Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên
Quyển 1
Phần 3
Chuyển ngữ: Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Minh Tiến & Huệ Trang
57.
Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ chín)
Quang túc nghiệp
rất sâu, có mắt như mù. Thường chuyên chú sám hối để tiêu trừ, nhưng nghiệp vẫn
như cũ. Có lẽ vì nhiều kiếp đến nay từng dựa vào ý kiến của chính mình để giảng
sai Phật pháp, làm hư pháp nhãn của người khác, gây lầm lạc cho chánh trí của
người ta mà ra. Vì thế, trong đời này chẳng dám vì tình cảm xấu - tốt đối với người
khác mà thốt lời bàn luận. Thà để cho người ta chán ghét, chửi bới, trọn chẳng
dám dò tìm những điều người khác ưa thích để khen ngợi hòng tự siểm nịnh, siểm
nịnh người! Từ mùa Hạ năm ngoái đến nay, trao đổi thư từ với các hạ đến gần một
vạn chữ, lòng ngu thành khăng khăng ấy ắt các hạ đã thấy tận gan ruột rồi!
Ngày Hai Mươi Bốn tháng này, cung kính nhận được cuốn Phật Học Chỉ
Phần Hạ Biên xét về đại thể cố nhiên là tốt đẹp, nhưng phần luận về
mười tông của cụ [Dương] Nhân Sơn, phần [giới thiệu] đại lược về Đại Tạng của
ông [Lê] Đoan Phủ đã từng đăng trong Phật Học Tùng Báo rồi! Nguyên bản sách Tam
Quốc Phật Giáo Lược Sử vốn rất sơ sài, đại lược, nay ông lại rút gọn hơn nữa
[thì càng bị sơ lược lắm]! Những điều khác đều giống như thế, cho đăng hay
không đều được cả! Trong những bài ấy, không phải là không có những tỳ vết nhỏ
nhặt, nhưng do chẳng quan hệ khẩn yếu, cũng như do [Quang] mục lực không đủ nên
chẳng nêu ra.
Trong các tác phẩm do các hạ biên soạn, chỉ có tác phẩm này là lợi
ích rộng lớn nhất; vì người căn cơ trung - hạ ắt phải do nhân quả báo ứng mà nhập
đạo thì mới có lợi ích thật sự. Nếu không, chỉ là ăn nói trơn tru ngoài miệng,
chẳng biết giữ lòng cung kính, cẩn thận để mong đích thân thật sự chứng được.
Những kẻ cuồng huệ trong cõi đời đều do lúc ban đầu chẳng uống thuốc nhân quả
báo ứng này, nên đối với lời nói “trực chỉ
nhân tâm, đương thể tức thị” của Phật, của Tổ, ngạo ngược hiểu lầm thành “mặc
tình tùy nghiệp”, [lấy đó làm] căn cứ để trọn chẳng kiêng dè, ác không cần đoạn,
thiện
chẳng cần tu. Dùng phàm tình để suy lường thánh trí, biến Đề-Hồ[1]
trở thành Tỳ Sương[2],
chẳng đáng buồn ư? Sách này được xuất hiện, ắt sẽ có kẻ ôm lòng run sợ, bồi hồi,
bất an; từ đấy chú trọng đạt được lợi ích thật sự, chú trọng xa lìa mối họa thật
sự. Từ một người cho đến nhiều người, từ một đời cho đến nhiều đời, được pháp lợi,
tắm gội Phật ân, vượt biển khổ, lên bờ giác liên tục chẳng tận. Kính cẩn dùng
điều này để chúc mừng các hạ.
Khi
xem tới phần thư mục ở cuối cùng, vẫn thấy nêu tên cuốn Pháp Hoa Kinh Lực của
ông Lưu Nhân Hàng (Diễn Tông). Mùa Đông năm ngoái,
các hạ đã trống lòng xin chỉ chỗ sai, tôi đã trình bày [lý do] chẳng thể lưu
thông sách ấy. Về sau, do bạn bè từ xa gởi thư đến, bảo Quang hãy thẳng thừng
bày tỏ lời pháp gián (lời can ngăn về mặt pháp), Quang lại thiết tha trình bày
những điểm sai lầm của sách ấy và chỉ rõ “lưu thông sách ấy sẽ bị người khác
bài xích!” Nếu Diễn Tông cố chấp không nghe, sao các hạ vẫn lưu thông giùm cho
ông ta vậy? Ấn Quang và Diễn Tông trọn chưa hề gặp mặt nhau, chưa nói với nhau
một lời nào. Hai lá thư lần trước đa phần là tính kế cho ông Nhân Hàng, và một
phần ít là tính kế cho các hạ. Nay thì chuyên vì các hạ tính kế.
Các hạ thông hiểu Phật pháp sâu xa, há chẳng biết “tự làm, dạy người
[khác làm], thấy nghe [người khác làm bèn] vui theo” đều cùng chịu một quả báo
do nghiệp thiện hoặc ác hay sao? Nhân Hàng là tự làm, các hạ thay ông ta lưu
thông chính là đủ cả những chuyện “tự làm, dạy người [khác làm], thấy nghe [người
khác làm bèn] vui theo”. Huống chi Quang hai lượt gởi thư tỏ bày lẽ lợi - hại
mà các hạ vẫn lưu thông ư? Chắc ý các hạ cho rằng [những lời lẽ] trong lá thư
thứ hai vẫn là do Quang nói thác ra, chứ thật sự chẳng có ai gởi thư bảo Quang
can gián!
Ông đâu biết đối với chuyện này, Quang phải tốn khá nhiều công đắn
đo; do bọn họ muốn Quang dựa theo từng điều [lập luận của Lưu Diễn Tông] để quở
trách, rồi cho ấn tống rộng rãi [những lời phê phán ấy] để mong sao ai nấy đều
cùng biết, chẳng bị mắc hại. Quang cho rằng: “Do tập khí, văn nhân thường mắc
phải thói tệ ‘tâm vẫn chưa còn hiểu rõ đã muốn nêu tỏ’. Ta nên khuyên ông ta
thiêu hủy sách, vĩnh viễn chẳng lưu thông là được rồi! Nào cần phải nói nhiều
gây lắm phiền nhiễu, làm chuyện tốn kém tiền tài!” Do vậy, bèn đem lá thư thứ
nhất và lá thư thứ hai cùng gởi đi, lại còn dặn đừng đưa thư Quang cho người
khác xem. Ông ta gởi thư trả lời, nói Quang muốn thủ tiêu một cách vô hình, đôi
bên ai nấy đều được lợi ích. Đọc xong khiến cho người ta ứa lệ.
Nào ngờ năm nay các hạ vẫn ký tên lưu thông thì ra lá thư các hạ
trả lời Ấn Quang chính là mưu mẹo để dỗ cho đứa bé nín khóc, chứ không phải là
lời lẽ thể hiện sự vui mừng, kính phục từ trong tâm. Ấn Quang yêu mến các hạ
còn hơn các hạ yêu mến Quang, vì thế lại khóc oa oa. Nếu các hạ chịu rủ lòng
thương, bất luận Nhân Hàng nói trước tác của chính mình cao sâu đến đâu, [các hạ
sẽ bảo ông ta] “ông muốn lưu thông thì hãy tự lưu thông, dẫu dùng oai phước để
bức bách, tôi cũng chẳng chịu thay ông lưu thông”, Quang sẽ hết khóc liền. Nếu
không, Ấn Quang chỉ tự oán mình đời trước khẩu nghiệp quá sâu đến nỗi [đời này]
lời nói chẳng được ai tin. Mười pháp giới mặc người tự tạo, nào có liên can gì
đến ta? Tuy tâm thật sự chưa thể thỏa thích, vui sướng, nhưng cũng chẳng khóc nữa.
Vì sao? Vì vô ích cho người khác, gây tổn hại cho mình; sao bằng thôi đi, lẽ
đâu bắt chước chim cuốc (đỗ quyên) gào xuông vô dụng? Các hạ phát hoằng thệ
nguyện, muốn lợi khắp hết thảy chúng sanh, nhưng lại cực lực lưu thông sách có
hại cho huệ mạng của chúng sanh là vì pháp nhãn chưa thể thấy thấu triệt điều tệ
ấy hay chăng? Hay là vì tình cảm mà a dua điều người khác ưa thích đó chăng?
Quang chẳng thể nào biết được! Nếu vẫn cứ tiếp tục lưu thông sách ấy thì Quang
chẳng dám hướng về các hạ mở miệng nữa đâu!
Tháng Tám năm
ngoái, tiên sinh Trương Vân Lôi gởi thư đến, Quang gởi thư trả lời nói đại lược:
Thế đạo nhân tâm ngày càng đi xuống, ông chịu trách nhiệm chính ở tờ báo, đối với
những ngôn luận kiêng giết, phóng sanh v.v… và những sự tích nhân quả báo ứng
v.v…. mỗi ngày hãy nên đăng tải một hai điều, khiến cho người đọc thấy được tấm
gương rành rành, giữ lòng răn dè, cẩn thận, dần dần được giồi mài, dần dần được
tiêm nhiễm, ngày càng hướng về nơi bậc thánh bậc hiền mà chẳng tự biết. Ông ta
gởi thư trả lời cho biết sẽ dành riêng một cột báo, chuyên đăng tải những ngôn
luận nhà Phật. Quang đã bắt đầu Phật thất, cố nhiên chẳng trình bày nguyên do.
Ông ta cùng với Diệp Bá Cao, Ưng Quý Trung v.v… mười mấy người bàn định chương
trình, cho đăng tải hằng ngày. Họ cử ông Diệp Bá Cao chịu trách nhiệm duyệt
bài, đọc rồi mới được đăng báo. Đến tháng Chạp, họ đăng thông cáo về việc ấy, mới
biết đến biện pháp đó.
Kế đó, Châu Mạnh Do nhiều lượt gởi thư bảo Quang viết luận. Thoạt
đầu, Quang cật lực từ chối; tiếp đó, bất đắc dĩ phải ưng thuận, chỉ sao chép lại
bao nhiêu đó bài văn hủ bại của chính mình gởi đi. Nghe nói những bài được đăng
tải trong tháng Giêng đều là những văn từ hủ bại của Quang. Cũng có những bài
không do Quang gởi mà là thư của Quang gởi cho người khác, người ta tự gởi đến
tòa báo. Quang xin những đồ ăn thừa, giữ được những thứ cơm thừa, canh cặn ấy,
những vị danh nhân ấy nhận lấy, đem dâng lên tai mắt của mọi người, khôn ngăn hổ
thẹn đến chết người, nhưng cũng chẳng biết làm sao được? Chỉ đành để mặc mà
thôi! Viết ra những điều này để chuốc lấy một tiếng cười vậy! (ngày Hai Mươi
Lăm tháng Giêng năm Dân Quốc thứ bảy - 1918)
58.
Thư gởi cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ mười)
Đã lâu chưa nhận
được thư, khôn ngăn mong tưởng. Từ đầu Xuân đến nay, chắc là đứng ngồi đều hưởng
phước, các duyên như ý. Xin chúc mừng! Bộ Văn Sao hủ bại của Quang đã được xuất
bản. Vào mùa Đông năm ngoái, Quang đã báo cho ông Vân Lôi nhờ Thương Vụ Ấn Thư
Quán lúc sách được in ra, hãy gói mười hai bọc, tổng cộng là sáu mươi bộ, báo
tin cho người làm của các hạ đến nhận; sáu mươi lăm bộ kia gởi hết về cho
Quang. Ông ta đã cùng Quang tính toán: [Mỗi cuốn sách được tính giá] bớt đi ba
mươi phần trăm thì với năm mươi đồng sẽ thỉnh được một trăm hai mươi lăm bộ
sách. Nhưng thư cục non gan, sợ sách không bán được sẽ cụt vốn, chỉ in ra hai
ngàn bộ, đến khi sách được in ra, người thỉnh quá nhiều. Đối với số sách do
Quang yêu cầu, dù thúc giục họ cũng không giao. Vân Lôi nhiều lần thúc giục, họ
vẫn không giao. Chắc là họ giữ lại để bán ra theo giá thật sự trên thị trường,
đợi đến khi tái bản mới giao sách. Chắc là sáu mươi bộ của các hạ, e rằng họ
cũng chưa giao.
Tiếp đó, nhận được thư, khôn ngăn cảm kích, hổ thẹn, vì trong cuốn
Phật Học Tiệp Kính (Đường tắt trong Phật học) đã đem những lời lẽ hủ bại của
Quang xếp chung với ngôn luận của các vị đại tổ sư, các vị đại cư sĩ, càng thêm
xấu hổ không chỗ dung thân. Quang là một kẻ vô tri vô thức, đối với Phật học trọn
chẳng hiểu biết gì. Tuy đối với một pháp Tịnh Độ tin tưởng sâu xa,
nhưng nghiệp sâu huệ cạn, làm sao nêu tỏ cho được? Dẫu có một hai kẻ thấy Phật
kính Tăng hỏi đến thì cũng chỉ là lấy những thứ cơm thừa canh cặn để chính mình
tự nương cậy, tự giữ mạng sống, hay là những pháp gom cỏ nhóm lá [để đáp lời]
hòng khỏi bị quở trách; nào đáng được xếp chung với các ngôn luận của những vị
đại tổ sư, các vị đại cư sĩ! Trong bài Kiệt Thành Phương Hoạch Thật Ích Luận
(bài luận về cạn hết lòng thành mới đạt được lợi ích thật sự), tôi vốn muốn sưu
tập rộng rãi những câu chuyện chứng minh cho vấn đề phước hay tội vì kính trọng
hay khinh nhờn để làm khuôn phép răn nhắc lớn lao cho con người hiện thời,
nhưng vì mục lực không đủ nên chỉ sao chép được một hai câu chuyện mà thôi!
Sách
An Sĩ Toàn Thư trong Thế Đế bao gồm Phật pháp. Do vậy, tiên sinh Nhân Sơn cũng
đưa [tên sách ấy] vào trong cuốn Đại Tạng Tập Yếu[3].
Các hạ soạn mục nói về sách ấy trong bộ [Phật Học] Đại Từ Điển sẽ có lợi ích lớn lao. Năm ngoái, [An Sĩ Toàn Thư] đã được khắc in lại
ở Vân
Huệ Mạng Kinh[4]
chính là sách của bọn ngoại đạo chuyên dùng Phật pháp để chứng minh cách luyện
đan, lại ngược ngạo lắm phen hủy báng Phật pháp. Các hạ là bậc cao minh, lại
còn cực lực hoằng dương [Phật pháp], sao lại đem sách ấy xếp vào Phật điển (những
kinh sách nhà Phật)? Chẳng những gây hiểu lầm cho độc giả, lại còn ảnh hưởng lớn
lao đến tiếng tăm nghiên cứu Phật học của các hạ! Người sáng mắt đọc đến ắt sẽ
cho rằng các hạ tà - chánh không phân, vẫn theo đuổi chuyện luyện đan!
Hơn nữa, nếu chỉ nói đến chuyện luyện đan thì cũng không gây hại lớn
lao chi lắm, nhưng sách ấy dẫn toàn kinh Phật, lời Tổ để làm chứng cho phép luyện
đan, biến chánh thành tà, khiến cho con người không phân biệt được. Nếu có chỗ
nào không thích hợp, ngoại đạo liền sửa đổi câu chữ. Như câu “Duy hữu nhất thừa pháp, dư nhị tắc phi
chân” (chỉ có pháp Nhất Thừa, hai pháp kia chẳng thật) trong kinh Pháp Hoa,
chúng liền giảng là “huệ mạng song tu!” Lại còn vẽ hình thận tạng, viết hai
bên, một bên thuộc Huệ, một bên thuộc Mạng, cho rằng “huệ mạng song tu thì mới có
thể thành đạo!” Dẫn đoạn văn ấy từ kinh Pháp Hoa để làm chứng, nhưng sửa chữ Dư
thành chữ Trừ (thành ra “duy hữu nhất thừa
pháp, trừ nhị tắc phi chân”) bảo rằng: “Ngoại trừ huệ mạng song tu ra thì
không có gì là thật hết!” Phàm những tông Thiền, Giáo, Luật, Tịnh, Mật và lục độ
vạn hạnh v.v… được nói trong kinh Phật không gì chẳng bị chúng đả phá, bài xích.
Cuốn sách ấy đều do những kẻ hèn kém vô tri tự ấn tống, lưu hành
riêng tư, tự truyền thọ riêng tư, bậc chánh nhân quân tử trông thấy đem đốt đi
còn không kịp! Nào ngờ các hạ lại đưa sách ấy vào trong từ điển, tai hại không
thể kể xiết! Mong rằng với những bản đã in ra hiện nay, hoặc dùng mực bôi đen
đi, hoặc dùng dao rạch bỏ [trang giấy đã in từ ngữ ấy] để người đọc chẳng bị lầm
lạc, cũng như bảo toàn được kiến địa của chính mình. Trong lần in sau này, hãy
đẽo bỏ [mục nói về sách ấy] khỏi ván in thì một nồi canh thơm ngon chẳng bị
phân chuột làm ô uế! Lúc Quang mới xuất gia từng thấy sách ấy. Tới Bắc Kinh
cũng nghe nói có hạng người như vậy. Xuống phương Nam tuy chưa thấy, nhưng tại
Hàng Châu Kinh Phường hiện đang lưu thông. Những người lưu thông kinh Phật ấy
chính là những kẻ được đức Phật gọi là “hạng người đáng thương xót”, nhưng hạng
người có thế lực chẳng [ra sức] ngăn cấm thì người sẵn có tín tâm sẽ nhập tà
pháp, rồi từ đấy chỗ nào cũng đều có. Thẹn mang tiếng tri tâm, nên nói thẳng
không giấu diếm, mong hãy rủ lòng tha thứ (ngày Hai Mươi Lăm tháng Giêng năm Dân Quốc thứ
bảy - 1918).
Pháp sư Ngọc
Phong tuy hành trì tốt đẹp, nhưng kiến giải về mặt lý nhiều chỗ thiên vị. Tu
theo những điều được nói trong các trước thuật của Ngài thì cũng được vãng sanh,
nhưng những lời thiên chấp chưa khỏi gây trở ngại lớn lao. Ngay như cuốn Niệm
Phật Tứ Đại Yếu Quyết của ngài, về ý thì cũng không có chỗ nào chẳng tốt đẹp,
nhưng dùng từ ngữ, lập luận thật mâu thuẫn với những bậc cổ đức. “Chẳng trừ vọng tưởng, chẳng cầu nhất tâm”
là đã trái nghịch, lầm lạc với toàn thể. Kinh dạy người ta nhất tâm, Sư lại dạy
người ta chẳng cầu. Chẳng trừ vọng tưởng mà có thể đạt được nhất tâm hay sao?
Chọn lấy pháp bậc thượng, chỉ đạt được bậc trung. Há có nên vì chẳng thể đạt được
mà chẳng giữ lấy pháp ấy hay sao? Nếu do chẳng đạt được mà dạy người khác chẳng
giữ lấy pháp ấy thì chính là dạy người khác học theo pháp bậc hạ vậy!
Đại Thế Chí Bồ Tát nói: “Nhiếp
trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”. Sư cực lực dạy người khác tán tâm niệm, chẳng
tán dương nhiếp tâm niệm. Niệm Phật tuy hết thảy vô ngại, nhưng muốn đích thân
chứng được tam-muội thì cố nhiên giữ tâm cho tịnh vẫn tốt hơn. Nếu chẳng thể tịnh
thì cũng không trở ngại gì, đấy chính là “ngay trong nơi động mà tịnh!” Sư một
mực coi tịnh là tà, cho rằng [cố giữ cho tâm tịnh] là trái nghịch rất lớn ý chỉ
“chấp trì danh hiệu, nhớ Phật, niệm Phật”, lỗi ấy không thể nào diễn tả được!
Hơn nữa, một pháp Niệm Phật bao gồm trọn vẹn hết thảy pháp môn
trong một đời [giáo hóa của đức Phật], mà một chữ Tịnh vẫn bị đặt ra bên ngoài
thì há có đáng gọi là vị chân thiện tri thức trong Tịnh tông hay chăng? Mong lần
sau tái bản hãy gạt bỏ [mục viết về sách] Tứ Đại Yếu Quyết ngõ hầu kẻ sơ cơ chẳng
đến nỗi mắc bệnh, mà người thông suốt cũng không do đâu mà chê cười được! Hoằng
pháp lợi sanh thật chẳng phải là chuyện dễ dàng! Hễ hơi thiên chấp, bao mối tệ
chen chúc nẩy sanh, chẳng thể không cẩn thận!
59. Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo
(thư thứ mười một)
Cuốn Phật Học Chỉ
Nam do ông đã rộng lòng ban cho trước đây rất có ích cho kẻ học Phật và những kẻ
chẳng tin nhân quả, chẳng tin Phật pháp. Những lời nói của các bậc danh nhân được
dẫn trong ấy cũng có những câu chẳng thật đúng pháp lắm, nhưng vì mục lực không
đủ nên chẳng thể chỉ ra được. Tiếp đó, nghĩ các hạ dùng cuốn sách làm kim chỉ nam
để dẫn dắt [người khác] vào biển pháp; nếu cây kim ấy bị cong vẹo đôi chút vẫn
chưa chắc không khỏi đi sai hướng. Vì thế, nay nêu lên những điều tôi từng thấy
được (Quang
mục lực không đủ, chưa thể đọc trọn khắp. Ở đây chỉ nêu lên những gì mình thấy
được mà thôi). Đối với những điều chưa thấy được, cũng có thể
dựa vào đây để suy ra, để rồi các hạ sẽ sửa đổi đại lược lời văn, hoặc bình luận
ngay sau câu ấy khiến cho người thấy nghe không bị nghi ngờ, lầm lạc thì mới thỏa
thích được cái tâm hoằng pháp độ sanh của các hạ.
Hàng thứ sáu ở mặt
sau trang thứ mười bảy cuốn Thượng Biên, nay trong đoạn văn ấy chỉ viết là “ngày đó, tháng đó là trai kỳ Quán Âm”, ấy
chính là chẳng biết duyên do đức Phật rủ lòng tạo phương tiện khiến cho con người
từ tạm thời mà đạt đến thường hằng, do giảm dần mà đoạn dứt. Ở dưới đoạn đó,
hãy nên luận cặn kẽ rằng: Đức Phật chế ra cách ăn chay theo trai kỳ (ăn chay
theo ngày) vốn là pháp phương tiện để vĩnh viễn đoạn dứt sát nghiệp và thói ăn
thịt. Đọc những thiên sách do ông Kỷ (Kỷ Hiểu Lam) ghi chép, biết ông ta tin
nhân quả nhưng chưa biết Phật pháp. Phật pháp khó được nghe như thế đấy! Những
người được nghe là do đời trước vun bồi quả thật chẳng nông cạn đâu! (Nếu chẳng thêm
lời bàn thì chỉ nên ngừng ở chữ Tín nơi hàng thứ năm, những phần dưới đều lược
bỏ đi).
Thêm nữa, hàng thứ
tám nơi trang ba mươi, [dẫn lời Viên Tử Tài khen ngợi ông Hồ Bảo Tuyền]:“Ông một đời chẳng chịu vào miếu, thần Phật
trông thấy đều đứng dậy”. Viên Tử Tài thông hiểu rộng rãi mà vẫn lẫn lộn thần
với Phật, gọi thần là “thần Phật” do đây cũng biết rằng ông Viên chẳng biết gì
về Phật pháp! (Hàng thứ mười một ghi) “những vị khác như Như Lai, Tiên Tử, Quan Công, Tưởng Hầu[5]
đều chưa trông thấy”. Tưởng Hầu mà còn chưa trông thấy thì những vị đứng dậy
chính là những ông thần như Thành Hoàng, Thổ Địa, hoặc các thần trong năm đường,
đều gọi lẫn lộn là “thần Phật”, cũng chẳng phải là gây lầm lẫn cho người khác
quá đáng ư? (Hàng thứ mười ba) “Chỉ thần
Phật là chánh trực thông minh”, (hàng thứ tám) hãy nên ghi thành
“thần trông thấy đều đứng dậy”, (hàng thứ mười
ba) nên ghi là “chỉ có thần là
chánh trực thông minh” thì kẻ vô tri vô thức chẳng đến nỗi cho là Phật kính
trọng ông Hồ [Bảo Tuyền]!
Trong cuốn Thượng
Biên, từ hàng cuối trang thứ ba mươi ba cho đến hàng thứ sáu trang thứ ba mươi
bốn, hãy nên lược bỏ đi. Đoạn này nói về cách tu luyện của Đạo gia, chứ không
phải là Phật pháp. Đem dẫn vào bộ Chỉ Nam, chỉ sợ gây nghi ngờ, lầm lạc cho người
ta. Phật pháp chẳng để sót điều thiện nhỏ nhặt nào, nhưng chẳng chấp nhận học chuyện
ấy. Điều này khẩn yếu đến cùng cực vậy!
Chương thứ nhất
cuốn Hạ Biên, nơi hàng thứ bảy trang ba mươi lăm, nên ghi là: “Phu nhân[6]
đến vườn Tỳ Lam, thấy một cái cây to tên là Vô Ưu”. Viết như thế câu văn sẽ
trong sáng. Nơi chương thứ nhất, từ hàng mười ba của trang ba mươi lăm cho đến
hàng thứ tư nơi trang sau, phần này thuộc về chuyện oán gia đời trước đòi mạng
mà hiện ra hình tướng lạ lùng ấy. Do Văn Hiến Công oán ghét sự hiển đạt rạng rỡ
của Quân Ngọc mà chẳng biết nguyên do, cho đấy là Bồ Tát thị hiện, thoạt đầu đặt
tên là Phật Nô; tiếp đó, nó thiêu đốt ngôi tháp đã xây, trọn chẳng biết là oán
gia đời trước đòi mạng vợ chồng đứa con nuôi. “Phật pháp khó thể biết, tà - chánh khó thể rõ” là như vậy đó.
Thêm nữa, dòng thứ mười
bốn của mặt sau trang ba mươi lăm, “Quỷ Phương” chính là Tây Vực. Kinh Dịch
ghi: “Cao Tông phạt Quỷ Phương, tam niên
phất khắc” (Cao Tông đánh Quỷ Phương[7],
ba năm chẳng thắng) đủ để chứng minh điều này. Đời Thương gọi là Quỷ Phương, đời
Châu gọi là Hiểm Duẫn, đời Hán gọi là Hung Nô.
Cuốn Hạ Biên, nơi
dòng thứ tám thuộc mặt sau trang ba mươi tám, dưới câu “nhập Tam Ma Địa” nên ghi là: “Do
ta cúng dường Quán Âm Như Lai khiến cho thân ta thành được ba mươi hai thân ứng
hóa, tùy cơ thuyết pháp khiến cho các chúng sanh đạt được mười bốn thứ công đức
vô úy và bốn thứ vô tác diệu lực chẳng thể nghĩ bàn nơi thân tâm ta”. Như
thế mới chẳng trái nghịch ý nghĩa của kinh mà ngữ ý cũng được thông suốt. Nếu
chỉ ghi “ta cúng dường Quán Âm, khiến cho
mười phương chúng sanh xem thấy âm thanh” thì thành ra có đầu không đuôi,
ngữ ý không trọn vẹn.
Trong dòng kế tiếp
viết: “Kính xét: Phẩm vị của Bồ Tát vốn
thông với chư Phật”, nên viết là: “Phật
thuộc quả vị, Bồ Tát thuộc nhân vị. Dù quá khứ đã thành Phật đạo, nhưng lại hiện
làm [thân] Bồ Tát thì cũng chẳng nên gọi lẫn lộn là Phật”. Bồ Tát hiện hình
trong sáu đường, không thân nào chẳng hiện. Há nên chỉ dựa vào những thân đã hiện
để biện định phẩm vị ư? Các hạ chưa suy nghĩ sâu xa ý nghĩa của đoạn kinh văn vừa
dẫn nên mới phạm khuyết điểm này (Câu “lúc
ta làm Bồ Tát” chính là chỉ lúc trong quá khứ, ngài còn chưa thành Phật).
Mặt sau trang bảy mươi chín, dòng thứ sáu: “Mổ con trai được La Hán, được Quán Âm”, từ dòng thứ tám là “từ trong con trai thấy được tượng Phật, hay
tượng Bồ Tát”, những ghi chép thường được lược bớt giống như thế. Hơn nữa,
xưa kia có kẻ chẻ đầu lợn tìm được nhục thân Phật nơi răng hàm. Giết dê nấu
chân giò mãi không chín, chẻ ra thấy có tượng Phật bằng đồng. Giết trâu cắt lấy
thận, mổ ra tìm được tượng Phật bằng thịt. Bắt được con trai to, cạy ra không
được, ý muốn bỏ mặc đó cho nó tự há miệng, thấy trong con trai có một vị Phật bằng
ngọc trai. Đấy đều là vì Phật, Bồ Tát đại từ bi hiện thân trong dị loại, rốt cuộc
hiện Bổn, khiến cho các chúng sanh kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, biết rõ “hết
thảy chúng sanh do mê trái bổn tánh nên đọa lạc trong ác đạo, nhưng cội nguồn tâm
tánh trọn chẳng khác gì Phật!” Nếu ta chẳng sớm giác ngộ, tương lai cũng đọa
vào trong những loài ấy; đâu dám chẳng tự thương mình, xót người, lớn tiếng đau
đớn kêu gào cùng làm cho mọi người mau lên bờ giác ư?
Còn như vỏ con trai ở Phổ Đà có hình Phật là do kẻ gian ngụy tạo, được
bán quanh năm ở các tiệm đã mấy chục năm rồi! Họ cắt đôi vỏ trai ra, bỏ tượng
Phật bằng đồng vào trong ấy rồi ghép lại. Có người nói [kẻ làm giả] bắt con
trai còn sống, mổ ra nhét [tượng đồng vào] rồi nuôi trai trong nước, đợi khi
chúng lành vết thương bèn bắt ra đem bán. Cách chế biến sống hay chết như thế
nào, rốt cuộc không hiểu rõ, nhưng ngụy tạo là chuyện hết sức đích xác! Ôi! Kẻ
gian mang tâm cầu lợi, cũng có thể nói là trí trá đến cùng cực, nhưng họ đã che
mắt người ta được thì sẽ thường do đấy mà bán được, chẳng đáng buồn sao? (Đối với chuyện
vỏ trai ở Phổ Đà hãy lược bỏ một đoạn, bỏ đoạn ngụy tạo giữ lại đoạn nói về sự
thật. Nếu chẳng lược đi thì người ta ắt sẽ đua nhau mua, chắc sẽ đến nỗi do thứ
ngụy tạo mà nghi ngờ thứ thật, không thể không cẩn thận).
Dòng mười trang tám mươi ba, “xét
ra chú Đại Bi phát xuất từ kinh Đại Bi Đà La Ni thuộc Mật Bộ. Quán Thế Âm Bồ
Tát nói chú này xong, mặt đất chấn động sáu cách, trời mưa xuống bốn loại hoa,
chư Phật hoan hỷ, chúng hội đều được lợi ích. Đại Phạm thiên vương thưa hỏi tướng
mạo của chú này”, Bồ Tát nói “tâm đại
từ bi là [tướng mạo của chú này]” cho đến câu thứ mười “vô thượng Bồ Đề tâm là [tướng mạo của chú này]”. Hãy nên viết như
thế thì văn tuy đại lược nhưng lai lịch rõ ràng. Ông Lương (Lương Khải Siêu[8])
chẳng nêu bày lai lịch khiến cho cả mười câu đều hỏng.
Dòng thứ bốn thuộc mặt sau trang tám mươi ba, gồm hơn hai mươi điều.
Dòng thứ bảy, dùng vị Hộ Pháp Kim Cang để giải thích chữ Kim Cang trong [tựa đề
kinh Kim Cang] Bát Nhã[9].
Ông nói là tìm chữ tương đồng để gạt bỏ chỗ sai khác, chẳng đoái hoài về lý là
đúng hay sai, sao mà cũng chẳng hiểu nghĩa kinh đến mức cùng cực như thế? Ông
Đàm Khê biên soạn nhiều năm mà cũng nói như vậy, Lương Cung Thần[10]
thuận theo cách hiểu của cha nên ghi như vậy. Đủ thấy Đàm Khê và cha con họ
Lương đều là hạng tin Phật nhưng chẳng biết Phật pháp! Nói chung là vì đời trước
thiện căn chẳng chân thật, cho nên đời này suốt đời thọ trì đại pháp của Như
Lai mà rốt cuộc vẫn là kẻ đứng ngoài cửa! Hãy nên ghi: “Tiên sinh thường nói kinh Kim Cang nghĩa lý sâu xa, uyên áo, tam thế
chư Phật đều do kinh này mà ra. Nếu có thể chí thành biên chép, đọc tụng thì
không phước nào chẳng đưa đến, không họa nào chẳng diệt. Vì thế, kinh dạy:
“Kinh này nghĩa chẳng thể nghĩ bàn, quả báo cũng chẳng thể nghĩ bàn”.
Dòng thứ mười một
nơi mặt sau trang tám mươi ba, từ trang chín mươi trở
đi cho đến câu “Phật chẳng đáp [lễ] ta”,
hãy nên lược bỏ đi. Ông Viên Tử Tài học rộng, thông đạt, mà trong phần truyện
ông Hồ Bảo Tuyền[11]
ở cuốn Thượng Biên đã gọi lẫn lộn thần là “thần Phật”, bảo “thần Phật” thấy ông
Hồ đều đứng dậy. Trong ấy lại ghi là “các
vị khác như Như Lai, Tiên Tử, Quan Công, Tưởng Hầu đều chưa thấy”, phần cuối
lại ghi: “Chỉ thần Phật là chánh trực
thông minh”, cho nên biết rằng vì [ông Hồ Bảo Tuyền] là quý nhân, chánh
nhân (con người chánh trực) mà [thần thánh] kính trọng. Tài tử là tài tử, đối với
chuyện soạn văn ghi chép sự việc, sao lại hồ đồ cùng cực như thế?
Còn trong chương này thuật chuyện ông Dương lạy Phật, tượng Phật
liền đứng dậy lạy trả. Đấy chính là do sức ác nghiệp đời trước mà oán gia trái
chủ huyễn hiện cảnh ấy, cốt sao ông ta sanh lòng hoan hỷ lớn lao, tưởng mình đắc
đạo liền bị ma dựa phát cuồng, phá hoại công phu từ trước để báo oán. May là ông
ta có sức công đức sâu nên chưa bị tổn hoại, rốt cuộc được chánh niệm vãng
sanh. Ông Tử Tài và bà nội ông ta tưởng đó là chuyện thật, chẳng đáng buồn sao?
Phật là tam giới đại sư, Đẳng Giác Bồ Tát lễ bái mà Phật còn chẳng ngăn trở, huống
là đáp lễ họ Dương ư? Chánh nhãn chưa mở, chẳng biết cảnh ma. Tử Tài mà còn như
thế huống gì những kẻ khác! (Ngày Hai Mươi Tám tháng Giêng năm Dân Quốc thứ bảy - 1918).
60.
Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ mười hai)
Vừa nhận được thư
khôn ngăn hổ thẹn. Quang mặc sức nói càn, nào đáng coi như khuôn phép? Nhưng một
niệm ngu thành, các hạ đã thương xót sâu xa mà chấp nhận. Đối với sách Phật Học
Chỉ Nam, Quang chỉ mới đọc kỹ phần bàn luận thêm của Thượng Biên và Hạ Biên, những
phần khác chưa thể đọc trọn hết. Do tiện đâu thấy đấy nên chẳng theo thứ tự
nào, nêu lên lôi thôi một hai điều. Gần đây mục lực càng thêm suy kém, nếu đọc
hết cả bộ sách chắc là rất phí sức, thật khó thể vâng mạng được (chuyện viết lời
tựa thì Quang học thức ở ngoài da, nông cạn, bút mực nhạt nhẽo. Mấy chục năm
qua, hết thảy những người tri giao chưa có một ai bày ra chuyện này, xin hãy rộng
lòng tha thứ).
Tòa báo Thời Sự cũng bảo đem những phần bàn luận thêm của Thượng
Biên và Hạ Biên cho đăng báo từng kỳ một, còn phần chánh văn của Hạ Biên họ chỉ
nói đã đăng trong Phật Học Tùng Báo, có lẽ phần sao lục chi tiết từ sách Tam Quốc
Phật Giáo Lược Sử không cần phải đăng (Quang lại bảo ông Vân Lôi: Tác phẩm Thiếu Niên
Tấn Đức Lục của ông Đinh chính là khuôn mẫu cho bọn thiếu niên, hữu ích lớn lao
cho thế đạo nhân tâm, ngoài chuyên mục Phật học, hãy nên đăng tải đầy đủ tác phẩm
này để giúp cho công cuộc vãn hồi thế đạo nhân tâm).
Vì sao biết bài Đại Tạng Đại Lược là thủ bút của ông Đoan Phủ? Khi
tờ Phật Học Tùng Báo đăng bài văn này, ông Đoan Phủ đang chịu trách nhiệm biên
tập [cho tờ Tùng Báo]; hơn nữa, ông ta đã chấp thuận lời mời của Tần Già Hoa
Viên hơn nửa năm rồi! Đoan Phủ học thức cao minh, bút mực siêu diệu, Tăng - tục
thời gần đây hiếm ai sánh bằng!
Trích lục những câu danh ngôn để phụ trợ giáo lý, dẫu chẳng ghi
tên [người nói những câu ấy] cũng chẳng phải là cướp đoạt cái hay của [người
khác]. Nếu mạo nhận đề tên chính mình thì mới nói như vậy được, chứ chưa đề tên
mình thì cần gì phải quá khiêm tốn? Nhân quả báo ứng là phương tiện đầu tiên để
nhập đạo của Nho giáo lẫn Phật giáo, mà cũng là cương tông để chứng đạo của Nho
giáo lẫn Phật giáo. Người đời thường coi nhân quả báo ứng là chuyện thiển cận,
đến nỗi bao nhiêu kẻ chẳng thể vượt khỏi Thường Kiến và Đoạn Kiến. Nếu chẳng
theo gót bọn Xiển Đề thì cũng là phường “kể chuyện ăn, đếm của báu”! Sách [Pháp
Hoa Kinh Lực] của ông Lưu [Diễn Tông] đã sớm bỏ đi rồi, công đức vô lượng! Cái
hại của sách ấy chẳng thể nào nói tường tận được! Tuy khen ngợi Pháp Hoa nhưng
chẳng khen ngợi được đạo của Pháp Hoa. Cái tội trái nghịch Pháp Hoa đã đáng
thiêu hủy rồi! Huống chi phá hoại pháp môn Tịnh Độ “rốt ráo thích hợp khắp ba
căn khiến cho ai nấy được liễu thoát ngay trong đời này” của tam thế chư Phật
ư? Bạn bè đau lòng buốt óc, nuốt lệ bảo với Quang, cho nên Quang mới hai lượt
giãi bày lẽ lợi - hại. Nếu chẳng tin, xin hãy tới Phổ Đà, sẽ đưa những lá thư gốc
và thư họ trả lời Quang cho ông đọc, ắt sẽ tự biết Quang chẳng nói dối. Quang
vô học, vô đức, vì bất đắc dĩ, chỉ đành bắt chước dấu tích “gom chữ, quét lá” để
đáp ứng, chỉ mong tắc trách cho xong chuyện, nào đáng khen ngợi quá mức? Hổ thẹn,
sợ hãi khôn ngằn!
Cư sĩ hiện đang là người cực lực hoằng dương Phật pháp bậc nhất, để
dạy người thì chính mình phải hành, cố nhiên nên ăn chay trường. Ngay cả vợ
con, bạn bè, cũng nên bảo họ ăn chay trường. Dẫu nhập đạo chưa sâu, chẳng thể
hoàn toàn dứt [ăn mặn được], cũng nên dạy họ do giảm dần mà đoạn được, đấy
chính là nghĩa trọng yếu. Người đời chẳng biết loài vật đều do nghiệp lực mà
có, tưởng “trời sanh ra những loài ấy vốn để nuôi con người!” Nếu biết được lý
sâu “hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ trong quá khứ, là chư Phật trong vị lai”,
ắt sẽ có chuyện ăn vào chẳng thể nuốt xuống được! Cố nhiên cư sĩ hãy nên đem
thân làm gương cho người khác, hãy nên vĩnh viễn dứt bỏ chuyện ăn thịt. Dẫu cho
ăn rau bên cạnh thịt[12]
cũng chẳng cần phải bắt chước hình tích của bậc Đại Sĩ thuở trước do người hoằng
pháp cần phải hiểu thời cơ. Thời bây giờ chẳng giống như thời cổ, nhằm buổi giọt
nước đã đông thành băng thì trọn chẳng thể dạy người khác ăn mặc như trong tiết
Hè để đến nỗi làm hại tánh mạng của người ta.
Ông thành lập Bần Dân Giáo Dục Xã (hội giáo dục dân nghèo) đủ chứng
tỏ tấm lòng đau đáu chân thật, thiết tha, tiếc rằng Quang nghèo trơ nghèo trất,
chẳng thể tùy hỷ được, thiếu sót vô cùng. Tuy chưa xem Phật Học Tiểu Từ Điển,
nhưng đọc qua lời tựa, biết có khảo chứng, tra cứu, có ích lớn lao cho đồng luân.
Nhưng sách được in trên giấy có độ bóng, nếu [mực in] bỏ ít chất nước thuốc,
sách chỉ giữ được mười mấy năm, hiếm sách nào giữ được hơn hai mươi năm. Nếu [mực
in] bỏ nhiều chất thuốc thì mấy năm liền phai nét. Quang đã từng thử nhiều lần
rồi. Trước đây, Quang từng đặc biệt vì chuyện này mà gởi thư cho Phật Học Tùng
Báo và nhân tiện, thưa trình chín điều. Năm trước, tôi đã vì ông Châu Mạnh Do,
giao cho chú tiểu ở Pháp Vũ sao lục [lá thư ấy]; chú ta vì làm biếng viết chữ
nên đã lược đi ba điều trước đó và ba điều sau trong bức thư. Tôi cũng đem ý
này thưa với ông Đoan Phủ, được đăng tải trong báo Thời Sự. [Xin đọc bài ấy] sẽ
biết được nỗi lo canh cánh hèn tệ của Quang.
Cố nhiên, đối với bọn thương nhân chỉ cầu lợi, chẳng thể nào nói với
họ về chuyện này được. Các hạ chỉ muốn hoằng pháp lợi sanh, ắt cần [những sách
vở in ra giữ được] rất lâu chẳng bị phai nét chữ thì mới có lợi ích thật sự và
đạt được lợi ích rộng lớn. Nếu [mau] phai nét thì chỉ phí tiền của, đến nỗi
đánh mất lợi ích thật sự. Dám thỉnh các hạ phát lòng từ bi lớn lao, hết thảy những
sách hữu ích cho thế đạo nhân tâm đều đừng dùng loại giấy ấy. Chỉ những loại đọc
xong liền bỏ đi thì dùng [loại giấy ấy để in] cũng không sao. Quang không có sức
làm công đức, tính dùng lời nói này coi như là thí kinh sách cho hàng Phật tử
tín tâm khắp thiên hạ trong đời sau. Không chừng nhờ đây mà tiêu nghiệp lụy, được
vãng sanh.
Tòa báo Thời Sự
cũng đăng tải một trang nêu ra những thiếu sót, giống như thư gởi cho các hạ,
nên không cần phải sao chép lại để gởi đi. Cuốn Giáo Dục Sô Nghĩa (những ý
nghĩa quê mùa về giáo dục), văn lẫn lý đều hay, nhưng trong đoạn cuối cùng, dường
như mắc khuyết điểm khơi gợi con người khinh miệt tam giáo. Phàm là người trong
giáo hội, ai có thể cư xử vượt ra ngoài tam giáo, ai có thể tự lập một giáo ở
ngoài tam giáo để đối kháng [tam giáo]? Dẫu nhiệt tâm đến tột bực, cũng chỉ
tuân theo ý thánh nhân tam giáo để cực lực phụng hành mà thôi. Dẫu cho các tôn
giáo ở ngoại quốc và Hồi giáo chẳng tin tưởng tam giáo, nhưng quả vị trong các
giáo ấy có vượt ra ngoài quả vị của tam giáo được hay chăng? Những tôn giáo ấy
chẳng bao gồm những đạo lý như trời che đất chở trong tam giáo hay chăng? Bất
quá, thánh nhân tùy mỗi nơi mà thể hiện hình tích lập giáo, hơi có chút khác biệt.
Dùng ngu kiến để xét, có lẽ nên nói: “Thánh giáo nước ta, gồm ba tông lớn là Nho, Phật và Đạo. Nho mang hoài
bão tự lập, lập người, Phật chuyên theo đuổi tự giác, giác tha; Đạo tuy điềm
tĩnh, ẩn dật, nhưng xét về đại thể thì giống như Nho. Nhưng người tu luyện phải
lấy chuyện tích đức chứa công, giúp đời, cứu dân làm nhiệm vụ trọng yếu. Nay những
người trong giáo hội thấu hiểu tấm lòng ‘đối đãi bình đẳng với mọi người, thiên
hạ là của chung’, phát khởi tấm lòng giúp già, an trẻ, không chỉ thương yêu
riêng người thân của chính mình, không chỉ lo chăm chút con cái của chính mình.
Lòng son nhiệt tâm thật sự lấp trời đất, lòa nhật nguyệt. Nếu người trong cả nước
đều cùng phát cái tâm này, cùng làm chuyện này thì không một ai chẳng được yên
vui, cõi đời đại đồng sẽ lại được thấy trong ngày nay. Lợi ích ấy lớn lao thay! Tôi nguyện ai nấy đều suy xét” (tiếp đó, ghi
đúng như nguyên văn).
Những trước thuật của con người gần đây
thường đề cao quá đáng [những pháp đang được mình đề xướng] với dụng ý muốn cho
người khác tin chắc vào pháp của mình, thói tệ miệt thị cổ nhân phá pháp cũng bắt
nguồn từ đây. Khổng Tử đã nói: “Nhất ngôn
nhi hưng bang, nhất ngôn nhi táng bang” (một lời hưng thịnh nước nhà, một lời
vùi lấp nước nhà). Một đằng gây nên ích lợi về sau, một đằng gây nên họa hoạn về
sau. Viết những sách thông thường chẳng có quan hệ khẩn yếu còn không nên như
thế, huống là viết những sách hoằng pháp lợi sanh ư? Cổ đức nói: “Chuyện ấy như cái nạo bằng kim cang để gọt
mộng mắt, hơi có chút gì không đúng liền lập tức hư mắt”, há chẳng cẩn thận
ư? Ông Kỷ Văn Đạt nói: “Đọc khắp các sách
được cất giữ bí mật, biết trước thuật của người đời sau kém xa tiền nhân”.
Dẫu có vẻ tinh vi hơn, nhưng vẫn là thoát thai từ màu lam gốc[13]
của tiền nhân, mà dám tự phụ là bậc nhất xưa nay không ai sánh bằng, cũng như
nói tiền nhân đều sai lầm hay sao? Các hạ lòng dạ rỗng rang vì pháp, nên tôi mới
dám hiến lời bàn luận thẳng thừng này!
Đối với chuyện
giáo dục, nhà trường, Ấn Quang vốn là kẻ đứng ngoài, chỉ vì cảm tấm lòng công
bình chánh trực “muốn cho thiên hạ đều dùng thiện pháp để lập pháp”, nên nhân đây
dâng lên ý kiến ngu muội để ngài xét rõ. Giáo dục trẻ em nghèo thì có lẽ chỉ đối
với những đứa có thiên tư cao mai sau ắt sẽ trở thành quan chức, thân sĩ, giúp
nước giúp dân [là có thể] chuyên dùng cách giáo dục trong nhà trường bình thường
để dạy dỗ. Chứ những đứa chỉ có thể làm thợ, làm con buôn để tự kiếm ăn bằng sức
lực của chúng thì có lẽ nên dạy chữ lẫn dạy nghề giống như chương trình của các
Cô Nhi Viện gần đây, chắc sẽ giảm được chi phí cho nhà trường mà trẻ nghèo cũng
được lợi ích thật sâu. Quang thấy phương pháp của Cô Nhi Viện thuộc hội Phật
giáo Ninh Ba là: Hễ cô nhi đã có thể tự mặc áo, ăn cơm, không cần có người khác
săn sóc thì mới cho vào viện. Cách dạy là đọc sách, viết chữ, học làm toán, học
vẽ, bện giày cỏ, bện những thứ chiếu, gối, mũ dùng cho mùa hè, in đá, kiểm
sách, may vá v.v… đều nhất loạt học hết. Đợi đến năm mười lăm tuổi khi rời khỏi
viện liền có thể tự lực kiếm sống. Dẫu có đi học nghề hay học buôn bán cũng dễ
dàng.
Trường học bình thường thì bảy ngày nghỉ một ngày và nghỉ lễ, nghỉ
cuối năm, nghỉ hè. Trong một năm, trừ những kỳ nghỉ ra, chỉ còn được hơn sáu
tháng. Huống chi trong một ngày, tám giờ vào học, bốn giờ tan học, thời gian ấy
chỉ gồm bảy tiếng đồng hồ, lại có thời gian rảnh rỗi. Nếu chẳng phải là đứa
thiên tư vẹn mười thì học được cái gì đâu, chỉ là uổng phí thời gian, uổng phí
một phen khổ tâm của những người lo liệu. Nhưng trường học trong thiên hạ đều
theo lệ đó, chỉ lợi cho giáo viên, nhưng bất lợi cho học sinh trong nhà trường,
thật đáng than thở, cảm khái! Trong Cô Nhi Viện, chẳng lập kỳ nghỉ, thời khắc học
hành hằng ngày cũng kéo dài hơn vì đã kèm thêm thời gian học nghề; nếu thời
gian học ngắn ngủi sẽ chẳng thể thực hiện được điều nào! Đối với những sản phẩm
chế tạo được, ngoài những món để tự sử dụng, đều đem bán ra ngoài. Tiền lời kiếm
được cũng có thể giúp đỡ đôi chút cho chi phí nhà trường. Trẻ nghèo, trẻ mồ côi
đâu khác nhau cho lắm!
Thật sự muốn cho trẻ dù thượng trung hạ căn đều có thể tự lập thì
có lẽ phương pháp này thích hợp nhất. Nhưng người đứng trông coi phải là người
thật sự lo liệu; nếu không, chỉ có hư danh, chẳng thành được chuyện gì. Đấy là
thói tệ chung của những kẻ làm việc công từ trước đến nay ở nước ta. Nếu dốc
toàn bộ cái tâm độ người của Phật, Bồ Tát, tâm kinh bang tế thế của thánh hiền
vào việc này thì nước ta được hưng thịnh sẽ trông cậy vào đây, chứ nào phải chỉ
dân nghèo được lợi ích!
61.
Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ mười ba)
Vừa nhận được
thư, ông khiêm tốn, khen ngợi [Quang] quá đáng khiến Quang hổ thẹn không chốn
nương thân. Những điều Quang đã đọc chỉ là những chỗ bàn luận thêm của Thượng
Biên và Hạ Biên, những chỗ khác đều chưa đọc tới. Những điểm nêu ra chỉ là những
điều Quang đã đọc được. Lời nói chẳng thành văn, nào đáng khắc vào đầu quyển? Nếu
chẳng chê bỏ, xin hãy đợi Quang thong thả đọc kỹ Hạ Biên một lượt, rồi sẽ sửa
sai, nêu riêng từng điều một để mọi người thương lượng. Nếu chịu nghe theo,
Quang sẽ nhân lúc được rảnh rang mà rườm lời mấy câu nhằm làm lời Bạt cho ngọn
đuốc lớn. Còn như những lời lẽ nhờ cậy Quang chỉ bày để sửa sai trọn chẳng cần
phải nhắc tới nữa. Nhưng mắt Quang quả thật chẳng kham sử dụng được, sẽ phải mất
mấy chục ngày nữa mới có thể phúc đáp được (ngày mồng Bảy tháng Hai năm Dân Quốc thứ bảy -
1918)
Nếu cả bộ sách được
sửa chữa thì xin hãy bảo tòa báo đăng trọn vẹn bộ sách ấy. Do trước kia trong
sách ấy có nhiều chỗ chẳng thích hợp lắm, sợ gây hiểu lầm cho người khác nên bảo
họ chỉ đăng những phần bàn luận thêm thuộc hai cuốn Thượng Biên và Hạ Biên mà
thôi. Nay được thấy mấy phen nhã ý của các hạ, chắc là đã nghe theo ngu kiến của
Quang. Trước hết hãy nên nêu đại ý sách ấy, chẳng ngại gì cùng mọi người cân nhắc.
Nhưng Quang do tâm mục suy đồi, gần đây lại bận bịu đủ mọi chuyện, khắc hơn một
ngàn trang sách thì đối với hơn một nửa số trang đã khắc xong đều chưa giảo duyệt
được. Lại do phải trao đổi thư từ thuận theo tình cảm, chẳng thể chuyên tâm làm
việc ấy được, cho nên phải chậm trễ. Tôi sẽ sang Dương Châu vào khoảng tháng
Năm hay tháng Sáu, đến đấy liền sửa đổi bản khắc chữ để cho in ra biếu tặng. Lại
còn những sách được tái bản, phải đợi tới sang năm mới lo liệu được! (tái bút)
62.
Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ mười bốn)
Hôm qua nhận được
thư và lời tựa của các hạ dành cho tác phẩm Cú Giải lớn lao, khôn ngăn cảm
kích. Bộ kinh Pháp Hoa mầu nhiệm có được một bản hoàn chỉnh, ấn loát lưu thông,
quả thật là may mắn lớn. Nhưng theo như những gì các hạ đã nêu ra, cũng có chỗ
tự cắt thịt thành vết thương vậy. Cố nhiên Quang chẳng thể trình bày cặn kẽ từng
điều một được.
Trong phẩm Phương Tiện, chữ Vĩ (茟) trong câu “nhược
thảo mộc cập vĩ” (nếu dùng ngọn cỏ cây), chữ Vĩ (茟) có
khi bị viết thành Bút (筆).
Trong bộ Chánh Ngoa Tập (sửa đổi cho đúng những điều sai lạc), ngài Vân Thê giải
thích chữ Vĩ (茟) âm đọc như chữ Vĩ (緯),
có nghĩa là cây hay hoa vừa mới nhú. Nếu xét kỹ ý nghĩa, chưa chắc đã là chữ Bút,
bởi lẽ trẻ nhỏ đùa bỡn kiếm được loại cây cỏ và búp hoa của các loại cây cỏ nào
đều dùng móng tay để vạch lên đó. Vì thế, vẽ kiểu này trọn chẳng phải là như vẽ
trên giấy hay lụa, mà là vẽ trên mặt đất, trên vách, hay trên đồ vật. Sách Tự Vị
và Tự Điển[14]
đều có thể dẫn làm chứng cứ, chắc không cần phải chèn ép ngài Vân Thê để khoe
ra sự hiểu biết.
Chữ Trà (茶),
trong kinh của Nhật Bản đều viết thành chữ Đồ (荼),
chứ không phải chỉ mình chữ Cưu Bàn Trà (鳩槃茶).
Tra trong tự điển thì chữ Đồ cũng có thể đọc là Trà, và cũng có nghĩa giống như
chữ Trà. Vì thế, chớ nên dựa theo kinh điển Nhật Bản rồi chê bai kinh sách
Trung Quốc đều viết sai. Nếu quyết định phải viết là Đồ thì những chữ [Đồ] phải
đọc [thành] âm Trà[15]
nhiều lắm! Hãy đem cách đọc chữ 荼
theo âm Đồ (塗)
để đọc những chữ khác.
Câu
“hình thể thù hảo” (hình thể hết sức đẹp đẽ) hoặc “đoan chánh thù diệu” (đoan
chánh tuyệt diệu), [chữ Thù] viết là 姝 mà viết là 殊 cũng được!
Không
cần phải dẫn các sách để làm chứng, chỉ cần dựa vào chánh văn của kinh để quyết
đoán là được rồi! Há lẽ nào trong hết thảy các sách, đối với cùng một chữ đều
không sai khác hay sao? Một pháp tam-muội [được nói] trong kinh Lăng Nghiêm còn
có thể hiểu thành ba thứ, chẳng thể nói rạch ròi một thứ nào. Huống là những chữ
trọng yếu khác đều theo lệ chung [giống như vậy] hay sao? Ba thứ là tam-muội,
tam-ma-đề, tam-ma-địa, trong một kinh mà còn nhiều thứ chẳng duy nhất, huống là
nhiều sách ư?
Ông
sửa chữ Mạt (末:
cuối, ngọn) thành chữ Mạt (抹:
nghiền nát)[16],
chớ nên quá cố chấp. Nếu bảo ghi theo lối cổ là đúng thì chữ dùng trong Ngũ
Kinh, Tứ Thư hiện thời đều phải sửa đổi, bỏ đi quá nửa thì mới tạm thời gần giống
ý [những chữ được dùng vào thời cổ]. Nếu lại muốn dùng đúng nguyên văn như
trong thời ấy thì e rằng chẳng có chữ [hiện thời] nào dùng [để ghi chép Tứ Thư,
Ngũ Kinh] được hết!
Chữ
Cập (及: và) sửa thành chữ Nãi
(乃: bèn), đúng là sai
ngoa, nhưng Quang vẫn chưa thấy bản nào chép sai như vậy, cố nhiên không phải bản
nào hiện thời cũng đều chép giống như vậy.
Chữ
Danh (名) viết thành chữ Minh (明) cũng chẳng thể tra cứu được. Sách Cú Giải viết:
“Chữ Danh liên quan đến phần kinh văn tiếp
theo. Chữ này vốn dùng để liệt kê nhiều thứ, sao không có một điều nào khác mà
lại dùng chữ Danh? Nếu chỉ có một mình điều này mà dùng chữ Danh thì sẽ thành
cách dịch hỗn loạn”[17].
Nguyệt Thiên Tử, Minh Nguyệt Thiên Tử cố nhiên chẳng phải một, chẳng phải
hai. Như có người gọi các hạ là cư sĩ, lại có người gọi là đại cư sĩ, có vì một
chữ Đại mà gây trở ngại ư?
Chữ
Minh (冥: tối tăm) cố nhiên nên
viết là Minh (瞑:
nhắm tịt mắt lại), Manh Minh (盲冥:
mù mờ, tối tăm) cố nhiên phải viết là Manh Minh (盲瞑: mù lòa), chữ có xưa - nay, nhưng nghĩa chẳng
tăng - giảm, cớ gì phải nhọc sức so đo tường tận hay dở như vậy?
Chữ
Trinh (貞)
là thân cây; Thật (實)
là trái cây. Cú Giải vẫn thiếu đoạn phân tích giảng giải về chữ này, trong các
bản kinh [được lưu thông] phần nhiều viết sai [chữ Trinh thành] chữ Chân (真)[18],
thật đáng đau lòng!
Tập
(集) là tích tập, còn Tập (習) là tu tập. Chữ tuy khác nhau, nhưng nghĩa có
thể dùng lẫn cho nhau. Chẳng riêng gì kinh Pháp Hoa dùng lẫn lộn chữ này, mà
trong kinh Hoa Nghiêm cũng thế. Do chẳng hại gì đến nghĩa thì các bản chép sao
cứ giữ nguyên như vậy cũng được.
Chữ
Thọ (受) có nghĩa là được. Chữ
Thọ (授) có nghĩa là trao cho.
Chẳng biết dựa theo nghĩa để định danh, làm sao coi trọng chuyện hoằng kinh cho
được! Cố nhiên chẳng phải đợi đến khi có chứng cứ mới biết là sai vậy.
Chữ
Nghị (議) trong từ ngữ Luận Nghị
(論議) viết thành chữ Nghĩa (義) cũng không sao, do trong chữ Luận đã sẵn đủ ý
nghĩa của chữ Nghị rồi, mà cái điều được Luận Nghị (bàn bạc) chính là Nghĩa
(nghĩa lý) vậy.
Chữ
Phạt (伐) sửa thành (罰) thì sai ngoa quá mức. Cư sĩ chấp cổ quá mức,
nên mới làm thế. Chẳng biết rằng lỗi nhỏ thì [gọi là] phạt (罰). Như tiểu vương phản nghịch, Luân Vương đi
đánh dẹp thì cũng gọi là phạt (罰).
Chứ [nếu theo như cư sĩ] thì [những chữ Phạt[19]
(伐) trong các câu] “lễ nhạc chinh phạt, Vũ Vương phạt Trụ”
(禮樂征伐,武王伐紂: dùng lễ nhạc để chinh
phạt, Vũ Vương dẹp Trụ) đều phải sửa thành chữ Phạt (罰) hết hay sao?
Oán
tặc đã cầm dao làm hại thì chữ Nhiễu (繞:
vây quanh) ý nghĩa rất khéo, còn ý nghĩa chữ Nhiễu (擾: khuấy nhiễu) rất vụng. Chữ Oán (怨) đổi thành Oán (冤) thì trong kinh sách hai chữ này được dùng lẫn
cho nhau. Oán (怨)
là oán hận, oán thù; còn Oán (冤)
là oan khuất, oan uổng. Trong kinh Hoa Nghiêm có gần một trăm trường hợp như vậy,
nhưng hai chữ này mỗi chữ chiếm một nửa, do vậy hãy nên sửa cho đúng. Ngay trong
kinh Pháp Hoa thì hai chữ này vẫn dùng lẫn cho nhau.
Chữ
Đa (哆)[20]
sửa thành chữ Đa (多)
thì vẫn là một gốc. Những bản Quang được thấy đều viết là Đa (哆).
Tham
Trước (貪著: tham
đắm) hay Tham Nhạo (貪樂: tham
ưa) về ý nghĩa đều có thể dùng lẫn cho nhau, chẳng cần phải dẫn khắp các kinh để
chứng tỏ viết như vậy là sai!
Chữ
Xử (處) chính là Thọ (受), Thọ chính là Xử[21],
ông tính sửa cho giống hệt nhau có lẽ quá cố chấp. Sách Mạnh Tử chép: “Ngô hôn bất năng tấn ư thị hỹ, nguyện phu tử
phụ ngô chí minh dĩ giáo ngã. Ngã tuy bất mẫn, thỉnh thường thí chi[22]”.
Bốn câu nói này được nói cùng một lúc, thốt ra từ cùng một miệng mà còn chẳng
thể dùng nhất quán, đang Ngô chợt thành Ngã, huống chi là đối với kệ tụng do Phạm
Thiên các phương nói ra lại cứ muốn phải sửa sao cho giống hệt như nhau ư?
Sửa
chữ Đạo (道)
thành chữ Huệ (慧)
tuy dường như không hợp lẽ, nhưng xét kỹ câu kinh tiếp theo câu “tốc thành tựu Phật thân” (mau thành tựu
Phật thân) thì cố nhiên chữ Huệ cũng không sai cho lắm. Các bản ghi sao cứ giữ
như vậy là được rồi!
Chữ
Số (數) sửa thành chữ Chư (諸) thì Quang trọn chưa thấy bản nào chép sai như
vậy.
Văn
(聞: nghe) chính là “văn
hương” (聞香:
nghe mùi, ngửi mùi), tức là một lần mười và hai lần năm vậy. Chèn ép điều này,
đề cao điều kia, hay chèn ép điều kia, đề cao điều này đều sai hết, bản nào giữ
theo bản nấy là được rồi. Thiêu (燒)
hay Phần (焚)
đều là đốt. Sửa chữ Đắc (得)
thành chữ Đáng (當)
thì Quang cũng chưa thấy bản nào ghi như thế, chớ nên nói các bản hiện thời đều
như vậy!
Niên
hiệu Thái Khang đời Vũ Đế hay niên hiệu Vĩnh Khang đời Huệ Đế[23],
các vị [cổ đức] đều chưa thể tra cứu trong Tam Tạng Ký Tập, Đại Đường Nội Điển
Lục[24],
nên không cách nào biện định để sửa cho đúng điều sai này vì Cao Tăng Truyện
chưa ghi rõ năm tháng kinh Pháp Hoa được dịch ra.
[Sách
Cú Giải nhắc đến] những chữ bị bỏ sót thì tra trong những bản kinh được lưu
thông gần đây đều thấy đúng cả. Nhưng chẳng sót chữ thì ý nghĩa [của kinh] cũng
không tăng, mà bị sót chữ thì ý nghĩa [của kinh] cũng không giảm. Hãy nên ai nấy
tuân theo một bản nào đó là được rồi! Nếu cứ muốn tham khảo bản này để sửa cho
đúng bản kia sẽ trở thành bỏ gốc chạy theo ngọn, uổng phí tinh thần, đối với
người, đối với kinh, rốt cuộc có lợi ích gì đâu? Người hoằng kinh hãy nên nương
theo Tứ Y. Tứ Y là “y pháp bất y nhân, y
nghĩa bất y ngữ, y trí bất y thức, y liễu nghĩa kinh bất y bất liễu nghĩa kinh”
(nương theo pháp chứ không nương theo người, nương theo nghĩa chứ không nương
theo lời nói, nương theo trí chứ không nương theo thức, nương theo kinh liễu
nghĩa chứ không nương theo kinh bất liễu nghĩa). Kinh lưu truyền mấy ngàn năm
khắp cả thiên hạ mà muốn cho mỗi câu mỗi chữ [trong các bản kinh được lưu hành]
không một chỗ nào bị so le được chăng? Cốt sao xét về ý nghĩa thông suốt là được
rồi. Cố nhiên chẳng nên quá chấp trước câu nệ vậy! (ngày Hai Mươi
Tám tháng Hai năm Dân Quốc thứ Bảy - 1918)
63. Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo
(thư thứ mười lăm)
Bữa Mười Tám hôm trước đã nhận được
sách gởi tới, liền vâng mạng phúc đáp nay. Đến hôm Hai Mươi mới nhận được thư
các hạ, bưu cục đều lần lượt chuyển tới các bưu kiện. Các hạ nhắc đến sách Hải
Nam Nhất Chước thì sách ấy có lợi lẫn gây tổn hại cho người khác đều có đủ. Thoạt
đầu, Quang chấp lý rất nghiêm, sợ người khác mắc bệnh, trọn chẳng hé răng bảo
người ta đọc. Rồi sau đấy nghĩ rằng thiện thư trong thế gian thật ít sách tận
thiện tận mỹ, chỉ cần có thể tạo được lợi ích thì chẳng ngại gì bảo họ đọc. Dẫu
có ai bị tổn hại thì cũng chỉ tùy theo tri kiến của người ấy mà phân biệt lợi -
hại. Nếu do có chỗ chẳng thích đáng bèn nhất loạt cự tuyệt thì không khỏi đánh
mất phương pháp dẫn người khác tiến vào chỗ thù thắng. Vì thế, gần đây tôi cũng
thường bảo người khác thỉnh về đọc.
Người
soạn ra sách ấy vốn quê ở Giang Tây, họ Từ tên Khiêm, tự là Bạch Phảng[25],
ngoài ba mươi tuổi liền được bổ vào viện Hàn Lâm. Do bẩm tánh chân thật, chất
phác nên chẳng muốn làm quan, cũng từng đảm nhiệm chức Sơn Trưởng[26]
một hai lần. Sau đấy, ở hẳn nơi nhà, chuyên chú khuyên người làm lành và cầu
cơ, dân chúng theo học rất đông. Về sau, do một vị Cử Nhân tại tỉnh thành Giang
Tây dạy môn đồ cầu cơ chẩn bệnh khá linh nghiệm, mẹ quan Phủ Đài[27]
mắc bệnh, thuốc men không công hiệu; do vậy, thỉnh đồ đệ ông ta đến cầu cơ kê
toa. Thuốc vừa uống vào miệng [bà cụ] liền tắt thở ngay. Xét kỹ toa thuốc, thấy
trong ấy có những vị thuốc kỵ nhau. Do vậy, bèn bắt kẻ ấy đến tra hỏi, ông ta
khai ra tên thầy mình, quan liền bắt thầy ông ta thường mạng. Từ Khiêm nghe
tin, bèn thôi không dạy người khác cầu cơ nữa, chỉ chuyên chú dạy sửa lỗi hướng
lành, tích công lũy đức, bảo con cháu ông ta mỗi người chuyên một nghề, chẳng
được đặt chân vào con đường làm quan. Ông ta thọ đến chín mươi sáu tuổi. Lúc
lâm chung, có người bạn thân đi đường nghe tiếng thiên nhạc, trở về hỏi thăm, té
ra ngay trong lúc ấy, mọi người đều nghe tiếng thiên nhạc khi ông ta mất. Đệ tử
của ông ta thật đông. Sư Liễu Nhất Trụ Trì chùa Pháp Vũ trước kia lúc còn tại
gia là môn sinh cuối cùng của ông ta, nay Sư đã bảy mươi chín tuổi rồi, từng kể
chuyện này với Quang.
Điều
đáng tiếc là ông ta chỉ có tâm thích điều lành, ưa Phật, nhưng trọn chẳng dự
vào lò hun đúc của bậc tri thức đủ mắt, đến nỗi trở thành tri kiến hồ đồ “tà - chánh
chẳng phân, đúng - sai lẫn lộn”. Trước thuật của ông ta sao trích kinh Phật lẫn
lời giáng cơ, coi chân kinh và ngụy kinh giống hệt như nhau. Ông ta thường có
những lời nghị luận, phán đoán xét về văn lý cũng phần nhiều gây sướng tai
khoái mắt người khác, nhưng bản Tâm Kinh ngụy tạo lời văn lẫn lý đều thô thiển,
hèn kém, chẳng đáng để vào mắt, mà ông ta vẫn coi giống hệt như Tâm Kinh! Đúng
là mắt cá và chân châu hoàn toàn xem như những vật giống hệt nhau không khác! Nhưng
bản Tâm Kinh được ông ta sao lục từ bản do Quách Lan Thạch đã viết thì lại là
cùng một bản gốc, khác người dịch, chứ không phải là kinh ngụy tạo, không thể
không biết [điều này]! Cái gọi là Quán Âm Sám Pháp chính là do gã Tăng phàm tục
vô tri cắt xén Lương Hoàng [Sám] và Thủy Sám ghép thành [sám văn]. Do không hiểu
văn lý lại muốn biên soạn thành nghi thức mới nên đến nỗi sự lý và giáo tướng bị
mâu thuẫn.
Nội
dung của bốn cuốn thuộc phần Nội Hàm [của bộ Hải Nam Nhất Chước] quá nửa là những
lời giáng cơ, chẳng đáng để lưu thông. Ông ta tự cho là phần này hết sức tinh
vi, hết sức xác đáng. Phần Ngoại Hàm gồm sáu quyển, phần nhiều là chuyện Bồ Tát
cảm ứng. Tuy không phải là chẳng mắc khuyết điểm thâu thập tràn lan, nhưng quả
thật có lợi ích rất lớn cho thế đạo nhân tâm. Vào đời trước, lúc gieo thiện căn
trọn chớ nên gieo lẫn lộn, hễ lẫn lộn thì đời này tà - chánh chẳng phân. Từ
Khiêm do đời trước đã gieo thiện căn lộn xộn, nên đời này tuy tu chuyên ròng mấy
chục năm, chỉ trở thành một bậc thiện sĩ trong cõi tục! Lúc mất, tuy có thiên
nhạc là điềm lạ, nhưng chỉ là sanh lên cõi trời, chứ không phải sanh về Tây
Phương vì đối với Phật pháp ông ta trọn chẳng biết đến nghĩa lý đích thực tột
cùng, huống chi là pháp môn Tịnh Độ ư?
Cổ
nhân nói: “Cộng quân nhất dạ thoại, thắng
độc thập niên thư” (Tạm dịch: Một đêm trò chuyện cùng anh, còn hơn đọc sách
loanh quanh mười mùa). Nếu là bậc học rộng nghe nhiều, chẳng cùng những vị
thông suốt thảo luận mấy phen, sẽ trở thành “nhai bã của cổ nhân chẳng tiêu hóa
được”, đâm ra thành đại bệnh! Học hỏi chẳng gặp người thông, đến già rốt cuộc
trở thành đống xương. Không riêng gì Từ Khiêm là như thế mà những người giống
như Từ Khiêm trong cõi đời quả thật đông lắm đấy! (ngày Hai Mươi Mốt
tháng Năm năm Dân Quốc thứ bảy - 1918).
64. Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo
(thư thứ mười sáu)
Hôm qua nhận được thư, biết các hạ muốn
lưu thông cuốn Thành Đạo Ký Chú[28],
khôn ngăn vui mừng. Ba mươi năm trước, tôi đã từng được thấy sách này ở Hồng
Loa, chứ ở Pháp Vũ hoàn toàn không có, liền ra phía trước núi hỏi một người bạn,
thầy ấy nói [nhà chùa] có một bản nhưng đã bị thầy Đương Gia cầm đi hai ba năm
rồi, vị ấy lại không có mặt ở chùa. Do vậy, bảo họ tìm kiếm trong nhà kho,
phòng chứa kinh, nhưng vẫn chưa tìm được. Vị sư ấy hứa sẽ viết thư hỏi ông ta.
Nhưng một cuốn sách mỏng manh nếu chẳng trân trọng, mến tiếc, chắc đã lạc mất rồi!
Do vậy, lại gởi thư sang cho thầy Kỳ Căn là Thư Ký chùa Quán Tông nhờ thầy hỏi
khắp đại chúng chùa Quán Tông, ai có thì đem nguyên bản gởi thư bảo đảm cho
Quang. Đợi đến khi sắp chữ hoàn chỉnh, sẽ kính gởi trả lại. Trong hai chỗ ấy,
may ra một chỗ sẽ có. Chứ nếu sao chép ngay trong núi thì hơi khó kiếm được người.
Cơ duyên của Phật, của Tổ ẩn hay hiển có thời, thần vật ngầm gia hộ, ắt được
như nguyện (ngày Hai Mươi Lăm tháng Ba năm Dân Quốc thứ tám - 1919)
65. Thư gởi cư sĩ Đinh Phước Bảo
(thư thứ mười bảy)
Những sách do các hạ biên soạn như Lục
Đạo Luân Hồi v.v… quả thật có thể khiến cho kẻ khinh nhờn chẳng hề thấy nghe
hay biết đại đạo sẽ nhanh chóng được mở mang tầm mắt, hồi tâm chuyển niệm, biết
chính mình vốn một mực ngồi đáy giếng nhìn trời, lầm lạc suy lường bầu trời bao
lớn! Những ghi chép của tiên hiền vốn do túc căn sâu dầy, vâng lời di chúc của
đức Phật, cho nên chẳng mê muội linh tánh của chính mình, dùng ngôn ngữ, sự
tích của Thế Đế để chuyển pháp luân tùy cơ độ sanh của đức Như Lai. Từ đấy, người
sanh lòng chánh tín, phát tâm Bồ Đề, sợ nỗi khổ dữ dội trong luân hồi, hâm mộ sự
vui sướng cùng cực nơi An Dưỡng, ắt sẽ một người xướng, trăm người họa, dẫn dắt
nhau thoát khỏi cõi Sa Bà này, sanh về cõi Cực Lạc kia, chẳng thể dùng toán số,
thí dụ nào để biết được nổi!
Quang
đọc xong cảm thấy vui vẻ, may mắn khôn cùng, toan viết một bài tựa để tán
dương, nhưng do mục lực không đủ, lại thêm bận bịu không rảnh rang, nên lần chần
đến nay. Tuy đã ghép được hơn một ngàn chữ, nhưng do học vấn nông cạn, kém cỏi,
kiến địa tầm thường, thấp thỏi, đối với tự tánh ngay chính nơi tâm và đạo tùy
cơ lợi sanh [vẫn hệt như] kẻ lòa trong lúc mây dầy sương kín, ngửa trông ánh mặt
trời chỉ càng thêm lòa quáng. Vì thế, đối với diệu đạo của Phật, của Tổ, cũng
như tâm sự của các hạ đều chưa thể nêu tỏ rõ ràng. Lòng biết lời tựa này trọn
chẳng thể dùng được, nhưng muốn biểu lộ lòng ngu thành, nên riêng gởi trình dưới
tòa, mong hãy rộng lòng phủ chánh (ngày Rằm tháng Năm năm Dân Quốc thứ tám - 1919).
Tôi có chỗ muốn thưa hỏi đối với ba cuốn
sách ấy, sẽ viết trong một tờ giấy khác.
Hơn nữa, cái hại của thuốc phiện chẳng
thể nói trọn hết được. Năm ngoái tôi đã bàn chuyện này với Trần Tích Châu, ông
ta cho biết trước đây đã từng hút thuốc phiện, nghiện rất nặng, về sau được một
toa thuốc, uống vào trừ được tận gốc. Do vậy, khôn ngăn khâm phục! Năm nay ông
ta lại đến núi; nhân đấy, bảo ông ta chép ra toa thuốc ấy để làm lợi đồng nhân.
Nhưng Quang ẩn thân ngoài hải đảo chẳng giao du với ai, tuy có toa thuốc ấy vẫn
khó thể lợi người được! Trước kia, có người bạn từ Cáp Nhĩ Tân (Harbin) đến nói
ở chỗ ông ta bãi bỏ lệnh cấm thuốc phiện, [người ta mặc sức hút] trọn chẳng
kiêng sợ gì. Cũng có người muốn cai nhưng không có cách nào hết, thường ưu tư về
chuyện ấy. Do vậy, bèn gởi toa thuốc ấy đi, mong ông ta lần lượt truyền bá, để
những ai có chí cai nghiện sẽ cùng được lợi ích. Nay nghĩ các hạ có tâm lo cho
thế đạo, lại còn hành nghề y, giao du rất rộng, người tin tưởng thật đông. Nếu
có ai mắc bệnh này muốn vĩnh viễn trừ tận gốc rễ mà chẳng có được phương cách
nào thì chắc là hãy nên đem bài thuốc này tặng cho họ. Do vậy gởi kèm theo thư (lại nói kèm
thêm)
* Tiên truyền tuyệt diệu thần phương để cai thuốc phiện
(dẫu là hạng vốn được xưng quốc thủ danh y cũng
chớ nên lầm lạc tăng thêm một vị thuốc nào. Nếu tăng thêm một vị thuốc nào đấy,
[toa thuốc] sẽ chẳng linh nghiệm nữa. Hết sức khẩn cầu)
Cam Thảo (Radix
Glycyrrhizae) loại tốt: nửa cân, Xuyên Bối Mẫu (Bulbus
Fritillariae Cirrhosa): bốn lạng[29];
Đỗ Trọng (Eucommia Ulmoides Oliver): bốn lạng.
Dùng sáu cân nước để nấu chung ba vị
thuốc, cho đến khi cạn nước một nửa thì bỏ bã, dùng một cân đường đỏ loại tốt
nhất đổ vào nước thuốc, đun tiếp gần khoảng một giờ sẽ thành chất cao.
1) Ba ngày đầu tiên, mỗi ngày uống một
lạng cao, hút một tiền thuốc phiện.
2) Ba ngày kế đó, uống một lạng cao,
hút tám phân thuốc phiện.
3)
Ba ngày kế đó, hút sáu phân.
4)
Ba ngày kế đó, hút bốn phân.
5)
Ba ngày kế đó, hút hai phân.
Từ
đấy trở đi, mỗi ngày dùng một lạng cao, hút một phân thuốc phiện. Lại dùng cho
đến ngày thứ mười tám, dùng sau một tháng thì không cần phải hút thuốc phiện nữa,
vĩnh viễn trừ được tận gốc rễ.
Nếu
trong khi uống thuốc cao, có những bệnh tật phát tác bên ngoài có thể hút thêm
lên một phân thuốc phiện. Hút một hai ngày liền thôi, vẫn chiếu theo đúng toa
thuốc ban đầu để uống cao, đừng tăng nhiều hơn. Toa thuốc này cai được thuốc mạnh
hơn hút thuốc phiện một bậc. Dù ai nghiện nặng, mỗi ngày phải hút mấy lạng thuốc
phiện, mà cai bằng toa thuốc này không ai chẳng trừ được tận gốc, lại không bị
bệnh gì khác. Nhiều lần thử đều nhiều lần hiệu nghiệm, đúng là toa thuốc thần
diệu.
Tiên
sinh Trần Tích Châu hằng ngày hút ba bốn lạng thuốc phiện, sau có được toa thuốc
này liền nấu một liều uống vào; hết thuốc thì bệnh ghiền cũng hết. Chẳng những
không bệnh tật gì mà thân thể còn khỏe mạnh, tinh thần sung túc. Từ đấy bảo khắp
với người quen biết, không ai chẳng dùng hết thuốc liền dứt được chứng nghiện.
Do tôi nói đến nỗi họa hại của thuốc phiện, ông ta liền kể nguyên do cai thuốc
của chính mình. Tôi bèn xin ông ta chép ra để cứu những ai cùng mắc phải bệnh
này! Hơn nữa, người cai thuốc phải có tấm lòng “trăm điều thử thách chẳng quay
đầu, dẫu chết chẳng thay đổi” thì mới đạt được hiệu quả thật sự của bài thuốc
này. Nếu trong tâm trọn chẳng có ý niệm nhất định cai thuốc, đừng nói là dược vị
của thế gian chẳng thể hữu ích, dẫu thần tiên đích thân trao cho tiên đan cũng
chẳng thể có ích được! Mong [người muốn cai thuốc phiện] hãy gắng chí uống vào
thì may mắn lắm thay!
Đạo
lập ngôn muôn vàn khó khăn, dẫu học vấn uyên bác, nhưng muốn trước tác hoặc
trích lục những câu danh ngôn, ắt phải suy xét, châm chước kỹ càng. Xét đến
tình thế của từng câu văn, dựa theo ngữ mạch thì mới chẳng đến nỗi mắc khuyết
điểm “vì từ mà hại ý” cũng như đem sai lầm truyền tụng sai lầm. Trước kia, tôi
đọc Phật Học Chỉ Nam thấy dẫn sách Chỉ Nguyệt Lục[30]
có chỗ giản lược ý câu văn không nhất quán, có khi chép “lão bệnh tử tăng” (ông tăng già bệnh chết) thành “sanh lão bệnh tử”, nghĩ rằng các hạ
chưa xét kỹ càng, ngẫu nhiên chép sai! Nay thử kiểm cuốn sách này cũng thấy viết
như vậy, khôn ngăn than thở!
Phần
lớn những trước tác của người thông minh trong đời sau phần nhiều đều có chỗ
không suy xét kỹ càng, tài sức có thừa mà chẳng chịu châm chước đôi ba phen, viết
lách cẩu thả! Tuy có thể làm lợi cho người khác, người ta tưởng mình là bậc
thông suốt bèn dựa theo đó đem sai lầm lưu truyền sai lầm thì lỗi ấy cũng chẳng
phải nông cạn! Quang vô đạo, vô đức, ít tham phỏng, ít học, trót được ông lầm
coi là tri kỷ trong pháp môn, thường muốn dốc hết sức dò theo từng dòng mực để
đáp tạ tri kỷ. Nhưng mắt ngày càng suy, thật khó thể toại nguyện. Nay đem những
điều từng thấy được nêu ra đại lược cho xong trách nhiệm, chẳng nói xuông mà
thôi!
Sách
Chỉ Nam trang bốn mươi, dòng thứ nhất, Ba-la-môn (chữ Ba 波 nên viết thành Bà 婆),
câu “trước hết A Di Đà Phật nhập diệt”
nên viết là “trước hết Thích Ca Mâu Ni Phật
nhập diệt”.
Mặt
sau trang bốn mươi, dòng mười ba, những chuyện [được trích từ] Thần Tăng Truyện[31]
tường thuật sự việc và ngày tháng sai lầm, lẫn lộn, không theo thứ tự, quả thật
chẳng theo đúng như cách trình bày trong Thần Tăng Truyện và Tống Cao Tăng Truyện[32].
Hãy nên sửa cho đúng theo hai sách ấy.
Mặt
sau trang bảy mươi lăm, dòng bốn, “những
nhà chú giải sai lầm, tùy tiện rất nhiều!” Chú giải của Tâm Kinh rất nhiều,
bản đang được lưu thông hiện thời là bản tổng hợp lời chú giải của năm vị [thiện
tri thức] gộp thành một bản. Những bản chú giải khác được thấy ở các nơi hoặc
trong các sách; nhưng kinh nghĩa vô tận, tùy theo sự thấy biết của mỗi người mà
soạn lời chú thích. Các hạ phán định là “sai
lầm, tùy tiện rất nhiều” khôn ngăn khiến cho người khác kinh hồn vỡ mật. Nếu
nói bản [Tâm Kinh] Tiên Chú dễ lãnh hội, khá có lợi cho kẻ sơ cơ thì được. Nếu
nói những bản chú giải cổ đều sai lầm, tùy tiện, lại nói thêm là “rất nhiều” thì không được! Nếu thật sự
sai lầm, tùy tiện, xin hãy đem những chỗ sai lầm của năm vị ấy chỉ ra từng điều
một để cởi gỡ lòng nghi cho Quang. Nếu không, xin hãy sửa đổi câu này, ngõ hầu
chẳng đến nỗi kẻ vô tri vô thức [sẽ vì câu nói ấy mà] miệt thị cổ đức, dấy lên
tội lỗi báng pháp, báng tăng.
Các
hạ tâm lợi người hết sức tha thiết, do gấp muốn hoàn thành sách nên có nhiều chỗ
lập ngôn không xét kỹ. Như trong lời chú thích cho lời tựa của ngài Đế Nhàn lại
chê trách tổ Thanh Lương. Trong Di Đà Kinh Tiên Chú khi bàn về sáu phương, tuy
là [dẫn] lời lẽ của người khác, há nên đem sai ngoa để lưu truyền sai ngoa? Trong
mùa Xuân, tôi thấy sách ấy khá hợp thời cơ, vẫn mong mục lực còn tốt thì sẽ dốc
cạn lòng ngu thành, đọc kỹ một lượt để góp sức mọn. Nay mắt đã ngày càng thêm
quáng lòa, vì thế chỉ nêu đại khái mà thôi. Quang trọn chẳng kết giao với sĩ đại
phu, vì thế ăn nói chẳng hợp lẽ; nếu lỡ mạo phạm, ngàn phần xin đừng quở trách.
Phật
Học Khởi Tín Biên, phần nói về Tịnh Độ Tông ở mặt sau trang 107. Lương Nhậm
Công (Lương Khải Siêu) sống tại Nhật Bản đã lâu, những điều ông ta trình bày về
Phật giáo nói chung đều là dựa theo những điều đã được viết thành sách của người
Nhật Bản để luận. Tịnh Độ Tông Nhật Bản coi ngài Thiện Đạo là Sơ Tổ, lý lẽ ấy
không xác đáng cho lắm. Vì một pháp Tịnh Độ từ Viễn Công trở đi thì đời nào
cũng chẳng thiếu người cực lực hoằng truyền, xiển dương. Ngay như nước ta chọn
ngài Thiện Đạo làm Nhị Tổ cũng là chuyện ngẫu nhiên; chứ không phải là sau ngài
Viễn Công, không có một ai hoằng dương tông này! Đối với tiết mục này có lẽ nên
y theo xưa, theo lệ của nước ta. Há nên đem sai lầm truyền bá sai lầm, đến nỗi
gây nghi ngờ bàn định cho người đời sau ư?
Thêm
nữa, trong hai mươi bảy vị tổ ở Tây Thiên của Thiền Tông không có ngài Thế Thân;
do Thế Thân là Pháp Thân đại sĩ, đương nhiên cũng triệt chứng Thiền Tông, nhưng
ở đây nhằm biểu thị các vị viễn tổ [truyền thừa Thiền Tông], trọn chớ nên kể
tên ngài [Thế Thân] lẫn vào đó.
Trang
114, trong biểu đồ ở dòng thứ hai, dưới phần Thiền Tông ghi “Ấn Độ vô” (ở Ấn Độ không có), phía dưới
lại ghi: “Trung Quốc đặc sáng” (Do
riêng mình Trung Quốc sáng lập). Bảy
chữ này cũng không thích đáng cho lắm. Tây Thiên đương nhiên có hai mươi tám vị
Tổ, sao bảo là không có? (Hơn nữa, nơi mặt sau của trang 113 ở phần trước, dòng thứ nhất),
đoạn luận về Thiền Tông có lẽ chấp chặt sự truyền thừa của hai mươi tám vị Tổ
là lời luận quyết định. Cần biết rằng sự truyền thừa này chẳng qua nhằm thể hiện
rõ sự trao truyền [mạng mạch đạo pháp] giữa vị Tổ trước và vị Tổ kế tiếp mà
thôi, chứ không phải suốt cả một đời của hai mươi bảy vị Tổ[33]
chỉ có một đoạn sự tích này! Hơn nữa, chuyện này thật hay giả cũng khó thể biện
định được. Nếu nói là thật thì câu trên (tức câu “ở Ấn Độ không có”) gây hiểu lầm cho người ta thật sâu, nếu đã bỏ
câu trên đi thì câu dưới (tức câu “Do
riêng mình Trung Quốc sáng lập”) cũng không có lý do gì để giữ lại. Hãy nên
bỏ đi ba dòng rưỡi này.
[Qua
những nhận định này], đủ thấy Lương Nhậm Công (Lương Khải Siêu) tâm thô gan lớn!
Nếu “vì từ hại ý” thì vua Đường Nghiêu lên ngôi mấy chục năm chỉ phát ra chưa
quá ba bốn hiệu lệnh để thi hành chánh sự mà thôi! Do cổ nhân chất phác; hơn nữa,
năm tháng xa xôi, cho nên truyền lại chẳng được mấy! Chứ không phải là ngoài
chuyện ấy ra trọn chẳng làm gì khác! Chuyện của chư Tổ Tây Thiên cứ so theo đây
mà biết. Quang học vấn như nhìn vào vách, chẳng qua vì được coi là tri kỷ nên
chẳng ngại nói đầu đuôi ngõ hầu ông khỏi phạm lỗi do chấp trước sai lầm mà luận
định cổ nhân sai trái mà thôi!
Văn chương của ông Lương [Khải Siêu] bao trùm cõi đời, thông minh
hơn người, tiếc rằng chưa nghiên cứu Phật pháp sâu xa, chỉ trình bày theo đúng
như những gì người Nhật đã luận. Vì thế, tuy không đến nỗi gây trở ngại lớn
lao, nhưng thường thốt ra những luận định chẳng hợp lẽ! Mạnh Tử nói: “Bác học nhi tường duyệt chi, tương dĩ phản
thuyết ước dã” (Học rộng rãi, giải
nói tường tận, [sau khi dung hội quán thông] sẽ quay về với cách nói giản ước)[34].
Nếu ông Lương lắng lòng nghiên cứu mười mấy năm, rồi mới cầm bút soạn luận thì
những bài luận ấy đem treo ở cửa Ngọ Môn[35],
ai đổi được một chữ sẽ được thưởng ngàn vàng! Hết năm trọn tháng, hoàn toàn chẳng
có một ai dám lãnh thưởng! Huống hồ Ấn Quang là kẻ vô tri vô thức, dám múa mỏ để
bươi móc vết tích nhỏ nhặt ư? Ông Lương đã như thế mà các hạ cũng như thế, đều
do gấp muốn thành sách, chưa rảnh rỗi để châm chước nên mới ra nông nỗi!
Người
đại thông minh, đại danh nhân, lập ngôn ắt phải suy xét kỹ càng, chớ nên cẩu thả
bởi người ta sẽ lấy mình làm mẫu mực. Nếu kẻ bình thường có chỗ sai lầm thì người
khác còn dễ biết, dễ sửa. Nếu là danh nhân, ắt người ta sẽ tưởng sai là đúng,
truyền bảo sai ngoa cho nhau. Như bài văn ghi lại giấc mộng của họ Lý ở cuối
sách Long Thư Tịnh Độ Văn, văn ấy rất bình thường, đơn giản, cũng không phải là
văn chương sâu xa, nghĩa lý huyền áo gì. Nhưng do viết thiếu một chữ “sơ” (thoạt đầu), những người sao chép về
sau đều tưởng là do họ Lý trình bày trực tiếp, chuyện trong lúc còn sống rốt cục
biến thành chuyện sau khi chết được mấy tháng, trở thành chuyện cảm được lợi
ích sau khi mộng; nhưng phàm những ai sao lục bài văn ấy đều nghĩ như thế cả (như Tịnh Độ Chỉ
Quy Tập, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Cư Sĩ Truyện, Liên Tông Bảo Giám, và Nhân Sơn
Dương Công Lược Truyện), đủ thấy mọi người càng phải chú ý. Quang một
là thiếu học vấn, hai là không có kiến địa, ba là không có hành trì. Vì thế, đối
với Phật pháp chẳng dám chú thích một chữ, một câu. Gần đây do một hai người bạn
lầm lẫn lưu truyền, chia sẻ cho người khác những thứ cơm thừa canh cặn, khôn
ngăn hổ thẹn, không chốn nương thân, nhưng chẳng biết làm như thế nào?
Lại
nữa, trong ba cuốn sách, dưới mỗi một điều [được trích dẫn] đều có ghi rõ tên
sách, nhưng chỉ có lời của ông Kỷ Văn Đạt là nhất loạt chẳng ghi tên sách, chẳng
biết tôn ý ra sao? Nếu theo như ngu kiến thì cũng nên ghi tên sách để gợi tín
tâm cho người ta và có chứng cứ để tra khảo.
Thêm
nữa, Phật Học Tiểu Từ Điển chữ nhỏ không đọc được. Ngay hôm ấy liền đưa cho người
bạn đọc. Lúc mới nhận được, chỉ mở xem qua mấy trang, và đọc phần phương pháp
chọn lựa từ ngữ ở đầu sách mà thôi. Ngẫu nhiên thấy phía dưới con số năm mươi
hai [địa vị] có ghi chú rằng: “Tức là địa
vị Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu
Giác Bồ Tát”. Diệu Giác chính là Phật, sao lại kể vào trong số những địa vị
Bồ Tát? Nếu nêu chung chung những địa vị thuộc bậc thánh thì được, còn nếu
chuyên giảng về địa vị Bồ Tát thì lầm lẫn lớn lắm! Tiên sinh Châu An Sĩ đã từng
liệt kê con số này như thế! Do vậy, tôi biết bậc danh nhân thường có những sai
lầm ngoài ý muốn!
66. Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo
(thư thứ mười tám)
Hôm Rằm vừa rồi nhận được một gói Phật Học
Toát Yếu, một cuốn Tịnh Tọa Pháp Tinh Nghĩa, liền đọc ngay. Biết các hạ đối với
mỗi pháp tịnh tọa của tam giáo đều biết được cốt lõi, đầu mối. Nhưng hoằng dương
Phật pháp chớ nên xen lẫn chuyện luyện đan vận khí của Đạo Gia, sợ kẻ chủng
tánh tà kiến sẽ biến tà thành chánh thì muốn làm cho người ta được lợi ích hóa
ra lại [khiến cho họ bị] mắc hại. Toàn thể cách ngồi để tham cứu bản thể như
Nho gia đã luận đều là lấy cách tham cứu của nhà Thiền rồi thay đổi tên gọi,
nhưng trọn chẳng nói đến Phật pháp! Dẫu [coi là] bản lãnh cao sâu, đối với mình
lẫn người đều có lợi ích, nhưng lén trộm lấy điều hay của người khác để [khoe
khoang] chính mình tự có thì cái đạo “thành ý chánh tâm” đã biến thành thiếu
sót, khôn ngăn người phải cảm khái, than thở!
Trang
mười lăm, dòng thứ tám: “Phật Di Giáo
Kinh: Chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện” (Kinh Phật Di Giáo dạy: ‘Giữ tâm ở một
chỗ, thì không chuyện gì chẳng thực hiện được’). Chữ “nhất xứ” ở đây nghĩa là niệm niệm luôn hướng về đạo, tâm hợp với đạo,
tâm và Phật hợp với nhau. Phần giải thích của các hạ dưới đoạn văn này quá chấp
hình tích. Nơi dòng thứ mười một, chữ Duyên Trung chỉ cho cảnh được duyên bởi
tâm, vì thế tiếp đó liền nói: “Nhược mi
gian, nhược ngạch thượng, nhược tỵ đoan”. (Hoặc giữa chặn mày, hoặc trên
trán, hoặc chót mũi). Đấy chính là những cảnh được duyên, chứ không phải Duyên
Trung[36]
cũng là tên gọi của cảnh! Nếu Duyên Trung cũng là tên gọi của Cảnh thì phải
dùng chữ “cập” (và), chẳng nên dùng chữ “nhược” (như là). Đạo gia ăn trộm kinh
Phật, nhưng không hiểu ý, lầm lạc xác định vị trí của Duyên Trung, lại còn muốn
ra vẻ khác biệt với Phật, bèn gọi là Hoàng Trung, nực cười đến thế! Các hạ đọc
rộng mà vẫn noi theo Đạo giáo một mực hiểu lầm “cảnh được duyên”. Đủ thấy hoằng
pháp xen tạp, có chỗ gây lầm lạc cho người khác. Đến hàng thứ mười hai “lắng tâm nơi Đan Điền”, đây chính là
cách trị bệnh. Vì thế, phần kinh văn tiếp đó nói: “Lâu ngày ắt trị được nhiều bệnh”, chứ không phải là chẳng vì trị bệnh
mà cũng lấy Đan Điền làm cảnh sở duyên.
Dòng
mười lăm, mười sáu, “nhĩ thời đương hệ niệm
tỵ đoan, linh tâm trụ tại duyên trung, vô phân tán ý” (khi ấy hãy nên chú
tâm nơi chót mũi khiến cho tâm trụ nơi cảnh được duyên, ý không bị phân tán) đủ
thấy “hệ niệm tỵ đoan” chính là “tâm trụ duyên trung” (tâm trụ vào nơi cảnh
được duyên). Nếu nói “duyên trung”
chính là cảnh thì nhất tâm hệ niệm hai cảnh, há chẳng phải là tâm và cảnh tách
rời, do đâu mà thành Định cho được? Trong dòng mười một ở phần trên, “sơ học hệ tâm duyên trung: nhược mi gian,
nhược ngạch thượng, nhược tỵ đoan” (Kẻ mới học buộc tâm nơi cảnh được duyên
như là giữa chặng mày, trên trán hoặc chót mũi). Tuy nói ba cảnh, nhưng rốt cuộc
chỉ là duyên nơi một. Vì thế, đối với mỗi cảnh đều dùng chữ Nhược.
Các
hạ bị lời xằng bậy của Đạo gia xoay chuyển, sao chẳng xét sát sao ý nghĩa kinh
văn để thấy được ý chỉ gốc? Đạo gia ăn trộm kinh Phật rất nhiều chỗ giống như vậy
đó, hãy nên bỏ qua không bàn đến [mới là đúng lý chớ]. Nếu dẫn tràn lan vào
sách nhà Phật, rồi lại chẳng phân biệt được là đúng hay sai thì chúng sẽ trở
thành tấm bùa hộ thân cho những kẻ tà kiến. Những kẻ luyện đan thường coi những
pháp như trị bệnh v.v… là lạ lùng, đặc biệt, [lấy những chuyện đó] để chứng
minh cho phép luyện đan vận khí, nhưng các hạ chẳng biết dụng ý của chúng, lại
bình luận là “giống như duyên để buộc tâm chăm chú vào một chỗ” thì những kẻ
khác đạo kia sẽ nói Phật pháp cũng là pháp luyện đan vận khí!
Ngài
Bảo Chí Công là bậc Pháp Thân đại sĩ hiện khắp mọi sắc thân, há nên đem chuyện tinh
hồn[37]
xuất thần [biến hóa trong Đạo giáo] để so sánh luận bàn? Hễ lẫn lộn chỗ này thì
Môn Cữu Cô Nương[38]
và Thuần Dương Lã Tổ sẽ bằng vai phải lứa, chẳng khác chút nào! Sách Lễ Ký
chép: “Nghĩ nhân tất ư kỳ luân” (làm
người thì phải noi theo lẽ thường). Các hạ lỡ lời, Quang chẳng thể nào vì kiêng
nể các hạ mà không nói! Trang mười chín, dòng thứ chín ghi “chủ nhất” (chú trọng vào một), giảng rất hay. Sao các hạ chẳng áp
dụng nghĩa này để giải thích ý nghĩa câu “chế
tâm nhất xứ” (chế ngự tâm vào một chỗ). Dòng mười sáu, mười bảy nói đến
chuyện “hồi quang” cũng là dấu vết của
Đạo gia, nhưng cũng là lời nói do chẳng biết bản thể mà cứ nói vậy! Dòng hai
mươi mốt luận về ý nghĩa Pháp Thân cũng chẳng phải là [những ý nghĩa] Pháp Thân
vốn có.
Trang
thứ chín, từ dòng ba mươi trở đi, Vi Chỉ Thiên của Bão Phác Tử[39]
chính là phần rút gọn của Cảm Ứng Thiên, chẳng nên gọi là bản cội nguồn của Cảm
Ứng Thiên! Theo Phật Tổ Thống Kỷ[40],
quyển năm mươi bốn, năm Quang Hòa thứ hai (179) đời Hán Linh Đế, Lão Quân[41]
giáng xuống núi Thiên Thai, đem Cảm Ứng Thiên truyền cho tiên nhân Cát Huyền[42],
đủ biết rằng Vi Chỉ là phần trích lục đại cương [của Cảm Ứng Thiên] mà thôi.
Trang
ba mươi mốt, dòng thứ mười lăm ghi: “Ấn
Quang giới luật trang nghiêm thanh tịnh, tinh thông mười hai bộ kinh”, khôn
ngăn hốt hoảng, thật chết người! Phật pháp chẳng thể coi giống như tình cảm
thông tục trong cõi đời được! Các hạ rốt cuộc đã biến Phật pháp thành tình cảm
thông tục trong cõi đời. Tuy là có ý nồng hậu, nhưng những người biết rõ mười
mươi Quang ấp ủ những thứ thấp kém như thế nào sẽ khó thể không chê các hạ nói chẳng
đúng sự thật!
Tôi
đã gởi Phật Học Toát Yếu sang tỉnh thành Sơn Tây, bảo bạn bè chia ra tặng cho
những người có tín tâm, xin vì những người ấy hết sức cám ơn. Thế đạo tình người
hiện thời đã hết thuốc chữa, trừ đạo nhân quả ba đời của đức Như Lai ra, dẫu có
Tứ Vô Ngại Biện đối trước người ta thuyết pháp cũng vẫn uổng công. Chỉ cần biết
có chuyện nhân quả báo ứng luân hồi sanh tử thì tâm người ta sẽ kinh sợ, chỉ sợ
do nhân ác sẽ chuốc lấy quả ác mà thôi, thế rồi khởi tâm, động niệm, xử sự chẳng
dám phóng túng không kiêng kỵ, mặc tình mà làm! Dẫu ở trong nhà tối vẫn như đối
trước Thượng Đế! Nếu đức Như Lai chẳng mở ra pháp nhân quả thì người đời sau sống
trong vòng trời đất muốn được chết yên lành cũng hiếm hoi lắm! Nhưng kẻ cuồng sợ
bị trói buộc, kẻ ngu sợ bị ngăn trở chuyện của chính mình; do vậy, nếu chẳng bảo
nhân quả là chấp tướng thì cũng chê là mờ mịt. Các hạ sưu tập hết những chuyện
nhân quả từ các sách vở, gom soạn thành sách, tuy đối với lẽ bổn phận tợ hồ
chưa đạt đến cùng tột, nhưng sẽ có ích lớn lao [để giúp cho] lòng người chưa chết,
thiên lý sắp sống dậy vậy! (ngày Mười Chín tháng Sáu năm Dân Quốc thứ tám - 1919).
Ông Châu Quần
Tranh ở Ôn Châu đọc Liễu Phàm Tứ Huấn cho là văn lẫn lý đều tinh vi, thiết thực,
tính bảo Thương Vụ Ấn Thư Quán sắp chữ đem in để kết duyên, sai Quang viết lời
tựa. Lại do nhằm đúng kỳ [thiện tín lên núi Phổ Đà] dâng hương, thường có người
tới đây đến nỗi chậm trễ mấy ngày, thật là thiếu sót!
67.
Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ mười chín)
Đã lâu chưa gặp gỡ,
thường nghĩ đến ông. Nay có một đệ tử ở Thiểm Tây là Vương Tôn Tổ bị bệnh phổi
đã lâu, các cách chữa trị đều vô hiệu. Nghe nói cư sĩ là chuyên gia trị bệnh phổi
bèn xin Quang giới thiệu. Những sách do Quang in ra trong năm sáu năm qua, sợ
cư sĩ không rảnh để xem; vì thế, chẳng gởi. Tôi đã từng gởi hai bộ Sơn Chí của
Phổ Đà và Thanh Lương cho ông hay chưa, nay tôi cũng không nhớ rõ! Nay bảo ông
ta đem theo cả ba bộ Sơn Chí của Nga Mi, Thanh Lương, Phổ Đà. Ngoài ra còn có
Viễn Công Văn Sao, Tang Tế Tu Tri, Niệm Phật Khẩn Từ, Tọa Hoa Chí Quả cùng gói
thành một bọc, mong hãy xem khi rảnh rỗi. Cuối cuốn Tọa Hoa Chí Quả có in thêm
Tỉnh Mê Lục, cũng rất đúng với căn bệnh phổ biến hiện thời. Cuốn này do một người
ở Tứ Xuyên biên tập, một vị cư sĩ gởi đến, do vậy bèn in kèm vào sau.
Vương Tôn Tổ là con
trai thứ tư của một người bạn tôi là Vương Ấu Nông. Trước kia, Ấu Nông làm ty
trưởng ty Dân Chánh Sự Vụ tỉnh Thiểm Tây, hiện nay làm chủ tịch Hội Cứu Tế Thiên
Tai, là người ít thấy trong chánh giới hiện thời. Người đi cùng Vương Tôn Tổ là
con thứ của ông ta, tên tự là Thứ Sam, thường sống tại Tô Châu.
68.
Thư trả lời cư sĩ Khuất Văn Lục (thư thứ nhất)
Nhận được thư đầy
đủ. Pháp hội lần này là Hộ Quốc Tức Tai; phàm là quốc dân đều nên hết lòng góp
phần. Trong khóa tụng sáng tối, Quang cũng đều cầu nguyện. Nay được Hội Trưởng
và các vị sai khiến, cố nhiên phải trọn hết lòng ngu thành của tôi. Chớ nên áp
dụng thói khắc khổ giả dối trong thời gần đây đến nỗi chẳng thành ra thể loại của
một pháp hội Hộ Quốc! Suốt cả đời Quang chẳng dự vào hội đoàn của ai, cứ hành
riêng theo chí của mình. Lúc ở Phổ Đà, thoạt đầu thường trụ mời khắp mọi người
đi dự Trai Tăng thì cũng đi. Một buổi Trai Tăng mất hết hai ba tiếng đồng hồ, cảm
thấy chán ngán quá, bèn hơn hai mươi năm không đi dự Trai Tăng!
Lần này là chuyện tận tâm cá nhân. Nếu thực hiện theo cách thỉnh pháp
sư giảng kinh thông thường thì trọn chẳng hợp lẽ! Về biện pháp đả thất thì tuy tôi
chẳng thể [đả thất] cùng đại chúng được, nhưng vẫn phải tuân thủ quy củ đả thất.
Bất luận là ai, [Quang] cũng nhất loạt không gặp! Vì nếu gặp một người, há chẳng
thể nào không mệt đến chết ư? Năm Dân Quốc thứ mười (1921), Quang đến [dự Phật
thất] tại chùa Thường Tịch Quang ở Hàng Châu, người trông coi [Phật thất ấy]
hoàn toàn không có chương trình, người ta kéo đến ào ào, trong vòng hai bữa [phải
chào hỏi] nứt họng luôn. Lần này đã có kinh nghiệm rồi, cố nhiên chẳng thể
không nói rõ trước.
Khi Quang đến [Thượng Hải] thì cắt một người làm Trà Đầu, phàm những
chuyện ăn uống đều do người ấy lo liệu, ba bữa sáng trưa tối ăn một mình trong
phòng. Trong bữa cháo sáng thì bánh mạn đầu hay cơm chỉ dùng một thứ. Bữa trưa
thì một chén rau, bốn cái mạn đầu; buổi tối thì một bát mì lớn, quấy quá cho
xong. Quang mấy chục năm ăn cơm không để sót lại thức ăn nên chỉ cần một chén thức
ăn. Ăn xong, dùng bánh mạn đầu vét sạch dầu mỡ trong bát, chớ nói là “ăn xong
phải chừa lại đôi chút!” Ngoài ra, tất cả những thứ điểm tâm lôi thôi đều nhất
loạt chẳng dùng đến. Hôm viên mãn Phật thất, cũng không dự Trai Tăng. Dẫu cử
hành lễ Trai Tăng ngay trong pháp hội, Quang cũng chẳng ngồi ăn cùng mọi người
do không có tinh thần để bồi tiếp. Hôm sau ngày viên mãn sẽ trở về đất Tô ngay,
cũng đừng nên đưa tiễn, đưa tới ngoài cửa liền dừng chân. Nếu cứ tiễn chân sẽ
trở thành thói quen của chốn thị tứ, chẳng thành ra quy củ một pháp hội Hộ Quốc
Tức Tai vậy! (ngày Mười Bảy tháng Chín năm Dân Quốc 25 - 1936).
Thêm nữa, hãy đem
lời Quang chẳng tiếp khách bảo với các vị lo việc chiêu đãi. Nếu có ai đem quà
đến biếu, đều bảo họ cầm về; nếu chẳng chịu cầm về thì sung vào quỹ của hội [Phật
giáo Trung Quốc]. Đồ ăn đã như thế mà tiền tài cũng giống như thế, bảo họ cúng
dường cho hội, đừng cúng dường cho Quang. Hơn nữa, tiền tàu xe đi về của Quang
và của người Trà Đầu đều tính sổ với Quang. Hội cũng không nên thưởng công hậu
hĩnh cho người Trà Đầu, bởi người ấy cũng vì quốc dân mà góp phần, chớ nên đối
xử nồng hậu đặc biệt, đâm ra chẳng hợp pháp thể! Quang là một ông Tăng lui tới
một mình, sợ rằng [hội Phật giáo Trung Quốc] vẫn chưa thông cảm điều đó nên mới
phải nói thêm.
69.
Thư trả lời cư sĩ Khuất Văn Lục (thư thứ hai)
Hôm trước, khi viết
thư vừa xong, đưa cho thầy Đức Sâm coi, thầy ấy nói: “Hãy nên nhờ cư sĩ đem
chuyện không tiếp khách, không nhận quà tặng dù là thức ăn hay tiền tài đăng
trên tờ Tân Thân Báo để mọi người đều biết!” Quang cho rằng làm như thế sẽ phiền
phức. Ngày hôm qua, thầy ấy cầm báo đưa cho Quang xem, thưa: “Con đã đăng báo rồi!’
Vậy là nên đem chuyện này đăng báo. Sáng nay lại nhận được thư ngày hôm qua và
ngày hôm trước, cho biết cư sĩ sẽ tự mình lái xe đến đón, chứ không để cho hội
phải bỏ tiền xăng. Được cư sĩ yêu mến nồng hậu, khôn ngăn cảm kích, hổ thẹn; nhưng
Quang một mực chẳng thích được người khác tung hô, lại cần phải đi các nơi. Chi
bằng để tôi đón xe kéo tùy theo ý thích. Nếu phải ngồi xe hơi, hóa ra chẳng
khác gì bị giam lỏng, chẳng được tự tại. Ngàn phần mong ông đừng làm mệt chính
mình để đôi bên đều được thoải mái.
Hơn nữa, Quang thuyết pháp chẳng giống với hết thảy các pháp sư
khác. Các đại pháp sư phần nhiều chú trọng đàm huyền thuyết diệu, Quang chẳng
biết nói chuyện huyền diệu, mà phần nhiều chú trọng dạy người giữ vẹn luân thường,
trọn hết bổn phận. Năm Dân Quốc mười mấy (quên mất năm nào),
Quang đến Ninh Ba, ông Hoàng Hàm Chi thỉnh đến nói khai thị tại Niệm Phật Xã ở
phía ngoài nha Đạo Doãn. Vị đại lão quan X… ngồi kiệu đến, lúc ấy Quang đã diễn
thuyết. Sau đấy, [khi Quang] nói đến chuyện giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn
phận, cha từ, con hiếu v.v… người ấy bèn lên kiệu bỏ đi. Nhưng Quang một mực giữ
chí này, chẳng vì người khác không thích nghe mà thay đổi phương châm. Huống
chi lần này là Hộ Quốc Tức Tai, chuyện niệm tụng vẫn là cành nhánh; giữ vẹn
luân thường, trọn hết bổn phận mới là căn bản. Bất luận người ta thích nghe hay
không, tôi vẫn lấy đó làm tông chỉ.
Còn chuyện quy y thì Quang không xứng, bởi Hội Trưởng hội Phật
giáo là chủ nhân, Quang là khách, những kẻ quy y kia nên quy y với Hội Trưởng.
Đấy là điều chí lý quyết định chẳng thay đổi được! Hơn nữa, mắt Quang đã lòa,
xem sách phải dùng cả kiếng lão lẫn kiếng lúp cũng chỉ thấy lờ mờ, làm sao
thăng tòa vì người khác nói Tam Quy Ngũ Giới cho được. Hơn nữa, rất đông người,
cũng chẳng ghi pháp danh được. Chắc chắn chẳng chấp nhận chuyện này để khỏi bị người
ta chê cười! Lần này đến Thượng Hải, chuyên vì Hộ Quốc, tuy chẳng thể theo đại
chúng niệm tụng, nhưng vẫn theo cùng một quy củ với đại chúng để khỏi bị phân
tâm trở thành hữu danh vô thực. Nếu dùng biện pháp tiếp đón pháp sư rềnh rang
như thường thấy thì đôi bên đều sai lầm. Do vậy, Quang phải thưa rõ trước! (ngày Hai Mươi
tháng Chín năm Dân Quốc 25 - 1936)
Những điều Quang sẽ nói đều một mực tùy tiện không theo thứ tự nhất
định. Phật sự niệm tụng lần này để hộ quốc tức tai, ngày đầu tiên sẽ nói đại lược
về ý nghĩa hộ quốc tức tai, tức là nói về công đức lợi ích của pháp môn Niệm Phật.
Ngày hôm sau lại nói đến đạo hộ quốc căn bản để mong vãn hồi thế đạo nhân tâm. Lúc
Quang mới xuất gia, tới nhà một vị cư sĩ, cả nhà ấy đều tin Phật: Mẹ chồng, con
dâu là hai người, ba bốn đứa con, mỗi người thờ một vị Phật, bàn thờ Phật là một
cái bàn dài. Cô con dâu chỉ thắp hương, cúng nước, phẩy bụi cho đức Phật của
mình, còn tượng Phật của mẹ chồng bụi bám cũng không phẩy, Quang thấy vậy mà
đau lòng! Những người như vậy do vì chưa nghe thiện tri thức dạy dỗ nên dùng
thân báng pháp. Đây là nguyên do vì sao Quang chú trọng đến chuyện giữ vẹn luân
thường, trọn hết bổn phận vậy.
Lại thấy nhiều người thâu nhận đồ đệ cho nhiều, đều chẳng phải hạng
người tu hành thật sự. Do vậy, phát nguyện chẳng thâu nhận đồ đệ. Do thấy sự
hèn hạ của tăng nhân hướng về người khác hóa duyên nên chẳng nguyện làm Trụ
Trì, làm pháp hội. Nay đã già rồi, vẫn chưa đến nỗi phụ bạc cái tâm thuở đầu,
cam lòng giữ bổn phận kiếm cơm, ngõ hầu những bạn bè đã sanh về Tây Phương từ
trên đài sen chẳng chê cười tôi!
70.
Thư trả lời cư sĩ Khuất Văn Lục (thư thứ ba)
Gởi đi bức thư đề
ngày Hai Mươi rồi, đến chiều hôm qua mới biết cụ Chi đã về Tây, khôn ngăn thảm
thương, Phật pháp mất đi một người hộ pháp ưu tú, quả là một đại bất hạnh cho
Phật giáo! Đối với bạn bè chí thân thâm giao, Quang một mực đều chẳng viết bài
phúng điếu, chỉ trong lúc hồi hướng vào khóa tụng sáng tối bèn hồi hướng cho họ
trong bảy ngày hoặc hai mươi mốt ngày hoặc ba mươi lăm ngày, hoặc nhiều ngày
hơn nữa mà thôi! Nay cũng làm như thế đối với cụ Chi. Trước đây đã nhận được
chương trình nhập hội của hội Phật giáo, do không dễ đọc nên giao cho thầy Đức
Sâm, thầy ấy nói hãy nên nhập hội. Nay nộp (tiền quỹ một trăm đồng, lúc đến sẽ mang theo),
thư tình nguyện gia nhập thì gồm hai chữ cơ bản và tên Quang là ba chữ nữa, người
giới thiệu thì xin pháp sư Viên Anh và cư sĩ tự điền vào. Còn những điều được
nêu trong mặt sau thư thì do người đã bảy mươi sáu tuổi sắp chết trong sáng chiều
có lẽ chẳng cần phải dông dài!
Cư sĩ gởi thư nói sẽ đến đón thì vào ngày Mười Tám đến chùa Thái
Bình là được rồi. Ngày mồng Sáu, mồng Bảy quyết chẳng được. Vì sao vậy? Do ai
có chí nấy, tỏ lòng kính trọng mà trái ý người ta, sao có chuyện đó được? Nếu
không, Quang trở về đất Tô ngay, quyết chẳng đến Tịnh Nghiệp Xã. Quang rất chán
chuyện này, há chịu vì hộ quốc tức tai mà lại phải nín nhịn sự tâng bốc quá mức
của cư sĩ ư? Đã coi Quang là người ngoài thì Quang sẽ tự xử sự như người ngoài,
trở về đất Tô vào quan phòng tự niệm tụng một mình. Phàm mọi chuyện đều nên thông
cảm cho lòng người ta, người thích được tâng bốc [bèn tiếp đón trọng thể] thì
được, người không thích được tâng bốc sẽ cảm thấy xấu hổ không yên, cần gì phải
khổ sở vì ý tốt mà khiến cho người khác hổ thẹn không yên vậy?
Còn đối với chuyện sau hôm viên mãn [pháp hội] sẽ nói Tam Quy Ngũ
Giới, nếu chiếu theo cách Quang thường truyền giới thì thật chẳng có nghi thức
nào đáng coi được cả. Nếu muốn phô trương bày vẽ thăng tòa thì Quang quyết chẳng
thể làm được vì mắt chẳng đọc được chữ. Nếu cứ phải “không thăng tòa là không
được” thì hãy mời người khác nói thay, Quang chẳng đến đàn truyền giới! Đối với
chuyện pháp danh, Quang cũng chẳng thể viết. Bất luận bao nhiêu người, bất luận
bao nhiêu tiền hương kính, Quang chẳng lấy một đồng. Ngoài tiền biếu cho vị sư
nói thay và các sư trực ban ra, đều dùng làm chi phí cho hội Phật giáo hết. Biện
pháp như thế có lẽ thích đáng cho khắp mọi người. Nếu đối đãi với Quang như một
vị pháp sư giảng kinh thông thường sẽ đánh mất thể tài của hai chữ Hộ Quốc, mà
lại còn coi rẻ Quang. Vì sao vậy? [Người ta sẽ tưởng Quang] đặc biệt vì chuyện
hộ quốc để thủ lợi! Quang tuy thiếu sáng suốt, chẳng mong trong những ngày sắp
chết lại nhận được tiền bạc từ pháp hội Hộ Quốc này! (ngày Hai Mươi
Ba tháng Chín).
71.
Thư trả lời cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh
Lễ sám không có
quy củ cứng ngắc, chỉ dốc lòng chí thành khẩn thiết là được rồi! Thờ Phật trong
phòng ngủ trừ trường hợp nghèo không có phòng nào khác thì được. Nếu có phòng
khác, trọn chẳng nên thờ trong phòng ngủ. Công khóa tùy theo ý của mỗi người,
cũng không có chương trình nhất định. Quang thì khóa sáng ắt phải cứ chiếu theo
Khóa Tụng Sáng Tối mà niệm thẳng đuột. Phàm những chỗ phải lên giọng xướng tán
cũng niệm thẳng đuột, chỉ [đọc] hơi chậm lại một chút mà thôi. Quang trọn chưa
học cách xướng niệm, nhưng ở trong tùng lâm hãy nên niệm nhỏ tiếng đừng để bên
ngoài nghe tiếng đến nỗi làm kinh động người khác.
Lúc đầu thì mỗi ngày lễ mấy trăm lạy, mấy năm gần đây nhiều việc
quá, chỉ hai thời công khóa. Mùa Đông thì mỗi ngày lễ hơn trăm lạy, mùa Hạ chỉ
mấy chục lạy, mà cũng chỉ lễ Thích Ca, Di Đà, Tịnh Độ Tam Kinh và các kinh Đại
Thừa, Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh Hải Chúng, tận hư không trọn pháp giới quá
khứ, hiện tại, vị lai hết thảy chư Phật, hết thảy tôn pháp, hết thảy hiền thánh
tăng (lễ
Phật Di Đà nhiều ít không nhất định, dựa theo tinh thần và hoàn cảnh mà tăng
hay giảm, đối với mỗi vị khác đều lễ ba lạy). Mấy lúc gần đây
ban ngày trọn chẳng thể xem kinh, lễ Phật, tất cả thư từ và những chuyện nhờ cậy
giảo chứng, giảo đối đều đã không rảnh để làm.
Hiện thời, phu nhân đã có thể ăn chay trường suốt năm tháng, sao
không ăn luôn một năm? Vì sát nghiệp gây trở ngại lớn nhất cho sự vãng sanh! Nếu
chẳng vãng sanh ngay, lại càng phải nên không ăn thịt để khỏi phải đền nợ thân
mạng trong vị lai. Niệm Phật ăn chay vãng sanh Tây Phương là chuyện công đức bậc
nhất trong thế gian. Nỡ để cho vợ cơn chẳng quyết định được hưởng lợi ích này
hay sao? Đối với công nhân, nếu muốn làm cho họ gieo thiện căn, chẳng ngại gì
nói rõ đầu đuôi với họ, dùng chi phí mua đồ ăn mặn để làm tiền thưởng thì do họ
làm được nhiều tiền hơn sẽ trọn chẳng đến nỗi thốt lời dèm pha!
Mùa Hạ năm nay các nơi lụt lội, dân đói rất đông, hãy nên răn nhắc
người nhà sốt sắng niệm Phật để ngừa tai họa ngoài ý muốn. Nếu ai chẳng chịu được
nhọc nhằn, hãy nghĩ đến nỗi khổ của dân đói và nỗi khổ của nhà giàu bị cướp đoạt
thì sẽ tự chịu đựng được sự khổ sở vì niệm Phật. Chuyện này vốn đâu có khổ, do
một mực không quen, nên thấy là khổ. Nhưng cái khổ này là sự khổ để thoát khổ,
nếu chẳng chịu nỗi khổ này thì nỗi khổ trong tương lai sẽ chẳng thể nói trọn hết
được! (năm Ất Sửu - 1925).
72.
Thư trả lời cư sĩ Tiêu Dịch Đường
Mồng Một nhận được
thư, khôn ngăn vui mừng, an ủi. Ông đã dùng gan ruột Bồ Tát để thực hiện sự
nghiệp hộ pháp thì nay đang gặp đúng dịp. Dân Quốc mở mang nền Cộng Hòa, tự do
tôn giáo, dùng chủ nghĩa Tam Dân để hiệu triệu lẫn nhau, nay đã được mười tám
năm rồi, nhưng đối với Tăng nhân lại vô cùng ngược đãi, ý muốn đuổi Tăng đoạt của,
ngõ hầu cả nước trọn chẳng còn một Tăng sĩ nào thì mới thỏa dạ! Lại sợ dư luận
gây trở ngại nên mượn tiếng quản lý để làm căn cứ xua đuổi, chiếm đoạt. Lập ra
hai mươi mốt điều thì như trong điều thứ tư, điều thứ năm, điều thứ chín, tuy mạo
danh quản lý, bảo hộ, há chẳng khiến cho bậc tri thức đau lòng, kẻ ôm dã tâm khoan
khoái ư? Lập pháp kiểu đó há còn đáng gọi là tự do tôn giáo nữa hay chăng? Còn
có thực tế dân sinh, dân quyền, dân tộc nữa ư? Có còn đúng với chánh lệnh lập
quốc của nước Cộng Hòa nữa hay không? Chủ nghĩa như thế chính là thực hành đẩy
dân đến chỗ chết, đoạt dân quyền, diệt dân tộc vậy!
Nếu nói: Điều này chỉ có Tăng giới bị ảnh hưởng, chứ không phải
dân chúng trong cả nước bị như vậy thì thử hỏi: Tăng chẳng phải là người dân
trong nước hay sao? Nếu áp dụng những thứ pháp lệnh ấy cho dân cả nước thì còn
chấp nhận được, nay chỉ áp dụng riêng cho Tăng. Chẳng phải là do Tăng chúng yếu
ớt không có sức bèn dùng thủ đoạn lấn áp, cậy mạnh hiếp yếu, lấy đa số chèn ép
thiểu số hay chăng? Nhật Bản là nước bé tẹo tèo teo mà xưng hùng toàn cầu, vẫn
chẳng coi Phật pháp là ung nhọt. Nước ta từ sau đời Hán đến nay, Phật pháp truyền
sang khắp các nước Đông, Tây, Nam, Bắc. Nay muốn cho nước nhà thống nhất, nhân
dân yên vui, mà lại coi Phật pháp vốn là pháp “về mặt ngầm thì giúp giữ yên nền
bình trị, về mặt hiển nhiên là giữ yên dân tình” giống như ung nhọt, muốn trừ
khử đi; có khác nào muốn cho cây cỏ xum xuê mà lại đẵn gốc trước? Muốn cho [nước]
chảy được xa mà lại lấp nguồn trước? Phật pháp ích lợi cho cõi đời trên phương
diện tinh thần, kẻ phàm phu chẳng thể thấy được, giống như rễ cây, như đầu nguồn
nước. Những kẻ tri kiến thiển cận trong cõi đời chỉ phê bình, bàn luận về sự
lan truyền tạo lợi ích rộng khắp nơi thân, cành, nhánh, lá; chứ đối với điều
khiến cho thân, cành, nhánh, lá được lan truyền tạo lợi ích rộng khắp lại chẳng
hề biết! Há chẳng đáng gọi là “xoay càng xe về phía Bắc để đi tới nước Việt [ở
phương Nam]”, bước giật lùi mà mong tiến lên trước ư?
Ngày Hai Mươi Chín tháng trước, các vị Tăng - tục thuộc hội Phật
giáo Thượng Hải lên Bắc Kinh thỉnh nguyện. Ngày hôm qua, tôi nhận được thư gởi
đến mời các ủy viên Tăng - tục trong hội [Phật giáo Trung Quốc] cùng đến họp. Quang
vốn là ông Tăng già đợi chết, không có môn đình, không có đồ chúng, không có bản
lãnh gì, hội ấy do thấy Quang có chút hư danh nên cũng kể tên Quang làm hội
viên. Nhưng thân Quang đây đã gác ra ngoài rồi; nếu Dân Quốc rộng dung thì chẳng
ngại gì trọn hết tuổi thừa. Nếu chẳng dung nạp thì chẳng ngại gì kết bạn với Hà
Bá, Hải Nhược[43],
miễn sao khỏi gây trở ngại cho địa giới của Dân Quốc, đâu cần phải thỉnh nguyện
xin bao dung để mong sống mãi trong cõi đời ư?
Chỉ vì Phật pháp là tròng mắt của người, trời. Đang trong lúc tàn
sát lẫn nhau đến mức chẳng dứt này, muốn hưng khởi điều lợi, trừ bỏ thói tệ, mà
trước hết lại theo đuổi chuyện diệt pháp thì sợ rằng sẽ dẫm theo vết xe đổ của
Ngụy Vũ, Châu Vũ, Đường Vũ[44],
nào phải chỉ tự mình chuốc lấy quả báo mà còn để lại tiếng nhơ cho người đời
sau chê cười, gây tổn hại vô ích cho nước, cho dân. Do vậy, chẳng nề hà kỵ húy,
trình bày thẳng thừng điều lợi, lẽ hại, mong cư sĩ phát lòng vì nước vì dân cực
lực duy trì, ngõ hầu những điều lệnh đã được ban hành trước đây chẳng trở thành
sự thật thì quyền tự do tôn giáo trong nền Cộng Hòa, lời hiệu triệu chủ nghĩa
Tam Dân mới hữu ích lớn lao cho nước, cho dân, chứ nào phải chỉ Tăng chúng được
hưởng phước lợi mà thôi! (mồng Ba tháng Năm)
Hiện thời những kẻ
nói đến chuyện nam nữ bình quyền, phần nhiều đều chẳng biết quyền của nữ nhân lớn
lao hơn quyền của nam tử khó thể diễn tả, thí dụ được! Thế đạo loạn lạc cũng do
nữ quyền chẳng được chấn hưng mà ra! Muốn giữ yên thế đạo, phải gấp làm sao cho
nữ giới chẳng cô phụ thiên chức, ai nấy nghiêm túc giữ lấy quyền ấy. Quang thường
nói: “Quyền trị quốc bình thiên hạ, hàng
nữ nhân chiếm quá nửa”. Vì họ trọn hết đạo làm vợ, giúp chồng dạy con thì đối
với gia đình, đối với đất nước sẽ có lợi ích mà chẳng hay chẳng biết. Xin hãy đọc
kỹ mấy chương khuyên dạy tại gia thiện tín trong Gia Ngôn Lục sẽ biết rõ. Tìm
cách bình trị [nào khác] ngoài cách này ra thì do thấy biết kém cỏi, Quang chẳng
thể nào biết được!
73.
Thư trả lời cư sĩ Phan Đối Phù (thư thứ nhất)
Hôm qua nhận được
thư của thầy Minh Đạo chùa Thái Bình, biết các hạ lại gởi bốn mươi đồng, kính cẩn
giữ lấy, để đợi đến năm sau dùng làm chi phí in sách. Mười gói Gia Ngôn Lục đã
bảo Đại Trung Thư Cục gởi đi, chắc không lâu nữa ông sẽ nhận được. Ông cũng sẽ
nhận được sách Khuê Phạm. Trong mùa Hạ, hòa thượng Diệu Liên tuân lệnh các hạ,
đem bài bi ký về chuyện thỉnh Đại Tạng Kinh sai Quang gọt giũa. Quang do bận việc,
trả lời trước bằng một lá thư, đợi sau khi về núi sẽ lại bàn tiếp. Tới mồng Hai
tháng Chạp về đến núi, phàm những thứ dồn lại đều gởi đi bằng thư bảo đảm vào
ngày Mười Chín. Chữ nghĩa dùng trong nguyên văn [bài bi ký] rất hay, tiếc là
nói dông dài quá nhiều, chưa chỉ ra được nguyên do của Phật pháp. Tôi vốn muốn
sửa đổi đại lược, nào ngờ Quang học thức chẳng đạt đến mức hay khéo vuông tròn
thuận theo ý muốn, [sửa chữa] xong, bài bi ký ấy biến thành một bài khác! [Theo
Quang nghĩ], dùng khẩu khí của ngài Diệu Liên, coi Diệu Liên như là chủ nhân
ngôi chùa và những lời lẽ đề cao dư thừa trong bi ký, chẳng bằng lưu lại sự thật
cho đời sau. Có lẽ biện pháp như vậy là đắc thể, đã trình lên các hạ giám định.
Nếu có chỗ nào sai sót, thiếu thỏa đáng, [các hạ cứ] sửa đổi đừng ngại gì cả!
Quang là người trọn chẳng có ngã tướng, điều chẳng muốn nghe là tâng
bốc quá lố; ngoài ra chẳng chấp trước một chuyện gì. Chắc là các hạ đã biết đại
lược điều này từ lâu rồi! Năm nay in sách nhiều nhất, đã hơn hai vạn đồng. Nửa
đầu năm sau còn có rất nhiều sách sẽ in, sau Thu sẽ đi khắp Nam Bắc Đông Tây
không có chỗ nhất định để khỏi phải thù tiếp thư từ, chỉ bận bận bịu vì kẻ khác,
hỏng cả đại sự của chính mình. Các hạ già rồi, thế đạo như thế này, hãy nên
dùng cảnh duyên này để tự răn nhắc, ngõ hầu cái tâm cầu sanh Tây Phương về mặt
sự được mười phần châu đáo, tha thiết. Lại xin hãy dạy bảo con cái và cả nhà,
thường nói đến lợi ích do trợ niệm khi lâm chung và họa hại của việc tắm rửa,
thay quần áo sẵn, khóc lóc… khiến cho bọn họ hiểu rõ lợi - hại, trọn chẳng đến
nỗi vì thể hiện lòng hiếu mà trở thành chuyện “đã té xuống giếng còn bị quăng
đá!”
Năm nay Quang sáu mươi bảy tuổi, tinh lực đã suy; nếu vẫn chẳng biết
lượng sức, nhất định sẽ làm nhục đến pháp môn. Hiện thời những Chỉ Bản[45]
của các bộ Văn Sao v.v… đều đã được hoàn thành tốt đẹp rồi; có ai muốn in thì cứ
tiếp xúc Đại Trung Thư Cục sẽ được như nguyện. Văn Sao lại được chế ra bốn bức
Chỉ Bản, An Sĩ Toàn Thư, [Thọ Khang] Bảo Giám mỗi cuốn đều có hai bản, Gia Ngôn
Lục, Di Đà Kinh Bạch Thoại Chú, Cảm Ứng Thiên Trực Giảng, đều được làm thành bốn
bản. Quán Âm Tụng lại được làm thành hai bản. Ngoài ra còn có Giới Sát Phóng
Sanh Hiện Báo Lục, Học Phật Thiển Thuyết v.v… những cuốn sách nhỏ lặt vặt đều
đã giữ lại bản in. Do vậy, mùa Thu năm sau có thể đi luôn, chẳng cần biết là ở
nơi nào để lo tu trì. Chúng ta trải đời bất quá sáu mươi mấy năm, mà nay [trong
cõi đời lại có] bao nhiêu hiện tượng kể từ khi có mặt con người trong trời đất
đến nay, phần nhiều đều chưa hề thấy, đời loạn đến cùng cực rồi! Nếu chẳng cực
lực đề xướng nhân quả báo ứng và giáo dục gia đình thì chẳng thể nào hy vọng
thái bình được nữa! (ngày Hai Mươi Hai).
74.
Thư trả lời cư sĩ Phan Đối Phù (thư thứ hai)
Năm ngoái cư sĩ
X… mất, trước đấy ông ta đã phát đại tâm sai lầm, muốn ở trong thế gian này độ
người [chứ không cầu vãng sanh]. Năm Dân Quốc thứ chín (1920) lên núi bị Quang
quở trách, dường như đã xoay chuyển ý niệm. Sau này, con ông ta gởi cáo phó đến
nói ông ta ngủ suốt ba ngày, chẳng ăn, chẳng nói gì rồi qua đời. Xem tình trạng
đó, đúng là tướng trạng chưa được vãng sanh. Do vậy, muốn cầu vãng sanh phải
buông thế gian này xuống và buông vọng tâm quá phận xuống (chẳng hạn như
[muốn] được giống như Bồ Tát ở trong sanh tử độ thoát chúng sanh. Điều này thì
chính mình phải là Bồ Tát mới được. Nếu chính mình vẫn là phàm phu mà muốn gánh
vác chuyện này thì chẳng những không thể độ người, mà còn chẳng thể tự độ. Bao
nhiêu thiện tri thức trong thế gian đều mắc phải bệnh này, mà vẫn nói là mình
có đại Bồ Đề tâm. Cần biết rằng [đã có] tâm ấy trước hết phải cầu vãng sanh thì
mới hữu ích. Nếu sẵn tâm này mà chẳng cầu vãng sanh thì phải là bậc Bồ Tát mới
được. Nếu không, sẽ bị hại chẳng cạn!) Tâm cuồng vọng quá phận
là chướng ngại lớn nhất cho người tu hành thật sự, chẳng thể không biết [điều
này]!
Hơn nữa, cư sĩ X… là người quá hiếu danh, vì thế những sách do ông
ta soạn ra đều phỏng theo giọng điệu kinh Phật, [mắc] lỗi đem phàm lạm thánh thật
chẳng nông cạn. Vì thế, dốc công hoằng pháp mà chẳng được lợi ích thật sự! Thân
thế trăm năm, chớp mắt liền qua đời, chỉ mong chuyên tâm dốc chí nơi niệm Phật
cầu vãng sanh. Vị cư sĩ X… ấy chính là một tấm gương răn nhắc lớn lao vậy!
75.
Thư trả lời cư sĩ Phan Đối Phù (thư thứ ba)
Nhận được thư
khôn ngăn cảm thán. Các hạ dùng đức dầy đối xử rất hậu với người khác, nên bọn tàn
binh[46]
thổ phỉ cũng bảo nhau đừng khuấy nhiễu. Nếu không có chuyện thật sự khiến cho người
khác cảm động thì làm sao đạt được như thế? Đối với người dân, cái ăn quan trọng
nhất, rộng rãi với dân ắt trời ban phước cho. Bọn tàn binh thổ phỉ ấy nào có
tâm đạo nghĩa, nhưng do thiên địa, quỷ thần gia bị, khiến cho chúng nó giữ đạo
nghĩa. Từng thấy trong bản chú giải Âm Chất Văn có ghi một câu chuyện chứng
minh hơi giống như chuyện cả các hạ, nay sao lại để trình lên cho ông xem.
Năm Tân Tỵ (1761) đời Càn Long, vỡ đê Hoàng Hà ở tỉnh Dự (Hà Nam),
khắp mặt đất nước sâu hơn một trượng, lều tranh của dân gian bị nhận chìm mất nửa.
Ở huyện Trần Lưu có người họ Tào, căn nhà đang ở bị lũ nhấn chìm đã ba ngày đêm
rồi, [ai nấy] đều nói là không còn lẽ sống nào nữa! Đến khi nước rút, tường nhà
vẫn chưa sụp đổ, mà người trong nhà cũng an nhiên vô sự! Mọi người hỏi thì cho
biết: “Sáng ra chỉ thấy sương mù dày kịt, chẳng thấy mặt trời. Thoạt đầu chẳng
biết là đang ở trong nước”. Quan địa phương thấy lạ, hỏi người ấy có làm điều
lành nào hay chăng, ông ta cho biết mỗi năm gặt hái xong, ngoài phần chừa lại để
đủ chi dùng cho cơm áo ra, còn bao nhiêu đều dùng hết để giúp đỡ những người
nghèo thiếu lối xóm, cho đến nay chưa hề thiếu sót một chút nào. Đã thực hiện
được như vậy năm đời, hơn một trăm năm! Quan Hiến Ty[47]
đều ban cho biển ngạch để khen ngợi chuyện lạ.
Nước vốn vô tình mà quỷ thần che chở, tuy toàn thể bị ngập trong
nước, nhưng chẳng thấy nước. Do vậy biết rằng con người có thật đức thì trời sẽ
báo đáp lạ lùng. Những kẻ bóc lột mỡ màng của trăm họ để cầu mong con cháu phú
quý, rốt cuộc đều thành gia đình tan nát, dòng dõi tuyệt diệt, thần thức còn bị
vĩnh viễn đọa trong ác đạo chẳng có thuở thoát ra, đáng thương vậy thay! Do vậy,
muốn cứu người đời mà nếu chẳng cực lực đề xướng nhân quả báo ứng sẽ trọn chẳng
thể đạt được hiệu quả thật sự.
76. Thư trả
lời cư sĩ Trần Gia Tuấn ở Châu Bồ
Con người sống
trong thế gian họa - phước dựa dẫm lẫn nhau, chỉ do bản thân người ấy dụng tâm
như thế nào mà thôi! Kẻ khéo dụng tâm thì khốn khổ gian nan đều thành cái gốc để
giải thoát. Kẻ chẳng khéo dụng tâm thì phú quý vinh hoa đều thành cái nhân đọa
lạc. Mẹ ông thủ tiết nuôi con côi, chịu khổ nhiều năm, quả thật là nền tảng để
tu trì Tịnh nghiệp cầu sanh Tây Phương cho ngày nay. Nay mẹ con đã cùng quy y;
hãy nên làm cho quyến thuộc trong nhà đều cùng ăn chay niệm Phật. Một là để ngừa
khi mẹ ông vãng sanh, bọn họ sẽ chẳng đến nỗi do không luyện tập mà chẳng thể
niệm Phật tương trợ, thậm chí dời động thân thể, thay quần áo sẵn, khóc lóc,
phá hoại chánh niệm. Một điều khác nữa là do thời cuộc nguy hiểm, [nếu] hằng
ngày thường niệm Phật và niệm Quán Âm thì sẽ có thể gặp dữ hóa lành, gặp xui
thành hên.
Nay
đặt pháp danh cho mẹ ông là Đức Ý, nghĩa là có thể nhất tâm niệm Phật cầu sanh
Tây Phương để nêu gương mẫu cho con cháu, xóm làng, đức hạnh ấy tốt đẹp cao trỗi
nhất. Đặt pháp danh cho ông là Huệ Tuấn, nghĩa là có thể tu trì Tịnh nghiệp, tự lợi, lợi
tha, trí huệ vượt trỗi những kẻ tầm thường, vì thế gọi là Huệ Tuấn. Nay gởi cho
ông Tịnh Độ Ngũ Kinh, Thập Yếu, Thánh Hiền Lục, Văn Sao, Gia Ngôn Lục, Sức
Chung Tân Lương (đọc
sách này thì khi lâm chung không làm hỏng việc), Liễu Phàm Tứ Huấn, An Sĩ
Toàn Thư v.v… xếp thành hai gói. Mong hãy đọc kỹ, hành theo. Ắt phải nên cung
kính, đừng nên khinh nhờn thì sẽ được lợi ích chân thật. Những điều khác không
cần phải nói nhiều. Quang già rồi, mục lực lẫn tinh thần đều không đủ. Từ rày đừng
gởi thư tới nữa, cũng đừng giới thiệu người khác quy y do không có tinh thần để
thù tiếp vậy (Ngày
Mười Ba tháng Tư).
77. Thư trả
lời cư sĩ Khuất Hàn Nam
Thư nhận được đủ
cả. Bài Du Thạch Quật Động Ký rất có khí khái: “Tâm dung diệu lý, hư không bé; đạo hợp Chân Như, pháp giới to”.
Nhưng đấy là chuyện thuộc phương diện văn tự, chớ nên chuyên học theo thói ấy.
Hãy nên như mẹ nhớ con, lấy niệm Phật cầu sanh Tây Phương để mong thực chứng.
Lúc này mà chuyên chú trọng chuyện ấy (tức chuyện viết lách văn chương cho hay
đẹp) thì vô ích cho chính mình, có hại cho người khác. Vì sao vậy? Do quá nửa đều
là học để nói xuông cho trơn tru, hoạt bát, chẳng chú trọng chân tu thật chứng.
Người đời nay nếu chẳng “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” thì trọn chẳng
có hy vọng thực chứng nào!
Trong
bộ Văn Sao Tục Biên có thư gởi cho hòa thượng Quảng Huệ thuộc thảo am Quảng Tế ở
Ngũ Đài Sơn vào ngày Nguyên Đán tháng Giêng, khoảng chừng năm ngàn chữ, đấy là
lời khuyên thiết thực chưa hề có từ trước đến nay. Trong khoảng tháng Chín, tháng Mười sẽ gởi sang ngõ Tích Thiện
Phường để họ chuyển giao. Vợ chồng ông muốn quy y, nay tôi đặt pháp danh cho mỗi
người. Ông còn nói cha ông cũng muốn quy y, nay cũng đặt pháp danh cho cụ, còn
tên thật [của cụ] ông hãy tự điền vào. Người ngoài bảy mươi tuổi rồi, tháng
ngày chẳng còn mấy, hãy buông hết thảy xuống, nhất tâm niệm Phật thì chắc chắn
sẽ thoát khỏi cõi Ngũ Trược này, lên cõi chín phẩm sen kia. Nếu vẫn còn tâm niệm
[mong tưởng] đời sau, đời sau nữa, thì khó thể quyết định vãng sanh được! Mong
hãy nói cặn kẽ với cụ. Những điều khác đã được nói tường tận trong Văn Sao, ở
đây không viết chi tiết nữa! Tôi gởi kèm [cho ông] bài sớ cầu con và ba điều trọng
yếu để cầu con; đây quả thật là những điều ai nấy đều phải nên xem, đừng vì
không cầu con rồi bỏ mặc. Mong hãy sáng suốt soi xét thì may mắn lắm thay! (Mười sáu đồng hương kính đã
nhận được liền dùng làm chi phí để ấn tống Văn Sao Tục Biên) (ngày Rằm tháng
Tám năm Canh Thìn, tức năm Dân Quốc 29 - 1940)
Ấn Quang pháp sư Văn Sao Tam Biên
Quyển 1
Phần 3 hết
[1] Đề Hồ (Manda) là một món ăn ngon được tinh luyện từ sữa,
là vị tinh thuần nhất trong năm thứ vị ngon được chế biến từ sữa (tức sữa, lạc,
sanh tô, thục tô, đề hồ). Do món này ngon nhất nên trong kinh thường dùng để ví
với Niết Bàn, Phật Tánh v.v…. Theo suy luận thông thường, có lẽ Đề Hồ tương ứng
với phó-mát (cheese) hiện thời. Ở Trung Hoa còn có một món ăn cũng được gọi là
Đề Hồ chế biến bằng cách đun nóng sữa tươi riu riu cho đến khi chất kem và chất
béo trong sữa đọng thành váng trên mặt. Hớt lấy váng đó cùng chất dầu trong sữa
đựng trong chén để nguội gọi là Đề Hồ. Xưa kia, món này được coi là một món ăn
quý, chỉ có giai cấp quyền quý mới được ăn.
[2] Tỳ Sương là oxide Thạch Tín (Arsenic) rất độc, còn gọi
là Nhân Ngôn, ăn vào người bị trúng độc hộc máu, giẫy dụa, co quắp rất đau đớn
trước khi chết. Do chất này không có mùi vị, nên người bị hãm hại khó thể nhận
biết được.
[3] Cuốn này có tên đầy đủ là Đại Tạng Tập Yếu Mục Lục được
Kim Lăng Khắc Kinh Xứ ấn hành vào năm 1866, nội dung giới thiệu danh mục những
tác phẩm trọng yếu trong Tam Tạng kinh Hán truyền. Đồng thời, đối với mỗi tác
phẩm giới thiệu những nội dung tư tưởng chánh yếu của bộ kinh sách ấy.
[4] Huệ Mạng Kinh là một cuốn kinh của Đạo Giáo chuyên xuyên tạc những câu kinh Phật để chứng tỏ pháp luyện đan, tu tiên do Liễu Hoa Dương soạn ra vào cuối đời Minh. Họ Liễu thuở nhỏ đã từng vào chùa tu, nên thường tự xưng là Liễu Hoa Dương Thiền Sư. Về sau, gặp được đạo sĩ Ngũ Xung Hư bèn “hoát nhiên khai ngộ”, từ đó tận lực hoằng dương cái gọi là Tiên Phật Hiệp Tông, tức là xuyên tạc, cắt xén kinh văn Phật giáo để chứng minh phép tu tiên.
[5] Tưởng Hầu chính là Tưởng Tử Văn, làm Huyện Úy xứ Mạt
Lăng (nay là Nam Kinh) thời Đông Hán, đánh giặc bị tử thương, nhiều lượt hiển
linh nên Tôn Quyền nhà Đông Ngô lập miếu thờ, phong tặng tước hiệu Trung Đô Hầu,
sắc phong làm sơn thần của Chung Sơn, đổi tên Chung Sơn thành Tưởng Sơn.
[6] Phu nhân ở đây là Ma Gia phu nhân, mẹ đức Phật. Vườn Tỳ Lam tức là vườn Lam Tỳ Ni (Lumbini). Vô Ưu (Aśoka được phiên là A Thúc Ca, hoặc Kimśuka – Chân Thúc Ca, Khẩn Chúc Ca, Kiên Chúc Ca), còn được dịch là Xích Sắc, Nhục Sắc Hoa, được coi là một loài cây thánh ở Ấn Độ. Có tên khoa học là Butea Frondosa, thường chỉ mọc ở bán đảo Ấn Độ cho đến Tích Lan. Cây cao đến hai ba mét, lá và hoa đều to. Lá thường được dùng để chế thuốc nhuộm, hạt cây ép ra dầu có tính sát trùng, hoa màu đỏ, trông từa tựa như hình bàn tay người.
[7] Theo từ điển Từ Hải, Quỷ Phương là tên một dân tộc thời cổ, thuộc thị tộc Quý Phương. Vào thời nhà Ân, nhóm dân này sống ở Thiểm Tây và phía Bắc tỉnh Sơn Tây, là cường địch của nhà Ân Thương lẫn nhà Châu. Cao Tông chính là vua Vũ Đinh nhà Ân đã đánh nhau với tộc người này dai dẳng suốt ba năm. Do dân Quỷ Phương sống ở phía Tây Trung Hoa nên chữ Quỷ Phương thường để chỉ chung các dân tộc sống ở phía Tây Trung Hoa.
[8] Rải rác trong Văn Sao, nhất là trong những lá thư gởi
cho Đinh Phước Bảo, Tổ thường chê ông Lương Khải Siêu học Phật chưa đến nơi đến
chốn, chỉ viện dẫn ý kiến của một hai tác giả Nhật Bản, chứ không đích thân
nghiên cứu kinh điển tường tận, nên thường nêu ra nhận xét hết sức võ đoán, hồ
đồ về Phật pháp.
[9] Gọi là Kim Cang Hộ Pháp (Vajrapani) vì các vị hộ pháp
này thường cầm chày kim cang (kim cang xử) hiện tướng mạo phẫn nộ, nhằm thể hiện
ý đối trị phiền não, biến phiền não thành giác ngộ, đập tan chướng ngại. Còn chữ
Kim Cang (Vajra) trong tựa đề kinh Kim Cang là mượn chất kim cang cứng chắc,
phá hoại được mọi thứ, không gì phá hoại được để thí dụ Phật Tánh thường hằng bất
biến có diệu dụng không thể nghĩ bàn.
[10] Lương Cung Thần (1814-?) là một văn học gia nổi tiếng
dưới đời Thanh quê ở Phước Châu, tỉnh Phước Kiến, là con trai thứ ba của đại
văn học gia Lương Chương Củ. Trước tác nổi tiếng nhất là Bắc Đông Đường Bút Ký,
được đánh giá chẳng hề thua kém tác phẩm Doanh Quan Tùng Thoại Toàn Biên của
cha. Ông Đàm Khê cũng là một văn nhân nổi tiếng vào đời Càn Long - Gia Khánh,
thường xướng họa mật thiết với Kỷ Hiểu Lam, Vương Lan Tuyền v.v…
[11] Hồ Bảo Tuyền (1694-1763) là một danh sĩ đời Thanh, vốn có tên lúc bé là Kim Lan, tự là Thái Thư, người Thanh Phố, phủ Tùng Giang, tỉnh Giang Tô, đỗ Tiến Sĩ dưới thời Ung Chánh, từng đảm nhiệm chức vụ Tuần Phủ nhiều tỉnh, cuối cùng được thăng lên Binh Bộ Thượng Thư kiêm Thái Tử Thiếu Phó, Thái Tử Thái Bảo dưới thời Càn Long. Trước tác còn để lại bộ Thi Văn Tập gồm 20 quyển. Ông được coi là người chánh trực, khiêm cung, cẩn trọng, nên rất được các đồng liêu và hoàng đế kính trọng.
[12] Theo Pháp Bảo Đàn Kinh, khi phải trốn tránh do bị môn
nhân của ngài Thần Tú truy bức nhằm đoạt lại y bát, tổ Huệ Năng đã phải sống nhờ
đám thợ săn. Đến mỗi bữa ăn, Ngài chỉ gắp ăn những lá rau bên cạnh thịt.
[13] Câu nói này dựa theo câu tục ngữ: “Thanh xuất ư lam, nhi thắng ư lam” (màu
xanh dương phát xuất từ màu chàm, mà trỗi hơn màu chàm).
[14] Tự Vị (Tự Vựng) là bộ tự điển do Mai Ưng Tộ soạn vào đời Minh, gồm 14 quyển, có đến 33.179 từ ngữ, được hoàn tất vào năm Vạn Lịch 43 (1615). Bộ sách này được dùng làm tài liệu tham khảo chính để soạn Khang Hy Tự Điển về sau này.
Tự Điển được nói đến ở đây gồm hai bộ tự điển: Khang Hy Tự Điển và Trung Hoa Đại Tự Điển. Khang Hy Tự Điển được hoàn thành vào năm Khang Hy 55 (1716) do Văn Hoa Điện Đại Học Sĩ Trương Ngọc Thư và Văn Uyên Các Đại Học Sĩ Trần Đình Kính chủ biên. Bộ tự điển này là công sức suốt sáu năm trời của hai mươi tám vị danh sĩ như Sử Quỳ, Vạn Kinh, Lưu Nghiễm, Vương Vân Cẩm v.v… cùng biên soạn. Khang Hy Tự Điển có đến 47.035 chữ, chia theo 214 bộ thủ, phiên thiết cách đọc khá hợp lý, đồng thời dẫn chứng chi tiết cách dùng các từ ngữ trong thư tịch cổ nên cho đến nay vẫn được coi là tài liệu tham khảo hữu ích nhất về chữ Hán thời cổ. Bộ Trung Hoa Đại Tự Điển được soạn vào năm 1915, với mục đích sửa chữa những sai lầm trong Khang Hy Tự Điển, đồng thời bổ sung những danh từ mới, nhất là các thuật ngữ khoa học, đồng thời chú trọng sửa đổi cho cách phiên âm và giải thích từ ngữ đơn giản, chính xác hơn.
[15] Vì chữ Trà gần với âm tiếng Phạn hơn.
[16] Trong kinh Pháp Hoa vận dụng rất nhiều lối viết giả
tá. Mạt được nói ở đây là chữ Mạt trong Mạt Hương (末香),
đáng lý ra phải viết là Mạt Hương (抹香), nhưng kinh luôn viết
là Mạt Hương (末香). Tuy thế, ai đọc đến cũng hiểu, không cần phải cầu kỳ
sửa lại những chữ trong những bản đã được lưu hành từ bao đời đến giờ cho nên Tổ
mới chê ông Đinh Phước Bảo quá cố chấp.
[17] Đây là một câu kinh trong phẩm Tự kinh Pháp Hoa (theo bản của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh): “Nhĩ thời, Thích Đề Hoàn Nhân dữ kỳ quyến thuộc nhị vạn thiên tử câu. Phục hữu danh Nguyệt thiên tử, Phổ Hương thiên tử, Bảo Quang thiên tử, tứ đại thiên vương, dữ kỳ quyến thuộc vạn thiên tử câu” (Khi ấy, Thích Đề Hoàn Nhân và quyến thuộc hai vạn thiên tử cùng đến. Lại có những vị như Nguyệt thiên tử, Phổ Hương thiên tử, Bảo Quang thiên tử, bốn đại thiên vương và quyến thuộc một vạn thiên tử cùng đến). Sách Cú Giải cho rằng chữ Danh ở đây là sai, phải là chữ Minh mới đúng! Đa số các bản Pháp Hoa lưu hành hiện thời ở Việt Nam đều chép là chữ Minh.
[18] Hai chữ này trích từ câu nói của đức Phật trong phẩm Phương Tiện sau khi những người nghe đức Phật chấp nhận lời thỉnh của ngài Xá Lợi Phật giảng kinh Pháp Hoa liền đứng lên lễ Phật rồi lui về. “Ngã kim thử chúng, vô phục chi diệp, thuần hữu trinh thật. Xá Lợi Phất! Như thị tăng thượng mạn nhân, thoái diệc giai hỹ!” (Trong chúng ta không còn cành lá, chỉ còn thân cây và quả. Xá Lợi Phất! Những kẻ tăng thượng mạn ấy lui về cũng là tốt). Do không để ý đến sự đối xứng giữ “chi diệp” và “trinh thật” nên nhiều bản đã tùy tiện sửa “trinh thật” thành “chân thật”.
[19] Hai chữ Phạt này ý nghĩa rất khác nhau, bầy tôi phản
nghịch, vua là người bề trên đem quân đánh dẹp thì gọi là Phạt (罰), tức trừng phạt. Còn vì mọi người, vì đại
thể mà Vũ Vương phải đem quân diệt Trụ hầu đem lại sự yên vui cho dân chúng
(nên nhớ Vũ Vương là chư hầu của Trụ Vương) thì việc đánh dẹp do đại nghĩa ấy sẽ
được gọi là Phạt (伐).
[20] Chữ Đa này thường được dùng để phiên âm thần chú, thường
để phiên các âm Ta trong Phạn văn. Khi phiên sang tiếng Việt chữ này thường được
đọc trại thành Đá.
[21] Trong phẩm Hóa Thành Dụ, khi chư Thiên mười phương
đem cung điện của chính mình dâng lên, đã nói kệ cầu thỉnh đức Phật tiếp nhận,
có vị nói là “duy nguyện thùy nạp thọ”,
có vị nói là “duy nguyện thùy nạp xử”.
“Xin Phật rủ lòng nhận lấy” hay “xin Phật rủ lòng nhận để ở” thì cũng chẳng
khác gì nhau lắm.
[22] Đây là một câu nói của Lương Huệ Vương được chép trong sách Mạnh Tử. Khi sang nước Lương gặp nhà vua, được hỏi về kế sách, Mạnh Tử đã bảo: “Nay nhà vua cai trị bằng cách thực thi lòng nhân khiến cho kẻ sĩ trong thiên hạ đều muốn đứng trong sân chầu của nhà vua, kẻ nông phu đều muốn cày ruộng cho vua, con buôn đều muốn tích trữ hàng hóa nơi chợ của vua, người đi xa đều muốn đi trên đường của vua… Làm được như thế thì còn ai ngăn trở nhà vua được nữa?” Lương Huệ Vương bèn thưa: “Con tối tăm chưa thể làm được như vậy, xin phu tử giúp con, dạy cho con được sáng chí. Con tuy không lanh lợi, nhưng xin thầy cứ dạy thử”.
[23] Vĩnh Khang (280-289) là niên hiệu của Tư Mã Viêm (Tấn
Vũ Đế) sau khi diệt được Đông Ngô. Còn Thái Khang (300-301) là niên hiệu của Tấn
Huệ Đế (Tư Mã Trung) chỉ sử dụng chưa đầy hai năm. Đây là vấn đề tranh luận về
niên đại bộ kinh Chánh Pháp Hoa được dịch ra như thế nào. Chánh Pháp Hoa là bản
dịch kinh Pháp Hoa cổ nhất do ngài Trúc Pháp Hộ làm Dịch Chủ. Đa phần thiên về
thuyết cho rằng kinh này được dịch năm Thái Khang thứ bảy (286) đời Tấn Vũ Đế.
[24] Tam Tạng Ký Tập gọi đủ là Xuất Tam Tạng Ký Tập do ngài Tăng Hựu (445-518) soạn vào đời Lương, còn gọi là Xuất Tam Tạng Ký Mục Lục, Lương Xuất Tam Tạng Tập Ký, hoặc Tăng Hựu Lục. Nội dung ghi chép duyên do, danh mục các kinh và những bản dịch kinh điển khác nhau từ thời Hậu Hán đến đời Lương.
Đại
Đường Nội Điển Lục do ngài Đạo Tuyên (596-667) soạn vào đời Đường ghi chép hai
trăm hai mươi dịch giả, tên gọi của hai ngàn bốn trăm tám mươi bảy bộ kinh.
[25] Sách Tam Biên ghi là Bạch
Hàng (白航) nhưng trong các tài liệu viết về ông này
cũng như trong Tục Biên đều ghi là Bạch Phảng (白舫), nên chúng
tôi cũng phiên âm là Bạch Phảng.
[26] Tương đương chức vụ trưởng
ty Kiểm Lâm hiện thời.
[27] Phủ Đài là tên gọi khác của chức quan Tuần
Phủ (đôi khi đọc là Tuần Vũ), tức quan đứng đầu một tỉnh dưới thời Minh -
Thanh, thuộc ngạch Tùng Nhị Phẩm. Gọi là Tuần Phủ nhằm ngụ ý “tuần hành thiên hạ, phủ quân án dân”
(đi tra xét trong thiên hạ, cai quản quân dân). Chức này được đặt ra từ năm Hồng
Vũ 24 (1430)
[28] Thành Đạo Ký Chú có tên đầy đủ là Thích
Ca Như Lai Thành Đạo Ký Chú, do Huệ Ngộ đại sư viết để chú giải tác phẩm Thích
Ca Như Lai Thành Đạo Ký của Vương Bột đời Đường. Sách này hiện được xếp vào Vạn
Tục Tạng, tập 75. Vương Bột làm quan Bác Sĩ thời Đường Cao Tông, cùng với cha
và anh đều nổi danh văn tài thời ấy, được xưng tụng là Vương Thị Tam Châu Thụ
(ba cây ngọc nhà họ Vương). Vương Bột còn có bài phú Đằng Vương Các Ký rất nổi
tiếng.
[29] Một Lạng (lượng) gồm 10
Tiền, một Tiền là mười Phân. Tùy theo địa phương mà chênh lệch từ 36g đến 40g. Hiện thời, tại Trung Hoa Đại Lục quy định một Lạng
là 50g, trong khi Đài Loan và Hương Cảng quy định
một lạng là 37,429g. Một Cân là mười sáu Lạng (theo Wikipedia)
[30] Chỉ Nguyệt Lục (tên đầy đủ là Thủy Nguyệt
Trai Chỉ Nguyệt Lục) là bộ sách gồm ba mươi hai quyển do Cù Nhữ Tắc biên soạn
vào đời Minh, chép sự tích của quá khứ thất Phật và hành trạng, pháp ngữ của
chư tổ sư Ấn Độ và các tổ sư Đông Độ cho đến ngài Đại Huệ Tông Cảo v.v… Tổng cộng
là 650 vị cổ đức. Đến đời Thanh, có ông Nhiếp Tiên, hiệu Lạc Độc, soạn tiếp cuốn
bộ Tục Chỉ Nguyệt Lục gồm 20 quyển chép hành trạng của cổ đức từ năm Long Hưng
thứ 2 (1164) đến năm Khang Hy mười tám (1679).
[31] Thần Tăng Truyện (chín quyển) là tác phẩm
do Minh Thành Tổ soạn, thâu thập những những truyện ký, sự tích thần dị của các
bậc danh tăng từ xưa cho đến thời Minh như các vị Trúc Ma Đằng, Trúc Pháp Lan,
Đạo An v.v… Tổng cộng 208 vị.
[32] Tống Cao Tăng Truyện (30
quyển) được biên soạn bởi Tán Ninh (919-1002) đời Tống. Bộ sách này được coi
như phần tiếp theo của bộ Tục Cao Tăng Truyện, được khởi soạn vào năm Thái Bình
Hưng Quốc thứ 7 (982), chép hành trạng của các vị đại đức cao tăng từ niên hiệu
Trinh Quán đời Đường Đại Tông (627-649) đến Đoan Củng nguyên niên (988) đời Tống
Thái Tông. Do sách được soạn thành ở chùa Thiên Thọ nên còn gọi là Thiên Thọ Sử.
Phần chánh truyện chép 531 vị, phần phụ truyện chép thêm 125 vị nữa; chia thành
mười khoa như dịch kinh (32 vị), nghĩa giải (giảng giải kinh điển, 72 vị), tập
thiền (103 vị)… Riêng phần Tập Thiền được coi là một tài liệu đặc sắc rất hữu
ích về lịch sử truyền thừa của tông Vân Môn cũng như hành trạng của các thiền
sư trọng yếu.
[33] Theo truyền thống Thiền
Tông, ở Ấn Độ có hai mươi tám vị Tổ, Trung Hoa có sáu vị Tổ. Ngài Bồ Đề Đạt Ma
là tổ thứ hai mươi tám ở Ấn Độ, đồng thời là Sơ Tổ Thiền Tông Trung Hoa. Vì vậy,
trong đoạn trên Tổ mới nói ‘trong hai
mươi bảy vị Tổ Tây Thiên không có ngài Thế Thân’. Hơn nữa, ngoài tổ Bồ Đề Đạt
Ma được ghi chép nhiều sự tích ra, danh hiệu hai mươi bảy vị Tổ kia chỉ được nhắc
đến trong lịch sử truyền thừa chứ không ghi chép rõ hành trạng, nên mới nói ‘chứ
không phải suốt cả một đời của hai
mươi bảy vị Tổ chỉ có một đoạn sự tích này’.
[34] Chúng tôi dịch câu này
theo cách diễn giải của Tứ Thư Bạch Thoại Giải Thích.
[35] Ngài Huyền Trang sau khi
tham học với các bậc tông tượng tại Thiên Trúc đã trở thành một bậc Đại Luận Sư
lẫy lừng tại Ấn Độ. Năm 41 tuổi, khi Sư muốn trở về Trung Hoa, vua Giới Nhật
bèn tổ chức đại pháp hội tại thành Khúc Nữ, triệu tập quốc vương mười tám nước
cùng tăng sĩ Đại, Tiểu thừa Bà La Môn, hơn bảy ngàn người về tham dự pháp hội
tranh biện Đại Thừa. Sư nhận lời thỉnh làm Luận Chủ. Để tuyên dương Đại Thừa,
Sư viết ra bài luận Chân Duy Thức Lượng treo ở ngoài cửa thành suốt mười tám
ngày. Vua hạ lệnh ‘nếu ai đổi được một chữ trong bài luận ấy sẽ được thưởng
ngàn vàng’, nhưng suốt cả mười tám ngày không ai bắt bẻ được một chữ nào.
[36] Chữ Duyên khi được dùng như danh từ thì
chỉ những nguyên nhân gián tiếp dẫn đến kết quả. Nhưng ở đây Duyên được dùng
như một động từ thì có ý nghĩa “nhận
biết, dính líu, vướng mắc”. Chẳng hạn, ‘tâm duyên nơi cảnh’, tức là tâm hướng đến một cảnh nào đó, nhận
biết cảnh ấy qua lăng kính kiến giải, thiên kiến của chính mình. Để cho rõ, đôi
khi các bộ luận thường viết “năng duyên tâm” và “sở duyên cảnh”. Năng Duyên Tâm
chính là cái tâm phân biệt, nhận thức cảnh, còn Sở Duyên Cảnh chính là đối tượng
được nhận thức bởi cái tâm ấy. Chẳng hạn như, khi ta nhìn bông hoa nhận biết đó
là bông hoa thì cái tâm nhận biết ấy là Năng Duyên Tâm, bông hoa là Sở Duyên Cảnh.
Cùng là một đối tượng, nhưng cảnh sở duyên trong sự nhận biết của mỗi người sẽ
khác. Chẳng hạn như cùng một bông hoa, nhưng mỗi người sẽ thấy đẹp - xấu khác
biệt. Nguyên câu này phải hiểu là “duyên
trung [cảnh] nhược mi gian, nhược ngạch thượng, nhược
tỵ đoan” (những cảnh được tâm duyên đến
[trong khi tịnh tọa] như giữa chặng mày, như trên trán, như chót mũi)… Như vậy,
ba nơi vừa kể chỉ là liệt kê đại lược những cảnh được duyên. Bọn đạo sĩ hiểu lầm
bèn cho “duyên trung” cũng là một trong những vị trí trên thân thể như giữa chặng
mày, giữa trán, chót mũi, nên mới bịa ra khái niệm Hoàng Trung!
[37] Đây cũng là một thuật ngữ
của Đạo Gia, họ cho rằng linh hồn của mỗi người là một tiểu linh quang, tức từ
Đại Linh Quang của Thượng Đế chia nhỏ ra, nên linh hồn còn được gọi là ‘tinh hồn’
tức phần tinh túy nhất được tiếp nhận từ Thượng Đế - tinh túy của vũ trụ. Theo
họ, những vị tu tiên đắc đạo sẽ vận dụng được khả năng biến hóa thần kỳ của
tinh hồn.
[38] Môn Cữu Cô Nương: Đây là một tập tục của
phụ nữ thôn quê miền Hoa Nam thường dùng để bói vận may trong ngày lễ Nguyên
Tiêu (rằm tháng Giêng), còn gọi là “thỉnh Đoàn Cơ thần” (thỉnh thần sọt). Họ bẻ
rúm miệng sọt (cần-xé), phủ vải hoa lên, đem đặt ở ngưỡng cửa, rồi “niệm
chú”. Tùy theo hình dáng của miệng sọt bung ra khi giở miếng vải lên mà bói xem
năm ấy mùa màng, cưới gả, làm ăn tốt xấu như thế nào. “Vị thần” được cầu khấn
trong khi bói toán ấy được dân gian gọi là Môn Cữu Cô Nương (cô nương ngạch cửa).
Ở đây, Tổ chơi chữ, dùng Môn Cữu Cô Nương (là một vị thần quê mùa thấp kém
trong tín ngưỡng dân gian, do dân chúng bịa ra) để sánh với vị thần tiên nổi tiếng
nhất của Đạo Giáo là Lã Động Tân.
[39] Bão Phác Tử là hiệu của Cát Hồng
(283-363), tự là Trĩ Xuyên, quê ở huyện Cú Dung, Đan Dương (nay thuộc tỉnh
Giang Tô) là một nhà giả kim thuật thời Đông Tấn, thường được Đạo Giáo xưng tụng
là Cát Tiên Ông. Ngoài những tư tưởng hoang đường về thuật luyện đan, Cát Hồng
đóng góp khá đáng kể cho y thuật Trung Hoa cổ đại qua những ghi chép về triệu
chứng bệnh tật. Trước tác nổi tiếng nhất là bộ Bão Phác Tử và Thời Hầu Cứu Tốt
Phương. Ông ta là người đề xướng đường lối Ngoại Đan tức dùng khoáng vật (như
thủy ngân, vàng v.v…) nấu với thuốc để chế kim đan, uống kim đan sẽ thành tiên
bay lên trời. Do những kim đan ấy có chứa nhiều chất độc hại nên rất nhiều người
đã hộc máu chết tươi ngay khi vừa uống xong kim đan theo toa của Cát Hồng. Cho
đến cuối đời Thanh vẫn có những người mê muội luyện đan theo sách Bão Phác Tử!
[40] Phật Tổ Thống Kỷ do ngài
Chí Bàn soạn vào thời Nam Tống, chủ yếu thuyết minh về hệ thống truyền thừa của
giáo học Thiên Thai. Sách này lấy các bộ Tông Nguyên Lục và Thích Môn Chánh Thống
làm cơ sở. Sách được phỏng theo cách chép của Sử Ký nên chia thành các phần Bản
Kỷ, Thế Gia, Liệt Truyện, Biểu, Chí. Bản Kỷ bao gồm truyện đức Phật Thích Ca,
và truyện của các vị Tổ mà tông Thiên Thai tôn thờ là 24 vị Tổ ở Ấn Độ, 9 vị ở
Trung Quốc và tám vị Tổ từ thời ngài Hưng Đại trở xuống. Phần Thế Gia gồm truyện
của 198 vị Tổ thuộc tông Thiên Thai, Nam Nhạc. Phần Liệt Truyện gồm truyện ký của
378 vị tổ từ Từ Vân cho đến Nam Bình. Phần Biểu gồm những biểu đồ hệ thống truyền
thừa ở Ấn Độ và Trung Quốc. Phần Chí gồm danh mục các trước tác của tông Thiên
Thai, Tịnh Độ, Thiền Tông, Hoa Nghiêm v.v… Tuy sách này lấy tông Thiên Thai làm
chính, nhưng nội dung sử liệu phong phú, biên chép kỹ lưỡng nên thường được coi
là một sử liệu quan trọng để nghiên cứu Phật giáo Trung Quốc.
[41] Lão Quân chính là Lão Tử. Lão Tử tên thật
là Lý Nhĩ, tự là Bá Dương, theo truyền thuyết ông sống trong khoảng 600 đến 470
trước Công Nguyên. Các đạo sĩ do tôn xưng ông là Thủy Tổ của Đạo gia đã đặt ra
rất nhiều chuyện huyền thoại quanh ông và tôn xưng ông là Thái Thượng Lão Quân,
Hỗn Nguyên Lão Quân, Thái Thanh Đại Đế, Đạo Đức Thiên Tôn v.v…
[42] Cát Huyền (164-244) là
em của ông nội Cát Hồng, cũng là một đạo sĩ nổi tiếng, được người đời sau xưng
tụng là Thái Cực Cát Tiên Ông. Cùng với Trương Đạo Lăng, Hứa Tôn và Tát Thủ
Kiên được gọi là ‘tứ đại Thiên Sư’ của Đạo Giáo.
[43] Hà Bá: thần sông, Hải
Nhược: thần biển.
[44] Ba ông vua này từng chủ
trương diệt Phật, truy đuổi Tăng chúng, chiếm đoạt tài sản nhà chùa. Sử thường
gọi là Tam Vũ Diệt Phật.
[45] Theo Từ Hải, Chỉ Bản là
một lối in xưa, người ta sắp bản in với các chữ in rời bằng kẽm (tức là mỗi chữ
đều được đúc riêng biệt bằng kẽm, rồi sắp vào khuôn gỗ) đưa vào máy in nén mạnh
trên giấy cho lõm xuống. Khi cần in sẽ chụp những trang đó, không cần phải sắp
chữ lại.
[46] Ở đây chỉ những
tên lính đào ngũ sau khi quân Quốc Dân Đảng thất trận.
[47] Hiến Ty: Một chức quan đã có từ đời Tống,
chuyên giữ nhiệm vụ chấp hành, giám sát, củng cố việc thực hiện các hiến điển
(những điều lệ quy định về trị an, hành chánh, dân sự v.v…) Đến thời Minh - Thanh,
chữ này thường được dùng để chỉ chung các cấp cai trị trong huyện, trong phủ,
trong tỉnh.