kem thơm phải nghĩ sao cho
cái tâm nhu ḥa. Lúc giồi phấn phải nghĩ sao cho cái tâm
tốt lành. Lúc làm mượt tóc phải nghĩ sao cho cái
tâm an thuận. Khi dùng lược phải nghĩ sao cho cái
tâm phù hợp với lư. Lúc búi tóc lên phải nghĩ sao cho
cái tâm chánh đáng. Lúc cuộn những sợi tóc mai phải
nghĩ sao cho cái tâm được tề chỉnh).
Thái
Ung (132-192), tự Bá Giai, là một danh sĩ sống vào cuối
đời Hán, học rộng, giỏi thư pháp, từng
được cử giữ chức Tả Trung Lang Tướng
dưới thời Hán Hiến Đế. Ông là người
đầu tiên chỉnh lư kinh điển Nho gia và san định
thành một bản tiêu chuẩn. Bài minh trên đây chủ yếu
để dạy hai cô con gái của ông. Về sau, nó
được coi như một bài minh cần phải thuộc
nằm ḷng của nữ giới.
[20]
Vương Duy (701-761), tự là Ma Cật, người huyện
Kỳ, tỉnh Sơn Tây, là một thi nhân nổi tiếng
dưới đời Đường, thường
được xưng tụng bằng mỹ hiệu Thi Phật
do những bài thơ Đường Luật của ông mang
đậm sắc thái Thiền vị. Vương Duy tinh
thông Phật pháp, đặc biệt hâm mộ kinh Duy Ma Cật
nên lấy hiệu là Ma Cật. Ông đậu Tiến Sĩ
năm Khai Nguyên thứ 9 (721), làm quan đến chức Thái
Tử Trung Doăn, Thượng Thư Hữu Thừa. Ông
cũng nổi tiếng về tài hội họa. Những
sách viết về hội họa thời cổ như Lịch
Đại Danh Họa Kư, Đường Triều Danh Họa
Kư v.v… đều đánh giá rất cao tài năng hội họa
của ông.
[21]
Bùi Hưu (791-864), tự Công Mỹ, người xứ Tế
Nguyên, Mạnh Châu (nay thuộc huyện Tế Nguyên, tỉnh
Hà Nam), học Phật từ nhỏ, người đời
thường gọi ông là Hà Đông Cư Sĩ (v́ tổ
tiên ông vốn là người Hà Đông). Làm quan đến
chức Trung Thư Môn Hạ B́nh Chương Sự, rồi
được bổ làm Tiết Độ Sứ ở nhiều
nơi, tánh t́nh khoan dung, rộng răi, nghiêm cẩn, cai trị
đúng mực, không ra oai mà dân chúng hết sức kính sợ,
yêu mến. Ông nổi tiếng về tài thư pháp, văn
chương trầm ổn, mạnh mẽ, lay động
ḷng người. Gia đ́nh ông đời đời sùng Phật,
nhưng ông là người tu học Phật pháp nhiệt
thành nhất. Ông từng dựng chùa Mật Ấn để
làm trụ xứ cho Linh Hựu thiền sư. Về già, dựng
am ẩn cư tại làng Quy Sơn ở Hồ Nam.
[22]
Nê Lê (Niraya) là tên gọi khác của Địa Ngục
(Naraka: thường phiên âm là Nại Lạc Ca hoặc Na Lạc
Già), dịch nghĩa là Bất Lạc, Khả Yếm
(đáng chán), Khổ Cụ, Khổ Khí, Vô Hữu.
[23] Ư nói nếu chú giải mà không nêu
được ư chỉ viên dung, chỉ khiến cho người
đọc chấp vào Lư Tánh, bác bỏ Sự Tu, thiên chấp
đề cao Thiền Tông, bài xích, miệt thị các tông
khác th́ đă trái nghịch với ư chỉ viên đốn của
Tổ. Chú giải như vậy sẽ có hại hơn là
có lợi, thà cứ để nguyên không chú giải cho
người đọc tự lănh hội ư Tổ th́ hay
hơn.
[24] Tiếng gọi học tṛ của
người khác một cách trang trọng.
[25]
Tam Muội Luật Sư (1580-1654), người huyện Quảng
Lăng, năm 21 tuổi, xin xuất gia với pháp sư Tịnh
Nguyên tại Di Đà Am trong làng, rồi thọ Cụ Túc Giới
tại chùa Cam Lộ ở Nhuận Châu vào năm 29 tuổi,
y chỉ Huệ Vân Luật Sư để chuyên tâm nghiên cứu
Luật Tông, nghiêm tŕ tịnh giới, rất được
ngài Huệ Vân coi trọng, thường sai thay mặt Huệ
Vân diễn giảng. Sau đấy, Sư bế quan ba
năm tại núi Cửu Tử. Sau khi xuất quan, Sư chủ
tŕ pháp hội Long Hoa tại Ngũ Đài Sơn, cảm
được Văn Thù Bồ Tát phóng quang, hiện thân
cưỡi sư tử trên hư không. Năm 1639, khi ngồi
thuyền trở về Thạch Tháp, đi ngang Long Đàm,
thuận chân viếng thăm núi Bảo Hoa (huyện Cú Dung,
tỉnh Giang Tô) thấy tổ đ́nh điêu tàn, Sư liền
phát tâm trùng tu chùa này. Năm sau, Sư chống tích trượng
sang Bảo Hoa, sai học tṛ là Kiến Nguyệt làm Giám Viện,
mỗi năm tổ chức truyền giới đàn hai lần.
Ngày Hai Mươi Sáu tháng Sáu năm 1654, sau khi truyền giới
xong tại giới đàn chùa Tam Tháp (Thiệu Hưng),
Sư trở về Bảo Hoa, bảo học tṛ trong ṿng từ
ba đến bảy ngày nữa Sư sẽ văng sanh. Ngày Mồng
Một tháng Sáu nhuận, Sư giao phó chùa Bảo Hoa cho Kiến
Nguyệt. Mồng Bốn tháng Sáu, Sư tự tắm rửa,
ngồi xếp bằng trong nước, mỉm cười
qua đời trong tiếng trợ niệm Phật hiệu
của môn nhân.
[26] Ư nói: Thuận theo thế để diệt
trừ, ví như vung đao chém xuống, do đà đi của
lưỡi đao, vật sẽ bị cắt đứt
không cần phải ra sức bổ xuống. Cũng giống
như vậy, hễ chứng ngộ, phiền năo sẽ
đoạn diệt, không cần phải chú tâm dụng công.
Thật ra vẫn là dụng công, nhưng không c̣n phân biệt
đối đăi nên giữ giới, diệt phiền năo
không cần phải hết sức chú tâm dụng công.
[27]
Kim Cang Trí (Vajrabodhi, 671-741) là vị Tổ phó pháp thứ
năm của Mật Tông Ấn Độ, được
coi là Sơ Tổ Mật Tông
Trung Hoa (theo truyền thống Kim Cang Giới). Sư xuất
thân từ giai cấp Bà La Môn, năm lên mười tuổi
xuất gia ở chùa Na Lan Đà, hai mươi tuổi thọ
Cụ Túc, nghiên cứu tu tập rộng răi các kinh điển
Đại Tiểu Thừa. Năm ba mươi mốt tuổi,
theo học Mật giáo với ngài Long Trí. Nối gót ngài Thiện
Vô Úy, Sư dẫn đệ tử là Bất Không theo
đường biển đi qua Tích Lan, Sumatra, tới Quảng
Châu của Trung Hoa vào năm Khai Nguyên thứ bảy (719)
đời Đường, kiến lập đạo tràng
Quán Đảnh Đại Mạn Noa La, hóa độ tứ
chúng. Năm Khai Nguyên thứ tám (720), Sư lên Lạc Dương
rồi qua Trường An, lo phiên dịch kinh điển Mật
giáo và truyền thụ bí pháp quán đảnh. Ngài dịch
được các bộ Kim Cang Đảnh Kinh, Du Già Niệm
Tụng Pháp, Quán Tự Tại Du Già Pháp Đệ Bát Bộ…
Sư cùng với Bất Không và Thiện Vô Úy được
cơi đời xưng tụng là Khai Nguyên Tam Đại
Sĩ. Sư tính trở về Ấn Độ, nhưng rồi
thị hiện bệnh nhẹ, viên tịch tại chùa Quảng
Phước, Lạc Dương, thụy hiệu Đại
Hoằng Giáo Tam Tạng. Những vị đệ tử
người Trung Hoa nổi tiếng nhất của Sư
là Nhất Hạnh, Huệ Siêu, Nghĩa Phước, Viên Chiếu
v.v…
[28]
Thiện Vô Úy (Śubhakara-simha, 637-735). Đôi khi c̣n dịch
là Tịnh Sư Tử, cũng được coi là Sơ Tổ
của Mật Tông Trung Hoa (tùy theo hệ thống truyền
thừa là Thai Tạng Giới hay Kim Cang Giới mà sẽ
coi ngài Thiện Vô Úy hay ngài Kim Cang Trí là Sơ Tổ). Sư
vốn người nước Ô Trà (Odra, Đông Ấn
Độ), thuộc giai cấp Sát Đế Lợi, hậu
duệ của Cam Lộ Phạn Vương (Cam Lộ Phạn
Vương là chú của Phật Thích Ca). Sư nối ngôi
vua năm mười ba tuổi, do gặp nội loạn,
Sư bèn nhường ngôi đi xuất gia. Đến bờ
biển Nam Ấn, Sư thấy ngôi chùa thờ Phật thù
thắng bèn ngộ được Pháp Hoa Tam Muội. Ngài
đến chùa Na Lan Đà ở Trung Ấn theo học với
ngài Đạt Ma Cúc Đa (Dharmagupta), nghiên cứu Du Già Tam Mật,
lănh hội rốt ráo, được ngài Đạt Ma Cúc
Đa truyền quán đảnh. Năm Khai Nguyên thứ
tư (716) đời Đường, tuân theo lời thầy
truyền, Sư theo ngả Trung Á đến Trường
An, được vua Huyền Tông tôn làm quốc sư, trụ
tại chùa Hưng Phước. Năm sau, Sư phụng
chiếu dịch kinh tại chùa Bồ Đề, dịch
các bộ Hư Không Tạng Bồ Tát Năng Măn Chư Nguyện
Tối Thắng Tâm Đà La Ni Cầu Văn Tŕ Pháp, Đại
Nhật Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Tŕ
Kinh (những lời giảng về kinh Đại Nhật
của Ngài được Nhất Hạnh biên tập thành
bộ Đại Nhật Kinh Sớ), Tô Bà Hô Đồng Tử
Kinh, Tô Tất Địa Yết La Kinh. Do những kinh này
thuộc hệ thống Thai Tạng Giới trong Mật thừa
nên Sư được coi như Sơ Tổ Mật Tông
Trung Hoa (nếu xét theo hệ thống Thai Tạng Giới).
Sư là người chủ xướng việc để
nguyên những bài thần chú bằng tiếng Phạn, dùng
những chữ Hán có âm đọc gần giống với
Phạn âm để ghi cách đọc, khiến cho Phật
giáo Trung Hoa dấy lên phong trào nghiên cứu chữ mẫu tự
Tất Đàm (Siddham). Do rất khéo tay, Ngài cùng các đệ
tử tự chế tạo các h́nh mạn-noa-la (mandala),
tượng, pháp khí, tháp bằng đồng. Năm Khai
Nguyên 20 (730), Sư xin trở về Ấn Độ,
nhưng không được vua chấp thuận. Sư thị
tịch năm Khai Nguyên 23, thọ chín mươi chín tuổi.
Huyền Tông hết sức thương tiếc truy tặng
tước Hồng Lô Khanh, chôn ở chùa Quảng Kỷ tại
núi Long Môn. Các đệ tử đắc pháp gồm Bảo
Tư, Nhất Hạnh, Huyền Siêu, Nghĩa Lâm, Trí Nghiêm, Hỷ
Vô Úy, Bất Khả Tư Nghị (người Đại
Hàn), Đạo Từ (người Nhật)…
[29] Phần nêu những nguyên tắc biên soạn
và tŕnh bày tự điển, như nguyên tắc tra chữ,
cách sắp xếp hệ thống phân loại từ ngữ,
cách đánh số ghi chú và bản thư mục trích dẫn,
cách ghi tắt từ loại (chẳng hạn bên cạnh một
chữ mở ngoặc ghi một chữ “danh” trong ngoặc
th́ từ ấy là một danh từ), tên những tác phẩm
trích dẫn thường được ghi tắt bỏ
trong ngoặc vuông, chẳng hạn trích từ quyển 2, phẩm
Thuần Đà, kinh Niết Bàn th́ ghi là [Niết - Thuần
Đà - q.2] v.v…
[30] Di Lặc Bồ Tát hóa thân làm Bố
Đại Ḥa Thượng ở huyện Phụng Hóa vào
đời Minh. H́nh tượng Di Lặc Bồ Tát thường
được thờ hiện thời ở Trung Hoa chính là
h́nh trạng của Bố Đại Ḥa Thượng: Bụng
to, mặt lớn, tai dài, luôn mỉm cười, tay luôn cầm
một chiếc túi vải.
[31]
Từ Lăng (507-583), tự Hiếu Mục, người
Đông Hải Đàm (nay thuộc huyện Đông Đàm, tỉnh
Sơn Đông), là một văn nhân nổi danh thời Trần
- Tùy. Được ca ngợi là “tám tuổi thông văn chương, mười hai tuổi
thông hiểu Lăo - Trang, đến lớn đọc khắp
các sử sách, biện tài vô ngại”. Ông từng giữ
chức Đông Các Học Sĩ, làm thầy dạy học
của Lương Giản Văn Đế (Tiêu
Cương) khi vua c̣n là Thái Tử.
[32]
Pháp Hoa Tôn Giả (?-680) là cao tăng đời Đường,
pháp danh là Trí Oai. Sư là người xứ Tấn Vân, Xử
Châu (nay là Chiết Giang). Thuở nhỏ học Nho, tới
năm mười tám tuổi đă giữ chức
Đường Trưởng trong quận ấy. Cũng
trong năm đó, tuân theo lời cha mẹ, Sư trở về
quê nhà lo cưới vợ, giữa đường chợt
gặp một vị Phạm tăng cật vấn: “Sao ông
lại bội nghịch lời trọng thệ khi xưa?”
Vị Phạm tăng cho biết Sư đời trước
là Từ Lăng, từng nghe tổ Trí Giả giảng kinh
Pháp Hoa, liền phát nguyện đời sau xuất gia từ
bé để hoằng dương tông Thiên Thai. Do vậy,
Sư bèn sang chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai, thờ ngài Quán
Đảnh làm thầy. Sau khi thọ Cụ Túc liền
được thầy truyền tâm yếu, Định -
Huệ trọn đủ, chứng được Pháp Hoa
tam-muội. Năm Thượng Nguyên nguyên niên (674), Sư rời
Quốc Thanh, vào núi Thương Lănh Phổ Thông ẩn
cư, tuyên giảng kinh Pháp Hoa. Do cuộc đất chật
hẹp, Sư bèn dời sang ngọn núi Hiên Viên Luyện
Đan, chặt phá gai góc, đặt tên nơi ấy là Pháp
Hoa. Ngày diễn giảng, đêm hành Thiền. Đạo
chúng theo học đông dần, Thiền tập đến
ba trăm người, thính chúng hơn bảy trăm
người. Tôn giả biện tài uyên bác, văn
chương lưu loát, soạn rất nhiều văn bia.
Người đời tôn xưng Sư là Pháp Hoa Tôn Giả.
Sư thân cao lớn, khi lên giảng tọa thường có
áng mây tím che trên đỉnh đầu. Từ chỗ Sư
ẩn cư đến chỗ Thiền hội, thọ trai
xa cả tám chục dặm, nhưng Sư chưa hề chậm
trễ vắng mặt nên mọi người đều
nói là Sư có Thần Túc Thông. Sư từng được
vua phong tước Triêu Tán Đại Phu. Sau này, Ngô Việt
Vương dâng tặng thụy hiệu Huyền Đạt
Tôn Giả. Đệ tử nối pháp có ngài Huệ Oai
cũng rất nổi tiếng nên người đời
thường gọi hai thầy tṛ là Nhị Oai.
[33]
“Chó rơm” (Sô Cẩu: 芻
狗) vốn là con chó bện bằng rơm thường
dùng để cúng tế cho người chết trong thời
cổ. Sau khi cúng xong sẽ đốt hoặc vứt
đi nên từ ngữ Sô Cẩu thường dùng để
chỉ những vật vô ích. Ở đây, Tổ dùng từ
ngữ này để sánh ví Văn Sao, sau khi đă hoàn thành
vai tṛ dẫn nhập kẻ sơ cơ thâm nhập pháp môn
Tịnh Độ th́ chẳng cần đến Văn Sao
nữa cũng không sao!
[34]
Kim Nê (金 泥):
Ḥa thủy ngân lẫn với bột vàng (hoặc kim loại),
đem nung nóng thành chất bột sền sệt th́ gọi
là Kim Nê. Kim Nê thường dùng trong kỹ thuật đúc ấn
hoặc niêm phong. Thuở trước, người ta làm
khuôn bằng sáp rồi in vào chất bột kim nê để
lấy dấu. Hiện ở Tây Tạng vẫn c̣n dùng
phương cách tương tự để đúc những
bức tượng nhỏ gọi là melting wax technique.
[35]
Lương Cung Thần (1814-?), quê ở Phước Châu, tỉnh
Phước Kiến, là một văn học gia nổi tiếng
về tài làm câu đối dưới đời Thanh. Cung
Thần là con trai thứ ba của đại văn học
gia Lương Chương Cự. Những trước tác
nổi tiếng nhất của Lương Cung Thần là Bắc
Đông Đường Bút Kư, Doanh Liễn Tứ Thoại,
Xảo Đối Tục Lục…
[36]
Nguyên văn “Kinh bích”, chỉ viên ngọc của Biện Ḥa
(Kinh là tên gọi khác của đất Sở, tức Hồ
Nam). Biện Ḥa t́m được một khối đá có
ngọc dâng lên vua Sở, thợ ngọc lười, chỉ
chặt một góc rồi bảo là đá thường. Vua
tức giận chặt một chân Biện Ḥa. Một thời
gian sau, v́ tiếc ngọc quư không ai dùng đến, Biện
Ḥa lại đem khối đá ấy dâng lên vua, thợ ngọc
lại phạt một góc khác, bảo chỉ là đá. Vua tức
giận, ra lệnh chặt nốt chân c̣n lại của Biện
Ḥa. Biện Ḥa ôm phiến đá ngồi khóc ngoài đồng.
Có viên quan thương t́nh tâu lên vua. Vua sai xem xét cẩn thận,
quả nhiên bên trong có viên ngọc quư giá vô cùng. Về sau, Tần
Thủy Hoàng cướp lấy viên ngọc này để
làm ấn truyền quốc. Chữ Kinh Bích về sau thường
dùng như một từ ngữ phiếm chỉ các loại
ngọc quư.
[37]
Theo Hiện Báo Tùy Lục (quyển 1) của pháp sư Giới
Hiển, ở Ninh Ba có một kẻ thường dân sống
nhờ trong nhà kho của một vị Thượng Thư
họ Thôi, bện hài bằng cỏ Bồ
để bán kiếm sống. Ông ta thích tu hành, ăn
chay trường, niệm Phật. Mỗi khi niệm Phật
cứ niệm xong một xâu chuỗi lại lấy một
cọng cỏ Bồ bỏ vào giỏ tre để nhớ
số. Đến hôm Ba Mươi tháng Chạp mỗi
năm sẽ đem đốt số cỏ ấy nơi
Địa Tạng Điện. Làm như vậy được
mấy năm, chợt Thôi Thượng Thư bị nhọt
mọc trên lưng, chết xuống âm phủ. Diêm
Vương trừng mắt, tra hỏi sự thiện - ác
lúc c̣n sống. Ông Thôi thưa: “Nếu ngài cho con được
sống lại, con sẽ một mực tu phước nghiệp
chuộc tội được chăng?” Diêm Vương
nói: “Tiền của nhà ngươi đă tích trữ đều
là do tạo nghiệp mà có, không dùng được ở
nơi này. Gă thường dân Trương Bân ở đậu
nhà ngươi có trữ tiền vàng cả mấy kho ở
đây. Hăy đem tiền thật đổi lấy một
vạn tiền cơi Âm th́ sẽ tiêu được tội!”
Họ Thôi đáp: “Chỉ cần con về lại
dương gian th́ sẽ làm chuyện ấy dễ dàng.
Nhưng Trương Bân nghèo kiết xác, sao lại
được như thế?” Diêm Vương nói: “Phàm
người giữ trai giới chí tâm niệm Phật một
tiếng, dẫu cho tán tâm niệm Phật một tiếng
cũng để dành được một đồng bằng
bạc. Trương Bân chí tâm niệm Phật, dùng cỏ Bồ
để ghi số, đă tích được mấy kho tiền
rồi”. Ông Thôi sống lại, gọi Trương Bân bảo:
“Ông tích trữ được mấy kho tiền ở Âm Phủ,
có thể đổi cho ta một vạn được
chăng”. Ông Trương sững sờ, câm lặng! Họ
Thôi bảo: “Ông dùng cỏ Bồ để nhớ số
câu niệm Phật, đem thiêu trong ḷ đốt giấy tiền
ở miếu Địa Tạng, chính là khoản tiền ấy
đấy”. Trương đáp: “Nếu thật sự
như vậy, nếu quả thật hữu dụng, xin
tùy ư Ngài”. Ông Thôi bèn sai viết bằng khoán, đem một vạn
bạc thật để đổi lấy tiền cơi Âm,
thỉnh họ Trương đốt bằng khoán tâu với
Âm Phủ, quả nhiên lành bệnh. Trương Bân nói: “Tôi
tuổi đă già rồi, chẳng dùng tiền để làm
ǵ”, bèn đem số bạc ấy dựng một cây cầu
lớn, tốn đến mấy vạn bạc, lại dựng
một cái am cho người khác tu tập. Do ông Đinh
Phước Bảo dẫn câu chuyện này nên tổ Ấn
Quang khuyên ông Đinh hăy ghi thêm lời chú thích hoặc giảng
giải cặn kẽ kẻo người đọc chỉ
lo niệm Phật ḥng trữ tiền trong cơi Âm, không cầu
được văng sanh.
[38]
Ưu Ba Đề Xá (Upadeśa) là một thể tài trong
kinh điển, c̣n được phiên âm là Ô Ba Đệ
Thước, dịch nghĩa là “chỉ thị, hiển thị,
tuyên thuyết, luận nghị” hoặc “chú giải
chương cú kinh”, đều hàm nghĩa: Đây là những
trước tác của các đệ tử Phật hoặc
các luận sư đời sau nhằm chú giải, diễn
giảng những lời Phật đă nói.
[39] Tức cuốn Ấn Quang Đại
Sư Truyện do Mă Khế Tây soạn.
[40] Tức cuốn Thông Kiểm Bản Tam Tạng
Pháp Số do Đinh Phước Bảo soạn. Ông Đinh
dựa theo Đại Minh Tam Tạng Pháp Số và Giáo Thừa
Pháp Số chọn lọc lấy những danh từ Phật
học thông dụng nhất để giải thích.
[41] Tức phần in tên sách, số quyển,
số chương, số trang trong mỗi trang sách.
[42] Bổ Di (補 遺): Phần bổ sung nhằm bù đắp
những chỗ thiếu sót trong phần sách chính.
[43] Cư Sĩ Truyện (56 quyển) do Bành
Thiệu Thăng (Bành Tế Thanh) soạn, chép về ngôn hạnh
của hơn hai trăm vị cư sĩ ngoại hộ
Phật pháp từ đời Hậu Hán cho đến niên
hiệu Càn Long nhà Thanh được sưu tập từ
các bộ sử truyện, văn tập của các vị
danh sĩ cho đến những sách chuyên viết về Phật
giáo như Hoằng Minh Tập, Quảng Hoằng Minh Tập,
Phật Pháp Kim Thang Biên, Truyền Đăng Lục, Ngũ
Đăng Hội Nguyên, Phật Tổ Thống Kỷ, Phật
Tổ Thông Tải v.v… Sách được khởi đầu
bằng các vị Mâu Dung, An Huyền, Trúc Thúc Lan v.v…. Hai vị
cuối cùng là Châu An Sĩ và Tri Quy Tử.
[44] Quán nhiếp: Nói tắt của “quán thông
nhiếp thọ” (貫 通 摄 受), tức gồm thâu, thâu nạp xuyên suốt,
không để sót điều ǵ. Ư nói kinh Lăng Nghiêm dạy
về lư tánh lẫn sự tu rất rơ ràng, chỉ v́ người
đọc do chấp trước quá nặng nên không thể
hiểu viên dung ư Phật.
[45] Theo Thập Tụng Luật, quyển
37, có ba thứ thịt cho phép người có bệnh
được ăn, gọi là “tịnh nhục”: Chẳng
chính mắt thấy giết, chẳng nghe tiếng giết,
chẳng v́ ta mà giết.
[46] Đây là cách gọi theo lối xưa, gọi
anh em ruột của ông nội ḿnh theo thứ tự, ông nội
thứ năm (Ngũ Tổ) chính là ông chú hay ông bác đứng
hàng thứ năm trong các anh em của ông nội.
[47] Miêu Ôn (Feline Distemper) là một chứng bệnh
dịch của mèo do loại virus Canine Parvovirus type 2 gây ra. Khi
bị virus này tấn công sẽ ho hen, chảy mũi, nhiều
đờm răi, đau cổ họng, ói mửa, thổ tả,
sốt cao. Mèo bị nhiễm căn bệnh này có tỷ lệ
tử vong rất cao (75-90%). Căn bệnh này có thể lây
cho người.
[48]
Tuế Sát (歲 煞)
là một h́nh thức khắc kỵ trong cách bói toán năm xung tháng hạn
theo cổ lịch. Theo Thần Xu Kinh của Đạo Giáo,
có Tam Sát phải kiêng kỵ trong khi xây cất là Kiếp Sát,
Tai Sát và Tuế Sát. Sách ấy giảng: “Tuế Sát nghĩa là âm khí rất độc, nên gọi
là Sát, xảy ra khắp bốn mùa, nên c̣n gọi là Âm Khí của
bốn mùa, trôi nổi khắp bầu trời. Cuộc
đất nào bị trúng hạn Tuế Sát, không được
động thổ, xây cất. Nếu phạm th́ con cháu, lục
súc (gia súc) sẽ bị tổn thương, tử vong”.
Ở đây, chữ Tuế Sát được dùng với
nghĩa bóng: “Thời cuộc bất ổn, chiến tranh
hoành hành”.
[49]
Hưởng Đồng (Bell bronze, hoặc bell metal) là một
loại hợp kim gồm đồng, ch́, thiếc phối
hợp theo một tỷ lệ nhất định (thông
thường tỷ lệ đồng và thiếc là 3:1).
Hưởng Đồng thường dùng để chế
các loại nhạc khí có độ ngân vang như chuông,
khánh, linh, cồng, chiêng, thanh la, năo bạt, lục lạc
v.v… Tùy theo cách chế tạo của từng vùng, đôi khi
c̣n thêm vào các thành phần khác như manganese, bạc hay vàng
(nhưng do tỷ trọng khác biệt, lượng vàng hay
bạc ḥa tan vào hợp kim sẽ chiếm một số
lượng rất nhỏ) .
[50]
Đối với Phật môn Trung Hoa, Khánh (磬) là từ ngữ chỉ
chung cho các loại nhạc khí bằng đồng để
gơ làm hiệu, có h́nh bát ngửa lên, được đặt
trên đệm hoặc có cán cầm; chẳng hạn chuông
gia tŕ (chuông dùng để tụng kinh) gọi là Đại
Khánh, khánh nhỏ cầm tay (thủ khánh, hay dẫn khánh)
để làm giữ nhịp dẫn lễ v.v… Chỉ những
loại có h́nh quả chuông treo mới được gọi
là “chung”. Riêng ở miền Bắc Việt Nam lại
thường gọi loại nhạc khí có h́nh dạng
đĩa phẳng, trông như một đám mây cuộn,
đúc bằng đồng, gơ như chiêng trong các buổi lễ
là Khánh. Loại này thường được Phật môn
Trung Hoa gọi là Vân Bản.
Báo
Chung là loại chuông cỡ vừa, thường được
treo trong Thiền Đường, Tăng Đường,
hoặc Trai Đường dùng với mục đích báo hiệu
bắt đầu thọ trai, niệm Phật, nghỉ
ngơi hay thức dậy. Báo Chung c̣n dùng để ra hiệu
cho đại chúng cất giọng tán xướng trước
khi ngồi Thiền hay thụ trai. Riêng trong Thiền
Đường và Trai Đường Trung Hoa, Báo Chung luôn
đi kèm với Bản (板,
c̣n gọi là Chung Bản, là một tấm gỗ h́nh chữ
nhật được treo phía dưới Báo Chung, khác với
một loại bản khác treo gần Chung Bản, gọi
là Thôi Bản, chỉ đánh để làm hiệu lệnh
bắt đầu chạy hương; Thôi (推) có nghĩa là thúc giục).
Tùy theo mỗi tông phái mà quy tắc đánh chung bản
được quy định khác nhau, nhưng thông thường,
đánh Bản trước khi khởi Báo Chung, đánh thành
ba hồi, trước chậm sau nhanh dần để
đại chúng có đủ thời gian vân tập.
Hỏa
Bản (Tuần Hỏa Bản) đúc bằng đồng
hay thau, thường được vị chịu trách nhiệm
hộ liêu vừa đánh vừa lắc Hỏa Linh (một
loại chuông lắc nhỏ) trong lúc đi tuần pḥng sau
khi hiệu lệnh Chỉ Tịnh (nghỉ ngơi) đă
đánh lên, nhằm nhắc nhở đại chúng đề
pḥng hỏa hoạn, dập tắt củi lửa,
hương đèn v.v…
[51] Bài viết này được đánh số
10 trong phần Tạp Trước của Ấn Quang Pháp
Sư Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên, quyển 4.
[52] Đây chính là “bài Kư về sự văng sanh
của cư sĩ Sa Kiện Am” được đánh số
36 trong phần Kư thuộc quyển thứ tư của bộ
Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên.