Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tam Biên,
Quyển 4
Phần 25
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Minh Tiến & Huệ
Trang
XV. Pháp ngữ khai thị khi từ Thượng
Hải về đến Linh Nham[1]
(giảng vào buổi chiều
ngày 17 tháng 10 năm Dân Quốc 25 (1936))
Linh Nham chính là cuộc đất thánh đạo
tràng trời tạo đất dựng. Ngô vương Phù
Sai thiếu đức, chẳng tuân theo đạo “chánh tâm
thành ư, siêng năng chăm lo việc nước, yêu dân” của
các vị tổ là Thái Vương, Thái Bá, Trọng Ung[2], chỉ chuộng
dâm lạc, bèn dựng cung Quán Oa[3] nơi này, mắc
tội với trời đất và tổ tông cũng lớn
lắm! Cung điện xây xong được mấy
năm, nước mất, thân chết, chẳng đáng buồn
ư? Đến đời Tấn, Tư Không[4] Lục Ngoạn
xây nhà trên đó, về sau nghe Phật pháp bèn biến nhà
thành chùa ; đấy chính là duyên khởi khai sơn đầu
tiên của Linh Nham vậy. Đến đời
Lương, do ngài Bảo Chí Công[5]
cầu đảo cho Vũ Đế, chùa lại được
trùng hưng. Trí Tích Bồ Tát[6] nhiều lượt
hiện thân tượng vẽ, hiển thị đạo
nhiệm mầu, dẫn dắt những kẻ tục c̣n
đang mê. Đến đời Đường, em trai tể
tướng Lục Tượng Tiên (người Tô Châu), mắc bệnh ở
kinh đô, ngự y bó tay. Một vị Tăng xin gặp,
nói có thể trị được bệnh, bảo lấy
một chén nước sạch, hướng vào đó niệm
chú mấy câu, ngậm nước phun ra, [em trai tể
tướng Lục Tượng Tiên] lập tức khỏi
hẳn bệnh. Đem mọi vật đáp tạ Sư
đều không nhận, nói: “Tôi tên là Trí Tích. Sau này ông trở
về Tô Châu, hăy nên đến núi Linh Nham gặp tôi”. Về
sau, người ấy đến núi hỏi thăm, không có
ai tên là Trí Tích cả, tâm rất buồn bă, xem khắp các
điện đường, thấy h́nh vẽ trên vách chính
là vị Tăng đă trị bệnh cho ḿnh. V́ thế,
đặc biệt dựng điện Trí Tích, chùa lại
được hưng khởi. Từ đời Tấn
đến đời Đường, [danh tánh] tất cả
các vị Trụ Tŕ đều chẳng thể tra cứu
được.
Đến
đời Tống, phàm những ai là trụ tŕ của núi
này đều là bậc đại lăo lỗi lạc trong
Tông môn; đạo tràng Linh Nham bèn trở thành đứng
đầu xứ Giang Tô. Do đất thiêng nên mới có
người tài giỏi, do người tài giỏi nên đất
mới thiêng. Cuối đời Minh, đầu đời
Thanh, chùa lại được hưng khởi mạnh mẽ,
hai đời vua Thánh Tổ (Khang Hy) và Cao Tông (Càn Long), mấy
lần tuần du phương Nam đều nghỉ lại
tại hành cung[7] trên núi. Trong cơn
loạn Hồng Dương[8],
chùa bị đốt cháy gần như hết sạch. Về
sau, đại sư Niệm Thành trụ trong ḷng tháp[9],
nhằm đúng khi ông Bành Cung Bảo Ngọc Lân đi
chơi núi, gặp gỡ, bèn kiểm sổ bộ, đ̣i lại
hơn sáu trăm mẫu ruộng đất cho chùa, dựng
mười mấy gian điện đường, nhà cửa.
Đến
năm Tuyên Thống thứ ba (1911), Trụ Tŕ là Đạo
Minh vốn là quân nhân xuất gia, tánh t́nh thô bạo, do mất
y [ca-sa] mà đánh đập người khác quá đáng, người
dưới núi vùng lên đánh đuổi, Đạo Minh bỏ
trốn. Đồ đạc trong chùa đều bị
khuân sạch, trở thành một ngôi chùa không ai ở.
Đây chính là cơ hội để đạo tràng Linh
Nham được phục hưng. Nếu không, giả
như ông ta tận lực vâng giữ Thanh Quy, chắc chắn
chùa chẳng thể trở thành đạo tràng Tịnh Nghiệp
duy nhất trong cả nước được! Họa -
phước dựa dẫm lẫn nhau, chỉ do con người
khéo dụng tâm hay không mà thôi. Bắt nguồn từ việc
vị thân sĩ vùng Mộc Độc là ông Nghiêm
Lương Xán cậy nhà sư chùa Bảo Tạng là Minh Hú
thỉnh thầy của vị sư ấy là ḥa thượng
Chân Đạt tiếp nhận trông nom chùa. Ngài Chân Đạt
bèn phái người đến tiếp nhận, lại sai
Minh Hú đứng trông nom tạm thời, ư muốn có
người thích hợp sẽ biến chùa thành đạo
tràng thập phương chuyên tu Tịnh Độ. Năm
Dân Quốc mười lăm (1926), pháp sư Giới Trần[10] đến đây,
bèn giao cho Ngài làm Trụ Tŕ. Tăng chúng thường trụ
lấy hai mươi người làm hạn, trừ số
tiền huê lợi mấy trăm đồng ra, hễ [chi
tiêu] không đủ th́ ngài Chân Đạt bèn bù cho. Chẳng
quyên mộ, chẳng làm pháp hội, chẳng truyền pháp,
chẳng thâu đồ đệ, chẳng giảng kinh, chẳng
truyền giới, chẳng làm chuyện kinh sám thù tạc[11], chuyên nhất niệm
Phật. Khóa tụng mỗi ngày đều giống như
trong khi tiến hành Phật thất thông thường[12].
Trụ Tŕ bất luận thuộc tông Thiên Thai, Hiền Thủ,
Tào Động, hay Lâm Tế đều được, chỉ
quan tâm đến thứ tự, không quan tâm đến thế
hệ truyền thừa[13], chỉ cần là người
giới hạnh tinh ṛng, [giữ giới] nghiêm ngặt,
thông hiểu giáo lư, tin sâu Tịnh Độ là được.
Nếu những mặt khác đều khá nhưng chẳng
chuyên chú Tịnh Độ th́ quyết chẳng được
mời [làm Trụ Tŕ].
Từ
đấy trở đi, người đến ở ngày
càng nhiều, pḥng ốc chẳng đủ. Trong năm Dân
Quốc 21 (1932), trước hết dựng Niệm Phật
Đường, bốn năm năm qua, liên tục xây cất.
Nay điện Đại Hùng đă khánh thành, chỉ c̣n thiếu
điện Thiên Vương chưa xây, nhưng cũng chẳng
quan trọng chi lắm. Tháng Hai năm Dân Quốc 19 (1930),
Quang đến đây; tháng Tư liền bế quan, đă
hơn sáu năm rồi. Do già cả, bất tài, chỉ muốn
chết già trong nơi bế quan. V́ các vị trong hội Phật
giáo mời mọc, xin Quang mỗi ngày giảng khai thị một
lần trong pháp hội Hộ Quốc Tức Tai, chỉ rơ
lư “nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo”,
đề xướng pháp “tín nguyện niệm Phật, liễu
thoát ngay trong đời này” để cứu văn thế
đạo ḷng người. Cố sức từ chối chẳng
được, bèn vào ngày mồng Sáu tháng này ra khỏi chỗ
bế quan đến đất Hỗ (Thượng Hải),
nhằm trọn nghĩa vụ hộ quốc của tôi.
Ngày Mười Lăm viên măn, ngày Mười Sáu v́ họ
nói Tam Quy - Ngũ Giới. Sáng nay từ đất Hỗ trở
về đây, nhưng các vị như cư sĩ Quư Thánh
Nhất v.v… ở thành Tô Châu đă đến trước rồi.
Lên núi, trông thấy điện vũ nguy nga, Tăng chúng
thanh tịnh, ḥa thuận, khôn ngăn hoan hỷ tột bậc.
Nhân đó, được Giám Viện là đại sư Diệu
Chân mời vào trong pháp đường, v́ các vị diễn
nói pháp yếu[14] Tịnh Độ.
Nếu chỉ nói pháp yếu, chẳng nêu lai lịch và các
nhân duyên hiện thời th́ kẻ ở người tới
đều chẳng biết duyên do, rất có thể sẽ
coi đạo tràng này giống hệt như các đạo
tràng khác! Đối với người thông suốt rộng
lớn th́ không có ǵ là chẳng được, nhưng với
kẻ ngu độn như Quang, lại muốn thoát khỏi
ba cơi ngay trong đời này, lên chín phẩm sen cơi kia th́
chưa biết hướng về đâu. Do vậy, trước
hết phải thuật bày duyên khởi vậy (đoạn này người ghi
chép không sao lục lại, do chính lăo nhân chép thêm vào, cho nên
toàn viết bằng thể văn Văn Ngôn).
Pháp môn Tịnh Độ chúng ta đang tu tŕ
đây là pháp thù thắng, trỗi vượt nhất, mọi
người chớ nên xem thường. V́ sao vậy? V́ các
pháp môn do đức Phật đă nói không ǵ chẳng phải
là xét theo căn cơ để nói, giống như dựa
trên chứng bệnh mà cho thuốc vậy. Nếu như căn
cơ của chính ḿnh chẳng tương ứng với
pháp môn ấy mà cứ tu tập th́ rất khó được
lợi ích. Hết thảy pháp môn đều cậy vào Tự
Lực để tu Giới - Định - Huệ, đoạn
tham - sân - si, ắt phải đoạn sạch Hoặc nghiệp
mới có thể liễu sanh thoát tử. Nếu như phiền
năo c̣n sót mảy may nào chưa đoạn sạch th́ vẫn
chẳng thể tránh khỏi sanh tử, huống chi là kẻ
hoàn toàn chưa đoạn ư? Điều này cần phải
dùng sức của chính ḿnh thực hiện triệt để
th́ mới được.
Chỉ
có một pháp Niệm Phật là do đức Như Lai ứng
theo mọi căn cơ mà nói, cũng là do đại bi nguyện
lực của A Di Đà Phật thành tựu. Bất luận
thượng trung hạ căn đều có thể tu học.
Dẫu phàm phu hoàn toàn chưa đoạn được mảy
may phiền năo Hoặc nghiệp nào đi nữa, chỉ cần
đầy đủ ḷng tin chân thật, nguyện thiết
tha rồi thực hành niệm Phật cầu sanh Tây
Phương th́ cũng có thể được Phật tiếp
dẫn, đới nghiệp văng sanh. Hễ được
văng sanh liền có thể liễu thoát sanh tử; v́ thế,
nói [pháp môn này] là thù thắng nhất!
Khi đức Phật c̣n tại thế, mười
người tu hành có đến chín người có thể thành
đạo, v́ con người lúc đó thiên tánh thuần hậu,
căn cơ rất lanh lẹ, bén nhạy. Về sau này,
chúng sanh nghiệp chướng ngày càng tăng thêm, căn
cơ cũng dần dần hèn kém hẳn đi; nếu muốn
giống như trước th́ không thể được!
Nhưng vào thời Tấn, thời Đường, vẫn
có những người có thể cậy vào tự lực
để liễu thoát sanh tử, nhưng đă ngày càng giảm
ít, càng về sau càng ít. Cho đến hiện tại, đă
không c̣n có người giống như vậy nữa! Xét
theo đó, sẽ hiểu cậy vào sức của chính ḿnh
để đoạn phiền năo ḥng liễu sanh tử là một
chuyện rất khó. Lúc này, nếu vẫn chẳng biết
tự lượng sức, muốn ăn nói lớn lối,
coi nhẹ pháp môn Niệm Phật hoành siêu này, đi tu các
pháp môn khác th́ e rằng muốn liễu sanh tử c̣n khó
hơn lên trời!
Tôi hoàn toàn chẳng nói các pháp môn khác không hay, nhưng
thật ra là do các pháp môn có pháp khế lư nhưng không khế
cơ, có pháp khế cơ nhưng không khế lư. Chỉ có
pháp môn Niệm Phật này thích hợp khắp ba căn, gồm
thâu lợi căn, độn căn, lư lẫn cơ đều
phù hợp chẳng thể nghĩ bàn! Nhất là trong đời
Mạt Pháp này, nó lại càng thích hợp với căn tánh
chúng sanh. Do vậy, kinh Đại Tập dạy: “Đời
Mạt Pháp, ức ức người tu hành, hiếm một
ai đắc đạo. Chỉ nương theo pháp Niệm
Phật là được thoát khỏi sanh tử”.
V́
sao niệm Phật cầu sanh Tây Phương lại gọi
là pháp môn Hoành Siêu? Cổ nhân có lấy một thí dụ
để giải thích, tức là đem bọn phàm phu đầy
đủ Hoặc nghiệp chúng ta ví với một con sâu sống
trong lóng thấp nhất của một cây tre, cây tre ấy
ví cho tam giới. Con sâu ấy muốn thoát ra chỉ có hai
cách: Một là Thụ Xuất (thoát ra theo chiều dọc),
hai là Hoành Siêu (vượt ra theo chiều ngang). Thụ Xuất
chính là từ thấp lên cao, lần lượt đục
thủng từng lóng một, đến khi đục thủng
được lóng cao nhất th́ mới thoát ra được.
Đây là ví cho việc tu hành các pháp môn khác, chắc chắn
phải đoạn sạch Kiến Tư phiền năo th́ mới
thoát khỏi tam giới. Kiến Hoặc gồm tám
mươi tám Sử[15], Tư Hoặc gồm
tám mươi mốt phẩm, phẩm lượng nhiều
như vậy ví như số lóng của một cây tre. Con
sâu ấy đục hướng lên trên để thoát ra
th́ gọi là Thụ Xuất. Chẳng hạn như bậc
thánh nhân Sơ Quả đoạn Kiến Hoặc, phải
trải qua bảy lần sanh lên cơi trời, bảy lần
sanh trong cơi người, tu tập trong thời gian kiếp
số lâu dài mới có thể chứng được quả
A La Hán, liễu sanh tử. Nhị Quả cũng phải một
lần sanh lên trời, một lần trở xuống cơi người
mới có thể chứng được Tứ Quả. Tam
Quả tuy đă đoạn sạch Tư Hoặc thuộc
Dục Giới, nhưng vẫn phải ở trong Ngũ Bất
Hoàn Thiên[16], tu tập dần
dần theo thứ tự, mới có thể đoạn sạch
Tư Hoặc, chứng Tứ Quả. Đây là thoát khỏi
tam giới tính theo bậc Vô Học thánh nhân[17]. Nếu như là bậc
Tam Quả độn căn, phải sanh lên Tứ Không
Thiên, từ Không Vô Biên Xứ Thiên cho đến Phi Phi Tưởng
Xứ Thiên, mới chứng được Tứ Quả.
Cách Thụ Xuất gian nan lâu lắc như vậy đấy!
C̣n
Hoành Siêu là như con sâu ấy chẳng hướng lên trên
đục thủng từng lóng từng lóng một mà chỉ
cắn thủng một lỗ bên hông [lóng tre] liền thoát
ra được. Cách này so với
Thụ Xuất bớt được nhiều công sức
lắm. Người niệm Phật cũng giống
như thế, tuy chưa đoạn trừ Kiến Tư
phiền năo, chỉ cần có thể đầy đủ ba
món tư lương Tịnh Độ là Tín - Nguyện - Hạnh,
lâm chung liền có thể cảm động A Di Đà Phật
đến tiếp dẫn người ấy sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Đến được
cơi nước thanh tịnh đó rồi, Kiến Tư phiền
năo chẳng đoạn mà tự đoạn. V́ sao vậy?
Do Tịnh Độ cảnh thù thắng, duyên mạnh mẽ,
không có những cảnh duyên khiến cho con người nẩy
sanh phiền năo! V́ vậy liền đạt được
ba thứ Bất Thoái Chuyển, thẳng măi đến khi
phá Trần Sa Vô Minh, thành tựu Vô Thượng Bồ Đề,
có ǵ thẳng chóng, giản dị được bằng!
V́ thế, cổ nhân nói: “Học đạo nơi các môn
khác giống như con kiến ḅ lên núi cao. Niệm Phật văng sanh giống
như buồm căng gió lại được thuận
nước”. Nay tôi lấy một chuyện để chứng
minh đạo lư “Thụ Xuất gian nan”, mọi người
hăy lắng ḷng nghe lấy!
Trong niên
hiệu Đại Lịch (766-779) đời Đường
Đại Tông, có một ẩn sĩ tên là Lư Nguyên, biến
nhà thành chùa Huệ Lâm, thỉnh thiền sư Viên Trạch
làm Trụ Tŕ. Về sau, Lư Nguyên muốn đi Tứ Xuyên
triều bái núi Nga My; do vậy, bèn ước hẹn Viên Trạch
cùng đi. Viên Trạch muốn theo đường Trường
An đi qua Tà Cốc, đi theo đường bộ; Lư
Nguyên muốn từ Kinh Châu vào Giáp Sơn, đi theo
đường thủy. Hai người ư kiến bất
đồng đều là v́ có nguyên do. Lư Nguyên không biết
chuyện của Viên Trạch, nhưng Viên Trạch hiểu
rơ tâm của Lư Nguyên: Sợ đến Trường An rất
có thể bị người ta ngờ vực ông ta muốn
làm quan, nên Sư đi theo đường Kinh Châu.
Một
ngày nọ thuyền bơi đến vùng Nam Phố, do
nước sông chảy xiết nguy hiểm, trời
chưa tối đă cắm thuyền. Lúc ấy, có một
người đàn bà mặc áo chẽn bằng gấm,
đội ṿ đi lấy nước. Viên Trạch vừa
trông thấy bà ta, liền gục đầu, hai mắt ứa
lệ. Lư Nguyên hỏi han: “Từ Kinh Châu đến đây,
phụ nữ giống như thế này chẳng biết là
bao nhiêu, v́ sao thầy lại nẩy sanh bi cảm như thế?”
Viên Trạch nói: “Ta chẳng muốn đi theo đường
này tới đây chính là v́ sợ gặp phải bà này. Do bà
ta mang thai đă ba năm vẫn chưa sanh nở v́ đợi
ta đến đầu thai. Nay đă thấy rồi, không
c̣n cách nào để trốn tránh được nữa. Xin
ông ở lại mấy ngày, giúp cho tôi mau sanh và chôn tôi trong
hang núi. Ba ngày sau xin đến gặp tôi. Trước mặt
ông, tôi sẽ cười một tiếng để làm tin.
Mười hai năm sau, đêm Rằm Trung Thu, đến
ngoài chùa Thiên Trúc ở Hàng Châu gặp tôi”.
Nói xong
bèn thay áo, tắm gội, ngồi qua đời. Lư Nguyên có hối
hận cũng không kịp, chỉ đành mai táng Viên Trạch.
Ba ngày sau, đến nhà nọ để xem, quả nhiên,
người đàn bà sanh được một đứa
con trai. Nhân đó, đem chuyện ấy kể cặn kẽ
với người ta, xin gặp mặt đứa bé, quả
nhiên nó cười một tiếng làm tin. Do vậy, Lư Nguyên
không c̣n muốn đến Tứ Xuyên nữa, quay về Lạc
Kinh (Lạc Dương), về tới chùa Huệ Lâm, mới
biết trước lúc Viên Trạch lên đường
đă dặn ḍ hậu sự cặn kẽ; v́ thế, càng
thêm biết Ngài chẳng phải là người tầm
thường! Mười hai năm sau, Lư Nguyên theo đúng
ước hẹn đến Hàng Châu, tới đêm Rằm
Trung Thu, đợi ở ngoài chùa Thiên Trúc. Quả nhiên, ánh
trăng vừa rọi, chợt nghe bên bờ giếng Cát Hồng
có đứa bé chăn trâu cỡi trâu, ca lên:
Tam sinh
thạch thượng cựu tinh hồn,
Thưởng
nguyệt ngâm phong bất yếu luân,
Tàm quư
t́nh nhân viễn tương phỏng,
Thử
thân tuy dị, tánh thường tồn.
(Trên
đá ba sinh, vẫn nguyên hồn
Ngâm gió,
thưởng trăng lọ phải bàn
Thẹn
thấy người xưa t́m đến gặp
Thân này
tuy khác, tánh thường c̣n).
Lư Nguyên liền biết
nó chính là thân đời sau của Viên Trạch, liền
bước đến thăm hỏi: “Ngài Viên Trạch mạnh
giỏi hay chăng?” Đứa bé chăn trâu đáp: “Ông Lư
quả thật là người đáng tin tưởng!” Nói
chuyện sơ sài mấy câu xong, lại xướng rằng:
Thân tiền
thân hậu sự mang mang,
Dục
thoại nhân duyên khủng đoạn trường.
Ngô Việt
giang sơn du dĩ biến,
Khước
hồi yên trạo, thượng Cù Đường.
(Thân
trước, thân sau sự vấn vương
Bàn chuyện
nhân duyên luống đoạn trường
Ngô,Việt
giang sơn chơi khắp cả,
Gác chèo
mây khói, vượt Cù
Đường)
Rồi cưỡi trâu
đi mất. Như vậy, thấy được rằng:
Viên Trạch có bản lănh biết chuyện quá khứ, vị
lai và “ngồi mất, đứng thác”, nhưng vẫn
chưa thể liễu thoát sanh tử, trốn tránh bào thai;
huống ǵ bọn phàm phu đầy dẫy triền phược
chúng ta, một chút bản lănh cũng không có ư? Nếu chẳng
niệm Phật cầu sanh Tây Phương mà muốn liễu
sanh tử th́ có nằm mộng cũng mộng chẳng
được!
Có kẻ nói: “Đạo
lư minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật trong Thiền
Tông chẳng phải là rất hay ư?” Trọn chẳng biết
“kiến tánh thành Phật” chính là thấy được vị
Phật thiên chân trong Tự Tánh th́ gọi là “thành Phật”,
hoàn toàn chẳng phải là trở thành vị Phật rốt
ráo viên măn phước huệ! V́ sao vậy? Là v́ người
trong Tông Môn (Thiền Tông) khi công phu đạt đến mức
khai ngộ liền biết chân tánh của chính ḿnh lẫn
người khác vốn giống hệt như Phật, v́
thế gọi là “kiến tánh thành Phật”. Nhưng những
phiền năo thô - tế[18]
của người ấy c̣n chưa đoạn mảy may
nào, bất quá, có thể thường tự giác chiếu[19],
chế ngự phiền năo, xử sự gần giống với
bậc thánh nhân. Nếu đánh mất công phu giác chiếu,
không chế ngự được phiền năo, bèn tạo
nghiệp so với người khác lại càng dữ dội
hơn, v́ trong phiền năo của kẻ ấy có chen lẫn
sức mạnh khai ngộ, biến thành cuồng huệ. Bởi
đó, năng lực tạo nghiệp cũng mạnh mẽ
dị thường! Như vậy th́ không những chẳng
có hy vọng thành Phật, mà c̣n phải đọa lạc
trong ba đường ác. V́ thế, người đă khai
ngộ càng phải ra sức tấn tu, luôn luôn giác chiếu.
Đến khi đoạn sạch Kiến Tư phiền
năo mới là lúc liễu sanh thoát tử, hoàn toàn chẳng phải
là hễ ngộ liền liễu! Giống như thiền
sư Ngũ Tổ Giới và Thảo Đường Thanh
thuở trước, do ngộ rồi nhưng chưa chứng,
vẫn không tránh khỏi nỗi khổ luân hồi. Vết
xe đổ rành rành, chẳng thể không biết! Nếu
nói là “thật sự thành Phật” th́ lại càng sai rất
xa!
Làm sao mới
trở thành đức Phật rốt ráo phước huệ
viên măn? Nói theo tông Thiên Thai, một vị Bồ Tát thuộc
địa vị Thất Tín trong Viên Giáo đă đoạn
sạch Kiến Tư Hoặc, khi tu đến địa
vị Thập Tín mới phá hết Trần Sa. Lại phải
tu lần lượt Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, bốn
mươi mốt địa vị, mỗi [địa vị]
phá một phẩm vô minh bèn tiến lên một địa vị
[cao hơn], được một phần Tam Đức bí
tạng. Theo thứ tự như thế, đến địa
vị cuối cùng là Đẳng Giác mới đoạn sạch
bốn mươi mốt phẩm vô minh, lại đoạn
một phẩm vô minh, tiến lên một địa vị
nữa, mới có thể thành tựu quả Phật rốt
ráo phước huệ viên măn. Như vậy, quả thật
chẳng phải là chuyện dễ dàng. Mọi người
hiểu được đạo lư này th́ mới chẳng
hiểu lầm!
Lại
có người nói: “Tự Tánh của mỗi người
chúng ta vốn là chẳng nhiễm mảy trần, thanh tịnh
trong lặng, đấy chính là Tịnh Độ. Tự
Tánh vốn chẳng sanh, chẳng diệt, xưa nay thường
hằng, chẳng dời, chẳng biến, chính là Vô Lượng
Thọ. Tự Tánh vốn sẵn đủ đại trí
huệ quang minh, chiếu trời, soi đất, chính là Vô
Lượng Quang. Nếu như ĺa khỏi Tự Tánh sẵn
có ấy, muốn có riêng một cơi Tịnh Độ để
sanh, [có một vị] Phật Di Đà để thấy,
đấy chính là trên đầu chồng thêm một cái
đầu nữa, không có lẽ nào!” Nếu tưởng như
thế chính là đạo lư Thiền Tịnh Song Tu th́
cũng là lầm lẫn rồi! Nếu nói như vậy
th́ hoàn toàn là thiên về Thiền Tông, hoàn toàn chẳng thích hợp
cho Tịnh Tông. V́ sao biết được [như vậy]?
Là v́ Thiền Tông chẳng dạy người ta sanh ḷng tin
phát nguyện, cũng chẳng dạy người ta niệm
Phật, chỉ dạy người ta tham cứu thoại
đầu[20]
nhằm cầu minh tâm kiến tánh. Đấy chính là nói: “Ĺa ngoài tự tánh chẳng có Tịnh
Độ để có thể sanh, [chẳng có] Di Đà
để thấy!” Nói tuy không sai, nhưng rốt cuộc
vẫn thiên về kiến giải thuộc lư tánh, chẳng
thể dung thông với sự tướng mà cũng cách biệt
với sự lư vô ngại của Tịnh tông, nên nói “không
phải là Thiền Tịnh Song Tu!” Người tu Tịnh
Độ chuyên lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm
tông, mọi người phải hiểu rơ ràng!
Lại
có thuyết “tức thân thành Phật”
(thành Phật ngay trong thân này) của Mật Tông. Nếu
mới nghe qua, chuyện như thế khiến con người
rúng động; nhưng trên mặt sự thật, trọn
chẳng thể nhanh chóng, thuận tiện như vậy. Ư
nghĩa của “tức thân thành Phật” là nói công phu của
Mật Tông khi tu đến thành công th́ có thể thành đạo
ngay trong thân này; nhưng sự thành đạo như vậy
chẳng qua là liễu sanh tử mà thôi! Miễn cưỡng
nói là “thành Phật” th́ c̣n có thể miễn cưỡng chấp
nhận được! Nếu coi là thật sự thành
được vị Phật đoạn rốt ráo Ngũ
Trụ[21],
vĩnh viễn hết hai loại chết (phần đoạn
và biến dị sanh tử) th́ lầm lạc quá đỗi!
Ví như một đứa bé con, cạo trọc đầu
đi, ai nấy đều gọi nó là Ḥa Thượng[22];
hay là vị tỳ-kheo đă thọ Tam Đàn Đại Giới[23]
cũng được gọi là Ḥa Thượng; hay là vị
Phương Trượng đứng đầu chốn
tùng lâm[24]
cũng gọi là Ḥa Thượng. [Những loại] Ḥa
Thượng như trên, miễn cưỡng gọi th́
cũng được. Nếu coi [những người ấy]
thật sự là Ḥa Thượng th́ cũng không đúng. Nói
đúng sự thực th́ phải [là người] có đạo
đức, học vấn, có sức làm cho người khác
sanh trưởng Pháp Thân huệ mạng th́ mới đúng
là Ḥa Thượng danh phù hợp với sự thực.
Phải biết thế giới
này của chúng ta, trong Phật pháp của đức Thích Ca
Mâu Ni Phật, chỉ có một ḿnh đức Thích Ca Mâu Ni
Phật là thành Phật ngay trong thân này. Lại phải đến
khi đức Di Lặc Phật hạ sanh th́ mới có thể
tính là có một vị Phật nữa thành Phật ngay trong
thân này. Trong khoảng thời gian sau khi đức Thích Ca diệt
độ và ngài Di Lặc chưa giáng sanh, muốn t́m lấy
một người thành Phật ngay trong thân này th́ bất
luận ra sao cũng không thể có được! Dẫu chính
Phật Thích Ca ứng hiện trong thế gian lần nữa,
cũng không thị hiện đạo lư “thành Phật ngay
trong thân” này!
Vào đời
nhà Thanh trước kia, trong khoảng từ niên hiệu
Khang Hy đến niên hiệu Càn Long, Phật Sống[25]
Tây Tạng đến khi lâm chung biết chết rồi sẽ
phải đi đầu thai trong nhà nào, dặn lũ đệ
tử đến lúc ấy đi rước ông ta. Khi đẻ
ra, cũng nói được ông ta là Phật Sống ở
chỗ nào đó. Tuy có bản lănh như vậy, cũng vẫn
chưa phải là thành Phật ngay trong thân này! V́ sao biết
được? V́ nếu quả thật là thành Phật
ngay trong thân này, tự nhiên sẽ giống như Phật
Thích Ca, nói được các thứ phương ngôn (ngôn ngữ
riêng của từng địa phương), dùng một tiếng
thuyết pháp cũng có thể khiến cho hết thảy
chúng sanh đều hiểu được. Cớ sao Phật
Sống Tây Tạng, [đối với] ngôn ngữ Trung Quốc
lại không biết? Một chuyện nhỏ như vậy
đủ để chứng minh ông ta không phải là thành
Phật ngay trong một đời. Huống chi sau này Phật
Sống khi chết đi chẳng để lại lời
ǵ? Lúc sống cũng chẳng có biểu hiện ǵ, đều
là do người khác xếp đặt, bốc thăm
để quyết định[26],
vậy th́ chẳng cần phải nói ǵ nữa!
Hơn nữa,
công phu tu Mật Tông muốn thành công cũng rất khó
khăn. Nếu chuyên cầu mau đạt được
thần thông, chẳng khéo dụng tâm, lại c̣n bị nguy
hiểm gặp phải ma sự, vẫn chẳng ổn thỏa,
thích đáng bằng Niệm Phật. Năm Dân Quốc
mười bảy (1928), ở Thượng Hải có một
người đệ tử quy y mời tôi đến nhà
ông ta dùng cơm chay và nói trong gia đ́nh ông ta có một
người thân thích là một nữ cư sĩ học Phật
đă nhiều năm, học vấn cũng rất khá,
đă hơn năm mươi tuổi, gọi bà ta đến
tṛ chuyện có được hay không? Tôi nói: “Được
chớ!” Ông bèn kêu bà ta đến. Đến khi gặp mặt,
tôi bảo bà ta: “Tuổi đă cao rồi! Hăy nên mau niệm
Phật cầu sanh Tây Phương”. Bà ta đáp: “Tôi chẳng
cầu sanh Tây Phương, tôi muốn sanh trong thế giới
Sa Bà!” Tôi liền trả lời bà ta: “Chí hướng của
bà hèn kém quá!” Bà ta lại nói: “Tôi muốn thành Phật ngay
nơi thân này”. Tôi lại đáp lời bà ta: “Chí hướng
của bà cao xa quá! Sao không chịu văng sanh thế giới
thanh tịnh kia, cứ muốn sanh trong thế giới
trược ác này? Phải biết rằng: Đạo lư
‘thành Phật ngay nơi thân này’ là có, thế nhưng hiện
thời không có ai được như vậy cả, mà
cũng chẳng phải là chuyện bà hay tôi có thể làm
được!” Người không thông hiểu đạo
lư như vị nữ cư sĩ ấy, hoàn toàn không có chút
ǵ biết tự lượng sức, ăn nói lớn lối,
quả thật là tự lầm, lầm người vậy!
Lại
có hai người cầu sanh trong thế giới Hoa Tạng.
Có một ngày, người kia mắc bệnh, người
này bèn đến thăm. Sau đấy, do thấy người
kia bệnh t́nh không xong, liền gấp rút bảo người
kia niệm “Nam Mô Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, Hoa Tạng Hải
Hội Phật Bồ Tát”, mọi người cũng ở
bên cạnh trợ niệm cho ông ta. Sau một khắc bèn hỏi
ông ta có thấy cảnh giới ǵ hay không? Ông ta đáp:
“Không có!” Hỏi như vậy hai ba lần đều nói
“không có!” Đến lần cuối cùng, ông ta bèn nói: “Mẹ
đă đến rồi!” Ôi chao! Có hỏi ông ta như vậy
mới biết bọn họ [tu] như thế không thể
nào chắc ăn được! Là v́ trong tâm bọn họ,
do niệm Phật hiệu như thế và mong mỏi
như thế, lẽ ra phải trông thấy thế giới
Hoa Tạng mới đúng, sao lại đâm ra thấy cảnh
giới thọ Ấm trong thai mẹ? Từ đấy về
sau, ông ta mới quay đầu tu pháp môn Tịnh Độ.
Quư vị phải
hiểu rằng: Phải là bậc Pháp Thân Đại Sĩ
phá được mấy phần vô minh th́ mới có thể
thấy được thế giới Hoa Tạng, sanh [về
đó] được! Ngoài ra, [dẫu là] bậc Bồ Tát
đoạn sạch Trần Sa Hoặc cũng chưa có phần,
huống hồ phàm phu đầy dẫy triền phược
ư? Trong hội Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử
đă chứng Đẳng Giác mà Phổ Hiền Bồ Tát vẫn
dạy Ngài và Hoa Tạng hải
chúng dùng mười đại nguyện vương hồi
hướng Cực Lạc để mong viên măn Phật Quả.
Đủ biết pháp môn Tịnh Độ không căn
cơ nào chẳng gồm thâu. V́ thế, tôi thường
nói: “Chúng sanh trong chín giới bỏ
pháp môn Niệm Phật th́ trên là không thể do đâu viên
thành Phật đạo được; mười
phương chư Phật bỏ pháp môn Niệm Phật
th́ dưới là không do đâu độ khắp quần
manh”, chính là v́ duyên cớ này đấy! Ví như người
trong thiên hạ, ai nấy đều phải ăn cơm
th́ ai nấy cũng đều phải niệm Phật.
Kính khuyên
các vị, chớ nên không tự lượng sức, vọng
tưởng làm hạng phi thường. Nói chung là phải
chất phác niệm Phật cầu sanh Tây Phương th́ mới
chẳng cô phụ đức Như Lai đă nói pháp môn tổng
tŕ “trên thành Phật đạo,
dưới hóa độ chúng sanh, thành thỉ thành chung” này
và chẳng đến nỗi uổng phí nhân duyên thù thắng
mười phương tụ hội tại đạo
tràng Linh Nham thanh tịnh này. Mong mọi người hăy trân
trọng!
XVI. Đức
Dục Khải Mông[27]
1. Hiếu
thảo với cha mẹ
Thân thể,
tóc, da, nhận từ cha mẹ. Cha mẹ và ta, thật là một
thể. Ta thương thân ta, hăy hiếu cha mẹ, chẳng nhục thân ta, mới là làm cho cha mẹ
vinh hiển.
2. Ḥa thuận,
yêu thương anh em
Anh em, chị
em, chân tay, cốt nhục, liên quan mật thiết, sướng
- khổ cùng nhau, anh thương, em kính, ḥa thuận, vui vẻ,
nâng đỡ, thương yêu, gia đ́nh có phước!
3. Kính thầy
Thầy
nghiêm, đạo trọng, nêu gương luân thường,
đạo đức, học vấn, ắt phải noi
theo, lấy đó làm gương. Thầy nuôi dạy ta, vỡ
ḷng cho ta, dạy ta mẫu mực, chẳng kính trọng thầy,
làm sao được ích?
4. Chọn
bạn
Gần
son th́ đỏ, gần mực ắt đen. Chơi với
bạn bè, có kẻ tổn hại, có kẻ tạo ích. Ích
th́ thân cận, tổn th́ lánh xa. Khuyên lành, răn lỗi,
toàn nhờ vào đấy!
5. Áo vải
Áo cốt che thân, và
để chống lạnh. Mặc áo vải thô, tiếc
phước, dưỡng khiêm. Đừng ham lượt
là, gấm thêu, hoa mỹ. Phước thọ hao tổn, tự
rẫy, tự ruồng.
6. Ăn
chay
Ăn chay hợp dinh
dưỡng. Ăn thịt hại sinh vật. Tâm hận
lúc bị giết, khiến thịt độc chẳng vừa.
Hăy đừng tham ăn thịt, hễ ăn phải trả
đền, cho tới lúc phải trả, thật đáng
thương xót sao!
7. Tiếc
chữ
Chữ
là quư báu nhất, vàng, ngọc vẫn thua xa. Người do
chữ trí sáng; nếu không, sẽ ngu si. Nếu cơi đời
không chữ, chẳng việc nào thành được, con người và cầm thú, chỉ khác
nhau cái tên!
8. Tiếc
ngũ cốc
Ngũ cốc
nơi ruộng rẫy, dùng để nuôi nhân dân. Biết
quư tiếc ngũ cốc, đấy chính là thiện tâm. Người
tu thiện th́ c̣n, kẻ chẳng lành ắt mất. Tiếc
ngũ cốc được phước, phung phí gặp
tai ương.
9. Tiếc
thời gian
Bảy
mươi xưa nay hiếm, khảy ngón tay liền qua. Hễ
qua chẳng c̣n nữa, nào dám biếng nhác sao? Nỗ lực
chăm học tập, lập đức lẫn lập
nghiệp, tự lợi và lợi tha, nêu gương mẫu
cho đời.
10. Trượng
nghĩa (coi trọng điều
nghĩa)
Trong nhất
cử, nhất động, chỉ chú trọng điều
nghĩa, hễ điều nghĩa tồn tại, không ǵ
chẳng lợi ích. Tiểu nhân thấy điều lợi,
liền quên bẵng nghĩa ngay. Tuy được lợi
nhỏ nhặt, rốt cuộc chịu thiệt tḥi!
11. Thanh
liêm
Phước
trạch trong đời người, do đời trước
tu tập. Vật phi nghĩa vẫn lấy, là ăn nuốt
món độc. Trong sạch chẳng ô nhiễm, liêm khiết
chẳng tham lam, sẽ được đời sùng kính,
vinh hiển không chi hơn!
12. Biết
thẹn
Một
chữ hổ thẹn, lợi lạc vô cùng, hễ có ḷng thẹn,
gần gũi thánh nhân. C̣n nếu không có, khác ǵ loài thú! Giữ
ḷng hổ thẹn, không ǵ mà chẳng, tạm chế ngự
được. Đức Phật giáo huấn, trang nghiêm
đệ nhất.
13. Tận
trung
Một mực
giữ chân thành, chẳng hề dối trá, thờ cha mẹ,
tiếp vật, trọn chẳng sanh hai ḷng. Chỉ mong trọn
bổn phận, chẳng bận tâm người khác, có biết
tới hay không. Con người được như thế,
gương mẫu của thế gian.
14. Thủ
tín (giữ chữ tín)
Người
biết giữ chữ tín, chẳng nói năng bừa băi,
nói được liền làm được, chẳng khoe
khoang, phô trương. Con người thiếu chữ tín,
chuyện ǵ cũng giả tạo, bị người khác
chán bỏ, chẳng bằng trâu, ngựa đâu!
15. Nhân từ
Nhân ái từ
bi, mối thiện của tâm. Tâm càng chân thật, phước
trạch càng sâu. Nếu thiếu tâm ấy, tàn nhẫn, hà khắc.
Dẫu có túc phước, khi hao tổn sạch, sẽ bị
nguy hiểm.
16. Không
sát sanh
Phàm là
động vật đều có tri giác, tham sống, sợ
chết, chỉ tiếc mạng sống. Nếu đùa bỡn
giết và giết để ăn, đời này, đời
sau, quyết định báo đền.
17. Không trộm
cắp
Phàm vật
có chủ, chớ nên lấy trộm. Ăn cắp món nhỏ,
chôn vùi phẩm đức, ăn cắp món lớn, sẽ mắc
họa to. Trộm vật của người, phước
ḿnh hao tổn, ḿnh, muốn được tiện nghi,
đâm ra lỗ lớn!
18. Không tà
dâm
Dâm dục
có hại, tổn thân, vùi chí. Dẫu là chồng vợ,
cũng nên tiết chế. Nếu cứ tà dâm, rất không
hợp lẽ. Từ xưa đến nay, bậc có chí
hướng, không một ai phạm!
19. Không
nói dối
Lời
nói tỏ hạnh, thuật bày bổn tâm. Tâm đă không thật,
hạnh sao chánh được? Mong lũ trẻ
ngươi, đừng nên nói dối. Miệng đúng, tâm
sai, trọn chẳng ra ǵ!
20. Không
hút thuốc
Thuốc
nào cũng đừng hút, bởi trái phép vệ sinh. Miệng
thường có mùi hôi, xông sực phiền trời người.
Nha phiến, thuốc lá thơm, chất độc mạnh
mẽ nhất. Tốn tiền mua lấy hại, kẻ si thật
đáng thương!
21. Không uống
rượu
Rượu
là thuốc gây cuồng, uống vào ắt loạn tánh, say
sưa trái lẽ thường, vượt lễ lẫn phạm
phận, tốt nhất đừng nên uống, để
khỏi uống quá đà! Người thông minh trí huệ,
thường giữ thân trong sạch.
22. Không cờ
bạc
Cờ bạc
lẫn cờ tướng. Hèn chí, mất thời gian. Nếu
chuyên tâm vào đó, vứt bỏ chuyện chánh đáng. Đem
quang âm hữu hạn, phí vào tṛ trẻ con. Tan nhà hao tài sản,
tội chẳng có lúc ngơi!
23. Đừng
xa xỉ
Xa xỉ
khoe giàu có, mua họa, chuốc nghèo hèn. Quân tử chẳng
nh́n tới, đạo tặc đến cướp giựt.
Mặc áo vải, cơm rau, là cung cách thánh hiền. Đời
này lẫn đời sau, ai nấy đều noi
gương.
24. Đừng
ngạo mạn
Kẻ ngạo
mạn khinh người, thực sự phô khuyết điểm,
người sáng suốt biết rơ, học vấn lẫn
hàm dưỡng của kẻ đó ít ỏi. Dẫu đă
là thánh nhân, vẫn chẳng hề khinh người. Thường
luôn tâm niệm rằng: “Trọn chẳng có thánh - phàm”.
25. Đừng
ghen ghét
Người
có tài đức, ta nên khen ngợi. Người ấy ắt
sẽ cống hiến xă hội. Nếu sanh ghen ghét, chê là
ngu si, nghiệp báo đoạt mất huệ căn đời
trước.
26. Đừng
thiên kiến
Người
mang trí nhỏ, chưa nghe đại đạo, thường
chấp ư ḿnh là hay tuyệt nhất. Đáy giếng nh́n trời,
sở kiến bé tí. Nếu lên núi cao, sẽ hiểu rơ ràng cái
thấy trước kia.
27. Đừng
nóng giận
Có kẻ
phú quư ḷng dạ hẹp ḥi, thường do trái ư, phẫn nộ
đùng đùng. Nóng giận vô ích, phiền năo ta người,
rộng lượng, khoan dung, của báu vô giá.
28. Hỏi
han đừng thẹn
Hỏi
được những điều vốn không thể hỏi,
hỏi nhiều về điều ḿnh vốn kém thiếu,
mong người chiều ḿnh, phải nhún ḿnh trước.
Nếu là vô tri, càng nên hỏi người, học rộng,
hỏi kỹ, bản lănh chân thật.
XVII. Những
lời Bạt của bộ Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tam Biên
1. Lời
bạt thứ nhất
Hai bộ
Văn Sao Chánh Biên và Tục Biên của Ấn Quang đại
sư trước sau được ấn hành không dưới
một trăm mười vạn bộ, lưu truyền
khắp trong ngoài nước. Năm Dân Quốc 29 (1940), sau
khi Ấn công sanh Tây, chư sơn tôn túc, các vị tri thức
trong nước lũ lượt sao lại những bài viết,
thư từ của đại sư chưa được
đưa vào hai bộ Chánh Biên và Tục Biên gởi cho Ấn
Quang Đại Sư Vĩnh Cửu Kỷ Niệm Hội
thuộc Hoằng Hóa Xă ở Thượng Hải. Sau đấy,
cư sĩ La Hồng Đào phát tâm biên tập bộ Ấn
Quang Đại Sư Ngoại Tập, từng bốn lần
đăng thông cáo tỏ ư trưng cầu di trước[28]
của đại sư trên Hoằng Hóa Nguyệt San. Sau bảy
năm sưu tập, cuối cùng trong năm 1950, đúng
mười năm sau ngày Ấn Công sanh Tây, tức ngày mồng
Bốn tháng Mười Một Âm lịch, kết tập
thành sách. Thỉnh pháp sư Huệ Dung sao chép lại bằng
kiểu chữ Khải và được ḥa thượng
Diệu Chân, lăo pháp sư Đức Sâm và cư sĩ Đậu
Tồn Ngă xét duyệt, giảo chánh, đối chiếu. Vào
mùa Xuân năm 1958, sắp xếp thành bộ sách gồm
mười sáu quyển, cộng thêm một quyển ghi mục
lục nữa thành mười bảy quyển. Do nhân duyên
chẳng đủ, không thể ấn hành được,
bèn đem bản thảo này giao cho chùa Linh Nham ở Tô Châu,
do ḥa thượng Diệu Chân bảo tồn, trân trọng
cất giữ tại lầu tàng kinh.
Trải mười
năm tai kiếp dồn dập, Linh Nham Sơn Tự liên
tiếp bị phá hoại. Nguyên Đán năm 1980, Linh Nham
được phục hồi, Minh Học phát hiện
được bản thảo này trong rương đựng
bộ Long Tạng (Càn Long Đại Tạng Kinh được
khắc vào đời Thanh) trong lầu tàng kinh, hoàn chỉnh
không bị hư hao ǵ. Sau cơn tai kiếp, bộ sách may mắn
vẫn c̣n, càng thêm trân quư, sanh ḷng hoan hỷ lớn lao, cảm
kích sâu xa Ấn Công trong cơi Thường Tịch Quang đă phóng
từ quang gia bị nên mới được như vậy.
Tháng Chạp năm 1984, Minh Học đến chùa Quảng
Hóa ở huyện Bồ Điền, tỉnh Phước
Kiến, yết kiến lăo pháp sư Viên Chuyết, bàn bạc
chuyện này, tính ấn hành lưu thông, liền được
cụ Viên từ bi tán đồng. Trong năm 1989, cụ
Viên dẫn pháp sư Tŕ Đức đến Linh Nham
Sơn Tự, đem nguyên bản về chùa Quảng Hóa, bắt
tay ấn loát và do chính cụ Viên cùng mấy vị cư
sĩ nhiệt tâm phụ trách giảo chánh, đối chiếu.
Nhằm viên măn túc nguyện, ban ân huệ tốt lành cho tứ
chúng, trong dịp kỷ niệm tṛn năm mươi
năm Ấn Quang đại sư sanh Tây, Linh Nham Sơn Tự
đă từng tái bản bộ Tăng Quảng, Tục Biên
Văn Sao, nay lại ấn hành bộ sách này. Thời tiết,
nhân duyên thật là hy hữu, khôn ngăn tán thán, hoan hỷ,
kính cẩn ghi lại.
Linh Nham Sơn Tự
Minh Học kính cẩn viết (ngày mồng Một
tháng Mười năm 1990)
2. Lời
bạt thứ hai
Đại
sư Ấn Quang chùa Linh Nham là Thái Sơn, Bắc Đẩu
trong pháp môn đương thời, tận lực đề
xướng Tịnh Độ, khuông pḥ chánh pháp, công lao thật
vĩ đại. Bộ Chánh Biên và Tục Biên do đại
sư biên soạn đă được sớm lưu hành rộng
răi khắp trong ngoài nước. Cư sĩ Lư Viên Tịnh
biên tập cuốn [Ấn Quang Pháp Sư] Gia Ngôn Lục,
cư sĩ Lư Tịnh Thông lại biên tập cuốn [Ấn
Quang Đại Sư Văn Sao] Tinh Hoa Lục, cũng đều
được lưu truyền thật rộng. Tứ
chúng mấy người góp sức vào một bộ sách,
trước sau phát hành không ngờ tới một trăm
mười vạn bộ, cổ kim hiếm khi thấy sách
nào được lưu truyền bền bỉ, phổ biến
tới mức ấy!
Sau khi đại sư
viên tịch, cư sĩ La Hồng Đào lại sưu tập
rộng răi di cảo, biên tập thành bộ sách Văn Sao Đệ
Tam Biên. Sách chưa được lưu hành trong cơi đời
th́ ông La cũng quy Tây, nguyên cảo được cất giữ
hai ba chục năm, trải qua nhiều cảnh tang
thương, rốt cuộc vẫn tồn tại nguyên vẹn.
Nay Linh Nham và Quảng Hóa cùng tính ấn hành, đại
sư giă biệt cơi đời đă năm chục năm,
bộ sách này được ấn hành, đủ chứng
tỏ ân trạch của đại sư để lại
đă thấm sâu vào ḷng người, dẫu lâu ngày chẳng
bị mất đi, cũng như cho thấy Phật pháp
chẳng thể nghĩ bàn.
Trong những bài
được thâu thập trong bộ sách này, phần
thư từ chiếm nhiều nhất. Lúc Sư trụ thế,
xa - gần hỏi pháp dằng dai chẳng ngớt. Sau khi Một
Lá Thư Trả Lời Khắp được phân phát,
người thưa hỏi vẫn nhiều, đại
sư từ bi hễ hỏi ắt đáp, lại c̣n suy xét
cặn kẽ. Dẫu tuổi đă chiều tà, chẳng cẩu
thả một nét bút nào, tinh lực tràn trề, khác xa
phường tầm thường; trước sau đẹp
đẽ thật đáng sánh tầy công hạnh “mỗi
ngày làm một trăm lẻ tám việc lành” của tổ
Vĩnh Minh Diên Thọ. Đây đều là bản lănh của
bậc đại nhân tiên sinh, chứ phàm phu chẳng thể
suy lường ḥng thấu hiểu đôi chút nào được!
Than ôi! Đại
sư đă khuất bóng rồi! Không c̣n hỏi han
được nữa! Nay có được nhân duyên đọc
tụng thù thắng, may mắn được biết tới
tác phẩm khó nghe, khó gặp, càng thêm trân trọng, tiếc
nuối, chỉ một mực chân thành, chuyên dốc, đổ
hết sức thực hành th́ mới chẳng phụ tấm
ḷng đau đáu của bậc triết nhân kỳ lăo đáng
trọng và thật sự thọ dụng được. Ngoài
những lời hoan hỷ khen ngợi, kính cẩn viết
đôi lời thừa thăi để ghi thêm vào sau sách.
Đầu mùa Hạ
năm Canh Ngọ (1990), đệ tử Cống Nam
Dương Trí Kiên đảnh lễ kính cẩn ghi lời
bạt tại Phước Châu Xă Đoàn.
3. Lời
bạt thứ ba
Phàm đoạn Hoặc chứng Chân,
liễu sanh thoát tử, há phải chuyện nói dễ dàng
ư? Hạng Xiển Đề[29]
không có ḷng tin cố nhiên chẳng cần phải bàn tới,
nhưng ngay cả kẻ quy y Phật giáo, học Phật mấy
chục năm, vẫn thường chưa vào được
cửa! Cửa c̣n chưa vào được, há mong chi
đoạn Hoặc, chứng Chân, liễu sanh thoát tử
ư? Do lẽ này, người học Phật th́ đông,
nhưng kẻ thành tựu ít lắm! Năm mươi mấy
năm trước đây, tôi đă được đọc
Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao, thoạt đầu chưa
biết chỗ mầu nhiệm, sau này đọc đi
đọc lại, mới tạm thấy được
sơ sài cửa nẻo. Nay đă nhằm lúc nắng nhạt
ngọn dâu, kỳ hạn chết sắp tới, đọc
lại di biên, hoảng nhiên đại ngộ, biết sâu
xa phàm phu đời Mạt thật sự muốn đoạn
Hoặc, chứng Chân, liễu sanh thoát tử, nếu chẳng
noi theo di giáo của Ấn Công há có được chăng?
Cửa ngơ để học Phật là ở đây vậy!
Xin được tŕnh bày đại lược.
Một
là lúc mới nhập đạo, lúc vừa mới cất
bước [tiến lên đường tu tập], ắt
phải noi theo di giáo của Ấn công: Hăy dốc sức
nơi công phu “khắc kỷ,
phục lễ, nhàn tà, tồn thành”. “Khắc” là chiến
thắng. “Kỷ” chính là tư dục. Cảnh lục trần,
sự vui ngũ dục là những thứ tâm phàm phu thường
luôn ưa thích, ư luôn hâm mộ. Thô là thanh sắc, vật chất,
lợi lộc; Tế là học vấn, tri kiến cho đến
tiến - thoái, chê bai - khen ngợi, thịnh - suy, được
- mất, sống - chết, họa - phước. Phàm những
ǵ đủ để đánh động cái tâm của ta
đều là tư dục, ắt phải chiến thắng
chúng, chẳng để cho mảy may nào c̣n tù đọng
trong ngực. Sau đấy, tâm địa rỗng rang, sáng
sủa, trong vắt như lưu ly, thoát ĺa, thong dong tự
tại, không bị chướng ngại. Ắt phải đạt
đến mức độ ấy th́ học Phật mới
có chỗ hữu dụng để tiến tu được.
“Phục” là trở lại, “lễ” chính là lư. Chiến thắng
được ḷng ham muốn của chính ḿnh (tư dục)
th́ mới trở về với lư Chân Như được!
Hết thảy phàm phu bị ḷng ham muốn của chính ḿnh
che lấp, trái nghịch lư Chân Như đă lâu! Ngày nay phát
tâm học Phật, cố nhiên nên bắt đầu từ
đây! “Nhàn” là ngăn ngừa, ngưng dứt. “Tà” là những
suy nghĩ trái lẽ. Phàm tiếng dâm, sắc đẹp,
tâm chí phóng đăng, suy tưởng ngông cuồng, tính t́nh hung
dữ, trái với lư, nghịch với lẽ chân, văn từ
bông lơn, phù phiếm, phí uổng thời gian, những lời
lẽ cong vạy, dị đoan, trái kinh, khinh thánh, những
loại như thế đều gọi là “phi lư”, hăy nên
ngăn dứt, chớ để cho chúng lọt vào tâm ta.
Đấy chính là ư “ngừa sai, dứt ác” vậy! “Tồn”
là giữ cho chẳng mất. “Thành” là tâm chân thành, tức là
như Khởi Tín Luận đă nói: “Tâm ngay thẳng chánh niệm Chân Như”. Đấy
chính là cái gốc của hai hạnh tự lợi và lợi
tha vậy!
Những kẻ tự xưng
là tri thức trong cơi đời gần đây thường
thích dồn sức nghiên cứu danh tướng, đuổi
theo Không và Có, la cà khắp Tam Tạng, đề cao hay chỉ
trích năm tông, nhưng chẳng biết “khắc kỷ, phục lễ, nhàn tà, tồn thành”
là chuyện ǵ! Do vậy, tâm và miệng mâu thuẫn, trong - ngoài
chẳng phù hợp, thật là nhàn rỗi làm chuyện chẳng
lành, không ǵ chẳng dính dấp, thân c̣n sống trên cơi đời
mà tâm đă mất trước rồi! Đến khi lâm
chung xả báo, kinh hoảng, cuống cuồng, chẳng biết
xoay sở lẽ nào, ngược ngạo đổ thừa
tu hành vô ích, Phật pháp chẳng linh! Há chẳng sai lầm
lắm ư?
Điều
thứ hai, ắt phải noi theo di giáo của Ấn Công: “Tin tưởng sâu xa sự
tướng nhân quả, cảm ứng chẳng dối”.
Phàm toàn thể Sự chính là Lư, toàn thể Lư trở thành Sự.
Toàn thể Sự là Lư, v́ thế, nhân quả cảm ứng
nơi mặt Sự hoàn toàn là lư Chân Như Thật Tướng.
Toàn thể Lư thành Sự; v́ thế, lư Chân Như Thật
Tướng hoàn toàn trở thành sự cảm ứng nhân quả.
Hơn nữa, Sự có công năng kềm cặp Lư,
nhưng Lư không có khả năng tồn tại một ḿnh
được. Chấp Sự mê Lư vẫn chẳng phí uổng
lợi ích văng sanh, chứ chấp Lư phế Sự, ắt sẽ
mắc họa đọa vào trống rỗng, mất mát.
Do vậy, người học Phật đối với sự
tướng cảm ứng nhân quả phải dốc ḷng
tin tưởng không nghi. Phàm những ǵ ta làm nơi ba nghiệp
thân - miệng - ư đều là nhân; những ǵ ta hứng chịu,
tức y báo và chánh báo, đều là quả. Nhân và quả
như h́nh ảnh hiện trong gương, như bóng theo h́nh.
Không có quả nào chẳng có nhân, không nhân nào chẳng kết
quả. Hơn nữa, những ǵ ta làm đều là Cảm,
chư Phật, Bồ Tát cho đến trời đất,
quỷ thần, hiện thân lập bày phương cách giáo
hóa, phước thiện, họa dâm đều là Ứng. Cảm
giống như nam châm hút sắt, Ứng như dùi gơ vào mặt
trống. Hễ có Cảm ắt có Ứng, Ứng ắt phải
do Cảm [mà có]. Họa - phước không có cửa, chỉ
do con người tự chuốc lấy. Thăng hay trầm
khác đường, đều do nghiệp tạo. Bởi
vậy, bậc thánh hiền thời cổ không vị nào chẳng
dè dặt kinh sợ nơi khởi tâm động niệm,
gắng sức phản tỉnh nơi xử sự, tiếp
vật, dẫu lênh đênh khốn khổ, nào dám lười
nhác, bỏ mặc? Ấn Công đại sư thường
dạy người khác đọc các sách Cảm Ứng
Thiên Vựng Biên, Âm Chất Văn Quảng Nghĩa là có thâm
ư tột bậc! Tiếc thay những người học
Phật hiện thời phần nhiều chẳng biết
đến nghĩa này, trọn chẳng quan tâm vâng giữ, thậm
chí có kẻ cuồng nhiệt đề xướng vô thần,
nói xằng Chân Không, bài bác là không có nhân quả, hoàn toàn phế
trừ hành tŕ! [Đề xướng xằng bậy]: “Ăn
thịt, sát sanh, chẳng gây trở ngại trên đường
Bồ Đề. Nhà thổ, quán rượu đều là
chỗ tịch diệt!” Nghe lời bọn họ nói cao tuốt
chín tầng trời, xét đến hành vi của bọn
chúng thấp tuột dưới chín tầng đất! Kẻ
học Phật có ḷng chánh tín chớ nên bị mê hoặc bởi
những loại tà thuyết ấy!
Điều thứ ba, ắt phải
noi theo di giáo của Ấn Công: “Ưa
tịnh, chán uế, tŕ danh hiệu Phật, cậy vào Tha Phật[30]
lực, cầu sanh Tây Phương”. Hết thảy chúng
sanh vốn sẵn có tánh Chân Như, đấy là Chánh Nhân. Gặp
chư Phật, Bồ Tát, thiện tri thức v.v… lấy
đó làm duyên. Nhân duyên đầy đủ sẽ chán nỗi
khổ sanh tử, vui vẻ cầu Niết Bàn, phát tâm tu
hành, ắt trước hết phải có tâm ưa - chán th́
mới vào cửa Phật được. Nếu không có cái
tâm này sẽ là Nhất Xiển Đề, sẽ đọa
Miệt Lệ Xa[31],
chẳng nói Phật pháp với kẻ ấy được!
Đă sẵn ḷng ưa - chán th́ sẽ biết được
cửa để vào đạo. Trở về cái gốc
ban đầu th́ không hai, nhưng phương tiện có nhiều
cửa. Phàm phu nhập đạo, Tông - Thuyết[32]
khác đường, nhưng Long Thọ Bồ Tát phán định
giáo pháp do đức Phật đă dạy trong cả một
đời Ngài gồm có hai loại: Một là Nan Hành Đạo,
hai là Dị Hành đạo. Nói Nan Hành Đạo nghĩa là
trong đời Ngũ Trược, lúc không có Phật, cầu
chứng đắc địa vị A Tỳ Bạt Trí (Bất
Thoái Chuyển) khó khăn. Ví như đi theo đường
bộ, lội bộ khổ sở, nên gọi là Nan Hành
Đạo. Nói Dị Hành Đạo là do nhân duyên tin Phật,
nguyện sanh Tịnh Độ, khởi tâm lập đức,
tu các hạnh nghiệp, do Phật nguyện lực liền
được văng sanh. Do Phật lực nâng đỡ, giữ
ǵn, nên liền vào ngay Chánh Định Tụ của Đại
Thừa. Chánh Định Tụ chính là địa vị A Tỳ
Bạt Trí Bất Thoái. Ví như theo đường thủy,
ngồi thuyền bèn thong dong, nên gọi là Dị Hành Đạo.
Nan Hành Đạo là cậy
vào tự lực, c̣n Dị Hành Đạo là cậy vào Tha Lực.
Sao gọi là Tự Lực? Ví như có người sợ
hăi sanh tử, phát tâm xuất gia, tu Định, phát sanh thần
thông, dạo chơi Tứ Thiên Hạ[33],
đấy gọi là Tự Lực. Chuyện này chẳng phải
là chuyện nói dễ dàng được! Nếu
nương vào Tự Lực th́ bọn phàm phu kém hèn như
chúng ta vạn kiếp ngàn đời chẳng mong chi thoát khổ
được! Tha Lực là ǵ? Như có kẻ yếu ớt,
dùng chính sức ḿnh để trèo lên lưng lừa c̣n không
xong, nhưng nếu theo Luân Vương liền được
bay lên không, dạo khắp Tứ Thiên Hạ. Việc ấy
do oai lực của Luân Vương nên gọi là Tha Lực.
Do vậy biết lũ phàm phu chúng ta muốn thoát ṿng khổ,
chỉ có cách trông cậy vào sức của đấng Di
Đà pháp vương, khởi tâm lập hạnh, cầu
sanh Tịnh Độ. Khi lâm chung, liền thấy Di Đà
Như Lai cầm đài quang minh đến tiếp đón,
liền được văng sanh, lên cao chín phẩm, giă biệt
măi măi trăm nỗi lo toan, thấy Phật, nghe pháp, chứng
Vô Sanh Nhẫn. Sau đấy, nương theo đại
nguyện luân, hành Phổ Hiền hạnh, hiện thân trong
các cơi nước nhiều như số vi trần, lợi
ích khắp mọi chúng sanh.
Trong Phổ Hiền Hạnh
Nguyện Phẩm có bài kệ như sau: “Bỉ Phật chúng hội hàm thanh tịnh, ngă thời
ư thắng liên hoa sanh. Thân đổ Như Lai Vô Lượng
Quang, hiện tiền thọ ngă Bồ Đề kư. Mông bỉ
Như Lai thọ kư dĩ, hóa thân vô số bách câu-chi, trí lực
quảng đại biến thập phương, phổ lợi
nhất thiết chúng sanh giới” (Mọi pháp hội của
đức Phật ấy đều thanh tịnh, con liền
sanh trong hoa sen đẹp nhất. Đích thân thấy
được đức Như Lai Vô Lượng Quang, Phật
liền thọ kư con sẽ chứng Bồ Đề.
Được đức Như Lai thọ kư xong, con liền
hóa vô số trăm câu-chi[34]
thân, do trí lực rộng lớn nên hiện thân khắp
mười phương để lợi ích rộng khắp
hết thảy chúng sanh giới). Đấy đều là
nương vào từ lực của Tha Phật mà được
như vậy.
Hơn nữa, hạnh
Tịnh Độ lấy Niệm Phật làm chánh. Pháp môn Niệm
Phật cũng lại có nhiều đường, chỉ
có một pháp Tŕ Danh thực hiện dễ mà thành công cao,
dùng sức ít lại được hiệu quả nhanh
chóng, là pháp tu thích nghi nhất cho hành nhân trong đời Mạt.
Từ ḥa thượng Thiện Đạo soạn Quán Kinh
Sớ đặc biệt coi trọng Tŕ Danh cho đến Ấn
Công đại sư, các vị Tổ của Tịnh tông
không vị nào chẳng đều như vậy. Đại
sư Liên Tŕ khi lâm chung dạy người khác thật thà
niệm Phật, đừng giở tṛ quái lạ. Nói “thật
thà niệm Phật” tức là “thật thà tŕ danh”. Như
kinh Tiểu Bổn (kinh A Di Đà) đă dạy từ một
ngày cho đến bảy ngày nhất tâm bất loạn
chính là nói về tŕ danh vậy. Dẫu có tán tâm vẫn
được ĺa khổ, huống hồ những ai đă
đắc Sự Nhất Tâm hay Lư Nhất Tâm ư? Do vậy
biết rằng: Nhằm đời Mạt Pháp, người
thật sự muốn đoạn Hoặc chứng Chân liễu
sanh thoát tử ắt phải tu pháp môn Tịnh Độ Tŕ
Danh Niệm Phật th́ mới được. Chẳng
đọa lưới tà, chẳng vướng bẫy ma,
chẳng bị dị thuyết mê hoặc, chẳng mê mờ
nơi ngơ rẽ, noi theo đường của đại
vương để vào được cửa ngôi nhà tráng
lệ. Những người học đời sau hăy biết
chú trọng vào đây!
Lại c̣n có người
đối với pháp môn thù thắng này chẳng muốn tu
học, cứ muốn ở măi trong Sa Bà, oan uổng bị
đau đớn, thiêu đốt đến vạn kiếp
ngàn đời, không có nơi nương tựa! Dẫu là
kẻ cực ngu muội cũng chớ nên chẳng biết
đúng - sai đến mức quá quắt như thế! Hai
bộ Văn Sao Chánh Biên và Tục Biên của pháp sư Ấn
Quang được xuất bản, lưu truyền đă
lâu, truyền bá rộng răi khắp xa - gần. Bốn
mươi mấy năm trước, cư sĩ La Hồng
Đào ở Thượng Hải lại sao lục rộng
răi mấy trăm bài di văn chưa được đưa
vào Chánh Biên và Tục Biên, [soạn thành một bộ sách] đặt
tựa đề là Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên. Bản
chép tay ấy được cất giữ tại Linh Nham
Sơn Tự ở Tô Châu. Do nhân duyên chưa đủ, chẳng
thể xuất bản được. Tháng Chạp năm
1984, ḥa thượng Minh Học đến chùa Quảng Hóa ở
huyện Bồ Điền tỉnh Phước Kiến yết
kiến lăo pháp sư Viên Chuyết bàn về chuyện này,
tính cho ấn hành lưu thông. Viên Công khi xưa đă từng
trụ tại Niệm Phật Đường chùa Linh Nham,
từng đích thân nghe Ấn Công khai thị, đối với
di giáo của Ấn Công sùng kính tột bậc, một mực
thọ tŕ phụng hành và đem những di giáo ấy dạy
người, ứng khắp quần cơ. Nghe biết chuyện
này, hoan hỷ tán đồng, liền xin giao di cảo cho
chùa Quảng Hóa giảo chánh, đối chiếu, sắp chữ,
ấn hành.
Nay Tam Biên sắp
được xuất bản, sai tôi soạn lời tựa.
Tôi là kẻ hèn kém phàm ngu, nào dám dùng văn chương thô lậu
để đặt trước giáo pháp của Tổ Sư;
nhưng cũng chẳng dám trái nghịch mạng lệnh của
Viên Công nên soạn bài văn này, nêu đại lược
những điều ḿnh thấy được, ghép vào cuối
sách. Vẫn mong được [bậc thức giả] sửa
cho đúng những điều lầm lạc, chỉnh những
điều không hợp lẽ, khôn ngăn cảm kích, cầu
khẩn đến tột bậc vậy!
Tháng Mười Hai
năm 1989 Tây Lịch, tư thục đệ tử[35]
Vương Vĩnh Nguyên đảnh lễ kính cẩn viết
lời bạt
XVII. Phụ
Lục
1. Trung Hưng
Tịnh Tông Ấn Quang Đại Sư Hạnh Nghiệp
kư
Sư húy
Thánh Lượng, tự là Ấn Quang[36],
biệt hiệu là Thường Tàm Quư Tăng (vị
tăng thường hổ thẹn), con nhà họ Triệu
huyện Cáp Dương, tỉnh Thiểm Tây. Thuở nhỏ
theo học sách Nho với anh ruột, coi việc bảo vệ
cái học của đạo Thánh (Nho giáo) là trách nhiệm của
chính ḿnh, phụ họa những lời bàn luận báng Phật
của lũ Hàn - Âu. Về sau, bị bệnh mấy
năm, mới tỉnh ngộ trước kia sai trái, mau
chóng sửa đổi tâm trước. Duyên xuất thế
chín muồi, năm hai mươi mốt tuổi liền xuống
tóc với ḥa thượng Đạo Thuần ở Liên Hoa
Động Tự tại Nam Ngũ Đài thuộc Chung Nam
Sơn. Khi ấy nhằm năm Tân Tỵ, tức năm
Quang Tự thứ bảy (1881) nhà Thanh. Năm sau, thọ Cụ
Túc dưới ṭa của Ấn Hải Định luật
sư chùa Song Khê, huyện Hưng An, tỉnh Thiểm Tây.
Sư vừa ra đời
được sáu tháng liền bị bệnh mắt, gần
như mù; về sau tuy lành nhưng mục lực đă bị
tổn thương, hễ mắt hơi bị đỏ
liền chẳng nh́n được vật ǵ nữa! Khi thọ
Cụ Túc, do thấy Sư viết chữ đẹp, phàm tất
cả những giấy tờ thuộc về pháp sự cần
phải viết trong thời gian thọ giới, [ban chức
sự giới đàn] đều giao cho Sư viết thay.
Viết chữ quá nhiều, mắt liền đỏ ngầu
như ứa máu. May mắn là trước đấy, khi
Sư được giao nhiệm vụ tiếp khách ở
chùa Liên Hoa tỉnh Hồ Bắc, trong một lần
phơi kinh đă đọc được một cuốn
Long Thư Tịnh Độ Văn rách nát nên biết tới
pháp môn Niệm Phật văng sanh Tịnh Độ chính là
đạo trọng yếu để liễu sanh thoát tử.
Do bệnh mắt ấy mà ngộ được “thân ta là
gốc khổ” nên trong những lúc rảnh rỗi đều
chuyên niệm Phật hiệu. Đêm xuống, sau khi mọi
người đă ngủ, Sư liền ngồi dậy niệm
Phật. Ngay cả khi viết chữ, tâm cũng chẳng rời
Phật. V́ thế, tuy ráng gượng bệnh viết chữ,
Sư vẫn có thể miễn cưỡng chống chọi
được. Đến khi viết xong th́ mắt
cũng lành hẳn. Do vậy, Sư hiểu sâu xa công đức
niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn nên tự hành, dạy
người, một mực lấy Tịnh Độ làm chỗ
quy hướng; đầu mối là do đây!
Sư tu
Tịnh Độ càng lâu càng chuyên dốc, nghe nói chùa Tư
Phước núi Hồng Loa chính là đạo tràng chuyên tu Tịnh
Độ, năm hai mươi sáu tuổi (tức
năm Bính Tuất, nhằm năm Quang Tự 12 - 1886) liền từ giă thầy qua đó. Tháng
Mười năm ấy, Sư vào Niệm Phật
Đường [của chùa Tư Phước], được
thấm nhuần ân trạch của tổ Triệt Ngộ
để lại, Tịnh nghiệp tăng tiến lớn
lao. Tháng Giêng năm sau xin tạm nghỉ phép để triều
bái Ngũ Đài. Triều bái xong, vẫn trở về
Tư Phước. Sư từng đảm nhiệm các chức
vụ Thượng Khách Đường, Hương
Đăng, Liêu Nguyên[37]
v.v… Trong ba năm, ngoài Chánh Hạnh Niệm Phật ra,
Sư nghiên cứu, xem đọc các kinh điển Đại
Thừa. Do vậy, thâm nhập Kinh Tạng, thầm khế
hợp mầu nhiệm tâm Phật, đường tắt
tu hành lư sự vô ngại. Năm ba mươi tuổi (tức
năm Canh Dần, nhằm năm Quang Tự 16 - 1890), Sư tới chùa Long Tuyền ở Bắc
Kinh giữ chức Hành Đường. Năm ba
mươi mốt tuổi (tức năm Tân Măo, nhằm
năm Quang Tự 17 - 1891), Sư trụ
tại chùa Viên Quảng.
Hai năm sau (tức
năm Quư Tỵ, nhằm năm Quang Tự 19 - 1893), ḥa thượng Hóa Văn chùa Pháp Vũ
núi Phổ Đà lên kinh đô thỉnh Đại Tạng,
thiếu người giúp sức kiểm duyệt, lo liệu.
Mọi người do thấy Sư làm việc tinh tế,
cẩn thận, bèn tiến cử. Cụ Hóa Văn thấy
Sư đạo hạnh siêu trỗi, đến khi trở
về phương Nam liền thỉnh Sư cùng theo làm bạn,
cho ở nơi lầu Tàng Kinh của chùa. Đại chúng
trong chùa thấy Sư dốc chí tinh tu đều khâm phục
sâu xa, nhưng Sư vẫn b́nh dị, chẳng hề tự
măn. Mùa Hạ năm Đinh Dậu, tức năm Quang Tự
23 (1897), đại chúng trong chùa kiên tŕ thỉnh Sư giảng
kinh một phen. Từ tạ không được, Sư bèn
giảng bộ Di Đà Tiện Mông Sao một lượt.
Giảng xong, Sư liền bế quan bên cạnh điện
Châu Bảo hai lượt, tổng cộng sáu năm[38],
học lẫn hạnh càng tăng tấn gấp bội. Sau
khi xuất quan, do các ḥa thượng Liễu Dư, Chân
Đạt v.v… đặc biệt lập một liên bồng
(thảo am để niệm Phật) cúng dường nên
trước sau Sư đă cùng với pháp sư Đế
Nhàn ở đó. Không lâu sau, đại chúng lại đón
Sư về Pháp Vũ. Năm Sư bốn mươi bốn
tuổi (tức năm Giáp Th́n, nhằm năm Quang Tự
30 - 1904), do thỉnh Đại Tạng
Kinh cho chùa Đầu Đà ở Ôn Châu, cụ Đế
Nhàn lại thỉnh Sư lên kinh đô giúp trông coi mọi việc.
Xong việc, Sư trở về Nam, bèn trụ tại lầu
kinh chùa Pháp Vũ. Sư xuất gia ba mươi mấy
năm, sống đời thanh bạch, từ đầu
đến cuối ẩn giấu tài năng, chẳng thích
qua lại với người khác, cũng chẳng muốn
ai biết đến danh tự của ḿnh để mong
ngày đêm Di Đà, sớm chứng Niệm Phật tam-muội.
Nhưng
chuông trống trong cung, tiếng vẳng ra ngoài, đức
dầy ắt tỏa sáng, trọn chẳng thể giữ
kín được măi! Kỷ nguyên Dân Quốc, Sư năm
mươi hai tuổi, cư sĩ Cao Hạc Niên bèn đem
mấy bài văn của Sư đăng trên tờ Phật
Học Tùng Báo ở Thượng Hải, ghi tên là Thường
Tàm. Người ta tuy chẳng biết là ai, nhưng văn
tự Bát Nhă đă đủ để dẫn dắt, phát
khởi thiện căn cho độc giả. Đến
năm Dân Quốc thứ sáu (1917, Sư năm
mươi bảy tuổi), cư
sĩ Từ Úy Như nhận được ba lá thư của
Sư gởi cho bạn bèn ấn hành, đề tựa là Ấn
Quang Pháp Sư Tín Cảo. Năm Dân Quốc thứ bảy (1918,
Sư năm mươi tám tuổi),
ông ta lại sưu tập được hai mươi mấy
bài văn của Sư, đem in ở Bắc Kinh, đặt
tên là Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao. Năm Dân Quốc thứ
tám (1919, Sư năm mươi chín tuổi), ông ta sưu tập được thêm
văn chương của Sư, bèn in thêm cuốn Tục
Biên; tiếp đó gộp Sơ Biên lẫn Tục Biên thành
một cuốn. Trong hai năm Dân Quốc thứ chín và thứ
mười, bộ sách ấy lại được
tăng thêm một số bài nữa. Trước sau đều
được đúc bản kẽm tại Thương Vụ
Ấn Thư Quán, khắc bản gỗ tại Dương
Châu Tàng Kinh Viện. Trong khoảng từ năm Dân Quốc
11 (1922) cho đến năm Dân Quốc 15 (1926), mấy lần
tăng thêm bài viết, lại nhờ Trung Hoa Thư Cục
ấn hành, đề tựa là Tăng Quảng Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao.
Ôi! Văn để chở
đạo, bộ Văn Sao của Sư được
lưu thông, đạo của Sư giáo hóa bèn thấm đẫm
khắp cả nước, như Tịnh Độ Quyết
Nghi Luận, Tông Giáo Bất Nghi Hỗn Lạm Luận và những
bức thư như “Thư gởi cho ḥa thượng Thể
An chùa Đại Hưng Thiện” v.v… đều là “từng
lời thấy được lẽ chân, từng chữ
đều quy tông” vậy. Trên hợp với ư chỉ của
đức Phật, dưới ngầm hợp tâm chúng sanh,
tỏa rạng ư chỉ mầu nhiệm sâu thẳm của
Thiền lẫn Tịnh, quyết trạch sự khó - dễ,
quả thật đă vạch trần được những
chỗ tiền nhân chưa nêu rơ. Trong lời Bạt của
ông Từ có câu: “Đại pháp
suy vi tới nay đă tột cùng, nào ngờ trong đời
này vẫn c̣n có bậc đầy đủ chánh tri chánh kiến
như Sư vậy, do đó vẫn c̣n có bậc tiếp nối
huệ mạng của Phật”. Ông ta c̣n viết: “Văn của Sư không một
chữ nào chẳng có lai lịch, thâm nhập, hiển xuất,
khế hợp khéo léo thời lẫn cơ, quả thật
là món thuốc tốt lành chữa bệnh đúng lúc trong thời
Mạt Pháp”. Thật có thể nói là khéo hiểu pháp yếu,
dốc cạn tấm ḷng kính ngưỡng. Do đó, thoạt
đầu Từ cư sĩ đích thân cầm sách,
đưa mẹ tới Phổ Đà, dốc cạn ḷng
Thành lễ bái thân cận, khẩn cầu Sư tiếp nhận
rộng dung cho quy y dưới ṭa, Sư vẫn kiên tŕ không
chấp thuận, dạy mẹ con ông Từ hăy sang quy y với
pháp sư Đế Nhàn chùa Quán Tông ở Ninh Ba. Năm Dân Quốc
thứ tám (1919), anh em ông Châu Mạnh Do đưa bà nội
kế lên núi, lại bốn lượt khẩn cầu Sư
chấp nhận cho họ làm đệ tử. Sư xét thời
cơ, về mặt lư khó thể từ khước
được nữa, bèn đặt pháp danh cho mỗi
người. Từ đấy, Sư mới bắt đầu
chấp nhận cho người khác quy y mà đấy
cũng thật sự là duyên khởi của bộ Văn
Sao vậy.
Văn chương của
Sư không những tinh xác, sâu xa nơi Phật lư mà ngay cả
đạo xử thế “cách vật, trí tri, thành ư, chánh tâm,
tu tề trị b́nh, ngũ luân, bát đức” v.v… của
nhà Nho nếu chẳng trái với ba phước của Tịnh
nghiệp th́ Sư ắt đều nêu tỏ đến tột
cùng. Văn lẫn nghĩa đều tao nhă, mực thước,
do vậy Lạc Dương giấy đắt đỏ[39],
người ta tranh nhau thỉnh đọc. V́ thế, những
thiện nam tín nữ hâm mộ đạo đức của
Sư, khát vọng được làm đồ đệ
ngày càng đông đảo. Hoặc là vượt biển
trèo non để thỉnh cầu Sư rộng ḷng tiếp
độ, hoặc thư qua tin lại, cầu xin ban pháp
danh. Hơn hai mươi mấy năm qua, người quy
y dưới ṭa của Sư quả thật chẳng thể
tính đếm được! Ngay cả những người
vâng theo lời dạy tu hành, ăn chay niệm Phật, tinh
tu Tịnh nghiệp được toại ư sanh Tây cũng
khó thể nêu trọn. Văn tự của Sư nhiếp
hóa chúng sanh, lợi ích thế gian chẳng thể nghĩ
bàn!
Những
lời Sư chỉ dạy người học đi thẳng
vào tai, chỉ bày tận mặt, vốn phát xuất từ
kinh luận, lưu lộ từ tim gan, chẳng ĺa nhân quả,
chẳng dính dấp thói văn chương sáo rỗng. Những
kẻ đáng được chiết phục dẫu là bậc
tôn túc trong nhà Thiền hay kẻ đứng đầu giới
Nho sĩ, hễ gặp mặt liền bị Sư quở
trách; [c̣n kẻ không có cơ duyên chiết phục được],
dẫu là những vị quan chức hiển đạt,
Sư vẫn trọn chẳng nhờ cậy đến. Kẻ
đáng nhiếp thọ, dẫu hàng hậu sinh mạt học,
Sư cũng chưa từng cự tuyệt, khước từ.
Dẫu là nông phu, nữ tỳ, Sư cũng ưu ái đáp
lời [thỉnh hỏi]. Một niềm hoài băo “lợi khắp
ba căn” b́nh đẳng; không mang ư niệm thân - sơ, chỉ
dựa theo lư. Nhưng Sư nghĩ: Thời cuộc
đang buổi cuối mùa, nếu không đề xướng
nhân quả báo ứng sẽ chẳng thể văn hồi thói
tệ suy đồi nhằm uốn nắn ḷng người;
căn cơ con người kém hèn nếu không có thật hạnh
tín nguyện niệm Phật, quyết chẳng thể liễu
sanh tử, thoát luân hồi. V́ thế, chẳng nề sang -
hèn, hiền - ngu, trai - gái, già - trẻ, hễ có ai thưa hỏi,
Sư đều dùng thật sự, thật lư “không làm các
điều ác, vâng làm các điều lành, nhân quả báo ứng,
sanh tử luân hồi” để ra rả nhắc nhở,
khơi gợi, khiến cho ai nấy sanh ḷng cảnh tỉnh,
thấu hiểu sâu xa, lập được căn cơ
làm người, sống trong cơi đời. Tiến hơn
nữa là dùng con đường trọng yếu, bằng
phẳng “thật sự v́ sanh tử, phát Bồ Đề
tâm, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương”
để dạy người ta thiết thực phụng
hành ḥng làm đường tắt nhằm siêu phàm nhập
thánh. Tuy thấu hiểu Tông - Giáo sâu xa, Sư trọn chẳng
bàn huyền nói diệu, [chỉ nói những lời lẽ cụ
thể, thông tục] khiến cho ai nấy đều hiểu
biết và hành được. Kẻ nghe dạy không ai chẳng
được hưởng lợi ích. Đấy chính là
như Liên Tŕ đại sư đă bàn định về
Biện Dung lăo nhân[40]
như sau: “Đấy chính là chỗ
đáng kính của ông cụ ấy!”
Do Sư b́nh thường,
thiết thực, không có ǵ kỳ lạ, ngôn - hạnh hợp
nhất, cho nên những kẻ chân tu thật sự thực
hành đều thích thân cận đến nỗi những kẻ
gơ cửa quan pḥng để hỏi đạo cũng nhiều
chẳng thể đếm xuể! Hơn nữa, Sư coi
trọng pháp, tôn kính đạo, danh văn lợi dưỡng
đều chẳng bận ḷng. Năm Dân Quốc 11 (1922, Sư sáu
mươi hai tuổi),
Tri Sự huyện Định Hải là Đào Tại
Đông, Đạo Doăn đạo Cối Kê là Hoàng Hàm Chi ghi chép tổng hợp về đạo
hạnh của Sư tŕnh thỉnh Đại Tổng Thống
Từ [Thế Xương] ban tặng một tấm biển
ngạch “Ngộ Triệt Viên Minh” gởi tới Phổ
Đà, hương hoa cúng dường, cực thịnh một
thời, Tăng - tục ngưỡng mộ, vui thích.
Sư dường như chẳng hay biết, có người
hỏi đến, Sư đáp bằng những lời lẽ
như: “Đă dựng lầu gác trong hư không, chẳng có
thật đức, hổ thẹn khôn cùng, có ǵ vinh dự
đâu?” Nay đang gặp lúc cơi đời bước vào vận
Mạt, con người ganh đua sùng chuộng khoe khoang rỗng
tuếch, tư cách điềm đạm, thanh bạch
như Sư thật đáng đẩy lùi cơn sóng cuồng
loạn đang ụp xuống, làm cột chống giữa
ḍng [nước chảy xiết], dù đạo hay tục
đều được hưởng rất nhiều
điều tốt đẹp.
Sư tiết
kiệm đối với chính ḿnh, nhưng đối xử
nồng hậu với người. Hễ được
thiện tín nam nữ cúng dường tiền hương
kính đều đem gieo phước điền thay cho
người ta, dùng tiền ấy để lưu thông kinh
sách và cứu tế kẻ đói nghèo, chỉ cân nhắc nặng
- nhẹ để xem chỗ nào cần cứu gấp
trước rồi thực hiện! Như trong năm Dân
Quốc 15 (1926, Sư sáu mươi sáu tuổi), Trường An bị vây hăm. Sau khi Trường
An được giải vây, Sư liền vội gom món tiền
ba ngàn đồng vốn định dùng in Văn Sao để
cậy người mau đem gởi đi cứu tế. Hễ
nghe cấp báo chỗ nào bị tai nạn, Sư liền tận
lực đề xướng quyên trợ để mong cứu
giúp. Năm Dân Quốc 24 (1935, Sư đă bảy
mươi lăm tuổi), Thiểm
Tây bị hạn hán dữ dội, nhận được
thư thông báo của cư sĩ Vương Ấu Nông,
Sư liền lấy sổ ngân hàng, sai người chuyển
gấp một ngàn đồng sang đó để cứu
trợ nhanh chóng. Chuyển xong, lại bảo thầy Đức
Sâm duyệt sổ sách, thấy trong trương mục chỉ
c̣n hơn một trăm đồng! Hết thảy những
khoản tiền cần dùng trong chùa Báo Quốc đều
nhờ vào đấy để duy tŕ, Sư cũng không bận
tâm tới. Năm Dân Quốc 25 (1936, Sư bảy mươi sáu tuổi), nhận lời thuyết pháp trong pháp hội
Hộ Quốc Tức Tai ở Thượng Hải, nghe
t́nh h́nh Tuy Viễn gặp tai nạn nghiêm trọng, Sư liền
nói rơ với đại chúng, đem món tiền hương
kính của hơn một ngàn người quy y cầu giới
lúc ấy tổng cộng là hai ngàn chín trăm mấy
mươi đồng đều quyên tặng hết, rồi
lại tự đề xướng bằng cách bỏ ra
khoản tiền một ngàn đồng vốn dùng để
in sách. Khi trở về Tô Châu, mọi người ra trạm
xe đón tiếp Sư, thỉnh Sư ghé Linh Nham để
xem cảnh tượng trong gần một năm qua; Sư
đang gấp rút trở về Báo Quốc để lấy
sổ ngân hàng rút tiền đem gởi đi cứu trợ,
nhưng rồi cũng theo mọi người lên núi, Sư
liền chỉ dạy đại chúng hăy cứu giúp tai nạn.
Tấm ḷng Sư [cứu trợ tai ương] sâu đậm
giống như chính ḿnh đang bị đói, bị chết
đuối đều luôn giống như vậy.
Các cư sĩ Ngụy
Mai Tôn, Vương Ấu Nông v.v… phát khởi thành lập
chùa Pháp Vân làm đạo tràng phóng sanh niệm Phật ở
sông Tam Xoa, Nam Kinh, thỉnh Sư tham gia và ước định
quy củ nhà chùa. Tiếp đó, do cư sĩ Nhậm Tâm Bạch
thương lượng, thỉnh các vị đại
cư sĩ ở Thượng Hải như Phùng Mộng
Hoa, Vương Nhất Đ́nh, Diêu Văn Phu, Quan Quưnh Chi,
Hoàng Hàm Chi v.v… sáng lập viện Mồ Côi Phật Giáo tại
đấy, mỗi mỗi đều nhờ cậy vào oai
đức, danh vọng của đại sư để
khơi gợi ḷng tin tưởng của người khác
ḥng được thành tựu. Hơn nữa, đối với
chuyện nuôi dạy con em nghèo hèn trong viện Mồ Côi,
Sư càng cực lực giúp cho thành tựu. Khoản kinh phí
cho viện Mồ Côi do Sư khuyên người khác giúp đỡ
và do chính Sư quyên tặng đều là những con số
khá lớn. Ngay như viện Mồ Côi do hội Phật
giáo thành phố Thượng Hải đảm nhiệm,
cũng được Sư cực lực giúp đỡ.
Đối với chuyện
pháp thí th́ kể từ khi ấn tống An Sĩ Toàn Thư
và sáng lập Hoằng Hóa Xă trở đi, trong hai
mươi mấy năm ấn hành các loại kinh sách không
dưới bốn năm trăm vạn bộ, h́nh Phật
cũng hơn trăm vạn bức. Hoằng dương
pháp hóa cũng thấm đẫm rộng khắp trong ngoài
nước. Nh́n chung, mỗi một lời nói, mỗi một
hạnh của Sư không ǵ chẳng nhằm thay Phật
tuyên nói, giáo hóa để mong cứu văn thế đạo,
nhân tâm, khiến cho hiền tài được nẩy sanh nhằm
tạo phước cho nước, làm lợi cho dân. Đối
với bản thân, Sư chỉ ăn cho khỏi đói, chẳng
cầu ngon miệng, áo chỉ đỡ lạnh, chán bỏ
những thứ đẹp đẽ, rực rỡ. Có ai
cúng dường những quần áo, thức ăn quư đẹp,
Sư không từ khước nhưng cũng chẳng dùng, đem
tặng ngay cho người khác. Nếu là những phẩm
vật thông thường, Sư liền bảo giao cho nhà
kho để đại chúng cùng hưởng, quyết chẳng
tự dùng. Đấy tuy là hạnh nhỏ, nhưng cũng
đáng để Phật tử trong đời Mạt tôn
kính noi theo.
Sư duy
tŕ bảo vệ pháp môn, công khó nghĩ bàn! Trọng yếu
nhất là như trước khi xảy ra cuộc chiến
với Âu Châu, chánh phủ có quyết nghị về chuyện
dời kiều dân Đức Quốc đến ở tại
Phổ Đà. Sư sợ gây trở ngại cho sự thanh
tu của đại chúng liền đặc biệt gởi
thư cho cư sĩ Trần Tích Châu cậy ông này tŕnh bày cặn
kẽ với những nhân vật quan trọng. Việc ấy
liền bị băi bỏ. Năm Dân Quốc 11 (1922,
Sư sáu mươi hai tuổi), các
vị như hội trưởng Hội Ước Vọng
Thực Hiện Thành Tựu Nghĩa Vụ Giáo Dục tỉnh
Giang Tô đệ tŕnh lên tỉnh trưởng kế hoạch
mượn chùa miếu để làm trường học
xin chuẩn y, Tri Sự Định Hải là Đào Tại
Đông gởi thư cho Sư cậy cứu văn. Sư lập
tức viết xin hai vị Vương Ấu Nông, Ngụy
Mai Tôn t́m cách lo liệu và nhờ ḥa thượng Diệu
Liên bôn ba, liền được chánh quyền
đương thời ban hành sắc lệnh bảo vệ
rơ ràng.
Năm Dân Quốc 16 (1927,
Sư sáu mươi bảy tuổi),
t́nh thế chánh trị bắt đầu thay đổi, tài
sản nhà chùa trọn không có ǵ bảo vệ, mấy lần
sắp bị họa diệt giáo, nhưng Phổ Đà
đứng mũi chịu sào, do Sư xả mạng tận
lực đấu lư mới kéo dài được hơi
tàn. Tới khi ông X…khi nắm quyền
Nội Chánh[41],
mấy lượt đề nghị tịch thâu tài sản
nhà chùa để khuếch trương giáo dục, rốt
cuộc tăng - tục cả nước đều kinh
hoảng bó tay. May mắn là Sư và cụ Đế Nhàn ở
Thượng Hải đă tập hợp các vị cư
sĩ nhiệt tâm hộ pháp cùng thương nghị,
trước hết tŕnh bày cặn kẽ với ông X… tiếp
đó phái đại biểu đi thỉnh nguyện. Bàn bạc
rồi chưa kịp thực hiện, gặp lúc ông X… sắp
về nghỉ, lại ban hành điều lệ đuổi
Tăng đoạt tài sản nhằm chiếm đoạt
theo thứ tự ḥng đạt mục đích diệt tôn
giáo. May mắn là khi điều lệ vừa được
công bố, ông X… liền phải chuyển giao quyền lực,
Bộ Trưởng Triệu Thứ Lũng tiếp nhận
chức vụ ấy. Sư đặc biệt gởi
thư tŕnh bày biện pháp, quyết định ấy liền
bị thủ tiêu không c̣n dấu vết.
Tiếp đấy,
Sư nhờ các vị cư sĩ như Tiêu Dịch
Đường v.v.. dốc sức chạy vạy, điều
lệ ấy mới được tu chỉnh, tăng lữ
được b́nh an. Năm Dân Quốc 22-23 (1933-1934,
Sư 73, 74 tuổi), ngôi chùa cổ
Tư Phước ở huyện Phụ Dương, tỉnh
An Huy là nơi vẫn c̣n ba bức tượng Phật do Uất
Tŕ Kính Đức[42]
đă tạo trong thời Đường, cả chùa bị
chiếm làm trường học. Bích Sơn Tự và thảo
am Quảng Tế ở núi Ngũ Đài tỉnh Sơn Tây gặp
phải ách vận ngang trái, hai nơi đều phải ra
kiện tụng nơi cửa công. Chánh quyền địa
phương nghe lời tŕnh bày của một bên, hai chùa sắp
phải phế diệt; mỗi nơi đều được
Sư gởi một bức thư, đột nhiên xoay chuyển
được sự nhận thức của chính quyền.
Nhờ đấy, chùa Quảng Tế được lập
vững vàng thành một đạo tràng thập
phương chân chánh, thành một cơ sở để vĩnh viễn yên tâm tu đạo. Chùa Tư
Phước cũng nhờ đấy mà được bảo
toàn, dần dần được trung hưng.
Năm Dân Quốc 24 (1935,
Sư bảy mươi lăm tuổi), trong hội nghị giáo dục toàn quốc, trưởng
ty giáo dục X… đề nghị sung công tài sản nhà chùa
trong cả nước làm tài sản cho cơ quan giáo dục[43],
biến chùa miếu trong toàn quốc thành trường học,
lập nghị quyết, nộp lên bộ Nội Chánh, viện
Đại Học để xin xét duyệt, đăng tải
trên báo chí. Mọi người chấn động, kinh sợ.
Khi ấy, Lư Sự Trưởng hội Phật Giáo là pháp
sư Viên Anh và các Sư giữ chức Ủy Viên Xử Lư Thường
Vụ như Đại Bi, Minh Đạo, các vị cư
sĩ như Quan [Quưnh Chi], Hoàng [Hàm Chi], Khuất [Văn Lục]
v.v… cùng đến gơ cửa quan pḥng của Sư tại
Báo Quốc xin ư kiến. Sư khuyên họ nên gắng sức
bảo vệ đạo và chỉ bày biện pháp. Họ trở
về Thượng Hải nhóm họp, công khai đề cử
đại biểu lên bộ thỉnh nguyện. Nhờ
Sư sáng suốt hướng dẫn, giáo nạn giải
trừ.
Tài sản nhà chùa ở
Giang Tây từ năm Dân Quốc 22 (1933) đến năm
Dân Quốc 25 (1936, Sư bảy mươi sáu tuổi), trong ṿng bốn năm, ba lần băo táp dấy
động lớn lao, gần như lâm vào t́nh thế bị
diệt sạch không c̣n ǵ! Tuy do Đức Sâm nhiều
năm kiệt lực kêu gào, hội Phật giáo Trung Quốc
cũng nhiều lần lập cách giải trừ, rốt
cuộc được từ quang của Sư gia bị,
cảm động các vị đại hộ pháp cùng đứng
lên lo toan, cứu văn khiến cho mỗi mỗi đều
đạt đến kết quả mỹ măn, giữ ǵn an
toàn. Đấy là những chuyện lớn lao dễ thấy,
chứ c̣n những chuyện vặt vănh khác th́ qua một lá
thư, hoặc mấy lời [nhắn nhủ], liền
tiêu trừ được kiếp nạn, cởi gỡ mầm
họa th́ lúc nào, nơi đâu cũng thường có, không
thể kể hết được! Nếu không phải
là đạo đức của Sư đủ để trên
cảm được trời rồng, dưới động
được ḷng người, há được như thế
hay sao?
Ḷng vô
duyên từ bi của Sư thấm đến nhà tù và các dị
loại. Năm Dân Quốc 11-12 (1922-1923), nhận lời thỉnh
của Tri Sự huyện Đông Hải là Đào Tại
Đông chọn lựa giảng sư đến nhà giam
tuyên giảng, Sư bèn sai pháp sư Trí Đức tiếp
nhận lời thỉnh. Sư dạy hăy tuyên giảng An
Sĩ Toàn Thư v.v… nói đến các ư chỉ trọng yếu
như nhân quả báo ứng, pháp môn Tịnh Độ, nhiều
tù nhân cũng được cảm hóa. Đến khi các vị
cư sĩ Vương Nhất Đ́nh, Trầm Tinh Thúc v.v…
ở Thượng Hải đề xướng thành lập
Giang Tô Giám Ngục Cảm Hóa Hội (hội cảm hóa tù
nhân Giang Tô) thỉnh Sư làm hội trưởng danh dự,
giảng sư Đặng Phác Quân, Thích Tắc Châu (đây
là tên ngoài đời của thầy Minh Đạo), Kiều Tuân Như v.v… đều là đệ
tử quy y của Sư. Do được Sư dạy, họ
đều lấy “tâm, Phật,
chúng sanh, cả ba không sai biệt” và chú trọng nhân quả,
đề xướng Tịnh Độ làm những hạng
mục chủ yếu để giảng diễn. Cai tù, phạm
nhân nhờ đó sửa lỗi hướng thiện, những
kẻ hướng ḷng về đại pháp, ăn chay niệm
Phật cũng rất đông.
Đối với dị
loại th́ trong tháng Hai năm Dân Quốc 19 (1930, Sư
bảy mươi tuổi), từ
chùa Thái B́nh ở Thượng Hải dọn đến Báo
Quốc tại Tô Châu, rệp bám theo chăn màn, rương
đựng quần áo, cực nhiều. Chúng sanh trưởng
đông đúc đến nỗi từ quan pḥng, pḥng khách,
cho đến cửa sổ và ghế ở bên ngoài từ Hạ
đến Thu đâu đâu cũng thường thấy rệp
ḅ qua, ḅ lại. Có đệ tử nghĩ Sư tuổi
già chẳng kham bị chúng quấy nhiễu, từng nhiều
lượt xin vào quan pḥng thay Sư bắt cho hết,
Sư đều cứng cỏi cự tuyệt không chấp
thuận, lại nói: “Chuyện
này chỉ trách chính ḿnh thiếu đạo đức. Bậc
cao tăng thời cổ chẳng chịu đựng
được rận rệp quấy nhiễu, bèn nói: ‘Súc
sanh! Bọn ngươi đến quấy rối quá, hăy dọn
đi nơi khác’, rận rệp liền kéo nhau bỏ
đi. Ta nay tu tŕ không ra ǵ, chẳng có cảm ứng ấy,
c̣n nói chi nữa?” Rồi cứ điềm nhiên ở, trọn
chẳng để ư tới. Đến năm Dân Quốc
22 (1933, Sư bảy mươi ba tuổi), rệp tự nhiên tuyệt tích, Sư
cũng chẳng bảo với ai. Đến tiết
Đoan Ngọ gần đây, Đức Sâm chợt nhớ
tới, hỏi Sư, Sư đáp: “Không c̣n nữa!” Sâm cho
rằng Sư tuổi già mắt hoa, v́ thế nằng nặc
xin vào trong pḥng kiểm tra. Quả thật đă hết sạch,
trọn chẳng c̣n tung tích ǵ nữa! Đấy cũng là
chúng v́ Sư mà dọn nhà đi rồi!
Trong khi bế quan, ngoài
công khóa Tịnh nghiệp ra, Sư thường tŕ chú Đại
Bi gia tŕ vào nước hay gạo, đem ban cho những
người bệnh nguy ngập thầy thuốc đă bó
tay liền thấy hiệu nghiệm lạ lùng. Một ngày
nọ, tại lầu Tàng Kinh chùa Báo Quốc phát hiện có
vô số mối, Sư ở trong núi nghe tiếng, ban nước
Đại Bi bảo đem rưới lên. Từ đấy,
mối cũng tuyệt tích. Đấy chính là chuyện
trong mùa Hạ năm Dân Quốc 27 (1938), pháp lực thần
ứng của Sư rất nhiều chuyện giống
như thế.
Sư vốn
chẳng thích quyến thuộc, v́ thế không có đệ
tử xuất gia thế độ. Nhưng khát ngưỡng,
thân cận, nhiều phen được vâng nhận giáo huấn,
thấm gội pháp ích sâu đậm th́ hai chúng tại gia chẳng
thể kể xiết, tăng lữ xuất gia trừ lăo
pháp sư Đế Nhàn là liên hữu thân thiết nhất
ra, những kẻ được Sư nhiếp thọ
đă lâu, nuôi nấng bằng pháp nhũ, nhưng vẫn
được Sư đối đăi như liên hữu
th́ có ḥa thượng Liễu Dư đă mất, hiện
thời c̣n hai vị ḥa thượng Liễu Thanh và Chân
Đạt. Đích thực được xếp vào hàng học
tṛ, đă qua đời là các thầy Viên Quang, Khang Trạch,
Huệ Cận, Minh Đạo, hiện tại vẫn c̣n
th́ có hai vị ḥa thượng Diệu Liên, Tâm Tịnh và
hai thầy Liên Nhân, Minh Tây, Diệu Chân, Liễu Nhiên, Đức
Sâm v.v… cùng các sư hiện thời sống tại hai chùa
Linh Nham và Báo Quốc. Đấy chỉ là nói về những
kẻ thường thân cận Sư đă lâu, chứ những
người được Sư chỉ dạy, nâng đỡ
nhiều lượt, gội ân, đội đức c̣n
hơn ân sư thế độ, hoặc tùy duyên thưa hỏi,
gởi thư hỏi đạo và gội ân trạch do
đọc Văn Sao của Sư và các sách do Sư lưu
thông th́ cũng chẳng thể nào kể xiết!
Sư tuy không thâu nhận
đồ đệ, nhưng đa số những Phật
tử chân chánh trong ngoài nước quả thật đều
tôn Sư làm thầy. Sư lại từng thề chẳng
làm Trụ Tŕ chùa miếu, tự làm khách sống tại Pháp
Vũ, hai mươi mấy năm, giấu kín tung tích, tu tập
chuyên ṛng, rất ít qua lại với người khác. Từ
năm Dân Quốc thứ bảy (1918), in An Sĩ Toàn Thư
trở đi, nhiều lượt do có việc phải
đến đất Hỗ, khổ nỗi thiếu chỗ
yên cư. Năm Dân Quốc 11 (1922), khi Chân Đạt tu bổ
chùa Thái B́nh đă lập riêng một gian tịnh thất cho
Sư. Từ đấy mỗi khi đến đất Hỗ,
Sư luôn cắm tích trượng tại Thái B́nh. Các vị
quân tử tận lực bảo vệ pháp môn như Ngụy
Mai Tôn ở Nam Kinh, Vương Ấu Nông ở Tây An,
Vương Huệ Thường ở Duy Dương, Hứa
Chỉ Tịnh ở Giang Tây, Phạm Cổ Nông ở Gia
Hưng, các vị cư sĩ Phùng Mộng Hoa, Thí Tỉnh
Chi, Vương Nhất Đ́nh, Văn Lan Đ́nh, Châu Tử
Kiều, Khuất Văn Lục, Hoàng Hàm Chi, Quan Quưnh Chi v.v…
tại Thượng Hải hoặc do chuyện riêng mà hỏi
đạo, hoặc v́ làm chuyện từ thiện trong xă hội
mà phải thưa hỏi cũng có lúc đến Thái B́nh,
xin Sư chỉ dạy. C̣n như các nơi gởi thư
càng khó thể kể xiết. Danh tiếng của Thái B́nh Lan
Nhă được lan truyền khắp xa gần, cũng do
Sư mà được rạng rỡ.
Đến năm Dân Quốc
17 (1928, Sư sáu mươi tám tuổi), nhân chán ngán giao thông quá thuận tiện,
thư từ quá nhiều, công chuyện quá bận bịu, Sư
gấp muốn t́m chỗ quy ẩn. Chân Đạt bèn cùng với
các vị đại cư sĩ Quan Quưnh Chi, Trầm Tinh
Thúc, Triệu Vân Thiều bàn bạc. Ba vị cư sĩ liền
dâng chùa Báo Quốc ở Tô Châu để cúng dường, liền
sai hai vị Hoằng Tán và Minh Đạo sang đấy tiếp
nhận trước. Chân Đạt dùng mấy ngàn đồng
trùng tu. V́ thế, năm Dân Quốc 18 (1929), Sư rời
núi [Phổ Đà] qua Thượng Hải, giảo duyệt
ấn hành các sách, gấp mong kết thúc để quy ẩn.
Khi ấy, có mấy vị cư sĩ đệ tử ở
Quảng Đông như Hoàng Tiểu Vỹ v.v… tạo dựng
tinh xá, quyết muốn đón Sư sang Hương Cảng,
Sư đă nhận lời qua đấy. Chân Đạt do
thấy miền Giang - Chiết là vùng đất Phật tín
chúng rất đông, một mực kiên quyết giữ lại.
Rốt cuộc do có pháp duyên, tháng Hai năm Dân Quốc 19 (1930,
Sư bảy mươi tuổi),
Sư sang Tô Châu, liền bế quan ngay tại Báo Quốc.
Trước đấy tại Linh Nham ở Mộc Độc,
Chân Đạt đă thỉnh ư Sư, lập ra đạo
tràng thập phương chuyên tu Tịnh nghiệp, hết
thảy quy ước, chương tŕnh đều vâng theo
chí hướng của Sư để định. Ba bốn
năm qua, do nhà cũ chật hẹp, chẳng đủ chỗ
chứa đại chúng, đúng là phải t́m cách sửa chữa
xây dựng viện, pḥng, lo liệu tu bổ. Gặp
đúng dịp Sư đến đất Tô, rất gần
Linh Nham, xếp đặt trong ngoài, có nhiều duyên gặp
gỡ Sư để xin ư kiến, vâng theo lời chỉ
dạy. Ngày càng chấn hưng, Linh Nham cho đến nay
được tôn là đạo tràng thứ hai của Tịnh
tông nước ta há có phải là ngẫu nhiên ư?
Trong khi bế quan, vào
những khi rảnh rỗi ngoài lúc tụng niệm công khóa
ra, Sư tu chỉnh hoàn bị các bộ Sơn Chí của Phổ
Đà, Thanh Lương, Nga Mi, Cửu Hoa v.v… và trả lời
thư từ của đệ tử, học nhân vấn
pháp. Nay bốn bộ Sơn Chí đă sớm được
xuất bản, lưu thông, các thư từ phúc đáp
cũng đă có Văn Sao Tục Biên ấn hành, đa phần
đều là những lá thư sau khi Sư đă đến
Tô Châu ban ra. Có thể nói là hằng thuận chúng sanh chẳng
hề nhọc mệt vậy! Đến mùa Đông năm
Dân Quốc 26 (1937, Sư bảy mươi bảy tuổi), do thời cuộc bức bách, do t́nh thế
chẳng thể sống tại nội thành Tô Châu được
nữa, bất đắc dĩ, thuận theo lời thỉnh
của bọn Diệu Chân v.v… Sư dời tích trượng
sang Linh Nham, an cư mới được trọn ba
năm, nào ngờ ngôi chùa nơi Trí Tích Bồ Tát hiển
thánh lại trở thành chỗ thầy bọn ta thị tịch
quy chân?
Sư thị
tịch biết trước lúc mất. Mùa Xuân năm Dân Quốc
29 (1940), trong thư trả lời cư sĩ Chương
Duyên Tịnh có viết: “Nay
đă tám mươi, sáng chẳng đảm bảo
được tối”. Lại nói: “Quang là kẻ sắp chết, đâu có thể lưu
lại quy củ ấy?” Đến mùa Đông, nhằm
ngày Hai Mươi Bảy tháng Mười, Sư thị hiện
bệnh nhẹ, đến Một giờ chiều ngày Hai
Mươi Tám, liền triệu tập toàn thể các chức
sự trong núi và các cư sĩ đến quan pḥng hội
đàm, bảo đại chúng rằng: “Chức vụ Trụ Tŕ Linh Nham không thể bỏ
trống lâu hơn nữa, liền sai Diệu Chân đảm
nhiệm”. Đại chúng tán đồng, bèn định
lấy ngày mồng Chín tháng Mười Một là kỳ hạn
nhậm chức, Sư bảo “trễ quá!” liền đổi
thành ngày mồng Bốn, vẫn nói “Trễ rồi!” Sau
đấy chọn ngày mồng Một, Sư gật đầu
nói: “Được đấy!”, liền khai thị cho
đại chúng về đường lối của bổn
tự hơn hai tiếng đồng hồ. Về sau, tuy
tinh thần đă suy dần, vẫn an nhiên cùng với các vị
như Chân Đạt v.v… bàn bạc mọi chuyện điềm
nhiên, thư thái như thường, chẳng có dáng vẻ bệnh
tật ǵ.
Tối ngày mồng Ba, Sư
dùng được một chén cháo loăng. Ăn xong, Sư bảo
bọn Chân Đạt: “Pháp môn
Tịnh Độ trọn chẳng có ǵ lạ lùng, đặc
biệt chi khác, chỉ cốt sao khẩn thiết chí thành
không ai chẳng được Phật tiếp dẫn,
đới nghiệp văng sanh”. Sau đấy, Sư tỏ
vẻ mệt nhọc, nhiệt độ thân thể giảm
xuống. Một giờ rưỡi sáng ngày mồng Bốn,
Sư từ giường ngồi dậy nói: “Niệm Phật thấy Phật,
quyết định sanh Tây”. Nói xong liền lớn tiếng
niệm Phật. Hai giờ mười lăm phút, bảo
đem nước rửa tay xong, đứng dậy nói: “Được A Di Đà Phật
tiếp dẫn, ta phải đi rồi. Mọi người
phải niệm Phật, phải phát nguyện, phải sanh
Tây Phương”. Nói xong, liền chuyển sang ngồi
trên ghế, mặt hướng về Tây, thân ngồi ngay
ngắn. Hơn ba giờ, thầy Diệu Chân đến,
được Sư dặn ḍ: “Ngươi
phải duy tŕ đạo tràng, hoằng dương Tịnh
Độ, đừng học thói kẻ cả”, rồi
sau đó không nói ǵ nữa, môi chỉ mấp máy niệm Phật,
đến gần năm giờ, trong tiếng niệm Phật
của đại chúng, Sư an tường về Tây.
Dựa theo sự việc
trong mấy ngày ấy, hết thảy sự xếp đặt
như gấp rút cử Diệu Chân thật sự giữ
chức Trụ Tŕ v.v… tuy chẳng nói rơ nguyên do, nhưng
đích thực là bản lănh đă biết trước lúc
mất. Thân không có hết thảy bệnh khổ, ách nạn,
tâm không có hết thảy tham luyến, mê hoặc, các căn
vui vẻ, thư thái, chánh niệm phân minh, xả báo an
tường như nhập Thiền Định. Xét ra,
Sư suốt đời tự hành, dạy người và
tướng lành lúc lâm chung, phẩm sen văng sanh quyết chẳng
thể là Trung, Hạ được! Sư sanh vào giờ
Th́n ngày Mười Hai tháng Chạp
năm Hàm Phong 11 (1861), tức năm Tân Dậu, tịch vào
giờ Măo ngày mồng Bốn tháng Mười Một
năm Canh Th́n, tức năm Dân Quốc 29 (1940), thọ tám
mươi tuổi, Tăng lạp sáu mươi năm.
Linh Nham nhờ Sư mà được trung hưng, lại
được Sư thị hiện khuôn mẫu sanh
Tây, thời tiết nhân duyên, có những chuyện chẳng
thể nghĩ bàn được! Do vậy, cung kính chọn
trong năm sau, tức năm Tân Tỵ, nhằm ngày Rằm
tháng Hai, đúng ngày Phật nhập Niết Bàn, đúng dịp
Sư về Tây được một trăm ngày, liền
nổi lửa trà-tỳ[44],
kính đưa linh cốt về lập tháp thờ tại vách
Đông Nam của rặng Thạch Cổ trong núi này.
Sư lá
rụng về cội, ngộ chứng như thế nào, bọn
phàm phu sát đất chúng ta đều chẳng có Tha Tâm
Đạo Nhăn không dám b́nh luận xằng bậy! Chỉ
đọc bộ Văn Sao của Sư mấy lượt
được ấn hành và bộ Tục Biên mới
được in trong năm nay và các sách do Sư đích
thân lưu thông cũng như hạnh chân thật “đề
xướng niệm Phật, phát huy những chỗ nhiệm
mầu trong lẽ đạo, tự hành, dạy người,
chuyên dốc thiết tha tu tŕ” đủ chứng tỏ
Sư là bậc thừa nguyện tái lai không c̣n ngờ chi nữa.
Phàm ai tín nguyện niệm Phật, thấu hiểu tông chỉ
đích xác của Tịnh tông, sẽ chẳng đến nỗi
c̣n có những bàn bạc, nghi ngờ chi cả! Bọn Chân
Đạt được theo hầu Sư lâu nhất, biết
khá cặn kẽ, nay lược thuật đại khái hạnh
nghiệp của Sư, ghi thành bài kư.
Mồng Tám tháng Chạp
năm Canh Th́n, Trung Hoa Dân Quốc năm 29 (1940), Chân Đạt,
Diệu Chân, Liễu Nhiên, Đức Sâm v.v… đảnh lễ
kính thuật.
2. Thư
trả lời cư sĩ Vương Tâm Trạm của
pháp sư Hoằng Nhất
(tháng
Hai năm 1923 tại Ôn Châu)
Đạo
tịch, sổ vàng quyên mộ của cư sĩ Tâm Trạm
mỗi mỗi đều nhận được đầy
đủ. Khắc vội chiếc ấn nhỏ, gởi
qua bưu điện để cư sĩ rộng ḷng xem
tới. Những dụng cụ để khắc đă vứt
sạch đi từ lâu, phải dùng dùi sắt để khắc.
Chất đá mềm gịn, nếu đeo ấn th́ hăy nên dùng
vải bọc quanh. Nếu không, chẳng lâu sau, nét khắc
trên mặt ấn sẽ bị ṃn mất.
Trong các bậc thiện
tri thức đương đại, hủ nhân[45]
kính phục nhất chỉ có Ấn Quang pháp sư. Năm
trước, tôi từng gởi thư trần t́nh, nguyện
ghé dự vào hàng đệ tử. Pháp sư không chấp thuận.
Năm ngoái nhằm ngày khánh đản A Di Đà Phật,
đối trước Phật đốt hương trên
cánh tay, xin nhờ từ lực của Tam Bảo gia bị,
lại dâng thư tŕnh bày, thỉnh cầu. Sư vẫn
thoái thác. Đến lúc tuổi già lại dốc cạn
ḷng Thành xót xa khẩn cầu, Sư mới từ bi nhiếp
thọ, hoan hỷ mừng rỡ đạt được
điều chưa từng có. Bổn địa của
pháp sư, chúng ta làm sao suy lường được?
Nếu tự ước
theo Tích để luận th́ như ông Châu Mạnh Do ở
Vĩnh Gia thường nói: “Pháp
Vũ lăo nhân vâng giữ yếu chỉ chuyên tu của ngài
Thiện Đạo, xiển dương những chỗ
tinh vi trong bài Tứ Liệu Giản của ngài Vĩnh Minh,
trung chánh giống như Liên Tŕ, thiện xảo như Vân Cốc,
mực thước như ngài Linh Phong (tức
đại sư Ngẫu Ích đời Minh), cẩn trọng giống
như ngài Tư Phước (tức thiền
sư Triệt Ngộ đời Thanh), hoằng dương Tịnh
Độ, ngầm bảo vệ các tông, đề xướng
rơ ràng Phật pháp, ngấm ngầm cứu văn phong tục
cơi đời, chiết phục hay nhiếp thọ đều
trọn từ bi, nói năng hay im lặng không ǵ chẳng phải
là giáo hóa, suốt ba trăm năm qua, chỉ có một ḿnh
Sư mà thôi!” Quả là lời nghị luận quyết
định chẳng thể sửa đổi được!
Mạnh Do lại dặn ḍ hủ nhân thăm ḍ những sự
tích trong đời lăo nhân để soạn thuật truyện
văn nhằm chỉ bày cho hậu thế, tôi cũng vâng lời.
Mai sau khi tham lễ Phổ Đà, ắt mong được
thành tựu nguyện này. Vội vàng trả lời thư,
chưa thể nói trọn hết được!
Ngày Bốn tháng Hai, phúc
đáp sơ lược vào lúc tảng sáng.
Sao lục từ chỗ
Hoằng Nhất pháp sư.
3. Pháp ngữ
biệt lục
Nếu
nói đến pháp môn Niệm Phật th́ chỉ lấy ba
pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông yếu. Ba pháp đầy
đủ chắc chắn văng sanh. Nếu không có ḷng tin chân
thật, nguyện thiết tha, dẫu có Hạnh chân thật
cũng chẳng thể văng sanh, huống hồ kẻ hờ
hững, hời hợt ư? Ngẫu Ích đại sư dạy:
“Được văng sanh hay không
hoàn toàn là do có tín nguyện hay không? Phẩm vị cao hay thấp
hoàn toàn là do tŕ danh sâu hay cạn”. Đấy chính là lời
bàn luận thường hằng ba đời không thay đổi.
Hăy nên nương tựa toàn thân vào đấy ngơ hầu
đích thân chứng được lợi ích thật sự.
4. Bổ
sung: Những bức thư tổ Ấn Quang trả lời
cư sĩ Đức Minh Lư Bỉnh Nam
4.1.
Thư trả lời cư sĩ Lư Đức Minh (thư thứ nhất)
Thưa ông
Đức Minh! Thư của ông và bốn mươi đồng
tôi đều nhận được. Ḷng Thành v́ mẹ của
ông có thể nói là chí thành không chi hơn được.
Nhưng phải dùng ḷng chí thành ấy khuyên mẹ ăn chay
niệm Phật, cầu sanh Tây Phương th́ mới là
ḷng hiếu hữu ích rốt ráo. Những kẻ mưu tính
tỏ ḷng hiếu thảo với cha mẹ theo thói tục
của thế gian đều là chú trọng bề ngoài, c̣n
tăng thêm tội cho cha mẹ (như coi dùng món ăn
có thịt để phụng dưỡng cha mẹ là hiếu
thảo), ngược ngạo khiến
cho cha mẹ bị đọa lạc (như lúc lâm
chung, tắm rửa, thay quần áo sẵn, chuyện gẫu,
an ủi, và khóc lóc cũng như dùng rượu thịt để
cúng tế, đăi khách v.v…) Thứ sự
- lư ấy là do tục nhân chẳng biết, nên cố nhiên
chẳng đáng trách, nhưng nếu là đệ tử Phật
mà vẫn khăng khăng noi theo tập tục ấy tức
là muốn mượn những chuyện đó để
chuốc lấy cái tiếng hiếu thảo với cha mẹ,
chứ thật ra đă phá hoại nẻo thoát khổ của
cha mẹ, thành tựu phương hướng đọa
lạc cho cha mẹ. Ḷng hiếu ấy khác ǵ t́nh yêu của
La Sát nữ! (La Sát nữ bắt lấy người,
sắp ăn thịt bèn nói: “Ta yêu ngươi nên ăn thịt
ngươi”. Những đứa con hiếu của thế
gian theo kiểu đó, trong một vạn kẻ có đến
hơn chín ngàn chín trăm kẻ, chắc có một hai kẻ
chẳng giống như vậy cũng chưa biết chừng).
Nay gởi cho ông Sức
Chung Tân Lương và Tang Tế Tu Tri, lại gởi ba gói
sách khác để đáp tạ năm đồng
hương kính của ông. Đọc rồi sẽ chẳng
tự đến nỗi v́ ḷng hiếu thảo mà gây lụy
cho cha mẹ bị đọa lạc! Sau khi thư ông
được gởi tới, có người đến
Linh Nham giao ba mươi đồng và thư của ông. Tôi
đă bảo thầy Đương Gia đối trước
đại chúng đọc lá thư ấy và giải thích, bảo
họ sắp đặt cỗ chay hiến cúng nhằm cúng
Phật và Tăng và phân phát tiền cúng dường. Lại
tụng kinh niệm Phật một buổi, đấy
chính là v́ ḷng Thành của ông, chứ không phải đă thành
lệ. Tại Báo Quốc, trưa hôm Mười Bảy
cúng ḿ, Tăng chỉ có năm vị, có hai vị ra ngoài
chưa về, nhằm đúng lúc có bốn vị khách
Tăng bèn biếu tặng mỗi vị hai cắc, bảy
vị tại gia làm công quả trong chùa cũng được
biếu tặng như thế để họ sanh ḷng hoan
hỷ. Lúc sắp ăn xong, có bốn vị đệ tử
từ Thượng Hải tới, khá là hữu duyên. Gần
đây, công việc bận bịu quá mức nên phúc đáp
chậm trễ. Mong ông hăy sáng suốt soi xét!
Ấn Quang viết trong
ngày Mười Chín tháng Tám.
4.2.
Thư trả lời cư sĩ Lư Đức Minh (thư thứ hai)
Thưa ông
Đức Minh! Ḷng người vốn lành, bị tập
khí xoay chuyển, hễ gặp phải kẻ không có ḷng tin
sẽ thành hủy báng Phật pháp, c̣n gặp kẻ có ḷng
chánh tín sẽ liền tu tŕ Tịnh nghiệp. Xă hội
nước nhà hưng vong hay suy bại th́ nh́n vào tư cách
của vị thủ lănh như thế nào sẽ biết!
Hiện thời đă loạn đến cùng cực, hăy nên
dùng sự lư nhân quả ba đời, lục đạo
luân hồi để cứu văn. Đối với những
kẻ chịu nghe theo, sẽ lại v́ họ nói pháp môn Tịnh
Độ ngơ hầu họ cùng niệm Phật hiệu,
cùng sanh về Tây Phương. Đấy là điều trọng
yếu nhất.
Ông Lưu viết
thư giùm mọi người, họ đă muốn quy y,
nay đặt pháp danh cho mỗi người, viết riêng
trong một tờ giấy khác. Quang già rồi, mục lực
lẫn tinh thần đều chẳng đủ, chẳng
thể khai thị cặn kẽ, nay dùng sáu mươi
lăm đồng hương nghi (tức tiền hương
kính) của bọn họ để gởi bốn
mươi tám gói sách, mỗi thứ đều chia cho tám
người ấy mỗi người một bộ. Hễ
c̣n dư th́ tặng cho kẻ có tín tâm, thông văn lư, biết
cung kính. Sau này hễ đọc kỹ các thứ sách ấy
th́ không mối nghi nào chẳng cởi gỡ, cũng chẳng
cần phải gởi thư hỏi han. Hăy nên bảo bọn
họ giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn
phận, dứt ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng làm các
điều ác, vâng giữ các điều lành, giữ tấm
ḷng tốt, nói lời lành, làm chuyện tốt, ngơ hầu
chẳng phụ chí hướng trong sạch xin cầu quy y
trong ngày hôm nay. Những điều khác đă được
nói tường tận trong Văn Sao, Gia Ngôn Lục, ở
đây chẳng viết cặn kẽ, xin hăy sáng suốt suy
xét để nói với bọn họ.
Ấn Quang kính cẩn
phúc đáp vào ngày mồng Một tháng Mười Một.
Gần đây nghe nói có
một toa thuốc cai thuốc phiện rất hay: Dùng một
tấm vải Tây đỏ vuông một thước, cắt
thành hai mươi bốn miếng. Mỗi lần trước
khi hút, trước hết lấy que tiêm thuốc găm vào
đầu một miếng vải, để một cái
chén ở phía dưới. Đốt miếng vải ấy
cho tro rớt vào chén, dùng nước sôi ḥa tro để uống
rồi mới hút. Chẳng đợi đến uống hết
những miếng vải ấy th́ bệnh ghiền đă hết
(xin hăy thử xem). Nếu linh
nghiệm th́ hăy nên truyền bá rộng răi để cứu
cái họa nghiện ngập thuốc phiện. Chứng
đại ma phong (bệnh cùi) là bệnh xưa nay trong ngoài
nước không thể chữa lành, nay đă có
phương pháp trị lành, cuối cuốn Sơ Cơ
Tiên Đạo có in kèm, xin hăy đọc kỹ. Sau toa cai thuốc
phiện lại có toa trị bệnh sốt rét, linh nghiệm
cùng cực, không ai chẳng được trị lành. Có
người bệnh đă một, hai, ba năm cũng trị
một lần là lành. Cũng mong ông hăy nói với khắp hết
thảy mọi người. Từ nay bất luận là ai,
đừng nên gởi thư tới nữa. Nếu thỉnh
kinh sách, hăy nên tiếp xúc thẳng với Hoằng Hóa Xă, chẳng
cần phải bảo Quang chuyển. Tái bút.
4.3.
Thư trả lời cư sĩ Lư Đức Minh (thư thứ ba)
Thưa
cư sĩ Đức Minh! Lư Viên Tịnh giảo chánh cuốn
Kỹ Lộ Chỉ Quy lần đầu, phàm những chữ
viết theo lối Tục Thể đều nêu ra đại
lược để sửa chữa; cũng có đôi ba chỗ
cần phải sửa chữa đôi chút, nay đem gởi
đến xin hăy điều chỉnh. Quang lại đọc
kỹ một lần nữa, hễ có chỗ nào ngữ ư
chưa được trọn vẹn liền bổ túc. Thầy
Đức Sâm lại đọc một lần nữa,
đổi sang dùng kư hiệu O [trước những câu hỏi
đáp] nhằm giản lược lời văn, cũng
có chỗ th́ thêm vào. Phàm những chữ khó nhận dạng
trong tiếng địa phương, Quang đều đổi
thành những chữ dễ đọc. Phần chương
tŕnh cũng đổi thành thực hành để mong đỡ
tốn giấy. Phàm trước những câu hỏi đều
thêm một chấm tṛn đen, c̣n trước câu đáp th́
thêm một chấm tṛn trắng, sắp chữ từng hàng
sít sao. Mở đầu câu hỏi, câu đáp đều
tách thành từng ḍng riêng. Trước lời dẫn nhập,
Quang và thầy Đức Sâm mỗi người đều
viết một lời tựa, cuối sách đính kèm lời
một vị lăo nho ở Tần An tỉnh Cam Túc, [vị ấy]
thoạt đầu báng Phật mắc quả báo, về
sau học Phật liền soạn văn sám hối. Bài văn
ấy được in kèm [vào sách này]. Ông ta xin Quang viết
lời Bạt, tôi cũng cho đăng kèm lời Bạt ấy
vào sau bài văn đó để làm chỗ chỉ quy cho
người đọc sách. Đă giao qua Sở Huấn Luyện
Nghề Nghiệp Cho Dân Lang Thang sắp chữ. Sắp chữ
xong xuôi sẽ cho làm ba bốn bức Chỉ Bản, tính
giao cho Đạo Đức Thư Cục một bức
Chỉ Bản, thâu hồi bản lần trước về
đốt đi. Xin hăy nói với Thư Cục điều
này, ngơ hầu họ chẳng đến nỗi không bằng
ḷng.
Sách này lần đầu
in trước hai vạn cuốn, sau đấy in tiếp,
chắc sẽ đến mấy chục vạn cũng
không chừng. Đợi in ra xong sẽ gởi cho ông mấy
gói, đọc rồi sẽ biết dụng ư. Phàm in sách ǵ
Quang đều chẳng dám sử dụng giấy phung phí.
Hễ một bộ sách bớt được một trang
th́ mười vạn bộ sẽ bớt được
mười vạn trang, giảm được chi phí khá
nhiều. Hiện thời nhân dân khốn khổ, chúng ta tuy
muốn lợi người cũng chẳng nên chỉ mong
sao cho dễ coi, chẳng tính đến vật lực khó
khăn vậy! Xin hăy sáng suốt suy xét.
Ấn Quang kính tŕnh, viết
một nửa vào ban ngày hôm Hai Mươi Mốt tháng Giêng,
đến đêm viết tiếp.
4.4.
Thư trả lời cư sĩ Lư Đức
Minh (thư thứ tư)
Thưa
ông Đức Minh! Mười mấy hôm trước, Tôn Hạc
Niên đến đây, cầm theo các món thức ăn, tôi
đều cho đại chúng cùng hưởng, c̣n hoa Sâm th́
cho thầy Đức Sâm, bởi Quang một mực chẳng
thích đa sự, món ấy dù cất hoặc dùng đều
rất lôi thôi. Con người Hạc Niên khá thành thật,
hiện đă cho ở tại Báo Quốc, đợi có vị
thầy nào thích hợp, sẽ cho anh ta quy y thế độ.
Chuyện này không thể gấp được! Quang cả
đời thề chẳng thâu nhận đồ đệ,
cần phải đợi có vị nào [thích hợp cho anh
ta] bái sư th́ mới cho anh ta xin thế độ với
vị ấy. Thư này vốn phải nên trả lời
ngay, nhưng do công việc dồn dập, mà mục lực
lẫn tinh thần đều chẳng đủ nên chậm
trễ đến nay. Hiện thời sắp in cuốn Kỹ
Lộ Chỉ Quy, in xong sẽ dùng hết hai trăm bốn
mươi đồng làm tiền gởi sách. Xin hăy sáng suốt
suy xét.
Ấn
Quang kính cẩn phúc đáp vào ngày Hai Mươi Tám tháng Hai.
4.5.
Thư trả lời cư sĩ Lư Đức Minh (thư thứ năm)
Thưa
ông Đức Minh! Lệnh từ tuổi già hăy nên nói với
quyến thuộc về lợi ích trợ niệm khi lâm
chung và những họa hại do lau chùi thân thể, thay áo,
khóc lóc trước khi cụ mất, khiến cho bọn họ
luyện tập nhuần nhuyễn, hiểu rơ lợi - hại.
Nếu đến khi lâm chung, chắc chắn cụ sẽ
văng sanh Tây Phương. Nếu chẳng luyện tập và
chẳng nói lợi - hại th́ mười người hết
chín kẻ bị quyến thuộc v́ ḷng hiếu mà phá hoại
[chánh niệm] khiến cho người ấy vẫn phải
bị sanh tử trong lục đạo luân hồi. Hăy
đọc kỹ Sức Chung Tân Lương sẽ tự
biết.
Pháp danh của bảy
người đều đă ghi ra, gởi cho mỗi
người ba gói sách như Ngũ Kinh, Thập Yếu
v.v…để giúp tu tŕ. Đứa hậu sinh lần trước
đă tới đây th́ trong tuần đầu của tháng
nhuận đă có vị tăng từ chùa Quốc Thanh núi
Thiên Thai đến đem nó đi rồi. Nó sẽ
được vị Trụ Tŕ thâu làm đệ tử hoặc
do người khác thâu nhận đều được.
Do Trụ Tŕ chùa Quốc Thanh cũng là Trụ Tŕ chùa Linh
Nham ở Tô Châu, tôi biết rơ là người như thế
nào nên bảo dẫn đi. Xin đừng lo!
Không lâu nữa
sẽ gởi sách Kỹ Lộ Chỉ Quy đến, lại
c̣n có Tịnh Độ Ngũ Kinh không lâu nữa cũng sẽ
gởi tới. Ước chừng tháng Sáu, tháng Bảy sẽ
có thể gởi sách Vật Do Như Thử tới. C̣n sách
của huyện Cử bèn giao về cho họ, xin hăy sáng suốt
soi xét.
Ấn Quang kính cẩn
trả lời vào ngày mồng Ba tháng Tư.
Đă cho làm năm bức
Chỉ Bản của sách Kỹ Lộ Chỉ Quy, một bản
gởi cho Đạo Đức Thư Cục ở Thượng
Hải, một bản giao sang Bắc B́nh Khắc Kinh Viện.
Sách Vật Do Như Thử cũng làm như thế. Hiện
thời đă cho sắp chữ, đổi thành cỡ chữ
Tam Hiệu Tự để người già dễ đọc,
cũng tính in ba vạn bản.
4.6.
Thư trả lời cư sĩ Lư Đức Minh (thư thứ sáu)
Thưa
ông Đức Minh! Chuyện thế gian muốn làm cho không
phạm lỗi th́ đều phải tận hết một
phen tâm lực, nếu chẳng chú tâm th́ công ít, lỗi nhiều.
Vào mùa Thu năm ngoái, Quang mới biết nỗi thảm của
sữa độc giết chết trẻ con, v́ thế
đă nói tới trong dịp khai thị cho pháp hội Tức
Tai. Như sau khi người mẹ nổi nóng đùng
đùng, phải sau một ngày, đợi cho tới khi độc
tánh của sữa đă hết mới cho con bú được.
Mùa Xuân năm nay nghe nói người chết lẫn người
bệnh nhiều lắm, do vậy soạn một tờ
thông báo rộng răi về chuyện sữa độc giết
trẻ, khuyên ba ngày sau khi nóng giận mới cho bú.
Thư ấy được
in ra gởi cho một đệ tử ở Nam Kinh, ông ta
đem thư ấy kể với vợ. Vợ ông ta vốn
là người Tây Dương, bảo: “Đấy gọi
là Sữa Bị Nung Nóng V́ Lửa Giận. Hễ nóng giận,
phải đợi tâm b́nh khí ḥa. Nếu không, ḷng ôm mối
hận, sữa khó thể chuyển thành tốt được!
Nửa ngày sau khi đă b́nh tâm rồi mới có thể cho
bú. Lúc cho bú, trước hết phải nặn sữa ra độ
nửa chén trà đổ đi, rồi mới cho trẻ bú
th́ sẽ không bị họa hoạn ǵ. Nếu để sau
ba ngày, vú sẽ bị căng nhức, đâm ra chẳng tốt
đẹp ǵ!” V́ thế, cho thay đổi Chỉ Bản
để in lần thứ hai ba vạn cuốn [Ấn
Quang Văn Sao Tục Biên] sẽ không bị sai. Lại nói: “Khi có kinh nguyệt cũng chớ
nên nóng giận; hễ nóng giận sẽ bặt kinh”. V́
thế, phụ nữ chưa lấy chồng cũng có người
bị kinh nguyệt không điều ḥa, trộm cho rằng
là v́ chuyện này! Đối với giáo dục trong gia
đ́nh và nước nhà nhân dân [chuyện này] đều có
quan hệ, bởi lẽ phụ nữ từ nhỏ phải
nên tập thành tánh nhu ḥa th́ sẽ không bị họa hoạn
“kinh nguyệt chẳng điều ḥa và nóng giận đùng
đùng đến nỗi con bị chết, nóng giận nho
nhỏ khiến con bệnh tật”. Tánh đă nhu ḥa th́ sẽ
không khẩu thiệt, thị phi, gia đ́nh êm ấm, ḥa thuận.
Xin hăy đem ư này nói với hết thảy mọi người.
Tất cả khai thị trong pháp hội Tức Tai và tờ
thông cáo rộng khắp về chuyện sữa độc
giết chết trẻ thơ đều phê rơ cao lên một
ḍng, phía dưới th́ bôi bỏ chữ “sau ba ngày” để
tránh hậu hoạn.
Thư
ông và ba mươi ba đồng đều nhận
được. Pháp danh của mười bảy người
[xin quy y] được viết trong một tờ giấy
khác. Kể từ khi nhà Nho đả phá, bài xích nhân quả,
những kẻ cuồng ngu trong cơi đời đều
được dịp phô phang lớn lao chí họ. Những
kẻ mù quáng bịa đặt đồn thổi, lập
ra một giáo môn dẫn dụ kẻ vô tri theo tà đảng
của bọn chúng, lại c̣n giữ bí mật chẳng tiết
lộ chút nào! Do vậy đến nỗi người trong
cả nước quá nửa theo vào đường tà. Những
kẻ phạm đại vọng ngữ chưa đắc
nói đă đắc, chưa chứng nói đă chứng,
không kiêng sợ, đều do Tống Nho đả phá nhân
quả luân hồi khiến cho bọn chúng càng to gan gây nghiệp!
Nay gởi cho ông hai
mươi bộ Văn Sao, tức mười gói, ba gói Gia
Ngôn Lục, hai gói Liễu Phàm Tứ Huấn, những kẻ
quy y ai đọc được th́ tặng, chẳng xem
được th́ không cần phải tặng, hăy tặng
cho người có tín tâm, thông văn lư, biết cung kính. Xin
hăy sáng suốt suy xét.
Ấn Quang kính cẩn
trả lời vào ngày Hai Mươi Bảy tháng Năm.
4.7.
Thư trả lời cư sĩ Lư Đức Minh (thư thứ bảy)
“Thanh Văn bị hôn ám khi cách ấm,
Bồ Tát mê khi ra khỏi thai”. Đấy là nói về những
vị thuộc Sơ, Nhị, Tam Quả chưa đoạn
sạch Tư Hoặc. A La Hán đă đoạn sạch
Tư Hoặc sẽ không có chuyện này. Chữ Bồ Tát
[trong câu trên đây] cũng chỉ cho những vị Bồ
Tát chưa đoạn sạch Tư Hoặc, chứ hễ
hết sạch Tư Hoặc sẽ không bị mê.
Văng sanh
Tây Phương Tư Hoặc đă đoạn, nương
theo nguyện tái lai, hoặc hóa hiện, hoặc nhập
thai, đều tùy cơ thị hiện. Khi nhập thai, thị
hiện giống như người thường, trước
hết cũng cần phải hiện tướng mê, chứ
thật sự chẳng có mê t́nh. Giống như diễn tuồng,
khổ - sướng, buồn - vui, cố nhiên phải diễn
cho thật giống; nhưng trong tâm hoàn toàn không có những
t́nh niệm thật sự. Do ông không biết địa vị
của Thanh Văn, Bồ Tát nên mới coi họ giống
như kẻ đoạn Hoặc th́ lầm to quá rồi! Bồ
Tát có nhiều loại; nói chung lấy kẻ chưa đoạn
sạch Tư Hoặc làm chuẩn, chớ nên lẫn lộn
mà bảo “tất cả đều là hôn mê”. Xin hăy đọc
những thư đă gởi tới trước đây.
Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tam Biên hết
(Trọn Bộ)
(Dịch xong cảo bản ngày 28 tháng 12 năm
2008, giảo chánh lần thứ nhất ngày 03 tháng 02 năm
2009)
Thay Lời Kết & Hồi
Hướng
Khi liều lĩnh khởi
dịch bộ Ấn Quang Tăng Quảng Văn Sao vào giữa
năm 2005 cho đến khi hoàn tất cảo bản cho bộ
Văn Sao Tam Biên này vào cuối năm 2008, chúng con không hề
có hy vọng sẽ chuyển ngữ trọn vẹn ba bộ Tăng Quảng, Tục
Biên, và Tam Biên, chỉ tâm niệm cố gắng hết sức
ḿnh, làm đến đâu hay đến đó. Chúng con xin
đối trước các liên hữu sám hối v́ đă chẳng
tự lượng chính ḿnh căn tánh kém hèn, kiến thức
rỗng tuếch, ngoại điển lẫn nội điển
đều hiểu lơ mơ, hời hợt, thiếu hẳn
sự tu tŕ chân thật, nghiêm túc, cung kính, làm sao lănh hội
được những điều vi diệu, sâu xa trong lời
dạy của bậc Đại Sĩ thừa nguyện
tái lai? Chỉ v́ ư niệm tham pháp, nhất
là với tham vọng được chia sẻ với các
liên hữu bộ sách quư Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam
Biên, chúng con đă nuốt mật gấu làm chuyện quá sức
này, trong ḷng chúng con luôn áy náy, lo sợ rằng: Do chính ḿnh tâm
thức tối tăm, vô giới, vô hạnh, nghiệp
chướng nặng nề, thay v́ chuyển đạt phần
nào những lời dạy quư báu của Ấn Quang đại
sư đến với các hành nhân, chúng con lại vô t́nh
xuyên tạc pháp báu, biến thuốc A Già Đà thành độc
dược.
Chúng con muôn vàn cảm kích
v́ trong suốt quá tŕnh chuyển ngữ, Thượng Tọa
bổn sư Thích Giải Thắng (trụ tŕ chùa Bửu
Quang, quận 7, Sài G̣n), pháp sư Ngộ Sanh, đại
đức Minh Tuệ (chùa Tịnh Luật, TX), ni sư
Đàm Nhật và ni chúng chùa Đức Viên (California), vợ
chồng đạo hữu Diệu Âm (Cao Trần, Tịnh
Tông Học Hội Dallas, TX), vợ chồng đạo huynh
Đức Phong (Tịnh Tông Học Hội Los Angeles, CA), cô
Phan Thị Hồng Hoa (Tịnh tông học hội Houston, TX),
cô Giác Đạo (Quyên Nguyễn, Tịnh Tông Học Hội
Houston), đạo hữu Tâm Minh (chùa Đức Viên), ban ấn
tống, giảo duyệt kinh sách chùa Đức Viên, chùa Hoằng
Pháp… đă chẳng v́ chúng con hèn tệ mà chê bỏ, luôn từ
ái hoan hỷ ban bố những lời sách tấn, khích lệ,
tán trợ khiến cho chúng con có đủ nghị lực
đi tới đích. Chúng con càng không biết dùng những lời
lẽ nào để cảm tạ ba vị đạo hữu
Minh Tiến, Huệ Trang, Vạn Từ đă tự nguyện
luôn sát cánh kiên nhẫn, miệt mài sửa chữa, giảo
chánh bản dịch, đóng góp những ư kiến quư báu. Tuy
đă tận hết sức cố gắng, nhưng do nghiệp
sâu, trí cạn, bản dịch này không thể nào tránh khỏi
những sai lầm ấu trĩ khó thể tha thứ, chỉ
mong sau này sẽ có những vị thiện tri thức rủ
ḷng từ bi sửa sai, hoặc dịch lại một bản
hoàn toàn mới để tất cả những hành nhân Tịnh
nghiệp đều được lợi lạc rộng
khắp bởi pháp nhũ của tổ Ấn Quang.
Nếu việc làm liều
lĩnh này có chút phước báo, công đức nào, đều
xin hồi hướng cho song thân, lịch đại phụ
mẫu, tổ tiên, thân quyến, bổn sư Thích Giải
Thắng, các vị sư trưởng, chư vị pháp
sư, cũng như các vị liên hữu thuộc Linh Nham
Sơn Tự, Quảng Hóa Tự, Hoa Tạng Tịnh Tông Học
Hội, Cổ Tấn Báo Ân Niệm Phật Đường,
Tịnh tông học hội Dallas, Tịnh tông học hội
Los Angeles, Tịnh tông Houston, Tịnh tông Úc Châu, Hoằng Pháp
Tự, Đức Viên Tự, Bửu Quang Tự, các vị thiện
tri thức, các vị đạo hữu xa gần, tứ
chúng đồng tu Tịnh nghiệp, cừu gia oán đối,
hết thảy chúng sanh đều cùng được hội
ngộ nơi thế giới thanh lương của đức
Di Đà từ phụ.
Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa đê đầu sám hối, kính cẩn giăi bày vào
ngày 29 tháng 12 năm 2008
[1] Ở Trung Hoa có hai chùa mang tên Linh Nham, một
ở huyện Trường Thanh tỉnh Sơn Đông, c̣n
một là ở tại Ngô Huyện, Tô Châu. Chùa Linh Nham nói ở
đây gọi tên đầy đủ là Linh Nham Sơn Tự,
thuộc Tô Châu. Khởi đầu từ Tư Không Lục
Ngoạn biến nhà riêng thành chùa, nhưng rất nhỏ.
Đến niên hiệu Thiên Giám (502-519) thời Lương
Vũ Đế, chùa mới được mở rộng
và mang tên là Tú Phong Tự. Theo kinh Đại Ai (do ngài Trúc
Pháp Hộ dịch), đây chính là đạo tràng ứng hóa
của Trí Tích Bồ Tát. Vào thời Thiên Bảo (742-755)
đời Đường Huyền Tông, tổ trung hưng
tông Thiên Thai là ngài Đạo Tuân từng tu Pháp Hoa tam-muội
tại chùa này. Đầu đời Tống, chùa trở
thành viện học giới luật của Luật Tông. Vào
thời Nguyên Phong (1078-1085), chùa trở thành thiền viện.
Chùa bị cháy rụi chỉ c̣n lại một cái tháp đá
vào năm Vạn Lịch 18 (1600) đời Minh Thần Tông.
Sau khi được trùng tu, vào đời Thanh, chùa lại
bị loạn quân Thái B́nh Thiên Quốc đốt phá một
lần nữa. Măi đến năm Tuyên Thống thứ ba
(1911), ḥa thượng Chân Đạt trùng tu. Kể từ
năm 1931 trở đi, dưới ảnh hưởng của
tổ Ấn Quang, chùa trở thành đạo tràng Tịnh
Độ nổi tiếng nhất Trung Hoa. Năm Dân Quốc
29 (1940), tổ Ấn Quang thị tịch tại chùa này. Hiện
chùa c̣n tháp thờ ngũ sắc xá-lợi của Tổ Ấn
Quang và Ấn Công Kỷ Niệm Đường.
[2] Theo sách Hoài Nam Tử, Thái Vương là
ông nội của Châu Văn Vương có ba người
con: Thái Bá, Trọng Ung và Quư Lịch (cha của Châu Văn
Vương). V́ muốn nhường ngôi cho Quư Lịch, Thái
Bá và Trọng Ung liền giả vờ đi hái thuốc rồi
trốn xuống miền Nam sông Dương Tử, lập
ra nước Ngô. Nước Ngô bị Câu Tiễn nước
Việt thôn tính và diệt vong dưới thời Phù Sai.
[3] Sau khi Câu Tiễn (vua nước Việt)
bị Phù Sai đánh bại nhằm trả thù mối nhục
giết cha là Hạp Lư, theo mưu kế của Phạm
Lăi, Câu Tiễn đă dâng mỹ nhân Tây Thi cho Phù Sai. Phù Sai bèn
xây cung Quán Oa cho nàng Tây Thi ở. Cô Tô Đài cũng thuộc
quần thể cung điện này. Khi Câu Tiễn phục quốc,
đánh bại Phù Sai, diệt nước Ngô, đă cho phóng
hỏa đốt trụi cung Quán Oa. Chùa Linh Nham được
xây ngay trên nền cũ cung Quán Oa.
[4]
Tư Không là một chức quan được lập ra từ
thời Tây Châu, là một trong ngũ quan (Tư Mă, Tư Khấu,
Tư Sĩ, Tư Đồ). Chức quan này chuyên trông nom về
việc thủy lợi, xây dựng. Từ sau thời Hán trở
đi, chức quan này không c̣n tồn tại và được
thay thế bằng danh từ Công bộ thượng
thư. Lục Ngoạn (278-342), tự là Sĩ Dao, người
Ngô Huyện (nay là Tô Châu, tỉnh Giang Tô), tên thụy là Khang,
được phong tới tước Hung B́nh Bá, chức
Thị Trung Tư Không. Thích văn chương, nổi tiếng
với tài thư pháp. Nét bút của ông được ca ngợi
là mạnh mẽ, cứng cỏi, phóng khoáng, nhưng có phong
thái tiêu dao thoát tục, bay bướm nhưng mực
thước, không phóng túng, ngông cuồng.
[5] Ngài Bảo Chí (418-514), thường
được xưng là Bảo Công, hoặc Chí Công Ḥa
Thượng, nên thường được gọi là Bảo
Chí Công, người xứ Kim Thành (nay là Nam Trịnh tỉnh
Thiểm Tây). Có thuyết nói Ngài là người huyện Cú
Dung tỉnh Giang Tô, xuất gia từ nhỏ. Sư theo học
với ngài Đạo Lâm Tăng Kiệm tu tập Thiền
Định. Trong niên hiệu Thái Thủy (466-471),
Sư thường lang thang khắp nơi, không ở
chỗ nào nhất định, thường đọc
thơ, phảng phất giống sấm kư, người ta
thường kéo nhau đến hỏi chuyện
tương lai. Tề Vũ Đế bèn tống giam Sư
trong ngục, nhưng người ta vẫn thấy Sư
lang thang ngoài chợ, nh́n vào ngục th́ vẫn thấy
Sư nằm khểnh trong đó. Vua chịu thua, đón
Sư vào ở trong vườn Thượng Uyển để
ngăn Sư đi khắp nơi. Tuy các nội thị canh
gác Sư nghiêm mật, dân chúng vẫn thấy Sư la cà các
chùa Long Quang, Kế Tân, Hưng Hoàng, Tịnh Danh v.v… Đến
khi Lương Vũ Đế lên ngôi, bèn băi bỏ lệnh
cấm, học đạo với Sư, hết sức kính
phục Ngài. Khi Sư mất, vua phong tặng thụy hiệu
Quảng Tế đại sư, rồi các đời lần
lượt phong tặng Diệu Giác đại sư, Đạo
Lâm Chân Giác Bồ Tát, Từ Ứng Huệ Cảm đại
sư, Phổ Tế Thánh Sư Bồ Tát. Phật môn Trung
Hoa thường coi Ngài là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ
Tát.
[6] Trí Tích Bồ Tát nói ở đây là một
vị cao tăng Ấn Độ. Theo Linh Nham Kư Lược,
Sư từ Ấn Độ sang Trung Hoa vào cuối đời
Tấn, trùng hưng chùa Linh Nham tại Tô Châu, rất nổi
tiếng về tài đức. Theo truyền thuyết có một
bà lăo nghèo không có ǵ cúng dường, đem một miếng
sơn (nhựa của cây sơn) dâng cho Sư, Sư vẫn
vui vẻ nhận lấy, nhờ đó bà được
khai ngộ. Do vậy, sau này mỗi năm vào ngày sinh nhật
Sư, chùa vẫn cử hành lễ kỷ niệm, gọi
là Giác Tất Hội. Cũng theo truyện kư của chùa,
đại sư nhiều lần thị hiện hóa độ
Tăng - Tục rất đông.
[7] Hành cung: Cung điện dành cho vua ở
tại các địa phương.
[8] Tức loạn Thái B́nh Thiên Quốc. Do
lănh tụ của Thái B́nh Thiên Quốc là Hồng Tú Toàn và
Dương Tú Thanh lănh đạo nên Sử thường gọi
là loạn Hồng Dương. Hồng Tú Toàn tự xưng
là em trai của Jesus, dấy loạn, chủ trương biến
Trung Hoa thành một nước Thiên Chúa theo kiểu riêng của
hắn, cấm ngặt tam giáo, cấm thờ phụng tổ
tiên v.v… hạ lệnh đốt phá đ́nh chùa, miếu mạo
rất dữ dội.
[9] Chùa bị quân Thái B́nh Thiên Quốc đốt
sạch, chỉ c̣n sót lại một cái tháp đá nên sư
Niệm Thành phải ở tạm trong đó.
[10]
Pháp sư Giới Trần (1878-1948) là người xứ Hán
Xuyên, tỉnh Hồ Bắc, họ Khưu, tự là Địch
Ngô, xuất gia năm mười chín tuổi, chuyên tu khổ
hạnh, sống trong núi Chung Nam, toàn tâm toàn ư tu Thiền. Sau
Sư chuyên tu niệm Phật. Dưới thời Quang Tự,
Sư vào núi Kê Túc ở Vân Nam chuyên tu pháp Ban Châu Niệm Phật.
Năm Dân Quốc thứ ba (1914), Sư đến Hàng Châu,
mở trường Hoa Nghiêm Đại Học. Về sau,
Sư bế quan tại chùa Phật Thản ở Thường
Thục, ngầm tu Tịnh nghiệp. Năm Dân Quốc thứ
chín (1920), cùng với các vị Liễu Trần, Từ Châu
v.v… lập Hoa Nghiêm Đại Học tại chùa Cửu
Liên ở Hán Khẩu. Sư từng đảm nhiệm Trụ
Tŕ chùa Linh Nham một thời gian. Sư thị tịch vào
năm Dân Quốc 37 (1948) tại chùa Cùng Trúc ở Côn Minh, thọ
71 tuổi, pháp lạp 53 năm. Trước tác gồm Hoa
Nghiêm Nhất Trích, Hoa Nghiêm Thất Xứ Cửu Hội
Đồ, Liên Xă Minh Huấn, Tịnh Tông Yếu Ngữ
v.v…
[11] Tức là không làm các pháp sự cầu
an, cầu siêu, giải hạn, đảo bệnh, cầu
phước, cúng sao, chúc thọ v.v… như các đạo
tràng khác.
[12] Tức Phổ Thông Phật Thất: Mỗi
ngày niệm Phật sáu thời. Gọi là Phổ Thông Phật
Thất để phân biệt với Tinh Tấn Phật Thất
(niệm Phật suốt hai mươi bốn tiếng
đồng hồ).
[13] Nguyên văn “chỉ luận thứ số,
bất luận đại số”: Quan tâm đến thứ
tự (tức tuổi tác, mức độ tu chứng, tŕ
giới), chứ không quan tâm đến thế hệ truyền
thừa. Tức là Tăng chúng trong chùa được xếp
bậc theo người tu hành lâu năm, giới hạnh
tinh nghiêm, chứ không v́ người ấy thuộc thế
hệ trước hay sau mà coi trọng. Trong các đạo
tràng khác, thứ tự truyền thừa rất được
coi trọng. Chẳng hạn, một vị Tăng có thể
mới xuất gia chưa lâu nhưng v́ là đệ tử
của một vị ngang vai với thầy của vị
Trụ tŕ hay người thuộc thế hệ cao hơn,
nên được coi là sư thúc, sư bá, thái sư thúc.
Các vị Tăng khác dù cao tuổi hơn, giới lạp
cao hơn nhưng thuộc vai vế thấp hơn, vẫn
phải lễ kính vị Tăng trẻ tuổi này.
[14] Pháp yếu: Những chỗ quan trọng,
cốt lơi của một pháp môn.
[15]
Sử: Tên gọi khác của phiền năo, gọi đầy
đủ là Chánh Sử. Do phiền năo sai khiến chúng ta
luân hồi trong sanh tử nên phiền năo được gọi
là Sử (sai khiến). Chúng c̣n được gọi bằng
một danh từ khác là Tùy Miên. Sử nói chung gồm mười
thứ, chia làm hai nhóm lớn:
1)
Nhóm thứ nhất gồm Thân Kiến, Biên Chấp Kiến,
Tà Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Cấm Thủ
Kiến. Do tánh chất của chúng khá mạnh mẽ, ảnh
hưởng rất lớn đến sự chấp trước,
vọng tưởng nên gọi là Ngũ Lợi Sử
(năm Sử nhạy bén).
2)
Nhóm thứ hai gồm tham, sân, si, mạn, nghi. Xét về tánh
chất, những thứ này có tác dụng yếu hơn nên
gọi là Ngũ Độn Sử (năm Sử chậm lụt).
[16]
Ngũ Bất Hoàn Thiên, c̣n gọi là Tịnh Cư Thiên (Śuddhāvāsa),
Ngũ Tịnh Cư Xứ, Ngũ Na Hàm Thiên, là nơi bậc
thánh nhân Tam Quả Thanh Văn sống, bao gồm các cơi trời:
1.
Vô Phiền Thiên (Avrha): Cơi trời này không c̣n khổ
vui, không c̣n hết thảy phiền năo xen tạp.
2.
Vô Nhiệt Thiên (Atapa): Không c̣n hết thảy nhiệt năo.
3.
Thiện Kiến Thiên (Sudrśa): Do Định Huệ thấy
mười phương đều trong lặng, không c̣n
đắm trước vào trần cảnh.
4. Thiện
Hiện Thiên (Sudarśana): Sự thấy biết rơ
ràng tinh diệu hiện tiền, thấy hết thảy sắc
tướng là không, chẳng bị chướng ngại.
5. Sắc
Cứu Cánh Thiên (Akanistha): Ĺa bỏ hết thảy các sắc
cực kỳ nhỏ nhiệm, là chỗ thù thắng nhất
trong Sắc Giới.
Tuy
cùng sống trong các tầng trời này, nhưng chư Thiên
chẳng thấy được các vị thánh nhân. Do các vị
thánh nhân sống trong cơi này không c̣n đọa xuống nhân
gian nữa nên gọi là Ngũ Bất Hoàn Thiên.
[17]
Vô Học (Aśaiksa). Bậc thánh nhân tuy đă hiểu
rơ chân lư Phật giáo nhưng chưa đoạn được
mê hoặc, c̣n phải học hỏi th́ gọi là Hữu Học.
Bậc Vô Học thánh nhân đă thấu hiểu Phật pháp
đến chỗ cùng cực, không c̣n mê hoặc để
đoạn nữa, không cần phải học cách đoạn
trừ mê hoặc, nên gọi là Vô Học. Như vậy, Vô
Học thánh nhân là danh xưng khác của A La Hán.
[18] Thô tế: Những phiền năo dễ thấy
dễ nhận biết như nóng giận, tham lam th́ gọi
là Thô, c̣n những phiền năo khó nhận biết th́ gọi
là Tế.
[19] Giác chiếu: Quán sát cái tâm, khi vọng niệm
khởi lên liền nhận biết ngay và t́m cách chế ngự,
khuất phục nó.
[20] Thoại đầu là một câu nói do
các thiền sư dạy thiền sinh tham cứu ḥng ngộ
được chân tâm. Chẳng hạn như câu thoại
đầu “thế nào là tiếng vỗ của một
bàn tay?”
[21]
Ngũ Trụ: C̣n
gọi là Ngũ Trụ Địa Hoặc, tức Kiến
Hoặc, Tư Hoặc, Vô Minh Phiền Hoặc gộp thành
một trụ, bốn trụ kia là Dục Ái Trụ Địa,
Sắc Ái Trụ Địa, Hữu Ái Trụ Địa,
Vô Minh Trụ Địa. Do hết thảy phiền năo
đều nương vào năm thứ này nên chúng
được gọi là Trụ (nương ở, nắm
giữ). Do chúng phát sanh ra các phiền năo nên gọi là Trụ
Địa. Sách Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển
5, giảng:
1. Kiến Nhất Thiết
Xứ Trụ Địa: Chính là Kiến Hoặc gồm
Thân Kiến v.v… trong tam giới.
2. Dục Ái Trụ
Địa: Gồm phiền năo trong Dục Giới, ngoại
trừ vô minh và Kiến Hoặc, chấp vào Ngũ Dục
bên ngoài (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp).
3. Sắc Ái Trụ
Địa: Phiền năo trong Sắc Giới, không tính Kiến
Hoặc, Vô Minh, không chấp vào Ngũ Dục bên ngoài,
nhưng chấp vào sắc thân.
4. Hữu Ái Trụ Địa: Phiền năo
trong Vô Sắc Giới, không bao gồm Kiến, Vô Minh, đă
bỏ ĺa chấp trước tham Sắc, nhưng vẫn
c̣n yêu mến cái thân của chính ḿnh.
5. Vô Minh Trụ Địa: Tức hết thảy vô minh
trong tam giới. Vô minh là cái tâm si ám, là cội gốc của
hết thảy phiền năo.
Duy Thức Tông chủ trương bốn
món Trụ đầu là chủng tử của Phiền Năo
Chướng, món cuối là chủng tử của Sở
Tri Chướng. Tông Thiên Thai gọi món đầu tiên là Kiến
Hoặc, ba món giữa là Tư Hoặc, món cuối là Vô Minh
Hoặc. Họ gọi chung Kiến Tư Hoặc là Giới
Nội Hoặc (phiền hoặc trong tam giới), c̣n Vô Minh
Hoặc là Giới Ngoại Hoặc.
[22] Ḥa thượng (Upâdhyâya): c̣n
được phiên âm là Ḥa Xà, Ḥa Xă, Cốt Xă, Ô Xă, dịch
nghĩa là Thân Giáo Sư, Lực Sanh, Cận Tụng, Y Học,
Đại Chúng Sư. Những từ ngữ này đều
hàm nghĩa là vị thầy dạy thân thiết, có công
năng tăng trưởng huệ mạng Pháp Thân cho đồ
đệ, là bậc đức cao giới hạnh tinh
nghiêm đáng làm bậc thầy gương mẫu cho mọi
người.
Theo Tứ Phần Luật, Ḥa
Thượng phải là một vị tỳ-kheo hội tụ
đủ năm đức: 1) Giữ vững tịnh giới
2) Đủ mười tuổi hạ 3) Thông hiểu tạng
Luật 4) Thông đạt Thiền tư 5) Có trí huệ sâu
xa.
Theo các nhà nghiên cứu, từ ngữ
Upâdhyâya bị biến âm sang tiếng Kuche (Cưu Ty, hoặc
Quy Tư) là Pwâjjhaw. Từ ngữ này lại bị biến
âm lần nữa qua cách đọc của người
Khotan (Vu Điền) thành Khosha, rồi lại bị người
Hán đọc trại âm một lần nữa thành Ḥa
Thượng (He Shang). Về sau, chữ Ḥa Thượng
được dùng như danh xưng tỏ vẻ tôn trọng
với Tăng sĩ; nhưng người b́nh dân Trung Hoa
thường gọi những chú tiểu là Tiểu Ḥa
Thượng.
[23] Tam
Đàn Đại Giới: Quy củ truyền thọ giới
pháp, chia làm ba giai đoạn: Sơ đàn, Nhị đàn và
Tam đàn. Sơ đàn truyền Sa Di, Sa Di Ni giới, Nhị
đàn truyền Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni giới, Tam đàn
truyền Bồ Tát giới. Khi Sơ Đàn và Nhị
Đàn đă xong, Phật tử tại gia mới được
dự Tam Đàn cùng với chúng xuất gia thọ Bồ
Tát Giới. Truyền Tam Đàn Đại Giới phải
hội đủ Tam Sư (Đắc Giới Ḥa Thượng,
Yết Ma A Xà Lê, Giáo Thọ) và bảy vị tôn chứng A
Xà Lê đóng vai tṛ chứng minh. Thông thường đàn truyền
giới được cử hành trong ba ngày liên tiếp
[24] Phương
Trượng là cái thất vuông vức mỗi bề vừa
đúng một trượng, là chỗ ở của vị
trụ tŕ trong Thiền Tông, nên vị Trụ Tŕ thường
được gọi là Phương Trượng, U
Trượng, Chánh Đường, hay Đường
Đầu. Chữ “tùng lâm” chỉ chùa miếu nơi Tăng
chúng tụ tập cùng ở, thường dùng để chỉ
chùa Thiền Tông. Thoạt đầu, tại Ấn Độ,
trong những khu rừng cây thanh tịnh ở ngoài thành thị
thường lập tinh xá cho Tăng chúng ở; danh từ
Tùng Lâm (rừng rậm) phát xuất từ đó. Sách Đại
Trí Độ Luận lại giảng là v́ Tăng chúng tụ
tập như rừng nên gọi là Tùng Lâm. Về sau, chữ
“tùng lâm” dùng để gọi chung các chùa miếu lớn,
c̣n tùng lâm của Thiền Tông thường gọi là Thiền
Lâm.
[25] Phật Sống
(Hoạt Phật): Tiếng Tây Tạng là Hpbrulsku, người
Mông Cổ gọi là Khutuktu hay Khutukutu (thường phiên âm
là Hô Đồ Khắc Đồ, nghĩa là tự tại
chuyển sanh). Chữ hpbrulsku
(thường được viết theo cách phát âm là Tulku)
có nghĩa là hóa thân, chuyển sanh, là một cơ cấu
truyền thừa riêng của Phật Giáo Tây tạng, nhằm
giữ vững ngôi vị lănh đạo và thích ứng với
t́nh trạng độc thân của người đứng
đầu một ḍng tu. Theo đó, một vị lạt-ma
cao cấp chết đi, sẽ tái sanh trở lại trong
nhân gian hầu tiếp tục tu hành, thống lănh ḍng tu và
thực hiện bi nguyện cứu độ chúng sanh.
Trước khi chết, người ấy thường
để lại di ngôn hay sấm ngữ bí hiểm để
các môn đệ đi t́m xem người ấy thác sanh vào
chỗ nào, rước về nuôi dạy, đào tạo trở
thành người lănh đạo tông phái. Những vị
Tăng chưởng quản một phái tu, một ḍng tu, thậm
chí một tu viện Tây Tạng thường tự xưng
là hóa thân của Phật, Bồ Tát hay Tổ Sư nào
đó, chẳng hạn Đại Lai Lạt Ma là hóa thân của
Quán Thế Âm Bồ Tát, Ban Thiền Lạt Ma là hóa thân của
A Di Đà Phật, trưởng ḍng tu Sakyapa là hóa thân của
Văn Thù Bồ Tát, Tai Situpa là hóa thân của Di Lặc Bồ
Tát. Có lẽ v́ thế người Hoa gọi họ bằng
danh xưng Hoạt Phật.
[26] Vào thời vua Càn
Long, trong năm 1807, khi các phe phái tranh chấp nhau về chuyện
quyết định đứa bé nào mới là hậu thân
thật sự của Đại Lai Lạt Ma đời thứ
tám, vua Càn Long đă gởi đến Lhasa một chiếc
b́nh vàng, ra lệnh bỏ hai lá thăm ghi tên từng đứa
bé vào, rồi bốc thăm quyết định. Khi có những
tranh chấp về hậu thân của một vị Tulku,
cũng thường có chuyện bốc thăm để
quyết định như vậy. Đôi khi không giải
quyết được mâu thuẫn, mỗi phe sẽ công
nhận riêng một vị Hoạt Phật chuyển thế.
Như gần đây, sau khi Đại Bảo Pháp
Vương (Gyalwa Karmapa) đời thứ 16 là Rangjung Rigpe Dorje chết
đi, các tín đồ tranh chấp, không phe nào nhường
phe nào, cuối cùng có hai Đại Bảo Pháp Vương
đời thứ 17 được công nhận là Ogyen Trinley Dorje (của phe lạt-ma
Taisitu) và Trinley Thaye Dorje (của phe lạt-ma Sharmapa).
[27] Những giáo huấn
khơi gợi về mặt đức dục (dạy dỗ,
vun bồi đạo đức) cho trẻ nhỏ.
[28] Những trước
tác của người đă khuất.
[29] Nhất Xiển Đề
(Icchantika), c̣n phiên âm là Nhất Điên Ca, Nhất Xiển
Đề Kha, Xiển Đề v.v… dịch nghĩa là
Đoạn Thiện Căn, Tín Bất Cụ Túc (tin tưởng
không đầy đủ), Cực Dục (ham muốn cùng cực),
Đại Tham, Vô Chủng Tánh (không có chủng tánh), Thiêu Chủng
(hạt giống bị cháy). Những cách dịch này đều
nhằm diễn tả ư kẻ đoạn sạch hết
thảy thiện căn, không có cách nào thành Phật
được. Nhập Lăng Già Kinh lại chia thành hai loại
Xiển Đề:
1. Đoạn Thiện Xiển
Đề: Tức hạng người vốn hoàn toàn không
có nhân giải thoát.
2. Đại Bi Xiển Đề:
C̣n gọi là Bồ Tát Xiển Đề, tức hạng Bồ
Tát do bi nguyện cứu độ chúng sanh nên thị hiện
những nghịch hạnh để dạy chúng sanh kinh sợ
ác quả, hồi tâm tu tập.
[30] Tha Phật tức
là A Di Đà Phật ở Tây Phương Cực Lạc thế
giới, nói như vậy để phân biệt với Tự
Tánh Di Đà.
[31] Miệt Lệ Xa (Mleccha), c̣n phiên
âm là Di Ly Xa, Mật Lệ Xa, Tất Lật Tha. Có nghĩa
là nơi biên địa, hẻo lánh thiếu hẳn tri thức,
ty tiện.
[32] Tông Thuyết là hai
khái niệm được phân biệt trong Thiền Tông dựa
theo kinh Nhập Lăng Già. Tông là tông chỉ sâu xa trong đạo,
tức là lư thể, cương yếu của đạo,
chỉ có thể tự ngộ nhập, thấu hiểu,
c̣n Thuyết là khả năng diễn giảng, giáo hóa đại
chúng. Hiểu theo nghĩa rộng, Tông là tự giác, Thuyết
là giác tha (giác ngộ người khác).
[33] Tứ Thiên Hạ chính
là toàn thể bốn đại châu (Nam Thiệm Bộ Châu,
Bắc Câu Lô Châu, Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hóa
Châu), tức toàn thể cơi nhân gian. Do tầng trời thứ
nhất ngay trên nhân gian là tầng trời của Tứ
Thiên Vương (Đông phương Tŕ Quốc thiên
vương, Nam phương Tăng Trưởng thiên
vương, Tây phương Quảng Mục thiên vương,
Bắc phương Đa Văn thiên vương) nên cơi nhân
gian được gọi là Tứ Thiên Hạ.
[34] Câu-chi (Koti) c̣n phiên âm là Câu Trí,
Câu Lê, dịch nghĩa là Ức. Từ xưa đến nay
có hai cách giải thích chữ Câu-chi:
1. Theo Huyền Ứng Âm
Nghĩa, quyển 5, th́ Câu-chi là một ngàn vạn.
2. Theo ngài Viên Trắc trong Giải
Thâm Mật Kinh Sớ, quyển sáu: “Câu-chi có ba cách giải thích, một là mười vạn,
hai là trăm vạn, ba là một ngàn vạn”.
[35] Tư thục
đệ tử: Học theo và tuân hành di giáo của một
vị thầy, nhưng chưa từng có dịp gặp gỡ,
thọ giáo khi vị ấy c̣n sống th́ gọi là “tư thục đệ
tử”.
[36] Tổ Ấn Quang có pháp danh là
Thánh Lượng, pháp tự là Ấn Quang (pháp tự là tên
được đặt khi thọ giới Sa Di). Khi thọ
giới Cụ Túc lại được đặt tên nữa
là pháp hiệu. Tuy thế, có những sơn môn, khi giới
tử thọ Cụ Túc Giới, vị bổn sư (hay Đàn
Đầu Ḥa Thượng) không đặt pháp hiệu. Có
những vị suốt đời chỉ dùng pháp danh, không
dùng tới pháp tự hay pháp hiệu.
Lâm Tế Tông ở Trung Hoa chia
ra rất nhiều chi phái nhỏ (đều có chung danh
xưng là Lâm Tế Chánh Tông). Sau thời ngài Vạn Phong Thời
Ủy và Đạo Mân, chư thiền sư tiếp tục
lập ra những ḍng kệ truyền thừa khác nhau. Chẳng
hạn, ngài Ngọc Lâm Thông Tú (quốc sư dưới
đời vua Thuận Trị - Khang Hy) cũng lập ra một
bài kệ riêng để truyền thừa như sau: “Pháp hoằng tế tổ, chân
tông thiệu tục, vĩnh truyền anh tuấn, tịnh
minh phạm hạnh, nham tŕ tuyên cổ, gia mô đại
căn” (法宏濟祖,真宗紹續,永傳英俊,淨明梵行, 巖持宣古,嘉謨大根). Điểm qua những bài
pháp phái kệ của tông Lâm Tế Trung Hoa hiện thời,
căn cứ trên pháp danh Thánh Lượng của tổ Ấn
Quang, chúng tôi mạo muội đoán rằng vị thầy
truyền giới cho tổ Ấn Quang thuộc chi phái Long
Tŕ của tông Lâm Tế (trong Văn Sao Tục Biên, Tổ chỉ
cho biết vị thầy truyền giới của ḿnh thuộc
Lâm Tế Chánh Tông, không nói rơ pháp hiệu, pháp tự của
Bổn Sư). Bài kệ truyền pháp phái của Lâm Tế
Chánh Tông, hệ phái Long Tŕ (龍池)
như sau: “Giác tánh bổn
thường tịch, tâm duy pháp giới đồng, như
duyên hoằng thánh giáo, chánh
pháp vĩnh xương long” (覺性本常寂,心惟法界同,如緣宏聖教,正法永昌隆). Cũng xin nói thêm, trong những
bài tiểu sử của tổ Ấn Quang đăng trên
Internet, chúng tôi thấy biệt hiệu Thường Tàm Quư
(常慚愧: thường hổ thẹn) hoặc
gọn hơn là Thường Tàm (常慚) của Tổ Ấn Quang không hiểu
do vô t́nh hay cố ư thường bị sửa thành Thường
Tâm. Sửa như vậy đă vô t́nh đánh mất ư khiêm tốn
lớn lao của Tổ khi chọn biệt hiệu ấy.
[37] Đây là các chức vụ
thường thấy trong những ngôi tùng lâm lớn:
1. Thượng Khách Đường:
Những vị Tăng đảm nhiệm tiếp đón
khách (Tri Khách) đến văng cảnh chùa, tŕnh báo
Phương Trượng khi có khách muốn gặp gỡ,
tŕnh báo với vị Liêu Nguyên để sắp xếp
nơi ăn chốn ở cho khách thập phương hay
khách Tăng muốn ở lại chùa đều thuộc
Khách Đường. Ở đây, Sư đảm nhiệm
trông coi việc tiếp đón, sắp xếp chỗ ăn
ở cho những vị khách quan trọng.
2. Hương Đăng: Vị
Sư trông coi nhang đèn trong Phật điện, hướng
dẫn, giải thích nếu khách thập phương có thắc
mắc, thỉnh chuông khi khách văn cảnh chùa lên lễ Phật,
bày biện, tiếp nhận lễ vật của khách dâng
cúng lên bàn thờ, đồng thời giữ cho bàn Phật
luôn được sạch sẽ tinh khiết.
3. Liêu Nguyên: Chức vụ có
trách nhiệm quản thủ các liêu xá trong một ngôi tùng
lâm, c̣n được gọi bằng các danh xưng Tọa
Nguyên, Ṭa Nguyên, Liêu Thủ Ṭa, hay Đệ Nhất Tọa.
Chức vụ này có trách nhiệm coi sóc những phẩm vật
trong Tăng pḥng như kinh sách, trà nước, củi than,
cung cấp các thứ cần dùng cho tăng chúng, chỉ huy
những người dưới quyền quét tước,
dọn dẹp cho liêu pḥng sạch sẽ. Vị này c̣n có
trách nhiệm phân xử, dàn xếp nếu có tranh chấp xảy
ra giữa các liêu pḥng, nhắc nhở những quy ước
trong tùng lâm hay răn đe những kẻ vi phạm quy
ước cộng trụ trong tùng lâm. Hiện thời, Liêu
Nguyên c̣n phải kiêm thêm trách nhiệm quản thủ Vân Thủy
Đường (tăng pḥng dành cho những vị thượng
khách).
[38] Nguyên văn “tức ư Châu Bảo điện
trắc bế quan, lưỡng kỳ lục tải”
(liền bế quan cạnh điện Châu Bảo, hai kỳ
sáu năm). Do câu văn ở đây dễ gây hiểu lầm
Sư bế quan hai kỳ, mỗi kỳ sáu năm, nên chúng
tôi xin mạn phép nói thêm: Trong đoạn văn phía trước,
các tác giả cho biết năm Quang Tự 17 (1891), Sư
được ba mươi mốt tuổi và c̣n trụ tại
chùa Viên Quảng ở Bắc Kinh. Hai năm sau (1893, tức
năm Quang Tự 19), Sư ba mươi ba tuổi, giúp ḥa
thượng Hóa Văn kiểm giảo Đại Tạng
Kinh rồi theo về Phổ Đà trong năm ấy. Bốn
năm sau, tức năm Quang Tự 23 (1897), đại chúng
thỉnh Sư giảng kinh. Sư giảng xong liền bế
quan. Tiếp đó, bài văn trên đây cho biết Sư xuất
quan, qua ở Liên Bồng một thời gian, rồi mới
trở về Pháp Vũ để theo pháp sư Đế
Nhàn lên Bắc Kinh thỉnh Đại Tạng năm Sư
bốn mươi bốn tuổi (năm Quang Tự 30, tức
năm 1904). Từ năm 1897 đến năm 1904 là 7
năm, như vậy, tổng cộng thời gian đại
sư bế quan sau khi giảng kinh chỉ có thể là sáu
năm. Nói cách khác, câu “lưỡng
kỳ lục tải” chỉ có nghĩa Sư bế quan
tại Phổ Đà hai lần và thời gian tổng cộng
là sáu năm.
[39] Nguyên văn ‘chỉ quư Lạc Dương’ (giấy đắt
đỏ tại Lạc Dương); đây vốn là một
thành ngữ chỉ văn chương hay đẹp
được mọi người đua nhau sưu tập,
sao chép, săn đón. Nguyên ủy của thành ngữ này là
do trong đời Tấn, Tả Tư viết bài Tam Đô
Phú rất hay, những nhà giàu có tại kinh đô Lạc
Dương đua nhau cho người sao chép đến nỗi
giá giấy ở Lạc Dương đắt vọt hẳn
lên.
[40] Biện Dung ḥa thượng là
vị đại lăo trong Tông môn thời đại sư
Liên Tŕ mới học đạo. Nghe danh, ngài Liên Tŕ liền
lặn lội tới xin tham yết. Khi tới chân núi,
Sư đi bằng đầu gối, lết tới
trước ṭa của ngài Biện Dung, tỏ ư cung kính tột
bậc. Ngài Biện Dung dạy: “Ông
hăy nên giữ bổn phận, đừng tham danh cầu lợi,
đừng vin nắm, chỉ cần nhân quả phân minh, nhất
tâm niệm Phật”. Người đứng xung quanh ph́
cười, cho là ngài Liên Tŕ đă tốn công cung kính vô ích ;
nhưng ngài Liên Tŕ trân trọng cảm tạ sâu đậm,
thường nói được ngài Biện Dung ban lời
khai thị ấy, Sư dùng cả đời vẫn không hết.
[41] Trước đấy, đại
tổng thống Phùng Ngọc Tường của chánh quyền
Bắc Dương đă mượn cớ đả đảo
mê tín để chiếm đoạt tài sản các chùa Bạch
Mă, Thiếu Lâm, Tướng Quốc tại Hà Nam, đồng
thời trục xuất tăng ni, bắt họ hoàn tục.
Bộ trưởng Nội Chánh Bộ (tức bộ
trưởng bộ Nội Vụ) thời ấy chính là Tiết
Đốc Bật, là người đă ban hành sắc lệnh
Quản Lư Chùa Miếu gồm 21 điều, dung dưỡng
cho các quan chức địa phương và bọn tay chân
thừa cơ mượn danh biến chùa miếu thành
trường học để cướp đoạt chùa
miếu ở rất nhiều nơi, nhất là vùng Giang Tô.
Tiết
Đốc Bật (1889-9173), người huyện Giải,
tỉnh Sơn Tây, từng là đảng viên cốt cán của
Quốc Dân Đảng, thoạt đầu làm Thứ
Trưởng Bộ Tư Pháp của chánh quyền Bắc
Dương, rồi tỉnh trưởng tỉnh Cam Túc, bộ
trưởng Dân Chánh, rồi làm bộ trưởng Nội
Chánh. Do vụ chiếm đoạt tài sản chùa miếu
gây nên công phẫn lớn lao trong giới Tăng tục,
chánh phủ Bắc Dương của Phùng Ngọc Tường
phải điều ông ta sang làm bộ trưởng bộ
Thủy Lợi. Năm 1948, ông từ bỏ chức vụ
đi làm luật sư tại Thượng Hải. Không rơ
bằng cách nào, vào năm 1955, ông ta lại tái xuất hiện
làm Phó Chánh Ủy thành phố Thượng Hải dưới
thời Mao Trạch Đông, rồi leo dần lên tới chức
vụ ủy viên Bộ Chánh Trị của đảng Cộng
Sản Trung Quốc cho đến khi mất.
[42] Uất Tŕ Cung (585-658), tự là
Kính Đức, người xứ Thiện Dương, Sóc
Châu (nay thuộc tỉnh Sơn Tây), danh tướng khai quốc
đời Đường, cùng với Tần Quỳnh
được coi là hai vị Môn Thần (thường
được người Hoa vẽ hai bên cửa vào dịp
Tết, hoặc họa h́nh trên cổng các miếu thờ
thần để xua đuổi, trấn áp ma quỷ).
[43] Nhân vật X nói ở
đây là Thai Sảng Thu (1897-1976), vốn là người huyện
Thai, tỉnh Giang Tô. Ông ta tốt nghiệp với học vị
thạc sĩ giáo dục tại đại học Chicago, rồi
tiến sĩ giáo dục tại đại học Columbia,
Hoa Kỳ. Kể từ năm 1931, ông ta đă nhiều lần
đề nghị kế hoạch cướp đoạt
chùa miếu để biến thành trường học.
Trong năm 1935, trong hội nghị giáo dục ông ta đă
công khai kiến nghị và thuyết phục giáo chức tiến
hành. Họ Thai từng đảm nhiệm giáo sư đại
học, hiệu trưởng, viện trưởng các
trường đại học tại Hoa Nam, từng làm Ủy
Viên của Giáo Dục Ủy Viên Hội dưới thời
Dân Quốc. Khi Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa thành lập, ông ta lại
chạy vạy để được phân công về dạy
tại đại học Phụ Nhân rồi dạy tại
đại học Bắc Kinh cho đến khi về
hưu.
[44] Trà-tỳ
(Jhāpeti), c̣n phiên âm là Xà Tỳ, Xà Tỵ, Da Duy, có nghĩa
là hỏa thiêu.
[45] Hủ nhân: Tiếng
tự xưng khiêm tốn của pháp sư Hoằng Nhất.
Hủ có nghĩa là mục nát, vô dụng.