Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên,

Quyển 1,

Phần 5

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

Giảo chánh: Minh Tiến & Huệ Trang

 

127. Thư trả lời cư sĩ Từ Chí Nhất

 

      Hôm qua nhận được thư, biết con là thiếu niên phát tâm tu Tịnh nghiệp, khôn ngăn vui mừng, hâm mộ! Muốn trả lời thư trong ngày hôm qua, nhưng vì có khách nên chưa rảnh rỗi. Nay gởi cho con một cuốn Tịnh Độ Ngũ Kinh, đây là căn bản của pháp môn Tịnh Độ. Đọc kỹ hai bài tựa trước - sau của Quang sẽ tự biết được ý nghĩa chánh yếu. Tịnh Độ Thập Yếu, một bộ năm cuốn, đây chính là những trước thuật thiết yếu nhất của cổ nhân nhằm giảng rõ Tịnh Độ, trong bài tựa đã nói tường tận. Một bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, đây là sự tích vãng sanh xưa - nay. Một cuốn Gia Ngôn Lục, một cuốn Liễu Phàm Tứ Huấn, đây là những sách hết thảy mọi người nên thường đọc. Một cuốn Sức Chung Tân Lương, một cuốn Cứu Kiếp Biên, một bộ Lịch Sử Thống Kỷ; sách này có bảng phân loại. Nếu tra cứu những chuyện hiếu và bất hiếu thì tra cứu trong bảng phân loại ở đầu quyển sẽ thấy được những chuyện hiếu và bất hiếu trong cả bộ sách. Một bộ An Sĩ Toàn Thư, sách Tây Quy Trực Chỉ cũng nằm trong ấy. Nếu [các sách định gởi cho con trên đây, đem] chia làm hai gói mà [vẫn] chưa đủ thì sẽ bỏ thêm Kỹ Lộ Chỉ Quy và Vật Do Như Thử vào. Nếu đủ rồi sẽ không thêm.

Mong con hãy cung kính đọc kỹ Ngũ Kinh, Thập Yếu thì sẽ biết rõ duyên do của pháp môn Tịnh Độ. Các pháp môn được giảng trong cả một đời đức Phật đều cậy vào tự lực để tu trì, đoạn Hoặc, chứng Chân, hòng liễu sanh tử, khó khăn còn hơn lên trời! Nếu do Tín - Nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì vạn người tu, vạn người về, nhưng cần phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, ăn chay, niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Dùng những điều này để tự hành, lại còn dùng những điều này để dạy người, khiến cho khắp hết thảy mọi người cùng tu Tịnh nghiệp, cùng sanh Tịnh Độ.

Tuổi con còn thơ ấu, phải cực lực chú ý giữ gìn thân thể! Hãy đọc kỹ sách Dục Hải Hồi Cuồng trong bộ An Sĩ Toàn Thư và Thọ Khang Bảo Giám. Có nhiều thiếu niên ý niệm tình dục dấy lên rồi bèn thủ dâm; chuyện ấy khiến thân thể bị tổn thương tột cùng, chớ nên phạm! Hễ phạm sẽ tàn hại thân thể, nhơ bẩn tự tâm, khiến cho thân thể hữu dụng bị chết yểu hoặc trở thành phế nhân yếu ớt không làm nên cơm cháo gì! Lại còn phải hằng ngày phản tỉnh, suy xét tội lỗi nơi thân, nơi tâm, ngõ hầu chẳng đến nỗi tự mình tàn hại. Nếu không, cha mẹ không nói, sư trưởng chẳng nói, bạn bè đàn đúm xúi giục nhau tạo thành thói ác ấy; chuyện này nguy ngập còn hơn đi vào vực sâu, bước trên băng mỏng đấy!

Tăng Tử có tư cách đại hiền mà đến lúc sắp chết mới nói: “Kinh Thi chép: ‘Dè dặt kinh sợ, như vào vực sâu, như đi trên băng mỏng’. Từ nay trở đi, ta biết đã thoát”. Chưa đến lúc sắp chết thì vẫn thường kinh sợ, nay ta sắp chết mới biết mình không bị hãm [trong tội lỗi]. Cừ Bá Ngọc năm hai mươi tuổi biết mười chín năm trước sai trái; đến tuổi năm mươi, biết bốn mươi chín năm trước đều sai. Khổng Tử vào tuổi bảy mươi còn muốn trời cho sống thêm vài năm hoặc dăm mười năm nữa để học kinh Dịch hòng tránh lỗi lớn. Cách thánh hiền gìn giữ, trưởng dưỡng sự phản tỉnh, suy xét như vậy chính là nền tảng để học Phật liễu sanh tử. Những điều khác đã được nói tường tận trong Văn Sao và các sách khác, cho nên không viết cặn kẽ!

Con tên là Giám Chương[1], lại còn có trí huệ chân chánh thì không gì chẳng hợp với Phật, thánh, không gì chẳng thuận với pháp thế tục. Người đời nay hễ hơi thông minh bèn cuồng vọng, đấy đều là vì chẳng biết nghĩa “vì việc học mà [đạo đức] ngày càng tăng thêm, vì đạo mà [thói hư] ngày càng tổn giảm”. “Vì việc học mà [đạo đức] ngày càng tăng thêm” chính là lấy đạo đức của thánh hiền chất chứa trong thân tâm ta. “Vì đạo mà [thói hư] ngày càng tổn giảm” là từ đấy phản tỉnh, suy xét nghiêm ngặt, sao cho khởi tâm động niệm trọn chẳng phạm tội lỗi gì! Nếu không, dẫu là bậc văn tài lỗi lạc vẫn chẳng thể vì việc học, huống hồ vì đạo! Hiện nay thời cuộc nguy hiểm, hãy nên khuyên hết thảy già - trẻ - trai - gái hằng ngày thường kiền thành niệm thánh hiệu Quán Thế Âm như một kế sách bậc thượng để cầu hòa bình, giữ gìn thân mạng. Trừ cách này ra, không tìm được cách nào khác đâu! Quang già rồi, mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ, từ rày chỉ nên xem các sách như Văn Sao v.v… đừng gởi thư đến nữa, do không có sức để thù tiếp vậy!

      Trước đây, thầy đã gởi pháp danh, kinh sách [cho con]. Thư lần này gởi đến, con chỉ ghi là “cẩn bẩm” (kính thưa), không khỏi quá ngạo mạn! Pháp Niệm Phật tùy theo cơ nghi, chớ nên chấp chặt. Nhưng trong hết thảy pháp, chọn lấy một pháp quan trọng nhất thì không chi bằng “lắng tai nghe kỹ”: Niệm từ tâm khởi, tiếng từ miệng phát ra, âm thanh lọt vào tai; đi, đứng, nằm, ngồi đều niệm như thế, nghe như thế. Niệm lớn tiếng, nhỏ tiếng, niệm thầm trong tâm, đều nghe như thế. Khi niệm thầm, trong tâm vẫn có tướng của tiếng, chứ không phải là không có tiếng. Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông Chương có câu: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc tam-ma-địa, ấy là bậc nhất”. Khi niệm Phật có thể lắng tai nghe kỹ chính là cách nhiếp trọn sáu căn. Bởi lẽ, tâm niệm thuộc về Ý Căn, miệng niệm thuộc về Thiệt Căn, tai nghe thì mắt chẳng nhìn chi khác, mũi chẳng ngửi gì khác, thân chẳng buông lung, biếng nhác. Vì thế gọi là “nhiếp trọn sáu căn”. Nhiếp trọn sáu căn để niệm thì tạp niệm dần dần dứt, cho đến không còn, vì thế gọi là “tịnh niệm”.

Thường giữ cho tịnh niệm liên tục chẳng gián đoạn sẽ đạt được Niệm Phật tam-muội. Tam Ma Địa chính là tên khác của tam-muội. Chúng ta tùy phần tùy sức niệm, tuy chưa thể đạt ngay được tam-muội, nhưng sẽ gần với tam-muội. Chớ nên nghĩ là dễ dàng rồi muốn mau đạt, kẻo sẽ dấy lên các ma sự! Người đắc Niệm Phật tam-muội thì trong đời này đã dự vào địa vị thánh nhân. Vì thế, hãy nên tự lượng! Pháp Tùy Tức[2] chính là pháp thứ chín được nói trong môn Thử Sanh Tha Sanh Thập Niệm Nhất Niệm (đời này, đời khác, mười niệm, một niệm) của cuốn Bảo Vương Tam Muội Luận, tức cuốn thứ năm của bộ Tịnh Độ Thập Yếu, xem [sách ấy] sẽ tự biết. Vì thế, chẳng cần phải nói nhiều. Mong hãy sáng suốt soi xét. Đang trong lúc đại kiếp đối đầu, quốc gia lẫn thân mạng mất - còn chẳng chắc này, cố nhiên nên nhất tâm niệm Phật, niệm Quán Âm để cầu hòa bình. Đừng nên hờ hững cầu tri giải mở mang để mong trở thành bậc thông gia vậy!

 

128. Thư trả lời cư sĩ Vương Hải Tuyền

 

      Phàm là người quy y, ắt phải chí thành, khẩn thiết tu trì pháp môn Tịnh Độ. Nếu vẫn dùng những công phu luyện đan, vận khí v.v… của ngoại đạo sẽ trở thành tà - chánh chẳng phân, hoặc đến nỗi coi tà là chánh, tưởng chánh là tà! Ngàn vạn phần chớ để cho hạng người ấy trà trộn. Nếu trước kia đã từng học pháp ngoại đạo, sau biết đấy không phải là chánh đạo, hoàn toàn vứt bỏ, tách rời khỏi cách tu của bọn chúng thì được! Nếu không, chẳng thể được! Lại có những kẻ tin vào cầu cơ, hạng người ấy cũng đừng nên cho quy y. Vì cầu cơ phần nhiều là linh quỷ mạo danh tiên, Phật. Linh quỷ thượng đẳng tuy chẳng biết lý sâu nhưng vẫn chưa đến nỗi khiến cho [người cầu cơ] bị lầm lẫn. Linh quỷ hạ đẳng chắc sẽ đến nỗi làm hỏng đại sự của người khác. Người niệm Phật ngàn vạn phần chẳng được kết giao với những kẻ ấy!

Nay đặt pháp danh cho những người quy y, xin hãy chép ra, giao cho họ. Xin hãy bảo họ: Cần phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, giữ tấm lòng tốt, nói lời lành, làm chuyện tốt, sanh lòng tin chân thật, phát nguyện thiết tha, ăn chay, niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Dùng những điều ấy để tự hành, lại dùng những điều ấy để dạy người thì mới chẳng phụ hai chữ “quy y”. Nếu không, sẽ hữu danh vô thật, trọn chẳng được ích lợi gì, lại còn phạm tội lỗi khinh pháp, mạn pháp!

      Muốn tiêu trừ kiếp nạn mênh mông này thì phải dạy hết thảy già - trẻ - trai - gái cùng niệm “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát”. Sức của bốn mươi mấy người làm sao địch nổi ác nghiệp trong đời trước hay trong đời này của trăm ngàn vạn người? Nay gởi cho ông Khuyến Niệm Quán Âm Văn và Một Lá Thư Trả Lời Khắp. Xin hãy đưa cho những người quy y xem.

 

129. Thư trả lời cư sĩ Châu Thiện Xương (thư thứ nhất)

 

      Trần Vĩnh Dự gởi thư đến cho biết ông côi cút từ bé. Gần đây, do mẹ qua đời, cảm nhận xác thân lẫn cõi đời vô thường, muốn báo ân cha mẹ bèn ăn chay niệm Phật. Đấy có thể gọi là “đã hiểu được đạo hiếu!” Đạo hiếu do người đời thường thực hành đều tăng thêm tội lỗi cho cha mẹ (sống thì sát sanh để phụng dưỡng, mất thì sát sanh để cúng tế và đãi đằng những người đến phúng điếu. Chỉ mong sướng tai, khoái mắt, ngon miệng, vừa bụng người khác, chẳng tính đến chuyện gây phiền cho cha mẹ gánh tội nơi chín suối[3], chẳng đáng buồn sao?) Kẻ phàm tục coi làm vậy là hiếu, chứ thật ra là lòng hiếu theo kiểu đại bất hiếu! Hiếu kiểu đó đối với chính mình lẫn cha mẹ đều vô ích, chỉ đổi lấy lời khen ngợi xuông của tục nhân vô tri mà thôi! Nhưng ông vẫn còn có bà nội và bà nội kế, hãy nên khuyên họ đều cùng ăn chay niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì mới có ích. Nếu đợi họ chết rồi mới sẽ vì họ niệm Phật, sao bằng thừa dịp này khuyên họ tự niệm? Lại còn đem công đức niệm Phật của ông để hồi hướng cho họ, mong họ tiêu trừ túc nghiệp, tăng trưởng thiện căn, còn sống thì khỏe mạnh, yên vui, mất liền cao đăng cõi sen; đấy là lợi ích chân thật!

Ông đã phát tâm quy y, nay đặt pháp danh cho ông là Huệ Xương; nghĩa là dùng trí huệ để làm cho pháp môn Tịnh Độ được hưng thịnh, rạng rỡ, tự lợi, lợi người, cùng sanh về Tây Phương. Người niệm Phật ắt phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, giữ tấm lòng tốt, nói lời lành, làm chuyện tốt, sanh lòng tin, phát nguyện trì danh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương. Dùng những điều này để tự hành, lại còn đem những điều ấy dạy cho người khác. Phàm những ai qua lại với ta đều nên đem những điều này giáo hóa họ, nhất là hãy nên khuyên vợ ông tu trì.

Thế đạo hiện thời nguy hiểm muôn bề. Người thường niệm Phật cố nhiên chẳng đến nỗi không tìm được lối thoát trong cảnh nguy hiểm. Hơn nữa, nữ nhân thường niệm Phật sẽ tránh được sản nạn. Nếu gặp lúc sanh nở, hãy nên niệm “nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát” ra tiếng rõ ràng thì sẽ an nhiên sanh nở. Dẫu khó sanh tới cùng cực, người đã gần chết, dạy người ấy niệm Quán Âm và những người chăm sóc cũng như mọi người trong nhà đều lớn tiếng niệm thì không một ai chẳng lập tức sanh ngay, an nhiên sanh nở.

Hãy nên đem lời này bảo khắp hết thảy mọi người, chẳng những [người mẹ] không bị khổ vì sản nạn, mà con cái sanh ra đều hiền thiện. Đừng nói “lõa lồ bất tịnh, niệm sợ mắc tội!” Cần biết rằng: Đấy là lúc không làm thế nào khác được, chẳng thể cung kính, khiết tịnh; chứ không phải là không chịu cung kính, khiết tịnh! Chỉ nên giữ lòng Thành trong tâm, đừng quan tâm đến tướng bên ngoài. Lời tôi vốn xuất phát từ kinh Phật, chứ không phải tự nêu ý kiến, tự ức đoán. Mong hãy an tâm hành theo, khiến cho mọi người đều cùng được lợi ích. Những pháp tu trì khác đã được nói tường tận trong Gia Ngôn Lục. Hãy đọc kỹ sẽ tự biết, nên ở đây không cần ghi chi tiết.

 

130. Thư trả lời cư sĩ Châu Thiện Xương (thư thứ hai)

 

      Thư ông và thư của Trần Huệ Cung đều nhận được cả. Mười hai đồng hương kính cũng nhận được rồi. Chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay ai nấy đều đã gieo thiện căn; do vì không có người đề xướng nên đến nỗi thiện căn chẳng thể phát sanh, đáng tiếc thay! Người đời cầu con, chẳng biết trước hết phải đoạn dục, bảo dưỡng thân thể cho cường tráng. Ngày ngày thường làm chuyện vợ chồng mà chưa chết tức là may mắn quá đấy! Làm như vậy, dẫu có sanh được con thì hoặc là nó chẳng thể sống thọ, hoặc yếu ớt không thể làm được gì, đều là vì chẳng biết vun bồi nơi căn bản vậy! Nếu vợ chồng ông tuân theo nghĩa này, chắc chắn sau này sẽ sanh được đứa con phước đức trí huệ, đừng nên vội vàng! Đoạn dục càng lâu càng tốt. Hai vợ chồng phải cùng vì đại sự kế thừa tổ tông mà vâng giữ điều răn này, chớ đừng chưa đầy một hai tháng liền muốn gần gũi. So với những kẻ chẳng tiết dục tuy tốt hơn, nhưng vẫn là Tiên Thiên chẳng đủ, đứa con quyết chẳng thể có thành tựu được!

Bà nội của ông đã phát tâm niệm Phật, hãy nên thường nói với cụ về lợi ích niệm Phật vãng sanh. Nếu có thể làm cho nhị vị tổ mẫu (tức bà nội ruột và bà nội kế) đều được vãng sanh thì mới có đáng gọi là “trọn hết phận làm con!” Nay đặt pháp danh cho bà nội ông là Đức Thuần, nghĩa là tâm tu trì Tịnh nghiệp thuần thành, chuyên dốc, khẩn thiết mong cầu. Pháp danh của bà nội kế là Đức Định, nghĩa là nhất tâm niệm Phật, quyết định cầu sanh, trọn chẳng ngờ vực hay biếng nhác! Vợ ông pháp danh là Huệ An, nghĩa là nhất tâm cầu sanh về thế giới An Lạc, tự lợi, lợi tha. Những điều khác đã nói cặn kẽ trong Văn Sao. Cuối tháng sẽ gởi bức thư dài đến (tức Một Bức Thư Trả Lời Khắp), ở đây không nói nhiều!

Bà nội ông tâm tha thiết mong có chắt, tôi dạy ông ba cách, nếu vợ chồng ông có thể hành theo đó, chắc chắn sẽ sanh được đứa con có phước, sống thọ, thông minh, trí huệ:

1) Một là vợ chồng hằng ngày thường lễ bái, trì niệm thánh hiệu Quán Âm.

2) Hai là phải giữ lòng từ thiện, làm chuyện lợi người giúp vật cho nhiều.

3) Ba là vợ chồng mỗi người ở riêng một phòng, đoạn tuyệt chuyện ăn nằm. Đợi đến khi thân thể đã được bảo dưỡng mạnh khỏe, chờ cho vợ sạch kinh xong, vào đêm trời trong, khí rạng, sẽ ở với nhau một đêm, ắt sẽ thụ thai. Từ đấy vẫn mỗi người vẫn ở riêng phòng, đừng ngủ chung với nhau nữa.

Do niệm Quán Âm nên đứa con ấy ắt có thiện căn, thông minh, trí huệ. Do giữ lòng từ thiện, thường làm những chuyện cứu giúp nên đứa con ấy ắt thọ. Do thân thể được dưỡng cho khỏe mạnh nên thân thể đứa con ắt được mạnh mẽ. Do vừa thụ thai chẳng ở chung phòng nữa, đứa con ấy vĩnh viễn không bị thai độc và ghẻ chốc, lên sởi v.v... Đấy là đạo “cầu con ắt được”!

Nếu hằng ngày ngủ chung với vợ, thường cùng ăn nằm, chắc sẽ đến nỗi mất mạng. Dẫu có sanh con, chắc khó trưởng thành được, không làm gì được; bởi lẽ, Tiên Thiên chẳng đủ, tinh thần lẫn tài trí đều chẳng sung túc. Người đời chẳng hiểu rõ lý này, ắt sẽ nghĩ thường chung đụng với vợ để sanh được con. Lầm lẫn quá lớn! Xin hãy đem nghĩa này nói với bà nội của ông ngõ hầu hơn một năm sau sẽ sanh được con vậy!

 

131. Thư trả lời cư sĩ Châu Thiện Xương (thư thứ ba)

 

Thư và trước sau hai mươi đồng đều nhận được đầy đủ, pháp danh của mười bốn người được viết trong tờ giấy khác. Hãy nên bảo bọn họ ai nấy giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, kiêng giết, ăn chay, niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì mới là đệ tử Phật thật sự. Quang mục lực chẳng đủ, gởi cho họ một gói Niệm Phật Khẩn Từ, xin hãy đưa cho mỗi người một quyển, bởi trong sách ấy có quy tắc niệm Phật và Một Lá Thư Trả Lời Khắp, có ích rất lớn! Cúng giỗ tổ tông đổi sang dùng cỗ chay, công đức rất lớn. Quang từ Thượng Hải trở về đã hơn một tháng mà trọn chẳng được rảnh rỗi chút nào! Lời tựa cho cuốn sổ [quy định] Tế Lễ [của dòng họ][4] hiện thời không rảnh rỗi [để viết]. Nếu sau này được rảnh, sẽ viết rồi gởi tới. [Khi nhận được, ông hãy] nhờ người viết chữ đẹp chép [lại bài tựa ấy] cho ngay ngắn, rõ ràng, khuyên, điểm, chấm câu để người đọc vừa xem liền hiểu rõ ngay. Lại còn đem bản thảo ấy gởi cho Phật Học Thư Cục ở Thượng Hải để đăng trên bán nguyệt san, may ra sẽ có người tiếp tục hành theo!

 

139. Thư trả lời cư sĩ Châu Thiện Xương (thư thứ tư)

 

      Hôm trước, ông Nhậm đến đây, cầm theo thư của ông và hai món thức ăn, cảm ơn! Đãi khách bằng món chay ấy là đại kính; dùng sát sanh để đãi khách thật rất thiếu ý cung kính, nhưng thế tục quen thói, ngược ngạo coi đấy mới là kính, đáng thương xót lắm thay! Người đời nay phần nhiều thích xây cất lớn, cứ hở ra là muốn xây dựng. Do muốn xây dựng nên đụng chạm đến quan chức địa phương, người lo việc lại ngạo mạn, cứ suy ra cũng biết. [Địa phương ra lệnh] ngăn cấm cũng là điều tốt. Nếu không, thanh thế ngày càng lớn, có thể bị đại họa. Do con người hiện thời chẳng rõ nhân quả, quan lớn phần nhiều chẳng xét kỹ. Nếu đắc tội với kẻ tiểu nhân, hắn liền bịa đặt gán ghép, không cách nào chống đỡ được! Từ trước đến nay, Quang chẳng đề xướng xây dựng một cơ sở nào! Dẫu có ai muốn nhờ vào đấy để đề xướng thì cũng nên xây nhỏ đừng xây lớn để kẻ đố kỵ khỏi mượn cớ vu vạ! Trong Văn Sao có bức thư gởi cho ông Vương Dữ Tiếp[5], hãy đọc sẽ biết.

Quang mục lực càng suy kém hơn là vì tuổi già, tinh thần suy nhược; chứ còn ăn uống, cử động vẫn chẳng khác gì trước kia. Thầy Minh Đạo mất, Hoằng Hóa Xã cũng giao về cho Quang chủ trì. Thầy ấy khéo mộ duyên, Quang cả đời chẳng thích mộ duyên. Tùy theo sức của tôi, nếu có người giúp đỡ tiền tài thì làm lớn, không có ai giúp đỡ thì làm nhỏ, miễn sao ta - người đều thoải mái là được rồi. Thời cuộc nguy hiểm, hãy nên khuyên người nhà và người làng cùng niệm Phật hiệu và danh hiệu Quán Âm để làm kế dự phòng. Mối họa lúc này khác với thuở xưa, trốn tránh cũng không được, đề phòng cũng không xong; trừ cách niệm Phật và niệm Quán Âm ra, không có cách thức tốt đẹp nào khác! Lại còn phải nghiêm túc dạy dỗ con cái, lúc chúng mới bắt đầu hiểu biết liền chú ý ngay, chứ để chúng lớn hơn một chút sẽ chẳng nghe theo lời dạy đâu!

      Người thông minh trong thế gian thường cho là mình thông minh hơn đời, không chi chẳng biết! Vì thế, xưa kia đã có câu: “Nhất sự bất tri, Nho giả sở sỉ” (một chuyện không biết, nhà Nho hổ thẹn). Lời ấy vẫn là lời nói xuông! Vì sao vậy? Nếu chuyện gì cũng biết, ai có thể tự biết chính mình? Chính mình còn không biết, sao lại tự phụ là không chuyện gì chẳng biết? Hiền Anh đời trước cũng có thiện căn, vì thế sanh vào gia đình có chánh tín. Các chị đều quy y, cô ta cũng bắt chước quy y; sau này sẽ trở thành một vị hướng dẫn tốt lành trong chốn khuê các. Nay đặt pháp danh cho cô ta là Tông Hiền. Tông là chủ, là gốc, Hiền chính là Tư Tề Thật Hiền đại sư, vị tổ thứ chín của Liên Tông[6]. Bài Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn của đại sư cực hay. Quang đặt tên cho cô ta là Tông Hiền là vì muốn cho cô thường nương theo bài [Khuyến Phát] Bồ Đề Tâm Văn mà phát tâm. Đã có thể nương theo bài văn ấy để phát tâm thì tất cả những chấp trước Thường Kiến, Đoạn Kiến sẽ chẳng cần phải phá mà tự tiêu diệt không còn sót.

Nay gởi cho cô ta một bộ An Sĩ Toàn Thư, xin hãy đọc kỹ càng, cẩn thận phần chú giải và dẫn chứng của đoạn văn “ta mười bảy đời làm thân sĩ đại phu”[7] và những đoạn vấn đáp để giải trừ nghi ngờ trong các sách Vạn Thiện Tiên Tư, Dục Hải Hồi Cuồng, Tây Quy Trực Chỉ, sẽ chẳng đến nỗi biến mình thành kẻ không có căn bản, tuy tạm sống mấy chục năm, hễ chết liền tiêu diệt chẳng còn, há chẳng đáng thương đến tột cùng ư? Nếu biết thân chết mà thần thức chẳng diệt, coi đó như tuổi thọ, thì [tuổi thọ] nào phải chỉ dài lâu như trời với đất? Nếu chịu tu trì cầu sanh Tây Phương thì đến tột cùng đời vị lai sẽ làm đại đạo sư cho hết thảy chúng sanh, há chẳng phải là bậc đại trượng phu vĩ đại ư? Những câu vấn đáp ấy đều cực xác đáng, ở đây không viết đầy đủ. Lại gởi một bộ Bát Đức Tu Tri[8] gồm hai tập, nếu có thể chiếu theo đó mà giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận thì mới là đệ tử chân thật của đức Phật. Xin hãy nói với cô ta.

Gởi tới chỗ vợ chồng con cái ông Vương Dần Oai tổng cộng bốn gói kinh sách các thứ. Nói đến cùng cực, sự thành tựu của một con người hoàn toàn nhờ được khéo dạy dỗ từ thuở bé, nhưng sự dạy dỗ của mẹ lại chiếm quá nửa. Nếu thuở bé đã mặc kệ cho quen thói thành tánh thì lớn lên khó thể thành tựu chánh khí được!

Lại nói đến ông La X…. Ba bốn năm trước, lão sư Lai Nhất Tiêu [tự khoe] có thể dùng tay hướng về người khác để trị bệnh, sau không có hiệu nghiệm gì vì ông ta dùng tà thuật để huyễn hoặc người đời. Người tin theo ông Tiêu còn ít, sau khi họ La đến [nhập bọn] lại càng được thần thánh hóa hơn: Trong tay [ông La] có thể hiện ra hình tượng Phật, Bồ Tát cho đồng nam, đồng nữ thọ pháp được thấy. Cả một thời, những tri thức có học vấn ở Tô Châu đều học theo pháp ấy. Thoạt đầu [ông La chữa bệnh] hoặc có hiệu quả hoặc không, loại tà thuật ấy gây ra lắm nỗi hiềm nghi. Không giống như ông Tiêu đưa tay hướng về bệnh nhân, họ La dùng hai tay nắn bóp trên thân người bệnh khoảng một tiếng đồng hồ. Về sau, chánh phủ cấm đoán. Họ nói Quang cũng học pháp này, đủ biết họ đã mạo nhận chiêu bài của người khác. Một đệ tử của Phổ Đà đề xướng [cách tu] Mật tông theo kiểu sư Nặc Na[9] tại Nam Xương, bảo hết thảy mọi người rằng Quang cũng quy y Nặc Na! Người nghe liền tới hỏi pháp sư Đức Sâm, mới biết bọn họ dựng chuyện bịa đặt. Hiện nay là lúc tà ma xuất hiện trong cõi đời, chúng ta chỉ nên tự giữ đạo mình, quyết chẳng qua lại với họ. Nếu so đo một phen, bọn chúng sẽ càng thêm quấy nhiễu, báng bổ. Anh là anh, tôi là tôi, anh chẳng phạm đến tôi, tôi quyết chẳng phạm đến anh. Nếu không, chắc chắn chúng nó sẽ muốn bịa đặt, đồn thổi!

[Những sách vở được lưu hành bởi] Minh Thiện Thư Cục do các ông Thái Chấn Thân, Trương Tải Dương v.v… thành lập, quá nửa là các kinh sách ngụy tạo. Ai có tinh thần để quan tâm đến chuyện của họ cho được? Nếu Thượng Phong Quan có chánh tri kiến thì quan tâm đến còn có ích. Nếu không, sẽ đâm ra bị hại, sao lại khổ sở muốn tìm chuyện khổ như vậy?

 

133. Thư trả lời cư sĩ Trần Huệ Cung

     

      Năm ngoái ở Đại Sanh, năm nay tại Cư Sĩ Lâm, hai lượt cảm ứng đều đáng cảm hóa kẻ ngu tục. Phàm làm công đức, vẫn lấy việc tụng niệm Phật hiệu làm trọng, bất tất phải đổi thành niệm kinh Địa Tạng. Một pháp Niệm Phật được ích lợi dễ dàng nhất, do kinh văn ít nên dễ niệm. Dẫu có người cầm dao muốn giết cũng vẫn niệm được. Hễ niệm liền được lợi ích. Dương Giám Đình ở Tô Châu khom mình chào tên lính Nhật ở cửa thành, trong tâm niệm thánh hiệu Quán Âm, gã lính ấy không thích được cúi chào bèn vung đao chém xuống (đây chính là oan gia đời trước khiến cho ông ta bị toác da đầu), [đao] chạm đến da đầu liền trượt ngang. Da đầu đã toạc, chảy máu rất nhiều, nhưng xương đảnh đầu chẳng bị tổn thương mảy may. Nếu lưỡi đao không trượt ngang thì đầu đã thành hai mảnh rồi! Do vậy, biết trong thời thế nguy hiểm nhất, hãy nên lấy niệm Phật làm chánh.

Những kẻ khoe kỳ đua lạ đều chẳng chú trọng cứu khổ nạn, mà chú trọng tỏ lộ chính mình trí thức cao siêu. Các vị Pháp Thân đại sĩ thuộc bốn mươi mốt địa vị trong hội Hoa Nghiêm số đến vô lượng vô biên đều vâng lời Phổ Hiền Bồ Tát dạy, dùng công đức của mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh thế giới Cực Lạc để mong viên mãn Phật quả. Những vị ấy là người như thế nào? Chuyện ấy là chuyện như thế nào? Huống chi bọn ta gặp phải đại kiếp đao binh từ ngàn xưa chưa hề có, há nên đổi niệm Phật thành niệm kinh ư? Tâm Địa Tạng Bồ Tát cứu khổ khẩn thiết, nhưng so với A Di Đà Phật tiếp dẫn lúc lâm chung khiến được vãng sanh thì lại càng thua xa lắm. Vì thế, hãy nên uyển chuyển khuyên Huệ Giáp vẫn chú trọng chiếu theo quy cách cũ, vừa dễ làm mà lại lợi ích nhiều lắm! Pháp danh của mười ba người được viết trong tờ giấy khác. Đã nhận được món tiền bố thí của ông và của họ, cám ơn! Nay gởi [cho các ông] một gói Long Thư Tịnh Độ Văn, tổng cộng là mười bốn cuốn, nếu ai xem được thì đưa cho họ, bảo họ phải cung kính, chớ có khinh nhờn. Chẳng đọc được thì xin thay Quang tặng cho người khác để tạo phước cho người ấy. Quang già rồi, mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ, từ rày đừng giới thiệu người khác đến quy y vì không có sức thù tiếp. Nay tôi ở Linh Nham, dẫu không có một đồng nào cũng sống được, chứ không phải như ở chùa Báo Quốc, mọi người đều do Quang cung cấp.

 

134. Thư trả lời cư sĩ Lục Bồi Cốc

     

      Bản chú giải Tâm Kinh của Vô Cấu Tử[10] dường như đúng, nhưng [thật sự là] sai, chớ nên đọc, cũng chớ nên lưu truyền, vì ông ta dùng lời lẽ nhà Thiền để diễn tả pháp luyện đan vận khí, khiến cho những kẻ chẳng biết tông chỉ Thiền gia đi theo con đường luyện đan vận khí, lầm người hoại pháp cũng lớn lắm! Căn bệnh như ông nói đó là vì ăn nằm quá độ. Do chẳng biết đoạn dục nên thuốc men vô hiệu! Từ nay hãy nên đoạn dục, vợ chồng ngủ riêng, chẳng mấy bữa sẽ thấy công hiệu. Đôi bên đều không xem nhau như vợ chồng, mà nên xem nhau như anh em, hoặc coi như khách khứa, đừng để cho dục niệm chớm nẩy. Nếu ngẫu nhiên khởi lên dục niệm, liền tưởng rắn độc nuốt nam căn của chính mình (pháp này mầu nhiệm tột bậc. Nếu là nữ nhân hãy nên tưởng như rắn độc chui vào nữ căn) thì dục tâm sẽ tiêu diệt ngay!

      Sau khi bình phục vẹn mười, hãy nên dưỡng sức thêm bao nhiêu ngày nữa, từ đấy càng phải nên điều độ, chớ nên thường ân ái thì mới mong sống lâu, mạnh khỏe được! Nếu chưa được bình phục mười phần, quyết chẳng được nói “bệnh đã khỏe hẳn, ở chung phòng chẳng sao!” Nếu như thế, quyết khó thể mong chi lành mạnh được! Hãy nên nói rõ lời này với vợ. Đây là để lành bệnh, chứ không phải là đoạn dục vĩnh viễn. Cố nhiên, đôi bên hãy nên khuyên nhắc lẫn nhau, chẳng để đến nỗi có khi không nhịn được thì sẽ mau lành bệnh.

Nay tôi gởi cho ông một bao tro hương Đại Bi kèm theo thư. Tro này tôi đã dùng chú Đại Bi gia trì hơn bốn ngàn biến. Nếu có thể chí thành niệm Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát, chắc chắn chẳng mấy chốc sẽ lành. Một bao tro này có thể pha uống được năm sáu chục lần. Nếu sợ phiền [phải pha nhiều lần] thì có thể lấy một phần sáu [lượng tro], bỏ trong bát to, dùng nước sôi để pha, khuấy lên, đợi cho chất tro lắng xuống sẽ gạn lấy nước trong trút vào trong bầu, hoặc trong bình, trong vò, mỗi ngày uống ba bốn lượt. Cần phải ăn chay, hằng ngày thường niệm thánh hiệu Quán Âm. Nếu thấy hiệu nghiệm lớn lao, lần sau chỉ pha [lượng tro vừa đủ dùng] do giữ nước lại không [thuận tiện] bằng giữ tro. Sau khi lành bệnh, đem số tro còn dư treo ở chỗ cao sạch sẽ, hoặc để thờ dưới khám thờ Phật, chớ nên khinh nhờn! Nếu gặp chứng bệnh nguy hiểm liền pha uống, ắt sẽ có thể khởi tử hồi sanh. Dẫu tuổi thọ đã tận, uống vào cũng có lợi ích. Chất tro sau khi pha xong nên thêm nước vào để trát lên nóc nhà, hoặc đổ xuống giếng, chớ nên đổ vào nơi ô uế. [Tro này] so với nước Đại Bi có công hiệu lớn hơn vì nước Đại Bi gia trì mấy chục biến hoặc mấy trăm biến liền bị người khác muốn lấy đi, không có nước nào để lâu hơn ba bốn tháng. Tro này chuẩn bị sẵn cho người ở nơi xa chẳng thể gởi nước đến được! (Ngày mồng Mười tháng Chín năm Ất Hợi - 1935).

 

135. Thư trả lời cư sĩ Quý Quốc Hương (thư thứ nhất)

 

     Nhận được thư, khôn ngăn cảm kích, hổ thẹn. Quang là ông Tăng tầm thường chỉ biết cơm cháo, đối với Thiền lẫn Giáo đều chẳng theo đuổi được, chỉ nương nhờ, quy hướng pháp Niệm Phật. Đối với chuyện làm thầy người khác, thật chẳng dám chấp nhận bừa bãi! Cũng có người do lầm nghe theo kẻ khác xin đặt pháp danh, Quang cũng ngượng ngùng đáp ứng là vì mong họ sanh lòng tin đối với Phật pháp, gieo thiện căn, chứ không phải là Quang có thể làm thầy người khác được! Còn như các hạ, Thiền - Giáo đều thông, giới hạnh tinh nghiêm, giữ vững tám giới, thường chỉ ăn ngọ. Quang còn chưa thể giữ lệ ăn ngọ được; nếu lúc này mạo muội nhận lời, mai sau chắc ông chẳng tận mặt thóa mạ, ắt cũng sẽ hối hận thuở trước không xét kỹ, đến nỗi đối với chuyện cầu phước điền lại đâm ra trở thành hành động khinh Tăng mạn pháp! Vì thế, chẳng thể không nói duyên do. Mong ông hãy chuyển sang lễ bái bậc cao nhân ngõ hầu được lợi ích lớn lao!

Lại do ông mong được một lời nói để minh tâm, cũng chẳng dám khinh suất dễ dàng nói ra. Nếu đối với người chưa hiểu Phật pháp mà giảng đại lược lý tánh chắc cũng còn [tạm] nói được. Chứ nói đúng theo sự thật thì minh tâm nhưng chưa đạt đến địa vị đại triệt đại ngộ, nào ai dám tự phụ? Do vậy, mong các hạ hãy tự xét. Nếu quả thật đạt đến chỗ như Lục Tổ nghe câu “không nên trụ vào đâu mà sanh tâm”, Bàng cư sĩ nghe câu “đợi ông một hơi uống sạch nước Tây Giang, ta sẽ nói cho ông”[11], sư Đại Huệ nghe câu “gió Nồm thổi từ phía Nam đến, điện gác thành mát mẻ”[12] thì mới được. Nếu không, nào dám nói bừa chuyện minh tâm? Quang vốn là một ông Tăng kém hèn, chẳng dám nói lời quá lố, cũng chẳng dám tâng bốc người khác quá mức. Vì thế, mới nói ra câu đụng chạm này! Còn như sáu bài Bút Ký như ông đã nói thì đều hay cả, chỉ có hai câu của Lục Tổ và Thần Tú[13] thì chưa nêu ra điều hại, lẽ tệ, xin viết thêm vào. Lời của Tú đại sư tuy về mặt ngộ thì chưa ngộ, nhưng nếu y theo đều có ích. Lời của Lục Tổ nếu chưa thực chứng mà y theo sẽ bị họa chẳng cạn. Mong hãy rủ lòng xét rõ! (viết vào đêm Trừ Tịch (30 Tết) dưới đèn)

 

136. Thư trả lời cư sĩ Quý Quốc Hương (thư thứ hai)

 

      Cung kính tượng Phật bằng đất nặn hay gỗ chạm như đức Phật thật, chắc chắn sẽ có thể thành Phật, huống là [mong thành tựu] những điều khác ư? Quang chỉ là một bức tượng bằng đất, bằng gỗ mà thôi! Ông cứ muốn kính trọng như một vị Phật thì cũng chỉ tùy ông, chứ hình hài đất gỗ vẫn chẳng thay đổi! Sở dĩ [ông được] tiêu trừ nghiệp chướng, tăng trưởng phước huệ là do lòng kính của ông cảm nên. Nay đặt pháp danh cho ông là Huệ Tu, nghĩa là dùng trí huệ tu tập pháp tự lợi lợi tha. Chớ nên nghĩ pháp tự lợi lợi tha vừa nói đó là quá lớn, quá cao, quá sâu, nó chính là “giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương” mà thôi! Nguyên do của nỗi loạn lạc cùng cực hiện thời là vì chẳng nói đến nhân quả báo ứng và giáo dục trong gia đình mà nên nỗi! Giáo dục trong gia đình càng phải chú trọng nhân quả báo ứng và dạy dỗ con cái. Ông hãy nên tùy phần tùy sức bảo hết thảy mọi người các sự lý này thì đối với Phật pháp, đối với Nho giáo đều được hữu ích.

      Ngộ đạo dễ dàng, chứng đạo thật khó! Người đời nay phần nhiều đều chưa ngộ thật sự, chỉ lờ mờ, phảng phất, biết được chút phần liền tưởng “không có sanh tử để thoát, chẳng có Phật đạo để thành”, mặc sức phóng túng, tương lai đều nằm tù Diêm La. Đến lúc ấy mới biết cái ngộ (: giác ngộ) thuở trước chính là ngộ (: lầm lạc) vậy! Ông sau khi đã ngộ được câu “vốn không có một vật” bèn xét kỹ tập khí Tam Độc chẳng dễ tiêu trừ, quy tâm Tịnh Độ để cầu liễu thoát trong đời này, có thể nói là đã có thiện căn từ xưa. Những kẻ thông minh tự phụ chẳng chịu đổ công phu thật sự, rốt cuộc tự thành lừa mình dối người, nào có hạn lượng? Nguyện ông từ đầu đến cuối giữ mãi chí này, cùng với lệnh từ[14] và vợ con cùng niệm Di Đà, cùng sanh Tịnh Độ, ngõ hầu chẳng uổng phí cuộc đời này và dịp gặp gỡ này.

Ông trên có mẹ già, dưới có vợ con, ngàn muôn phần chớ nên khởi ý tưởng đoạn diệt. Nếu gặp tai họa bất trắc, không tìm được cách nào thì cũng nên chí thành cầu Phật gia bị để mong miễn thoát. Dẫu cho định nghiệp khó tránh, cũng nên một niệm dốc lòng thành, liền được tiếp dẫn, chứ đâu phải do bảy ngày không ăn mới đạt được! Đã mang sẵn ý tưởng ấy chính là đã có căn cội ma, cho nên tôi phải nói toạc ra. Hai mươi đồng ông đã gởi sẽ viết thư cho hòa thượng Chân Đạt chùa Thái Bình tại Thượng Hải, nhờ Sư thay tôi gởi cho ông bốn gói Quán Âm Tụng, ba gói Gia Ngôn Lục, ba gói Di Đà Kinh Bạch Thoại Chú. Đợi tới năm sau, Cảm Ứng Thiên Trực Giảng được in ra, sẽ gởi cho ông một hai gói để giúp dạy dỗ con cái, giáo hóa xóm làng. Tháng Ba năm sau Quang sẽ sang Thượng Hải để hoàn tất việc in sách. Trong mùa Thu sẽ làm một kẻ đi khắp Đông - Tây - Nam - Bắc, trọn chẳng có chỗ nhất định để tiện chuyên tâm niệm Phật, khỏi phải thù tiếp thư từ, kẻo hỏng đại sự của tôi! Sau này, có muốn thỉnh kinh sách, xin hãy gởi thẳng khoản tiền ấy cho hòa thượng Chân Đạt chùa Thái Bình bến Trần Gia, Thượng Hải thâu nhận, Sư nhận được sẽ gởi biên nhận về cho ông, hễ có sách liền gởi ngay. Nếu không có thì phải đợi có sách rồi mới gởi. Đừng gởi tiền sang Định Hải, Ninh Ba khiến mệt trí đến cùng cực! (ngày Hai Mươi Mốt tháng Mười Hai).

 

137. Thư trả lời cư sĩ Hoàng Bảo Việt

 

      Hôm qua nhận được thư, khôn ngăn cảm kích. Chuyện ấy đã làm mệt trí các hạ, chịu lỗi khôn xiết. Ông Đối Phù chẳng chú trọng cho đỡ tốn kém, chỉ mong cho tâm nguyện này sớm được hoàn tất mà thôi. Nay đã chẳng thay đổi những gì đã bàn định trước đây, đã cho tiến hành gấp những việc ấy. Vẫn mong không lâu nữa các hạ sẽ lại tiến hành điều tra coi có thực sự in được hay không? Nếu chẳng điều tra, chắc sẽ đến nỗi nói rồi không xét tới, lại cứ chất đống bỏ đó mà thôi. Còn chuyện in ra sách xong sẽ biếu tặng, Quang thật sự chẳng cần đến, chỉ cần bảo người đưa sách qua chùa Thái Bình gởi một phần cho Quang xem là được rồi, không cần nhiều!

Hỏi đến chuyện sang đất Hỗ (Thượng Hải) thì sợ không có dịp nữa! Quang đã ngoài bảy mươi rồi, đâu còn được bao lâu nữa, ở yên trong quan phòng đợi chết mà thôi! Nếu ra khỏi quan phòng thì tổn hại cho chính mình, mà cũng vô ích cho người. Do vậy, chỉ mong sớm vãng sanh, chẳng mong tới lui những chỗ đại chúng tụ hội nữa. Nguyện các hạ phát Bồ Đề tâm, hành phương tiện sự, khiến cho con cái phước huệ ngày càng tăng, có thành tựu lớn lao vậy! (ngày mồng Chín)

Hôm qua tôi đã đem nguyên thư [của ông] gởi cho Đối Phù để [ông ta được] thỏa lòng khát vọng.

 

138. Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn (thư thứ nhất)

 

      Hôm qua do Phổ Đà chuyển thư đến, biết đất Tần (Thiểm Tây) của tôi vẫn còn có người phát tâm mộ đạo, tu trì Tịnh nghiệp, khôn ngăn vui mừng, an ủi. Quang sống tại Phổ Đà ba mươi bảy năm, do tuổi già khó thể thù tiếp, nên tháng Bảy năm ngoái xuống núi, tính sang Hương Cảng (hai năm trước đây có đệ tử nhiều lần thỉnh, đã chấp thuận rồi). Bạn bè sợ vượt biển trúng gió, chắc đến nỗi bị tổn thương, giữ lại bế quan ở Tô Châu, hết thảy [mọi chuyện] bên ngoài đều tạ tuyệt. Các hạ đã đọc Văn Sao, hãy nên hành theo đó thì nhất định sẽ được lợi ích lớn lao. Đừng do đọc kinh Đại Thừa hoặc gặp những vị tri thức Tông, Giáo, Mật v.v… liền vui thích sự sâu mầu rộng lớn của những pháp môn ấy và vì [nghĩ] những khai thị ấy thân thiết cao xa, huyền diệu, bèn bỏ Tịnh Độ để tu hành các pháp môn khác thì sẽ chẳng đến nỗi chỉ gieo nhân liễu sanh tử, quyết khó thể đạt được cái quả liễu sanh tử ngay trong đời này!

Vì sao vậy? Vì hết thảy pháp môn đều cần phải tự lực tu trì đến lúc “nghiệp tận, tình không” rồi mới có thể liễu sanh tử. Nếu không, dẫu cho ông công phu sâu xa, kiến địa cao vời, công đức lớn lao, nhưng nếu còn một mảy phiền não chưa đoạn sạch thì vẫn là người trong luân hồi y như cũ. Đã ở trong luân hồi thì người từ mê tiến vào ngộ rất ít, kẻ từ mê tiến vào mê rất nhiều! Lại chẳng biết có còn gặp được Phật pháp nữa hay không? Dẫu gặp được Phật pháp mà chẳng gặp được pháp môn Tịnh Độ thì vẫn y như cũ, không có thuở thoát khổ. Cậy vào tự lực [để thoát sanh tử] thì cả cõi đời khó được một hai người [thành công]. Cậy vào Phật lực thì muôn người chẳng sót một ai! Pháp môn Tịnh Độ dùng sự tín nguyện trì danh của chính mình để cảm Phật, Phật dùng thệ nguyện nhiếp thọ. Ví như ngồi tàu thủy vượt biển, sức của chính mình chẳng thể sánh bằng được. Nhưng đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.

Dùng những điều này để tự hành, lại còn dùng những điều ấy để khuyến hóa cha mẹ, anh em, vợ con, xóm làng, thân thích, bạn bè để bọn họ đều cùng được thấm nhuần pháp, cùng tu Tịnh nghiệp thì công đức của chính mình càng lớn, chắc chắn được vãng sanh không nghi ngờ chi! Nếu ngoài mặt tỏ vẻ từ thiện, trong tâm ôm lòng độc ác thì tâm trái với Phật, chắc chắn khó thể vãng sanh! Ví như uống thuốc, chẳng thể uống chung với những thứ kỵ thuốc! Nếu cùng uống có thể bị mất mạng, không cách chi lành bệnh được! Nay gởi cho ông hai gói sách để làm căn cứ tự hành, dạy người. Quang đã bảy mươi mốt tuổi rồi, tinh thần chẳng đủ, đừng thường gởi thư đến. Đã có Văn Sao, Gia Ngôn Lục làm chủ, các sách khác giúp thêm thì cũng chẳng thiếu sót, tiếc nuối chi! Đây là nói về người thật sự vì sanh tử, chứ nếu muốn làm bậc đại thông gia thì sách trong cả thế gian đều phải nên đọc. Dẫu có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi! (ngày Mười Tám tháng Giêng năm Dân Quốc 20 - 1931)

 

139. Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn (thư thứ hai)

 

      Thư và hai gói sách đều nhận được. Sau này không cần phải gởi sách xuống phương Nam vì thiện tín ở phương Nam in sách rất nhiều. Chẳng gởi cho nơi không có sách lại gởi sang chỗ có [nhiều sách] tức là đã làm chuyện ngược ngạo rồi đấy! Trong bộ Đạt Sanh Phước Ấu Hợp Biên đã in vào năm trước, ắt có bài Ma Chẩn Bí Phương (toa thuốc bí truyền trị bệnh sởi). Do vùng Quan Trung chúng ta không có sách ấy nên cũng không mong ông đi kiếm thử. Ông là người đã có tín tâm từ đời trước, muốn quy y thì hãy nên sốt sắng giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì mới là đệ tử thật sự của đức Phật. Thường thấy những kẻ học Phật cũng là giả vờ làm, chứ thật ra suy nghĩ, cư xử vẫn chú trọng nơi lợi, nơi dục, vẫn mê nhân mờ quả y như cũ, dối Phật, lừa người. Những kẻ giả thiện ấy quả thật là lũ giặc trong cửa Phật, hãy nên răn dè sâu xa!

Đừng nói “đối với chuyện lớn chẳng thể dối mình, lừa người”, ngay cả nơi khởi tâm động niệm cũng phải chú trọng lòng Thành. Nếu có thể chân thành chẳng dối thì lâu ngày chầy tháng ắt được người ta tin tưởng. Người khác đã tin tưởng thì thiên địa quỷ thần sẽ thường che chở, gia hộ, khiến cho thường được tốt lành. Huống chi Phật, Bồ Tát đại từ đại bi có khi nào chẳng rủ lòng Từ gia bị ư? Đường bộ ở đất Tần đây kia qua lại bất tiện, thật khó thể hội ngộ với người cùng chí hướng. Hãy nên bầu bạn với cổ nhân và thường đọc Văn Sao, Gia Ngôn Lục, An Sĩ Toàn Thư v.v… để giống như được một vị thầy kèm cặp, hằng ngày nhận lãnh giáo huấn, đức sẽ tự tăng tấn. Chớ nên giao du với những kẻ giả vờ là thiện nhân hoặc tu pháp luyện đan vận khí của ngoại đạo để khỏi bị họ lây nhiễm.

Ông đã phát tâm quy y, nay đặt cho ông pháp danh là Đức Tấn. Tấn là tiến lên. Nếu có thể nương theo Phật pháp để tu trì liền có thể dự vào bậc thánh hiền ngay nơi thân này, lâm chung lên cõi Cực Lạc. Đấy gọi là Đức Tấn. Cần phải phát Bồ Đề tâm, tùy cơ khuyên dạy, sẽ có lợi ích lớn lao cho sự tu tập của chính mình. Hãy nên thường nói với bác gái của ông về lợi ích, cách tu pháp môn Tịnh Độ, khuyên bà ta đừng học pháp của ngoại đạo, cũng như đừng niệm Phật để cầu phước báo trong đời sau, ngõ hầu bà ta được vãng sanh thì mới thật sự là đại hiếu. Phải biết chuyện liễu sanh tử chẳng thể coi giống như chuyện nhỏ nhặt. Đại Vũ là bậc đại thánh nhân vẫn chưa thể giữ cho cha chẳng bị biến thành con Hoàng Nai (chữ Hùng () đọc thành âm Nãi (), giọng ngang, [tức là đọc thành Nai], chính là con ba ba (cua đinh) ba chân. Cũng có người đọc là Năng (), nhưng [đa số] đều đọc thành Nãi, giọng ngang). Suy tưởng đến đây, chúng ta thật sự được may mắn không chi lớn bằng! Cũng nên tùy phần tùy cơ chỉ dạy người em thứ ba của ông.

Từ nay về sau chỉ nên đọc kỹ Văn Sao v.v… chớ nên tự tiện gởi thư đến vì Quang không có sức chịu đựng. Văn Sao, Gia Ngôn Lục chính là niềm tin chung cho khắp hết thảy những ai chuyên tu Tịnh Độ. Nếu học tràn lan các tông thì chẳng phải là đương cơ để bàn luận rồi. Người đời nay nếu chẳng chuyên tu Tịnh Độ dẫu có thể thông suốt kinh tạng sâu xa, triệt ngộ tự tâm, nhưng sanh tử xảy đến vẫn chẳng sử dụng được gì! Vì sao vậy? Nếu chẳng niệm Phật cầu sanh Tây Phương, ắt phải đoạn sạch phiền não Hoặc nghiệp thì mới có phần liễu sanh tử! Chỉ thông đạt kinh luận, ngộ rõ tâm tánh, nhưng Phiền Hoặc chưa đoạn thì vẫn luân hồi y như cũ. Huống chi kẻ chưa thể thông hiểu sâu xa kinh tạng lẫn tự tâm ư? Niệm Phật liễu sanh tử hoàn toàn cậy vào Phật lực, do sức lực của lòng tin chân thật, nguyện thiết tha của chính mình để niệm Phật ngõ hầu cảm được Phật rủ lòng Từ tiếp dẫn, vì thế có thể đới nghiệp vãng sanh. Ông hãy dốc chí nhé!

     Lại nữa, hôm nay có một đệ tử, nói mẹ và vợ ông ta năm ngoái cùng bị bệnh sốt rét hai ba tháng. Do vậy, tôi nghĩ bệnh này khá độc hại, nay tôi giới thiệu bài thuốc tuyệt diệu trị bệnh sốt rét, mong ông hãy ấn tống lưu truyền rộng rãi, đấy quả thật là một đầu mối để lợi người vậy (viết dưới đèn vào ngày Hai Mươi Bốn tháng Hai)

 

* Toa thuốc thần diệu trị bệnh sốt rét

 

      Ô Mai (hai quả), Hồng Táo (hai quả), Hồ Đậu (một tuổi thì một hạt, người mười tuổi liền viết mười hạt, mười một tuổi liền viết mười một hạt, những người khác từ đây mà suy).

      Dùng một tờ giấy trắng viết ba loại ấy, gập lại, xếp thành lớp. Trước khi bệnh sốt rét phát ra độ một tiếng, tức là một nửa thời thần[15] - do trong làng quê không có đồng hồ nên phải nói là “nửa thời thần” - quấn quanh bắp tay, tức phần trên bàn tay, phía dưới khủy tay thì [bệnh sốt rét] sẽ chẳng phát ra, cũng chẳng cần phải mua thuốc. Chỉ viết tên ba thứ này, quấn trên tay là được! Cần phải phân ra “nam tả, nữ hữu”. Lúc quấn đừng nói với người khác. Cách này cực hay, được chép phía sau bộ An Sĩ Toàn Thư, do chữ quá nhỏ, sợ người ta chẳng để ý đến nỗi chẳng được lợi ích thật sự.

 

140. Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn (thư thứ ba)

 

      Nhận được thư mấy hôm trước, gặp đúng lúc phải giảo chánh sách cho người bạn. Hơn nữa, người bạn ấy đã định ngày trở về (người ấy ở Tô Châu nói mồng Một tháng Tư sẽ đi, cuối tháng Ba đã phải giao sách) nên phải căn theo kỳ hạn ấy để giao phó, khá là bận bịu, chẳng rảnh rang để phúc đáp được. Tiếp đó là ảnh chụp được gởi tới, rồi đến bột sen để điểm tâm được gởi đến. Trong thư có bưu phiếu mười hai đồng, đều nhận được cả rồi. Mười mấy hôm trước, tôi đã bảo gởi thêm mười gói sách, chắc ông đã nhận được rồi! Ông thật chẳng biết thời thế, từ xa mấy ngàn dặm gởi thức ăn đến, đôi bên mất công, phí tiền, rốt cuộc có ích chi đâu? Chỉ xé cái bao này không thôi đã tốn khá nhiều thời gian rồi; hộp đựng điểm tâm và món điểm tâm đều bị ép nát nhừ. Mấy chục năm qua, Quang chẳng thích ăn những thứ lặt vặt. Hễ có ai tặng cho bột ngó sen, bột sắn dây, chưa hề pha tới, đem biếu hết cho mọi người dùng. Từ đây về sau, muôn phần xin đừng đem những chuyện này khuấy nhiễu tôi. Nhà ông có của ăn của để, sao vì nhận chức Khu Trưởng mà đến nỗi kết oán với bọn nhỏ nhen, gây hại cho mai sau? Nay may mắn vì niệm Phật mà từ chức, đấy cũng là do đức Phật mở cái tâm cho ông, bảo vệ gia đình ông, hãy nên sanh lòng cảm kích, thật tâm tu trì. Chớ nên hữu danh vô thật, hoặc cầu hư danh thì lợi ích chẳng cạn đâu!

Nếu muốn đề xướng, hãy nên biết cái thân là gốc. Nếu chính mình có thể giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, lại còn bảo những ai thông hiểu văn lý đọc các sách Văn Sao, Gia Ngôn Lục, An Sĩ Toàn Thư v.v… và kể với họ những chuyện niệm Phật cảm ứng trong cõi đời gần đây. Bọn họ lậm sâu chất độc của bọn Âu, Hàn, Trương (Hoành Cừ)[16], Trình, Châu, Lý (Nhị Khúc)[17]. Do vậy, cũng chẳng thể không dần dần chuyển biến tà chấp của bọn họ để lòng họ hướng về chánh pháp. Điều quan trọng là làm cho hết thảy nam nữ ai nấy ở trong nhà mình thực hành đạo “giữ vẹn luân thường, niệm Phật”. Đừng học theo thói của những kẻ đề xướng hiện thời: Trước hết xây dựng một cơ sở kiến trúc lớn lao, tốn kém chẳng ít, kêu gào người khác quyên tiền, người ta chẳng bội phục cho lắm. Huống hồ sự việc lớn lao, không có người trông nom sẽ không được! Mướn người thì lương bổng phải lấy từ tiền quyên mộ, sẽ thành trở ngại lớn. Quang nói với ông một biện pháp tuyệt diệu nhất: Ở trong thôn hoặc chính mình có căn nhà trống thì [dùng nơi đó để] lập một cơ sở. Nếu không, thì một ngôi miếu hoặc từ đường ở vùng phụ cận đều được. Mượn chỗ ấy để tiến hành, dùng bảng hiệu linh động, có thể treo lên hoặc gỡ xuống dễ dàng.

Ước định mỗi tháng một lần, giảng nói cách tu và lợi ích của Tịnh Độ ở cơ sở ấy. Tuy chẳng thể cự tuyệt nữ nhân, nhưng ai tuổi tác quá nhỏ thì xin họ đừng đến nghe để [người ngoài] khỏi sanh lời bàn tán, hoặc đến nỗi bọn cuồng đồ do vậy sanh sự! Ngoài ra, nếu ông không phải chuyên lo nghề nông, nghề buôn, nếu có một hai gia đình tin tưởng, muốn cho thân quyến thuộc phái nữ của họ đều được hưởng lợi lạc nơi pháp thì sẽ ước định kỳ hạn để mời đến nhà người ấy giảng diễn pháp môn Tịnh Độ cho các bà, các cô. Gia đình đứng ra thỉnh phải có người đàn ông đã đủ độ tuổi hiểu biết thì mới nên nhận lời thỉnh. Nếu chỉ có nữ nhân, hoặc bé trai, hoặc ông già chẳng thể đi đứng được thì đều chẳng nhận lời thỉnh. Loại giảng diễn ấy chớ để cho người ngoài đến dự, chỉ hạn chế trong vòng gia quyến của người đứng ra thỉnh và người trong nhà họ cùng thân quyến mà thôi!

Đến nhà ấy, hãy nên lập một pháp vị (chỗ để giảng pháp). Không cần phải bày tượng Phật, chỉ cần coi chỗ ấy như là chỗ đức Phật ngự, liền hướng về chỗ ấy đảnh lễ một lạy, bảo người nghe cũng lễ một lạy, rồi liền ngồi diễn thuyết. Nói xong, ra trước pháp tòa lễ một lạy, cũng bảo người mời [ông đến giảng] và người nghe giảng lễ một lạy, không ăn uống, không nhận cúng dường. Như thế mới khỏi bị dị nghị. Về sau, nếu có ai muốn làm thì cũng phải giống như thế. Liên xã ấy nên đặt tên là Đôn Luân Liên Xã. Phàm những ai dự vào Liên Xã ấy và người diễn thuyết đều phải chú trọng giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận. Gặp cha nói từ, gặp con nói hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành, ai nấy đều trọn hết thiên chức của chính mình. Làm cha mẹ dạy dỗ, uốn nắn con cái quả thật là căn bản để thiên hạ thái bình. Muốn cho ai nấy trọn hết bổn phận mà không sốt sắng đề xướng nhân quả báo ứng, chắc chắn sẽ chẳng có hiệu quả thật sự. Ông làm được như thế ắt sẽ có người khác nhìn theo làm lành.

Ngoài ra, chớ nên nắm níu đồng môn lung tung. Dẫu bọn họ lấy tình đồng môn đến thăm hỏi, cũng đừng giao thiệp với họ ngay vì hiện thời những kẻ giả danh người lành đông lắm. Nếu giao du bừa bãi, ắt sẽ mang lụy. Lời tựa và bạt cho Liên Xã, đợi khi rảnh rỗi sẽ viết rồi gởi đến. Đối với hai người em trai, ông nên đưa thư cho họ đọc trước, cho biết vì sao ông đã thay họ xin quy y. Trước hết, đem pháp danh gởi đi, bảo họ gởi thư đến lễ tạ để tôi tiện thể ban lời khai thị chân thật. Nếu trọn chẳng có mảy may sắp đặt nào mà tôi liền gởi lời khai thị tới ngay, sợ họ sẽ chẳng nghe, lại còn thiếu sót lễ tiết nữa! Nếu họ gởi thư đến, phải dùng danh xưng “đệ tử Ninh… pháp danh Đức… đảnh lễ”. Chuyện ấy cố nhiên không cần phải nói nữa. Nhưng có kẻ chẳng biết thời thế, muốn cầu quy y mà vẫn chẳng chịu dùng một chữ khuất mình, trở thành khinh pháp mạn người. Nếu chấp nhận [cho kẻ ấy quy y] thì đôi bên đều bị mắc lỗi. Quang già rồi, chớ nên thường gởi thư đến. Những điều tôi đã nói với ông, hãy tham khảo thêm những điều đã nói trong Văn Sao để châm chước mà làm. Đợi sau này, Chánh Tín Lục được in ra, sẽ gởi bao nhiêu đó cuốn để làm cho những kẻ lậm sâu thuốc độc đều ói sạch cả ra, để làm một nhà Nho chân chánh mới mẻ.

Bọn Trình - Châu không chỉ trái nghịch Phật pháp mà còn hoàn toàn trái nghịch tâm pháp của thánh nhân. Những kẻ phế kinh điển, phế luân thường, vứt bỏ lòng hiếu, không biết hổ thẹn, giết cha, giết mẹ ngày nay đều do bọn Lý Học đả phá nhân quả, báo ứng, sanh tử, luân hồi mà ra. Họ cho rằng “có làm điều gì để làm lành thì chính là ác”; ngăn cản cái tâm vui mừng hâm mộ làm lành của người khác. Họ cho rằng “con người chết đi, hình hài đã mục nát, thần hồn cũng phiêu tán”, tức là mở ra con đường không kiêng sợ cho người khác. Thật ra, họ muốn đối nghịch đức Phật để Nho giáo được hưng thịnh lớn lao, chẳng biết Nho giáo bởi đấy mà bị diệt vong, chẳng đáng buồn sao? Nhưng ông học vấn chưa rộng lớn, hãy cứ sốt sắng đề xướng [pháp môn Tịnh Độ], còn những chỗ đả phá bài xích Lý Học hãy để từ từ. Nếu không, chắc sẽ bị bọn hẹp hòi câu nệ ám hại ngầm, chẳng thể không biết [điều này]! Mong hãy sáng suốt soi xét.

Tôi một bề chẳng so đo, cứ tiện tay dùng giấy để viết nên khổ giấy lớn -nhỏ bất nhất. Tờ giấy này dùng để dán vào cửa kiếng trong mùa Đông vừa rồi, vứt đi cũng đáng tiếc; vì thế, dùng [để viết thư] cho kẻ tri kỷ. Người em thứ hai tên là Trung Vũ, pháp danh là Đức Hằng. Nếu con người
“vô hằng” (không có ý chí chẳng đổi dời) thì chẳng những không thể học Phật mà cũng chẳng thể làm người. Hãy nên dùng hằng tâm để nghiêm túc giữ luân thường đạo lý hòng trọn hết bổn phận làm người. Lại còn dùng hằng tâm kiền thành tu pháp môn Tịnh Độ để thực hiện đạo “tự lợi, lợi người” thì gọi là Đức Hằng. Người em thứ ba tên là Hiến Vũ pháp danh là Đức Phục. Bản tâm của chúng ta cùng bản tâm của Phật không hai, do mê muội nên ngược ngạo làm chúng sanh. Nếu có thể tận lực thực hành đạo “giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận” và pháp tín nguyện niệm Phật, sẽ khôi phục nguồn tâm sẵn có, tức là như câu nói: “Thánh do mất niệm mà thành cuồng”, nay vẫn dùng cái tâm này để cầu ngược lại, liền có thể khôi phục được nguồn tâm sẵn có, [tức là] “khắc niệm thành thánh” vậy! Xin hãy sao lại những điều này, gởi sang cho họ
(ngày mồng Ba tháng Tư năm Dân Quốc 20 - 1931)

 

141. Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn (thư thứ tư)

 

      Bài tựa duyên khởi cho Đôn Luân Liên Xã[18] đã soạn xong gồm tám trăm sáu mươi tám chữ. Văn tuy vụng về, chất phác, nhưng nghĩa vốn lấy từ kinh Phật, lời Tổ, thật đáng để nương theo, trọn chẳng có nghĩa nào đáng ngờ! Hãy nên thỉnh người viết chữ đẹp viết theo lối chữ Khải. Nếu dùng lối nửa chữ Hành, nửa chữ Thảo, chen thêm kiểu chữ Lệ, chữ Triện v.v… thì chỉ có thể làm vật gây sướng mắt cho người đọc, chứ không thể dùng làm căn cứ để lợi người! Vì thế, muốn cho hết thảy mọi người hễ xem đến đều cùng hiểu rõ ngay, chắc chắn chớ nên dùng những kiểu chữ Hành, Thảo, Triện, Lệ! Hơn nữa, mỗi chữ đều viết theo lối Chánh Thể, phàm những lối Tục Thể, Thiếp Thể, Phá Thể đều thuộc loại khinh nhờn, thiếu trang trọng, cũng chớ nên dùng.

Lại có những người viết chữ thuê thường viết thừa nét hoặc viết thiếu nét các chữ, nhưng đều chẳng chịu sửa đổi, chỉ ghi chú ở cuối bài, [những lối viết ấy] cũng đều chẳng đáng để noi theo! Hễ sửa cho đúng thì văn lẫn nghĩa đều rõ ràng. Bọn họ chỉ mong cho đẹp mắt, không màng tới văn nghĩa, đấy chính là thói xấu của bậc đại thông gia. Nếu chữ nhiều thì dùng một chấm to chấm trên mỗi chữ, hoặc dùng một hình tam giác (△) để đánh dấu bên cạnh. Nếu sót chữ thì viết chèn vào chỗ giao nhau giữa chữ trên và chữ dưới để vừa nhìn liền biết ngay. Hơn nữa, hãy nên chấm câu để ai nấy đều đọc thành câu [trọn vẹn]. Nếu chẳng chấm câu, lại gặp phải người chưa hề nghe đến Phật pháp sẽ thật khó thể lãnh hội được ý nghĩa lời văn. Đối với những nghĩa được nói và người được nói trong bài văn ấy, hãy xem nhiều trước thuật Tịnh Độ sẽ tự biết. Do tinh thần không đủ nên chẳng thể sao chép cặn kẽ cho ông được. Bốn vị đại sư Thiện Đạo, Pháp Chiếu, Phi Tích, Huệ Nhật đều là bậc hoằng dương Tịnh Độ ở đất Tần[19] vào đời Đường. Muốn biết tường tận hãy nên tra trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục sẽ tự biết (mồng Năm tháng Năm)

 

142. Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn (thư thứ năm)

 

       Mồng Ba tháng này nhận được thư ông, biết ông vẫn chưa nhận được bài tựa cho Đôn Luân Liên Xã được gởi bằng thư bảo đảm ngày mồng Năm tháng Năm, vì thế không trả lời ngay, chờ nhận được tin hồi báo rồi sẽ trả lời. Nay đã mồng Chín mà vẫn chưa nhận được tin, sợ bị thất lạc rồi, hoặc đã quên ghi. May là lần này vẫn còn giữ bản nháp. Nếu chưa nhận được, xin hãy nói rõ cho biết, sẽ sao lại gởi đi. Người em trai thứ tư của ông tuổi còn thơ bé đã muốn xin quy y, tánh tình minh mẫn, nếu chẳng giữ nết khiêm tốn thì chẳng những không được ích mà ngược lại còn bị hại. Những kẻ thông minh xưa nay phần nhiều đều mắc họa vì thông minh là do cậy mình thông minh rồi khinh người miệt thánh, hoặc báng Phật hủy pháp, hoặc lầm lạc nẩy sanh ý kiến ức đoán, cầu mong danh lợi trong đời này và hư danh sau khi đã chết. Chẳng biết đã thiếu đức khiêm cung thì thiên địa quỷ thần đều ghét, huống chi con người? Vì thế, thường đều trở thành phường cuồng vọng, hoặc trở thành lũ gian ác. Nếu giữ lòng khiêm cung thì càng thông minh càng có lợi ích thật sự, ắt sẽ có thể nghèo cùng thì riêng mình thiện, hễ hiển đạt thì làm cho người khác được cùng thiện. Huống hồ có thể nương theo pháp môn Tịnh Độ trong Phật pháp để tự lợi, lợi tha ư?

Con ông sẽ có pháp danh là Tông Tâm. Cháu ông sẽ có pháp danh là Tông Huệ. Do có thể chú trọng cái gốc nơi tâm, nơi huệ thì ruộng ấy sẽ thâu hoạch được. Nhỏ là hiền nhân, thiện nhân trong thế gian; lớn là thánh nhân xuất thế gian, do chính mình có siêng năng cày cấy hay không và cày cấy có đúng cách, có được hạt giống tốt nhất hay không? Thầy Minh Đạo là đệ tử của người bạn Quang là sư Chân Đạt, trước đây cũng quy y với Quang. Nhưng Quang thề chẳng thâu nhận đồ đệ, nên theo xuất gia với người bạn. Hoàng Hàm Chi bận bịu gần chết, đừng gởi thư cho cho ông ta! Lời đề bạt cho Tam Dư Đường[20], trong nhất thời trọn chẳng có lúc rảnh rỗi. Phàm diễn thuyết đều có chuyện lập pháp tòa, nhưng người nói đứng, kẻ nghe ngồi, chẳng những không hợp nghi thức mà còn kẻ mệt nhoài, người nhàn nhã quá mức, quyết chẳng thể theo cách ấy được. Hãy nên ai nấy cùng ngồi để nói, để nghe. Nhiễu Phật nhưng không thể nhiễu quanh Phật, chỉ [có thể] nhiễu quanh trước Phật thì cũng giống như nhiễu quanh đức Phật. Niệm ra tiếng hay niệm thầm đôi đằng đều có ích; nhưng niệm rõ tiếng chẳng thể niệm lâu được, hãy nên phần nhiều chủ yếu là niệm thầm thì chẳng đến nỗi bị tổn thương thành bệnh.

Chữ Nam-mô cả cõi đời đều đọc là Nạp Mồ (namo), sao ông lại chiếu theo âm gốc [của mặt chữ] để đọc[21]. Công đức niệm Phật vô lượng vô biên, chẳng thua công đức niệm kinh. Giảm thọ để cầu phước thọ khỏe mạnh, bình yên, sao bằng khuyên người ta niệm Phật ăn chay, cầu sanh Tây Phương chẳng tốt hơn hay sao? Toa thuốc trị bệnh sởi đã gởi trước kia, tôi đã bảo một danh y xem xét, ông ta nói toa thuốc ấy tuy hay nhưng cần phải xét coi bệnh tình như thế nào; nếu nhất loạt sử dụng cũng có khi bất lợi. Vì thế chẳng cho in vào cuối sách Đạt Sanh Biên nữa. Hiện nay, hơi khó hiện được thân tể quan[22]; nếu có thể kiếm sống, sẽ không coi làm quan là cao cả nhất. Lời ông nói tựa hồ có lý, nhưng thật ra tệ vô cùng. Cần phải phân biệt thân - sơ, gần - xa, rồi mới đối xử bình đẳng với hết thảy thì rất tốt. Nếu từ trước đến nay chẳng phân biệt thì không đủ sức để lo liệu thấu đáo, ắt sẽ coi thân giống như sơ, sẽ trở thành người chẳng bằng cầm thú. Từ nay trở đi, ông ăn nói phải châm chước cẩn thận. Nếu không, sẽ mang tội khiến cho người khác bị lầm lạc, họa ấy chẳng nhỏ đâu, há nên nói rối tung đạo lý hay sao? Những kẻ phế bỏ luân thường hiện thời nói cha và con gái, mẹ và con trai đều có thể tự do luyến ái, cũng là ăn nói đảo loạn đạo lý, do thói tệ tự cho mình là đúng mà ra! Cõi đời rối loạn là vì chẳng biết nhân quả, báo ứng, sanh tử, luân hồi; nếu như thật sự biết, đâu dám mặc tình làm càn để đời đời kiếp kiếp mang họa?

Bài văn của Lưu Bá Ôn[23] chính là bài văn hết sức phàm tục, thiển cận; tuy nói có vẻ có lý, nhưng Huyết Bồn Kinh do tăng sĩ thô tục ngụy tạo để dụ dỗ kẻ ngu tục. Ông ta quả quyết đấy là kinh Phật, quả thật đã bộc lộ sự hiểu biết thiếu rộng rãi. Những điều khác đều là cưỡng nói đạo lý, so với bọn Tống Nho đả phá bài xích nhân quả luân hồi [thì đều cùng có tác dụng] khiến cho những gã Nho sĩ chẳng cao minh mà muốn [làm ra vẻ] cao minh cùng bị hãm trong hầm sâu tà kiến nhưng vẫn chẳng biết. Nay có sách Chánh Tín Lục có thể chuyên trị căn bệnh của Tống Nho. Chất độc Tống Nho đã tiêu thì [bài văn ấy của] Lưu Bá Ôn có còn giá trị để nhắc tới nữa hay không? Sách ấy đã được sắp chữ xong xuôi, cuối tháng Bảy hoặc sau Trung Thu sẽ gởi [cho ông] vài gói. Sách này được in bằng loại giấy in báo dày bốn mươi mấy trang, phỏng định [giá tiền] chừng khoảng năm xu [một cuốn]. In trước một vạn bản. Nếu muốn tiêu chất độc Tống Nho, chỉ có sách này là hợp thời cơ nhất!

Tâm niệm của ông cao đến độ những gì thánh nhân đã lập ông cũng không vừa ý, thấp thì cứ muốn hiện thân cứu người trong cõi đời cực loạn này! Ấy đều là do chẳng lượng sức mình, cho nên mới có những thứ tri kiến, mong mỏi ấy! Thầy Minh Đạo bữa sau đi Thượng Hải, tôi bảo đem gởi Linh Phong Tông Luận[24] cho ông. Tô Châu Kinh Phòng không có [sách ấy]. Ông xin khởi sự đặt ra [thể lệ chọn] pháp danh, kể ra mấy chục chữ húy, để sau này nếu có ai xin [quy y] thì phải dựa theo đó đặt pháp danh [để khỏi phạm húy]. Quang cũng không có lòng dạ đâu mà nhớ những chuyện ấy của ông! Ông lại còn [đề nghị] những pháp danh đã đặt cũng đều phải kê khai hết để khỏi đến nỗi đặt tên trùng lập. Quang đã không có môn đình, nên chẳng nghĩ đến thường trụ. Tất cả những người quy y, ngoại trừ những ai thường gởi thư đến hoặc có chuyện dính líu tới, đều nhất loạt chẳng ghi sổ.

Ông [viết thư nói] dùng một trăm đồng để in một ngàn bộ Đạt Sanh Biên, lại dùng mười đồng biếu Quang xài vặt, lại đem mười đồng để Hoằng Hóa Xã [ấn tống những văn bản] phát nguyện giữ giới. Số tiền còn dư lại đều dùng hết để in Gia Ngôn Lục, [số sách được in ra ấy sẽ được] giữ tại Hoằng Hóa Xã để tặng cho người khác, hoặc căn cứ theo số lượng để gởi sang huyện Hộ[25]. Sao ông chẳng biết tính toán như thế? Đủ biết rằng ông cũng mắc bệnh nói lời chẳng thật! Tôi không trách ông nói lời ấy chẳng thật, nhưng quả thật sợ ông trong hết thảy cách cư xử đều phạm phải cái bệnh hư trương thanh thế này. Món tiền một trăm đồng ấy, trừ đi khoản tiền dùng để in một ngàn cuốn Đạt Sanh Biên và chi phí gởi đi, lại trừ ra hai chục đồng thì số còn dư cũng chẳng được mấy mà vẫn dùng kiểu ăn nói lớn lối đó ư? Tôi biếu sách cho người ta cũng chẳng dám ăn nói lớn lối với người ta, chỉ sợ người ta nói tôi mang tâm kiêu căng. Nếu người khác phạm phải bệnh này, tôi cũng không nói. Do ông có lẽ cũng muốn là người tận tụy thực hành, do chuyện này chắc bạch khuê[26] có vết, nên chẳng thể không nói. Pháp danh hay bút danh có gì mà không viết được? Trang đầu tiên viết: “Đặt pháp danh cho hai đứa em trai khiến chúng cùng nhờ ơn Phật được thấm đẫm pháp nhuận. Ân đức tột cùng, dẫu trời che đất chở cũng khó thể sánh ví được muôn một”, sao mà chuộng những câu chữ rỗng tuếch đến thế? Cái thói ấy chắc chỉ có thể sử dụng được trước mặt hoàng đế vào thời đại chuyên chế mà thôi! Sử dụng vào những chỗ khác sẽ chẳng thành lời lẽ gì đâu! (viết dưới đèn ngày mồng Chín tháng Sáu).

 

143. Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn (thư thứ sáu)

 

      Thư trước gởi cho thầy Minh Đạo và khoản tiền gởi cho Quang, cũng như thư sau gởi cho Quang đều nhận được cả. Tôi vốn muốn trả lời ngay, nhưng do trong cuốn Tây Phương Công Cứ, phần Sáu Phương Phật trong kinh Di Đà bị sót mất hai mươi chữ “Xá Lợi Phất! Ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh” mà mấy người giảo chánh đều không trông thấy. Quả thật là nghiệp chướng tâm nhãn, khiến trở thành tội lỗi lớn lao! Hiện thời đã in riêng một bản gồm ba trang, đã in được sáu ngàn bản, đều in theo kiểu để cắt dán [vào chỗ bị thiếu]. Khi in xong sẽ gởi đến. Ở chỗ ông có hai gói sách, phàm những cuốn tự giữ và đã tặng cho người khác, mỗi cuốn đều dán cẩn thận hòng khỏi bị tội bỏ sót kinh văn. Sau này, khi [bản đính chính ấy] được in ra sẽ gởi đi, không phải viết thư nữa.

Nói đến tật dịch, hãy bảo mọi người đều cùng ở trong nhà của chính mình niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, sáng tối đến Phật đường lễ bái bao nhiêu đó lạy và niệm bao nhiêu đó câu. Ngoài ra, bất luận đi, đứng, nằm, ngồi và làm hết thảy chuyện, trừ lúc viết văn, tính sổ phải dụng tâm ra, khi làm hết thảy mọi chuyện khác đều nên niệm. Niệm khi ngủ thì nên niệm thầm trong tâm. Nếu áo mũ chỉnh tề, tay và miệng rửa súc sạch sẽ rồi, niệm ra tiếng cũng được, niệm thầm hay niệm nhỏ tiếng đều được. Nếu ngủ nghỉ hoặc lúc mới dậy, áo mũ vẫn chưa chỉnh tề, hoặc khi tắm rửa, tiêu tiểu, hoặc đến chỗ không sạch, niệm thầm trong tâm cũng có công đức y hệt như vậy. Nếu niệm ra tiếng sẽ chẳng hợp nghi thức. Ví như đứa trẻ nhớ mẹ, trong suốt một ngày, không lúc nào chẳng nghĩ nhớ đến mẹ. Dẫu khi ngủ nghỉ, tắm rửa, tiêu tiểu, há để cho trong tâm hoàn toàn quên mất chuyện niệm Phật! Đã nhớ được vô ngại thì niệm thầm trong tâm cũng vô ngại. Người tuy chí ngu cũng không ai chẳng sợ chết! Niệm Quán Thế Âm có thể được Ngài che chở khỏi bị lây bệnh dịch ác nghiệt ấy. Nếu dạy hết thảy mọi người trong một ngày hễ thuận tiện bèn niệm thì tiếng niệm Quán Âm sẽ vang khắp ruộng đất, đường sá.

Ông chỉ biết đối trước Bồ Tát niệm, nếu vậy thì có mấy người niệm được? Ai lại có thể quỳ niệm năm trăm câu? Pháp Niệm Phật thì trước hết là đứng niệm bài kệ tán Phật rồi niệm danh hiệu, đến câu thứ hai liền đi nhiễu. Nếu là chỗ rộng rãi thì đi nhiễu quanh, chỗ chật hẹp thì đi theo đường thẳng. Nhiễu quanh thì đi từ Đông qua Nam, sang Tây, lên Bắc. Đi nhiễu thẳng thì từ vách này bước thẳng tới trước, đến vách [đối diện] lại quay đầu [bước trở lại] nhưng cũng cần phải theo quy củ từ Đông sang Nam qua Tây lên Bắc để xoay mình, chớ đừng từ Đông sang Bắc, sang Tây, rồi về Nam, đấy gọi là “đi ngược”, phạm lỗi! Kệ hồi hướng rộng lớn vô ngại, [đọc bài kệ ấy] thì có gì là không được, nhưng quỳ niệm năm trăm câu thì chắc chắn không được, do người ta phần nhiều không thể làm như thế được, hoặc làm lâu ngày sẽ thành bệnh. Đang trong cõi đời cực khổ cực ác này, chỉ A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát là đáng nương tựa được! Dạy cho khắp hết thảy già - trẻ - trai - gái hằng ngày thường niệm Quán Thế Âm trong nhà, bảo đảm chẳng gặp tai họa, được nhiều điều tốt lành. Chỉ nên đến niệm trong điện thờ Quán Âm vào buổi sáng và buổi tối; ngoài ra, tùy mỗi người đi - đứng - nằm - ngồi đều có thể niệm sao cho thuận tiện. Đây quả thật là phương cách thuận tiện nhất.

Hàng nữ nhân chịu niệm từ nhỏ, về sau xuất giá sẽ không bị khổ vì khó sanh. Hoặc lúc cấn thai liền hằng ngày thường niệm, hoặc đến khi sanh nở, hãy nên bảo sản phụ tự niệm Quán Thế Âm Bồ Tát ra tiếng, những người chăm sóc bên cạnh đều cùng lớn tiếng niệm giúp cho sản phụ. Người trong gia đình ở tại phòng khác cũng có thể niệm cho sản phụ. Dẫu sanh khó đến nỗi sắp chết mà niệm thì chẳng bao lâu sẽ an nhiên sanh nở. Chớ nên nói “lõa lồ bất tịnh, niệm sợ mắc tội!” Chẳng biết đấy là lúc không thể làm sao khác được, chứ không phải là có thể cung kính, khiết tịnh mà chẳng chịu cung kính, khiết tịnh vậy! Chẳng những không có tội lỗi, mà mẹ lẫn con đều cùng gieo thiện căn. Người đời thường biết giữ theo lẽ thường mà chẳng biết quyền biến, đến nỗi chẳng dám dùng pháp “[không những] khỏi khổ, [mà còn] gieo được thiện căn”, để rồi phải chịu khổ, hoặc bị mất mạng, chẳng đáng buồn sao? Lúc sanh nở vạn phần chớ nên niệm thầm trong tâm mà phải niệm ra tiếng. Vì lúc ấy, [sản phụ] phải gắng sức đẩy đứa con ra, nếu niệm thầm trong tâm sẽ có thể bị bệnh. Dẫu chẳng bị bệnh nhưng công đức niệm thầm yếu nhỏ lắm so với niệm ra tiếng. Người đời nâng vật nặng còn phải dùng tiếng hò reo để giúp sức, huống chi trong khoảnh khắc sanh tử ấy, há chẳng nên tận lực cầu Bồ Tát gia bị ư?

Từ trước đến nay, Quang chẳng biết cõi đời mê tín, [người đời thường] cho là “chẳng được niệm Phật trong phòng sanh”. Hơn nữa, “người niệm Phật chẳng dám bước vào phòng bà đẻ”, nên trong Văn Sao chưa hề nhắc tới. Bốn năm năm gần đây mới biết điều tệ này nên thường nói với hết thảy mọi người, cũng mong cho mẹ con [sản phụ] được an vui, cũng mong cho con cái [do họ] sanh ra đều sẵn đủ chánh tín, đều là người lành. Vì thế, nói với ông. Do tâm lo cho ông trọn chẳng thấu hiểu văn nghĩa, đến nỗi Văn Sao đã nhiều lần nói “đi - đứng - ngồi - nằm, tắm rửa, tiêu tiểu, đều niệm Phật được”, mà ông vẫn hỏi “tùy theo lúc đi - đứng - ngồi - nằm, lúc bận bịu, lúc rảnh rang để niệm lớn tiếng, nhỏ tiếng hay niệm thầm có được hay chăng?” Tôi nhận thấy: Ông chỉ biết “quỳ niệm là hữu ích”, tức là làm cho đa số mọi người chẳng dám phát tâm niệm!

      Tam Chướng là Phiền Não Chướng, Nghiệp Chướng, Báo Chướng. Phiền Não chính là vô minh, còn gọi là Hoặc, tức là chẳng hiểu lý ([“chẳng hiểu lý”] chính là tham - sân - si), lầm lạc khởi lên các thứ tâm niệm chẳng thuận lý. Nghiệp tức là do những Tâm Sở[27] “tham - sân - si phiền não” mà làm những chuyện ác giết - trộm - dâm v.v… vì thế gọi là Nghiệp. Nghiệp đã thành, thì tương lai nhất định phải chịu các thứ khổ báo. Tam Đồ: Đồ là đường, là nẻo, có nghĩa thông với nhau. Do các ác nghiệp giết - trộm - dâm nên sẽ chịu ác báo trong Tam Đồ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Tám nạn cũng có Thông (chung) và Biệt (riêng). Thông là lụt, hạn, tật dịch v.v… Biệt là: 1) Sanh trước khi đức Phật giáng thế hay sanh sau khi Phật đã nhập Niết Bàn 2) Vô Tưởng Thiên[28] 3) Bắc Câu Lô Châu[29] 4) Thế Trí Biện Thông 5) Mù - điếc - câm - ngọng 6) Địa ngục 7) Ngạ quỷ 8) Súc sanh. Tám thứ này tuy khổ - vui, trí - ngu khác nhau, nhưng đều cùng khó nhận lãnh sự giáo hóa của đức Phật; vì thế đều gọi là tám nạn (ngày Lập Thu)

 

144. Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn (thư thứ bảy)

 

      Thư và bưu phiếu sáu đồng (đã giao cho Hoằng Hóa Xã) đều nhận được đầy đủ. Ông tánh thích lôi thôi! Chuyện chẳng khẩn yếu đã qua rồi, cần gì lại phải nói nữa? Ngay như trước đây ông muốn gởi bánh Trung Thu, vì bưu cục chẳng gởi trong bao, bèn nói tới nói lui! Nói những lời lẽ vớ vẩn ấy để làm gì? Tôi đã bảo ông đừng nên gởi đồ ăn nữa, ông vẫn cứ làm như thế. Những thứ được gởi tới trong mùa Xuân đều bị nát bét. Đầu Thu lại gởi nữa, há chẳng phải là tự khuấy mình, nhiễu người? Ông mới học Phật, chỉ nên sốt sắng niệm Phật, hiểu được thì cũng theo Ngài đi, mà không hiểu được vẫn theo Ngài đi, ngõ hầu chẳng đến nỗi lỡ làng công phu! Ông muốn có được một cuốn từ điển hoàn thiện nhất. Chỉ sợ có được cuốn từ điển ấy, ông bèn hằng ngày chú trọng tra tìm [từ ngữ] trong tự điển, chẳng rảnh rỗi để niệm Phật!

Muốn tra chữ Phạn thì hãy đọc cuốn Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập[30] (sáu cuốn), nhưng sơ tâm chẳng biết thể loại [của từ ngữ tiếng Phạn muốn tìm] thì cũng chẳng dễ tra. Dẫu tra được, vẫn sợ chẳng hiểu rõ văn nghĩa đã được giải thích. Muốn tra số mục danh tướng (từ một đến mười, trăm, ngàn, vạn… danh từ) hãy xem Giáo Thừa Pháp Số[31] (sáu cuốn, bộ này giản lược nhưng danh mục nhiều) và Đại Minh Tam Tạng Pháp Số[32] (mười sáu cuốn. Bộ này giải thích tường tận cặn kẽ, nhưng so với Giáo Thừa Pháp Số thì ít danh mục hơn). Muốn tra đại lược sự tích thông - tắc của Phật pháp trong các đời thì nên đọc Thích Thị Kê Cổ Lục[33] (năm cuốn). Hơn nữa, cuốn Phật Học Đại Từ Điển do Đinh Phước Bảo biên tập danh tướng thật rộng, nhưng phần khảo cứu chẳng được tra xét kỹ càng cho lắm. Nói chung, có một phần ba mươi là sai ngoa, chỉ bậc thông gia mới phân biệt được rõ ràng. Nếu không, chắc sẽ đến nỗi bị hiểu lầm vì sách ấy (bộ sách này dựa theo sách của người Nhật Bản đã soạn rồi tăng đính[34], dùng số Tây Dương 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 0 để đánh số thứ tự. Nếu không rành số Tây Dương sẽ bó tay). Bộ này phải tốn mười mấy đồng, hiện thời chẳng biết có còn hay không? Mấy bộ sách này nếu là bậc thông gia thì không ai chẳng dùng. Nếu có chỗ nào không rõ ràng, hễ tra là rõ. Ông là người không hiểu rõ trọn vẹn; nếu có mấy bộ sách này sẽ thành ra suốt ngày chuyên dụng công tra danh tướng mà thôi! Do vậy, vẫn chẳng nên thỉnh ngay! Hãy đợi đến khi dần dần nhiễm sâu [rồi hãy thỉnh thì sẽ có ích].

Huống chi hiện thời phương Nam thủy tai xưa nay chưa hề có, Nhật Bản lại chiếm Đông Tam Tỉnh[35]. Nước ta cực lực tẩy chay hàng Nhật, sợ rằng sẽ gây nên cái họa chiến tranh toàn thế giới (đáng sợ cùng cực). Đang trong thời thế nguy hiểm như trứng chồng này, chỉ nên chuyên tâm niệm Phật, niệm Quán Thế Âm để cầu được ngầm che chở. Huống chi ông còn bận việc nhà, rảnh đâu để nghiên cứu những sách ấy?

Mấy năm trước đây, Thiểm Tây bị tai nạn, phương Nam đã nhiều lượt quyên góp chở tới. Nay Hồ Bắc, Giang Tây, Giang Tô các xứ bị nước nhận chìm, thảm chẳng nỡ nghe, cũng chẳng nỡ nói! Quyên mộ đủ cách khác nhau. Ông Tào Tung Kiều (người Tô Châu cũng quy y với Quang) mấy năm gần đây quyên mộ cho Thiểm Tây gần đến mười vạn, đều giao hết cho Châu Tử Kiều. Lần này chánh phủ phái ông ta sang Giang Bắc lo việc cứu trợ. Tô Châu cũng quyên góp được sáu bảy vạn đồng cùng mấy vạn bộ quần áo cũ các loại và áo lạnh mới may, nhưng vẫn chỉ là “chén nước, xe củi”[36], chẳng thể [cứu trợ] trọn khắp! Đê đập trên sông ngòi bị sụt lở rất nhiều, cứu trợ dân chúng bị nạn còn chưa đủ tiền để lo trọn, huống là tu bổ đê ư? Khoản tiền tu bổ đê so với khoản tiền cứu người sẽ nhiều gấp mấy chục lần. Nếu không tu bổ đê, hễ nước lớn, cả vùng sẽ biến thành cái đầm. Nếu tu bổ, đào đâu ra khoản tiền ấy?

Trời giáng họa xuống Trung Quốc lần này là lớn nhất. Thứ thiên tai nhân họa này đều do mọi người chẳng nói tới nhân quả báo ứng, đến nỗi trở thành tình thế phế kinh điển, phế luân thường. Tình người như nước, lễ pháp như đê. Phá trừ lễ giáo đến nỗi con người đâm ra chẳng bằng cầm thú, cho nên mới thành tình thế đê đập đều vỡ, nước lũ chảy tràn lan! Hãy nên gấp rút dạy gia quyến, thân bằng niệm Phật để dự phòng. Những chuyện không khẩn yếu xin hãy để từ từ rồi mới tiến hành (ngày Hai Mươi tháng Tám năm Dân Quốc 20 - 1931)

 

145. Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn (thư thứ tám)

 

      Ông nhất quyết muốn thọ giới thì trong ngày Mười Bảy tháng này là ngày khánh đản A Di Đà Phật, hãy tự thệ thọ giới trước đức Phật. Trước hết phải lễ bái sám hối, tùy theo công phu của mình bận bịu hay rảnh rỗi mà định thời hạn nhiều ít. Đến ngày hôm ấy, phải khởi tâm ân cần, trân trọng, lễ bái sám hối, hướng về đức Phật xin nhận lãnh Ngũ Giới. Người tại gia đắp y hay không đều chẳng quan trọng; so với kẻ tiếm dụng[37] thì chẳng thà không dùng. Chỉ mặc áo dài, hoặc mặc tăng bào[38], không có gì là không được. Nghe nói trong thành có gã họ Hàn nọ, đại khai đạo Ngũ Giáo Đại Đồng, thần thông quảng đại, biết được túc nhân của người ta. Lại còn làm cho người bệnh lập tức khỏi bệnh. Ông hãy nhường cho hết thảy mọi người được hưởng lợi ích ấy, chứ ngàn vạn phần ông chớ nên mong hưởng lợi ích nơi hắn! Nếu ông đến thân cận, ắt sẽ bị ma lực của gã dụ dỗ, đến nỗi đánh mất chánh tri kiến, tăng thêm tà tri kiến. Đâm ra vốn liếng có thể liễu thoát trong một đời bị biến thành luân hồi cả kiếp dài lâu, chẳng có thuở thoát ra được! Hiện thời tai họa ngày một cùng cực, hãy nên dạy hết thảy mọi người cùng niệm Phật và niệm Quán Âm để phòng ngừa họa hại và gặp dữ hóa lành vậy (ngày mồng Bốn tháng Mười Một năm Dân Quốc 20 - 1931)

 

146. Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn (thư thứ chín)

 

     Nhận được thư đầy đủ. Đã nhận được năm đồng rồi, đừng lo. Khóa trình do ông đã lập tạp loạn, không có thứ tự. Sáng dậy rửa ráy, súc miệng xong, đến trước Phật thắp một nén hương, hoặc ba nén. Niệm bài Hương Tán một biến, niệm Hương Vân Cái Bồ Tát ba lần, nhất tâm đảnh lễ Thường Trụ Thập Phương Tam Bảo (niệm ba lần ba lễ, hoặc niệm một lần một lễ). Nhất tâm đảnh lễ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, nhất tâm đảnh lễ A Di Đà Phật, nhất tâm đảnh lễ Quán Thế Âm Bồ Tát, nhất tâm đảnh lễ Đại Thế Chí Bồ Tát, nhất tâm đảnh lễ Chuẩn Đề Bồ Tát, nhất tâm đảnh lễ Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát[39], nhất tâm đảnh lễ Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (mỗi danh hiệu ba lạy, hoặc một lạy), rồi niệm Nam Mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát ba lượt, liền tụng kinh Di Đà một biến, Vãng Sanh Chú ba biến. Nếu như tụng thêm chú Chuẩn Đề, chú Ma Lợi Chi Thiên v.v… thì cũng được. Rồi niệm tiếp bài kệ tán Phật. Niệm kệ xong, liền niệm Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, rồi liền niệm Nam Mô A Di Đà Phật hoặc vài trăm câu, hoặc một ngàn câu. Hãy nên vừa đi nhiễu vừa niệm, hoặc nhiễu niệm một nửa, ngồi niệm một nửa. Phật hiệu sắp niệm xong liền trở về chỗ. Niệm xong Phật hiệu, liền quỳ niệm Quán Âm, Thế Chí, Chuẩn Đề, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng mỗi danh hiệu ba lượt. Niệm xong liền đọc bài Phát Nguyện Văn, đọc xong bèn niệm Tam Quy Y. Xong xuôi lễ Phật lui ra.

Hoặc có thể buổi sáng niệm các chú Đại Bi, Chuẩn Đề, Vãng Sanh, Bạch Y, Ma Lợi Chi Thiên, Lục Tự[40] v.v… mỗi thứ một biến; niệm xong, tụng Tâm Kinh theo như thứ tự nghi thức trong các khóa tụng. Buổi tối tụng kinh Di Đà, Đại Sám Hối[41], niệm Phật v.v… giống như trên. Sáng tối không niệm bài Hương Tán cũng không sao. Trong tùng lâm vào mồng Một, ngày Rằm, lên công khóa thì trước hết niệm bài Hương Tán, những hôm khác đều chẳng niệm bài Hương Tán. Cách này do trong giới cư sĩ nhiều người thích phô trương bày vẽ lập ra. Trong tùng lâm, khi lên công khóa, mọi người tề tựu, lễ Phật ba lạy liền niệm (buổi sáng niệm Nam Mô Lăng Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ Tát, niệm chú Lăng Nghiêm. Buổi tối niệm Nam Mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát, tụng kinh Di Đà). Người tại gia tuy có thể tùy ý tự lập chương trình, nhưng chớ nên bày vẽ thêm thắt mấy thứ hoặc bỏ sót lộn xộn, không theo thứ tự.

Kinh được truyền dạy trong mộng tuy có lợi ích nhưng không cần phải niệm, vì kinh chú quá nhiều, cần gì phải niệm những thứ đó? Tâm Kinh công đức cực lớn, sao không niệm? Phàm tu trì nói chung hãy nên giản lược; nếu niệm quá nhiều thứ, đâm ra chẳng bằng chuyên niệm một thứ tốt hơn. Chỉ vì nhân dân hiện thời không ngày nào chẳng ở trong cảnh nước sâu lửa bỏng, hãy nên niệm thêm [danh hiệu] Quán Thế Âm Bồ Tát bao nhiêu đó câu; hoặc lập một thời riêng, hoặc trong công khóa, ngay sau khi niệm Phật xong bèn niệm tiếp [danh hiệu] Quán Âm bao nhiêu đó câu, rồi tới danh hiệu các vị Bồ Tát mỗi vị niệm ba lần hoặc niệm mười lần đều được. Còn như để dạy cho người mới phát tâm thì càng giản lược càng hay.

Cần biết rằng: Đạo lý căn bản của Niệm Phật là muốn làm cho con người sanh lòng tin, phát nguyện cầu sanh Tây Phương liễu sanh thoát tử, chớ nên chỉ phát tâm cầu sự giàu - vui trong thế gian mà chẳng cầu sanh Tây Phương. Hễ nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì tai nạn trong thế gian cũng tiêu diệt được, chứ không phải là niệm Phật chẳng thể tiêu diệt tai nạn! Quán Thế Âm Bồ Tát tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh Tây Phương. Niệm Quán Thế Âm cũng cần phải trước hết là nhằm cầu tiêu trừ tai nạn, nhưng chánh yếu là cầu vãng sanh Tây Phương.

Hãy nên nói với người hữu duyên: Ai nấy phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, chí thành niệm Phật và Quán Thế Âm sẽ có thể chuyển được túc nghiệp, chẳng mắc phải những khổ ách vì thiên tai nhân họa. Hơn nữa, con người hiện thời đã xa hoa đến mức cực điểm. Đất Tần vốn chất phác, nghe nói gần đây cũng nhiễm theo thói [xa hoa] hiện thời! Hãy nên gắng khuyên lơn gia quyến thường nghĩ đến lúc gặp tai nạn để chẳng đến nỗi nhiễm phải thói ác ấy. Nếu đã nhiễm, hãy cực lực sửa đổi, trừ bỏ. Kẻ nhỏ tuổi càng phải nên học tánh chất phác!

Ông không hiểu việc quá mức, trong khóa tụng sáng tối, lúc lễ Phật sao lại đem tên Ấn Quang đặt trước danh hiệu Phật để lễ, sao không biết tôn - ty, thánh - phàm đến mức như thế? Đừng nói Ấn Quang là một gã phàm phu nghiệp lực vô tri vô thức; dẫu là cổ đức, hay Phật thị hiện giáng sanh, hoặc Bồ Tát thị hiện giáng sanh, vẫn chẳng thể kể theo bổn địa được! Do họ đã hiện thân làm Tăng, chắc chắn phải đứng sau Phật, Bồ Tát thì mới đúng lối phù hợp cả Bổn lẫn Tích. Nếu tâm ông cảm kích Quang thì có thể sau khi tụng công khóa xong, trong tâm thầm tưởng đảnh lễ một lạy thì đối với nhân tình lẫn thiên lý đều không trái nghịch! Nếu ông sắp xếp theo kiểu ấy (tức là đem danh hiệu Ấn Quang để lễ trước khi lễ Phật), chẳng những ông tội lỗi khôn cùng mà còn làm cho Ấn Quang cũng bị tội theo ông! Đấy không phải là ông tâng bốc Quang mà là hãm hại Quang! Nếu ông có thể chí thành niệm Phật tự lợi, lợi người, dẫu chẳng lễ Quang cũng đâu có thiếu sót gì? (ngày Mười Bốn tháng Bảy năm Dân Quốc 21 - 1932)

 

147. Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn (thư thứ mười)

 

      Nhận được thư gởi đến bữa trước, nói ông có một hộp mứt, ngạnh mễ[42], tiểu mễ[43] mỗi thứ hai thưng[44], đựng thành một đãy. Ông đúng là gã si! Từ mấy ngàn dặm gởi những thứ ấy đến, há chẳng phải là vô sự mà tự phiền, rộn người hay sao? Túi gạo cho tới nay vẫn chưa nhận được, vì thế đến bây giờ mới trả lời thư. [Nếu tôi] không bận chuyện gì quan trọng thì hễ nhận được thư bèn trả lời ngay. Một mình ông [gởi thư hỏi han này nọ] thì còn được, huống chi nào phải chỉ có một mình ông? Há nên thốt lời oán trách, kêu ca [thầy không muốn trả lời thư vì nghĩ trò] không thể dạy được? Sao chẳng thông cảm cho người khác già yếu chẳng thể thù tiếp được? Nếu như lời ông nói, ắt sẽ mệt tới chết cũng lo không xuể. Từ rày đừng so đo cái kiểu chẳng biết thời thế như vậy, cũng đừng đem thức ăn từ xa gởi đến!

Mười đồng ông gởi tôi đã nhận được rồi, sẽ dùng để in sách. Thầy Minh Đạo mất vào giờ Sửu ngày Mười Chín tháng Mười, ngày Hai Mươi Mốt chuyển linh cữu về Linh Nham, ngày Hai Mươi Lăm đưa đi hỏa táng. Thầy ấy trọn chẳng gắng công tu trì chân thật, nhưng do lo liệu công việc trong hội Phật Giáo mấy năm, những kẻ không biết thời thế nhất định muốn xây tháp cho thầy ấy. Họ coi tượng đất như tượng bằng vàng ròng, tôi cũng chỉ mặc kệ cho họ làm. Chớ nên bắt chước thói tục hèn xấu ấy! Từ rày không có chuyện chi quan trọng, đừng gởi thư đến. Hiện nay tôi không ra khỏi phòng bế quan, chuyện Hoằng Hóa Xã cũng giao về cho Quang đảm nhiệm thì càng thêm phiền toái! (ngày mồng Bốn tháng Mười Một năm Dân Quốc 21 - 1932)

      [Tuy] xuất gia bên Lâm Tế Chánh Tông, nhưng Quang đã lấy pháp môn Tịnh Độ làm tông, chẳng coi Thiền Tông là chánh. Cư sĩ hỏi chuyện này chẳng có quan hệ chi! Quang cũng không có môn đồ, chết rồi trọn chẳng để lại vật gì. Hình chụp cũng không có. Lễ Phật cho nhiều so ra tốt hơn lễ tôi trăm ngàn vạn lần. Nghe nói gần đây có một bài thuốc thần hiệu để cai thuốc phiện: Dùng một thước vải Tây đỏ vuông vức, cắt thành hai mươi bốn miếng. Lúc hút thuốc, trước hết dùng que tiêm thuốc phiện[45] cắm trên phía đầu mảnh vải, phía dưới đặt một cái chén hứng, đốt cho tro vải rớt vào trong chén. Dùng nước sôi hòa [tro ấy] uống, rồi mới hút. Chẳng đợi tới khi uống hết [tro của] hai mươi bốn miếng vải đã cai nghiện được. Hãy nên bảo người nghiện thuốc làm thử. Nếu linh nghiệm sẽ có thể cứu được cái họa thuốc phiện vậy!

 

148. Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn (thư thứ mười một)

 

      Mười ba gói Bát Đức Tu Tri chắc ông đã nhận được rồi. Nhận được thư, tôi liền viết thư cho người lo việc thuộc Hội In Kinh Thượng Hải hỏi về giá cả. Họ nói: Chiếu theo giá ban đầu phải là bốn trăm năm mươi đồng, bưu phí là hai chục đồng. Ngày hôm nay liền gởi tiền đi, không bao lâu nữa sẽ có mấy bao gởi đến. Phàm sách gởi đến sẽ có hóa đơn, hãy nên kiểm kỹ số hộp, số quyển. Nếu có sai sót, liền gởi thư hỏi trực tiếp tiên sinh Phí Phạm Cửu, Chấp Sự của Ảnh Ấn Tống Tạng Kinh Hội ở số 714 đường Oai Hải Vệ, Thượng Hải (Phạm Cửu cũng là Phật tử quy y, pháp danh là Huệ Mậu), đừng sai Quang chuyển thư. Hình thức của kinh tôi chưa xem qua. Mấy bữa nữa sẽ bảo Linh Nham Sơn đem một hộp kinh[46] đến để coi (kinh ở Linh Nham giá năm trăm tám mươi ba đồng, vốn là do về sau lên giá) sẽ coi kỹ cách ghi danh mục để tiện kiểm đọc, chẳng đến nỗi rối loạn.

Khoản tiền ấy không cần phải gấp, tới năm sau trả lại sớm hay muộn hoặc năm sau nữa mới trả cũng được; nhưng trước khi gởi tiền, phải viết thư nói rõ. Đợi khi Quang viết thư cho biết, sẽ gởi tiếp khoản tiền ấy về chỗ nào, do sớm muộn gì năm sau Quang cũng sẽ xuất quan, sẽ rời khỏi Tô Châu. Hiện thời, vẫn chưa quyết định sẽ đi về đâu, nhưng nói chung là ở phương Nam, chẳng trở về phương Bắc vì già cả sợ lạnh, áo bông, mền bông v.v… cầm theo vướng víu, bỏ đi lại không đành. Vì thế chẳng dám trở về phương Bắc. (Bảy giờ rưỡi ngày Mười Hai tháng Mười năm Dân Quốc 23 - 1934. Hôm nay trời âm u, chẳng thấy đường, viết dưới ánh đèn điện).

 

149. Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn (thư thứ mười hai)

 

Chắc là ông đã nhận được chừng đó bưu kiện Đại Tạng Kinh bản đời Tống rồi. Nay đem thư của hội ấy gởi cho Quang và biên nhận gởi kèm theo thư. Gần đây, Quang mục lực càng suy, hết thảy những chuyện sai phái viết lách đều chẳng thể làm được. Trong ngày Mười Ba, Mười Bốn đã đăng trong hai báo Thượng Hải và Tân Thân, ngày Mười Lăm đã đăng trên Phật Học Bán Nguyệt San, từ nay không có chuyện hết sức quan trọng đừng nên gởi thư đến. Chuyện viết lời tựa, hiện thời không thể xem được. Hễ năm sau còn sáng mắt đôi chút sẽ viết. Nếu không, sẽ để mặc đó.

Hiện thời Cửu Hoa Sơn Chí chưa xong, do thầy Đức Sâm lo liệu, lại còn Viễn Công Văn Sao. Năm sau, hoàn tất hai cuốn sách ấy, sẽ rời đất Tô đi nơi khác, sẽ cho ông biết chỗ ở, chứ hiện thời vẫn chưa quyết định. Nhận được bưu kiện này xin báo cho biết, chỉ viết “đã nhận được” là xong, chẳng cần viết cho nhiều những lời dài dòng vô ích. Mong hãy sáng suốt soi xét. Ngoài ra là bốn bức tượng Phật vẽ bằng bút, hơn hai mươi bức vẽ tượng Phật vẽ bằng móng tay được in theo lối thạch bản, cùng với Một Lá Thư Trả Lời Khắp, xếp thành một gói, gởi bằng thư bảo đảm, mong hãy thâu nhận (ngày Rằm tháng Mười Một năm Dân Quốc 23 - 1934)

 

150. Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn (thư thứ mười ba)

 

      Ngày Mười Tám nhận được thư ông, nhận được hết thảy. Hôm qua nhận được khoản tiền một trăm đồng do tiệm Mậu Thịnh Đức chuyển đến, đã nhận rồi, đừng lo. Ông nói quá nhiều lời, toàn là những lời “không có chuyện gì cứ bới ra chuyện”. Quang không trở về đất Tần, ông [tưởng ông phải] đến đây, [Quang mới] biết đường về [đất Tần]! Nếu Quang trở về đất Tần, lên xe ở Tô Châu, đến cửa Bắc Trường An xuống xe. Ông đến đây chỉ thêm phiền phức cho Quang mà đi về tốn mấy chục đồng, dùng vào chỗ vô ích, há chẳng đáng tiếc ư?

Cần biết rằng: Thời cuộc hiện thời xét tới cùng chẳng biết ra sao? Hãy nên ở yên trong nhà, lỡ có chuyện sóng gió còn có người làm chủ. Nếu đi xa chưa về được thì đôi bên đều phải bận lòng vô ích; sao lại khổ sở làm chuyện tổn hại, vô ích ấy? Còn chuyện ông [đề nghị Quang] sống trong nhà ông, chẳng gặp một ai, nếu xét đến cùng, có khác gì [Quang] không trở về [đất Tần] đâu, làm sao Quang ở trong nhà ông được? Phổ Đà, Ngũ Đài, Nga Mi Chí gởi cho ông mỗi thứ một bộ, xếp thành một gói. Tọa Hoa Chí Quả vốn là sách nói về nhân quả, cũng gởi cho ông một gói. Sau hai ba tuần nữa, sẽ có tờ truyền đơn khuyên nên tiếc chữ và sách Khuyến Niệm Phật gởi sang tiệm Mậu Thịnh Đức. Ông sẽ được họ báo cáo đã giao tiền (ngày Hai Mươi tháng Hai năm Dân Quốc 24 - 1935)

 

151. Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn (thư thứ mười bốn)

 

      Hôm nay ông Vương Ấu Nông vì lo liệu công cuộc cứu trợ cho dân chúng bị nạn vì thổ phỉ, thiên tai ở Thiểm Tây đã gởi cho Quang mười cuốn sổ vàng lạc quyên. Quang một mực chẳng quyên mộ, huống chi đương lúc khốn khổ gian nan này, bèn gởi khoản tiền in sách một ngàn đồng để quyên tặng và gởi trả lại sổ vàng. Khoản tiền ông thỉnh kinh đã trả được một trăm, khoản tiền còn lại nếu có thể trả được lúc này thì xin hãy gởi cho Hội Cứu Trợ Tỉnh Thiểm Tây tại số Mười đường Ngũ Vị thuộc tỉnh thành, giao cho cư sĩ Vương Ấu Nông để cứu trợ cho vùng Thiểm Nam. Nếu chẳng tiện trả một lúc, sớm muộn gì trả phần còn lại cũng được, nhưng vẫn giao cho Vương Ấu Nông. Nếu hội đã giải tán thì giao đến tận nhà ông ta ở số Mười ngõ Trần Gia thuộc khu Tây Bắc trong thành để tùy ý ông ta dùng làm khoản cứu trợ nào [cũng được] (ngày Hai Mươi Chín tháng Hai năm Dân Quốc 24 - 1935)

 

152. Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn (thư thứ mười lăm)

 

      Hôm trước nhận được thư ông, biết ông đã gom được khoản tiền nợ Quang là bốn trăm đồng, ông cũng quyên thêm một trăm đồng để cứu trợ dân bị thiên tai, an ủi, vui mừng hết sức! Ngày Mười Bảy, một đệ tử giao cho Quang một trăm đồng để cứu trợ; Quang lại gộp [món tiền ấy] với những khoản tiền do người khác cho Quang được năm trăm đồng đem gởi cho Ấu Nông để trọn hết lòng tôi.

Nói đến chuyện “niệm Phật, niệm Quán Âm đều có thể tiêu tai thoát nạn” thì lúc bình thường hãy nên niệm Phật cho nhiều, niệm Quán Âm ít hơn. Gặp khi hoạn nạn, hãy nên chuyên niệm Quán Âm do Quán Âm bi tâm tha thiết, có túc duyên sâu đậm với chúng sanh phương này. Chớ nên do thấy nói như vậy, bèn nói “Phật chẳng từ bi bằng Quán Âm!” Cần biết rằng Quán Âm là đấng thay Phật rủ lòng Từ cứu khổ. Ngay như khi Phật Thích Ca tại thế, cũng thường dạy chúng sanh khổ nạn niệm Quán Âm, huống gì bọn phàm phu chúng ta?

Khi xuất quan, sau khi đã quyết định tới ở chỗ nào sẽ gởi thư cho ông biết. Trong lúc chưa quyết định đi hay ở này, nói ra sẽ biến thành nhiễu loạn. Gần đây, [con người] hoàn toàn phế bỏ quy cách cũ, hoàn toàn chẳng biết kính tiếc chữ và sách; nay tôi cho in tám vạn tờ truyền đơn, sẽ gởi cho ông một gói. Mong hãy phân phát, lại hãy nên ra rả khuyên răn để mong ai nấy đều vun bồi nền phước (ngày Hai Mươi tháng Ba năm Dân Quốc 24 - 1935)

 

153. Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn (thư thứ mười sáu)

 

       Nghĩ tới người đời trước giữ khí tiết khắc khổ, hãy nên cực lực phổ biến sự giáo hóa của Phật khiến cho hết thảy mọi người đều hưởng lợi ích liễu sanh thoát tử, ngõ hầu tên cha mẹ ta được ghi trên sen báu Tây Phương. So với những sự vinh hạnh rỗng tuếch [được ghi danh trên] bài minh nơi văn bia trong cõi này, sẽ khác biệt vời vợi như trời với đất. Kẻ có hiếu với cha mẹ hãy nên chăm chú nơi chuyện lớn lao, còn chuyện nhỏ nhặt có làm hay không cũng được, chẳng cần phải dốc chí nơi những chuyện ấy! (tháng Mười năm Dân Quốc 24 - 1935)

 

154. Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn (thư thứ mười bảy)

 

      Há nên nói lắm lời sáo rỗng như vậy? Cái tập khí hư huyễn, hời hợt ấy người học đạo chớ nên có, huống là trước mặt thầy càng chẳng nên nói ư? Người Nhật mang tâm cọp sói muốn thôn tính nước ta. Nước ta lắm kẻ lén ăn hối lộ của Nhật, làm chó săn cho bọn chúng, đến nỗi bọn chúng càng lộ vẻ hung hăng dữ tợn hơn. Nếu không có ai chịu để cho chúng sai khiến, chúng trọn chẳng đến nỗi ngang ngược như thế! Ở Tô Châu hằng ngày dăm ba lần có phi cơ [Nhật] bay qua, lúc đầu ném bom mấy chỗ, gần đây chỉ bay qua mà thôi! Người Tô Châu mười phần lánh đi hết bảy, nhưng tỵ nạn ra ngoại ô càng khổ lắm. Những người không tỵ nạn còn an vui một chút. Quang già rồi, một bước cũng không thể di động được! Chưa đáng chết thì nói chung sẽ chẳng chết. Hễ phải chết, thà trúng bom mà chết, chứ chẳng chuyển dời đi đâu để phải chịu khổ oan uổng như thế.

Sữa độc (sữa của người mẹ nóng giận) giết trẻ nhiều hơn do phá thai hay trấn nước con gái[47]. Tiếc rằng những danh y từ xưa chưa từng nói đến chuyện này. Kẻ không biết [nguyên nhân] luôn đổ lỗi cho số mạng, chẳng biết đấy nào phải do số mạng. Phàm nữ nhân tánh tình nóng nẩy, con cái họ phần nhiều bị chết (nổi nóng lên [cho con bú, con] sẽ bị chết [vì sữa hóa độc]). Dù không chết, cũng lắm bệnh (nổi nóng nho nhỏ sẽ thành bệnh). Nữ giới từ nhỏ phải tập tánh nhu hòa thì suốt đời hưởng nhiều phước. Nếu không, chẳng những chính mình lắm bệnh, mà con cái cũng dễ bị chết hay lắm bệnh. Gia đạo bất hòa đến nỗi suy vong, tai họa thường thấy hằng ngày; đây quả thật là nền tảng để lập gia, lập quốc vậy. Hơn nữa, hiện nay chiến sự khốc liệt cùng cực từ trước đến nay chưa hề có. Về sau này, những vũ khí hung bạo càng tinh diệu hơn, nhân dân càng khó sống còn. Bất luận già - trẻ - trai - gái đều nên niệm Phật cầu sanh Tây Phương, ngõ hầu chẳng đến nỗi đời đời kiếp kiếp mắc phải sự ngược đãi, hà khắc này!

Hiện thời quốc nạn hết sức nguy kịch, phàm hết thảy mọi người đều nên nhất tâm niệm “nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát” để cầu chiến sự mau dứt, ai nấy được sống yên. Ngày Hai Mươi Tám tháng Sáu, Quang đăng quảng cáo khuyên khắp đồng bào toàn cầu cùng niệm thánh hiệu Quán Âm, gởi cho báo Thượng Hải Tân Văn, và tòa báo [Tân] Thân, bảo mỗi tờ đăng mười ngày. Mồng Tám tháng Bảy bắt đầu, báo tuy đã in ra, nhưng khó thể phát trọn khắp, lại bảo Tập Cần Sở tại Tào Hà Kính in năm mươi vạn tờ truyền đơn rộng bảy tấc gởi đến những cơ quan Phật giáo các tỉnh. Do chiến sự phải ngừng in. Bài văn ấy không chỉ vì chiến sự; sau khi yên ổn trở lại chẳng ngại gì in tiếp. [Tôi cho in bài ấy] kèm vào sau cuốn Đạt Sanh Biên, sau khi yên ổn sẽ tùy thời cơ mà lo liệu. Chiến sự chưa ngớt, chuyện gì cũng chẳng thể tiến hành. Gởi cho ông một phần quảng cáo khuyên niệm Quán Âm đã đăng trên báo, xin hãy lần lượt bảo khắp đại chúng thì lợi ích lớn lao lắm! (ngày mồng Ba tháng Tám năm Dân Quốc 26 - 1937)

 

155. Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn (thư thứ mười tám)

 

      “Thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát”, chính là “thường niệm, thường cung kính”. Chữ Thường thông sang chữ Cung Kính, há nên nói trơ trọi là “niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát” ư? Cần biết rằng hai chữ Nam Mô nghĩa là “quy y, đảnh lễ, cung kính, hãy cứu độ con” v.v… Hiện thời Tập Cần Sở tại Thượng Hải đã in hai ba chục vạn [tờ truyền đơn] phát đi các nơi, nhưng Nam Kinh, Nam Thông, Hán Khẩu, Vô Tích, mỗi nơi đều có người in; ông chỉ cần in ra, phát tặng tại đất Tần. Nhất tâm niệm Phật không chuyện gì chẳng thực hiện được!

Quán Âm từ bi tầm thanh cứu khổ, đang trong lúc khổ sở cùng cực này, dạy người ta niệm Quán Âm so ra họ rất dễ sanh lòng tin hơn dạy họ niệm Phật; vì con người phần nhiều không biết đến oai thần của Phật. Đối với chuyện [đức Phật] cứu khổ cứu nạn, trong kinh rất ít khi nêu rõ, nhưng chuyện đức Quán Âm cứu khổ cứu nạn thường được kinh Đại Thừa nhắc tới. Như phẩm Phổ Môn kinh Pháp Hoa, chương thứ hai mươi lăm “pháp Nhĩ Căn Viên Thông của Quán Âm” trong kinh Lăng Nghiêm, chương Thiện Tài Tham Học Quán Âm trong kinh Hoa Nghiêm (lần tham học thứ hai mươi tám). Kinh Đại Bi chuyên nói về chú Đại Bi và những chuyện Quán Âm cứu khổ. Kinh Bi Hoa[48] nói đến những chuyện khi Quán Âm Bồ Tát tu nhân, phát nguyện cứu khổ. Những kinh khác nói đến rất nhiều. Do nhân duyên này, cõi đời không ai chẳng biết Quán Âm là bậc cứu khổ cứu nạn. Đang trong đại kiếp này, bảo những người thượng đẳng (trí thức thượng đẳng) niệm Phật thì dễ, còn với kẻ hạ đẳng (trí thức hạ đẳng) do trong kinh chưa từng nói đến, chắc họ chẳng sanh lòng tin. Vì thế, bảo họ niệm Quán Âm. Sao ông lại đem so sánh quả vị, thần thông v.v… giữa Phật và Bồ Tát?

Cần biết rằng: Quán Âm có nhân duyên lớn với thế giới chúng ta. Từ trong vô lượng kiếp trước, Ngài thành Phật đã lâu, hiệu là Chánh Pháp Minh, nhưng do tâm từ bi sâu nặng, chẳng lìa cõi Tịch Quang (tức là cõi Phật ở) hiện hình trong chín cõi để thực hiện cứu vớt. Huống chi Ngài còn thị hiện làm Pháp Vương Tử của A Di Đà Phật, như dân chúng muốn cầu ân trạch của hoàng đế liền hướng về Thái Tử mà cầu. Niệm Quán Âm phát nguyện cầu sanh Tây Phương cũng được mãn nguyện, do Di Đà và Quán Âm cùng [thực hiện] một chuyện độ sanh, chứ không phải là hai nghĩa!

Đức Hằng được bổ làm giáo viên trường Sư Phạm Vị Dương, muốn Quang khai thị (hãy bảo anh ta thường đọc Liễu Phàm Tứ Huấn, An Sĩ Toàn Thư). Cần biết rằng cội rễ của sự đại loạn trong nước ta là do Trình - Châu bài bác nhân quả luân hồi, cho rằng: “Con người chết đi, hình hài đã mục nát, thần hồn cũng phiêu tán, dẫu có những nỗi khổ chém - chặt - xay - giã trong địa ngục, lấy đâu để thi hành! Lại do thần thức đã phiêu tán rồi, còn ai để thọ sanh? Tức là không có địa ngục, luân hồi, làm lành hay làm ác đều không có báo ứng”. Như vậy là ngăn trở kẻ khác làm lành, mặc kệ cho kẻ khác tạo ác! Từ đấy về sau, Lý Học đều chẳng dám nói đến nhân quả, luân hồi, nên thiện không có gì để khuyên, ác không gì để trừng phạt, hùa nhau đề xướng rộng rãi thực hành chuyện biến con người thành loài thú!

Cần biết rằng: Cuộc đại loạn này là vì Trình - Châu bài xích nhân quả luân hồi mà khơi ra đầu mối! Do quốc gia chẳng đề xướng chuyện giáo dục, đến nỗi cha mẹ trong gia đình chỉ dạy con cái mở mang trí thức, chẳng bảo ban con cái về nhân quả, báo ứng, đạo đức, nhân nghĩa. Thầy giáo trong nhà trường chỉ biết dạy học, soạn văn chương, chứ đối với chuyện “tận tụy theo đuổi [sự nghiệp] học thánh, học hiền” một câu cũng không nhắc tới. Bởi lẽ, những hạng thầy giáo ấy từ bé tới già cũng chẳng biết “học hành là để học thánh học hiền”, chỉ biết soạn văn chương để cầu công danh; đến khi đã đạt được công danh bèn cậy thế khinh người, gây tàn hại cho địa phương, mười phần hết tám chín! Những người tạo lợi ích cho địa phương chỉ được một hai phần mà thôi!

Cổ nhân nói: “Sư giả, nhân chi mô phạm dã” (Thầy là khuôn mẫu cho người khác). Khuôn chẳng thành khuôn, mẫu không ra mẫu sẽ gây hại chẳng nhỏ. Cần biết rằng con người cùng với trời đất cùng xưng là Tam Tài, Tài là tài năng. Trời chẳng biết cao bao nhiêu, to bao nhiêu; đất chẳng biết dày bao nhiêu, rộng bao nhiêu, con người chỉ năm sáu thước, là một vật nhỏ nhoi sống được sáu bảy mươi tuổi, sao có thể sánh cùng trời đất chẳng thể suy lường mà xưng danh? Nên biết rằng: Trời đất tuy có thể sanh thành vạn vật, nhưng nếu không có con người giúp đỡ giáo dục sẽ chẳng thành thế đạo. Vì thế, con người có thể kế thừa bậc thánh đời trước, mở mang đường học cho người đời sau. Đấy chính là trách nhiệm của kẻ làm cha, làm thầy.

Nếu biết ta là thầy của người khác, dẫu ta không có đức để cảm hóa người thì cũng nên “nhất cử nhất động của chính mình đều chẳng để sai lễ!” Tức là: “Chuyện phi lễ chẳng nhìn, lời phi lễ chẳng nghe, tiếng phi lễ chẳng nói, chuyện phi lễ chẳng làm”, dè dặt, kinh sợ như vào vực sâu, như bước trên băng mỏng, chỉ sợ người khác bắt chước ta làm chuyện không ra gì, thì có thể mong thành thánh, thành hiền, siêu phàm nhập thánh. Hãy nên thường sao lục nhiều bài để công bố cho những người có chí “lo toan cho người khác” được cùng đọc. Ở Tô Châu, phi cơ hằng ngày bay đến ba bốn năm sáu bảy tám lượt cũng không nhất định. Có ngày ném bom mấy lần, có bữa không ném. Có người khuyên Quang đi sang nơi khác, Quang thà bị trúng bom chết, chẳng muốn chết vì bôn ba nhọc nhằn, xin đừng nói cho lắm những lời xuông. Từ nay đừng nên gởi thư tới nữa do mọi người đang cầu được sống trong cái chết, làm sao còn rảnh rỗi để thù tiếp được nữa đây? (ngày Mười Tám tháng Chín năm Dân Quốc 26 - 1937)

 

156. Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn (thư thứ mười chín)

 

      Thư ông và mười đồng đều nhận được cả. Đang trong lúc đại kiếp chưa từng có này, cũng nên dè dặt, gắng sức ra công tu trì. Mấy năm qua, thư từ cũng chẳng ít, lại còn gởi các loại sách và Đại Tạng Kinh đời Tống. Nếu chịu vâng theo khuôn phép thì một bộ Văn Sao đã dư dùng. Chẳng chịu vâng theo khuôn phép, dẫu có Đại Tạng Kinh cũng chẳng ích gì! Không biết người em thứ hai của ông có vâng theo lời tôi nói hay không? Quang già rồi, mục lực chẳng đủ, chẳng thể viết nhiều. Từ nay đừng gởi thư đến nữa, cũng đừng giới thiệu ai đến quy y vì không có mục lực lẫn tinh thần để phúc đáp (tháng Mười năm Dân Quốc 26 -1937)

 

157. Thư trả lời cư sĩ Lã Trí Minh

 

      Sao gởi thư gì mà tên lẫn họ đều không ghi? Nếu gởi về nhà mình thì còn được. Nếu nhờ người khác chuyển, ắt phải lo có bị lỡ việc hay không! Muốn cho khi lâm chung chẳng bị hôn trầm, ắt lúc bình thường phải có hành trì chân thật. Lúc bình thường hờ hững, hời hợt, làm sao lâm chung tỉnh táo cho được? Chuyện của Châu Vinh Hâm nếu không phải là bịa đặt thì [ông ta] chắc chắn được vãng sanh. Một là vì ông ta có thiện căn từ đời trước, hai là vì được cả nhà trợ niệm. Chuyện trợ niệm lợi ích rất lớn. Nếu chẳng trợ niệm sẽ thành phá hoại chánh niệm. Đừng nói người không có công phu chẳng thể vãng sanh, ngay cả người có công phu mà bị người nhà phá hoại cũng chẳng thể vãng sanh được! Vì thế, phải khuyên sâu xa người nhà cùng tu Tịnh nghiệp, mới có thể chẳng đến nỗi công lao bị hỏng lúc sắp thành, vẫn trầm luân trong biển khổ sanh tử.

Con ông chẳng dám nhìn nữ nhân, nhưng kẻ tại gia hằng ngày thường trông thấy nữ nhân. Nếu thấy nữ nhân già, hãy tưởng như mẹ mình; người lớn hơn hãy tưởng như chị mình; kẻ nhỏ hơn hãy tưởng như em gái mình. Bất luận loại nữ nhân nào đều tưởng như vậy thì lâu ngày trông thấy nữ nhân khác cũng sẽ chẳng khác gì mẹ, chị, em mình. Lại nữa, [nếu] thấy nữ nhân xinh đẹp bèn khởi tà niệm thì hãy thường tưởng trong bụng người ấy toàn là phân tiểu, chỉ là một tấm da mỏng bọc lấy nên dường như dễ coi. Nếu bóc lớp da ấy ra, không có một điểm nào dễ nhìn cả! [Quán tưởng] nữ nhân như thế, mà [quán tưởng] chính mình cũng như thế. Lúc chưa thấy đã tưởng như vậy thì lúc trông thấy, tưởng niệm này sẽ hiện tiền, lâu ngày tà niệm tự tiêu. Nếu lấy vợ cũng tưởng như thế sẽ chẳng đến nỗi tham sắc chết yểu. Nếu không, nguy hiểm đến cùng cực. Chẳng những không nên đến chùa ni cô, mà với nhà thân hữu cũng đều nên tránh gây hiềm nghi (như ngồi trò chuyện trong phòng kín và chỗ không có người thấy).

Cổ nhân thì chị dâu em chồng chẳng đưa [đồ vật trực tiếp] cho nhau, chẳng phải là không trao cho nhau được mà là vì sợ biết đâu [do trực tiếp đụng chạm tay nhau] tà niệm dấy lên, nên lập ra cách ngăn ngừa này. Nơi ruộng dưa chẳng [cúi xuống] buộc dép, sợ [người khác] ở đằng xa trông thấy ngỡ mình bứt dưa. Dưới gốc mận chẳng [vói tay] chỉnh lại mũ, sợ [người khác] ở đằng xa nhìn thấy ngỡ mình bẻ mận. Chánh nhân quân tử không có tà niệm mà vẫn phải chấp trước như thế, huống chi là người vừa thấy nữ nhân liền khởi tà niệm há chẳng nên chấp trước như thế ư?

Phiền não là vọng, sao lại nói là “chẳng thể đoạn?” Nói “chẳng thể đoạn” là nói về chân tánh. Trước khi chưa chứng, chân tánh thuận theo ác duyên mà thành phiền não, nhưng vẫn bất biến. Thuận theo thiện duyên, tịnh duyên sẽ trở thành Bồ Đề, vẫn bất biến. Ví như vàng ròng tuy gò thành cái bô đi tiêu hay cái vò đựng nước tiểu ban đêm, tuy hằng ngày đựng phân, tánh vàng vẫn bất biến. Nếu đúc thành tượng Phật, tượng Bồ Tát, tuy cực kỳ quý trọng nhưng tánh vàng vẫn bất biến. Người trong thế gian ai nấy sẵn đủ Phật tánh, nhưng thường tạo ác nghiệp như đem vàng gò thành cái bô đi tiêu, cái vò đựng nước tiểu ban đêm, thật chẳng biết tự trọng quá sức! Nếu biết nghĩa này, ai chịu thường làm làm những món đồ để làm bô đi tiêu hay cái vò đựng nước tiểu ban đêm nữa? Nhưng con người tranh nhau làm bô đi tiêu hay cái vò đựng nước tiểu ban đêm! Trong trăm ngàn vạn ức người, chắc là hết sức ít những người chẳng chịu làm bô đi tiêu, cái vò đựng nước tiểu ban đêm, một dạ muốn làm tượng Phật, tượng Bồ Tát, ngay cả làm tượng Thiên Đế đại vương cũng không chịu làm!

 

158. Thư trả lời cư sĩ Tiền Sĩ Thanh (thư thứ nhất)

 

       Hôm trước nhận được tiểu sử công đức của lệnh tổ[49], đọc rồi khôn ngăn cảm thán. Phàm những người cai trị dân đều chịu tuân theo pháp tắc thì thiên hạ yên vui vĩnh cữu. Chỉ có một chuyện người tầm thường muôn phần chớ nên bắt chước, bắt chước theo ắt bị đại họa. [Vũ Túc Vương] giương nỏ bắn sóng, sóng rút lui, ấy chính là thủy thần cảm đức của Vương nên sóng chẳng dâng lên nữa. Người thiếu đức bắt chước, ắt sẽ chọc giận thủy thần, sóng lớn bủa vây thì dân cư nguy hiểm đến cùng cực.

Ngày Trung Thu năm Quang Tự 12 (1886), tôi rời Nam Ngũ Đài (ở ngoài thành Trường An, chính là nơi Quán Âm hiện thân lão tăng hàng phục con rồng yêu quái, rồi khai sơn. Phần Phụ Lục cuối Văn Sao [Tăng Quảng Chánh Biên] có bài bi ký [về chuyện này]), sang núi Hồng Loa ở Bắc Kinh. Trước khi ra đi, đã nghe Thái Nguyên bị nạn lụt lớn. Đến đầu tháng Chín, tới Thái Nguyên, mới có đường nhỏ dành cho người đi bộ, do vậy bèn vào thành nhìn xem cảnh tượng. Một ngày nọ trong khoảng tháng Sáu, tháng Bảy, cuồng lưu dấy lên chảy bên cạnh thành từ phía Tây xuôi về phía Nam. Thế nước thật dữ dội, quan Tuần Phủ X… lên thành xem liền hạ lệnh bắn đại pháo [để phá sóng]. Bắn một phát, ngay lập tức nước dâng gấp mấy lần, thuận thế chảy về phía Nam thành. Cửa thành đã đóng, may là nước chưa tràn vào thành. Nam Quan là đường lớn để lên kinh đô, đường phố rất dài, nước xoáy đến nỗi nhà cửa, cỏ cây, tường vách không còn gì nữa, trở thành một cánh đồng mới bồi, phẳng lì, không một ai chẳng gặp phải tai nạn do phát đại pháo này. Tài vật bị tổn thất chẳng biết là đến mấy vạn vạn.

Đủ biết: Quỷ thần kính đức, chứ không sợ oai! Người thiếu đức trong lúc ấy chỉ nên suất lãnh mọi người khẩn cầu, sám hối cầu đảo đừng gây tổn thương cho dân lẫn vật, quyết chẳng đến nỗi khiến cả thành bị tai nạn lớn lao. Dẫu cho vô ích, quyết chẳng đến nỗi ươm thành tai nạn lớn lao! Khi in lại bài tiểu sử này, có lẽ hãy nên nêu rõ ý nghĩa này, ngõ hầu những kẻ làm quan về sau gặp phải cảnh này chẳng lượng đức mình, chỉ bắt chước Vương ra oai, đến nỗi chuốc họa hại dân!

      Cư sĩ đã sáu mươi bảy, dẫu thọ trăm tuổi thì cũng đã quá nửa đời người rồi, hãy nên trong lúc về hưu vô hệ lụy này, theo đúng lý nên chuyên tu Tịnh nghiệp, tự hành, dạy người, khiến cho hết thảy mọi người đều quay về nơi hiện nay đã biến thành nhà cũ từng bị họ bỏ lơ thì lợi ích ấy chỉ đức Phật mới biết được! Nếu lắng lòng nghiên cứu thuật bói toán Phong Thủy, tuy có thể lợi người, nhưng cũng rất hữu hạn, Quang tuyệt đối chẳng nghĩ lời nói ấy là đúng. Lệnh tổ chẳng nghe lời [xúi giục] lấp [Tây] Hồ[50], kiến thức cao hơn những kẻ tầm thường vạn vạn lần. Nếu nghe theo, sợ sẽ nhọc dân hao của, hoặc đến nỗi bị tổn hại vô ích.

      Đối với Phật pháp, Quang trọn chẳng đạt được gì. Năm Quang Tự 19 (1893) đến chùa Pháp Vũ ở Phổ Đà sống nhàn tản, cho tới năm Dân Quốc thứ sáu (1917), chẳng qua lại với người bên ngoài. Dẫu trong núi có ai sai phái viết lách gì, cũng chẳng dùng hai chữ Ấn Quang. Năm Dân Quốc thứ sáu (1917), Từ Úy Như nhận được ba lá thư bèn đem in ra mấy ngàn bản gởi cho người khác, đặt tên là Ấn Quang Pháp Sư Tín Cảo. Năm sau lại thâu thập được hơn hai mươi mấy bức thư, đặt tên là Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao, đem in ra ở Bắc Kinh, tới Phổ Đà xin quy y. Quang bảo ông ta quy y với pháp sư Đế Nhàn. Từ đấy, hằng ngày bận bịu thù tiếp thư từ, trọn chẳng có lúc nào ngớt. Bản Văn Sao cư sĩ đã đọc, chẳng biết là bản được in vào năm nào, chỉ sợ lúc ấy chỉ đọc được một hai lượt đã bỏ xó. Nay gởi cho ông một bộ, văn tuy gai mắt, nhưng ý chấp nhận được. Xin hãy đọc kỹ để tu trì liền có thể vận dụng lớn lao lời nghị luận rộng lớn về chuyện dẫu nghèo cùng hay hiển đạt đều có thể tốt lành.

      Văn Sao Tục Biên chỉ có hai cuốn, độ chừng ba trăm trang, so với bộ trước có nhiều chỗ lợi người hơn, nhưng văn chương lại càng hủ bại, ô uế. Ước chừng cuối tháng Tám sẽ có thể in xong. Nếu cư sĩ chẳng hiềm hủ bại, ô uế thì cuối tháng Tám, đầu tháng Chín sẽ không ngại gì đích thân đến chùa Thái Bình, hỏi pháp sư Đức Sâm thỉnh hai ba bộ để kết pháp duyên. Quang chưa hề mó tay vào thuật bói toán Phong Thủy, nhưng tôi thấy những người tự xưng là đại thông gia hiện nay đều chỉ trích kiến trúc của người xưa là sai, mặc tình sửa đổi. Thật ra, được tốt lành thì ít, bị xui xẻo thì nhiều. Phàm [những ai làm] thầy thuốc hoặc bói toán, Phong Thủy xin Quang khen ngợi, Quang chẳng thốt ra một chữ nào đáp ứng vì sợ khiến cho người khác bị lầm lạc bởi mình. Quang nói thẳng với họ: Nếu Quang tán dương, phải thấu hiểu sâu xa thuật ấy và biết đích xác bản lãnh của các hạ thì mới được. Quang chẳng biết những thuật ấy, lại chẳng biết bản lãnh của các hạ, làm sao có thể phô bày với người khác cho được? Người ta nói sao, mình cũng phô phang y hệt như vậy, thì tuy ngu hèn, Quang cũng chẳng chịu mạo muội thuận theo thói lấy lòng ấy đâu nhé!

 

159. Thư trả lời cư sĩ Tiền Sĩ Thanh (thư thứ hai)

 

      Nhận được thư khôn ngăn khâm phục, đọc đến tác phẩm lớn lao của ngài liền biết đức của Vũ Túc Vương nhiều đời hãy còn. Những gia đình trâm anh đời đời đức hạnh mà tôi thường hâm mộ chỉ có [gia tộc] Phạm Văn Chánh Công (Phạm Trọng Yêm) đời Tống là lâu bền nhất. Đọc gia phả nhà ông thì đức trạch của Vũ Túc Vương vượt trỗi Phạm công rất xa. Trộm nghĩ: Tập văn này nên đặt tên là Tiền Vũ Túc Vương Thế Trạch sẽ càng khiến người ta ngưỡng mộ. Quang là ông Tăng chỉ biết cơm cháo, không có tài đức làm thầy người khác, nhưng vì một người lan truyền chuyện giả, rốt cuộc người nghe chẳng xét, lầm tưởng là thật. Các hạ đã làm đồ đệ Ban Thiền[51] lại quy y với Quang, sợ rằng đôi bên chẳng hợp lẽ. Chỉ nên tích cực tu trì liền đạt được lợi ích lớn lao, chứ chẳng phải do quy y hay không?

Nay gởi kèm cho ông Một Lá Thư Trả Lời Khắp và toa thuốc để đáp tạ hậu ý. Quang mục lực suy yếu tột cùng, để trả đọc thư trả lời thư này phải cậy vào kính lão lẫn kính lúp mới miễn cưỡng xem thư và trả lời được. Đối với sự tích của Vũ Túc Vương, [tôi phải] dùng ba cái kính để xem đại lược đầu mối. Nếu in theo khổ chữ Tam Hiệu Tự, dùng ba cái kính để đọc thì phải tốn công mấy chục bữa mới mong đọc xong. Nếu chẳng hiềm gai mắt, đợi trong tháng Tám, tháng Chín, khi Văn Sao Tục Biên in ra, xin hãy gởi thư cho pháp sư Đức Sâm chùa Thái Bình ở đường Bắc Thành Đô, Thượng Hải thỉnh một bộ thì cũng có thể làm một nhúm cát trong vô lượng hằng hà sa số lợi ích cho đời, cho người.

 

160. Thư trả lời cư sĩ Tiền Sĩ Thanh (thư thứ ba)

 

Hôm qua nhận được thư, khôn ngăn cảm kích, hổ thẹn. Bài tụng của Quang tuy ý có thể chấp nhận được, nhưng văn thật vụng về, chất phác. Các hạ khen ngợi là xiển minh chân lý, muôn đời chẳng mòn, đấy vẫn là do đức của lệnh tổ mà thành. Các hạ đề cao đức lệnh tổ, quy hết về lòng tin Phật, cũng là xiển minh chân lý muôn đời chẳng mòn. Trộm nghĩ: Gần đây người tin Phật xưng đương công đức của tổ tiên trọn chưa có ai thấu nguồn tột đáy như vậy. Bài văn này cũng nên đưa vào trong Tây Hồ Từ Trưng Văn San, chứ nào phải chỉ in kèm vào trong văn tập của ông. Quang cũng tính in kèm bài ấy vào cuối bài tụng trong Văn Sao. Xin hãy bảo thư ký chép thành tờ khác gởi đi, vì sợ rằng [trong nguyên bản của ông] có những chữ viết Thảo chắc sẽ vướng khuyết điểm “đọc sai mặt chữ”. “Tử Dương tự đại”, chưa biết người ấy [là ai], xin hãy chú thích rõ ràng để người đọc đều hiểu lời răn dạy. Thể lệ của Văn Sao là phàm với những chỗ lẽ ra nên Đài Đầu[52] đều chẳng chừa chỗ trống để đỡ tốn giấy. Nếu đem lời Bạt này in kèm vào [Văn Sao Tục Biên] thì cũng sẽ theo lệ ấy.

 

* Nhận định của La Hồng Đào:

     

      Hậu Hán Thư, quyển năm mươi bốn, truyện Mã Viện chép: Mã Viện bảo Ngỗi Hiêu: “Tử Dương (tên tự của Công Tôn Thuật) là ếch ngồi đáy giếng, lầm tưởng là cao quý”. Điển tích “Tử Dương tự đại” phát xuất từ câu nói này. Đại Sư thông hiểu sâu rộng kinh sử, lẽ ra chẳng thể không biết, nhưng do nhất thời quên mất, nên ở đây tôi mới kính cẩn ghi chú bổ sung.

 

161. Thư trả lời hai cư sĩ Trí Mục và Trí Thanh (thư thứ nhất)

 

      Thư viện đã có hai bộ Đại Tạng Kinh, hơn một ngàn loại kinh điển trước thuật của các tông. Tuy sách vở quý ở chỗ có nhiều thứ, nhưng trong lúc đại kiếp này, quả là buổi sáng chẳng bảo đảm được buổi tối, như ở trên đống củi, phía dưới đã nhóm lửa, há nên thờ ơ, hờ hững đọc các kinh điển trước thuật, chẳng chuyên tâm dốc chí niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tây Phương và niệm Quán Thế Âm Bồ Tát để cầu gặp dữ hóa lành ư?

Phàm những ai đến thư viện đọc sách, bất luận là tư cách nào, cũng đều nên đem những điều này khuyên lơn để họ biết ngoài căn nhà lửa lớn này vẫn còn có thế giới thanh tịnh an lạc tột bậc. Nếu do đây sanh lòng chánh tín, chuyên chí nơi Tây Phương, công đức ấy sẽ lớn hơn [công đức của] những kẻ thâm nhập kinh tạng, triệt ngộ tự tâm nhưng chưa đoạn Hoặc trong tam giới trăm ngàn vạn ức lần! Nhưng mọi nhân sĩ vẫn chưa coi đó là điều đáng lo, vẫn chuyên chí nơi chuyện chẳng cấp bách, chẳng đáng buồn sao? Pháp danh của nhóm Trịnh Cầm Tiêu xin hãy chuyển cho họ. Quang già rồi, mục lực lẫn tinh thần đều không đủ. Hãy nên bảo họ đừng gởi thư đến và đừng giới thiệu người khác quy y vì không có mục lực để chống đỡ được!

 

162. Thư trả lời hai cư sĩ Trí Mục và Trí Thanh (thư thứ hai)

 

      Đang trong thời thế này, ngoại trừ niệm Phật, niệm Quán Âm ra, không có cách tốt lành nào khác. Bất luận già - trẻ - trai - gái quy y hay không quy y, đều khuyên niệm Phật, niệm Quán Âm. Dù chẳng thể ăn chay hoàn toàn vẫn nên chú trọng bớt ăn mặn để trong khi nguy hiểm cũng không bị hiểm nguy. Thế giới đại chiến, cả cõi đời không một ai được an vui, người bị tàn sát cố nhiên là khổ, nhưng kẻ sát nhân hiện tại cũng cực khổ, đời sau hay đời sau nữa muốn làm chó, ngựa, trâu, dê cũng chẳng được! Tiếc cho cả cõi đời đều là kẻ si, cùng nhau mải miết giết người, giết vật, chẳng tự biết ác nhân đã gieo, ác quả sẽ tự theo đó đưa tới! Chuyện này đáng buồn hết sức, mong hãy sáng suốt xét soi!

 

Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên,

Quyển 1,

Phần 5 hết

 

 

 



[1] Giám Chương có nghĩa là soi xét, thấy biết rõ ràng, rạng rỡ.

[2] Pháp Tùy Tức được luận Bảo Vương Tam Muội (do ngài Phi Tích soạn vào đời Đường) nói tới ở đây, vốn xuất phát từ kinh Bi Hoa, do ngài Mật Tô (tiền thân của A Súc Bệ Phật khi còn tu nhân) chế ra. Theo đó, thay vì lấy xâu chuỗi để niệm Phật, hành nhân dùng hơi thở thay cho xâu chuỗi. Hễ thở ra bèn niệm Phật một câu, hít vô bèn niệm Phật một câu.

[3] Chín suối (cửu tuyền): Theo quan niệm thời cổ, Cửu là con số lớn nhất trong những con số căn bản, nên chữ Cửu thường được dùng để hình dung sự nhiều, lớn, cùng cực. Chẳng hạn trong bộ Tố Vấn có câu: “Thiên địa chi chí số, thỉ vu nhất, chung vu cửu yên” (Con số tột cùng của trời đất, khởi đầu bằng một, kết thúc bằng chín). Do đào sâu xuống đất thường thấy mạch nước ngầm nên người xưa tin tưởng dưới mặt đất là những dòng suối chảy ngầm, nên họ gọi chốn sâu thẳm dưới đất là “cửu tuyền”. Hơn nữa, chất đất vùng Hoa Bắc thường có màu vàng xậm nên nước ngầm cũng có màu vàng. Vì thế, chốn âm phủ còn được gọi là “hoàng tuyền”. Cũng có cách giải thích khác là trong Dịch Học, Thổ có màu vàng, thuộc Âm, nên chốn âm phủ gọi là “hoàng tuyền”.

[4] Xin đọc bài “Lời tựa [giãi bày ý nghĩa việc] Cúng Tế Tổ Tiên Bằng Cỗ Chay” trong Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, cuốn Hạ.

[5] Đây là lá thư được đánh số 152 trong Ấn Quang Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên (quyển 2). Xin trích một đoạn Tổ dạy về việc xây dựng như sau: Trộm nghĩ hiện nay thế đạo nhân tâm chìm đắm đến cực điểm, lại thêm quốc khố trống rỗng, thuế má nặng nề hơn trước biết bao lần, vật giá đắt đỏ, dân không lẽ sống, thiên tai, nhân họa liên miên xảy ra. Gặp thời buổi này, muốn hoằng dương pháp đạo thì đối với khắp những người đến hỏi, chỉ nên dạy họ hãy học lấy những nghĩa trọng yếu của Phật. Với cha nói đến từ, với con nói đến hiếu, anh nhường, em kính, chồng xướng, vợ theo, ai nấy tận hết bổn phận để lập nền tảng. Từ đấy, lại thêm trọng lòng kính, giữ lòng thành, đánh đổ ham muốn xằng bậy để khôi phục lễ nghĩa, hiểu nhân rõ quả, mong khỏi luân hồi, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Dù thiên tư cao cũng vẫn cứ hành theo đó. Lúc có dư sức, chẳng ngại nghiên cứu hết thảy kinh luận, dạy cho họ ở trong gia đình, tùy phận tu trì, chẳng cần phải tạo dựng điện đường cho nhiều, cắt đặt nhân viên cho đông, hai bên qua lại bận bịu chức vụ, tốn kém thời gian. Đây thật là cách tương kế tựu kế thích hợp nhất để hoằng pháp hiện thời”.

[6] Ấn Quang Văn Sao Tam Biên ghi ngài Thật Hiền là vị tổ thứ chín của Liên Tông, trong khi theo các ghi chép về Tịnh Tông hiện thời, tổ Thật Hiền là vị thứ mười một, tổ thứ chín chính là ngài Ngẫu Ích. Có lẽ khi ấy hai vị Ngẫu Ích và Hành Sách chưa được đại chúng công cử là tổ sư của Tịnh Tông chăng?

[7] Đây là một câu nói trong Âm Chất Văn khi Văn Xương Đế Quân tự thuật tiền thân. Trong bộ An Sĩ Toàn Thư, cuốn đầu là Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn Quảng Nghĩa Tiết Lục.

[8] Bát Đức Tu Tri, còn gọi là Đức Dục Cố Sự do tiên sinh Thái Văn Long (tự Chấn Thân) biên soạn vào năm đầu Dân Quốc, bao gồm những câu chuyện đề cao tám đức “hiếu, đễ, lễ, nghĩa, trung, tín, liêm, sỉ”.

[9] Nặc Na Hô Đồ Khắc Đồ (1865-1936) là người huyện Xương Đô, Tây Khang, vốn là người Hán, con trưởng nhà họ Từ ở Xương Đô. Họ Từ là một gia đình nhiều đời theo Hồi giáo. Ông ta được công nhận là Hoạt Phật đời thứ mười bốn của chùa Nặc Na (Nuona) ở Kim Đường thuộc Hồng Giáo Tây Tạng (Cổ Mật - Nyingmapa) lúc mới ba tuổi. Được tăng sĩ chùa ấy rước lên ngôi Pháp Vương chùa ấy năm bảy tuổi. Tương truyền, ông ta đã bế quan hơn hai mươi năm để tu Mật Pháp. Do vùng Khang Tạng, Hắc Giáo (đạo Bon - một tôn giáo bản địa cổ truyền của Tây Tạng, người Hoa thường gọi là Bổng giáo) hoạt động rất mạnh, Nặc Na liền suất lãnh quân binh đánh nhau với họ nhiều lần nhưng không thắng. Theo môn đồ, để báo thù, ông ta đã lập đàn Đại Phẫn Nộ Kim Cang Pháp trong vòng sáu năm để sát hại năm vị pháp sư của Hắc Giáo và hơn một ngàn “thổ phỉ” Hắc giáo (Sic! Không rõ đây là loại Mật giáo nào! Nếu là Mật Tông Phật giáo thì vẫn phải tuân theo tông chỉ từ bi của Phật giáo. Khi hành nhân Mật Tông khởi lên tâm tàn độc, dù đã đạt thành tựu thì những thành tựu ấy đều mất hết! Cũng không thể nào nói “vì tâm từ bi mà sát hại người khác” được!) Tổng Đốc Tứ Xuyên thời ấy là Triệu Nhĩ Tốn trọng dụng Nặc Na, giao toàn thể vùng Xương Đô cho Nặc Na cai trị. Sau Cách Mạng Tân Hợi (1911), Trung Hoa Dân Quốc thành lập, Tây Tạng tuyên bố độc lập, chánh quyền Lhasa muốn tách Xương Đô khỏi ảnh hưởng Trung Hoa. Chính Nặc Na đã cùng với các tướng Bành Nhật Thăng, Trương Nghị Tướng v.v.. liên minh đánh bại quân đội của Đại Lai Lạt Ma thứ 13. Do Bành Nhật Thăng đột ngột trở giáo đầu hàng quân Đại Lai Lạt Ma, Nặc Na bại trận, phải trốn khỏi Xương Đô, tập hợp tàn quân, liên kết với đại lạt-ma Giang Kha Tùng Minh tiếp tục đánh nhau với quân Tây Tạng, nhưng lại thua trận, bị giải về Lhasa, bị giam cầm dưới địa huyệt nhiều ngày. Về sau, Nặc Na thừa cơ trốn thoát qua Nepal (các tín đồ bịa chuyện ông ta dùng thần thông tàng hình ra khỏi nhà lao). Trong quá trình lang thang khất thực, do dâng thuốc chữa lành bệnh cho con gái tiểu vương trong vùng nên được vị vua ấy giúp đỡ đưa sang Ấn Độ. Ở Ấn Độ một thời gian, ông ta ngồi thuyền sang Trung Hoa tới Hương Cảng rồi lên Bắc Kinh vào năm 1924. Nặc Na nhiều lượt đến cầu cạnh Mông Tạng Viện và Chấp Chánh Phủ của Trung Hoa Dân Quốc, xin họ cấp viện binh để giành lại Tây Khang, nhưng do không thông tiếng Hán, quần áo rách nát nên Nặc Na luôn bị đối xử lãnh đạm, xua đuổi. Về sau, gặp được Lý Huyền của Chấp Chánh Phủ giúp đỡ, đưa về sống ở Ung Hòa Cung, tiến cử lên Đại Chấp Chánh Đoàn Kỳ Thụy. Cũng trong năm ấy, do tranh chấp quyền bính với Đại Lai Lạt Ma, Ban Thiền Lạt Ma phải tỵ nạn sang Trung Hoa. Liên kết với Ban Thiền, Nặc Na vận động, dựa thế lực quân đội Quốc Dân Đảng, trở về Trùng Khánh (Tứ Xuyên) để mưu chiếm lại Tây Khang. Năm 1928, Nặc Na được chánh quyền Nam Kinh cử làm Ủy Viên của Mông Tạng Ủy Viên Hội tại Bắc Kinh. Rồi được cử làm Tây Khang Tuyên Úy Sứ vào năm 1935 và mất vào năm sau tại Trùng Khánh trước khi hoàn thành giấc mộng tái chiếm Tây Khang. Hiện thời, những môn đồ của ông ta tạo thành một tông phái riêng với danh xưng Tây Tạng Hồng Giáo Viên Giác Tông. Thủ lãnh hiện thời của giáo phái này là thượng sư Trí Mẫn và Huệ Hoa, hoạt động rất mạnh tại Đài Loan và Bắc Mỹ nhờ tuyên truyền nhị vị thượng sư có thể chú nguyện khiến cho tín đồ được vãng sanh Cực Lạc, lưu xá-lợi đủ màu. Phái này sùng bái Thượng Sư đến mức đặt hình họ ngang hàng với các vị Phật, Bồ Tát trên bàn thờ!

[10] Hà Đạo Toàn (1319-1399), là đạo sĩ người huyện Tứ Minh, tỉnh Chiết Giang, sống vào cuối đời Nguyên đầu đời Minh, đạo hiệu là Vô Cấu Tử, còn có hiệu là Tùng Khê Đạo Nhân, vân du đến núi Chung Nam, ẩn cư trên Khuê Phong, viết rất nhiều bản chú giải cho kinh Đạo Giáo, được môn nhân sưu tập thành bộ Tùy Cơ Ứng Hóa Lục. Do bản Tâm Kinh Chú Giải của ông ta đã lập lờ giữa Phật học và thuật tu luyện Đạo Giáo nên rất nhiều người không xét kỹ cứ tác phẩm ấy như một bản chú giải Tâm Kinh quan trọng.

[11] Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Bàng Long Uẩn sang Tây Giang tham yết Mã Tổ nói: “Người chẳng cùng với vạn pháp làm bạn là ai?” Mã Tổ Đạo Nhất bảo: “Đợi ông uống một hơi cạn hết nước Tây Giang, ta sẽ nói cho ông nghe”.

[12] Theo Ngũ Đăng Hội Nguyên, ngài Đại Huệ được nói ở đây chính là ngài Đại Huệ Tông Cảo (1089-1163). Thời bấy giờ, ngài Viên Ngộ Khắc Cần là bậc tông tượng trong nhà Thiền thấy Tông Cảo là pháp khí muốn tiếp độ, bèn nói: “Tăng hỏi ngài Vân Môn: ‘Chỗ xuất thân của chư Phật là như thế nào?’ Đáp: Nước chảy trên Đông Sơn”. Ngài Tông Cảo không đáp được; tham thiền trọn một năm vẫn chưa thấu triệt. Đến một bữa, ngài Viên Ngộ Khắc Cần được một vị quan nhân thỉnh đến dự cỗ chay. Ngài lại giảng: “Tăng hỏi ngài Vân Môn: ‘Chỗ xuất thân của chư Phật là như thế nào?’ Đáp: Nước chảy trên Đông Sơn. Như vậy là Thiên Ninh không nói cặn kẽ. Nếu có ai hỏi: ‘Chỗ xuất thân của chư Phật là như thế nào?’ Chỉ trả lời: ‘Gió Nồm từ Nam thổi, điện gác thành mát mẻ!” Ngay khi ấy ngài Đại Huệ Tông Cảo liền triệt ngộ.

[13] Thần Tú (605-706) là Thiền Tăng đời Đường, người Úy Thị, Biện Châu (nay thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam). Thông thạo kinh sử từ bé, học rộng, nghe nhiều, nhưng chán sớm trần thế, tầm sư học đạo. Sư đến chùa Đông Sơn ở Song Phong, Ngạc Châu, tham yết Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, cam chịu nhọc nhằn, làm việc tạp dịch để cầu đạo. Tổ Hoằng Nhẫn cũng rất coi trọng, cử làm thầy Giáo Thọ cho đại chúng. Do vậy được đại chúng coi là người bậc nhất trong thường trụ, thường gọi là Tú Thượng Tọa. Năm Thượng Nguyên thứ hai (675) đời Đường Cao Tông, tổ Hoằng Nhẫn thị tịch vào tháng Mười, Sư sang Giang Lăng truyền pháp tại Đương Dương Sơn, rất được tăng chúng miền Bắc trọng vọng. Võ Tắc Thiên nghe tiếng, triệu vào trụ trì chùa của hoàng cung, xuống chiếu xây chùa Độ Môn ở Đương Dương để làm đạo tràng cho sư hoằng pháp. Sư cũng tâu lên Võ Tắc Thiên xuống chiếu triệu Lục Tổ Huệ Năng vào chầu, nhưng ngài Huệ Năng cố từ, viện cớ chỉ có duyên với Lãnh Nam. Khi Sư mất, được triều đình phong tặng thụy hiệu Đại Thông Thiền Sư, trở thành vị thiền sư đầu tiên được triều đình sắc phong. Đạo pháp của Sư rất thịnh ở Trường An, Lạc Dương, Sư chủ trương thuyết Tiệm Ngộ, nên thường có câu “Nam Đốn Bắc Tiệm”. Môn nhân của Sư là Đạo Duệ đã truyền Thiền Học sang Nhật Bản sớm nhất. Thế nhưng dòng Thiền của Sư chỉ truyền được vài đời rồi suy.

[14] Lệnh Từ: Tiếng gọi mẹ người khác nhằm tỏ ý kính trọng.

[15] Ở Trung Hoa thời xưa chia một ngày đêm làm mười hai phần, mỗi phần đó gọi là một Thời Thần (hoặc gọi tắt là Thời). Mỗi Thời Thần bằng hai tiếng đồng hồ hiện thời và được gọi tên theo Địa Chi (Tý, Sửu, Dần…)

[16] Trương Hoành Cừ (1020-1077), tên thật là Tải, tự Tử Hậu, sống vào thời Bắc Tống, được người đời gọi là Hoành Cừ tiên sinh, chủ trương quân sự hóa dân chúng, là một nhà tư tưởng thuộc phái Lý Học vùng Quan Trung. Cũng giống như các nhà Lý Học khác, Trương Tải chủ trương bản thể của vũ trụ là Khí, do Khí tụ tán mà có sanh diệt, tạo thành các sự vật hiện tượng. Tuy không nổi tiếng bằng Châu Hy và anh em Trình Hạo, Trình Di, Trương Tải cũng kịch liệt bài bác Phật giáo lẫn Đạo giáo là hư vô. Ông ta chỉ tin tưởng vào vật chất hiện hữu trước mắt nên được mệnh danh là triết gia thuộc trường phái duy vật. Câu nói đặc trưng cho quan điểm của ông ta là: “Tạo hóa tạo ra mọi vật không gì chẳng giống nhau. Nhưng vạn vật tuy nhiều, thật sự không có vật nào ra ngoài Âm -Dương. Do vậy biết rằng trời đất biến hóa chỉ do hai đầu mối ấy mà thôi!”

[17] Lý Nhị Khúc (1627-1705), tên thật là Ngung, tự Trung Phù, Nhị Khúc là hiệu, người huyện Châu Chí tỉnh Thiểm Tây. Xuất thân bần hàn, do chăm học nên thành đạt, cùng với Hoàng Tông Hy, Tôn Kỳ Phùng được coi là ba đại danh Nho vào thời Minh - Thanh, được vua Khang Hy ban tặng mỹ hiệu Quan Trung Đại Nho. Ông đề cao tư tưởng trọng lễ, cho rằng chỉ có Nho giáo mới đem lại trật tự cho xã hội loạn lạc vào cuối đời Minh. Do quá trọng lễ, ông trở nên chú trọng lễ nghi đến mức phô trương phù phiếm, đề ra những nghi thức tang lễ, cưới hỏi, giỗ chạp rườm rà, trịnh trọng quá mức. Đến giữa thời Thanh, những nghi lễ do Nhị Khúc đề xướng được áp dụng khắp xã hội. Đã thế vào mỗi dịp năm mới, các vị thông thạo về lễ trong toàn huyện đều nhóm về huyện lỵ để diễn tập, bàn định lễ nghi, quy định nhạc khúc thống nhất nhằm tiêu chuẩn hóa lễ nhạc. Từ quan điểm tốt đẹp đề cao luân thường đạo lý ban đầu, rốt cuộc biến thành lễ nghi cứng ngắc nhằm mục đích phô trương, hoàn toàn chẳng có lợi ích gì!

[18] Xin đọc Lời tựa trình bày duyên khởi của Đôn Luân Liên Xã” (được đánh số 73) trong Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, cuốn Hạ.

[19] Bốn vị này đều hoằng pháp tại kinh đô Trường An đời Đường. Trường An nay là thành phố Tây An thuộc tỉnh Thiểm Tây.

[20] Đây chính là bài “Luận về tên gọi của Tam Dư Đức Đường” (bài số 17 thuộc phần Tạp Trước) trong Ấn Quang Văn Sao Tục Biên quyển Hạ.

[21] Do chữ Nam Mô (南無) là phiên âm từ xưa của chữ Namo tiếng Phạn (do trước thời Tống, chữ Vô vẫn đọc với vận mẫu M). Vì vậy, các bản kinh sách thường dùng chữ Nạp-mô (納莫: Namó) để chú âm cách đọc cho đúng chữ Nam Mô. Ông Ninh Đức Tấn chấp chặt vào mặt chữ nên đọc là Nam Vô (nánwú).

[22] Chữ Tể Quan được hiểu theo ba nghĩa:

1) Tể Quan là quan Trủng Tể thuộc đời Châu, còn gọi là Thái Tể, hoặc còn gọi đầy đủ là Thiên Quan Trủng Tể, được lập ra dưới thời Tây Châu, vị trí thấp hơn Tam Công, nhưng đứng đầu Lục Khanh. Sách Thượng Thư giảng: “Trủng Tể nắm quyền cai trị đất nước, thống lãnh bá quan, trông khắp bốn biển”. Khi vua còn thơ ấu, Trủng Tể nắm quyền nhiếp chánh.

2) Là từ ngữ chỉ chung các quan chức.

3) Dưới thời Thanh, chữ Tể Quan hầu như thường dùng để chỉ quan huyện. Lương Chương Củ (một danh sĩ cuối đời Thanh) thường dùng chữ Tể Quan theo nghĩa này trong các tác phẩm của ông, như trong tập Quy Điền Tỏa Ký: “Ngày tôi ở Tô Châu, tới bái kiến huyện lệnh đất Ngô, ông ta nói: ‘Ta đỗ Tiến Sĩ ba chục năm trước, cho đến khi đậy nắp hòm vẫn mang thân Tể Quan” (ý nói chỉ làm tới chức quan huyện mà thôi).

Theo mạch văn, chữ Tể Quan ở đây được hiểu theo nghĩa thứ hai.

[23] Tức bài Thư Lưu Vũ Trù Hành Hiếu Truyện Hậu (viết sau cuốn Hành Hiếu Truyện của Lưu Vũ Trù), ghi những cảm nghĩ của Lưu Bá Ôn (Lưu Cơ) về tác phẩm Hành Hiếu Truyện.

[24] Linh Phong Tông Luận còn có tên là Ngẫu Ích Đại Sư Tông Luận, Ngẫu Ích Tông Luận, hoặc Linh Phong Ngẫu Ích Đại Sư Tông Luận, gồm 10 quyển, do Thành Thời đời Minh biên tập, tập hợp đủ mọi thể loại như nguyện văn, pháp ngữ, vấn đáp, sớ, truyện v.v… Qua những tác phẩm ấy có thể thấy được quan điểm, nhận định về các tông của đại sư Ngẫu Ích nên mới gọi là Tông Luận.

[25] Hộ là tên một huyện đã từ thời cổ ở Thiểm Tây, thuộc vùng phụ cận thành phố Tây An (cố đô Trường An), dựa lưng vào núi Tần Lĩnh, phía nam sông Vị, thuộc phía Đông của Tây An. Đất Hộ vốn có tên cổ là Hỗ Thị Quốc được thành lập vào thời nhà Hạ, đến đời Tần đất Hỗ bị đổi tên thành Hộ.

[26] Bạch khuê là một loại ngọc trắng ngần, thường được cắt thành miếng mỏng để làm đồ trang sức.

[27] Tâm Sở (Caitta hay Caitasika) còn dịch là Tâm Số, Tâm Sở Hữu Pháp, Tâm Sở Pháp, Tâm Số Pháp, tức là những điều phụ thuộc vào Tâm Vương (Tâm Vương là thuật ngữ trong Duy Thức chỉ bản thể của sáu thức hoặc tám thức, tức là chủ thể của những tác dụng tinh thần). Nói cách khác, Tâm Sở là những tác dụng, những thuộc tính của Tâm Vương. Hay nói thông tục hơn là những tác dụng tinh thần phức tạp. Theo Đại Thừa Duy Thức Luận, Tham, Sân, Si là ba Tâm Sở được xếp vào tiểu loại Phiền Não trong sáu loại Tâm Sở (Biến Hành, Biệt Cảnh, Thiện, Phiền Não, Tùy Phiền Não, Bất Định).

[28] Vô Tưởng Thiên (Asamjñisattvāh), còn dịch là Vô Tưởng Hữu Tình Thiên, Vô Tưởng Chúng Sanh Thiên, Thiểu Quảng Thiên, Phước Đức Thiên, là một tầng trời thuộc Sắc Giới, là cảnh giới cảm được của người tu chứng Vô Tưởng Định. Chư thiên cõi trời này do đã diệt sạch niệm tưởng, chỉ còn sắc thân và Hành Uẩn, nên gọi là Vô Tưởng Thiên. Đây là cảnh giới tối cao của ngoại đạo Bà La Môn. Chư thiên cõi này thọ mạng năm trăm đại kiếp, do không còn tưởng niệm nên thường đắm chìm trong niềm vui Vô Tưởng Định, không có ý cầu xuất thế, không cảm nhận nỗi khổ vô thường

[29] Bắc Câu Lô Châu (Uttara-kuru) còn dịch là Uất Đan Việt, Bắc Đan Việt v.v… dịch nghĩa là Thắng Xứ, Thắng Sanh, Cao Thượng là một trong bốn đại châu quanh núi Tu Di. Theo Đại Lâu Thán Kinh, châu này thuộc biển nước mặn phía Bắc núi Tu Di, hình dáng như cái hộp đậy nắp, bốn phía vuông vắn, được bao quanh bằng bảy ngọn núi vàng và núi Đại Thiết Vi, đất bằng vàng ròng, bằng phẳng, sạch sẽ, không hề có gai góc, đủ mọi thứ đẹp đẽ, ngày đêm thường sáng sủa. Người ở châu này hình dạng giống nhau, cao bằng nhua, luôn sống yên vui, không bị lệ thuộc, hoạn nạn, tranh chấp. Con người sống không cần nhà cửa, không có hôn nhân, gia đình, sanh con ra không cần nuôi. Mang thai bảy ngày liền sanh, mang con ra bỏ bên vệ đường. Ai đi qua cũng giơ tay đút vào mồm đứa trẻ, sữa từ đầu ngón tay liền tiết ra; đến ngày thứ bảy, đứa trẻ đã cao lớn bằng người trưởng thành. Tuổi thọ ở châu này là một ngàn năm, sau khi mất được sanh lên trời Đao Lợi. Hơn nữa, trong bốn đại châu, riêng châu này không có địa ngục! Do quá sung sướng, vô tư lự, không phải lo ăn lo mặc, người châu này không cảm nhận được sự vô thường, không có ý thoát ly tam giới.

[30] Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập là một bộ từ điển Phạn - Hán, do sư Pháp Vân biên soạn vào đời Tống, bắt đầu từ năm Thiệu Hưng 13 (1143) đời Tống Cao Tông, qua hai mươi năm thu thập tài liệu và chỉnh lý mới hoàn thành. Nội dung gồm hơn 2.040 từ ngữ tiếng Phạn trọng yếu trong kinh Phật, chia làm sáu mươi bốn thiên. Mỗi thiên đều có lời tổng luận, trình bày đại ý, kế đến nêu âm dịch tiếng Phạn, nêu rõ những cách dịch âm khác nhau, xuất xứ và giải thích ý nghĩa từng từ ngữ.

[31] Giáo Thừa Pháp Số do Viên Tịnh biên tập vào đời Minh. Do thấy các sách Đại Thừa Pháp Số, Hiền Thủ Pháp Số còn thiếu sót nhiều nên Sư đã dựa trên quan điểm của tông Thiên Thai thâu thập tất cả những pháp số (những thuật ngữ trong Phật giáo như Tam Quy, Nhất Thừa, Ngũ Giáo, Lục Độ v.v…) trong các kinh điển Phật giáo và trước tác của bách gia chư tử biên soạn thành sách này. Sách bắt đầu bằng từ ngữ “nhất tâm” và kết thúc bằng “bát vạn tứ thiên pháp môn”. Trong ấy, cũng giải thích những danh số của các ngoại điển (những kinh sách không thuộc Phật giáo).

[32] Đại Minh Tam Tạng Pháp Số do sư Nhất Như biên soạn, thường được gọi tắt là Đại Minh Pháp Số, hoặc Tam Tạng Pháp Số, nội dung gồm những pháp số xuất phát từ Tam Tạng kinh điển, cũng khởi đầu bằng từ ngữ “nhất tâm” và kết thúc bằng “bát vạn tứ thiên pháp môn”, tổng cộng 1.555 từ ngữ, ghi rõ xuất xứ từ kinh luận trước thuật nào, đồng thời cũng dẫn giải những cách giải thích khác nhau của các tông (nếu có).

[33] Thích Thị Kê Cổ Lược (còn gọi là Thích Thị Kê Cổ Lục, hoặc gọi tắt là Kê Cổ Lục), do ngài Bảo Châu Giác Ngạn soạn vào năm Chí Chánh 14 (1354) đời Nguyên, là một bộ biên niên sử Phật giáo, lược thuật lịch sử truyền thừa Phật giáo từ khi mới truyền vào Trung Hoa cho đến đời Tống. Sách bao gồm biểu đồ các triều đại Trung Hoa, biểu đồ Thích Ca Văn Phật Tông Phái Tổ Sư Truyền Thừa của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, sự tích của Phật Thích Ca, hai mươi tám vị tổ Tây Thiên, cũng như hành trạng của các vị cao tăng, cổ đức như Đạo An, Cưu Ma La Thập, Phó Đại Sĩ, Đạt Ma v.v… cũng như lược sử các tông Từ Ân, Hiền Thủ v.v… Đến năm Sùng Trinh 11 (1638), ngài Huyễn Luân soạn Thích Giám Kê Cổ Lược Tục Tập (3 quyển) để chép tiếp những sự tích Phật giáo từ Chí Nguyên nguyên niên (1264) đến năm Thiên Khải thứ bảy (1627) đời Minh.

[34] Tăng đính: Tăng thêm những từ ngữ cần thiết, viết thêm lời giải thích nếu cần, đính chánh những chỗ sai, lược bỏ bớt những chỗ rườm rà không cần thiết.

[35] Đông Tam Tỉnh là ba tỉnh được chia ra từ vùng đất Mãn Châu sau khi người Thanh cai trị Trung Hoa gồm Liêu Ninh, Cát Lâm và Hắc Long Giang. Khi ấy, quân phiệt Nhật quan niệm “dục bá Trung Hoa, tiên chiếm Đông Tam Tỉnh; dục bá Đông Á, tiên chiếm Trung Hoa” (muốn làm bá chủ Trung Hoa, trước hết chiếm Đông Tam Tỉnh. Muốn làm bá chủ Đông Á, trước hết phải chiếm Trung Hoa).

[36] Nguyên văn “bôi thủy xa tân”, ngụ ý phương tiện, sức lực ít ỏi, chẳng thể giúp đỡ hay giải quyết vấn đề được! Thành ngữ này xuất phát từ một câu nói trong thiên Cáo Tử sách Mạnh Tử: “Kim chi vi nhân do dĩ nhất bôi thủy dĩ cứu nhất xa tân chi hỏa dã” (người bây giờ vẫn cứ dùng một chén nước để tắt đống lửa do cả một xe củi bị cháy).

[37] Chữ “tiếm dụng” ở đây chỉ kẻ tại gia mà đắp y Ngũ Điều hay Thất Điều của hàng xuất gia, chứ không đắp Mạn Y của hàng tại gia. Do vượt phận, sử dụng phi lễ pháp phục của tứ chúng xuất gia nên gọi là “tiếm dụng”.

[38] Chữ “Tăng bào” ở đây chỉ áo Hải Thanh (áo tràng bốn vạt, rộng tay), nhằm phân biệt với loài áo dài hai vạt, tay hẹp (trường sam) mà nam giới Trung Hoa thường mặc thời đó. Trường sam thường may bằng vải trơn, không thêu thùa, không viền cổ, gấu hay cửa tay áo. Thông thường khi mặc trường sam, nam giới thường khoác thêm một cái áo ngắn sát nách (Mã Quải) bằng vải quý, thêu viền đẹp đẽ ra ngoài trường sam.

[39] Ma Lợi Chi Thiên (Marīci-Deva), còn được phiên âm là Ma Lý Chi Thiên, Mạt Lợi Chi Thiên, dịch nghĩa là Oai Quang Thiên, Dương Diễm Thiên. Theo Mật giáo, vị trời này có sức thần thông đại tự tại, thường ẩn thân ngầm gia hộ cho con người tiêu trừ chướng nạn, tăng trưởng lợi ích. Theo Mạt Lợi Chi Đề Bà Hoa Man Kinh và Đại Ma Lý Chi Bồ Tát Kinh, vị trời này vốn là một vị Bồ Tát, nhằm cứu độ chúng sanh nên hiện thân thiên nữ, ba mặt sáu tay, cưỡi lợn.

[40] Gọi đầy đủ là Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn (tức bài chú Om Mani Padme Hum), xuất phát từ kinh Phật Thuyết Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương (bốn cuốn) do ngài Thiên Tức Tai dịch vào đời Tống.

[41] Đại Sám Hối chính là nghi thức Hồng Danh Bảo Sám do ngài Kim Cang Pháp Sư Bất Động chùa Hộ Quốc Nhân Vương người Tây Hạ soạn vào đời Tống. Do sư hoằng truyền Kim Cang Thừa, thường tụng kinh Hộ Quốc Nhân Vương rất linh nghiệm nên vua Tây Hạ sắc tứ ngôi chùa ngài Trụ Trì là Hộ Quốc Nhân Vương Tự. Sư cũng chính là người đã soạn nghi thức Mông Sơn Thí Thực. Bài sám hối này gồm 108 lễ tương ứng với 108 món phiền não. Danh hiệu của tám mươi tám vị Phật trong bài sám hối này gồm năm mươi ba vị Phật trích từ kinh Quán Dược Vương Dược Thượng Nhị Bồ Tát và danh hiệu của ba mươi lăm vị Phật trích từ pháp hội Quyết Định Tỳ Ni trong kinh Bảo Tích (theo Nhị Khóa Hiệp Giải).

[42] Ngạnh Mễ (hay còn gọi là Canh Mễ) là một loại nếp có tên khoa học là Oryza Sativa, thuộc giống lúa không cần nhiều nắng, chín khá muộn khi trời đã trở lạnh. Hạt gạo tròn ngắn, rất dẻo, ăn rất ngon và đậm. Giống lúa này được trồng chủ yếu ở miền Tây Nam và Bắc Trung Quốc. Do thời gian sinh trưởng của giống lúa này khá dài nên mỗi năm chỉ gieo được một mùa. Ở Đài Loan cũng có giống lúa này, nhưng không ngon bằng.

[43] Tiểu Mễ (Foxtail Millet) là một loại kê, thường được gọi bằng Tắc hoặc Lật vào thời cổ. Giống này vốn được trồng nhiều ở phương Bắc Trung Quốc, nhất là quanh lưu vực sông Hoàng, là lương thực chủ yếu của dân chúng vào thời Xuân Thu Chiến Quốc. Giống kê này chịu hạn, sản lượng cao, có nhiều loại trắng, hồng, vàng, đỏ, cam, tím…

[44] Một thưng (thăng) đời Thanh bằng một lít hiện thời.

[45] Tiêm là dụng cụ để nướng thuốc phiện trước khi hút. Thuở ấy thuốc phiện bán trong hộp, trông gần giống như hộp đựng cao. Người hút dùng một dụng cụ dài nhọn bằng bạc, thường gọi là que tiêm (yên thiêm), để vít lấy một ít thuốc từ trong hộp đựng thuốc phiện (yên hạp), rồi vừa xoay vừa nướng viên thuốc trên ngọn đèn dầu đậu phộng (yên đăng). Khi nướng đủ mức sẽ nhồi vào dọc tẩu (yên thương) để hút.

[46] Nguyên văn Hàm (thường dịch là Hòm), một Hàm gồm mười quyển. Khi xưa, in kinh thường chia theo đơn vị quyển, mỗi quyển chừng 40-50 trang, mỗi trang từ 15 đến 20 dòng, mỗi dòng từ 10 đến 12 chữ.

[47] Đây là một hủ tục ở thôn quê Trung Hoa khi trước. Trong năm đói kém, nếu sanh ra con gái, đứa bé ấy sẽ bị bỏ mặc cho chết đói hay trấn nước cho chết, chỉ giữ con trai lại với mục đích nối dòng. Cách này cũng áp dụng nếu người mẹ sanh quá nhiều con gái nhưng chưa sanh được con trai.

[48] Kinh Bi Hoa (Karu-Pundarīka-Sūtra), 10 quyển, chia thành sáu phẩm, do ngài Đàm Vô Sấm (Dharmaraksa) dịch vào thời Bắc Lương. Kinh này nói về nhân địa trong thời quá khứ của Phật Thích Ca, Phật A Di Đà, A Súc Phật v.v… cũng như một loạt những vị Bồ Tát như Quán Âm, Thế Chí, Phổ Hiền, Văn Thù. Điểm đặc biệt của kinh này là ca ngợi lòng đại bi vô tận của đức Như Lai đã thị hiện thành Phật trong uế độ. Theo kinh này, vua Vô Tránh Niệm do đại thần Bảo Hải khuyến cáo, bèn đối trước Bảo Tạng Như Lai phát nguyện kiến lập Tịnh Độ, được Bảo Tạng Như Lai thọ ký sẽ thành Phật hiệu là Vô Lượng Thọ (Amitāyus). Một ngàn vương tử của vua đều noi gương phát nguyện thành Phật, lần lượt được Phật Bảo Tạng thọ ký. Trưởng tử là vương tử Bất Thuấn sau này thành Quán Âm Bồ Tát, vương tử thứ hai là Ni Ma thành Đắc Đại Thế, vương tử Vương Chúng trở thành Văn Thù Sư Lợi v.v… Tám mươi người con và ba ức đệ tử của Bảo Hải cũng thệ nguyện thành Phật, lần lượt trở thành những vị Phật trong uế độ. Bảo Hải phát ra năm trăm nguyện, thề sẽ thành Phật trong cõi đời ác trược, được Bảo Tạng Như Lai thọ ký sẽ thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Phật. Kinh này còn có một bản dịch khác là Đại Thừa Bi Phân Đà Lợi Kinh, gồm tám quyển, mười ba phẩm, được dịch vào đời Tần, nhưng đã mất tên người dịch.

[49] Vị tổ của ông Tiền Sĩ Thanh được nói ở đây chính là Tiền Vũ Túc Vương tức Ngô Việt Thái Tổ, tên thật là Tiền Liêu (852-932), tự Cụ Mỹ (có sách ghi là Cự Mỹ), người huyện Lâm An, Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, người sáng lập ra nước Ngô Việt vào thời Ngũ Đại. Vào cuối đời Đường, do theo tướng quân Đổng Xương dẹp yên loạn Hoàng Sào, Tiền Liêu lãnh chức Trấn Hải Tiết Độ Sứ. Sau đó, Tiền Liêu đánh bại Đổng Xương, chiếm cứ mười ba châu huyện thuộc vùng Lưỡng Chiết (nay là toàn bộ tỉnh Chiết Giang, phần Đông Nam của tỉnh Giang Tô và phần Đông Bắc tỉnh Phước Kiến. Những vùng đất này thuộc lãnh thổ nước Ngô và Việt thời Xuân Thu Chiến Quốc, nên khu vực này được gọi chung là Ngô Việt), được phong làm Ngô Việt Vương. Tiền Liêu chú trọng phát triển nông nghiệp vùng Ngô Việt, cho đắp đê trên sông Tiền Đường từ năm 907 đến 932 để ngừa nạn lụt cũng như thiết kế mạng lưới thủy lợi nhằm điều hòa mực sông. Chuyện bắn sóng để buộc thủy triều rút ra xa được tiến hành trong khoảng thời gian này. Nước Ngô Việt tồn tại từ năm 907 đến 978. 

[50] Trong thời ấy, nhằm lúc nhà Đường suy vong, do chiến tranh liên miên, chánh quyền không quan tâm đến vấn đề nông tang. Sau khi dẹp yên Đổng Xương, Tiền Liêu mới lên nắm quyền xứ Ngô Việt. Tây Hồ cỏ dại, lau lách phủ kín, trông rất hoang vu, quạnh quẽ. Có một tay thuật sĩ khuyên Tiền Liêu nên lấp bằng Tây Hồ, dựng vương phủ trên ấy, sẽ được hưởng vượng khí ngàn năm. Tiền Liêu không chấp nhận đề nghị ấy, nói: “Trăm họ nhờ nước hồ này để tưới ruộng, không có nước sẽ không có dân. Huống chi sau năm trăm năm sẽ có dòng họ khác dấy lên, làm sao có chuyện cả ngàn năm mà không có chân chúa trong thiên hạ được?” Vua cho lệnh lập một đội quân chuyên trông coi việc khai quang, nạo vét hồ cho sạch sẽ, đồng thời đào thêm ba cái ao chung quanh để trữ nước phòng khi trời hạn hán.

[51] Ban Thiền Lạt Ma (Pan-chen-lama) là một vị lạt-ma cao cấp của Phật giáo Tây Tạng Hoàng Mạo phái (Gelugpa), chỉ kém Đại Lai Lạt Ma. Ban Thiền (Panchen) có nghĩa là bậc trí huệ, hoặc đại bác học. Chữ Panchen vốn do chữ Phạn Pandita (học giả) kết hợp với chữ Chenpo (vĩ đại) trong tiếng Tây Tạng. Đến đời Khang Hy, vị này được sắc phong thêm mỹ hiệu Ngạch Nhĩ Đức Ni (Erdeni: Quang Hiển). Khi Đại Lai Lạt Ma đời thứ năm (Ngawang Lobsang Gyatso, 1617-1682) lên ngôi quốc vương Tây Tạng, đã phong tặng cho thầy mình là Lobsang Chökyi Gyalsten (1570-1662), tu viện trưởng tu viện Tashilhunpo, tước hiệu Panchen. Do Đại Lai Lạt Ma tự xưng là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát; đương nhiên, thầy của ông ta cũng được đề cao là hóa thân của A Di Đà Phật! Khi Lobsang Chökyi chết, chính Đại Lai Lạt Ma thứ năm đã chủ trì công cuộc tìm hóa thân của Lobsang và dòng truyền thừa Panchen bắt đầu từ đó. Đến đời Ban Thiền Lạt Ma thứ chín (Thubten Choekyi Nyima, 1833-1937), do bất hòa, tranh chấp quyền bính với Đại Lai Lạt Ma thứ 13, Ban Thiền phải chạy trốn sang Nội Mông Cổ, rồi sang Bắc Kinh và sống ở Trung Hoa mãi cho đến khi mất. Như vậy, ông Tiền Sĩ Thanh đã quy y với vị Ban Thiền Lạt Ma thứ chín này.

[52] Đài Đầu là cách viết tỏ vẻ tôn kính trong những công văn thời cổ, chừa một khoảng trống trước khi viết tên hay chức vụ của người được xưng hô. Chẳng hạn, nếu viết “Độc Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Hữu Cảm” (cảm nghĩ khi đọc Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao) thì giữa chữ Độc và chữ Ấn Quang phải chừa tối thiểu hai khoảng trống. Cách viết này còn gọi là Na Đài. Một cách thể hiện tôn trọng hơn nữa gọi là Bình Đài, tức là khi viết theo lối Na Đài xong, bỏ một dòng trống trước khi viết tiếp dòng thứ hai.