Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tam Biên
Quyển 4
Phần 5
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo chánh: Minh Tiến & Huệ Trang
59. Thư trả lời cư
sĩ Trác Trí Lập (thư
thứ nhất)
Quang là người huyện Cáp
Dương, tỉnh Thiểm Tây. Ông đọc Văn Sao,
há chưa từng thấy lời bạt của ông Úy
Như (tên ngoài đời là Văn Úy) ư? Câu “tại
Hợp chi dương” (ở phía Nam sông Hợp) trong kinh
Thi chính là nói về nơi ấy đấy, bởi huyện
Cáp Dương nằm ở phía Nam[1]
sông Hợp Thủy, nên có tên là Hợp Dương (洽陽). Sông bị cạn nước vào thời
Hán nên bỏ bộ Thủy [trong chữ Hợp] thêm bộ Ấp
(邑), [do vậy, Hợp Dương] trở
thành Cáp Dương (郃陽). Chữ
Hợp (洽) trong cái tên Hợp Dương phải đọc âm Hợp
(合), đừng nên đọc là Hiệp (狹), c̣n trong những chỗ khác đều
đọc là Hiệp, chứ không thể đọc là Hợp!
Cáp Dương chính là nơi Y Doăn đích thân cày ruộng,
nên c̣n có tên là Cổ Tân (c̣n đọc là Sằn).
Thuở bé, tôi học chữ với anh
ruột; thoạt đầu, gặp lúc loạn lạc nên
phải đ́nh hoăn hai năm. Tiếp đấy lại lắm
bệnh nên học hành chẳng ra ǵ. Mới sanh ra được
nửa năm liền mắc bệnh mắt, suốt sáu
tháng chưa từng mở được mắt; trừ
lúc ăn ngủ ra, cứ khóc suốt ngày đêm không ngừng.
Về sau, mắt được lành, vẫn c̣n thấy
được ánh mặt trời. Năm mười mấy
tuổi, đọc lời văn báng Phật của Hàn - Âu
rất thích, lại c̣n muốn học Lư Học. Cho nên
đối với thơ văn đều chẳng muốn
làm. Anh ruột tôi thấy tôi vốn bệnh tật đă
lâu nên mặc kệ. Năm hai mươi tuổi xuất
gia (nhằm năm Quang Tự thứ bảy - 1881). Tu Tịnh nghiệp là do kinh Di Đà, Tịnh
Độ Phát Nguyện Văn và Long Thư Tịnh Độ
Văn phát khởi, chứ tuyệt không được một
tri thức nào khai thị! Bởi lẽ, tiên sư và những
người giao du đều hâm mộ ư chỉ nhà Thiền,
Quang trọn chẳng được chỉ dạy, tự
lượng chính ḿnh không có được trí thức ấy
nên chẳng dám [tu Thiền].
Năm hai mươi sáu tuổi (nhằm
năm Quang Tự 12 - 1886 ), rời
Thiểm Tây đến núi Hồng Loa ở Bắc Kinh.
Năm Quang Tự 19 (1893), từ Bắc Kinh đến chùa
Pháp Vũ, tới nay đă ba mươi mốt năm rồi.
Làm một kẻ nhàn rỗi vô tích sự tại Pháp Vũ (do
Trụ Tŕ chùa Pháp Vũ [là ḥa thượng Hóa Văn lên Bắc
Kinh] thỉnh Đại Tạng Kinh, tôi làm người kiểm
giảo cho Ngài nên Ngài bảo tôi cùng theo về chùa. Do biết
Quang chẳng muốn đảm nhận chuyện ǵ bèn cho ngồi
chơi không. Các đời Trụ Tŕ sau đấy đều
y theo lệ cũ, cho nên mới được [rảnh rỗi]
lâu dài như thế). Phàm những
chuyện thuộc về Thường Trụ đều nhất
loạt chẳng tham dự hoặc nghe biết. Thoạt
đầu, hễ trong núi có nhân duyên ǵ cần phải viết
lách th́ đa số sai Quang viết, Quang liền dùng giọng
điệu của người [sai viết] ấy. Nếu
chẳng tiện dùng giọng điệu của người
ấy, bèn dùng danh xưng khác. Suốt hai mươi mấy
năm, hai chữ “Ấn Quang” chưa từng bao giờ lộ
ra ngoài. Do vậy, không một ai thăm hỏi và gởi
thư.
Từ năm đầu Dân Quốc
(1912), cư sĩ Cao Hạc Niên lén đem bản cảo
đăng trên Phật Học Tùng Báo. Do ông ta thấy Quang
chẳng muốn cho người khác biết đến nên
đề tên tác giả là Thường Tàm (thường hổ
thẹn), đấy không phải là tên [thật sự]. Từ
Úy Như, Châu Mạnh Do trông thấy [những bài viết ấy]
rất thích, cho là hợp với tri kiến của họ
bèn hỏi han khắp mọi người, nhưng [ai nấy]
đều không biết. Đến năm Dân Quốc thứ
tư (1915), Úy Như hỏi pháp sư Đế Nhàn, ngài
Đế Nhàn liền nói với Quang: Sư cũng không biết
Thường Tàm là ai. Do Hạc Niên đem bản cảo tới
cho pháp sư Đế Nhàn xem qua, [nên Sư mới biết]!
Từ đấy, Úy Như sưu tập [những văn cảo
của Quang], đem in ra (tại Bắc Kinh); tới năm Dân Quốc thứ bảy
(1918), cầm Sơ Biên Văn Sao đến núi xin quy y. Quang
một mực không chịu thâu nhận [đệ
tử] quy y, bảo ông ta hăy quy y với pháp sư Đế
Nhàn. Năm Dân Quốc thứ tám (1919), ông ta lại in [Ấn
Quang Văn Sao] Sơ Biên, Thứ Biên. Năm Dân Quốc thứ
chín (1910), lại bảo Thương Vụ Ấn
Thư Quán ở Thượng Hải ấn hành, giữ lại
bản in gốc.
Từ đấy, ngày càng thấy phiền
phức, muốn có một ngày thanh nhàn cũng không
được! Từ đó trở đi chẳng thể
không dùng cái tên Ấn Quang. V́ thế, phàm có ai xin viết lời
bạt, đều ghi là Thường Tàm Quư Tăng Thích Ấn
Quang. Tôi bẩm tánh cương trực nên trọn chẳng
nẩy sanh ư niệm Trụ Tŕ đạo tràng, thế
độ đồ đệ. Gần đây có kẻ dốc
hết tánh mạng muốn xin Quang cho xuất gia, Quang
cũng dốc hết tánh mạng từ chối. Thoạt
đầu cự tuyệt người xin quy y, nay chỉ
đành mặc kệ mà thôi! Tôi vốn chẳng chuộng
bày vẽ màu mè, dẫu là chữ viết, tranh vẽ của
bậc danh nhân cũng chẳng màng! Đă từng hơn ba
lần chụp ảnh, hễ bị ép buộc th́ cho
người ta chụp. Trừ những tấm kẻ ấy
giữ lấy ra, Quang trọn chẳng cần đến!
Hễ họ gởi h́nh tới th́ cũng tùy tiện tặng
cho người khác, nhất loạt chẳng giữ lại.
Nếu ông có thể nghe theo lời tôi th́ sẽ là bạn
thiết của tôi, cần ǵ phải muốn có h́nh dạng
xấu xa của tôi vậy? Người niệm Phật
hăy nên chuyên ṛng lễ Phật, chứ lạy một ông
Tăng tầm thường chỉ biết cơm cháo có lợi
ích ǵ đâu?
Năm nay tôi đă sáu mươi ba tuổi,
người cùng quê và Đốc Quân tỉnh Thiểm Tây nhiều
lần giục giă trở về quê nhà. Quang thoạt đầu
viện cớ ḿnh là kẻ tầm thường để thoái
thác. Đến khi lâm vào t́nh thế chẳng từ tạ
được nữa, bèn nại cớ đang phải lo
toan công việc, chẳng thể đi xa được!
Năm sau Phổ Đà Sơn Chí hoàn thành, Văn Sao ấn
hành xong xuôi, sẽ trở về đất Thiểm một
chuyến, sợ vẫn c̣n phải trở lại [nơi
đây]. Do phải đợi cho đến khi nhân duyên [các
chùa] Phạm Thiên, Pháp Vân hoàn thành th́ mới có thể không
quan tâm được; nhưng mạng người vô
thường, lỡ ra chết trước [khi ấy] nên
chẳng thể định sẵn theo ư ḿnh được!
Năm Dân Quốc thứ sáu (1917), ông Trần
Tích Châu xin Quang tu chỉnh Phổ Đà Sơn Chí. Quang muốn
sưu tập thật hoàn bị các sự lư cảm ứng
thuộc về mặt Bổn lẫn mặt Tích của
Đại Sĩ rồi dùng lối tụng văn để
ca tụng, dưới mỗi câu c̣n ghi chú các sự tích;
nhưng do mục lực chẳng đủ nên vẫn phải
sám hối, cầu Đại Sĩ gia bị, rồi mới
xem khắp các nhân duyên của Đại Sĩ trong Đại
Tạng. Nào ngờ từ đấy trở đi, thư từ,
công việc ngày càng thấy nhiều hơn, trọn không có
lúc nào rảnh rỗi! Ba năm trước, Tri Sự [huyện
Định Hải] muốn Quang tu chỉnh Sơn Chí, Quang
đă đem ư ấy để ngăn trở. Năm ngoái,
Tri Sự cực lực hộ tŕ Phổ Đà cũng muốn
tu chỉnh gấp. Thoạt đầu, tuy Quang đă đem
ư ấy bảo rồi, ông ta vẫn chẳng chịu nguôi
ḷng, liền bảo ông ta cậy người khác tu chỉnh,
chứ Quang không rảnh rang để lo liệu, không cách
nào thỏa măn nguyện của tôi được!
Há chẳng phải là Đại Sĩ cảm
ứng, khiến cho một vị cư sĩ từ Giang
Tây đến đây? Ông ta vốn làm quan Hàn Lâm dưới triều
Thanh trước kia, bút mực siêu diệu. Gặp mặt
Quang, Quang hỏi: “Ông ăn chay hay chưa?” Ông ta thưa:
“Con ăn chay kỳ!” (nghiên cứu Phật học
đă tám chín năm, nhất tâm niệm Phật, nhưng
chưa ăn chay trường). Quang
lớn tiếng quở mắng, ông ta cực lực bội
phục. Do vậy, bảo ông ta hăy soạn sách, ông ta hết
sức vui ḷng. Thỉnh một vị văn học gia tu chỉnh
Sơn Chí, c̣n phần nói về công hạnh của Đại
Sĩ th́ do Hứa cư sĩ tu chỉnh; khi tu chỉnh
xong sẽ hợp chung lại. Lại c̣n cho in riêng phần ấy
để lưu truyền rộng răi ngơ hầu người
trong thiên hạ đều được gội ân đức
của Đại Sĩ. Chuyện này có thể hoàn thành
trong năm nay, rơ ràng là sớm hay muộn ǵ đều có thể
in ra sách. Bộ [Phổ Đà] Sơn Chí đứng đầu
Sơn Chí của các danh sơn trong thiên hạ, may mắn
chi hơn? Những [câu trả lời cho] điều ngờ
vực và sở ngộ của ông được viết
trong một tờ giấy khác!
60. Thư trả lời cư
sĩ Trác Trí Lập (thư
thứ hai)
Nhận được thư,
biết ông có thể quay lại tự kiểm điểm,
khá cảm thấy vui mừng, an ủi! Nhưng những
câu hỏi đa số là cố chấp, thiên kiến, chẳng
thấu hiểu đạo “giữ lẽ thường, biết
quyền biến”. Nếu mỗi một điều đều
giải thích th́ không viết tới mười mấy trang
giấy sẽ chẳng thể nói hết được!
Nay chỉ nói đại khái với ông th́ ông sẽ tự
thấu hiểu, bởi gần đây Quang đúng là suốt
ngày chẳng được rảnh rỗi. Do mục lực
không đủ, suốt hai mươi năm qua chẳng
dùng đến mắt vào ban đêm, bởi lẽ nếu
ban đêm dùng đến mắt, hôm sau sẽ chẳng thể
nh́n được! Giữa tháng Mười, do thư từ,
giảo chánh, đối chiếu sách, giám đính, [người
khác nhờ cậy] sai khiến viết lời Bạt chồng
chất tích tụ, chỉ đành phải lo liệu trong
ban đêm cho xong. May được Tam Bảo gia bị, ban
ngày vẫn có thể chiếu theo lệ thường
được; c̣n đây là chuyện ngoài ư muốn. Từ
đấy mỗi đêm lo viết lách suốt hai ba giờ
rồi mới tụng công khóa, ngủ ba tiếng mấy, đoạn
thức dậy tụng công khóa, mắt vẫn chẳng
đến nỗi mệt mỏi lắm, nhưng vẫn chẳng
thể xong hết việc được. Trong tháng Mười,
tháng Mười Một, thư từ lên tới một
trăm mấy chục bức, chỉ riêng một chuyện
ấy đă chẳng lo xuể rồi; huống là những
chuyện như giảo chánh, đối chiếu v.v… ư?
Ông nhàn rỗi vô sự, đối với
những chuyện hợp lư lại nêu lên đủ mọi
câu hỏi chẳng hợp lư! Tuy là ham học, nhưng
cũng thấy rơ ông chẳng biết suy nghĩ sâu xa! V́ sao
vậy? Trong thế gian, con người nhờ vào thức
ăn, y phục để giữ mạng sống; nếu
chẳng biết chọn lựa sao cho thích hợp với
chính ḿnh th́ thức ăn, y phục đều trở thành
thứ giết người. Nếu chúng đă gây ra cái chết
th́ có nên bảo người trong thế gian bỏ sạch
thức ăn, y phục hay chăng? Hay là hăy nên bảo
người ta châm chước, lượng định những
thứ thích hợp để ăn, để mặc vậy?
Phật pháp không ǵ lớn lao chẳng bao gồm, không điều
nhỏ nhặt nào chẳng nêu lên; há nên luận bàn theo kiểu
chấp nhất? Những câu hỏi của ông tựa hồ
có lư, nhưng thật ra đều thuộc loại chẳng
khéo dụng tâm. Nếu ông tin tới nơi tới chốn,
xin hăy sốt sắng hành tŕ, đợi tới khi nghiệp
tiêu trí rạng sẽ khôn ngăn tự cười ḿnh ngu dại
chấp trước, hổ thẹn khôn cùng vậy! Nếu
chẳng tin tưởng, nếu chẳng
lại lấy Phật làm thầy, vẫn cứ dấn
thân vào phường ngoại đạo y như cũ th́
cũng đành để mặc ông mà thôi!
“Hồi
dă, văn nhất dĩ tri thập; Tứ dă, văn nhất
dĩ tri nhị” (Nhan Hồi
nghe một biết mười, c̣n Tử Cống nghe một
chỉ biết được hai)[2].
“Biết hai” là do cái này mà thấu
hiểu cái kia, chứ không phải là [Tử Cống] chỉ
hiểu biết hẹp ḥi có hai, chẳng biết được
tới ba! Nghe một biết mười th́ nghe phần
đầu sẽ biết được phần cuối. “Cử nhất ngung, bất
dĩ tam ngung phản, thánh tắc khí chi” (Nêu lên một
góc mà không biết suy luận ra ba góc kia th́ thánh nhân sẽ
buông bỏ, [không dạy người ấy nữa])[3].
Ông cứ muốn mỗi một điều đều chấp
chặt hẹp ḥi rồi hỏi han cặn kẽ th́ Quang
già suy, lắm việc, há rảnh rỗi để viết
lách tán gẫu với ông ư? Đối với những lời
lẽ báng Phật của ngoại đạo, há nên căn
cứ vào đấy, coi là đúng ư? (Nếu ông
đă thấy những sự tích ứng hóa của Phật
Thích Ca, ắt sẽ biết được đại
khái. Dẫu chưa thấy, há nên nghe lời báng bổ liền
hoài nghi ư?) Chẳng thấy Đạo
Chích chửi bới: “Vua Nghiêu bất nhân, vua Thuấn bất
hiếu, vua Đại Vũ dâm dật, Thành Thang, Châu Vũ
Vương giết chóc bừa băi, Khổng Tử trộm
đạo” đó ư?
Hơn nữa, những câu ông hỏi phần
nhiều chẳng hợp lư, tôi đă chỉ bày đại
khái rồi, chẳng muốn giải thích cặn kẽ nữa!
Tiếp đấy, nghĩ ông chánh tín chưa vững vàng,
chánh trí chưa mở mang, nếu bị quở trách chắc
sẽ ôm ḷng oán hận rồi đâm ra ngă ḷng. V́ thế chẳng
thể không chỉ bày đại lược để trọn
hết tấm ḷng tôi giống như một bà già dụ con
hăy quay về nhà vậy!
61. Thư trả lời cư
sĩ Trác Trí Lập (thư
thứ ba)
Nhận được thư,
biết ông lại mất một đứa con, đau ḷng
thở dài sườn sượt! Tuy nhiên, người hiểu
lư quyết chẳng v́ cảnh ngộ của chính ḿnh mà bảo:
“Đạo trời vô tri, Phật pháp chẳng linh!” Chúng ta
từ vô lượng kiếp đến nay đă tạo
đủ thứ ác nghiệp, làm sao kết liễu
được? Cái quả xưa kia đă chín, cái nhân ngày
nay c̣n chưa chín, há nên v́ con cái lần lượt chết
mà bảo là “không có nhân quả!” Hơn nữa, ông là phàm phu
sát đất mong được liễu sanh thoát tử
ngay trong đời này, nếu chẳng có cảnh khổ bức
bách sẽ rất khó thành tựu cái tâm “ưa tịnh, chán uế”
chân thật! Sanh, già, bệnh, chết, yêu thương phải
chia ĺa, oán ghét mà cứ phải gặp gỡ, mong cầu chẳng
được [toại nguyện], Ngũ Ấm lừng lẫy,
tám nỗi khổ ấy cùng nung nấu, những ai có chí khí
quyết chẳng sanh tâm tham luyến ràng buộc thế giới
này!
Nhưng đă làm người trong thế
gian, cũng quyết chớ nên vứt bỏ những chuyện
ḿnh đáng nên làm, cứ một mực mang quan niệm yếm
thế! Chẳng do chuyện này mà tấn đức tu nghiệp,
lại ngược ngạo sanh ḷng oán hận, tức là cái
tâm vẫn c̣n có ư niệm kiêu căng! Ngay từ chuyện này,
đủ thấy rằng ông là kẻ khí lượng hẹp
nhỏ, chưa thể gánh vác đạo “hành xử thuận theo địa vị” của
thánh nhân thế gian, huống là vô thượng đại
đạo muốn phổ độ hết thảy chúng
sanh cùng sanh về Tây Phương liễu sanh thoát tử
ư? Bởi lẽ, kiến thức ấy hoàn toàn là kiến
thức của kẻ chưa hề nghe tới đại
đạo thế gian xuất thế gian vậy! Qua tướng
trạng lúc chết của cháu Chuẩn, dường
như nó sẵn có túc căn. Ông hăy nên v́ chuyện này mà hiểu
sâu xa rằng “nhân quả quyết chẳng luống uổng!”
Nếu ông không biết niệm Phật, làm sao Hiền Chuẩn
có được tướng tốt lành [khi lâm chung] ấy?
Cũng như chẳng biết: Nếu không có nỗi
đau đớn này để đâm một nhát vào cái tâm thương
yêu đắm đuối con cái của vợ chồng ông th́
làm sao mong thành tựu được cái tâm chán ĺa Sa Bà ḥng
đạt được đại lợi ích quyết
định văng sanh?
62. Thư trả lời cư
sĩ Trác Trí Lập (thư
thứ tư)
Hôm qua nhận được
thư, khôn ngăn than thở. Mười mấy năm qua
ông hoàn toàn chẳng dụng công nơi tâm địa của
chính ḿnh, chỉ gắng gượng chống giữ bề
ngoài! Con người sống trong thế gian ai nấy đều
có chức phận. Ông trên có cha mẹ, giữa có em trai, bọn
họ đă chẳng thể nghe theo ông th́ chỉ đành
để mặc họ. Chính ḿnh hăy v́ cha mẹ, các em… mà niệm
Phật siêu độ cho những con vật bị giết
nhằm cởi gỡ oán kết cho cha mẹ, các em v.v… Há
nên sanh cái tâm sân hận cực lớn ấy? (Tâm hiếu
- đễ ở chỗ này). Cái tâm ấy
chính là tâm mạnh mẽ nhất để đọa trong
ác đạo, độc trùng đấy! Nếu do vậy
mà mạng chung, ông chẳng sanh làm rắn độc, thú dữ
th́ sẽ sanh vào đâu đây? Học Phật phải giải
thoát phiền năo (cứ trọn hết ḷng ḿnh, chẳng
bận tâm người khác có nghe theo hay không), ông lại ngược ngạo tăng
trưởng phiền năo. Thử nghĩ: Nếu ông không được
nghe Phật pháp, há có thể nào khác biệt với cơi đời
hay chăng? (Sợ rằng tâm ông c̣n hiếu sát, ham
ăn c̣n mạnh mẽ hơn họ nữa kia). Mong từ đây hăy chỉ xét nghĩ tự
tâm, đừng màng người khác sai trái.
Đối với kẻ mang tri kiến
thông tục, nếu khuyến hóa được th́ hăy thiện
xảo khuyến hóa. Nếu chẳng thể, hăy nhất tâm
niệm Phật; chỉ sanh ḷng thương xót bọn họ
bất luận họ là kẻ sát sanh hay là sanh mạng bị
giết. Lại cần phải sanh ḷng vui mừng, cảm
thấy may mắn: “Nếu ta không được nghe Phật
pháp th́ hiện tại sẽ giống như những kẻ
giết loài vật để ăn ấy, tương lai sẽ
đọa làm loài vật sẽ bị chúng nó giết”. Sanh
được hai tâm ấy rồi cực lực niệm
Phật th́ sân hận chẳng sanh, thiện duyên tăng
trưởng, trong tương lai ắt có cảnh đại
tương ứng, chẳng đến nỗi suốt ngày
dùng Phật pháp để kết ác duyên. Hoa Nghiêm Hạnh
Nguyện Toàn Kinh (tức phẩm
Hạnh Nguyện trong bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm) có câu: “Ḅ uống
nước thành sữa, rắn uống nước thành nọc
độc. Kẻ trí học sẽ liễu sanh tử, kẻ
ngu học sẽ vào Nê Lê”. Tôi dứt lời nơi
đây!
63. Thư trả lời cư
sĩ Trác Trí Lập (thư
thứ năm)
Con người sống trong thế
gian, hăy nên trọn hết những nghĩa vụ đáng phải
nên trọn. Như lời ông nói th́ vẫn cứ muốn
xin Quang giám định và soạn lời tựa cho Vân Du Tập
Ai Văn Lục. Đúng là ông muốn ép tôi làm nô lệ! Đối
với những thói xấu kiêu căng, xa hoa, rỗng tuếch,
hời hợt ấy, tuy chúng ta chẳng thể đẩy
lùi phong thái suy đồi xấu xa đó được, há
nên phụ họa, bắt chước làm theo để
lũ hậu sinh ưa phô trương thanh thế giả dối,
ghét sự nhàm chán sẽ đua nhau coi đó là cách tối thượng
ḥng mua danh chuốc dự, chẳng đáng buồn ư? Ông
đừng nên làm như vậy! Nếu ông cứ nhất
định muốn làm vậy, đừng gởi [sách ấy]
đến cho tôi, buộc tôi phải đốt đi! Ông
hăy đốt ngay ở chỗ ḿnh để đôi bên khỏi
phải nhọc ḷng! Ông học Phật đến nỗi
có tri kiến kiểu đó th́ không học Phật sẽ c̣n
như thế nào? Vợ con ông trơ trọi, khổ sở,
không nơi nương tựa, mà vẫn cứ muốn dấy
lên cái thói xa xỉ ấy, tức là trên tuyết lại thêm
băng, đối với kẻ sống lẫn người
chết đều tổn hại vô ích!
Mấy chục năm qua, đối với
tiên phụ, tiên mẫu, tiên sư, tiên huynh (tiên huynh chính
là vị thầy dạy chữ cho Quang), Quang trọn chẳng ghi thuật một chữ nào
bởi chẳng muốn hùa theo thói xấu hư
trương thanh thế, cũng như chẳng muốn
người ta bảo: “Sợ rằng đấy là những
lời lẽ tô vẽ, chưa chắc đă là chuyện thật!”
Há tôi chịu đề xướng chuyện này cho kẻ
đă quy y [với ḿnh] ư? Thử hỏi người ấy
chỉ có thể không thẹn với chức vị của
ḿnh mà thôi, chứ rốt cuộc đối với nước
nhà, đối với dân tộc có công đức ǵ đáng
cho người khác ca tụng chăng? Hễ phong thái này dấy
lên th́ những kẻ hèn kém tới mức chẳng chịu
đựng được sẽ đều bắt chước
làm theo; có thể nói là kẻ bày tṛ gây tội chẳng phạm
tội lỗi ǵ chăng? Dẫu cho em trai ông muốn làm th́
cũng nên khuyên anh ta thôi đi, huống hồ ông c̣n muốn
khuyến khích em trai ḿnh nữa ư? Ông có trang trải
được chi phí [ấn loát] ấy hay chăng? Huống
chi ông trọn chẳng có tài lực ấy mà lại khuyên bảo
em trai hăy làm chuyện ấy ư?
Cư sĩ sống trong chùa miếu, bất
quá chỉ là một đạo nhân trông coi miếu mà thôi.
Ông bảo người ấy trụ tŕ pháp đạo th́
tiếm lạm cũng lớn lắm đấy! Thế tục
gọi vị Tăng sống trong miếu là Trụ Tŕ, là
Đương Gia, kẻ ấy cũng xưng hô như thế,
do thuận theo thế tục cho nên chẳng trái nghịch
cho lắm! Ông bảo là “trụ tŕ pháp đạo” tức là
ăn nói sai lầm hoàn toàn, đem phàm lạm thánh! Hắn
ta có đức ǵ để trụ tŕ pháp đạo vậy?
Chỉ trông coi miếu mà thôi!
64. Thư trả lời cư
sĩ Trác Trí Lập (thư
thứ sáu)
Trước đây, Trí Thanh và
Trí Mục có gởi thư đến, cậy tôi xem xét, sửa
chữa bài “Duyên khởi thành lập thư viện” do họ
soạn. Do Quang thấy bài duyên khởi ấy trọn chẳng
nêu ra ân đức lợi sanh giúp đời của đức
Phật nên viết một bài khác. V́ số chữ quá nhiều,
sợ khó thể sử dụng cho thích hợp được,
nên lại sao lục bài “Nêu bày những ư nghĩa ẩn kín
qua tác phẩm Hành Dư Nhật Khóa của Lâm Văn Trung
Công”, mượn oai đức, danh vọng của Văn
Trung Công để chiết phục những kẻ chấp
nhặt hẹp ḥi, thiên chấp, tà kiến; đấy
cũng là một tấm gương lớn lao để
làm lợi người khác vậy!
Tôi chưa từng thấy những bài
tán dương các vị tổ sư Liên Tông. Bài tán của
ông Đổng rất hay, Quang cũng soạn một bài
tán. Tuy chẳng hay bằng bài của ông Đổng,
nhưng cũng có thể dùng được. Tịnh Độ
Tông khởi đầu từ đức Phổ Hiền, Viễn
Công tiếp nối nguồn pháp nơi Chấn Đán (Trung
Hoa), lưu truyền rộng răi khắp trong ngoài nước
khiến cho khắp mọi thánh - phàm đều chứng Niết
Bàn trong hiện tại. Cuối bộ kinh Hoa Nghiêm, Phổ
Hiền Bồ Tát dùng mười đại nguyện
vương dẫn về Tây Phương, đấy là lần
xướng suất đầu tiên trong giáo pháp của
đức Phật Thích Ca vậy (Tiểu Thừa
đoạn sạch Kiến Tư Hoặc liền liễu
sanh tử, chứng Chân Đế Niết Bàn. Do vậy, coi
liễu sanh tử là chứng Niết Bàn. Trong Đại Thừa
th́ thành Phật mới là Niết Bàn rốt ráo, chẳng thể
coi loại Niết Bàn ấy (tức Chân Đế Niết
Bàn của Tiểu Thừa) là Niết Bàn rốt ráo của
Phật được).
65. Thư trả lời cư
sĩ Trác Trí Lập (thư
thứ bảy)
Quang một mực chẳng
thích chụp h́nh, bởi lẽ chụp h́nh luôn luôn là chuyện
hao phí tiền bạc của tín thí, dùng tiền tài hữu dụng
để làm chuyện vô ích hoa mỹ rỗng tuếch,
người tu hành há nên làm ư? Ông hăy xét kỹ lời tôi,
thấu hiểu sâu xa ḷng tôi, tuy chưa gặp mặt mà
đă gặp nhau bằng tấm ḷng, nào c̣n thiếu sót, áy
náy chi? Nếu không, dẫu có cùng ở chung một nhà với
Phật mà tâm chẳng vâng theo, như Điều Đạt
(Đề Bà Đạt Đa), Thiện Tinh[4]
vẫn phải đọa vào địa ngục A Tỳ
ngay trong lúc sống, huống hồ những kẻ hời
hợt, hờ hững hiện thời ư? Xin hăy tận
tụy thực hiện nhằm nêu gương cho học
tṛ và người trong làng nước, đấy chính là
điều tôi mong mỏi vậy. Sáng chiều lễ Phật
là được rồi, há nên sau khi lễ Phật liền
lễ Quang? Lễ Quang rốt cuộc có ích chi đâu? Nếu
cứ nói “v́ nhớ đến ân chỉ dạy” th́ hăy lễ
trong khóa lễ sáng tối mồng Một, hôm Rằm, c̣n
thường ngày chẳng cần phải lễ!
Chỉ cần ông có thể nghe theo lời
Quang nói th́ sẽ là đứa con thật sự của
đức Phật, Quang và ông sẽ cùng sanh về Tịnh
Độ ngay trong cuộc đời này, là bạn thiết
nơi Liên Bang, may mắn vô cùng! Câu đối treo nơi
đại điện hăy nên lấy đạo lư trong nhà Phật
để soạn thành văn, chứ văn của người
ấy và văn của ông đều là những thứ
văn chương thù tạc trong khi nhàn rỗi. Nay tôi
nghĩ ra một đôi câu đối như sau:
Nguyện
trọng, bi thâm, cử tam căn nhi phổ độ,
Chân
cùng, Hoặc tận, siêu Thập Địa dĩ độc
tôn
(Nguyện nặng, Bi sâu, độ
trọn khắp cả ba căn,
Chân cùng, Hoặc hết, độc
tôn trỗi hết Thập Địa)
“Tam căn” chỉ khắp lục
đạo, tam thừa. “Chân cùng” là lư để chứng
đă được chứng đến mức cùng cực.
“Hoặc tận” là Hoặc (phiền năo) cần phải
đoạn đă đoạn đến hết sạch.
“Thập Địa” là Thập Địa Bồ Tát, là bậc
đă gần thành Phật. “Duy” là chỉ một. Dùng chữ
“độc tôn” th́ cảm thấy rơ nghĩa hơn một
chút. [Chứ nếu dùng chữ] “duy tôn”, chắc kẻ kém
chữ nghĩa sẽ không hiểu rơ lắm nên tạm dùng
chữ “độc tôn”, tuy chữ Độc chẳng
đúng luật bằng - trắc cho lắm. Xin hăy châm
chước để sử dụng; nhưng loại câu
đối này cũng không phải là viết thiếp, đề
thơ dùng trong thi cử nên [không tuân thủ luật bằng
- trắc chặt chẽ] cũng không quan trọng lắm.
Trong hai ba năm qua, vợ chồng Lâm Hồng Do cùng bị
bệnh nặng; ấy là do túc nghiệp chiêu cảm, cố
nhiên hăy nên nghiêm túc sám hối. Lại c̣n phải suy xét hành
vi của chính ḿnh, nếu có điều nào chẳng đúng
pháp hăy cực lực sám trừ, sửa đổi lỗi
cũ, từ nay tu tập, ngơ hầu liền được
từ ân gia hộ. Xin hăy đem ư Quang nói với họ.
Phàm những pháp thuộc về
ngoại đạo đều là trộm cắp [những
câu văn] từ kinh Phật, lời Tổ, rồi thay
đầu đổi mặt để soạn thành kinh
sách của chính họ. Nước ta kể từ khi Phật
pháp được truyền sang phương Đông, chỉ
có Sơ Tổ, Nhị Tổ, Tam Tổ, Tứ Tổ,
Ngũ Tổ, Lục Tổ được cả cơi đời
xưng tụng là Tổ. Pháp tôn của Lục Tổ tên là
Đạo Nhất[5],
họ ngoài đời là Mă. Do vị Tổ thứ hai
mươi bảy ở Tây Thiên (Ấn Độ) có câu sấm
ngữ “mă câu đạp sát
thiên hạ” (con ngựa non đạp chết thiên hạ)[6],
đương thời đều gọi Ngài là Mă đại
sư. Khi mất rồi, [người đời] đều
gọi Ngài là Mă Tổ. Ngoài ra, không một vị nào được
gọi thẳng là Tổ. Ngay như Sơ Tổ, Nhị Tổ,
Tam Tổ, Tứ Tổ, Ngũ Tổ, Lục Tổ
cũng là do người đời sau tôn xưng, chứ chẳng
phải là ngay trong đời các Ngài đă được gọi
là Tổ.
Trong ṿng trời đất, số lượng
con người thật đông, túc căn mỗi người
mỗi khác. Dẫu được đức Phật giáo
hóa, nhưng những kẻ do chủng tánh chẳng lành liền
nẩy sanh tà kiến, giống như trời đất lấy
hai khí Âm - Dương để hóa sanh vạn vật, tuy khí
Âm và Dương là một, nhưng vạn hữu được
sanh ra chẳng giống nhau. Thứ ngọt ngào, thứ
độc địa đều tùy theo chủng loại.
Những kẻ nói “v́ [ngoại
đạo lẫn nhà Phật] đều cùng có những lời
lẽ nói về niệm Phật nên bảo là giống nhau”
th́ có khác ǵ nói “do cùng nhận chịu
khí Âm - Dương liền bảo là giống hệt như
nhau” ư? Quê ông không có ai thông hiểu Phật pháp khiến
cho những thứ tà thuyết như thế dấy lên mạnh
mẽ. Ông đă không có con mắt trí huệ chân chánh, chỉ
nên “ngươi là ngươi, ta là ta, ai giữ pháp nấy,
ai hành đạo nấy”, chẳng gia nhập bè đảng
của bọn họ, mà cũng chẳng công kích, phê b́nh họ
sai trái th́ dù có sống chung với họ vẫn chẳng có
những chuyện tiêm nhiễm, đố kỵ nhau v.v… Ḥa
quang nhưng không đồng trần chính là phương
cách để giữ ḿnh. Nói “ḥa quang” không có nghĩa là tu
tŕ theo kiểu của họ mà chỉ là không công kích, không phê
b́nh, mà cũng chẳng khen ngợi! Nếu bị họ
xoay chuyển th́ sẽ trở thành “đồng trần”; nếu
“đồng trần” th́ sẽ trở thành tội nhân trong
Phật pháp! Phàm phu tu hành hăy nên phát đại Bồ Đề
tâm lợi người, lợi vật. Chuyện lợi
người lợi vật chính là điều ǵ sức ḿnh
có thể làm được th́ hăy gắng sức làm. Chuyện
ǵ chẳng thể làm được th́ ắt phải
thường giữ tấm ḷng ấy, [như vậy] th́ sẽ
chẳng trái nghịch với nguyện tâm Đại Thừa
vậy!
Căn bệnh nổi bướu
của ông chẳng cần phải dùng tơ nhện, chỉ
niệm Quán Âm cũng được lành. Do ông hoàn toàn thiếu
chánh tín nên ḷng luôn rong ruổi theo thuốc men. Những vị
vĩ nhân lỗi lạc trong thế gian thường do bị
bệnh vặt liền dùng thuốc đến nỗi mất
mạng. Bọn họ dốc sức nơi thuốc men, mà
cũng chưa chắc đă dùng sai thuốc, chỉ v́ túc
nghiệp sai khiến nên thành ra như vậy. Phàm với những
bệnh cực khó trị, hăy đều nên trị bằng
cách niệm Quán Âm. Nếu kiền thành, ắt sẽ có hiệu
nghiệm lạ lùng. Sao tâm ông lại sân hận hừng hực
đến mức như thế ấy? Đủ biết:
Chắc chắn đời trước ông là kẻ có quyền
thế lớn lao, cho nên tập khí đă trở thành tánh! Nay
hăy nên học tánh khiêm tốn, kiềm chế, luôn biết
ḿnh chẳng đúng, chẳng thấy người khác sai
trái, lâu ngày chầy tháng sẽ hàm dưỡng thành tánh, tập
khí tiêu diệt.
Bàn đến số mạng th́
hăy nên lấy thiên Lập Mạng của Viên Liễu Phàm làm
gốc, bất luận là ai đều có thể đạt
được lợi ích. Lưu tâm nơi ấy th́ lợi
ích ấy lớn lắm! Nhưng ư nghĩa trong ba thiên Cải
Quá (sửa lỗi), Tích Thiện và Khiêm Đức (vun bồi
đức khiêm nhường) đều phù hợp với
mọi căn cơ để có thể nói với người
khác được! So với thầy thuốc cứu sống
người, công đức càng lớn hơn! Nếu ông giữ
được cái tâm “gốc chánh, nguồn trong” để
làm chuyện vun bồi nhân tài th́ sẽ “chẳng giữ
địa vị mà thực hiện sự cai trị, chẳng
lên ṭa mà thuyết pháp”, vui sướng chi bằng, há gây trở
ngại ǵ cho niệm Phật? Sáng tối hăy tùy sức
xưng niệm. Ngoài những lúc ấy ra, khi nào chẳng cần
phải dùng tới tâm, hễ thuận tiện bèn niệm
niệm. Chỉ cần có đủ ḷng tin chân thật, nguyện
thiết tha, sẽ tự được văng sanh. Nếu cứ
nói “đích thân cày ruộng dễ niệm Phật”, tức
là chẳng biết lúc phải tự cày ruộng do nhọc
nhằn nên quyết chẳng thể niệm được!
Ông nghĩ như vậy đều là v́ chẳng tự phản
tỉnh, mang t́nh kiến “đứng núi này trông núi nọ”,
chẳng phải là trí thức thấu hiểu sâu xa tự
tâm, thấu hiểu triệt để cơi đời vậy!
Ông chỉ nên “đừng làm các điều ác, vâng làm các
điều lành, tin sâu nhân quả, tận lực giữ vẹn
luân thường”, kiêm dùng tín nguyện để tŕ danh cầu
sanh Tây Phương. Dùng những điều này để tự
hành, mà cũng dùng những điều ấy để hóa
độ người khác. Dẫu chẳng thể có bản
lănh lớn lao, vẫn có thể đội trời đạp
đất, chẳng thẹn làm người, chẳng thẹn
làm thầy vậy!
Ông là phàm phu, chẳng phải là
thánh nhân, làm sao khỏi ngủ, thôi ăn cho được?
Chỉ không tham ngủ, chẳng tham ăn, chỉ cốt
dưỡng sức, khỏi đói mà thôi! Nếu như ông
nói, cậy vào thần chú để thôi ngủ; nếu thật
sự tŕ chú được linh cảm lớn lao chắc sẽ
có thể không ngủ. Ngay trong đêm đầu tiên tŕ chú
ông đă không ngủ, tức là tâm thiết tha đến
cùng cực, tinh thần đă hơi bị tổn
thương, cho nên không ngủ. Nếu để tinh thần
bị tổn thương lâu ngày th́ sẽ ngủ vùi chẳng
tỉnh dậy được! Kẻ sơ tâm thường
v́ nhất thời tinh tấn quá độ, về sau ngă
ḷng biếng nhác. Buông thơng ống quần là tập quán của
phương
Biết có những điều không thể
làm được nhưng vẫn dốc hết khả
năng để thực hiện th́ chính là tâm hạnh
đại từ đại bi của Bồ Tát. Biết có
những điều chẳng nên làm nhưng cứ nhất
loạt chẳng kiêng giữ th́ sẽ trở thành chủng
tử địa ngục! Kẻ tà kiến thường
đem những điều chẳng thể thực hiện
để ngăn trở người khác, bảo: “Con
người mỗi một hơi hít vào có vô số trùng nhỏ
nhoi bị hút vào bụng, đều là sát sanh, đều là
ăn thịt, làm sao ông chẳng sát sanh, chẳng ăn thịt
cho được?” Điều ấy thật đúng
như toàn thân vùi lấp trong hầm xí rồi cũng muốn
lôi kẻ khác vào trong ấy. Người ta chẳng chịu
nghe theo, bèn nói: “Ngươi chê ta là hôi thối, vậy trên
thân ngươi thường có ruồi, muỗi, rận tuôn
phân văi tiểu, mà vẫn chẳng phải là ở trong hầm
xí, vẫn chê ta hôi thối ư?” Những loại tri kiến
ấy đều thuộc tà kiến, đều phát sanh từ
những kẻ thông minh, đáng sợ thay! Phật pháp coi
trọng chuyện lợi người; đạo lợi
người nên khởi đầu từ nơi người
thân. Nếu chẳng đem đạo này khuyên lơn cha mẹ,
anh em, vợ con trước mà lo khuyên người khác tức
là bỏ gốc chạy theo ngọn! Cần phải cùng thực
hiện, cùng hành cả hai th́ mới nên!
Dùng văn tự để
khuyên người khác là chuyện cực hay, nhưng
cũng phải có phương cách. Như những chữ ông
đă viết lúc ban đầu th́ đúng là người nghiên
cứu dẫu dùng để ghi sổ cũng chẳng chịu
dùng. Gần đây tuy chẳng noi theo thói cũ, nhưng lại
nói bừa viết loạn thật giống như điên
cuồng. Nếu gặp phải bậc cao minh, chắc họ
sẽ coi thường ông. Hơn nữa, hăy nên y theo
chương tŕnh của phàm phu để tu tŕ, đừng
mong vượt trỗi người khác th́ sẽ có lợi
ích thật sự. Nếu không, sau này nhất định sẽ
có ngày nổi cơn điên cuồng lớn lao đấy!
Do vậy sẽ đâm ra khiến cho kẻ vô tri lui sụt
ḷng tin! Xin hăy đọc kỹ Văn Sao và các trước
thuật Tịnh Độ của cổ đức ngơ hầu
trừ khử được tập khí ấy, chẳng
đến nỗi bị ma dựa. Nếu không, khó bảo
đảm chẳng bị ma dựa. Bịt tai tŕ chú làm sao
bằng dứt vọng tŕ chú? Bịt tai cũng là lề
thói của ma đấy[7].
Nghiệp thông ba đời, phàm
phu bèn né tránh chẳng dám đón đầu, c̣n thánh nhân thị
hiện giáng sanh trong thế gian lại lănh nhận nghiệp
giống như trả nợ. Các ngài đă vượt thoát
ra ngoài sanh tử, nhưng chẳng ngại thị hiện
lănh nhận túc nghiệp trong đời này giống như
người đời ḥng dứt cái tâm giết chóc của
người đời sau. Ông hiểu như thế, thật
có thể nói dùng ḷng phàm phu để lầm lạc suy
lường thánh nhân, tội lỗi vô lượng. Tuy chẳng
thể biết được sở chứng của vị
Tăng ấy, nhưng chớ nên chấp chết cứng “Sư
chắc chắn không có nghiệp báo” đến nỗi
người đời chẳng sanh ḷng kinh sợ, tận
lực tŕ thánh hiệu!
Do có những vị thị hiện
làm kẻ ác gặp khổ liền dứt ác, hoặc do gặp
ác báo mà sanh thiện niệm liền tự đổi mới
cho nên những sự tích làm súc sanh, làm ngạ quỷ thật
nhiều. Hiện thân ngạ quỷ Diện Nhiên[8]
để rộng mở môn tế độ; những khoa
nghi Mông Sơn, Diệm Khẩu, Thủy Lục hiện thời
đều bắt nguồn từ đây! Những chuyện
[Phật, Bồ Tát] hiện thân súc sanh, đến cuối
cùng mới hiển lộ Bổn khiến cho những kẻ
trong hiện tại hoặc đời sau đều sẽ
do đây mà sanh ḷng tin niệm Phật, đoạn ác tu thiện
chẳng thể đếm xuể, ông trọn chẳng
để mắt tới, nên bảo là có ích ǵ, chẳng
đáng buồn hay sao?
Phật tuy từ bi rộng lớn,
nhưng muốn độ chúng sanh đều cần phải
chiết phục - nhiếp thọ. Dẫu khinh mạn Phật,
hủy báng Phật, Phật thật sự chẳng sanh ḷng
yêu, ghét, nhưng nếu không chiết phục sẽ không thể
khuyên can được! V́ thế, thần hộ pháp ắt
phải gieo họa cho kẻ ấy để những ai bắt
chước kẻ ấy làm ác đều kinh sợ, ḷng từ
bi ấy không chi bằng! Lời ông nói chính là lời lẽ
chẳng hiểu sự vụ, ăn nói lẫn lộn! “Hết thảy duy tâm” quả
thật là lời luận tột cùng, nhưng cũng chẳng
thể không nêu rơ ư chiết phục, chỉ chuyên nói duy tâm
được!
[Nếu ai thấy] cảnh Tây
Phương thù thắng rành rành ngay trước mắt, kẻ
ấy phải tâm tâm niệm niệm tương ứng với
Phật th́ mới nên. Nếu không, vừa trông thấy cảnh
ấy sẽ ngược ngạo phát sanh ma sự! Ví
như thân chưa lành bệnh, chẳng dám hưởng sự
vui sướng v́ mát mẻ. Nguyện của ngài Liên Tŕ là
nhất tâm niệm Phật[9],
cố nhiên là chánh lư; c̣n như lời ông nói th́ chẳng niệm
mà được thấy ngay [thánh cảnh Tây Phương]
nên trở thành nói nhăng, nói càn! Kẻ mù từ lúc sanh ra
chẳng thấy được mặt trời rực rỡ,
chim cú ban ngày chẳng thấy được Thái Sơn, chứ
nào phải mặt trời rực rỡ chẳng mọc,
Thái Sơn chẳng tồn tại, mà do chính kẻ mù, chim cú
bị nghiệp ngăn chướng nên chẳng thấy
được đấy chứ!
“Trái
giác, hợp trần” là nói theo bản thể, chứ
không phải là nói về Sự tu (tu hành trên phương diện
sự tướng). Bản thể khi chưa tu giống
như vàng chưa tách ra khỏi quặng, sợ con người
chẳng biết là Phật tánh nên gọi là Giác. Tu rồi bản
thể sẽ tỏ lộ giống như vàng tách khỏi
quặng, đấy chính là do tu mà hiển tánh, do Thỉ
Giác hợp với Bổn Giác vậy! Như vậy th́ giống
như đă thành vàng ṛng, chẳng c̣n là quặng nữa! Ông
chỉ biết nói bừa đạo lư, trọn chẳng chịu
suy nghĩ nghĩa lư sâu xa, nhọc công tôi uổng phí biết
bao nhiêu bút mực để rồi ông biến thành tṛ trẻ
con đùa bỡn, biết bao giờ mới thôi!
Như Lai sanh ra từ hông phải,
mẹ Ngài sau bảy ngày liền mất, sanh lên trời
Đao Lợi. Về sau, đức Phật thành Phật,
lên cơi trời Đao Lợi thuyết pháp cho mẹ, an
cư một Hạ (ba tháng) trên cơi trời. Vua Ưu Điền[10]
nghĩ nhớ đức Như Lai do vậy mới tạo
tượng. Ông đă đọc Văn Sao mà sao không biết
[chuyện này]? C̣n khi lâm chung th́ đức Phật do ḷng
đại từ bèn thị hiện tướng nằm cát
tường[11]
giống như người đời. V́ muốn răn nhắc
chúng sanh nên cũng làm như kẻ bệnh thân thể chẳng
được thoải mái, thảnh thơi, bảo: “Nay lưng ta đau nhức”.
Sau đấy, do sợ phàm phu tưởng là thật, lại
bay vọt lên hư không, hiện mấy chục thứ thần
biến[12]
rồi mới nhập diệt. Đă nhập kim quan, khi Phật
Mẫu từ trên trời xuống, lại từ kim quan ngồi
dậy, an ủi mẹ. Xong xuôi, vẫn nằm trong quan tài.
Đến khi Ca Diếp từ núi Kỳ Xà Quật đến,
từ trong quan tài Phật ló hai chân ra, Ca Diếp nâng chân Phật
ve vuốt. Những chuyện này hăy xem chi tiết trong phần
sau (tức hai quyển cuối)
kinh Đại Niết Bàn (bản bốn mươi
quyển). Ngoại đạo hủy
báng nói lời như vậy, bọn họ giống như
con chó chỉ biết phân thơm, ngược ngạo chửi
bới thức ăn ngon là hôi thối! Nếu là chó th́ cố
nhiên sẽ tin tưởng như vậy chẳng ngờ. Nếu
chẳng phải là chó th́ [sẽ cảm thấy] bẩn
tai, dơ miệng, há nhắc đến những lời ấy
hay chăng? Lời lẽ hủy báng của ngoại đạo
phần nhiều là như vậy đấy, chỉ có
người hiểu lư mới không bị mê hoặc!
Ông đúng là kẻ chẳng
thông hiểu sự việc trên đời. Khổng Tử
ghét kẻ xướng suất bày tṛ giết người
khác để tuẫn táng nên bảo: “Kỳ vô hậu hồ!” (Kẻ ấy không có
người nối dơi). Ông lại bảo [sử dụng]
mộc ngư (mơ) th́ cũng giống như vậy! Ăn
nói kiểu đó đúng là tṛ đùa trẻ nít! Người
trong khắp cơi đời đều coi cá là thức ăn
ngon; há lẽ nào khi chưa chế ra mộc ngư th́ chẳng
có chuyện người đời từng ăn cá hay sao?
Lối ăn nói ấy vốn chẳng đáng trả lời,
bởi nó thuộc kiểu nói giỡn chơi. Nhưng nếu
không đáp, ông sẽ tưởng rằng ta có tài ăn nói
khiến cho ông sư ḷa vô tri vô thức phải cứng
lưỡi!
Đối với câu nói “tỳ-kheo hành đạo chẳng
lạy Đế Thích”, sao ông lại gạt bỏ hai chữ
“tỳ-kheo”? Do tỳ-kheo là đệ tử Phật, lạy
[Đế Thích] sẽ không hợp lễ, chứ không phải
là người tại gia học Phật đều chẳng
được phép lạy! Người tại gia tuy thông
hiểu Phật pháp, nhưng tạm thời lễ bái một
vị thần chân chánh trong thế gian th́ cũng chẳng
phải là không được. Nhưng nếu ngày đêm
thường lễ bái [thần thánh] giống như lễ
Phật th́ cũng chớ nên! Đấy chính là như thường
nói: “Kính nhi viễn chi” (kính
trọng nhưng tránh xa) vậy! Đối với thuyết
“[lễ bái thần thánh th́ cũng giống như lễ
bái] cha mẹ trong nhiều đời”, đấy cũng
là cưỡng nói. Cha mẹ trong nhiều đời trọn
khắp lục đạo, sao ông không lễ khắp ngựa,
trâu, dê, gà, chó, lợn? Do vậy, đức Phật dạy
con người kiêng giết phóng sanh là v́ [chúng sanh] đă bao
kiếp sanh ra lẫn nhau cho nên dạy con người hăy
phát khởi cái tâm từ bi để thực hiện chuyện
cứu vớt.
Ông chỉ chuyên biết chấp
trước tà kiến, coi đó là chánh pháp. “Bờ bên kia”
quả thật phải tự lên, nhưng nếu chẳng
niệm Phật đến mức “tâm tịnh, cơi nước
tịnh”, làm sao tự lên được? Ông nghe lư tánh liền
muốn phế sự tu. Chỉ có chí thành đến mức
cùng cực, tâm tương ứng với Phật th́ mới
có thể Cam Lộ Quán Đảnh, há nên bảo là do sức
tác động từ bên ngoài? Do một khắc công phu mà khiến
cho chúng sanh trọn khắp pháp giới đều ngộ th́
mới chính là sức tác động từ bên ngoài![13]
Khi chính ḿnh chưa đạt đến mức tâm tương
ứng với Phật th́ làm sao được Phật gia
bị?
Tiền Âm, Hậu Âm[14]
th́ có; tuy có nhưng không dùng đến. Trong ba mươi
hai tướng của đức Phật, tướng “khổng
môn đầy đủ”[15]
chính là Hậu Ấm. Tướng Mă Âm Tàng chính là Tiền Âm.
Mă Âm Tàng[16]
nghĩa là giống như bộ phận sinh dục của
con ngựa, ẩn kín chẳng lộ ra ngoài. Người
sanh về cơi Tây Phương ai nấy đều có đủ
ba mươi hai tướng, cứ suy từ tướng
Phật mà có[17].
Nhưng ở Tây Phương không có nữ nhân, nghĩ
đến đồ ăn liền được đồ
ăn, những thứ để ăn đều là thức
ăn được biến hóa ra; ăn vào cũng không có
cặn bă nên Tiền Âm, Hậu Âm chẳng qua là để
giống với người đời mà thôi! Ông hỏi:
“Khi hóa sanh có hiểu biết rơ ràng hay chăng?” th́ đủ
biết là ông đọc sách Tịnh Độ và Văn Sao
đều theo kiểu nuốt trộng quả táo, trọn
chẳng quan tâm mùi vị ra sao? Người niệm Phật
khi lâm chung biết trước lúc mất, há chẳng thể
nhận biết rơ ràng ư? Dẫu chẳng thể kể
với người khác nhưng đă được tiếp
dẫn bởi ḷng Từ của đức Phật th́ có lẽ
nào lại mơ hồ mờ mịt, như đang nằm
mộng nhưng chẳng biết là mộng, cũng chẳng
biết làm thế nào để tỉnh ư? Ông đúng là
biết nói những lời lẽ thiếu đạo lư!
Giận tức học tṛ, sao lại
nổi đóa đến nỗi chẳng thể nguôi
được? Chẳng qua là tạm hiện tướng
nghiêm khắc cho chúng nó kiêng sợ mà thôi! Nếu nghiêm khắc
quá đáng, bất quá [lũ học tṛ] cũng chỉ kiêng
sợ tới mức như thế mà thôi, đâu c̣n kinh sợ
hơn nữa được! Phương cách dạy dỗ
là nghiêm nghị, chánh đáng. Mỗi một lời nói, mỗi
một hành động đều chẳng cẩu thả, khinh
bạc mảy may nào th́ học tṛ sẽ như đến
chỗ thầy dạy của nhà vua. Nếu thường
ngày trọn chẳng có dáng vẻ nghiêm nghị, trang trọng,
lại c̣n hề hà, hệch hạc với chúng nó th́ dù có nổi
nóng đến chết uất như thế cũng có ích ǵ
cho chúng nó đâu? Do ông hỏi câu này, tôi biết ông và thầy
của ông đều chẳng khéo nêu gương. Nếu
không, chắc chắn sẽ chẳng đến nỗi giận
tức như thế! Huống hồ c̣n nói “rộng dung cho
học tṛ tự sửa đổi” và nuông chiều dung
dưỡng thói gian trá ư?
Một chú tiểu hết sức khinh bạc,
quỷ quyệt, coi hết thảy mọi người
đều không ra ǵ! Do vậy, thầy nó cậy Quang giáo huấn
(thầy nó là bạn rất thân của Quang), Quang nói rơ nguyên do khiến cho thầy ấy
trong lúc đó mặt không c̣n hạt máu, đă sợ hăi khôn
cùng. Về sau đưa nó đến, Quang bèn ḥa nhă, bảo
nó cặn kẽ: “Đừng trái lệnh ta. Hễ trái nghịch,
quyết chẳng dễ dăi dung tha”. Tâm nó tuy kinh sợ,
nhưng rốt cuộc do chưa từng đích thân thử
[nếm mùi xử phạt] nên chưa đầy hai ngày
đă phạm quy củ. Lúc Quang sắp đánh, liền nói
trước quy củ với nó: “Không được động
đậy, không được khóc!” Chưa đánh nó
đă né trước. Quang nói: “Đây là lần thứ nhất
ta chưa phạt. C̣n né nữa sẽ nhất định
trừng phạt”, rồi mới đánh, [nó đành đứng
ngay đơ] giống như cái cây được trồng
vậy! Từ đấy trở đi, cả nửa
năm sau chưa từng phải nói lớn tiếng một
lần nào, huống là phải dùng đến kiểu tức
giận không thể nguôi như thế ư? Đấy là
chuyện xảy ra trong năm Quang Tự 12 - 1886 (nhằm
mùa Xuân. Đến ngày Rằm tháng Tám, Quang xuống núi, sang
núi Hồng Loa ở Bắc Kinh. Từ đấy chưa hề
trở lại Trường An, đă ba mươi tám
năm rồi).
Sao ông chuyên môn dùng cách chấp trước
chết cứng để bàn luận Phật pháp vậy?
Ai bảo ông “chấp trung vô quyền”
(chấp vào đạo Trung Dung, chẳng biết quyền
biến)[18].
“Chấp trung vô quyền” c̣n
không nên; thế mà trước hết ông đă dốc sức
chấp chặt vào một bên, chưa hề có một chút hơi
hướng, dáng vẻ Trung Dung nào hết! Ông thấy Lục
Tổ giữ lưới phóng sanh[19]
liền cho là Ngài đă phạm giới trộm cắp và
nói dối. Đấy chính là kiến thức “bất sủy kỳ bổn, nhi
tế kỳ mạt giả” (chẳng suy xét tới cái gốc,
chỉ lo vun vén cái ngọn) như Mạnh Tử đă nói.
Ông thật đáng gọi là một gă hủ Nho, sao mà cũng
chẳng biết nặng, nhẹ đến mức ấy?
Hăy nên biết rằng: Phật giáo lấy từ bi làm gốc,
người thông đạt coi trọng việc
thấu hiểu quyền biến! Như lời ông nói th́
cha bắt trộm dê, con khen ngợi, đấy mới là chánh
đạo, [em trai] ngồi nh́n chị dâu chết đuối
chẳng chịu giơ tay cứu mới là chánh đạo!
Đă chẳng thể dựa theo [đạo giữ vững
lẽ thường nhưng thông đạt quyền biến]
ấy để hành đạo th́ ắt sẽ đến
mức trèo tường phía Đông nhà hàng xóm để dụ
dỗ gái trinh[20].
V́ sao vậy? Do [quan niệm rằng] chẳng thân cận
phi lễ th́ đấy cũng là phi lễ, sao lại cứ
phải chọn lựa ư?[21]
Nói lư như thế, gọi là nói cong vẹo, loạn xạ,
Phật chẳng chịu đáp!
Do giữ giới không sát sanh liền
đến nỗi chẳng chịu xử phạt [khi học
tṛ phạm lỗi], không trị bệnh, không ăn cơm!
Ông đúng là kẻ chấp nhặt chết cứng, nhai bă
của cổ nhân, chẳng thể tiêu hóa được!
Như thế th́ làm sao tự lợi, lợi người
được đây? Huống chi ông nói: “Mèo bắt chuột,
rắn nuốt ếch. Cứu con này ắt phải giết
con kia”. Nếu theo như lời ông nói th́ hễ kiêng giết,
ắt trước hết phải giết sạch những
con vật nào sát sanh! Nhưng trong một đời, con
người sát sanh để ăn chẳng biết số
tới bao nhiêu, cố nhiên phải giết hết sạch
con người đi th́ mới đạt được cái
quả không sát sanh vậy! Đáng thương lắm thay!
Có trí thông minh như vậy mà chẳng thông đạo lư
đến mức như thế đấy!
Người tŕ giới hễ gặp
người hay gặp thần đều đem luân hồi
sanh tử ra khuyên dụ. Dẫu cúng cỗ chay, đăi cơm
chay, há thần lẫn người sẽ v́ đó mà oán hờn
ư? Huống chi ta tŕ giới của đức Phật,
những tà quỷ thần ấy dám oán hờn, giáng họa
ư? Nếu thật sự oán hờn th́ vị thần ấy
có c̣n là chánh thần, người ấy có c̣n là con người
chánh trực hay không? Nếu hành vi của chính ḿnh chân thật,
người lẫn thần sẽ bị cảm hóa, làm sao
oán được? Nếu chính ḿnh lén lút ăn, khi kính thần,
đăi khách th́ làm ra vẻ tŕ giới. Như thế th́ thần
ắt giận, người ắt oán bởi kẻ ấy
giả dối. Ngụy quân tử sẽ giống như gái
làng chơi hễ gặp người ta bèn khoe ḿnh trinh khiết,
có ai tin tưởng đâu!
Ông thật là kẻ chẳng hiểu
việc đời. Kinh Phật ư nghĩa vô cùng. Dẫu chẳng
hiểu rơ ràng, nhưng giống như đặt một vật
cực thơm ở trong thân th́ thân sẽ tự thơm tho.
Ông toan coi hết thảy sách đều cũng giống
như thế th́ sẽ giống như đem vật hôi thối
bỏ trong thân, thân có thơm tho được hay chăng?
Kinh Kim Cang dạy: “Kinh này
nghĩa chẳng thể nghĩ bàn, quả báo cũng chẳng
thể nghĩ bàn”. Những sách khác bất luận xấu
hay tốt, há có nghĩa ấy hay chăng? Phàm đọc
sách thế gian, tâm liền tán loạn chẳng tịnh. Phàm
xem kinh Phật, tâm liền lắng tịnh. Do nghĩa ấy
có thể thấy đức Phật là bậc đại
thánh nhân, lời Ngài nói chính là khuôn phép để chuyển
phàm thành thánh. V́ thế, kinh Lăng Nghiêm dạy: “Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật,
niệm Phật, hiện tiền, tương lai nhất định
thấy Phật, cách Phật chẳng xa. Như người
nhiễm hương, thân có mùi thơm. Đấy gọi là
Hương Quang Trang Nghiêm”. Ông muốn coi hết thảy
sách giống như kinh Phật sẽ trở thành kẻ chẳng
biết thơm - thối, buồn thay!
Tai ương, hoạn nạn xảy
đến cũng là do túc nhân. Nếu có thể quy mạng
Phật, Bồ Tát, sẽ tự chuyển dời được.
Thoạt đầu ông do ḷng Thành hứa nguyện ăn lạt,
ấy là một phen dốc ḷng Thành v́ mọi người.
Đến khi khổ cảnh đă qua, tâm lực hơi mệt
mỏi liền cảm thấy khốn khó. Người tu
hành cố nhiên nên chọn lựa sao cho thích đáng; phô bày hạnh
lạ để mê hoặc mọi người chính là
điều bị đức Phật răn cấm sâu xa.
Hăy nên ăn chay là được rồi, chẳng cần
phải tiếp tục không dùng thức ăn để nuốt
cho trôi cơm nữa! Chỉ nên thương xót bọn họ
vô tri mà thường khuyên dạy ngơ hầu họ gieo thiện
căn là được rồi!
Niệm Cao Vương Kinh khá có
lợi ích, nhưng kinh ấy không thật sự do đức
Phật nói. Người thật sự tin Phật cố
nhiên nên y theo những điều đă dạy trong phẩm
Phổ Môn mà chú trọng khuyên người khác niệm danh
hiệu Quán Thế Âm để cầu Ngài gia bị. Đối
với phương pháp uống nước dạy trong kinh
Địa Tạng[22],
kẻ hờ hững hời hợt sẽ chẳng thể
đạt được hiệu quả! V́ thế hăy nên
dùng ḷng chí thành niệm Phật để làm phương
cách tiêu trừ nghiệp chướng, tăng trưởng
phước huệ.
Trong
Đại Bi Chú, không cần phải thêm chữ vào phía
dưới câu “mạ mạ”[23].
Hễ làm vậy sẽ đâm ra trở thành chướng
ngại. Cổ đức tŕ tụng đều không thêm
vào. Tuy trong kinh có chép, nhưng câu ấy không thuộc chú
văn, cố nhiên không phải là không thể noi theo khuôn
phép không dùng như vậy. [Chữ La (囉)] trong La Đa (囉多) đọc như âm Lạp (拉)[24]. Niệm
Phật mà c̣n nhớ nghĩ kèm thêm danh hiệu của hai vị
Bồ Tát, lâu ngày chắc tâm lực sẽ bị tổn
thương. Niệm Phật tâm nghĩ nhớ tượng
Phật và tượng hai vị Bồ Tát, so ra đỡ tốn
tâm lực hơn nhớ danh hiệu. Phàm là người học
Phật hăy nên y theo ngôn giáo của đức Phật, há nên
tự lập chương tŕnh? Sữa ḅ lấy từ ḅ,
tuy chẳng thương tổn sanh mạng, nhưng vẫn
gây tổn hại cho ḅ, cố nhiên đừng nên dùng. Dẫu
có dùng cũng chẳng mắc lỗi phạm giới!
Cải, ớt, tiêu, gừng chỉ
cay chứ không hôi, há nên bảo chúng đều cay hôi giống
như hành, hẹ ư? Há chẳng phải là vô sự sanh sự,
nói đạo lư loạn xạ ư? Cải, ớt, tiêu, gừng
cay chứ không hôi! Tiêu, gừng, cải th́ người
ăn chay đều nên dùng, c̣n ớt th́ nên ăn ít đi bởi
ăn nhiều chẳng có ích ǵ cho con người cả!
Tâm đă tạo được nghiệp th́ tâm sẽ chuyển
được nghiệp, nhưng tâm phải cực thành khẩn
th́ mới có hiệu quả thật sự. Phận làm con
phải uyển chuyển nương theo lễ nghi thế
gian, đối với những ǵ cha mẹ quy định
th́ chớ nên không làm theo. Dâng rượu, hiến đồ
mặn [cho cha mẹ] cũng chẳng phải là không
được, nhưng trong tâm phải thường sám hối
túc nghiệp cho cha mẹ mong họ sẽ hồi tâm. Hễ
có dịp bèn thừa cơ dùng lời lẽ mềm mỏng
khuyên nhủ, đấy là chân hiếu. Nếu chỉ biết
thuận theo lễ nghi thế gian, chẳng phát tâm độ
cha mẹ, tức là thấy cha mẹ bị té xuống giếng
bèn quăng đá theo để mong cho cha mẹ lập tức
mất mạng! V́ thế, hễ cha mẹ không có ḷng tin th́
hăy uyển chuyển làm theo lễ nghi thế gian, c̣n cha mẹ
có ḷng tin th́ hăy nên theo đúng pháp để tạo ích lợi
cho huệ mạng. Hăy nên làm sao cho thích nghi để đôi
đằng đều được lợi ích!
Hăy nói rơ về chuyện bột
ngọt có chỗ nào chẳng đúng pháp! Họ có địa
chỉ, ông hăy nên gởi thư sang đấy tŕnh bày cặn
kẽ, chứ c̣n bảo tôi nói lại với họ th́ chắc
là ông cho rằng tôi suốt ngày không hề có một chuyện
ǵ chăng? Tôi có rất nhiều chuyện chưa rảnh rang
để lo tới, nào c̣n có thời gian, sức lực
để bàn đến chuyện này! Ông bảo là “người
hèn, lời nhẹ”, c̣n người ta vừa cầu
được tiếng vừa cầu lợi, há chẳng
chịu nghe theo lời nói chánh đáng của ông ư? Ông lại
nên biết rằng: Người ta in ra những tờ
hướng dẫn ấy, chẳng biết đă in mấy
vạn bản; nếu có sửa đổi th́ cũng phải
dùng hết những tờ đă in ấy rồi tiếp
đó mới dùng bản đă được sửa đổi!
Nếu ông thấy tờ hướng dẫn chưa
được sửa, liền bảo “họ chẳng nghe
lời”, tức là chẳng biết sự vụ rồi!
Ông thật sự đáng được coi là người
có ḷng, nhưng tôi chẳng rảnh rỗi để lo tới.
Nếu do một lời chẳng được thỏa ư,
liền chê là “ôm củi chữa lửa, giúp vua Kiệt[25]
làm ác”, sao mà chẳng khoan dung quá đáng như thế? Nhưng
nếu vứt bỏ chuyện này, mặc kệ cho người
khác ăn thuần thịt th́ lửa có giảm bớt sức
mạnh, Kiệt có trở thành nhân hậu hay chăng?
V́ người chẳng thể ăn chay
hoàn toàn mà Phật khai duyên Tam Tịnh Nhục và những ngày
Lục Trai, Thập Trai, c̣n ông một chữ cũng chẳng
cho nói mà lại có thể khiến cho hết thảy mọi
người đều chẳng tham đắm vị thịt
được hay không? C̣n như Quang dùng một chuyện
đau ḷng nhất để khiến cho ai đọc đến
trong ḷng sẽ hồi hộp bất an, ắt sẽ ăn
ít đi cho đến dứt hẳn, ông lại bảo là
khơi gợi cơ duyên giết chóc rồi bảo hăy tước
bỏ [đoạn văn ấy] đi! Vậy là “giới”
của ông nghiêm ngặt hơn giới của Phật nhiều
lắm, huống là [quan niệm về giới của] Quang
ư? Sao ông chẳng lường nặng - nhẹ đến
mức như thế ấy? Ông gởi thư cho Hoằng
Đại Thiện Thư Cục, nhưng chẳng hiểu
nguyên do của Hoằng Đại. Nếu biết, sẽ
chẳng tốn công vào chuyện ấy, nhưng ư ấy rất
có lợi ích. Lá thư ấy nên giữ lại để
người in thiện thư đọc, nhưng cũng
chớ nên chấp chết cứng. Nếu bỏ hết những
loại thuốc có dùng tới những con vật sống [để
chế thuốc] th́ [các thầy lang chữa bệnh] ngoại
khoa sẽ khó thể chữa trị được. Chúng ta
giữ tấm ḷng lợi vật, hăy đừng ăn nói
theo cái kiểu “thúc đẩy đến cùng tận nghĩa
lư” ấy th́ người ta sẽ nghe theo. Nếu không, đâm
ra người ta sẽ đem chuyện thúc đẩy
đến cùng tận nghĩa lư để trách móc ông đấy!
Con người sống trong thế
gian họa - phước dựa dẫm lẫn nhau. Tiêu
Sơn[26]
do chết dưới tay kẻ quyền gian mà danh được
rền khắp vũ trụ. Nếu không mắc cái họa
này, hễ được đắc chí, nhất định
sẽ diệt Phật th́ đối với đất
nước, đối với chính ḿnh đều bất lợi
lớn lao. V́ sao biết thế? Ông ta làm Điển Sứ
tại Địch Đạo[27]
v́ dân tạo điều lợi, trừ điều tệ,
thói tệ mấy trăm năm đều trừ sạch.
Niên Phổ của ông ta chép (trong thời gian làm Điển
Sứ), [dân chúng] nơi ấy (tức
huyện Địch Đạo) thích lễ Phật, thắp
hương, ngay cả kẻ làm quan vẫn có người làm
như vậy; bởi thế, ông ta bèn nghiêm cấm. Thoạt
đầu nại cớ bất tiện, không lâu sau th́ ai nấy
đều biết ông ta là kẻ “sùng chánh, ghét tăng”[28].
Ông ta làm Điển Sứ tại Địch Đạo
chưa đầy một năm mà c̣n như thế, nếu
làm Tể Tướng há chẳng thể không thực hiện
chuyện diệt Phật giáo lớn lao ư? Chuyện diệt
Phật nếu thành sẽ có quan hệ lớn lao đối
với xă tắc, chứ không phải chết đi sẽ
đọa trong địa ngục A Tỳ mà thôi! Thời
Gia Tĩnh [triều đ́nh] một mực ưa chuộng
Đạo Giáo, ghét Phật giáo. Nếu trọng dụng Tiêu
Sơn, đích xác ông ta sẽ v́ nước, v́ dân, hưng
khởi điều lợi, trừ mối tệ, nhưng do
đă lậm sâu chất độc của Tŕnh - Châu ắt
sẽ coi diệt Phật giáo là công đức bậc nhất
rồi dốc chí mạnh mẽ thực hiện vậy!
Tiêu Sơn hoàn toàn chưa từng đọc
kinh Phật, nhưng trong Niên Phổ đă chép khi ông ta thọ
h́nh trọn chẳng biết đến đau khổ. Người
thiếp của ông ta là bà X… niệm Quán Âm, chắc là
được Quán Âm gia bị mà ra, cho nên bị cực
h́nh mà chẳng đau khổ! Đấy cũng là do
lương tâm phát hiện. Vợ ông ta cũng chẳng biết
Phật pháp, dâng sớ xin chết thay cho chồng, chính ḿnh
và hai đứa con đều không nhắc tới niệm
Phật một chữ nào! Con người sắp chết,
lời nói ắt lành. Nếu dựa trên tâm hạnh của Tiêu
Sơn th́ lẽ ra ông ta phải rất ghét người thiếp
ngu mê th́ mới hợp với tâm ông ta vậy! Ông ta đă cảm
kích người thiếp niệm Quán Âm, há đâu lại
nghiêm cấm dân chúng thắp hương lễ Phật?
Đủ biết là tuy ông ta không tin Phật, nhưng đến
khi đại nạn xảy tới, trong lương tâm
cũng thốt ra lời tin tưởng! Học thuyết
khiến con người bị lầm lạc lắm thay! Bởi
lẽ, với thiên tư của Tiêu Sơn, nếu nghiên cứu
Phật pháp đến mức cùng tận, há lẽ nào chỉ
cống hiến cho nước, cho dân, cho thân như thế
mà thôi!
Ông đă làm thơ, viết kệ khuyên
người sao chẳng dùng chánh vận[29],
lại dùng âm vận của đất Mân (Phước Kiến),
nhưng vẫn chẳng chịu thay đổi th́ gởi
cho tôi để làm ǵ? Hơn nữa, ông lại ghép hai chữ
Ấn Quang để làm câu đối, chẳng ngại làm
cho thật nhiều là v́ muốn ǵ đây? Ông đem gởi
[những câu đối ấy] cho tôi để biểu thị
ḷng Thành của ông hay là làm tṛ con nít đùa bỡn vậy? Lấy
tên ghép thành câu đối và làm kệ[30]
là thói quen của cơi tục trong đời gần đây. Ông
hăy nên làm những chuyện chánh đáng theo lẽ thường,
chớ đừng không có chuyện ǵ bèn bới ra chuyện
để làm! Há lẽ nào Quang lại vui thích v́ được
ông tâng bốc như thế ấy?
Tấm ḷng lợi người lợi vật
của ông quả thật là khó có, nhưng chẳng biết
sự vụ. Sợ rằng nếu không nói toạc ra, chắc
sau này ông sẽ càng thêm chấp trước, ắt sẽ đến
nỗi không làm người được nữa! V́ thế,
Quang xót cho ông do ḷng Thành mà chấp trước nên mới
nói dài ḍng một phen như thế này! Nếu cho là không
đúng th́ Quang là người đất Tần (Thiểm
Tây), ông là người đất Mân, hai nơi cách nhau cả
mấy ngàn dặm, mà người cũng chưa từng gặp
mặt nhau, ông cứ làm theo chí của ông. Từ nay, chẳng
cần phải gởi thư đến nữa để
tôi khỏi phải xung đột với ông. Ông hỏi
như vậy, tôi đáp như vậy! Nếu có mấy
người giống như ông th́ tôi sẽ mệt nhọc
đến chết mất! Ông đă có Văn Sao, có sách Tịnh
Độ, nhưng chẳng bắt chước theo những
thứ ấy, cứ hướng về tôi để chọn
lấy những lời lẽ ngoài miệng hoặc nơi
ng̣i bút. Nếu tôi có thể hiện khắp các sắc thân
th́ cố nhiên không trở ngại ǵ! Nếu không, chắc
là ông chưa được lợi ích mà tôi đă chết
trước v́ nhọc nhằn rồi! Nếu mai sau vẫn
cứ lôi thôi như thế này, tôi sẽ không trả lời
nữa đâu!
66. Thư trả lời cư
sĩ Thái Khế Thành
(thư thứ nhất)
Chuyện buôn bán hương dễ
vun bồi phước nhất mà cũng dễ tạo nghiệp
nhất! Chế tạo hương không tinh khiết, ganh
đua trang hoàng cho mới lạ: Đem h́nh tượng Phật,
Bồ Tát in trên tờ hướng dẫn cũng như in
trên hộp đựng hương. Lại c̣n đem h́nh
tượng Phật, Bồ Tát gắn vào chính giữa ṿng
nhang, kẻ vô tri đua nhau mua sắm. Cái tội khinh nhờn
kể sao cho xiết? Tờ hướng dẫn, hộp
đựng hương bị [người ta dùng xong] tùy tiện
vứt đi. Cầu lợi như vậy, tôi sợ là chẳng
những con cháu tuyệt diệt mà c̣n sợ khi kẻ ấy
một hơi thở ra không hít vào được sẽ
vĩnh viễn đọa trong địa ngục A Tỳ
bởi đă phát khởi ḷng khinh nhờn h́nh tượng
Phật, Bồ Tát cho cả ta lẫn người, khiến
cho người kính Phật cũng mắc đại tội,
huống là kẻ chẳng có ḷng tin ư?
Bốn mặt một hộp
hương nhỏ của tiệm hương X… ở
Thượng Hải có [in h́nh] năm mươi mấy vị
Phật; năm ngoái Quang trông thấy liền gởi thư
cho ông chủ, chưa được trả lời. Trong
mùa Xuân, tiệm hương X… nọ ở Hạ Môn cậy
một vị cư sĩ xin Quang viết chữ. Do mục
lực lẫn tinh thần không đủ, tôi chỉ đề
bốn chữ. Họ nói có gởi hương tới theo
đường bưu điện. Thư nhận
được mấy hôm rồi hương mới
được gởi tới. Hương có tới mấy
loại nhưng đều chẳng ngửi được!
Ấy là v́ họ chỉ cốt sao có mùi thơm, chẳng cần
biết vật liệu chế tạo hương là sạch
hay nhơ. Chớ nên đốt hương Ấn Độ
v́ họ bỏ thêm chất Xạ[31]
vào hương. Chẳng những mùi hương ấy khiến
cho người ta ngầy ngật mà sợ rằng c̣n khiến
cho hoa quả, phụ nữ có thai sẽ do vậy mà bị
rụng hoa, đọa thai nữa! Những kẻ buôn bán loại
hương ấy gây tội nghiệp lớn lao chẳng
thể nào kể xiết! Họ vẫn cứ lấy
đó làm điều đắc ư! Trước kia, Quang
đă nói đại lược những khuyết điểm
ấy với tiệm hương X… ở Hạ Môn, chẳng
biết họ có chịu nghe theo hay không? Tuy ông muốn theo
đuổi nghề buôn bán ấy, sợ rằng hoàn toàn chẳng
biết đến thói tệ đó. Dẫu được
lợi nhưng sẽ mắc tội xiết bao!
67. Thư trả lời cư
sĩ Thái Khế Thành
(thư thứ hai)
Quả ắt phải có nhân, chớ
nên oán trời, trách người. Quân tử hành xử theo
đúng địa vị, nếu phú quư sẽ sống theo
hoàn cảnh phú quư. Người phú quư có tài lực lẫn thế
lực sẽ dùng tài lực và thế lực của chính
ḿnh để lợi người, lợi vật. Gặp cảnh
nghèo hèn sẽ sống theo cảnh nghèo hèn. Xưa vốn phú
quư nay đă nghèo hèn th́ cần kiệm, bớt tiêu dùng, giống
như từ trước đến giờ vốn là kẻ
nghèo hèn. Sống ở nơi Di Địch[32]
th́ hành xử theo kiểu Di Địch. Nếu gặp nhằm
đời loạn, phải bỏ nhà tỵ nạn, ở
nơi xa xôi, hoang vu, cũng sẽ sống như người
ở nơi hoang vu. Gặp cảnh hoạn nạn bèn xử
sự theo cảnh hoạn nạn. Đă gặp phải những
chuyện lo buồn, tai nạn th́ vẫn chẳng oán hờn,
cứ chấp nhận giống như chính ḿnh đáng phải
hứng chịu nỗi lo buồn, tai nạn ấy! Do vậy,
quân tử không khi nào chẳng vui theo mạng trời, trong
ḷng thản nhiên. Ông đă nghèo rồi mà vẫn mong tưởng
làm ra vẻ kẻ cả như trước kia ắt sẽ
phải lo lắng, mệt nhọc chẳng kham được!
Sợ rằng sẽ do vậy mà trở thành bệnh nặng
tàn phế, hoặc đến nỗi mất mạng. Đấy
chính là vẫn hiềm nỗi khổ do túc nghiệp cảm
thành c̣n quá nhỏ đấy, chính ḿnh chẳng chịu quên
bẵng những cảnh tượng xưa kia, oan uổng
hứng chịu lo âu, nhọc nhằn, khiến cho nỗi
khổ càng thêm lớn lao, chẳng những vô ích mà ngược
lại c̣n bị tổn hại to lớn!
Hăy thử nghĩ: Người trong thiên
hạ những kẻ khổ hơn ta chẳng biết nhiều
gấp mấy ngàn lần? Ta may mắn nửa đời
người vẫn c̣n tốt đẹp, nay tuy chẳng tốt
đẹp, nhưng vẫn c̣n hơn những người
cuộc sống chẳng tốt đẹp nhiều lắm.
Nam nữ trong thế gian làm tôi tớ cho kẻ khác rất nhiều!
Chuyện ǵ cũng phải đích thân làm, đấy chính
là bổn phận trong đời người. Dẫu làm
tôi tớ cho kẻ khác th́ chỉ cần ta chẳng mang bụng
dạ xấu, chẳng làm chuyện xấu th́ cũng rất
có thể diện. Nếu chính ḿnh sử dụng người
khác th́ cảm thấy rất vinh diệu, c̣n nếu chính
ḿnh phải phục dịch người khác th́ lại cảm
thấy rất tủi nhục. Đấy chính là suy
nghĩ của kẻ trượng phu hèn hạ trong thế
gian! Nếu là bậc đại quân tử th́ phú quư chẳng
dâm dật, tuy nghèo hèn vẫn chẳng thay đổi chí
hướng, an vui trong mọi cảnh ngộ, dẫu phú
quư vẫn giữ bổn phận của kẻ nghèo hèn; dẫu
nghèo hèn vẫn cảm thấy chẳng thiếu sót, áy náy
ǵ!
Ông là người học Phật may mắn
có tiền, vẫn cứ lầm lạc muốn được
phát tài lớn, bắt chước chế hương Ấn
Độ. Loại hương ấy có tội lỗi,
Quang trọn chẳng đốt. Điều này cho thấy
ông chẳng khéo biết sống trong cảnh giàu. Nay gia cảnh
đă nghèo nàn, lại chẳng làm một chuyện ǵ, cứ
lầm lạc mơ tưởng cảnh giàu sang thuở
trước, điều này cũng cho thấy ông chẳng
khéo biết sống trong cảnh nghèo nàn! Nếu ông quên
được cảnh giàu thuở trước lẫn cảnh
nghèo sau này, Quang bảo đảm ông nhất định sẽ
niệm Phật văng sanh Tây Phương! Nếu không, sẽ
khó khỏi đời sau c̣n khổ sở hơn đời
này nữa đấy!
68. Thư trả lời cư
sĩ Khang Kư Dao
Gă X… đến đất Tần
(Thiểm Tây) có quan hệ rất lớn. Nếu hắn ta
băng thanh ngọc khiết (trong trắng như băng, sạch
như ngọc), noi theo quy củ th́ quá nửa người
đất Tần sẽ bị đoạn mất thiện
căn. May mắn là hắn ta đă bộc lộ toàn thể
tham - sân - si, bị người đất Tần miệt
thị cho nên không ai chịu tin theo những ǵ hắn ta nói.
Ông gởi thư hỏi những điều hắn chẳng
thể biết được nên hắn trọn chẳng
thể viết thư trả lời. May là ông gởi
thư hỏi, chứ nếu không, hắn sẽ cho rằng
đất Tần không có ai! Biết th́ không khó, làm
được mới là khó! Hắn hoàn toàn tin tưởng
Quang, nhưng do hiểu lầm ư nghĩa một lá thư liền
trở thành phản đối, đủ biết hắn
không có tín tâm chân thật, chưa sanh được nhẫn
nhục mà sân hận đă lừng lẫy, chẳng đáng
buồn ư?
Quang làm người không có ǵ là được
hay không được! Người đến chẳng cự
tuyệt, người đi chẳng đuổi theo. Đến
hay đi mặc họ, chẳng can dự ǵ đến tôi!
Năm nay công việc hết sức bận bịu, không rảnh
rỗi để trở về đất Tần. Bởi
lẽ, nếu trở về đất Tần th́ Đại
Sĩ Tụng, Phổ Đà Sơn Chí đều không có
người giảo chánh, đối chiếu, lo toan. Huống
chi c̣n có chuyện chùa Pháp Vân ở Nam Kinh lập thêm Viện
Mồ Côi, cụ Phùng Mộng, Vương Nhất Đ́nh
v.v… đều lôi Quang gia nhập để góp phần náo
nhiệt, nhưng may mắn là Quang không có tâm tham. Nếu
hơi có tâm tham danh, chắc danh vị “khai sơn đời
thứ nhất” của chùa Pháp Vân há chịu nhường
cho người khác! Nhưng Quang xem danh vị ấy hệt
như tù nhân trong nhà giam, chỉ sợ lỡ bị ràng buộc
vào đấy!
Đối với Tướng Tông, ông
khá thông hiểu. Nhưng nhờ vào đấy để chiết
phục lũ ngông cuồng khiến chúng hồi hướng
Tịnh Độ th́ được, chứ nếu chuyên
nhất dụng tâm nơi ấy, đem tín nguyện niệm
Phật vứt ra sau ót, sợ sẽ thường làm chủ
nhân trong thế giới Sa Bà đấy nhé! Bởi lẽ,
Sa Bà là do chính ḿnh có, cũng rất có tiếng tăm lớn,
nhưng bị Sa Bà trói buộc chẳng được tự
tại th́ chẳng thà không có c̣n hay hơn! Vị pháp sư
X… học vấn khá cao nhưng tánh t́nh lại ham cao chuộng
xa, chẳng biết tùy thuận kẻ sơ cơ th́
người nghe do không lănh hội được [ư
nghĩa lời vị pháp sư ấy dạy] nên lợi
ích sẽ nhỏ nhoi lắm!
Văn Sao đă in ra sách. Nghe nói chín
trăm bộ của Hùng Đại Minh đă gởi đi
hết rồi (gởi cho một người bạn ở
Hà Nam năm trăm bộ, gởi sang Thiểm Tây bốn
trăm bộ); chẳng biết họ
đă nhận được hay chưa? Ông ta có hai ngàn bộ
sách, Quang tính khi nào b́nh yên hơn một chút sẽ gởi hết
số sách của ông ta sang Thiểm Tây. Một là để
việc pháp thí của Đại Minh được rộng
khắp, hai là nhằm tỏ bày t́nh cảm của Ấn
Quang đối với quê hương. Nếu ai muốn xem,
hăy nên hỏi từ chỗ Đại Minh, sợ rằng trong
nhất thời sẽ khó gởi đến được!
Quang chẳng thể can dự vào quy
ước ở Chung Nam, bởi lẽ con người hiện
thời bất luận chuyện ǵ cũng đều chỉ
coi như một trang quy ước sáo rỗng. Nếu có thể
tuân theo được một nửa th́ đă là muôn phần
may mắn rồi! Cố nhiên Quang biết thói tệ hại
chẳng dễ trừ sạch nên trọn chẳng can dự
vào. Trung Hoa Tân Báo đă muốn đăng kèm thêm Phật học,
phàm những truyện tiểu thuyết khơi dâm, gợi
dối lẽ ra đừng đăng tải th́ quốc
dân mới được hưởng ích lợi thật sự.
Nếu như chỉ mong thích hợp với thị hiếu
của hạng hạ lưu trong xă hội th́ tăng thêm một
phần báo cố nhiên chẳng bằng giảm đi một
phần báo vậy!
Người dân đất Tần chờ
đợi được cứu trợ hết sức tha
thiết, [dẫu tiền cứu trợ đến] mấy
chục vạn vẫn trọn chẳng thể tạo ân huệ
thật sự. Dẫu cho mọi người đóng góp
đôi chút được bao nhiêu đó, há có thể bảo
đảm [những kẻ lo liệu phát chẩn] ai nấy
đều phát xuất từ tấm ḷng lo cho việc công,
chẳng dính dáng thói tệ hay chăng? Ấy chính là do định
nghiệp của người dân đất Tần xui khiến,
cũng chẳng đáng buồn sao? Quang cũng là dân đất
Tần, nghe t́nh trạng thê thảm ấy chẳng thể không
đau thương, nay đem món tiền một trăm
đồng vốn dùng để lưu thông Văn Sao góp vào
chi phí cứu trợ. Xin hăy đem thư này đến chùa
Thái B́nh ở bến Trần Gia trong thành để nhận
tiền từ đại ḥa thượng Chân Đạt. Lời
tựa cho Trung Hoa Tân Báo sẽ gởi tới trong tuần lễ
đầu tiên của tháng Ba. Hiện thời do phải giảo
duyệt Văn Sao nên trọn chẳng có lúc nào rảnh rỗi
cả! [Bản in thử của] Văn Sao gởi đến
đă hai mươi mấy ngày rồi, nhưng gặp phải
kỳ dâng hương công chuyện rất bận bịu
nên phải để chậm trễ đến hôm nay!
Đối với lời đề từ
cho tập sách kỷ niệm lệnh từ[33]
th́ đă có các bậc danh nhân viết rồi, Quang lại
đi theo một đường riêng, lời lẽ dường
như phù phiếm, nhưng ư khá thiết tha, chân thật, chẳng
biết có dùng được hay không. Nếu chẳng muốn
dùng th́ cũng không trở ngại ǵ! Quang thấy con người
hiện thời đối với chuyện phụng sự
cha mẹ đều nói xuông là đă kể như xong chuyện,
chứ thật khó t́m được kẻ nào gắng sức
tu tŕ. Thuở trước, những hành vi của ông đều
phạm phải lỗi lầm to lớn, nay hăy nên gắng
hết sức tu tŕ thật sự ḥng bù đắp. Nếu
chỉ chuộng những lời lẽ bóng bẩy, rỗng
tuếch nhằm sướng tai khoái mắt người
khác, đâm ra người ta sẽ chê trách lỗi cũ rồi
trách tội. Dẫu có lừa được người
khác, há có lừa được tự tâm hay chăng? Chẳng
thể lừa tự tâm được, v́ thế thiên,
địa, quỷ thần đều chẳng thể lừa,
huống là Phật, Bồ Tát ư? V́ tự tâm dung nhiếp
với Phật, Bồ Tát, thiên, địa, quỷ thần
vậy! Từ nay, chuyện ǵ cũng nên cầu chân thật,
tâm tâm tự phản tỉnh th́ ḷng sẽ ngay thẳng v́
đạo, hợp với Như Lai, sẽ tự có thể
cảm ứng đạo giao, sống được [Phật,
Bồ Tát] gia bị, mất được Ngài tiếp dẫn
vậy.
69. Thư trả lời cư
sĩ Lưu Quán Thiện
(thư thứ nhất)
Nhận được thư,
khôn ngăn cảm kích, hổ thẹn. Những lời Quang
nói phần lớn giống như [lời lẽ của] kẻ
bộ hành teo chân. Nếu khách đi đường chẳng
v́ kẻ [teo chân] ấy không đi được mà chê bỏ
th́ chẳng ngại ǵ theo con đường do kẻ không
thể đi được một bước ấy đă
chỉ dẫn để được về ngồi yên
trong nhà. Trong đời trước, lệnh từ đă có
nhân duyên lớn với Tịnh Độ, hăy nên đem sự
lư chẳng thể nghĩ bàn của Tịnh Độ
để khuyên nhủ ngơ hầu cụ biến hết công
đức làm việc từ thiện lẫn công đức
tụng kinh thành tư lương văng sanh, quyết định
giă biệt ḍng phàm, cao dự thánh hội. Há có sự tôn
kính, hiếu thảo với cha mẹ trong cơi đời nào
hơn được chuyện này? Thành tựu một
người văng sanh tức là thành tựu một phàm phu làm
Phật, há chẳng dốc hết sức khuyên nhủ
đấng sanh ra ta để họ ắt được
thỏa sở nguyện ư?
Người bạn họ Từ bẩm
tánh thuần hậu, thành khẩn, tiếc là chưa hiểu
rơ về mặt Lư nên dùng tri kiến của phàm phu để
lầm lạc suy lường trí Phật. Ông ta nói
được kim đan, đắc thần thông, thấy
mẹ [cũng được sanh vào cơi] trời [hay trong cơi]
người th́ mới chịu cùng với mẹ sanh về
Tây Phương! Trong thời khắc ấy, nếu chỉ
riêng ḿnh ông ta được văng sanh th́ trong tâm sẽ chẳng
thể cam ḷng! Ư ấy tuy tốt lành, nhưng xét về mặt
Sự lại chẳng khác ǵ chính ḿnh đang ch́m dưới
giếng lại toan cứu người cho mấy! Một
là v́ ít xem kinh luận Tịnh Độ, hai là chưa qua lại
với tri thức Tịnh Độ, cho nên mới có ư kiến
ngu muội không thông suốt như thế! Phàm những bậc
danh nhân Tăng - tục xưa nay đă dùng tụng kinh niệm
Phật để cứu vớt [vong linh] những kẻ
cô quạnh kể sao cho xiết! Chưa
chắc ông Từ chẳng hề nghe chuyện ấy. Trong
trang năm mươi tám, năm mươi chín của quyển
bốn sách Lạc Bang Văn Loại[34]
có đến hai lượt chép chuyện “lâm chung thỉnh
Tăng niệm Phật liền được văng sanh”. Điều
này khiến cho các vị đại lăo trong nhà Thiền phát
tâm niệm Phật. Đủ biết ḷng Từ rộng lớn
của đức Phật, hễ có nguyện ắt Ngài sẽ
thuận theo. V́ thế chẳng cần biết là đă tu
lâu hay mới tu, Phật đều b́nh đẳng rủ
ḷng nhiếp thọ.
Kẻ văng sanh Hạ Phẩm Hạ Sanh
trong Quán Kinh chính là kẻ trọn đủ Ngũ Nghịch,
Thập Ác. Khi lâm chung, tướng địa ngục
đă hiện, nhưng gặp được thiện tri
thức dạy niệm danh hiệu Phật, kẻ ấy
bèn niệm mười tiếng hoặc mấy tiếng rồi
liền mạng chung nhưng vẫn được văng
sanh. Nay đă sẵn cái tâm thuần hiếu, kính trọng,
ngưỡng mộ cha mẹ, nếu có thể phát hoằng
thệ nguyện xưng niệm danh hiệu Phật (Trong
Tứ Hoằng Thệ Nguyện, ắt phải thề khắp
v́ chúng sanh trong pháp giới. Nếu chẳng phát cái tâm ấy
th́ chính là t́nh kiến phàm phu, chẳng dễ ǵ cảm thông
được). Dùng công đức ấy
để tiêu trừ tội nghiệp tăng trưởng
phước huệ cho cha mẹ, cầu Phật từ bi
tiếp dẫn văng sanh th́ tâm hợp với đạo, tâm
hợp với Phật, nào cần phải đợi mẹ
cùng sanh, hoặc cứ phải đợi mẹ văng sanh
trước rồi ông ta mới văng sanh sau?
Cần biết rằng: Lợi
ích của pháp môn Tịnh Độ chỉ có Phật với
Phật mới có thể thấu hiểu cùng tột. Ông Từ
là hạng người nào? Chắc là không hiểu biết
nên mới nẩy sanh ư kiến ngu muội chẳng hợp
t́nh ấy, há chẳng đáng buồn quá đỗi ư?
Hăy nên bảo ông ta đọc kỹ đoạn này trong Lạc
Bang Văn Loại, lại c̣n bảo ông ta xem các sách như
Tịnh Độ Thánh Hiền Lục v.v… th́ những suy
đoán lầm lạc, mù quáng sẽ bị tiêu diệt hết
sạch! Khi niệm Phật chẳng có mảy may cảm ứng
nào là v́ chẳng biết Phật lực, tâm chẳng khẩn
thiết. Chẳng biết tới Phật lực là do
chưa nghiên cứu sâu xa các kinh luận Tịnh Độ
mà ra! Niệm Quán Thế Âm tự cảm thấy khẩn
thiết là do quen nghe nói Bồ Tát tầm thanh cứu khổ.
Các hạ bảo ông ta có nghiệp từ đời trước
th́ nói như vậy cũng khá đích xác. Đối với
pháp môn Tịnh Độ, nếu ông ta không bị nghiệp
chướng đời trước ngăn trở th́ vừa
nghe sẽ liền hành ngay, đâu phải đợi người
khác khuyên nhắc đôi ba lượt mà vẫn cứ coi
pháp môn này như chuyện ngoài da, coi luyện đan là chủ
thể ư? Nhưng nghiệp do tâm tạo, nghiệp sẽ
chuyển theo tâm. Đại trượng phu sống trong thế
gian há bỏ mặc cho nghiệp ràng buộc, mỗi mỗi
phải nghe theo mệnh lệnh của nó ư? Nếu ông Từ
là kẻ như thế th́ vừa nghe lời này ắt sẽ
như thấy mẹ té vào lửa, nước, sẽ gấp
rút cầu vị có đại thế lực là A Di Đà Phật
cứu giúp. Há lẽ nào lại chịu thong dong luyện
đan, đợi đến khi thành tựu, đầy
đủ thần thông rồi mới cầu A Di Đà Phật
tiếp dẫn hay chăng?
Pháp Niệm Phật thông trên thấu
dưới, chứ không phải pháp này chỉ thích hợp
cho kẻ hạ căn! Kẻ hạ căn chẳng thể
tu pháp khác được; chứ đối với pháp này,
cố nhiên không một ai chẳng thể tu được;
do vậy, pháp này là pháp môn phổ độ từ bi lớn
nhất của đức Như Lai. Nhiếp tâm niệm Phật
chắc chắn chẳng phải là phương cách dễ
dàng, nhưng pháp nhiếp tâm chỉ có xoay cái Nghe trở lại
quả thật là bậc nhất! Các hạ thiên tư thông
minh, mẫn tiệp, chẳng lấy Thiền, Giáo để
tự cao, lại chuyên tâm niệm Phật; đủ thấy
trong đời trước đă có đại nhân duyên
đối với pháp môn này. Chẳng những các hạ sẽ
được lợi ích thật sự ngay trong đời
này mà c̣n khiến cho lệnh từ lẫn quyến thuộc
cả nhà đều được liễu sanh thoát tử
ngay trong đời này; đáng gọi là “Ưu Đàm vượt ngoài kiếp[35],
hoa sen trong lửa đỏ”, khôn ngăn khâm phục!
Các hạ nói tập khí quá mạnh, Quang
chẳng biết là các hạ nói đến thứ nào?
Ăn uống, nam nữ là những thứ ham muốn lớn
lao con người thường có! Các hạ đă ăn
chay trường, dứt ăn mặn, quyết chẳng
đến nỗi vướng mắc tập khí ăn uống.
Đối với nữ sắc, chắc cũng chẳng
đến nỗi dính dấp những chuyện trái lẽ.
Nếu dục tâm chẳng thể chế ngự được
ngay, chỉ nên thường quán Bất Tịnh th́ dục
tâm sẽ tự tiêu. Bất Tịnh Quán danh tướng thật
nhiều, quán cặn kẽ từng thứ một chính là
công phu của kẻ chuyên tu pháp quán tưởng này. Chúng ta
chẳng chuyên thực hiện công phu ấy th́ cứ quán
sơ sài cho đỡ tốn sức. Chẳng hạn
như khi thấy sắc đẹp, do yêu mến liền nẩy
sanh ḷng dục th́ đối với sắc đẹp gợi
ḷng yêu mến ấy liền quán chẳng qua là ta bị vẻ
tươi đẹp của một lớp da mỏng gạt
gẫm. Thử bóc lớp da mỏng tươi đẹp ấy
đi, dẫu tâm yêu thương nồng nàn đến mấy
cũng sẽ chuyển thành hoảng sợ, chán ghét. Cái tâm
yêu thương trước kia trọn chẳng c̣n tơ
hào ǵ nữa! Tiến hơn bước nữa là quán những
thứ như máu, thịt, phân, tiểu v.v… trọn chẳng
khác ǵ tử thi, nhà xí, tuy đầy đủ trang nghiêm,
nhưng nh́n thẳng xuống phía dưới đáy [sẽ
thấy rất kinh tởm]. Quán được như thế
sẽ chẳng thấy lớp da mỏng tươi đẹp
nữa, chỉ thấy trong ngoài trọn đủ ba
mươi sáu món vật bất tịnh! Cổ nhân nói: “Quán Không lâu ngày, chẳng thấy
trọn người”. Quang bảo: “Quán được như thế th́ sẽ chẳng
thấy người, chỉ thấy những món bất tịnh
ấy mà thôi!”
Nếu tập khí sân hận quá mạnh,
hăy nên thường giữ tấm ḷng nghĩ thương hết
thảy. Phàm gặp chuyện chẳng vừa ư, thảy
đều thông cảm cho người khác, vun bồi sâu xa
ḷng Từ của chính ḿnh th́ oán hờn chẳng khởi,
nhân ái thường hiện hữu, tập khí sân hận sẽ
biến mất chẳng c̣n nữa. Đấy là những tập
khí lớn lao của người đời, những tập
khí lớn đă chế phục được th́ những
tập khí nhỏ cũng chẳng có cách nào sanh khởi
được! Nhất tâm niệm Phật th́ trời trong
đất yên, trọn chẳng có hơi hướng bụi
bặm ǵ! Bài thơ đẹp đẽ của ông thanh vận
réo rắt, tiếc là đem phàm lạm thánh đến nỗi
chẳng phù hợp với đề tài. Bốn mươi
năm qua Quang đă đoạn tuyệt chuyện này (nhằm
dứt thói tệ trong tâm thường cân nhắc chọn lựa
từ ngữ vậy). V́ thế chẳng
thể họa được!
70. Thư trả lời cư
sĩ Lưu Quán Thiện
(thư thứ hai)
Hôm qua nhận được
thư và tác phẩm Truyền Tâm Vựng Lục của lệnh
từ, đọc xong khôn ngăn cảm thán chẳng
ngơi! Quang thường nói vùi lấp, loạn lạc là
do trong gia đ́nh thiếu giáo dục mà ra. Dạy con cố
nhiên là chuyện khẩn yếu nhưng dạy dỗ con
gái lại càng quan trọng hơn. Bởi lẽ, nếu con
gái được khéo dạy th́ sẽ thành tựu Tứ
Đức (Công, Dung, Ngôn, Hạnh), giúp chồng dạy con,
ngơ hầu đứa con nào có thiên tư sẽ thành tựu
học vấn, phẩm cách của bậc thánh hiền, ngay
cả những đứa không có thiên tư ắt cũng
làm một người dân lành giữ trọn bổn phận.
Nếu con gái không được dạy dỗ, chẳng những
nó không thể giúp chồng dạy con mà c̣n đối với
nghĩa, đối với đạo sẽ dạy con làm
điều sai trái, dạy con làm ác. Phàm những tên đại
gian đại ác xưa nay đều chẳng phải do mẹ
hiền sanh ra! Muốn gia đ́nh hưng thịnh, đất
nước b́nh trị th́ phải khởi đầu từ
nuôi dạy con cái. Đấy là đạo để giải
quyết vấn đề từ căn bản.
Trong mùa Xuân, tôi thấy các hạ xuất
thân từ nơi phú quư, tuy c̣n trẻ mà đă già dặn, dẫu
sống ở Thượng Hải mà chí hâm mộ chân tu,
nghĩ rằng sự giáo dục trong gia đ́nh [các hạ]
ắt phải vượt trỗi những nhà phú quư tầm
thường. Nay thấy sự thuần hiếu, tiết
tháo khắc khổ của lệnh từ th́ há có phải riêng
ǵ các hạ là người được chuyển biến
do thân cận ánh sáng tốt lành ấy mà ngay cả ngàn
trăm năm sau, những ai thấy nghe đức đẹp,
khuôn mẫu tốt lành của cụ cũng sẽ chuyển
biến. Tiếc cho những kẻ bàn bạc, t́m ṭi lẽ
trị an trong cơi đời cứ vứt bỏ đạo
của thánh hiền để tôn sùng pháp của kẻ man
di, chẳng biết đến cái gốc, làm sao chữa
được cái ngọn, đến nỗi càng muốn trị
càng loạn thêm! Dẫu thánh hiền xuất thế cũng
rốt cuộc chẳng biết làm sao được! Vẫn
mong các hạ nói với những người cùng hàng về
những điều này th́ những điều này cũng
chưa hề chẳng giúp cho việc “vun vén cái gốc,
đặt nặng luân thường, tề gia, trị quốc”
vậy! Lệnh từ đă trọn vẹn đức hạnh
của phái nữ, điều thiếu sót là chưa
được nghe biết pháp môn Tịnh Độ mà thôi!
Xin các hạ trong lúc hồi hướng sáng tối, hăy thay
cụ hồi hướng cho cụ được văng sanh
th́ sẽ đáng gọi là “hiếu thảo lớn lao, tôn
kính cha mẹ” vậy!
Sách chú giải kinh Pháp Hoa có mấy loại
được lưu truyền, nhưng trong những sách
giảng về những nghĩa quan trọng th́ nên lấy
Pháp Hoa Hội Nghĩa làm đầu, c̣n giải thích kinh
văn th́ sách Pháp Hoa Chỉ Chưởng giảng cặn kẽ
nhất. Ba bộ Hội Nghĩa, Khoa Chú, Nhập Sớ
đều noi theo bộ Pháp Hoa Văn Cú [để giảng
giải], nhưng những chỗ nêu tỏ của đại
sư Ngẫu Ích vượt xa các vị sư khác. Nếu
muốn được lợi ích thật sự, hăy nên lấy
những lời Quang đă nói trong lần trước làm
điều chủ yếu [để tuân hành].
Lệnh từ đă khuất,
khó thể khuyến khích cụ tu Tịnh nghiệp
được, chỉ có thể thay mặt hồi hướng
cho cụ. Mẹ ruột ông[36]
đă có tín tâm há chẳng nên thường giảng bàn hằng
ngày để mong cho cụ sẽ được cao
đăng phẩm sen hay sao? Làm con báo đáp cha mẹ hay
độ sanh đều phải coi cách này là bậc nhất.
Xin ông hăy gắng sức th́ may mắn lắm thay!
71. Thư trả lời ḥa
thượng Nhữ Ngu
Nhận được thư từ
mấy hôm trước, biết Sư đă tu bổ tháp của
Trí Giả đại sư, sai Quang soạn bài kư[37].
Quang chữ nghĩa vụng về, chất phác, gom góp
được hơn tám trăm sáu mươi chữ, thật
ra là sao lục từ các ghi chép, chứ không phải do tôi soạn
ra. V́ thế gọi là Thuật. Cao Tăng Truyện, Thích Thị
Kê Cổ Lược đều chép sai là Ngài thọ sáu
mươi bảy tuổi. V́ thế, niên hiệu hoàng đế,
năm, tháng lúc Ngài sanh ra, xuất gia, vào núi Thiên Thai, cho
đến khi viên tịch, mỗi mỗi đều chép lại
đầy đủ để làm chứng cứ hầu dứt
trừ ḷng nghi. Đại sư hoằng pháp mấy chục
năm, làm sao thuật trọn cho được? V́ thế
chỉ lược thuật những nghĩa trọng yếu
như Ngài phán giáo, truyền tâm và hoằng dương Tịnh
Độ mà thôi.
Hăy nên thỉnh người viết chữ
đẹp chép lại [bài kư ấy] theo lối chữ Khải,
chớ nên dùng những lối chữ Tục Thể, Phá Thể,
Thiếp Thể v.v… để tỏ rơ sự trịnh trọng.
Trước hết cần phải tính đếm bao nhiêu
chữ, chép thành một bản mẫu, mỗi mặt bao
nhiêu hàng, mỗi hàng bao nhiêu chữ, chiếu theo cách đó
để viết th́ sẽ chẳng đến nỗi viết
nhiều hơn hay viết ít đi. Chép xong xuôi, lại phải
kiểm kỹ mấy lượt rồi mới cho dán vào
đá để khắc. Nếu lỡ viết sai, dẫu nhiều
hay ít, cũng không cần viết lại bản khác, chỉ
xóa giặm chữ sai, c̣n những chữ khác cứ giữ
nguyên. Đây là chữ để khắc trên đá chứ
không phải để viết trên b́nh phong hay câu đối
mà sợ giặm xóa sẽ không đẹp mắt. Viết
bản mẫu hay viết trên đá đều theo lối “cứ
viết một hàng liền kiểm một hàng” ngơ hầu
chẳng đến nỗi bị sai sót quá nhiều. Quang
già rồi, tinh thần chẳng đủ, từ nay đừng
sai bảo viết lách nữa. “Nối
tiếp tông phái…” cả ba mươi hai chữ là ước
trên pháp môn Tịnh Độ để nói, tuy chẳng phải
là nêu tỏ lớn lao ǵ, nhưng cũng có thể dùng để
đặt pháp danh, chẳng cần phải chú trọng t́m
ṭi những chữ cung kính, ư nghĩa sâu xa [để làm bài
kệ đặt pháp danh truyền ḍng]!
72. Thư trả lời cư
sĩ Lư Tế Hoa
Nay đặt pháp danh cho ông là
Trí Thoát, nghĩa là dùng trí huệ để thoát ĺa phiền
năo, tu tŕ tịnh nghiệp. Đến khi báo tận sẽ
lên thẳng cơi sen, như tù nhân thoát khỏi ngục, trở
về quê nhà của chính ḿnh. Em dâu ông là Trương Thị
có pháp danh là Trí Huân, nghĩa là dùng hương công đức
của Phật để tự xông ướp, lại c̣n
xông ướp cho người khác khiến cho hết thảy
những người ấy trong là quyến thuộc, ngoài
là thân bằng cũng như kẻ thấy nghe đều
cùng được xông ướp. Xông ướp lâu ngày th́
phàm phu trược ác đều được đầy
đủ mùi hương công đức Giới - Định
- Huệ của Như Lai. Hoàng Bổn Nghiêm pháp danh là Tông
Kính. Nghiêm là nghiêm túc, tức là ḷng cung kính bên trong được
biểu lộ ra ngoài. Nay lại do biểu lộ ḷng kính
nên trong hết thảy chỗ sẽ chẳng đến nỗi
có cái tâm phóng túng, tà vạy, xa xỉ. Dùng cái tâm ấy để
niệm Phật th́ sẽ dễ được
tương ứng với Phật, ắt sẽ được
văng sanh. Đấy chính là điều đáng hâm mộ vậy!
73. Thư trả lời cư
sĩ Hạng Tử Thanh
Lệnh muội đă tu Tịnh
nghiệp sẵn, khi lâm chung lại được chồng,
con và em dâu trợ niệm; cho nên được tướng
lành đảnh đầu c̣n ấm [sau khi mất]. Đáng
gọi là đă có thiện căn từ đời trước,
nay lại được trợ duyên, may mắn chi hơn?
Lại c̣n cảm được chồng và em dâu đều
muốn quy y Phật pháp. Đấy đúng là “người theo từng loài mà
nhóm lại, vật chia ra thành từng bầy” vậy!
74. Thư trả lời cư
sĩ Đức Nguyên
Hôm qua nhận được
thư của pháp sư Đức Sâm, biết Đức
Trinh đă qua đời vào hôm Mười Hai. Ngày ấy Phật
sự không nhiều nên người trợ niệm đông
đảo cũng không trở ngại ǵ. Nếu Phật sự
nhiều mà người trợ niệm đông ắt sẽ
không có chỗ chứa. Đấy cũng là thiện căn
của Đức Trinh xui khiến. Dẫu không có tướng
lành, nhưng cũng chẳng có tướng khổ,
nương theo sức trợ niệm của mọi
người, chắc sẽ văng sanh. Mạng người vô
thường, lúc ông năm mươi sáu tuổi đă khá yếu
ớt, c̣m cơi. Nay đă hơn mười mấy năm, so
ra c̣n khỏe mạnh hơn trước. Đức Hoằng,
Đức Trinh đều đă mất. Ước theo pháp
thế gian để luận th́ số mạng của ông rất
khổ, nhưng nếu ước theo tu pháp Tịnh Độ
để luận th́ chuyện ấy sẽ giúp ích lớn
lao cho việc nhất tâm niệm Phật văng sanh Tây
Phương!
Đừng học theo kẻ ngu lầm
lạc sanh ḷng oán hờn, [nếu oán hờn] sẽ vô ích
cho Đức Hoằng, Đức Trinh mà ông cũng bị
tổn hại lớn lao. Phàm những tướng khổ ấy
đều nhằm thành tựu cho ông đạo liễu
sanh thoát tử siêu phàm nhập thánh ngay trong đời này! Dẫu
quyến thuộc tốt đẹp mà nếu chẳng phải
là kẻ chân thật tu hành th́ chuyện chướng đạo
sẽ nhiều, chuyện trợ đạo ít ỏi. V́ thế,
chư Phật do lấy tám sự khổ làm thầy mà
được thành Vô Thượng Đạo. Mong ông đừng
sanh ḷng bi cảm, dẫu gặp cảnh ngộ nào cũng
an vui. Trước kia, Quang đă hồi hướng cầu
cho bà ta lành bệnh, hôm qua đă hồi hướng cho bà ta
được văng sanh.
75. Thư gởi cư sĩ
Trác Hoằng Vinh
Gần đây nhận được
thư của lệnh lang là Trí Lập, cho biết các hạ
đă hai lượt t́m được tượng Quán Âm
Đại Sĩ. Lần thứ nhất là mua được
tượng Đại Sĩ bằng đồng sắp bị
nung chảy và mộng thấy kỵ binh vũ trang theo kiểu
cổ, cùng giấc mộng thấy ăn bánh bao chỉ[38]
của tăng sĩ, và nghe nói: “Hăy
nhanh chóng gieo ḷng Thành tu tập Chánh Quả, thoát ĺa biển
khổ để thấy Thế Tôn”. Qua mấy chuyện
này, biết các hạ đă có thiện căn từ đời
trước, tiếc rằng trong đời này chẳng gặp
được thiện tri thức khơi gợi, cho nên
đến nay vẫn hờ hững, lan man, dường
như có, thoạt như không, vẫn chẳng khác với
trước kia cho mấy, cũng đáng cảm khái than thở
lắm thay! Ấy là v́ bậc sĩ đại phu nơi
quư địa ít người thông hiểu pháp, không
được khơi gợi hưởng lợi ích “trông
theo nhau [bắt chước làm lành]”. Nhưng ở Phước
Châu gần đây người niệm Phật cũng chẳng
ít. Do La Khanh Đoan giới thiệu, đă gởi thư
xin quy y ba bốn lượt, có đến năm sáu chục
người. Huống hồ lại c̣n có những người
xin quy y với những vị cao Tăng khác! Hiện nay các
xứ đều phát khởi Niệm Phật Xă, Cư
Sĩ Lâm, chỉ riêng một huyện Vô Tích đă có hơn
một trăm chỗ lập Niệm Phật Liên Xă. Kẻ
có hiểu biết ai nấy đều gieo ḷng Thành để
tu Chánh Quả nhằm mong thoát ĺa biển khổ, gặp Thế
Tôn. Nhưng những người ấy chắc các hạ cũng
chưa thấy nghe, hoặc họ chẳng thể phát khởi
ḷng tin cho các hạ được.
Nay thỉnh một vị các hạ bội
phục nhất đến thuyết pháp cho các hạ, quyết
các hạ trọn chẳng thể không sanh ḷng kính ngưỡng,
bắt chước theo. Người ấy ở ngay
nơi làng xưa của các hạ, tức Văn Trung Công
Lâm Tắc Từ. Cụ này học vấn, trí thức, chí
khí, tiết tháo, trung nghĩa ngay trong thuở ấy cũng
như trong đời sau, nếu không phải là kẻ mất
trí điên cuồng không ai chẳng ngưỡng vọng,
kính mộ. Ngay trong lúc cụ bận bịu chánh sự
đến tột cùng vẫn chẳng bỏ tu tŕ, đặc
biệt đích thân cung kính chép nắn nót ba kinh Di Đà, Kim
Cang, Tâm Kinh, hai bài chú Đại Bi và Văng Sanh thành một cuốn
kinh nhỏ để tiện tŕ tụng trong khi ngồi kiệu
đi lại. Đủ biết một đại nhân vật
như vậy, chánh sự hết sức bề bộn,
trong lúc ngồi xe đi lại vẫn tụng kinh chú để
tu tŕ Tịnh nghiệp. So với cụ, chúng ta muôn phần
chẳng sánh kịp một! Há nên chẳng dốc hết
ḷng nơi chuyện này ư?
Chuyện này là chuyện cả cơi đời
không biết, nay do chắt của cụ là Vũ, tự là
Bích Dư, là em của Đại Nhiệm, đem bản
kinh tới, tính in ra, cậy Quang viết lời tựa,
Quang mới biết. Sợ các hạ vẫn chưa thể
sanh ḷng tin tưởng ngay nên nay tôi đem bản thảo
bài tựa ấy gởi tới; xin hăy đọc trước.
Đợi đến khi kinh được in ra, Bích Dư
sẽ gởi mấy chục bản cho Quang, lại gởi
cho các hạ mấy bản. Không cần phải sao lục
lời tựa này, lời tựa tôi đă gởi cho Bích
Dư (người này làm việc trong Thuyên Tự Bộ
(Nha Xét Duyệt Thăng Thưởng) thuộc Khảo Thí
Viện[39]
Nam Kinh) vẫn c̣n có những chỗ
sửa chữa đại lược. Đợi khi kinh
được gởi tới th́ sự học Phật,
đại hiếu, đại trung, lập đại công,
dựng đại nghiệp xưa kia, đạo giúp khắp
thuở ấy, đức thấm tới những người
học Phật đời sau của Văn Trung Công sẽ
đều biết đại lược. Do vậy, lời
tựa được đặt tên là Phát Ẩn (nêu bày những
ư nghĩa ẩn kín). Không phải chỉ nêu bày những công
hạnh ẩn kín của Lâm Văn Trung Công mà c̣n nêu bày khắp
những điều ẩn kín của bậc đại
nhân thuở xưa, cũng như mong rằng sẽ nêu bày
được những hạnh ẩn kín của các hạ
vậy!
76. Thư trả lời bà Bạch
Huệ Đạo
Quảng Tây là nơi Phật
pháp không lưu thông, bà mang thân nữ, lại tự t́m
được thầy, tu tŕ Tịnh nghiệp, thật là
khó có! Hôm Mười Bảy tháng Bảy, Quang xuống núi,
Mười Chín đến Thượng Hải, Hai
Mươi Tám đến Hàng Châu. Hôm Ba Mươi tháng Tám trở
về Thượng Hải. Thư từ, văn kiện
người khác sai viết giùm chất đống, suốt
ngày chẳng được rảnh rỗi, lại c̣n bận
việc túi bụi. Thư của bà từ núi chuyển tới
cũng chẳng rảnh rang để phúc đáp. Hôm mồng
Sáu tháng Mười trở về núi mới lôi ra trả lời.
Nay gởi qua bưu điện cho bà một gói Quán Âm Bổn
Tích Tụng, một gói Văn Sao, một gói Thọ Khang Bảo
Giám, xin hăy lắng ḷng xem kỹ th́ những nghĩa chánh yếu
trong Phật pháp, quy củ lớn lao để làm người,
pháp môn để liễu sanh tử ngay trong đời này,
đạo lư để thất phu cứu giúp thiên hạ sẽ
đều biết rơ!
Nay đặt pháp danh cho bà là Huệ
Đạo, nghĩa là dùng trí huệ để tự hướng
dẫn và hướng dẫn cha mẹ ruột, bố mẹ
chồng, chồng và anh em trai, chị em gái, chị em dâu,
thân thích, con cái v.v… để họ cùng được gội
ân Phật, cùng niệm Phật hiệu. Trong đời này
làm một người lành chân thật, lâm chung sang thẳng
ao báu để thọ sanh. Cổ nhân thường nói: “Thiên hạ chẳng yên, thất
phu có trách nhiệm”. Thất phu, thất phụ làm sao có
thể khiến cho thiên hạ b́nh trị được? Cần
biết rằng: Cái gốc của thiên hạ là gia đ́nh.
Cái gốc của gia đ́nh là tấm thân. Gia đ́nh khéo dạy
dỗ th́ con cái sanh ra sẽ đều hiền thiện.
Nhà có con hiền th́ đất nước sẽ có hiền
tài. Hễ cùng quẫn th́ tự yên, ảnh hưởng
đến khắp cả làng xóm. Hễ hiển đạt
sẽ làm cho người khác đều cùng được
lành, tạo lợi ích cho khắp mọi người dân. Lợi
ích như vậy phát xuất từ sự giáo dục trong
gia đ́nh. Giáo dục trong gia đ́nh th́ sự dạy dỗ
của mẹ là quan trọng nhất. Đấy chính là lư
do v́ sao người đời gọi nữ nhân là Thái Thái
do họ có thể giúp chồng dạy con, giữ yên bên
trong gia đ́nh. Do vậy sẽ đạt hiệu quả
là “chồng ắt sẽ thành tựu đức nghiệp,
con cái đều hiền thiện”, giống như Thái
Khương, Thái Nhiệm, Thái Tự đời Châu vậy.
Nếu bà có thể dựa theo những điều đă
được nói trong Văn Sao để tự lợi, lợi
người, ngơ hầu quư địa cùng được gội
nhuần sự giáo hóa của đức Phật, dùng công
đức ấy hồi hướng văng sanh th́ sẽ lên
thẳng sen báu Thượng Phẩm.
Nói tới đạo “thất phu, thất phụ có thể cứu giúp thiên
hạ”, chớ có hiểu lầm! Đấy chính là “trọn
hết bổn phận của chính ḿnh, dốc ḷng vun vén
luân thường, cha từ, con hiếu, chẳng phụ bạc
thiên chức [của chính ḿnh]”. Lại c̣n đề xướng
nhân quả báo ứng và giáo dục trong gia đ́nh, nhưng
giáo dục trong gia đ́nh phải chú trọng nhất
nơi nhân quả báo ứng. Làm được như thế
th́ hết thảy mọi người sẽ tự có thể
mong mỏi “đừng làm các điều ác, vâng làm các
điều lành”, lại c̣n “tu tŕ Tịnh nghiệp, lợi
khắp các hàm thức”. Đấy chính là cứu giúp, chỉ
có như vậy mà thôi! Những kẻ cổ động
nam nữ b́nh quyền hiện thời, muốn cho nữ
nhân làm chuyện của nam giới, chẳng biết phát huy
chuyện giúp chồng dạy con, đáng thương quá sức!
Năm sau sẽ c̣n có Ấn
Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục, Di Đà Kinh Bạch Thoại
Chú được in ra, cũng sẽ gởi cho bà chừng
đó gói. Văn Sao, Quán Âm Tụng, Thọ Khang Bảo Giám,
nếu có ai tin nhận th́ cũng sẽ lại gởi chừng
đó trong mùa Xuân năm sau để mong lợi khắp
người nơi quư địa. Chữ Niệm (念) trong “niệm Phật” chớ nên thêm chữ
Khẩu (口). Chữ Niệm [hàm nghĩa phát xuất]
từ nơi tâm. Nếu thêm vào chữ Khẩu th́ Niệm (唸) sẽ có nghĩa là rên rỉ, chứ
không có nghĩa là ức niệm (nghĩ nhớ) nữa. Bài
thơ của bà hay lắm, nhưng chớ nên thường
làm thơ. Bởi lẽ, thường làm thơ th́ trong tâm
sẽ thường chú trọng cân nhắc, chọn lựa
từ ngữ, niệm Phật sẽ trở thành chuyện
ngoài da, làm thơ trở thành chuyện cốt tủy! Làm
sao đạt lợi ích chân thật nơi niệm Phật
cho được? Hết thảy văn nhân hễ muốn
đạt được lợi ích thật sự đều
phải nên như vậy. Huống chi bà là nữ nhân, há nên
dùng thơ ca để được nổi danh ư? Phàm
đối với những kinh sách giảng nói Phật pháp
đều phải nên cung kính, chớ nên khinh nhờn! Muốn
tặng cho người khác th́ trước đấy phải
đem điều này răn nhắc họ, ngơ hầu họ
chẳng đến nỗi lầm lỡ gây nên tội báo!
77. Thư trả lời cư
sĩ Huệ Trung
Trong khi gặp nguy hiểm lớn
lao, niệm Phật một tiếng liền không c̣n nguy hiểm,
đủ biết từ trước đến giờ bọn
nhà Nho báng Phật là tự lầm, lầm người, tội
vừa sâu lại vừa nặng! Đă vừa niệm liền
được gia bị th́ khi lâm chung văng sanh cũng sẽ
vô ngại, cố nhiên nên cực lực đề xướng.
Những chữ được in màu đỏ trên tờ giấy
in lá thư của Quang chỉ nên hơi có màu sắc đôi
chút, há nên in màu đỏ thật đậm, ngay cả màu
của những chữ in kèm thêm cũng đă quá đỏ,
huống hồ tám chữ “chư
ác mạc tác…” (đừng làm các điều ác…)! Đúng
là trở thành rối loạn, mắt già quáng ḷa, đều
chẳng biết là câu văn ǵ? Ông in kiểu này đủ
biết là chẳng thông cảm cho người khác quá sức!
Chính ông đọc được, chứ nếu có ai nh́n
chẳng rơ, chắc là sẽ đến nỗi hỏng việc,
há nên làm cho lá thư của tôi khiến cho người
đọc phải hao tốn tâm lực, mục lực, rốt
cuộc có ích ǵ cho chính ḿnh đâu? Cái thói thông tục ấy
vàn muôn phần chớ nên dùng. Hễ dùng sẽ bị tổn
phước, lại c̣n chuốc lấy sự ghét bực,
chê trách của người khác!
78. Thư gởi cư sĩ
Dương Huệ Thông
Cổ nhân nói: “Cái quan phương thành định luận” (Đậy
nắp quan tài rồi mới bàn luận [công hay tội của
một người] chắc chắn được). Bởi
lẽ phàm phu đầy dẫy phiền năo bị duyên nghiệp
xoay chuyển, chưa đến lúc tay chân buông xuôi th́
thường phải dè dặt, kinh sợ như vào vực
sâu, đi trên băng mỏng, sợ hăm, sợ đọa.
Đến lúc chân tay buông xuôi mới nói: “Ta biết nay đă tránh được!” Trong triều
đại trước có một vị quan lớn tên X… học
vấn, công nghiệp, phẩm hạnh cả cơi đời
đều khâm phục. Từ sáu mươi tuổi trở
đi liền buông lung vô độ, danh dự của ông X…
bị tụt xuống vạn trượng. Thật
đáng tiếc, đáng thương! Trong số những
người học Phật xưa nay cũng có những kẻ
thoạt đầu th́ tri kiến thật cao, cực lực
tự lợi, lợi tha, về sau tri kiến tà vạy,
sai lầm, lại c̣n dẫn dắt mọi người học
theo tri kiến tà vạy, lầm lạc của chính ḿnh,
đáng buồn, đáng đau! Xét đến căn nguyên v́
sao mắc phải bệnh ấy th́ đều là do thích
đội mũ cao đến nỗi những kẻ không
hiểu biết đều tạo mũ cao cho kẻ ấy
đội. Đội lâu ngày, chánh tri chánh kiến đă mất,
hoàn toàn biến thành tà tri tà kiến, dẫu muốn cứu
giúp th́ kẻ ấy sẽ ngược ngạo tuốt gươm
chống đối, chỉ đành để mặc cho hắn
làm sao th́ làm! Phàm những ai hảo tâm học Phật đều
phải khuyên họ lập chí tự phản tỉnh ngơ hầu
chẳng đến nỗi trở thành kết quả giống
như thế ấy.
Trước kia gởi mười
trang câu đối, nay viết cho ông sáu đôi. Một là
Thích Ca, hai là Di Đà, ba là Địa Tạng, bốn đôi
câu đối dùng chung cho Tam Thánh. Do tinh thần không đủ
nên vế dưới trong đôi câu đối này cũng
chiếu theo vế trên để viết. Xin ông hăy cân nhắc,
điều chỉnh để sắp xếp lại. Đôi
câu đối này đă được sửa rất hay nên
cũng không cần phải viết lại câu khác. Đôi câu
đối thứ năm và thứ sáu chính là để treo
nơi pḥng khách hoặc liêu pḥng của người học
Phật đều được. Tôi có viết cho người
khác ba đôi câu đối nữa, tổng cộng là chín
đôi. Có hai câu bị sót mất một chữ nên chẳng
thể dùng được, phải bỏ đi, nên chỉ
viết chín đôi. Đem gởi sáu đôi bằng thư bảo
đảm, xin hăy thâu nhận. Quang già rồi, tinh thần lẫn
mục lực không đủ, từ nay nếu có ai cậy
ông nhờ tôi viết câu đối giùm th́ xin hăy mềm mỏng
từ chối, đừng đáp ứng. Nghe nói trước
kia ở Thương Vụ Ấn Thư Quán, ông Phí Phạm
Cửu đă đem bức vẽ Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán
Âm và h́nh Quán Âm do ông Diêm Lập Bổn vẽ, thêm vào đôi
câu đối của sư Hoằng Nhất và câu đối
của Quang, cùng bán với giá mỗi bức một đồng.
Thầy Diệu Chân do thấy câu đối không phù hợp
với tượng, xin Quang soạn hai đôi câu đối
khác. Câu đối cho tượng Thiên Thủ Thiên Nhăn là:
Đại
Sĩ hiện thiên thủ nhăn, biến huề phổ chiếu.
Chúng
sanh đương nhất tâm niệm, quy mạng đầu
thành.
(Đại Sĩ hiện ngàn mắt,
ngàn tay, nâng đỡ, chiếu soi trọn khắp,
Chúng sanh hăy một ḷng tâm niệm,
quy mạng, gieo hết ḷng thành)
Câu đối dành cho tượng
Quán Âm vẽ bởi ông Diêm là:
Diệu
tướng trang nghiêm, biến nhiếp thứ loại,
Bi
tâm trắc thản, phổ độ quần manh.
(Diệu
tướng trang nghiêm, nhiếp khắp các loài,
Bi tâm lồng lộng, độ
trọn quần manh)
Tôi nhớ không rơ ràng, nhưng ư
nghĩa cố nhiên không trái nghịch. Ông Phí Phạm Cửu
in một vạn tấm cho người ta thỉnh chỉ
tốn một đồng, muốn xin Quang viết chữ
th́ hăy thỉnh hai tượng ấy ḥng có được
hai đôi câu đối ấy để thờ khiến
cho kẻ thấy nghe sanh ḷng chánh tín.
79. Thư trả lời cư
sĩ Vương Thủ Thiện
Ông phát tâm trông giữ mộ phần
để mong lệnh từ hễ chưa văng sanh sẽ
được văng sanh, đă văng sanh liền tăng cao phẩm
sen th́ hăy nên niệm Phật hiệu. Mỗi ngày chia ra làm
hai thời đọc Tịnh Độ Ngũ Kinh. Kinh Kim
Cang công đức tuy lớn, nhưng chưa nêu tỏ
được pháp môn Tịnh Độ nên chẳng bằng
xem Tịnh Độ Ngũ Kinh th́ người mất lẫn
kẻ c̣n đều có lợi ích thật sự. Niệm
chú Đại Bi th́ cũng dành ra một thời, ngoài ra hăy
chuyên nhất niệm Phật. Khi niệm, từng câu từng
chữ ắt phải nghe cho rơ ràng rành rẽ. Dẫu niệm
thầm trong tâm cũng phải nghe cho rơ ràng!
80. Thư trả lời cư
sĩ Triệu Dung
Đọc thư ông, có thể
nói là “đă khổ c̣n chồng thêm khổ!” Cần phải
sanh ḷng cảm kích, chớ nên bảo “tu tŕ chẳng có ích ǵ”,
rồi sanh ḷng lui sụt, biếng nhác cũng như oán trời,
hờn người. Hăy nên biết rằng: Do túc nghiệp,
ông đáng phải gánh chịu nỗi khổ lớn lao, do
tu tŕ nên đă biến khổ nặng thành nhẹ. Từ
nay trở đi, chuyện ǵ cũng lợi người,
tâm luôn tự phản tỉnh th́ cảnh ngộ mai sau sẽ
có thể chuyển thành tốt đẹp. Cần biết
rằng: Nghiệp của chúng ta trong đời trước
sâu như biển cả, tội cao tầy Tu Di. Tuy cảnh
ngộ không tốt nhưng vẫn chưa đến nỗi
quá đáng. Hăy nghĩ lại bao nhiêu kẻ đại phú
đại quư nhà tan người chết, huống chi ta
đời trước không có phước, nay vẫn
chưa đến nỗi đói rét, so với những t́nh
cảnh khổ sở của họ vẫn c̣n tốt đẹp
hơn vạn lần! Hăy lấy “khuyên người niệm
Phật cầu sanh Tây Phương” làm pháp tự lợi, lợi
người. Nếu tâm chân thành th́ nghiệp tiêu, phước
tăng, sẽ dần dần yên vui, thảnh thơi vậy!
XI. Những
bài viết khác
1. Biện
định sai ngoa trong lời tựa tác phẩm Bách Trượng
Thanh Quy
Xét ra,
Bách Trượng thiền sư sanh vào năm thứ chín (720)
đời Đường Huyền Tông, thọ chín
mươi lăm tuổi, đến tháng Giêng năm Nguyên
Ḥa thứ chín (814) đời Đường Hiến Tông
bèn quy tịch. Chương đầu tiên trong bộ Thanh
Quy do Ngài biên soạn chính là phần Chúc Ly, chương kế
tiếp là Báo Ân, chương tiếp theo đó là Báo Bổn[40].
Đây những thứ Phật sự hết sức quan trọng,
trang nghiêm, nếu không có Phật điện th́ nên cử
hành ở nơi đâu? Từ sau khi ngài Bách Trượng
viên tịch, hơn hai trăm năm, đến năm Cảnh
Đức nguyên niên (1004) đời Tống Chân Tông,
Dương Ức[41]
viết lời tựa cho bộ Thanh Quy, đối với
quy định: “Bất lập
Phật điện, duy thụ pháp đường” (Chẳng
lập Phật điện, chỉ dựng pháp đường)
liền cho rằng câu này rất hợp với lời Phật
và Tổ đích thân dặn ḍ, đương thời đều
tôn trọng ư kiến ấy. Trộm ngờ [câu ấy phải
là]: “Tiền lập Phật
điện, hậu thụ pháp đường” (Lập
Phật điện trước rồi mới dụng pháp
đường) th́ mới phù hợp với ư Phật, Tổ
đích thân dặn ḍ; nhưng gần một ngàn năm qua,
không ai sửa cho đúng! Nay Hoằng Trữ thiền sư
cũng dựa theo đó để luận đoán, khôn
ngăn đau ḷng buốt óc!
Chùa Thiền không có Phật
điện th́ sẽ hoàn toàn chẳng có tượng Phật
ư? Hay là thờ Phật trong căn nhà nhỏ ở bên cạnh
[pháp đường]? Vâng thánh chỉ chúc ly ở gian nhà phụ
nhỏ nhoi th́ chẳng những khinh Phật mà c̣n khinh vua cũng
lớn lắm thay! Do chuyện này biết chữ Bất,
chữ Duy ở đây chính là chữ Tiền và chữ Hậu
bị chép sai. Bản Thanh Quy Chứng Nghĩa được
khắc ở Dương Châu đă được sửa
đổi cho đúng. Nay tôi tỵ nạn sang Linh Nham, thấy
họ sao lục bản của Trữ Công để soạn
bài kư xây dựng điện Bảo Vương, rất sợ
sẽ đem sai ngoa truyền sai ngoa khiến cho ngài Bách
Trượng là vị thầy gương mẫu của trời
lẫn người rốt cuộc bị vu báng có hành vi của
tà ma, ngoại đạo. Do vậy, biện luận đại
lược để mong những bậc thông sáng trong mai
sau ai nấy tôn Phật kính Tổ, duy tŕ pháp đạo
không suy sụp vậy. Hiểu cho tôi hay trách tội tôi, tôi
đều chẳng màng!
2. Lời
tựa ấn hành bộ Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên
Pháp môn Tịnh
Độ lớn lao [không ǵ] ra ngoài [phạm vi của nó]
được, như trời che khắp, như đất
nâng đều. Không một pháp nào chẳng được
kiến lập từ pháp này, không một ai chẳng
được pháp này un đúc. Do hết thảy các pháp
Đại, Tiểu Thừa đức Như Lai đă nói
trong suốt một đời đều là tùy theo căn
tánh của chúng sanh mà nói, hoặc khế lư nhưng chẳng
thể khế hợp khắp mọi căn cơ; hoặc
khế cơ nhưng chẳng thể khế hợp chí lư
(lư tột cùng) một cách triệt để. V́ thế, bản
hoài xuất thế độ sanh của đức Như
Lai bị khuất lấp chưa được thông suốt,
đại pháp khiến cho chúng sanh được liễu
thoát ngay trong đời này c̣n bị ẩn kín chưa
được tỏ bày. [Pháp hội] Hoa Nghiêm tuy đă
hướng dẫn về Tây Phương, nhưng hàng Nhân,
Thiên, Quyền Thừa [Bồ Tát] chưa được
nghe. Các kinh cũng nhiều phen nói đại lược những
đầu mối tốt lành, nhưng cương yếu của
pháp môn chưa được đặt để. Do vậy,
đức Như Lai khởi ḷng Vô Duyên Từ, vận tâm
Đồng Thể Bi, trong hội Phương Đẳng
đặc biệt nói ba kinh Tịnh Độ Di Đà,
độ khắp ba căn, thâu trọn chín giới, xiển
dương đạo mầu thành thủy thành chung của
Như Lai, dạy cho chúng sanh quy mô vĩ đại “tâm làm, tâm là”. Cơ lẫn lư
đều khế hợp, phàm lẫn thánh đều
được nhờ, như thuốc A Già Đà trị
chung vạn bệnh, như mười phương hư
không bao hàm trọn muôn h́nh tượng, khiến cho khắp
thánh - phàm đều thành tựu đạo nghiệp trong
đời hiện tại, tỏ bày thông suốt bản
hoài xuất thế độ sanh của Như Lai! Nếu
đức Như Lai chẳng nói pháp này th́ chúng sanh đời
Mạt Pháp không một ai có thể liễu thoát sanh tử
ngay trong một đời này được!
Quang túc nghiệp
sâu nặng, sanh nhằm làng quê đoạn diệt Phật
pháp, mới sanh được nửa năm, lại đau
khổ v́ mắt nhắm nghiền sáu tháng. Đến tuổi
đi học, bao lượt gặp cảnh giặc cướp,
binh đao quấy nhiễu. Vừa có chút hiểu biết,
lại trúng phải chất độc báng Phật của
bọn Tŕnh - Châu. May là học thức hoàn toàn chẳng có
ǵ, chẳng thể tạo nghiệp hăm trong A Tỳ ngay
trong khi c̣n sống. Nếu tài trí được như bọn
họ, ắt sẽ đến nỗi tạo tội khiên mười phương
hư không chẳng thể dung. Do ư ác ấy, mắc bệnh
khổ lâu dài, suốt mấy năm hệt như phế
nhân. Một ngày nọ mới biết ḿnh lầm lạc,
bèn xuất gia làm Tăng mong diệt tội lỗi. Tông -
Giáo lư sâu không có sức nghiên cứu, Tịnh Độ
đạo lớn quyết chí tuân hành, toan làm một ông
Tăng chỉ biết cơm cháo, chỉ lo tự độ,
chẳng mơ hoằng pháp lợi sanh! Năm ba mươi
ba tuổi, đến chùa Pháp Vũ núi Phổ Đà, Trụ
Tŕ là ḥa thượng Hóa Văn biết Quang chỉ biết
ăn cơm, không làm chuyện chi khác được, bèn cho
làm thực khách thường xuyên, chẳng giao phó chút việc
cỏn con ǵ. Hơn hai mươi năm cũng khá
được an lạc, suốt năm không một ai
đến thăm, không nhận được một lá
thư nào.
Năm Tuyên
Thống thứ ba (1911), tờ Phật Học Tùng Báo
được phát hành tại Thượng Hải, ông Cao Hạc
Niên mấy lần gởi báo qua bưu điện cho xem. Thấy
những văn tự được in trong báo ấy phần
nhiều hợp công đạo, nhưng những điều
lạm bàn về chánh trị trong báo có chỗ hơi thiên vị,
tôi trộm sợ rằng có người sẽ viện vào
chuyện ấy để chê cười Phật pháp, bèn
dùng cái tên Vân Thủy Tăng Thường Tàm để gởi
thư xin nhà báo hăy lập luận cho công bằng, đừng
để ngọc đẹp có vết, nhưng những vị
biên tập trọn chẳng thèm để mắt đến.
Về sau, ông Hạc Niên lên núi này, tôi kể đầu
đuôi; ông ta bèn đem mấy thiên cảo văn
đăng báo, kư tên là Thường Tàm, chẳng một ai
biết đến.
Năm Dân
Quốc thứ sáu (1917), ông Từ Úy Như nhận
được ba lá thư từ bạn hữu, bèn in ra
năm ngàn bản, đặt tựa là Ấn Quang Pháp
Sư Tín Cảo (bản thảo thư từ của pháp
sư Ấn Quang) tặng cho mọi người. Năm Dân
Quốc thứ bảy (1918), ông thâu thập được
hơn hai mươi bức thư nữa, đem in tại
Bắc Kinh, đặt tựa là Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao, đem sách ấy đến Phổ Đà xin quy
y. Quang bảo ông ta quy y với ngài Đế Nhàn. Năm Dân
Quốc thứ tám (1919), lại in bộ Tục Biên. Mùa Thu
năm ấy, mẹ ông mất tại nơi cư ngụ ở
đất Thân (Thượng Hải). Tang ma xong xuôi, bèn nhờ
Thương Vụ Ấn Thư Quán ghép bộ Sơ Biên và
Tục Biên thành một bộ, in thành một tập. Năm
Dân Quốc 12 (1923), Quang bảo Thương Vụ Ấn
Thư Quán in riêng bản Tăng Đính, chia làm bốn quyển,
lưu bản[42].
Lần đầu, in hai vạn bộ. Năm Dân Quốc 14
(1925), lại cho Trung Hoa Thư Cục in bản Tăng Quảng,
vẫn chia thành bốn quyển. Từ đấy, bất
luận văn tự ǵ cũng đều nhất loạt
không lưu lại bản nháp nữa, một là để
khỏi lăng phí tiền tài thí chủ, hai là chẳng đến
nỗi làm gai mắt huệ của người thông sáng.
Năm Dân
Quốc 19 (1930), tôi yểm quan tại chùa Báo Quốc ở
Tô Châu, vị Đương Gia[43]
[chùa ấy] là thầy Minh Đạo cho người sao trộm.
Năm Dân Quốc 24 (1935), thầy ấy qua đời mới
thôi. Năm Dân Quốc 26 (1937), Quang tỵ nạn tại
Linh Nham Sơn, người sao chép bèn giao bản cảo cho
vị Đương Gia [chùa Linh Nham] là thầy Diệu
Chân. Thầy Diệu Chân lại cho sao lục những bài viết
từ các tờ bán nguyệt san. Quang biết, nhưng lọt
vào thế không làm ǵ được, chỉ đành giảo
duyệt kỹ càng để in, ḥng măn nguyện thầy ấy.
Quang lúc nhỏ kém học vấn, lớn lên chẳng biết
ǵ, văn cực vụng về, chất phác, chẳng
đáng lọt vào mắt. Nhưng những điều Quang
nói đều dựa theo ư kinh Phật, lời Tổ rồi
tùy cơ nói giản lược đó thôi, chẳng dám vọng
sanh ư kiến khác gây lầm lạc cho người khác, lại
thêm vào đó những ǵ ḿnh đă từng trải hơn
năm mươi năm. Nếu chịu bỏ qua văn
để nắm lấy ư nghĩa, ắt có thể coi [Văn
Sao] như một cột mốc gỗ [44]
để chỉ thẳng chuyện Tây quy cũng chẳng
ngại ǵ! Xin hăy dốc sức về Tây, dũng mănh tiến
thẳng lên phía trước. Chớ v́ cột mốc gỗ
này xấu hèn mà chẳng muốn thấy lộ tŕnh về
Tây th́ người dựng mốc lẫn người quy
Tây đều cùng chẳng tiếc nuối.
Thêm nữa,
bộ Sơ Biên tuy đă in hơn mười vạn bộ,
nhưng bậc đại thông gia thấy sách này chỉ
chuyên nói đến chuyện “tín nguyện niệm Phật,
nhân quả báo ứng, giữ vẹn luân thường, tận
hết bổn phận, giáo dục gia đ́nh”, toàn là những
lời văn nôm na khuyên đời, trọn chẳng phải
là những lời lẽ “vén mây thấy trăng, mở cửa
thấy núi” mở rộng tâm mục cho người, tỏ
bày thông suốt bản hoài của Phật, cho nên coi như
đồ bỏ. Cũng có những người cùng một
căn tánh như Quang, xem [bộ sách này] như diệu bảo.
Do đây mà người bỏ mê theo ngộ, bỏ tà về
chánh, sống giữ vẹn luân thường, mất sanh về
Cực Lạc đông lắm. Bộ Tục Biên ngoài những
điều đă nói như trong bộ Sơ Biên, c̣n thêm những
chuyện như “[khuyên] sản phụ niệm Quán Âm, sữa
[hóa thành chất] độc [do người mẹ nóng giận]
giết chết con cái”. Đấy đều là những
điều cao tăng, thầy thuốc xưa nay chưa hề
nói đến mà Quang cứ nhắc đi nhắc lại.
Cổ nhân
nếu chẳng phải là tướng giỏi th́ cũng
là lương y, chỉ mong giúp đời, cứu sống
người. Quang là ông Tăng vô tri vô thức chỉ biết
đến cơm cháo, do một ḿnh ông Từ Úy Như lan
truyền cái hư danh, rốt cuộc muôn người nhận
tiếng hư, đón tiếng vang, ngỡ là thật, xem
như thiện tri thức. Họ đă “đem sai ngoa truyền
sai ngoa”, Quang chẳng ngại “dùng lầm lạc đáp tạ
lầm lạc”, dạy người sống có nơi
nương tựa, lúc mất có chỗ quy túc, sanh nở
không gặp ách nạn, con chẳng bị chết đột
ngột để tận hết tấm ḷng tôi. Dẫu gai
con mắt huệ của bậc thông hiểu, nhưng v́ có
ích cho người, không gây hại cho đời, nên bèn tùy
thuận ư của hai thầy Minh Đạo, Diệu Chân cho
lưu thông [sách này] và lược thuật duyên khởi. Hiểu
tôi hay bắt tội tôi, đều không màng đến vậy!
3. Khai thị
về quy củ đả thất tại Linh Nham
(nói
với hàng đệ tử tại gia)
Quy củ
của Linh Nham do Quang lập ra không giống với các tùng
lâm trong thiên hạ (chỉ có chùa Di Đà ở Hàng Châu
là gần giống. Quy củ nơi ấy cũng do Quang lập,
sau này họ pha thêm đôi chút thói thù tiếp, cũng tổ
chức pháp hội Diệm Khẩu).
Công khóa quanh năm giống như đả thất, có ai
thỉnh mở Phật thất th́ chẳng qua là thêm vào ba
lượt hồi hướng mà thôi. Bất luận thỉnh
[Tăng sĩ tham dự Phật thất] nhiều hay ít, cả
chùa đều niệm giống như thường lệ.
Tất cả những tiền cúng dường liền chia
đều cho cả chùa lẫn ngoại liêu, không thiên vị,
không bè phái, chẳng để cho v́ chia nhiều hay chia ít mà
khởi lên tranh chấp. Cứ nhất loạt niệm giống
như nhau, nhất loại chia đều tiền cúng
dường như nhau. Chỉ có điều thí chủ thỉnh
nhiều vị Tăng tham dự th́ họ được
công đức của nhiều người; do vậy, không
một ai chẳng niệm. Nếu theo quy cách như những
nơi khác th́ kẻ tham dự Phật thất sẽ đả
thất, c̣n kẻ chẳng đả thất sẽ chơi
không, công khóa bị gián đoạn, Tăng chúng sẽ do được
chia hay không [mà khởi lên đố kỵ]. Cách này quả
thật là phương pháp bậc nhất từ trước
đến nay chưa từng có để mở khóa tu Phật
thất theo yêu cầu. V́ thế người ta đa số
thích mở Phật thất tại Linh Nham.
4. Kệ
viết về xá-lợi
Như
Lai không sanh - diệt, chúng sanh có tội - phước.
Phước cảm Phật xuất thế, tội cảm
Phật nhập diệt. Phật tuy hiện nhập diệt,
vẫn chẳng bỏ chúng sanh. V́ thế lưu xá-lợi,
làm nhân duyên đắc độ. Nên biết xá-lợi này,
chính là thân đức Phật, cũng là Pháp Thân Phật, nên
chiêm lễ cúng dường, hăy nghiêm túc tuân phụng, lời
đức Như Lai dạy, chuyên tu pháp Tịnh Độ,
mau thoát cơi Ngũ Trược, ḥng thỏa Phật bổn
hoài.
5. Bài tán
chúc nguyện trong lễ đặt móng xây dựng điện
Di Lặc mới của Linh Nham
Nghĩ
tưởng địa thần, hộ pháp công sâu, Di Lặc
lâu các lại được dựng xây mới mẻ, nguyện
vận tâm bảo hộ, khiến cho pháp môn này muôn đời
không trắc trở.
6. Bài ca tụng
sự quy Tây của Vương Thái Phu Nhân mẹ ông
Trương
Cao đẹp
thay Trương mẫu! Sẵn có huệ căn từ
đời trước, bẩm tánh hiền thiện, hiền
từ mềm mỏng như mùa Xuân, đức dầy
chuyên chở phước, cứu giúp trọn khắp kẻ
đói nghèo, con cháu đều khâm phục, ca ngợi măi dấu
lân[45].
7. Lời
bạt cho Kính Thứ Đường
Quen biết
cư sĩ Đào Di đă nhiều năm, tôi thấy ông ta
khiêm nhường, cung kính, nghiêm cẩn, biết là ông ta được
bẩm thụ [sự giáo dưỡng] đă lâu xa. Nay ông ta
sai tôi đề tên ngôi nhà này, cho biết tiên phụ là Dịch
Phủ Công dựng ba gian nhà, đặt tên là Kính Thứ
(tôn kính và khoan dung), ấy là muốn cho con cháu đời
sau vĩnh viễn lấy đó làm mực thước. Ư cụ
muốn thỉnh người có đức để đề
tên cho ngôi nhà, bất hạnh thay cụ sống ở
nơi ấy chín ngày liền khuất bóng. Đào Di và
người anh thứ hai kính cẩn vâng theo chí cha, bốn
mươi năm qua vẫn chưa đề biển ngạch.
Cậy Quang đề biển, chẳng quan tâm Quang là kẻ
khéo hay vụng. Quang thẹn thiếu đức, lại viết
chữ chẳng đẹp, toan làm chuyện tắc trách
để đáp tạ lời thỉnh.
8. Những
nghĩa lư trọng yếu dành cho nghề thuốc và xem
tướng
Có tâm
nhưng chưa có tướng, tướng sẽ thuận
theo tâm mà sanh. Có tướng nhưng thiếu tâm, tướng
sẽ theo tâm diệt. Đem bốn câu này nói với hết
thảy mọi người khiến cho những kẻ có
tướng tốt sẽ gắng sức, kẻ không có
tướng tốt tận lực tu tập. [Người
nghe] sẽ mong sao hễ có tướng tốt th́ sẽ
vĩnh viễn giữ được vẻ tốt đẹp
ấy, tướng xấu th́ sẽ biến thành tốt.
Thầy coi tướng thường đem điều này bảo
với khách [đến xem bói] th́ chính là sống trong cơi trần
mà thực hiện sự cai trị, dùng bói toán để
khuyến hóa dân chúng. Công đức ấy thù thắng nhất!
Đem công đức ấy hồi hướng Tây
Phương nhất định được măn nguyện.
Đạo để tận lực gắng công, tận lực
tu tập không ngoài giữ vẹn luân thường, trọn
hết bổn phận, dứt ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng
làm các điều ác, vâng làm các điều lành, tín nguyện
niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Dùng những
điều này để tự hành, lại c̣n dạy
người th́ c̣n có thể siêu phàm nhập thánh, huống
là phú quư, phước trạch mấy chục năm trong thế
gian ư? Thầy thuốc khám bệnh cũng nên chú ư tới
điều này. Ai làm được như thế th́ gọi
là thầy thuốc chân thật, là đệ tử chân thật
của đấng Đại Y Vương vậy.
9. Những
chuyện thoát nạn
Người nữ ấy
chưa tới số chết nên ngồi phía ngoài xe hơi.
Đến khi xe lọt xuống sông, liền văng lên trên
bờ nên trọn chẳng ướt quần áo. Ấy là
v́ lúc bà ta ngồi xe, Phật, trời, quỷ thần
đă sắp đặt sẵn cách cứu giúp. Có lẽ là
như vậy. Lại nữa, năm Dân Quốc mười
mấy, Phan Đối Phù trùng tu chùa Tịnh Cư ở Tế
Nam. Trong lễ khai quang có tổ chức hát tuồng, khách
đến rất đông. Có một người dẫn
theo một đứa bé, đứng xem [tuồng] bên giếng.
Đứa bé lọt xuống giếng, lập tức sai
người xuống giếng ṃ, dưới nước
không có vật ǵ cả! Dùng sào tre khuấy khắp đáy giếng
cũng không có vật ǵ. Người ấy trở về
nhà th́ đứa bé đang ngủ trong nhà như si, như
ngốc, quần áo đều ướt đẫm. Hỏi
làm sao về được nhà, nó nói không biết. Do vậy,
khắc một tấm bia, lập một ngôi đ́nh, đặt
tên cho giếng ấy là Thánh Tỉnh (giếng thánh), đem
chuyện này gởi cho Quang. Quang đưa cho thầy Diệu
Chân, thầy Diệu Chân đem dán lên bảng treo trong nhà
khách ở tầng dưới đại điện chùa
Thái B́nh. Đem chuyện này đưa cho Mộng Am bảo
ông ta hăy suy đoán giấc mộng này!
Năm Dân Quốc 27 (1938), tôi tỵ nạn sang Âu Giang
ở qua Tết. Cuối tháng Chạp, có một chiếc xe
hơi chạy theo công lộ từ Thanh Điền tới
Kim Hoa. Xe chạy từ chập tối, tới chỗ đồng
hoang bên bờ sông cách Lệ Thủy mấy chục dặm,
tài xế không cẩn thận, xe bị lọt xuống
sông. Khách ngồi xe bốn mươi mấy người
đều ch́m lỉm. Mờ sáng ngày hôm sau, những người
tới trước để lo cứu vớt [thấy] có
một phụ nữ tuổi khoảng ba mươi, ngồi
bên bờ sông như si, như say. Hỏi: “Từ đâu
đến?” Đáp: “Tối hôm qua ngồi xe tới
đây”. Hỏi: “Cả xe gặp tai nạn, sao bà không bị
ǵ?” Thưa: “Không biết”. Vặn hỏi t́nh huống lúc ấy
cũng chẳng hiểu rơ. Suốt mấy ngày báo chí hai
nơi đăng tải, không ai chẳng hít hà than lạ!
Sau khi tôi trở về núi, từng đem bài báo ấy thưa
tŕnh cặn kẽ với thầy (tức tổ Ấn
Quang), khi ấy cũng chỉ cùng nhau than là lạ. Tôi trở
về liêu xá, sau đấy Sư sai người hầu
đem đoạn văn trên đây đưa cho xem. Xem xong
kẹp trong sách, cũng chưa từng đọc lại. Nay
thầy đă văng sanh, mới đặc biệt lôi ra kiểm
lại để dán bồi tờ giấy ấy. Chữ
tàn lẻ loi sót lại, chỉ c̣n được một phần
ánh sáng tốt lành. Từng nhớ ông X… có ghi chép, giữ ǵn
được bài viết về chuyện ông Vương Hữu
Quân bán rượu mấy cân, trân quư dị thường.
Như vậy giá trị của mảnh giấy này của
thầy tôi chẳng cần phải đợi đến
năm nào mới b́nh luận, lượng định nữa.
Kính cẩn viết vào hai hôm trước ngày Trừ Tịch
(ba mươi Tết) năm Canh Th́n (1940). Năm Tân Tỵ
(1941), mấy hôm sau bữa hoa nở, viết tại Dưỡng
Tâm Thất của Linh Nham Sơn Tự. Ngày Hai Mươi
Hai tháng Mười năm Giáp Ngọ (1954), kính vâng lời dạy
của Diệu Chân thượng nhân mà kính cẩn chép lại.
Đệ tử Huệ Kiến ghi vào năm bảy
mươi bảy tuổi (Huệ Kiến là pháp danh của
Mộng Am).
10. Lời
tiểu dẫn cho tập sách Danh Hiền Đề Vịnh
(viết
thay cho Linh Nham Thường Trụ)
Quư khách
đến ở, chùa cổ sáng ngời. Riêng soạn sách vụng,
cầu đề lời hay, để trấn tam quan, kết
hương liên xă. Trăm năm măn thọ, cùng về Tây
Phương.
11. Hậu
thân của thi nhân Trương Vĩnh Phu
Trương
Vĩnh Phu giỏi làm thơ, tánh t́nh tỉ mỉ. Khi chết,
bạn ông ta là Thịnh Thanh Lũ chôn [họ Trương]
bên sườn núi Linh Nham. Mười tám năm sau, nhằm
ngày sinh nhật của Thanh Lũ, một viên quan Hàn Lâm c̣n
đang trong độ tuổi thiếu niên đến mừng
sinh nhật. Chàng thiếu niên ấy chính là hậu thân của
Vĩnh Phu vậy.
12. Trả
lời câu hỏi giùm bạn của ông Đinh Phước
Bảo
Lệnh
hữu hỏi về chuyện “dùng Quả Địa Giác
để làm Nhân Địa Tâm”. Đấy là v́ một câu
A Di Đà Phật vạn đức hồng danh đă bao
nhiếp hết sạch Bồ Đề giác đạo do
đức A Di Đà Phật đă chứng. Chúng sanh niệm
Phật nếu có thể khẩn thiết chấp tŕ ức
niệm chính là dùng quả đức của Phật Di
Đà để xông ướp vọng tâm nghiệp thức
của chính ḿnh. Xông lâu ngày chầy tháng, nghiệp tận
t́nh không, tâm hợp với Phật, tâm hợp với đạo,
toàn bộ cái tâm chúng sanh biến thành Như Lai Tạng. Nhân
trùm biển quả, quả tột nguồn nhân. Dùng Quả
Địa Giác làm Nhân Địa Tâm là như thế đấy.
XII.
Văn sớ
1. Văn
sớ dành cho Phật Thất nhằm gieo phước cầu
con
Nép trông:
Phật quang chiếu khắp, như vầng trăng Thu giữa
hư không. Pháp hóa lưu hành như mưa đúng thời
nhuần thấm muôn vật. Sở cầu đều toại,
không nguyện nào chẳng thỏa. Kính cẩn kêu cầu bậc
sẵn ḷng Từ mênh mông rủ ḷng soi xét.
Nay có chùa… tại danh
sơn… ở huyện… tỉnh… thuộc Nam Thiệm Bộ
Châu trong tứ thiên hạ, kính phụng hành di giáo của
Thích Ca Như Lai, chủ tu pháp sự công đức là sa-môn….
do nay có tín nam (hay tín nữ)… cư trụ tại xóm… làng…
huyện... tỉnh… thờ Phật, sắp đặt cỗ
chay, gieo phước, tăng thọ, cầu sanh con nối ḍng, nhất tâm khấu đầu
trước các ṭa sen vàng của Sa Bà giáo chủ Thích Ca
Văn Phật, Cực Lạc thế giới A Di Đà
Phật, Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Như Lai, hiện
tọa đạo tràng Quán Âm Đại Sĩ, mười
phương tam thế vô tận Tam Bảo, nguyện dơi mắt
sen, xét soi tấm ḷng tha thiết mong ngóng. Đệ tử
tha thiết nghĩ ḿnh lạm phần sanh nhằm đời
thịnh, thẹn dự vào loài người, tuổi đă
ngoài bốn mươi mà vẫn chẳng có một đứa
con nào. Nói chung là do túc nghiệp sâu dầy, thiện căn
hiện đời yếu nhỏ, đến nỗi thiếu
con nối ḍng, chẳng thể nguôi tấm ḷng phụng thừa
đời trước, mở mang đời sau được.
Phước huệ cạn mỏng, không cách nào làm chuyện
yêu vật thương người. Do vậy đặc biệt
phát ḷng Thành, cung thỉnh chùa… mở một hội Phật
thất, khai đàn vào ngày… tháng… cung thỉnh… (bao nhiêu vị)
sư tăng giới đức suốt ngày xưng niệm
hồng danh thánh hiệu Vô Lượng Thọ Như Lai cho
đến ngày… th́ viên măn. Lại trong ngày… mở một hội
Diệm Khẩu Phổ Tế Cô Hồn, vào ngày… thiết một
hội Như Ư Đại Trai, lại đem… (bao nhiêu) tiền
giúp tu bổ Thiên Vương Bảo Điện.
Dùng công đức này
chuyên cầu Phật rủ ḷng Từ gia bị, pháp nhuận
rộng sâu, sương tội tiêu tan, núi thọ chót vót. Lân
đá giáng[46]
để che giấu tội khiên của cha, con cháu đều
rạng danh thơm. Lại cầu tổ tiên cùng sanh về
Lạc Bang, quyến thuộc hiện đời đều
tăng phước thọ. Lại cầu mưa thuận
gió ḥa, dân yên, vật mạnh. Can qua vĩnh viễn chấm
dứt, trong ngoài nước đều hiệp ḥa. Báo trọn
bốn ân, giúp khắp ba cơi. Chúng sanh trong pháp giới đều
viên thành Chủng Trí. Kính mong Tam Bảo rủ ḷng Từ chứng
minh nhiếp thọ. Kính cẩn dâng sớ tâu tŕnh cặn kẽ
nhằm lúc vận trời chuyển đúng vào ngày… tháng…
năm…
Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên
Quyển 4
Phần 5 hết
[1] Theo bộ Hợp Dương Huyện
Toàn Chí của Tôn Dậu Phong viết dưới đời
Thanh: “Hợp (洽) là do sông hợp ḍng lại mà có tên”. Sông Hợp Thủy bắt nguồn từ
vùng Tây Nguyên của Thiểm Tây, chia thành hai ḍng, chảy
đến thôn Tân Lư bèn hợp thành một nên sông có tên là Hợp
Thủy. Năm 429 trước Công Nguyên, Ngụy Văn Hầu
đi đánh nước Trịnh trở về, đă dựng
thành ở phía Bắc sông Hợp Thủy. Do thời cổ
thường gọi phía Nam núi hoặc sông là Dương,
nên thành ấy được đặt tên là Hợp
Dương. Tân Lư chính là nơi Y Doăn từng cày ruộng
trước khi ra giúp vua Thành Thanh nhà Thương. Về
sau, do Hoàng Hà đổi ḍng, phù sa tích tụ lại khiến
cho Hợp Thủy bị nghẽn ḍng, khô cạn một thời
gian, nên người ta mới bỏ bộ Thủy trong chữ
Hợp của tên gọi Hợp Dương. Bộ Ấp
(邑) khi viết kèm vào bên phải một chữ
sẽ được viết gọn thành “阝”.
[2] Đây là một câu nói trích từ thiên
Công Dă Trưởng sách Luận Ngữ. Nguyên văn: “Tử vị Tử Cống viết:
‘Nhữ dữ Hồi dă thục du?’ Đối viết: ‘Hồi
dă, văn nhất dĩ tri thập; Tứ dă, văn nhất
dĩ tri nhị’. Tử viết: Ngô dữ nhữ phất
như dă” (Khổng Tử hỏi Tử Cống:
‘Ngươi với Nhan Hồi ai vượt trội
hơn?’ Tử Cống thưa: ‘Nhan Hồi nghe một biết
mười, c̣n Tứ nghe một chỉ biết được
hai’. Khổng Tử bảo: ‘Ta với ngươi đều
chẳng bằng anh ta’). Tử Cống tên thật là Tứ,
họ Đoan Mộc.
[3] Đây là một câu nói trích từ thiên
Thuật Nhi sách Luận Ngữ. Cụ Lư Bỉnh
[4]
Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), đôi khi c̣n phiên âm
là Địa Bà Đạt Đa, Đề Bà Đạt
Đâu, hoặc gọi tắt là Điều Đạt, dịch
nghĩa là Thiên Nhiệt, Thiên Thọ, Thiên Dữ. Ông là con của
Hộc Phạn Vương (em trai vua Tịnh Phạn), là anh
ruột của A Nan. Từ lúc nhỏ, khi học các kỹ
thuật bắn tên, cưỡi ngựa, toán pháp… chung với
đức Phật và Nan Đà (em cùng cha khác mẹ của
đức Phật, con bà Kiều Đàm Di), ông luôn tỏ ra
ganh tỵ, luôn t́m cách vượt trội hai người.
Đến khi đức Phật thành đạo, ông xin theo
xuất gia, trong suốt hai mươi năm thiện tâm tu
hành, siêng ṛng không lười nhác, do chưa đắc quả
A La Hán bèn ngă ḷng, sanh ư niệm ác, muốn học thần
thông để được lợi dưỡng. Không
được đức Phật chấp thuận, ông t́m
đến Thập Lực Ca Diếp xin học thần
thông. Ông rất được thái tử A Xà Thế tin
tưởng, kính phục. Do vậy, Đề Bà Đạt
Đa càng thêm kiêu mạn, liên kết với A Xà Thế t́m
cách hăm hại để giành quyền lănh đạo
Tăng đoàn. V́ thế, Đề Bà Đạt Đa bèn
dẫn năm trăm đồ chúng tách rời Tăng
đoàn, tự xưng là đại sư, chế định
năm pháp, dối xưng hành theo năm cách ấy sẽ mau
chóng đạt tới Niết Bàn. Ông ta đă phá ḥa hợp
Tăng, lại xui A Xà Thế giết cha, tính dùng thế lực
của tân vương để hại Phật ngơ hầu
chính ḿnh sẽ trở thành pháp vương. Ông sai năm
trăm người cầm nỏ đá bắn Phật
nhưng không thành công. Ông lại đích thân lăn một tảng
đá to từ đỉnh núi Kỳ Xà Quật xuống
để mưu giết chết Phật, nhưng do thần
Kim Tỳ La dùng chày Kim Cang đánh nát ḥn đá nên chỉ một
mảnh đá nhỏ văng trúng chân Phật, chảy máu.
Ông lại sai người đem voi say toan giẫm chết
Phật tại thành Vương Xá, nhưng voi vừa trông
thấy Phật liền tỉnh rượu, mọp đầu
quy y. Trong khi ấy, hai vị Xá Lợi Phất và Mục
Liên dùng biện tài khiến cho năm trăm đệ tử
của Đề Bà tỉnh ngộ trở về với Phật,
A Xà Thế cũng được Phật giáo hóa, tỉnh
ngộ, sám hối, quy y. Đề Bà Đạt Đa tức
tối, t́m cớ đánh chết tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc,
nhuốm chất độc vào mười móng tay, giả vờ
đến đảnh lễ để cào chân Phật,
nhưng chân Phật nghiễm nhiên không bị tổn hại,
c̣n Đề Bà Đạt Đa rụng sạch mười
ngón tay. Đất liền nứt ra, đọa thẳng vào
địa ngục A Tỳ. Tuy vậy, theo kinh điển
Đại Thừa, đây là những nghịch hạnh do
Điều Đạt thị hiện để Phật có
cơ hội chế giới và hóa độ những kẻ
tà kiến, ngũ nghịch, thập ác. Trong kinh Pháp Hoa,
đức Phật từng nói rơ nhân duyên: Trong quá khứ,
Đề Bà Đạt Đa là tiên nhân biết được
pháp Đại Thừa, Phật là một vị quốc
vương đă bỏ ngôi vua theo hầu hạ tiên nhân
để cầu pháp và học kinh Diệu Pháp Liên Hoa
nơi vị tiên nhân ấy. Phật cũng thọ kư Đề
Bà Đạt Đa sẽ thành Phật hiệu là Thiên
Vương Như Lai.
Thiện
Tinh (Sunaksatra), c̣n được phiên là Tu Na Ha Đa, hoặc
Tu Na Sát Đa La, c̣n dịch là Thiện Túc, là con trai của
đức Phật khi Ngài c̣n là Thái Tử. Sau khi xuất
gia, ông đă đoạn được phiền năo, đắc
Đệ Tứ Thiền Định. Về sau, do thân cận
bạn ác, liền bị lui sụt quả giải thoát, khởi
tà kiến nhân quả bất định, sanh tâm ác đối
với Phật, nên đọa vào Vô Gián địa ngục
ngay trong khi c̣n sống. Do vậy, thường được
gọi là Xiển Đề tỳ-kheo. Theo Pháp Hoa Huyền
Tán, Phật có ba người con là Thiện Tinh, Ưu Bà Ma
Da, và La Hầu La. La Hầu La nhỏ nhất nhưng là con
của chánh phi Da Du Đà La nên hầu như người
đời chỉ biết đến La Hầu La.
[5] Ngài Mă Tổ Đạo Nhất đắc
pháp nơi Nam Nhạc Hoài Nhượng, được phó
chúc nối tiếp đạo mạch của Ngài. Hoài
Nhượng lại là đồ đệ của Lục
Tổ Huệ Năng nên mới nói “pháp tôn của Lục Tổ tên là Đạo Nhất”.
[6]
Đây là một câu kệ
trong Bích Nham Lục nhắc đến câu sấm ngữ của
vị Tổ thứ hai mươi bảy ở Ấn
Độ (tức ngài Bát Nhă Đa La) khi dạy tổ Bồ
Đề Đạt Ma hăy sang Đông Độ truyền
pháp Thiền, tiên đoán về sự nối pháp của Mă
Tổ.
[7] Như vậy là ngay từ thời ấy
tà ma ngoại đạo đă áp dụng lối bịt tai
tŕ chú. Hiện thời có một phái tà đạo mạo
danh Phật giáo tự xưng tu pháp môn Quán Âm, bịt tai tŕ
thần chú của đạo Jain để nghe được
những âm thanh của tự tánh! Chúng gọi đó là pháp
môn Quán Âm, thật chẳng hiểu ư nghĩa “phản
văn văn Tự Tánh” như thế nào mà “thánh mẫu” của
phái ngoại đạo ấy c̣n ngông cuồng tuyên bố
ḿnh chính là Quán Âm thị hiện, Phật Thích Ca đă lỗi
thời. Đáng sợ thay!
[8]
Diện Nhiên Đại Sĩ chính là hóa thân của Quán Thế
Âm Bồ Tát, đại biểu cho quỷ vương trong
nghi Du Già Diệm Khẩu. Theo Phật Thuyết Cứu Diện
Nhiên Ngạ Quỷ Đà La Ni Thần Chú Kinh, Diện Nhiên
chính là tên của một ngạ quỷ mặt xanh, nanh nhọn
hoắt, nét mặt dữ tợn, miệng bốc lửa,
lưỡi thè ra cả tấc, nên có tên là Diện Nhiên (vẻ
mặt đáng sợ), c̣n gọi là Diệm Khẩu (miệng
bốc lửa), hoặc Tiêu Diện (mặt cháy nám) do ngài
Quán Âm biến hóa ra nhằm điểm hóa A Nan. Ngạ quỷ
Diện Nhiên báo cho A Nan biết ba ngày sau A Nan sẽ chết,
chết rồi sẽ đọa làm ngạ quỷ. A
[9]
Ông Trác Trí Lập do thấy trong bài Tịnh Độ Phát
Nguyện Văn của tổ Liên Tŕ có lời nguyện: “Nguyện Thiền Quán chi trung, mộng
mị chi tế, đắc kiến A Di Đà Phật kim sắc
chi thân, đắc lịch A Di Đà Phật bảo nghiêm chi
độ, đắc mông A Di Đà Phật cam lộ quán đảnh,
quang minh chiếu thân, thủ ma ngă đầu, y phú ngă thể”
(Nguyện trong khi Thiền Quán, hay trong lúc mộng mị
được thấy thân sắc vàng của Phật A Di
Đà, được dạo qua cơi báu trang nghiêm của Phật
A Di Đà, được Phật A Di Đà dùng cam lộ rưới
đảnh, quang minh chiếu đến thân, tay Phật xoa
đầu con, y Ngài trùm thân con) nên mới hiểu lầm lời
nguyện ấy là chuyên cầu thấy được thánh
cảnh Tây Phương.
[10]
Vua Ưu Điền (Udayana) có tên gọi đầy đủ
là Ưu Điền Diễn Na Phạt Tha (Udayana-vatsa), dịch
nghĩa là Nhật Tử Vương hoặc Xuất Ái
Vương, vua nước Kiêu Thưởng Di
(Kauśāmbī, c̣n phiên là Kiều Diễm Di) thời ấy.
Theo kinh Tăng Nhất A Hàm quyển 28 (cũng như Đại
Phương Tiện Phật Báo Ân Kinh, Quán Phật Tam Muội
Hải Kinh, Đại Thừa Tạo Tượng Công
Đức Kinh), do Phật an cư ba tháng trên cơi trời
Đao Lợi để thuyết pháp báo ân mẹ, vua Ưu
Điền không thể lễ Phật, sanh ḷng ưu sầu,
ngă bệnh. Quần thần bèn dùng gỗ Ngưu Đầu
Chiên Đàn tạo một bức tượng Phật cao
năm thước. Vua nh́n thấy tượng Phật,
ḷng hoan hỷ liền lành bệnh. Khi đức Phật từ
thiên cung giáng hạ đă tán thán và hứa khả bức tượng
này.
[11] Tướng nằm Cát Tường c̣n gọi
là Sư Tử Ngọa, tức nằm nghiêng bên hông hữu,
tay phải lót dưới mặt, tay trái để xuôi theo
thân.
[12]
Thần Biến (Vikurvana): Chư Phật, Bồ Tát v́ hóa
độ chúng sanh liền dùng sức chẳng thể
nghĩ bàn siêu việt nhân gian (tức sức thần thông)
biến hiện các thứ h́nh trạng và động tác. Hiểu
theo nghĩa hẹp, Thần Biến chính là Thần Túc Thông
trong Lục Thông. Hiểu theo nghĩa rộng th́ Thần Biến
bao gồm thân, ngữ, ư.
[13] Do đoạn này hơi khó hiểu nên
chúng tôi xin giải thích thô thiển như sau: Ông Trác Trí Lập
quan niệm Cam Lộ Quán Đảnh (trong Mật Pháp) chính
là dùng nghi lễ Quán Đảnh để mượn sức
gia bị của Phật, Bồ Tát khiến cho hành nhân
được giác ngộ, chứng nhập. Do vậy, gọi
là “ngoại thước” (外鑠: tức
sức tác động từ bên ngoài). Tổ Ấn Quang nhấn
mạnh để nhận được sức gia bị
của Phật, Bồ Tát th́ chính tâm ḿnh phải
tương ứng với Phật mới cảm ứng
đạo giao, cho nên Cam Lộ Quán Đảnh chỉ có tác
dụng khi hành nhân đă dụng công tu tập đến mức
tâm tương ứng với Phật. Nói cách khác, nếu
không có sự nỗ lực tu tŕ của cá nhân để cảm
th́ sẽ không tiếp nhận được tha lực,
cũng như gương đă phủ bụi th́ không thể
soi bóng. Do vậy, sự chứng nhập của hành nhân khi
được Cam Lộ Quán Đảnh không phải là do
tác động một chiều từ bên ngoài, cho nên không thể
gọi là “ngoại thước”! C̣n nếu như hành nhân
chỉ dụng công một khắc mà chúng sanh trong khắp
pháp giới đều ngộ th́ đối với chúng
sanh trong khắp pháp giới, sự dụng công ấy của
hành nhân mới chính là “ngoại thước” vậy!
[14] Tiền Âm và Hậu Âm ở đây là thuật
ngữ thường dùng trong y thư cổ của Trung Hoa
để chỉ bộ máy sinh dục và bộ phận bài
tiết. Nói hạn hẹp, Hậu Âm chỉ bao gồm phần
bài tiết như hậu môn và lỗ tiểu. Nếu nói rộng,
Hậu Âm bao gồm cả những lỗ hổng trên
cơ thể nhằm bài tiết chất thải ra ngoài
như miệng, lỗ lệ nơi mắt, lỗ tai, lỗ
mũi v.v….
[15]
“Khổng môn đầy đủ” có nghĩa là cửu khiếu
(hay cửu khổng) đầy đủ. Cửu Khổng
c̣n gọi Cửu Lậu (chín chỗ ṛ rỉ), Cửu Nhập
(chín chỗ để phiền năo xâm nhập), Cửu
Lưu (chín chỗ để phiền năo tuôn chảy), Cửu
Sang (chín chỗ bị ghẻ gúm). Các tên gọi này đều
nhằm thể hiện ư nghĩa chín nơi này là cửa ngơ
để phiền năo xâm nhập và phát lộ. Chín nơi ấy
chính là hai mắt, hai tai, hai mũi, miệng, hậu môn và lỗ
tiểu tiện.
[16]
Mă Âm Tàng (Kośopagata-vasti-guhya) c̣n gọi là Mă Vương Ẩn
Tàng Tướng hay Thế Phong Tạng Mật Tướng,
là một trong ba mươi hai tướng đại nhân của
Như Lai. Âm là dương vật. Mă Âm Tàng có nghĩa là
dương vật ẩn kín trong bụng không lộ ra ngoài
nên gọi là Âm Tàng, giống như bộ phận sinh dục
của ngựa đực bị ẩn kín không lộ ra.
Theo kinh Bảo Nữ Sở Vấn, tướng Mă Âm Tàng là
do trong khi tu nhân, chư Phật luôn giữ ḿnh cẩn thận,
vĩnh viễn xa ĺa sắc dục. Văng Sanh Yếu Tập,
quyển Trung, chép: “Như Lai âm
tàng, phẳng như trăng tṛn, có ánh sáng vàng, dường
như mặt trời”
[17]
Do A Di Đà Phật có nguyện người sanh về Tây
Phương tướng mạo đều giống hệt
như Phật. Phật đă có ba mươi hai tướng
th́ suy ra mọi người trong cơi Cực Lạc đều
phải có đủ ba mươi hai tướng.
[18]
Đây là một câu nói trích từ thiên Tận Tâm Thượng
của sách Mạnh Tử: “Chấp
trung vô quyền, do chấp nhất dă” (chấp vào đạo
Trung Dung không biết quyền biến th́ cũng giống
như chấp nhất vậy). Câu này được dịch
theo cách diễn giảng trong sách Mạnh Tử Tập Chú của
Châu Hy.
[19] Theo Pháp Bảo Đàn Kinh, khi bị môn
nhân của Thần Tú tranh chấp y bát, sợ bị hăm hại,
Tổ phải bỏ trốn về Ngũ Lĩnh, sống
lẫn với đám thợ săn để ẩn thân.
Khi được giao giữ lưới vây bắt thú, Ngài
luôn mở lưới cho thú trốn thoát.
[20] Những câu của Mạnh Tử
được tổ Ấn Quang dẫn trong đoạn
này đều trích từ thiên Cáo Tử Hạ sách Mạnh Tử:
“Nhậm nhân hữu vấn Ốc
Lô Tử viết: Lễ dữ thực, thục trọng?
Viết: Lễ trọng. Sắc dữ lễ, thục trọng?
Viết: Lễ trọng. Viết: Dĩ lễ thực, tắc
ngạ nhi tử, bất dĩ lễ thực, tắc đắc
thực, tất dĩ lễ hồ? Thân nghênh, tắc bất
đắc thê. Bất thân nghênh, tắc đắc thê, tất
thân nghênh hồ? Ốc Lô Tử bất năng đối,
minh nhật chi Trâu dĩ cáo Mạnh Tử. Mạnh Tử
viết: ‘Ư đáp thị dă hà hữu? Bất sủy kỳ
bổn nhi tế kỳ mạt, phương thốn chi mộc
khả sử cao ư sầm lâu. Kim trọng ư vũ giả,
khải vị nhất câu kim dữ nhất dư vũ chi
vị tai? Thủ thực chi trọng giả, dữ lễ
chi khinh nhi tỷ chi, hề xí thực trọng? Thủ sắc
chi trọng, dữ lễ chi khinh giả nhi tỷ chi, hề
xí sắc trọng? Văng ưng chi viết: Chẩn huynh chi tư
đoạt chi thực, tắc đắc thực. Bất
chẩn, tắc bất đắc thực, tắc
tương chẩn chi hồ? Du đông tường gia nhi
lâu kỳ xử tử, tắc đắc thê; tắc bất
đắc thê, tắc tương lâu chi hồ? (Nước
Nhậm có kẻ hỏi Ốc Lô Tử: ‘Giữa lễ và
đồ ăn, cái nào trọng? Đáp: ‘Lễ trọng’.
[Lại hỏi]: ‘Giữa sắc và lễ, cái nào trọng?’
Đáp: ‘Lễ trọng’. [Kẻ ấy] nói: ‘Phải hợp
lễ mới ăn th́ sẽ chết đói. Cứ ăn
chẳng cần hợp lễ th́ sẽ được
ăn, cần ǵ phải quan tâm đến lễ? Hễ tự
đón rước th́ chẳng cưới được vợ.
Không đích thân đón rước vẫn lấy được
vợ, cần ǵ phải tự đón rước?’ Ốc
Lô Tử chẳng đáp được, hôm sau sang Trâu Ấp
thưa lại với Mạnh Tử. Mạnh Tử nói:
‘Đáp câu hỏi ấy có ǵ là khó? Chẳng suy xét tới
cái gốc, chỉ lo vun vén cái ngọn, coi khúc gỗ vừa
đúng một tấc lại cao hơn ngôi lầu chót vót.
Tuy vàng nặng hơn lông, há có thể nói là một cái móc bằng
vàng cũng nặng bằng một chiếc xe chở đầy
lông ư? Kẻ so đo coi cái ăn là trọng, coi lễ
là khinh, nào chỉ phải thấy thức ăn là trọng?
Kẻ so đo coi sắc là trọng, coi lễ là khinh, nào chỉ
phải thấy sắc là trọng? Hăy nên đáp lời hắn
rằng: Vặn tréo cánh tay của anh ḿnh để đoạt
lấy miếng ăn th́ có cái để ăn, chẳng vặn
tay anh ḿnh sẽ không có cái ăn, th́ có nên vặn tréo tay anh
ḿnh hay chăng? Trèo tường sang nhà hàng xóm ở phía
Đông để dụ dỗ gái trinh của người
ta th́ sẽ có vợ; chẳng dụ dỗ sẽ không có vợ,
há có nên dụ dỗ hay chăng?) Chúng tôi dịch đoạn
văn này theo cách diễn giải của Tứ Thư Tập
Chú (Châu Hy soạn) và Tứ Thư Bạch Thoại Giải
(Thường Thục Châu soạn).
[21]
Do câu nói này nếu không chú ư sẽ thấy khó hiểu, nên
chúng tôi xin giải thích thô thiển như sau: Do ông Trác Trí Lập
chấp nhất nên không thông hiểu quyền biến, nghe
nói “nam nữ thọ thọ bất
tương thân” (nam nữ trao nhận đồ vật
chẳng đụng chạm vào tay nhau) liền chấp nhặt
đến nỗi thấy “chị dâu chết đuối,
em chồng không dám cứu”, nghe nói con phải nghe lời cha
th́ tuy cha làm chuyện sai trái như ăn trộm dê, con vẫn
tán thành, không can ngăn. Đến khi nghe nói quyền biến
th́ lại tưởng lầm “quyền biến” là luông tuồng,
không cần giữ lễ, không gần gũi những kẻ
làm chuyện phi lễ th́ ḿnh cũng phi lễ, nên cũng
luông tuồng làm bậy theo bọn họ, chẳng cần
phải phân biệt đúng, sai, hành xử cho hợp lư theo
lẽ thường hay quyền biến nữa!
[22]
Theo phẩm 12 của kinh Địa Tạng, khi giảng về
sự lợi ích do thấy nghe Địa Tạng Bồ
Tát, đức Phật đă dạy Quán Thế Âm Bồ Tát
rằng: Nếu có ai ham thích đọc tụng kinh điển
Đại Thừa nhưng thiếu tánh ghi nhớ, học
trước quên sau, hằng năm hằng tháng vẫn không
sao đọc tụng được th́ để tiêu trừ
nghiệp chướng, hăy dốc hết tấm ḷng, cung
kính giăi bày sám hối, cúng dường tượng Bồ
Tát, lấy một chén nước trong để trước
tượng Bồ Tát suốt một ngày đêm rồi chắp
tay ngoảnh mặt về phương Nam, uống cạn
chén nước. Kiêng Ngũ Tân, rượu thịt, tà dâm, vọng
ngữ cho đến mọi sự giết hại trong hai
mươi mốt ngày th́ sẽ mộng thấy Bồ Tát
hiện vô biên thân đến tận chỗ người ấy,
làm phép quán đảnh khiến cho người ấy thông
minh sáng suốt, nghe qua kinh điển dẫu một lần
vẫn không bao giờ quên mất một câu hay một bài kệ.
[23] Theo nguyên bản trong Đại Tạng
Kinh, khi đọc đến câu “Mạ
mạ phạt ma ra” sẽ thêm tên người tŕ chú vào
trước chữ “phạt ma
ra”.
[24] Tức là chữ 囉 (âm Quan Thoại là Lụ) phải đọc
thành âm 拉 (âm Quan Thoại là Lá).
[25]
Kiệt là vua thứ mười bảy đồng thời
là vua cuối cùng của vương triều Hạ
(vương triều này do vua Đại Vũ, tên thật
là Tự Văn Mạng thuộc thị tộc Hạ Hậu
sáng lập). Vua Kiệt tên thật là Tự Lư Quư. Do say mê mỹ
nhân Muội Hỷ, bỏ mặc chánh sự, tàn sát trung thần.
Do vậy, Thương Thang khởi binh chinh phạt,
đánh bại Kiệt ở Minh Điều (nay thuộc An
Ấp, tỉnh Sơn Tây). Vương triều Hạ bị
diệt vong. Kiệt bị đày đi Nam Sào (thuộc tỉnh
An Huy). Lúc gần chết có nói: “Ta hối hận trước
kia đă không giết Thương Thang tại Hạ
Đài; nếu không đâu phải đến nỗi như
thế này”. Theo một số nhà nghiên cứu, sau khi
vương triều Hạ diệt vong, một chi tộc Hậu
Hạ đă bỏ Trung Nguyên ra quan ải sống, trở
thành tổ tiên của dân Hung Nô.
[26] Dương Kế Thịnh (1516-1555), tự
Trọng Phương, hiệu Tiêu Sơn, người Dung
Thành, tỉnh Hà Bắc, làm quan nhà Minh nhằm thời Gia
Tĩnh. Ông tánh t́nh thẳng thắn, cương nghị,
không xu nịnh, làm quan đến chức Thị Lang bộ
Binh. Khi quân Thát Đát (Tartar) xâm nhập biên giới cướp
phá, Hàm Ninh Hầu Cừu Loan dâng sớ xin triều đ́nh
mở chợ buôn bán ngựa với bọn Thát Đát để
xoa dịu quân cướp. Kế Thịnh dâng sớ đàn
hặc, nhưng gian thần Nghiêm Tung bênh vực Cừu
Loan, sàm tấu với vua, nên Kế Thịnh bị giáng chức
làm Điển Sứ tại Địch Đạo. Sau
đó, ông lại dâng sớ đàn hặc, xin vua tru diệt
gian thần Nghiêm Tung, chỉ đích danh Nghiêm Tung phạm
năm tội gian, mười đại tội. Nghiêm Tung
bèn giả mạo thánh chỉ, tống giam Kế Thịnh
vào ngục, phạt đánh một trăm trượng, cắt
đứt gân cốt, bêu xác ngoài chợ. Lúc sắp chết,
ông ung dung đọc thơ: “Hạo
khí hoàn thái hư, đan tâm chiếu thiên cổ” (khí thiêng
trả lại hư không, tấm ḷng son sắt chiếu ngời
ngàn năm). Mười hai năm sau, khi Minh Mục Tông lên
ngôi, ông mới được minh oan, được phong
thụy hiệu là Trung Mẫn.
[27] Địch Đạo là tên cổ của
huyện Lâm Thao, tỉnh Cam Túc. Điển Sứ là một
chức quan văn khá nhỏ được thiết lập
từ đời Nguyên, dưới quyền Huyện Lệnh,
chuyên đảm nhiệm việc truy nă, trông coi nhà giam.
[28] Nho gia thường coi đạo Nho là
chánh đạo, c̣n các tôn giáo khác là tà. Nên người đề
cao độc tôn đạo Nho thường tự xưng
là “sùng chánh” (tôn sùng điều
chánh đáng).
[29] Chánh vận: Âm điệu theo cách phát âm
của tiếng Quan Thoại. Do từ thời Minh,
phương âm Bắc Kinh đă được triều
đ́nh sử dụng làm ngôn ngữ chánh thức để
giao thiệp trong toàn quốc, nên tiếng Bắc Kinh
được gọi là Quan Thoại, rồi về sau này
gọi là tiếng Phổ Thông (Phổ Thông thoại) hoặc
Quốc Ngữ.
[30]
Tức là lối thơ hay câu đối mà người Việt
thường gọi là Khoán Thủ. Chẳng hạn câu
đối th́ chữ đầu trong vế trên là Ấn, chữ
đầu trong vế dưới là Quang (hoặc tên người
nào khác ḿnh muốn tâng bốc). Khi làm thơ tứ cú th́ chữ
đầu của mỗi câu sẽ ghép thành tên người
được xưng tụng. Thông thường những
bài thơ làm theo kiểu này ít khi nào hay được v́
gượng ép và chuyên dùng để tâng bốc! Các đàn cầu
cơ của ngoại đạo cũng hay dùng lối
thơ này để xưng tên khi giáng đàn cầu cơ. Chẳng
hạn trong một buổi xoay cơ tại hải ngoại,
một linh quỷ giáng đàn mạo danh Thích Ca Mâu Ni Phật
đă cho một bài thơ Khoán Thủ xưng tên như
sau: “BỔN tánh từ-bi mới trọn lành, SƯ đệ
phăng tầm rơ trược thanh, THÍCH, Đạo
cũng là chung một gốc, CA tụng đức dày
đấng liệt oanh. MÂU thuẫn cuộc đời
toan cấu xé, NI tăng ngộ giác khá học hành, PHẬT
pháp cổ truyền đường chánh-giác, GIÁNG trần miêu tỏa phép luyện phanh” (sic!)
[31]
Xạ (Musk deer) là một loại hươu nhỏ có mùi
thơm, có tên khoa học là Moschus Moschiferus Linnaeus, chủ yếu
sống ở vùng Trung Á. Chiều dài từ 80 cm đến
một mét, cao từ 50 đến 70 cm, nặng trong khoảng
7 đến 17 kg, chân mập và ngắn thích hợp cho việc
leo trèo trong địa h́nh hiểm trở. Chỉ riêng con
đực có tuyến tiết ra chất thơm nằm giữa
bộ phận sinh dục và rốn, mùi thơm này chủ yếu
dùng để thu hút con cái trong mùa giao phối cũng như
để đánh dấu lănh thổ của từng con
đực. Mùi thơm này rất nồng, có thể dùng
để chế nước hoa và hương liệu
(thường gọi là Xạ Hương) nên hươu xạ
bị săn bắt tàn nhẫn, gần như tuyệt chủng.
[32] Từ thời cổ người Trung
Hoa tự xưng là Hoa Hạ, gọi những dân tộc sống
ở ngoài biên cương phía Đông Trung Hoa là Di, c̣n những
dân sống giáp ranh phía Bắc Trung Hoa là Địch.
[33]
Đây chính là bài “Nêu tỏ ư nghĩa ẩn kín của tác phẩm
Khang Mẫu Văng Sanh Kỷ Niệm San” trong Ấn Quang Pháp
Sư Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên, quyển 4, phần
Tạp Trước.
[34]
Lạc Bang Văn Loại gồm năm quyển do Tông Hiểu
(1151-1214) soạn xong vào năm Khánh Nguyên thứ sáu (1200)
dưới thời Nam Tống. Sách này tổng hợp những
đoạn văn trọng yếu từ các kinh luận Tịnh
Độ, trước tác, thi kệ, truyện kư v.v… của
các vị Tổ, có đến hơn hai trăm hai
mươi thiên. Về sau, Tông Hiểu lại soạn tiếp
bộ Tục Lạc Bang Di Cảo (hai quyển) để
chép tiếp về những kinh sách chưa được
nhắc tới trong bộ Lạc Bang Văn Loại.
[35]
Ưu Đàm, gọi đủ là Ưu Đàm Bát La Hoa
(Udumbara), đôi khi c̣n được phiên là Ô Đàm Bát La, Uất
Đàm, hoặc Đàm Hoa. Dịch nghĩa là Linh Thụy
Hoa, Không Khởi Hoa, Khởi Không Hoa. Theo Phật Quang Từ
Điển, Ưu Đàm Hoa vốn là hoa của một loại
cây thuộc họ Sung, có tên khoa học là Ficus Glomerata,
thường thấy mọc ở ven Hy Mă Lạp Sơn, hoặc
cao nguyên Deccan. Cây có hai loại hoa đực và cái riêng biệt,
mỗi khi hoa nở cánh hoa x̣e to bằng bàn tay, mỗi lần
trổ hoa là trổ cả chùm gồm mười mấy
đóa, rất hiếm khi thấy; v́ thế người ta
thường nói: “Cả ngàn năm Ưu Đàm mới trổ
hoa một lần!” Tuy vậy, sách Huệ Lâm Âm Nghĩa cho rằng
hoa Ưu Đàm được nói trong kinh là một loại
hoa cơi trời, trong nhân gian không có. Khi đức Như Lai
giáng sanh, hoa Ưu Đàm mới nở. Xét ra, hiểu theo
cách giải thích của Huệ Lâm Âm Nghĩa hợp lư
hơn, chứ nếu hiểu Ưu Đàm giống hoa cây
Sung như vừa mới nói th́ hoa Ưu Đàm cũng
đâu có ǵ đặc biệt cho lắm để sánh ví với
sự ra đời của đức Phật. “Ưu Đàm vượt ngoài kiếp”
có nghĩa là hiếm hoi, phải mất một thời gian
nhiều hơn một kiếp mới lại được
thấy hoa Đàm.
[36] Lệnh Từ được nhắc tới
trong đoạn trên là mẹ đích (miền Bắc thường
hay gọi là “mẹ già”), tức vợ cả của cha.
C̣n mẹ ruột ông Lưu Quán Thiện là vợ lẽ, nên
tổ Ấn Quang gọi mẹ ruột ông Lưu là “lệnh
bổn sanh từ” (mẹ ruột).
[37]
Đây chính “Bài kư về chuyện chùa Thạch Thành ở Tân
Xương trùng tu tháp thờ y bát của Trí Giả đại
sư” trong phần Bi Kư thuộc quyển 3 sách Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao Tam Biên.
[38] Bánh bao chỉ (Nhu Mễ Từ) là một
loại bánh làm bằng gạo nếp đem xôi lên cho chín rồi
giă cho quánh thành bột dẻo như bánh dầy, nhưng có
nhân thường làm bằng đậu hoặc mè đen trộn
với đường, rất giống với bánh Mochi của
Nhật. Tương truyền vào năm Khánh Nguyên thứ hai
đời Nam Tống, có Trâu Ứng Long lên kinh đô ứng
thí. Dân làng đưa tiễn tặng rất nhiều bánh
bao chỉ. Trâu Ứng Long đi đường hễ
đói liền ăn bánh, không tốn kém cho mấy, tới
kinh đô vào trường thi, văn chương cuồn cuộn,
liền đỗ Trạng Nguyên. Do vậy, dân gian c̣n gọi
Nhu Mễ Từ là Trạng Nguyên Từ (bánh bao chỉ Trạng
Nguyên).
[39]
Theo quy chế của Trung Hoa Dân Quốc, Khảo Thí Viện
không chịu trách nhiệm quản lư công tác thi cử của
bộ Giáo Dục, mà là một cơ quan đặc trách quản
lư các công chức, đặc biệt là khảo hạch nhằm
đảm bảo các công chức đạt phẩm chất
phù hợp với chức vụ hoặc vai tṛ họ
được bổ nhiệm. Nha Xét Duyệt Thăng
Thưởng (Thuyên Tự Bộ) là một trong bốn nha
trực thuộc Khảo Thí Viện, được thành lập
vào ngày 17 tháng Mười Hai năm 1928, đặc trách xét
duyệt, thăng thưởng, giáng cấp, hoặc kỷ
luật tất cả mọi công chức, cũng như quyết
định quyền lợi hưu dưỡng của mọi
công chức, hoặc trợ cấp cho cô nhi quả phụ
của một công chức nếu ông ta chết đột
ngột trong khi thi hành công vụ.
[40] Chúc Ly là những nghi lễ nhằm chúc
phước cho vương triều, bao gồm cầu
đảo, chú nguyện cho vương triều được
bền vững, vua khỏe mạnh, phước thọ,
hoàng tộc được b́nh yên, tăng phước
tăng thọ v.v... Báo Ân là báo đáp đức ân của
vương triều đất nước bảo hộ
Phật pháp lẫn nhân dân. Tăng chúng thường cử
hành lễ Báo Ân trong những dịp Quốc Kỵ (ngày giỗ
của tiên vương), cầu mưa, cầu tạnh, hay
trong những dịp có tai ương xuất hiện
như sâu rầy, hạn hán v.v… Báo Bổn là báo đáp ân
đức trong Phật môn, như những ngày lễ Phật
Đản, Thành Đạo, khánh chúc vía các vị Phật, Bồ
Tát, Tổ Sư v.v… Ngoài ra, vào mỗi dịp Sóc Vọng, ba
h́nh thức báo đáp này được gộp chung thành một
nghi lễ nhỏ gọi là Thù Ân Chúc Tán, tức là tăng
chúng lạy tạ chư Phật, tôn pháp, thánh tăng,
chư Tổ Sư, đại thiện tri thức, các vị
thầy tổ truyền giới, truyền pháp, ân quốc
vương, sư trưởng, đàn-na tín thí ủng hộ
cúng dường cho Tăng chúng yên thân tu đạo.
[41]
Dương Ức (974-1020), người xứ Bồ Thành
(nay thuộc huyện Kiến Ngơa, tỉnh Phước Kiến),
tự là Đại Niên. Nổi danh văn chương từ
thuở thiếu thời. Tống Thái Tông đặc cách cho
đi thi Đ́nh, đọc bài viết của họ
Dương phải khen ông ta là thần đồng. Ông làm
quan tới chức Thị Lang và Tu Soạn. Bẩm tánh thanh
liêm, chẳng e sợ quyền thế. Thoạt đầu
không tin Phật, sau do được học sĩ Lư Duy
khuyên dạy liền nghiên cứu Thiền học, sanh ḷng
tin sâu xa. Tham học với thiền sư Quảng Huệ ở
Nhữ Châu, đắc pháp, liền dốc sức hộ
tŕ pháp môn, được coi như lănh tụ của những
sĩ phu học Phật thời ấy. Ông từng vâng chiếu
biên soạn bộ Đại Tạng Mục Lục, giảo
chánh, ấn hành bộ Cảnh Đức Truyền
Đăng Lục, cũng như tham dự đạo tràng
dịch kinh.
[42] Tăng Đính Bản về sau
được bổ sung thêm một số bài nữa nên gọi
là Tăng Quảng Chánh Biên, hay Ấn Quang Văn Sao Sơ
Biên. “Lưu bản” là giữ lại bản in. Thuở ấy,
thường in theo lối mộc bản, bản gỗ khắc
chữ để in rất cồng kềnh nên nếu không
yêu cầu, nhà in sẽ không giữ lại mộc bản.
[43] Đương Gia theo nghĩa gốc là
vị quản gia của một dinh thự hoặc một
phủ viện. Nhà chùa cũng dùng chữ Đương
Gia để chỉ vị Tăng quản trị một
ngôi chùa.
[44] Trong lời tựa bộ Ấn Quang
Văn Sao Tục Biên, thấy ghi là “mộc tiêu” (cái cột
mốc bằng gỗ), c̣n ở đây ghi là “mục tiêu”. Mạt
nhân cho rằng “mộc tiêu” hợp lư hơn v́ Tổ coi những
lời dạy của ḿnh như cái mốc đánh dấu
đường bằng gỗ tầm thường. Chứ
c̣n “mục tiêu” th́ lại là mục đích để nhằm
đạt đến, không thích hợp với ngữ khí hết
sức khiêm nhường của Tổ trong bài tựa này.
Hơn nữa, đoạn sau vẫn dùng chữ “mộc
tiêu”, khiến chúng tôi càng tin chắc chữ “mục tiêu” đă bị chép lầm. Do vậy,
chúng tôi mạo muội sửa thành “mộc tiêu” cho đoạn
trước phù hợp với đoạn sau.
[45]
Nguyên văn “vịnh vu ta lân” (ca vịnh dấu lân). Đây
vốn là một ư dựa theo bài Mao Thi trong Kinh Thi: “Lân chi chỉ, chấn chấn
công tử; vu ta lân hề”. Sách Sơ Học Kư giảng:
“Chỉ là bàn chân. Con lân
được coi là một con vật biết giữ chữ
tín, biết lễ, nên thường dùng chữ ‘dấu chân
lân’ để chỉ người giữ chữ tín. Chấn
chấn là giữ ḷng trung tín sâu dầy. Vu ta là tán thán từ”.
Do vậy, đoạn thơ này được dịch là: “Dấu chân lân, bậc công tử
thành tín, trung hậu, thật đáng xưng tụng là lân”.
Từ đó “vịnh vu ta lân”
là một thành ngữ nhằm ca ngợi một người
trung tín, nhân hậu.
[46] Thạch lân” con lân đá, chính là lời
chúc tụng người khác sanh được con. Theo truyện
Từ Lăng trong Nam Sử, vào đời Trần, khi Tử
Lăng mới lên mấy tuổi được người
nhà dẫn đến bái yết ngài Bảo Chí (tức Chí
Công ḥa thượng), ngài Bảo Chí liền xoa đầu,
khen: “Con lân đá từ cơi trời
giáng xuống”. Do vậy, chữ Thạch Lân thường
được dùng trong những câu chúc tụng người
khác sanh con tốt lành, ngoan ngoăn, giỏi giang. Quả nhiên
sau này Từ Lăng là một nhà văn học lỗi lạc
dưới thời Trần. Khi gặp được tổ
Trí Giả, Từ Lăng đă phát nguyện hoằng
dương tông Thiên Thai trong tương lai, nên sau đấy
đă tái sanh trở thành vị tổ thứ sáu của tông
Thiên Thai, tức Pháp Hoa tôn giả.